Sidebar

Thứ Năm
25.04.2024

Chúa Nhật Chúa Thánh Thần Hiện Xuống 2014

  1. Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
  2. Chúa Thánh Thần Nguồn Bình An Đích Thật
  3. Hãy Lên Đường
  4. Biến Đổi
  5. Lột Xác
  6. Đổi Mới
  7. Sức Mạnh Của Chúa Thánh Thần
  8. Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
  9. Năng Lực Thánh Thần
  10. Thánh Thần - Nguồn Hiệp Nhất
  11. Chúa Thánh Thần Là Đấng Tác Sinh
  12. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
  13. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
  14. Lễ Ngũ Tuần - Một Cuộc Biến Đỗi Mới
  15. Quyền Năng Tha Tội
  16. Chúa Thánh Thần Sức Mạnh Nâng Đỡ Đức Tin
  17. Lễ Hiện Xuống Mới
  18. Ngôn Ngữ Của Toàn Cầu
  19. Ánh Sáng Chúa Thánh Thần
  20. Việc Làm Cản Trở Ơn Chúa Thánh Thần
  21. Thần Hứng
  22. Thánh Thần, Đấng Ban Bình An
  23. Hãy Nhận Lấy Thánh Thần
  24. Chúa Thánh Thần Hiện Diện
  25. Anh Em Hãy Nhận Lấy Chúa Thánh Thần
  26. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
  27. Sống Tha Thứ Và Hòa Giải Trong Chúa Thánh Linh
  28. Tái Tạo Trong Thánh Thần
  29. Chúa Thánh Thần Hiện Xuống

CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
Ga 20, 19 - 23  

Lạy Chúa Thánh Thần, xin xuống tràn ngập tâm hồn các tín hữu, và xin nhóm lữa tình yêu Chúa trong lòng họ.

Anh chị em thân mến,

Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ, nhưng thật ra, chẳng có nơi nào trong Kinh thánh diển tả rõ ràng hình dáng Chúa Thánh Thần ra sao. Sách Tông đồ công vụ thì nói đến "tiếng gió thổi mạnh" "những lưỡi như thể bằng lữa" "các tông đồ nói nhiều tiếng khác nhau". Bài Phúc âm thì tả, Chúa hiện ra và phán: "bình an cho các con" và "Người thổi hơi " trên các tông đồ. Qua Kinh thánh, có nhiều biểu tượng về Chúa Thánh Thần như: gió - lửa - chim bồ câu - các ơn lành khác nhau ban xuống trên các tông đồ. Vậy mà sự hiện diện của Chúa Thánh Thần rất quan trọng và cần thiết cho Hội thánh. Một vị mục sư Tin lành rất nổi tiếng, khi trở lại công giáo đã nói một câu chí lý: "Hội thánh công giáo dù có nhiều khuyết điểm, thiếu sót, nhưng tôi nhận ra qua đó có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong Hội thánh.." Mừng kính Chúa Thánh Thần hôm nay, kính mời anh chị em cùng suy niệm...

a/. Một vài danh từ chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa:

* Thổi hơi: đây là một cử chỉ chúc phúc. Chúa Giêsu thổi hơi trên các môn đệ, là để chúc phúc cho họ, cũng để trao ban Thánh Thần và ơn sủng Người cho các ông.

* Hãy nhận lấy Thánh Thần (Ga 20, 22): tiếng Hêbrơ dịch là: Ruah; Hi lạp dịch là: Pneuma; la tinh thì dịch là: spiritus: có nghĩa gió, hơi thở - khi dùng từ gió và hơi thở để chỉ về Chúa Thánh Thần, điều đó muốn nói: Chúa Thánh Thần là Đấng có năng lực kỳ diệu như gió, như hơi thở, Đấng trao ban sự sống. Dù Ngài thật thần thiêng, nhưng lại hoạt động mãnh liệt trong nội tâm mọi người cùng với chính Thiên Chúa.

b/. Chúa Thánh Thần là ai? Tại sao người giáo dân ít biết về Chúa Thánh Thần?

* Chúa Thánh Thần là ánh sáng, là ơn khôn ngoan: Chúa Thánh Thần được Kinh thánh gọi là Lời của Thiên Chúa, thì đây, nhờ sự khôn ngoan, nhờ ánh sáng của Thánh Thần, các môn đệ mới hiểu rõ được những lời giảng dạy của Chúa Giêsu.

* Chúa Thánh Thần là sức mạnh, là ơn can đảm: các môn đệ của Chúa Kitô sau ngày lễ Ngũ tuần đã trở nên can đảm phi thường. Chính Thánh Thần thúc đẩy họ mở bung cửa phòng Tiệc ly, trước đó đóng kín bưng vì sợ người Do thái. Cũng chính Thánh Thần thúc đẩy họ chổi dậy và lên đường đem Tin Mừng sự sống đến cho mọi loài. Gương anh hùng của các Thánh Tử đạo Việt Nam , gương can đảm của các nhà truyền giáo, đã là những tấm gương sáng chói cho chúng ta về ơn sủng và tác động của Thánh Thần.

