Sidebar

Thứ Hai
14.10.2024

Chân Phước Gioan Phaolô II: Sứ Giả Hoà Bình

Ngày 1-5-2011, tại Rôma, Đức Gioan-Phaolô II được giáo hội tôn phong tước hiệu Chân phước. Không riêng người công giáo mà cả những người thuộc các tôn giáo khác cũng hòa chung niềm vui thánh thiện này. Ngài giản dị mà vĩ đại và thánh thiện, thể hiện tình yêu và thứ như Đức Giêsu: Rửa chân và hôn chân người được rửa, đích thân đến nhà tù để tha thứ cho người đã ám sát mình là Mehmet Ali Ağca, yêu thương trẻ em, hòa đồng với giới trẻ, siêng năng lần hạt, có tâm hồn văn nghệ,... Tên cúng cơm của ngài là Karol Wojtyła. Ngài được mệnh danh là Sứ giả Hòa bình. Chứng nhân thứ nhất là thánh nữ Faustina, chân phước Gioan-Phaolô II là nhân chứng thứ nhì của Lòng Thương Xót Chúa.

Đức Gioan-Phaolô II cai quản Giáo hội Công giáo La Mã trên cương vị Giáo hoàng gần 27 năm. Ngài là vị giáo hoàng đầu tiên không là người Ý kể từ giáo hoàng người Đức gốc Hà Lan Adrian VI qua đời năm 1523, triều đại của Đức Gioan-Phaolô II là triều đại dài thứ ba trong lịch sử các triều đại giáo hoàng. Mặc dù triều đại của ngài được đánh dấu bằng sự suy yếu của Công giáo tại các nước phát triển Tây phương, đồng thời có sự mở rộng của vai trò giáo hội ở Thế giới thứ ba vàcộng sản Đông Âu. Việc bầu chọn Đức Gioan-Phaolô II làm giáo hoàng được nhiều người tin tưởng với sự thúc đẩy thay đổi ở Âu châu để cuối cùng dẫn đến sự suy sụp của các nước cộng sản (downfall of the communist states) và sự nổi dậy của các chế độ dân chủ (emergence of democratic regimes).

Thầy Karol Wojtyła thụ phong linh mục ngày 1-11-1946, lúc 26 tuổi, do Đức TGM Adam Stefan Sapieha giáo phận Kraków chủ phong. Sau đó, ngài dâng lễ tạ ơn tại nhà thờ chính tòa Kraków. Rồi ngài được đi Rôma học tiến sĩ ở Viện Giáo hoàng Thánh Thomas Aquinas (Pontifical Athenaeum of St. Thomas Aquinas), thường gọi là Angelicum. Ở đó ngài học thêm về thần học và chính trị. Ngài nghiên cứu các bài viết của ĐGH Grêgôriô II, các giáo huấn của thánh Gioan Thánh giá, hiện tượng học (phenomenology) của Max Scheler. Ngài còn nghiên cứu cả Yves Congar, một nhà lý luận quan trọng về đại kết (ecumenism). Ngài học 2 năm tại Đại học Bỉ ở Rôma. Đại học này chỉ có 22 sinh viên là linh mục và chủng sinh, trong đó có 5 người Mỹ. Trong môi trường đa ngữ này, LM Wojtyła trau dồi tiếng thêm tiếng Pháp và tiếng Đức, đồng thời bắt đầu học tiếng Ý và tiếng Anh. Trong luận án tiến sĩ, Doctrina de fide apud S. Ioannem a Cruce (Học thuyết Đức tin theo Thánh Gioan Thánh giá), ngài nhấn mạnh bản chất gặp gỡ riêng với Thiên Chúa. Mặc dù luận án tiến sĩ của ngài được chấp thuận hồi tháng 6/1948, ngài vẫn không được nhận bằng tốt nghiệp vì ngài không có văn bản luận án (đó là luật của Angelicum). Ngày 16/12/1948, ban giảng huấn thần học tại ĐH Jagiellonian ở Kraków xem xét lại luận án của ngài, và LM Wojtyła được cấp bằng.

Ngài trở về Ba Lan vào mùa hè năm 1948, và ngài được bổ nhiệm mục vụ tại giáo xứ Niegowić, cách Kraków 15 dặm. Đến Niegowić vào mùa thu hoạch, việc đầu tiên của ngài là quỳ xuống và hôn đất - một "thói quen tốt" mà ngài vẫn làm khi làm giáo hoàng. Động thái này trở thành "thương hiệu" của ngài, nhưng không phải của chính ngài, vì ngài nói rằng ngài bắt chước vị thánh người Pháp của thế kỷ 19 là LM Gioan Maria Vianney, cha sở xứ Ars (Curé d'Ars).

Tháng 3/1949, ngài được thuyên chuyển qua xứ thánh Florian ở Kraków. Ngài dạy môn đạo đức tại ĐH Jagiellonian Kraków và sau đó dạy tại ĐH Công giáo Lublin. Ngài quy tụ một nhóm gần 20 người trẻ, gọi là Rodzinka (gia đình nhỏ), để cùng cầu nguyện, thảo luận triết học, giúp đỡ người mù và người bệnh. "Gia đình nhỏ" tiếp tục phát triển. các bạn trẻ bắt đầu gọi ngài là Wujek (chú, bác) để người ngoài không biết ngài là linh mục khi phải đi ra ngoài. Nhóm của ngài càng phát triển càng liên kết chặt chẽ, vài người trong nhóm kết hôn. Cuối cùng, nhóm của ngài có đến 200 người, và được gọi là Środowisko (hiểu theo nghĩa "môi trường" hoặc "hoàn cảnh"). Hằng năm cả nhóm cùng đi trượt tuyết và chèo thuyền. Khi đi chèo thuyền, LM Wojtyła thường dùng thuyền 2 người để cùng trao đổi và hướng dẫn tâm linh. Ngài dâng thánh lễ ngay trên thuyền, và lấy 2 mái chèo làm Thánh giá. Năm 1955, những người chèo thuyền tham dự cuộc thi quốc tế trên sông Dunajec. Thuyền của "chú" Wojtyła bị thủng ngay tại đích đến (finish line). LM Wojtyła đã viết một loạt bài trên báo Công giáo Tygodnik Powszechny (Tuần báo Phổ thông) ở Kraków giải quyết các vấn đề đương thời của giáo hội.

Các tác phẩm văn chương của LM Karol Wojtyła nở rộ trong 12 năm đầu làm linh mục. Chiến tranh, sống dưới chế độ cộng sản, và trách nhiệm mục vụ của ngài xuất hiện trong các bài thơ và kịch bản của ngài. Các tác phẩm đó được ngài ký bằng bút danh (pseudonyms) Andrzej Jawień và Stanisław Andrzej Gruda. Ngài dùng các bút danh để phân biệt tác phẩm văn chương với tác phẩm tôn giáo (ngài ký tên thật), và cũng để tránh sự "dòm ngó" của người khác.

Ngài có bằng tiến sĩ thứ hai, đánh giá tính khả thi của đạo đức Công giáo (feasibility of a Catholic ethic) dựa trên hệ thống đạo đức của nhà hiện tượng học (phenomenologist) Max Scheler (An Evaluation of the Possibility of Constructing a Christian Ethics on the Basis of the System of Max Scheler - Đánh giá tính khả dĩ của việc xây dựng Đạo đức Kitô giáo theo Hệ thống của Max Scheler, năm 1954). Cũng như với bằng tiến sĩ thứ nhất, ngài cũng không được cấp bằng ngay, vì chính quyền cộng sản cấm ban giảng huấn của ĐH Jagiellonian cấp bằng. Cùng với việc chuẩn bị tại ĐH Công giáo Lublin, cuối cùng ngài cũng nhận được bằng tiến sĩ triết năm 1957, và ngài được bầu làm trưởng khoa đạo đức học (Chair of Ethics) năm 1956.