* Chúa Thánh Thần là Đấng hòa giải của con người: Con người vốn mỏng dòn yếu đuối, nhờ Chúa Thánh Thần, họ biết được đường ngay nẻo chính, biết tự chọn cho mình lối đi, biết sống đúng ơn gọi mà Thiên Chúa mời đến. Nhờ ơn sủng của Thánh Thần, họ can đảm lãnh nhận sứ mạng hòa giải con người với Thiên Chúa theo như lời mời gọi của Đức Kitô: "anh em hãy đi dạy dỗ muôn. Anh em tha tội ai, thì tội người ấy được tha." Bản chất của Thánh Thần chính là hòa giải và hiệp thông, nên khi được Chúa Con sai đến với Hội thánh, Thánh Thần sẽ hoạt động mạnh mẽ trong Hội thánh, trong mọi tâm hồn tín hữu. Chính Thánh Thần đã ban cho các tông đồ và các người kế vị, sức mạnh, khôn ngoan, can đảm, để các ông tiếp tục công việc của Đức Kitô, là lên đường đem Tin mừng hòa giải và hiệp thông cho mọi người trên khắp thế giới...

c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Qua 20 thế kỷ, Hội thánh vẫn còn tồn tại, dù bao nhiêu sóng gió, bao nhiêu cuộc bắt bớ muốn tiêu diệt Hội thánh khỏi mặt đất này. Đó chính là bằng chứng Hội thánh Chúa Kitô luôn có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần; ta có tin không? Khi ta tin vào Chúa Thánh Thần, ta có muốn năng chạy tới, cầu nguyện với Người cho ta và cho Hội thánh không?

CHÚA THÁNH THẦN NGUỒN BÌNH AN ĐÍCH THẬT
Ga 20, 19 - 23  

Để kết thúc 50 ngày của mùa Phục sinh, Giáo hội cho chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Mùa phục sinh là mùa cao điểm trong cả năm Phụng vụ. Bởi lẽ, mầu nhiệm Phục sinh là mầu nhiệm trọng tâm niềm tin của từng người chúng ta. Đây là mầu nhiệm soi sáng và hướng dẫn đời sống đạo của chúng ta.

Một trong những dấu hiệu chứng tỏ Chúa Giêsu đã thực sự sống lại là sự thay đổi thái độ sống của các Tông đồ. Từ những con người nhút nhát sợ hãi trở thành những con người gan dạ và can đảm lạ thường. Chính Chúa Thánh Thần - nguồn bình an đã làm cho các ông được biến đổi lạ thường như thế.

Qua đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy mặc dù nơi ở của các Tông đồ đã cử đóng then cài rất kỷ lưỡng nhưng các ông vẫn không hết sợ hãi. Sự sợ hãi này bắt nguồn từ nổi bất an trong chính tâm hồn các ông. Bao nhiêu dự định, bao nhiêu ước vọng và bao nhiêu mơ ước đã tan tành theo mây khói. Tưởng rằng theo Thầy Giêsu thì mình sẽ được làm ông này ông nọ. Để rồi mình được người này người kia kính nể. Nào ngờ đâu, Thầy Giêsu - một Đấng quyền lực đầy mình lại để cho những thủ lãnh Do thái bắt Người cách dễ dàng. Các ông chỉ còn biết sống trong tâm trạng bất an trong thất vọng, chán chường.

Hiểu được tâm trạng của những đệ tử mình, nên câu nói đầu tiên của Chúa Giêsu khi hiện đến với họ là: "Bình an cho các con". Chúa Giêsu không những nói một mà đến hai lần. Cùng lúc ấy, Chúa Giêsu cũng trao ban Chúa Thánh Thần - nguồn bình an cho các ông.

Kể từ đó, các Tông đồ đã trở nên những con người can đảm và hăng hái lạ thường. Ra đi rao giảng Tin mừng bất chấp nguy hiểm và rủi ro. Những người bắt Thầy Giêsu vẫn còn đó chứ. Họ có thể bắt các ông bất cứ lúc nào. Dầu vậy, các ông vẫn không sợ và luôn cảm thấy bình an.

Sống trong tâm trạng bất an là một trong những điều đáng sợ cho mỗi người chúng ta. Chắc hẳn ai cũng mong muốn cho mình được sống bình an. Tuy nhiên, nhiều lúc chúng ta lại chạy theo người đời để tìm những bình an giả tạo. Đó là tiền bạc, của cải vật chất hay quyền cao chức trọng. Họ tưởng là nhà cao cửa rộng, kính cổng cao tường, được nhiều người kính nể ... là an toàn rồi. Thế nhưng, nếu nhìn kỷ thì chúng ta phải công nhận là càng có những điều đó thì tâm trạng bất an lại càng có khuynh hướng tăng thêm.

Chúa Giêsu đã nói: "Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian" (Ga 14, 27). Là người Công giáo, chúng ta thật may mắn vì qua Bí tích Rửa tội và đặc biệt qua Bí tích Thêm sức mỗi người đều được đón nhận Chúa Thánh Thần - nguồn bình an đích thật. Hãy biết trân trọng và gìn giữ. Đồng thời, chúng ta nên luôn biết kêu xin Ngài soi sáng hướng dẫn trong đời sống đạo của mình.

HÃY LÊN ĐƯỜNG
Ga 20, 19 - 23  

"Bình an cho anh em! Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em".

Ghép cành là một trong những kỹ thuật lai tạo cây giống rất được các nhà vườn ưa chuộng vì tốn ít thời gian. Cây giống phát triển nhanh nhờ có gốc cây mẹ đã ổn định. Kỹ thuật này cũng được dùng trong việc trồng hoa kiểng. Cùng một gốc, nhưng cho được nhiều màu hoa, kiểu dáng khác nhau. Điểm chung của các loại ghép nầy là cành ghép phụ thuộc hoàn toàn vào thân cây mẹ. Nếu cây mẹ sinh trưởng tốt thì các cành được ghép vào sẽ lớn nhanh, còn cây mẹ không tốt hay chết đi thì mắt ghép cũng vạ lây.

Đức Giêsu qua 40 ngày ở cùng các môn đệ sau Phục Sinh, Ngài về trời với lệnh truyền cho các môn đệ: "Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ" (Mt 28,19). Nhưng lệnh truyền nầy sẽ trở nên nặng nề cho các môn đệ nếu Đức Giêsu không để lại một sự trợ giúp nào. Vâng, sự trợ giúp đó chính là Chúa Thánh Thần - nguồn lực của mọi hoạt động.

Chúa Thành Thần là Đấng nào chắc ai trong chúng ta cũng biết. Bài chia sẻ nầy tôi chỉ muốn kể với các bạn về kinh nghiệm sống với Chúa Thánh Thần. Đầu tiên, Chúa Thánh Thần nhúng tay vào cuộc đời tôi qua Bí tích Rửa tội: "Chúng ta đều đã chịu phép Rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể" (1 Cr 12,13). Nhờ đó mà tôi mới có thể nói lên rằng: "Đức Giêsu là Chúa". Rồi lần lượt tôi nhận các Bí tích khác trong đời, mà Bí tích dồi dào Chúa thánh Thần nhất là Bí tích Thêm sức. Từ đây, tôi đã được đầy tràn sức mạnh để bước vào đời sống của một chứng nhân cho Đức Kitô. Những lần yếu đuối sa ngã, tôi được Thánh Thần thúc đẩy để hoán cải quay về. Bước vào đời, trước những chọn lựa, Thánh Thần lại hướng dẫn dắt dìu. Cuộc sống đầy những khó khăn trăn trở, Thánh Thần lại đến ủi an khích lệ qua tiếng nói của mẹ cha, bạn hữu, thầy cô... Ngày cuối đời trước khi về với Chúa, tôi sẽ được Thánh Thần nâng đỡ, bảo vệ khỏi mất linh hồn trước cám dỗ của ma quỷ. Có thể nói rằng, suốt cuộc đời tôi không có lúc nào vắng bàn tay Thánh Thần.

Thế mà không ít lần tôi đã để vuột mất bàn tay ấy. Tôi cao ngạo nghĩ rằng, bàn tay tôi có thể che được hết bầu trời. Tôi để Thánh Thần qua một bên như người chủ quán "bỏ quên" một kẻ ăn mày không tiền. Tôi sống theo bản năng, theo đam mê, theo sở thích, tôi chấp nhận để tà thần hướng dẫn cuộc đời. Khi thất bại nặng nề, tôi mới giật mình nhìn lại. Chúa ơi! Đời con như lá úa.

Tôi dùng lại hình ảnh cây tháp cành để nói về mối quan hệ giữa chúng ta và Chúa Thánh Thần. Chắc chắn là Chúa Thánh Thần là một gốc mẹ tốt. Từ đó làm nảy sinh ra nhiều cành lá tốt. Vấn đề là chúng ta đã tháp vào gốc mẹ rồi, vậy chúng ta có đồng ý hút lấy nhựa sống để trổ sinh hoa trái không? "Có nhiều đặc sủng, nhưng chỉ có một Thần Khí" (1 Cr 12,4). Chỉ có một gốc mẹ thôi, nhưng từ đó có nhiều loại hoa đẹp ra đời. Bạn nghĩ sao về điều nầy? Xin bạn đừng bao giờ để Chúa Thánh Thần "chết ngạt" trong đời mình.

Đức Giêsu đã bảo đảm cho hoạt động của chúng ta được thuận lợi qua việc ban Thánh Thần cho ta. "Thầy không để các con mồ côi, Thầy sẽ ban cho các con Đấng Phù Trợ khác, Ngài sẽ ở cùng các con luôn mãi" (Ga 14,16). Ta ra đi không đơn độc, không yếu đuối mà có Thánh Thần cùng đi, có sức mạnh của Thánh Thần. Điều cần phải lo sợ là ta có can đảm dấn thân không? Ta có dám "thí mạng" theo sự hướng dẫn của Thánh Thần không?

Chúa Giêsu đã và đang cần mỗi người chúng ta tiếp bước cuộc hành trình của Người, của các Tông đồ, của các bậc tiền nhân trong cánh đồng thế trần nầy. Bạn không cần phải bận tâm cho rằng mình không đủ sức, việc đó không phù hợp với mình, hay mình còn phải lo việc khác. Thánh Phaolô đã nói là có nhiều việc phục vụ, nhưng chỉ có một Chúa, Thần Khí tỏ mình ra cho mỗi người một cách (x. 1 Cr 12,1-7). Bạn hãy làm việc cho Chúa bằng chính công việc hằng ngày của bạn. Ai làm công nhân hãy làm công nhân cho thật tốt, ai cày ruộng hãy cày ruộng cho thật chăm, ai là thầy dạy hãy dạy với tất cả lương tâm và lòng yêu mến, ai là được mời gọi sống đời thánh hiến thì tích cực sống trong ơn gọi của mình... Chính những việc làm tốt đẹp của bạn sẽ minh chứng cho điều bạn kính tin.

Hãy can đảm, đừng hoang mang, đừng sợ hãi, đã có Thánh Thần. Hãy lên đường cùng Người.