Ngày 5/8/1958, trong chuyến đi chèo thuyền 2 tuần với nhóm Środowisko ở sông Lyne, thuộc Đông Bắc Ba Lan, LM Karol Wojtyła nhận được một lá thư cho biết phải đến gặp TGM Hồng y Wyszynski, giáo phận Warsaw. Khi ngài đến văn phòng tòa TGM, ĐHY cho ngài biết ngài được bổ nhiệm làm giám mục phụ tá (auxiliary bishop) của TGM Eugeniusz Baziak, tổng giáo phận Kraków, vì tổng giáo phận bị trống ngôi (sede vacante) do ĐHY Sapieha qua đời. LM Wojtyła vâng lời và đến thẳng tu viện Ursuline và xin được vào nhà nguyện để cầu nguyện. Ngài ngạc nhiên thấy các nữ tu đang phủ phục trước Nhà Tạm (tabernacle). Ngài kể trong cuốn Rise, Let us be on our Way (Hãy đứng dậy, chúng ta cùng lên đường) rằng khi ngài vào một căn phòng đầy các linh mục, với tin tức về việc ngài được bổ nhiệm làm giám mục phụ tá, TGM Baziak đã nói lớn: "Habemus papam" (Chúng ta đã có giáo hoàng). Ngài cho rằng những từ này có thể là lời tiên tri trong ánh sáng của các sự kiện xảy ra tiếp theo. Thế là Karol Wojtyła đã tìm được chính mình, là vị giám mục trẻ nhất Ba Lan lúc mới 38 tuổi. Ngài được TGM Baziak tấn phong giám mục vào ngày lễ thánh Wenceslaus, 28/9/1958 tại nhà thờ chính tòa Wawel ở Kraków.

Năm 1959, ĐGM Wojtyła bắt đầu thói quen hằng năm là cử hành thánh lễ vọng Giáng sinh ở một khu đất trống tại Nowa Huta, một thành phố công nghiệp do cộng sản xây dựng không xa Kraków, và là thành phố đầu tiên ở Ba Lan không có nhà thờ nào. Nhưng do áp lực của người Công giáo, một nhà thờ được xây dựng tại Nowa Huta năm 1977).

TGM Eugeniusz Baziak qua đời tháng 6/1962, và ngày 16/7/1962, GM Karol Wojtyła được bổ nhiệm làm giám quản (Vicar Capitular) của tổng giáo phận cho đến khi bổ nhiệm TGM. Ngày 5/10/1962, ĐGM Karol Wojtyła đi Rôma tham dự Công đồng Vatican II. Là một giám mục trẻ và có chức vụ tương đối thấp trong hàng giáo phẩm, ĐGM Wojtyła ngồi ở cạnh cửa Đền thờ Thánh Phêrô. Trước khi tới Công đồng, ĐGM Wojtyła đã gởi một tiểu luận cho các ủy viên (commissioners) để chuẩn bị Công đồng, ngài đề nghị rằng thế giới muốn biết giáo hội phải nói gì về con người và tình trạng con người. Câu trả lời của giáo hội là gì đối với việc phổ biến tính hiện đại gây thất vọng và sự hiện hữu của con người?

Ngài góp 2 tài liệu ảnh hưởng nhất và mang tính lịch sử nhất của Công đồng là Decree on Religious Freedom (Sắc lệnh về Tự do Tôn giáo - bản Latin là Dignitatis Humanae) và Pastoral Constitution on the Church in the Modern World (Hiến chế Mục vụ về Giáo hội trong Thế giới Hiện đại - bản Latin là Gaudium et Spes).