BIẾN ĐỔI
Ga 20, 19 - 23  

Nguồn tin Đức Gioan XXIII loan báo triệu tập công đồng đã làm cho toàn thế giới ngạc nhiên. Lúc đó hầu như không một ai chờ đoán và nghĩ tới sự kiện đó. Vì triệu tập Công đồng Vaticanô II không phải là một suy nghĩ, sáng kiến của Đức Giáo Hoàng, mà ngài được linh hứng từ Chúa Thánh Thần. Ngài gọi Công đồng này là "Một lễ Hiện Xuống Mới". Vì lúc bấy giờ các cửa ra vào của toà nhà Giáo Hội đã khép kín với thế giới bên ngoài đều được mở tung và hướng ra cho toàn thể nhân loại. Sau Công đồng mọi cái đều được đổi mới và được mở rộng; mỗi dân tộc trên thế giới đều có thể nghe được sứ điệp của Chúa Kitô bằng chính ngôn ngữ riêng của mình. Không những từ những tình cảm nội bộ cũng được đổi mới: các vị giám mục, các giáo chủ chống đối thì nay cũng nhiệt tình hưởng ứng và cộng tác.
Một cuộc đổi mới lạ lùng hơn nữa, chính là biến cố Chúa Giêsu ban Chúa Thánh Thần cho các tông đồ cách đây hơn hai ngàn năm, Ngài đã biến đổi các tông đồ như trở thành một con người mới. Trước kia nhút nhát thì nay nên mạnh mẽ phi thường, trước kia hèn hạ bỏ trốn, thì nay sẵn sàng chịu chết vì Chúa. Trước kia các ngài u mê, chậm hiểu, mặc dù sống với Chúa suốt ba năm trời vẫn không hiểu rõ sứ mệnh của Chúa. Họ cứ lầm tưởng Chúa Giêsu sẽ tổ chức một vương quốc trần gian, và họ sẽ dự phần vinh hiển. Chính vì suy nghĩ sai lầm đó mà họ đã ghen tỵ nhau, tìm cách cầu cạnh nhằm ý đồ để được "ăn trên ngồi trước" trong nước Chúa sẽ lập. Thì nay nhờ Chúa Thánh Thần họ đã hiểu được sứ mạng thiêng liêng của Chúa Giêsu. Hay trước đây nóng nảy bốc đồng thì nay trầm tĩnh lắng nghe. Đặc biệt là các Ngài nói được cả các thứ tiếng lạ.
Cũng thế, các giáo hữu đầu tiên thời giáo hội sơ khai cũng được nhờ ơn Chúa Thánh Thần mà cuộc sống trở nên thánh thiện lạ lùng. Ngày nay, Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục che chở và đổ tràn hồng ân xuống trên Giáo Hội và mọi người ở khắp mọi nơi trên thế giới. Chúng ta cũng không thua kém các giáo hữu đầu tiên. Qua các bí tích, nhất là qua bí tích Rửa Tội và bí tích Thêm Sức, Chúa thánh Thần đã đến và hoạt động trong ta; Chúa Thánh Thần thông ban dồi dào sự sống của Thiên Chúa cho ta, biến đổi ta nên người Kitô hữu trưởng thành và mạnh mẽ được kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Ngài còn cho ta biết về giáo lý Chúa Kitô: "Thánh Thần sẽ nhắc nhở chúng ta" và các điều cần thiết để giữ nghĩa cùng Chúa và tiến lên trong đời sống hoàn thiện. Muốn làm được điều đó chúng ta phải sẵn lòng mở cửa tâm hồn mà đón rước Chúa Thánh Thần,lắng tai mà nghe Lời Người dạy bảo, khuyên nhủ, hãy vâng theo đường lối Ngài chỉ dẫn cho chúng ta.
Nếu chúng ta có đủ thiện chí và vâng lời, gió của Chúa Thánh Thần sẽ quét sạch mọi lo âu của trần đời thế tục để tâm hồn chúng ta được thảnh thơi tự do. Và lửa Chúa Thánh Thần sẽ thiêu đốt mọi tì vết trong tâm hồn chúng ta, để chúng ta được trong sạch, tinh tuyền, xứng đáng làm nơi Chúa ngự, lửa Chúa Thánh Thần sẽ thiêu đốt tâm hồn làm cho ta cháy bỏng nhiệt tình truyền giáo.
Trong thế giới ngày nay, tâm hồn con người cũng được biến đổi rất nhiều theo đà tiến của xã hội, nhưng không phải hết nơi họ đều được biến đổi theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, mà lại lao mình theo sự cuốn hút của "Tà Thần" đi vào nền văn minh sự chết, một nền văn minh ngày càng thiếu đi tình người. Nhắc đến đây tôi mới giật mình nhìn lại, hàng ngày mình vẫn hay thường lãng quên Chúa Thánh Thần, không quan tâm đến các ơn của Ngài. Vậy, hôm nay và ngay bây giờ chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần nâng đỡ và soi sáng để mỗi ngày tâm hồn ta được biến đổi theo hướng của Ngài. Amen

LỘT XÁC
Ga 20, 19 - 23  

Nhận xét về quyển sách Tông Vụ Tông đồ, Jerome Crowe đã nói: "Quyển sách thứ 2 của thánh Luca được coi là một loạt những lễ Hiện xuống" (His second volume can be regarded as a series of Pentecosts). Chúa Thánh Thần hiện xuống với các tông đồ (Cv 2, 1-4), hiện xuống với nhóm môn đệ (Cv 4,31), hiện xuống với lương dân (Cv 10, 44), hiện xuống với nhóm môn đệ của Gioan Tẩy giả khi Phaolô đặt tay trên họ (Cv 19,6).

Quả thật, khi đọc sách Công vụ tông đồ, chúng ta không khỏi ngạc nhiên trước công trình của Chúa Thánh Thần thực hiện cho Giáo hội thời sơ khai. Với biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ trong ngày Lễ Ngũ Tuần, Giáo hội của Chúa Kitô chính thức được khai sinh, và cũng từ đấy, Giáo hội không ngừng lớn mạnh và lan tràn khắp nơi. Với tác động, hướng dẫn và soi sáng của Chúa Thánh Thần, các tông đồ được biến đổi cách lạ lùng. Có thể nói, các ngài đã đi từ thái cực này đến thái cực kia: từ nhát đảm, sợ hãi đến dũng cảm, hiên ngang; từ quê mùa, dốt nát trở thành trí thức, khôn ngoan và hùng biện tài tình. Đây là một cuộc lột xác của các tông đồ trong Chúa Thánh Thần.