Ngày 30/12/1963, ĐGH Phaolô VI bổ nhiệm ngài làm TGM Kraków. Năm 1960, TGM Wojtyła xuất bản cuốn Tình yêu và Trách nhiệm (Love and Responsibility), đó là lời biện hộ các giáo huấn truyền thống của giáo hội về giới tính và hôn nhân quan điểm thần học mới (new philosophical standpoint). Năm 1967, ngài có công trong việc công thức hóa Tông thư Humanae Vitae (Sự sống Con người) - tông thư này giải quyết các vấn đề tương tự, đồng thời cấm phá thai và kế hoạch hóa gia đình theo cách nhân tạo. Năm 1967, ĐGH Phaolô VI bổ nhiệm TGM Wojtyła làm hồng y.

Tháng 8/1978, sau khi ĐGH Phaolô VI qua đời, ĐHY Wojtyła được vào Mật viện Giáo hoàng (Papal Conclave). Khi đó, các hồng y bầu chọn ĐHY Albino Luciani, TGM Venice, với niên hiệu Gioan-Phaolô I. Lúc 65 tuổi, ĐHY Luciani là người trẻ nhất theo tiêu chuẩn giáo hoàng. ĐHY Wojtyła, lúc đó 58 tuổi, còn hy vọng được vào Mật viện lần nữa trước khi 80 tuổi (hạn tuổi đối với các hồng y được bầu làm giáo hoàng). Tuy nhiên, triều đại giáo hoàng của Đức Gioan-Phaolô I chỉ kéo dài 33 ngày vì qua đời ngày 28/9/1978. Tháng 10/1978, ĐHY Wojtyła trở lại Vatican để bầu giáo hoàng. Có hai nhóm ứng viên "mạnh": ĐHY Giuseppe Siri, TGM Genoa, và ĐHY Giovanni Benelli, TGM Florence với một vị phụ tá thân cận của ĐGH Gioan-Phaolô I. Trong những lần bỏ phiếu đầu tiên, ĐHY Benelli chênh lệch 9 phiếu. Tuy nhiên, ĐHY Wojtyła an toàn là một ứng viên thỏa hiệp (compromise candidate), một phần nhờ sự ủng hộ của ĐHY Franz König, tổng giáo phận Vienna, và các vị khác mới đầu ủng hộ ĐHY Giuseppe Siri.

Ngày hôm sau, với cương vị giáo hoàng, ngài dâng thánh lễ với hồng y đoàn (College of Cardinals) tại Nguyện đường Sistine (Sistine Chapel). Sau thánh lễ, ngài ban phép lành đầu tiên, gọi là Urbi et Orbi (phép lành truyền thống), đài phát thanh phát sóng toàn thế giới.

Cũng như vị tiền nhiệm, ĐGH Gioan-Phaolô II miễn lễ đăng quang truyền thống (traditional Papal coronation) và instead received ecclesiastical investiture with the simplified Papal inauguration vào ngày 22/10/1978. During his inauguration, when the cardinals were to kneel before him to take their vows and kiss his ring, he stood up as the Polish cardinal Stefan Wyszyński knelt down, stopped him from kissing the ring, and hugged him.

Ngài được bầu làm giáo hoàng ngày 12/11/1978. Việc bầu chọn một giám mục ở một đất nước cộng sản giống như cốt truyện một cuốn sách (1963) và bộ phim The Shoes of the Fisherman (Đôi giày của Ngư ông, 1968).

Ngày 13/5/1981, ĐGH Gioan-Phaolô II vào Quảng trường Thánh Phêrô, ngài bị Mehmet Ali Ağca bắn bị thương nặng, hắn là tay súng chuyên nghiệp thuộc nhóm Sói Xám (Grey Wolves). Hắn dùng súng lục 9 ly bán tự động bắn ngài vào bụng, xuyên qua đại tràng ruột non vài phát. Ngài được đưa ngay vào bệnh viện Gemelli. Ngài bất tỉnh trên đường đến bệnh viện. Dù không bị đứt động mạch nhưng ngài bị mất 3/4 lượng máu và gần hết máu. Cuộc phẩu thuật kéo dài 5 giờ. Khi tỉnh lại, trước khi phẫu thuật tiếp, ngài nói các bác sĩ đừng gỡ bỏ Dây Quàng Vai (Brown Scapular, dây các phép) khi phẫu thuật. Ngài nói rằng Đức Mẹ Fatima đã cứu ngài.

"Tôi có thể quên vụ [Ali Ağca ám sát ngài] ở Quảng trường Thánh Phêrô xảy ra vào hôm đó và vào lúc Mẹ của Đức Kitô lần đầu hiện ra với những dân nghèo hơn 60 năm trước tại Fatima thuộc Bồ Đào Nha hay không? Vì mọi thứ xảy ra với tôi trong ngày đó, tôi cảm thấy sự quan tâm và bảo vệ đặc biệt của Đức Mẹ, đã trở nên mạnh hơn viên đạn" (Đức Gioan-Phaolô II - Ký ức & Đồng nhất, NXB Weidenfeld & Nicolson, năm 2005, tr. 184).

Ağca bị một nữ tu và những người đứng gần đó bắt giữ, sau đó cảnh sát đến điệu hắn đi. Hắn bị án tù chung thân. Hai ngày sau lễ Giáng sinh năm 1983, Đức Gioan-Phaolô II đích thân đến nhà tù thăm hắn. Ngài và hắn nói chuyện riêng khoảng 20 phút. Ngài cho biếti: "Những gì chúng tôi nói chuyện vẫn được giữ bí mật, chỉ anh ta và tôi biết. Tôi nói với anh ấy như một người anh em mà tôi đã tha thứ và là người tôi hoàn toàn tin tưởng".

Ngày 2/3/2006, Ủy ban Mitrokhin của Ý, do Silvio Berlusconi thành lập và dẫn đầu là thượng nghị sĩ Paolo Guzzanti, kết luận rằng Liên bang Soviet (Soviet Union) đã đứng sau vụ ám sát Đức Gioan-Phaolô II, nhằm trả đũa việc ngài ủng hộ tình đoàn kết (solidarity), giới Công giáo, phong trào công nhân Ba Lan ủng hộ dân chủ (pro-democratic Polish workers' movement), một chủ thuyết đã được Michael Ledeen và Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (United States Central Intelligence Agency) ủng hộ lúc đó. Tường trình của Ý cho biết rằng các bộ an ninh cộng sản Bulgary (Communist Bulgarian security departments) đã được dùng để không lộ vai trò của Liên bang Soviet (Soviet Union). Bảo tường trình cho biết rằng Tình báo quân đội Soviet (Soviet military intelligence, tiếng Nga là Glavnoje Razvedyvatel'noje Upravlenije) - không phải là KGB - chịu trách nhiệm. Phát ngôn viên Boris Labusov, thuộc Cơ quan Tình báo Ngoại quốc của Nga (Russian Foreign Intelligence Service) gọi sự kết tội đó là "lố bịch" (absurd). Trong chuyến tông du của Đức Gioan-Phaolô II tới Bulgaria hồi tháng 5/2002, thư ký của ngài là TGM Stanisław Dziwisz, đã viết trong cuốn A Life with Karol (Sống với Đức Karol) rằng ĐGH tin rằng liên bang Soviet cũ đã đứng phía sau vụ ám sát ngài nhưng họ không thừa nhận. Bulgaria và Nga đã tranh cãi về kết luận của Ý, nói rằng ĐGH từ chối liên kết với Bulgaria.