Như vậy, có nhiều người thắc mắc rằng: ngày nay, Chúa Thánh Thần có còn hiện xuống với Giáo hội nữa hay không? Đâu là những tác động và biến đổi của Ngài trên cuộc đời chúng ta?

Là những tín hữu đích thực, chắc chắn chúng ta đã được nghe nói, được giảng dạy về Chúa Thánh Thần, được lãnh nhận Chúa Thánh Thần qua Bí tích Thêm sức, nhưng rất có thể Ngài vẫn còn là Đấng quá xa lạ đối với chúng ta. Rất có thể, Bí tích Thêm sức chỉ còn là một kỷ niệm đẹp trong nhiều biến cố xảy ra trong đời sống hằng ngày của chúng ta mà thôi. Bí tích Thêm sức không làm cho chúng ta ý thức về sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong chúng ta và sai chúng ta đi làm chứng nhân cho Đức Giêsu Kitô.

Đâu rồi những tác động của Chúa Thánh Thần trên cuộc đời của chúng ta? Có lẽ, chúng ta đang chờ đợi Chúa Thánh Thần đến làm những chuyện "kinh thiên động địa" nơi chúng ta hay sai chúng ta đi một cách trực tiếp để làm những chuyện "dời non lấp bể"!

Chúa Thánh Thần không ở xa mỗi người chúng ta đâu. Ngài luôn có mặt khi chúng ta chân thành mở sách thánh để đọc Lời Chúa, rung động trước một đoạn Lời Chúa và muốn sống Lời Chúa trong đời thường. Ngài có mặt khi chúng ta âu ếm gọi tên Chúa Giêsu trên môi miệng chúng ta (1Cr 12,3) hay gọi Thiên Chúa là Cha đầy lòng từ ái (Rm 8,15). Ngài có mặt khi chúng ta quyết tâm hoán cải sau một lỗi lầm hay khi ta muốn tiến lên một bước mới trong đời sống cầu nguyện và đời sống thiêng liêng.

Chúa Thánh Thần là tình yêu trọn hảo của Chúa Cha và Chúa Con. Ai biết sống yêu thương tha thứ, cho đi và hi sinh thì sẽ được tháp nhập vào tình yêu trọn hảo ấy để sống trong sự sống của Thiên Chúa.

Chúa Thánh Thần chẳng ở xa Giáo hội hôm nay. Ngài luôn hiện diện và thổi những luồng sinh khí mới cho Giáo hội. Ngài làm cho Giáo hội được hiệp nhất và bình an bằng cách ban những đặc sủng khác nhau cho nhiều người để họ phục vụ lợi ích chung. Ngài hiện diện nơi các vị lãnh đạo Giáo hội, nhưng Ngài cũng có mặt nơi những nhóm giáo dân, như xưa kia, Ngài đã hiện xuống trên các tông đồ, trên nhóm môn đệ và trên cả lương dân vậy. Ngài đang hiện diện trong các Bí tích, trong mỗi Thánh lễ. Ngài thánh hoá bánh rượu để trở nên Mình và Máu Đức Giêsu Kitô. Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo hội; không có Ngài, Giáo hội chỉ là cơ cấu đáng nghi ngờ.

Chúng ta hãy để Chúa Thánh Thần tự do hoạt động trong chúng ta. Hãy mở tung các cánh cửa nơi tâm hồn chúng ta để Chúa Thánh Thần thổi những luồng sinh khí mới vào lòng chúng ta. Chúng ta sẽ thấy những biến đổi kỳ diệu khi chúng ta trở nên mềm mại hơn để cho Ngài dẫn dắt; khi chúng ta bớt cứng cỏi để cho Ngài canh tân; khi chúng ta không dập tắt tiếng nói của Ngài nơi cõi lòng của chúng ta.

Chúa Thánh Thần vẫn đang hiện xuống trong mỗi khoảnh khắc của cuộc đời chúng ta.

ĐỔI MỚI
Ga 20, 19 - 23  

Anh chị em thân mến.

Khi chúng ta trải qua đêm dài trong tăm tối, trong đêm tối mọi người đều phải lo chuẩn bị mọi sự: cửa nhà lo đóng kín, mọi công việc lo cho yên nơi yên chỗ, kể cả con người chúng ta cũng nằm yên bất động. Trong đêm tối nhiều người còn sống trong sự lo sợ, vì bóng đêm không nhìn thấy được sự vật chung quanh, những nguy hiểm cũng lợi dụng bóng đêm mà đến với con người bất cứ giờ phút nào.

Khi mặt trời bắt đầu ló dạng, mọi sự dường như được chuyển mình. Vạn vật mỉm cười đón ánh nắng mới, một sức sống mới cùng với ánh mặt trời mang dến cho vạn vật. Con người cũng thế, mọi người vui mừng hoạt động trở lại với những công việc mới. Cùng với ánh mặt trời, không ai có thể nằm yên bất động như trong đêm tối, mà mọi người đều đứng lên, mở cửa nhà mình ra và cùng hoạt động với sức sống mà ánh mặt trời mang lại cho họ. Nếu ánh mặt trời đến mà có người còn nằm yên bất động, thì đó là những người vô ích, ngày giờ kết thúc cuộc đời của họ đã đến.

Các Tông Đồ đang sống trong đêm tối của sự lo sợ và cô đơn, các ông vào trong nhà, đóng kín cửa lại. Các ông lo sợ người khác làm hại đến mình, vì các ông vừa chứng kiến cảnh đau thương của thập giá. Cảnh dau thương làm cho các ông sụp đổ hoàn toàn, các ông mất đi những ước mơ và hy vọng vọng bấy lâu nay, trong thời gian mà các ông theo Chúa Giêsu, các ông hy vọng rất nhiều, ước mơ rất nhiều. Nhưng giờ đây mọi sự không còn gì hết. Những lời Chúa Giêsu nói với các ông, dạy bảo, nhắc nhở, tất cả không còn gì hết. Các ông đóng kín cửa, thu mình lại trong nỗi lo sợ. Nhưng Chúa Giêsu lại đến trong lúc các ông đang lo sợ, Ngài vẫn vào nhà trong lúc cửa các ông vẫn đóng kín, ngài mang bình an đến cho những con người đang sống trong bất an. Ngài còn trao cho các ông một sứ mạng quan trọng là đem bình an đến cho những người khác: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con..." Ngài đến như vầng thái dương xuất hiện, không cho các ông ngồi yên trong sự sợ hãi nữa, không cho các ông đóng kín cửa tâm hồn của mình nữa, mà bảo các ông hãy ra đi.

Các ông đã nhận được sức mạnh, đã đứng lên và đã hành động. Các ông đã sống trong ánh sáng, các ông đã can đảm thi hành sứ mạng trong sự đỗi mới của một ngày mới. Đêm tối của các ông qua đi, giờ đây các ông đang sống và hoạt động dưới ánh sáng ban ngày, ánh sáng của Chúa Kitô Phục Sinh.

Ánh sáng Chúa Kitô Phục Sinh đã làm cho các Tông Đồ đổi mới. Ánh sáng đó cũng làm cho rất nhiều người được đổi mới qua suốt 2000 năm lịch sử. Nhưng ánh sáng đó có đổi mới được những con người của ngày hôm nay, có đổi mới được mỗi người trong chúng ta không?

Mỗi người để một ít phút thinh lặng, nhìn lại cuốn phim cuộc đời. Trải qua bao nhiêu năm, từ ngày lãnh Bí Tích Rửa Tội, Bí tích Thêm sức, biết bao hồng ân chúng ta nhận được qua các Bí Tích. Chúng ta mang danh là người công giáo, nhưng chúng ta chỉ là người công giáo trên danh nghĩa hay là một người công giáo thật sự.

Nếu trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta vẫn cứ sống theo những gì mình thích, làm những gì mình muốn làm, nói những gì mình muốn nói, mà bất chấp đến những người chung quanh, không cần biết phản ứng của họ như thế nào, cho dù họ có đau khổ, cho dù họ có kêu than, cho dù họ có van xin, chúng ta cũng không cần biết đến. Chúng ta chỉ ung dung tự tại miễn sao mình được lợi ngày càng nhiều, đường mà chúng ta gọi là danh vọng, ngày càng nâng cao, như thế là đủ. Vậy thì những lần đến nhà thờ, những lời kinh chúng ta đọc hằng ngày, những lời giảng dạy và lệnh truyền của Chúa Giêsu, đối với chúng ta không hiệu quả gì sao? Chúng ta không thể đổi mới để thi hành lệnh Chúa cho tốt được sao? Không lẽ sức mạnh của ánh sáng Phục Sinh không mở được cánh cửa lòng đóng kín của chúng ta được sao?

Nếu chúng ta nhìn thấy được trách nhiệm hằng ngày trong cuộc sống, nhìn thấy được những điều cần làm và phải làm, cho dù phải vất vả khổ nhọc, chúng ta vẫn không từ chối vì biết đây là điều tốt. Khi đó, chúng ta đang được đỗi mới nhờ ơn Chúa.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban sức mạnh của Thánh Thần Chúa sức đổi mới tâm hồn và cuộc sống của mỗi người chúng ta.

SỨC MẠNH CỦA CHÚA THÁNH THẦN
Ga 20, 19 - 23  

Lời hứa ở cùng Hội Thánh cho đến tận thế của Chúa Giêsu được thể hiện cách rõ nét qua vai trai trò tác thánh của Chúa Thánh Thần trong Hội Thánh. Thiên Chúa là duy nhất, nhưng có Ba Ngôi. Ở đâu có sự hiện diện của Một Ngôi Thiên Chúa, thì ở đấy cũng đồng thời có mặt cả Ba Ngôi. Chúa Giêsu về trời, giao lại sứ mạng cứu chuộc các linh hồn cho các Tông đồ và Chúa cũng ban Thánh Thần cho để giúp đỡ, củng cố các ông. Biến chuyễn lạ lùng đã xãy đến cho các Tông đồ khi các ông nhận lấy Chúa Thánh Thần trong Ngày Lễ Ngũ Tuần: "Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Thánh Thần, và bắt đều nói tiếng khác nhau tuỳ theo Thánh Thần abn cho họ" (Cv 2,4). Thật ra, Ngày Phục Sinh Chúa Giêsu đã ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ rồi (x. Ga 20,21-23). Nhưng ngày Lễ Hiện Xuống Chúa Thánh Thần đến một các long trọng và là ngày chính thức khai sinh Hội Thánh mà Chúa Giêsu đã thành lập.

Với sự hiện diện đầy năng lực của Chúa Thánh Thần, Hội Thánh Chúa không ngừng phát triển.

Thực vậy, lệnh truyền "hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ" (Mt 28,19) xem ra khó thực hiện vì nhiều lý do: các tông đồ là những người ít học, thuộc tầng lớp xã hội thấp, tiếng nói không nặng ký, lại xuất thân từ một đất nước bé nhỏ, ít ai biết đến...