Vụ ám sát thứ hai xảy ra vào ngày 12/5/1982, một ngày trước ngày "kỷ niệm" ám sát lần một, ở Fatima (Bồ Đào Nha), một người đàn ông đã đâm ngài bằng lưỡi lê. Anh ta bị bảo vệ bắt, dù TGM Stanisław Dziwisz sau đó cho biết rằng Đức Gioan-Phaolô II đã bị thương nhưng không tiết lộ về vết thương nguy hiểm tới tính mạng ngài. Kẻ ám sát linh mục Juan María Fernández y Krohn, thuộc phe hữu của Tây Ban Nha, được TGM Marcel Lefebvre (thuộc Hội Thánh Piô X) phong chức linh mục và chống lại những thay đổi do Công đồng Vatican II, gọi ĐGH là đặc vụ của Cộng sản Moscow (Mát-cơ-va) và Khối Mác-xít Đông Âu. Sau đó Fernández y Krohn rời bỏ Công giáo La Mã và bị tù 6 năm. Cựu linh mục này được điều trị bệnh tâm thần (mental illness) và bị trục xuất khỏi Bồ Đào Nha, rồi làm cố vấn pháp luật (solicitor) ở Bỉ. Tháng 7/2000, ông ta lại bị bắt sau khi leo qua tường rào an ninh (security barricade) ở Dinh Hoàng gia Brussels (Royal Palace of Brussels), kết tội vua Tây Ban Nha Juan Carlos đã giết anh của ông ta là Alfonso năm 1956.

Đức Gioan-Phaolô II cũng là một trong các "đích nhắm" của tổ chức Bojinka được Al-Qaeda tài trợ khi ngài đến Philippines năm 1995. Kế hoạch đầu tiên của họ là giết Đức Gioan-Phaolô II khi ngài thăm Philippines dịp Đại hội Giới trẻ (World Youth Day) năm 1995. Ngày 15/1/1995, một kẻ đánh bom tự sát (suicide bomber) mặc tu phục linh mục, khi Đức Gioan-Phaolô II đi qua hắn để đến chủng viện San Carlos ở TP Makati. Hắn đến gần ngài và cho nổ bom. Vụ ám sát ngài có tổ chức để nhằm đánh lạc hướng. Tuy nhiên, lửa hóa chất đã báo động cho cảnh sát ở gần đó, và những kẻ ám sát ngài đã bị tóm gọn trước khi Đức Gioan-Phaolô II đến.

Ngài là vị giáo hoàng trẻ tuổi nhất kể từ ĐGH Piô IX được bầu vào năm 1846. Đức Gioan-Phaolô II làm giáo hoàng khi còn khỏe mạnh và tương đối trẻ, vẫn đi xe đạp, đi bơi và trượt tuyết. Tuy nhiên, sau 25 năm trên cương vị giáo hoàng, vụ ám sát năm 1981 và chứng ung thư đã khiến sức khỏe ngài giảm sút. Ngài phải cắt một khối u ở đại tràng năm 1992, bị trật khớp vai năm 1993, gãy xương đùi năm 1994, và cắt ruột thừa năm 1996.

Năm 2001, một bác sĩ chỉnh hình nói rằng Đức Gioan-Phaolô II bị bệnh Parkinson, như đã được nghi ngờ một thời gian, Vatican biết điều này vào năm 2003. Ngài khó nói vài câu một lượt, tai cũng khó nghe hơn. Ngài còn bị viêm khớp nặng ở đầu gối chân phải, do đó ngài ít đi bộ trước công chúng. Tuy nhiên, ngài vẫn tiếp tục đi khắp thế giới. Những ai đã gặp ngài đều nói rằng dù sức khỏe yếu kém nhưng ngài vẫn hoàn toàn tỉnh táo.

Về cuối triều đại giáo hoàng của ngài, có những người ngoài và trong giáo hội nghĩ rằng ngài nên từ chức hoặc về hưu. Thậm chí người ta còn đề nghị nhiệm kỳ giáo hoàng. Tuy nhiên, khi Đức Gioan-Phaolô II nói rằng ngài chấp nhận Ý Chúa muốn ngài làm giáo hoàng, ngài sẽ hoàn thành nhiệm vụ đến khi chết, dù tư liệu của ngài cho thấy ngài đã viết đơn xin từ chức năm 2002.

Ngày 1/2/2005, ngài được đưa vào Bệnh viện Đa khoa Agostino Gemelli ở Rôma vì bị nhiễm trùng thanh quản cấp tín 1638    26-04-2011 21:25:49