Thế mà, khởi từ Ngày Chúa Thánh Thần Hiện Xuống trên các ông, Thần Khí Chúa đã thúc đẩy các ông ra đi, tạo những biến chuyễn thời cuộc qua các cuộc bách hại tại xứ Palestine khiến các ông phải đi tứ tán khắp nơi, thêm cơ hội để truyền bá Tin Mừng. Và kể từ đó đến nay trải qua 21 thế kỷ, với biết bao khó khăn, cho đến độ chúng ta có thể nói, mỗi trang sử của Hội Thánh Công Giáo đều được viết bằng máu của các chứng nhân Tin Mừng, Hội Thánh không chỉ tồn tại mà còn phát triển mạnh mẽ, từ con số 12 tông đồ của buổi ban đầu, đến nay đã có hàng tỷ người Tin vào Đức Giêsu Kitô. Đó chẳng phải là minh chứng hùng hồn cho sự hiện diện của Chúa Kitô trong Hội Thánh? Đó chẳng phải là nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần hằng "gìn giữ, hướng dẫn, thánh hoá và canh tân" Hội Thánh cho đến tận thế sao?

Tin tưởng vào sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong Hội Thánh và trong tâm hồn mỗi người, chúng ta dâng lên Chúa lời cảm tạ và cầu xin Chúa thêm ơn đức tin, để chúng ta vững bước theo Chúa trong đời sống hằng ngày.

CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
Ga 20, 19 - 23  

Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và đồng hành với con người. Ngài hiện diện cách sống động và xuyên suốt trong cuộc đời mỗi người nhưng nhiều khi danh Ngài không được nhắc đến với đầy đủ ý thức của con người. Qua giáo lý ta biết Ngài là Ngôi Ba Thiên Chúa. Đôi khi vô tình ta đóng khung Ngài trong 7 ơn mà ta lãnh nhận trong ngày chịu Bí tích Thêm sức. Trong các giờ kinh cũng thế, ta chỉ kêu cầu danh Ngài lúc khởi sự nhưng về sau thì không khi nào nhắc đến danh Ngài nữa. Nếu như ta chỉ nhớ và kêu cầu Chúa Thánh Thần cách vắn tắt ở đầu giờ kinh hay chỉ giới hạn hoạt động của Chúa Thánh Thần trong một vài Bí tích đó là điều vô cùng thiếu sót.

Chúa Thánh Thần đã xuất hiện ngay từ buổi đầu cuộc tạo dựng. Trong suốt lịch sử dân Chúa, Ngài luôn hiện diện, trong cuộc đời Chúa Giêsu Ngài luôn đồng hành, và nhất là trong hội thánh Ngài luôn hoạt động, dạy dỗ, ủi an, đổi mới con người. Bài Tông Đồ Công Vụ trình bày sự kiện Chúa Thánh Thần xuất hiện cách bất ngờ và biến đổi cuộc sống các tông đồ đến tận gốc rễ. Tiếng gió ùa mạnh vào cả căn nhà, những hình lưỡi lửa lần lượt đậu trên đầu các ông, ai nấy đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần.

Ngày nay mỏ dầu, mỏ than là nhưng nguồn năng lượng đang cạn dần trên thế giới và sẽ biến mất đi. Nhưng gió và lửa là nguồn năng lượng vật chất vô cùng phong phú, không bao giờ cạn và luôn mới mẻ. Gió và lửa là biểu tượng cho những nguồn sức mạnh tinh thần, là ơn lành của Chúa Thánh Thần trao ban. Chúa Thánh Thần đến để làm mới lại bộ mặt trái đất. Đổi mới tâm hồn con người để họ rao truyền Nước Thiên Chúa. Hoạt động của Ngài liên lĩ không lúc nào gián đoạn, nghỉ ngơi.

Chúa Thánh Thần đổi mới ý chí các tông đồ.

Từ ngày Chúa Giêsu bị bắt và bị giết chết, các tông đồ sống trong sợ hãi. Các ông đã chối thầy và đã trốn chạy. Cửa nhà lúc nào cũng khoá chặt, đóng kín. Chúa Thánh Thần xuất hiện, giờ đây các ông mạnh dạn mở toang cửa phòng, ra đi rao giảng Tin mừng Phục sinh cho hết mọi người. Bị bắt bớ, các ông không sợ. Bị đánh đòn các ông vẫn kiên trung. Sau cùng các ông đã dùng chính máu mình làm chứng cho nhưng lời rao giảng. Chúa Thánh Thần hoạt động thật lạ lùng nơi những con người yếu đuối.

Chúa Thánh Thần đổi mới những toan tính bất chính

Làm môn đệ Chúa Giêsu, các ông đều ấp ủ cho riêng mình những ước mơ trần tục. Theo Chúa để được chức trọng quyền cao, theo Chúa để được ngồi bên tả, bên hữu. Ai cũng muốn là người lớn nhất, quan trọng nhất. Các ông theo thầy mà không yêu mến thầy, trái lại chỉ yêu chính bản thân mình. Từ khi được ơn Chúa Thánh Thần các ông đã không còn tranh giành hơn kém, cao thấp nữa. Từ nay các ông hoạt động cho Thiên Chúa và sẵn sàng chết đi vì yêu mến Chúa. Chúa Thánh Thần đã hướng những ước mơ thấp hèn nơi các ông thành những ước mơ cao thượng. Biến đổi những trái tim chai đá thành trái tim bằng thịt. Biến đổi những trái tim chỉ biết yêu mình giờ đây biết yêu rung động yêu thương người khác.

Chúa Thánh Thần biến đổi trí khôn các tông đồ.

Các ông là những người chài lưới, ít học, một chữ cắn đôi cũng không biết. Suốt những năm theo thầy, các ông được dạy nhiều điều nhưng hiểu thì chẳng bao nhiêu. Chúa Thánh Thần hiện đến, trí khôn các ông như bừng tỉnh sau cơn mê kéo dài. Các ông hiểu biết về Chúa, hiểu biết về giáo lý của Chúa và có thể ra đi giảng dạy cho nhiều người thuộc mọi dân tộc khác nhau. Chúa Thánh Thần cho các ông có khả năng nói nhiều tiếng lạ. Các ông say sưa rao giảng đến nỗi nhiều người bảo "họ đầy rượu rồi". Các ông không say rượu nhưng là đang say Chúa, đang say sưa rao giảng Tin mừng Nước Chúa. Người ta nghĩ các ông điên dại nhưng thực ra các ông đang tràn đầy Chúa Thánh Thần.

Anh chị em thân mến, Giáo hội được khai sinh từ ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống, Giáo hội đã có một trang sử kéo dài đã 20 thế kỷ rồi. Giáo hội vẫn tiếp tục cần những luồng gió mạnh của Chúa Thánh Thần ùa đến, lùa vào để đổi mới mọi sự. Mỗi dịp mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là một dịp khai sinh mới của Giáo hội. Qua làn hơi, Chúa Thánh Thần trao ban sự sống cho chúng ta. Qua hình lưỡi lửa Chúa Thánh Thần tẩy xoá tâm hồn ta khỏi mọi tội lỗi. Đồng thời Ngài ban sức mạnh để ta trở nên những chứng nhân của Chúa đến tận cùng trái đất.

Ngày nay, Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động và biến đổi không ngừng bộ mặt trái đất. Như xưa Ngài biến đổi các tông đồ thế nào, thì hôm nay Chúa Thánh Thần tiếp tục làm cho cuộc sống con người thêm mới bằng cách biến đổi cuộc sống từng người.

Các tông đồ từ chỗ không hiểu biết gì, Chúa Thánh Thần cho các Ngài hiểu biết tất cả. Chúa Thánh Thần cùng sẽ mở trí khôn để ta hiểu biết Lời Chúa, nhận biết thánh ý của Thiên Chúa.

Các tông đồ từ chỗ nhát đảm, sợ sệt, suốt ngày cửa đóng then cài. Khi Chúa Thánh Thần xuất hiện các Ngài đã mở tung cửa và đi rao giảng. Chúa Thánh Thần cũng sẽ thôi thúc ta thi hành điều tốt đẹp cho người khác, mạnh dạn làm chứng cho Chúa ở trần gian.

Các tông đồ từ một trái tim chỉ biết sống cho mình, Chúa Thánh Thần cho các tông đồ một trái tim biết sống cho Chúa và cho người khác. Chúa Thánh Thần đến biến đổi trái tim chúng ta luôn biết yêu thương, gắn kết với hết mọi người trong niềm vui, niềm hy vọng và sự cảm thông.

Anh chị em, cho dù ta muốn hay không muốn, tin hay không tin thì Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động trong Giáo Hội và biến đổi từng người. Chớ chi ta biết mở mắt tâm hồn để nhận ra bao cuộc hiện xuống của Chúa Thánh Thần trong đời mình. Biết mở rộng tâm hồn để sống theo ơn Ngài thôi thúc hầu cuộc sống được Chúa Thánh Thần không ngừng đổi mới trong yêu thương, sẵn sàng làm chứng cho Tin Mừng Nước Chúa ở trần gian.

NĂNG LỰC THÁNH THẦN
Ga 20, 19 - 23  

Trước ngày Chúa Thánh Thần đến, các Tông Đồ sống lẫn trốn trong phòng. Một sứ vụ lớn lao được trao phó cho các ngài nhưng vì các ngài chưa có sức mạnh và ý hướng để thi hành sứ vụ đó. Chỉ sau ngày Thánh Thần đến, các ngài trở nên những con người được biến đổi hoàn toàn. Các ngài bắt đầu rời bỏ những nơi ẩn trốn và bắt đầu trở nên can đảm rao giảng Tin Mừng.

Vậy Thánh Thần đã làm gì trên các ngài? Trong lời hứa ban Thánh Thần, Chúa Giêsu nói với họ: "Khi Thánh Thần đến, các con sẽ nhận được sức mạnh và sẽ làm chứng cho Thầy không phải chỉ ở Giêrusalem, nhưng... đến tận cùng trái đất" (Cv 1,18).

Thiết nghĩ, từ chìa khóa trong lời hứa ấy chính là "sức mạnh". Đây chính là thứ mà các Tông Đồ đang cần nhất. Vì ngay giờ phút đó, các ngài trở nên mạnh mẽ và hoàn toàn loại bỏ được yếu hèn, sợ hãi những mặc cảm... trước đó. Họ đã mạnh mẽ thực hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Chúa Giêsu các công khai. Sau cùng các ngài đã làm chứng về những gì đã xảy ra nơi Đức Giêsu. Họ cần sự can đảm, cần một ai đó ban sức mạnh cho họ.

Việc trao ban "năng lực" là một trong những từ ngày nay dùng với ẩn ý sâu xa. Điều này hoàn toàn có nguyên nhân chính đáng. Chúng ta thử quan sát một vài cá nhân hay một nhóm người mà ban đầu họ cảm thấy bất lực trước tình huống khó khăn, nhưng thình lình họ trở nên có khả năng để xoay chuyển tình huống ấy khi có một ai đó thêm sức mạnh cho họ. Chúng ta thấy trong một đội bóng đá, người quan trọng và có thể làm thay cho cả đội ấy là người biết khích lệ tinh thần, biết thúc đẩy để đồng đội chơi tích cực hơn. Khi những cầu thủ khác thiếu tự tin thì nhờ lời động viên, khích lệ họ trở nên mạnh mẽ và đầy tự tin, từ đó có thể chơi hay hơn, thậm chí họ có thể chơi hay hơn đến nỗi không thể hay hơn được.

Vậy việc trao ban "năng lực" nghĩa là gì? Trước hết, nó diễn tả việc ban quyền năng hay sức mạnh cho ai đó. Điều này không đúng với hoàn cảnh của các Tông Đồ. Vì không phải khi Thánh Thần đến họ mới được ban quyền năng mà thật ra các ngài đã nhận từ Chúa Giêsu

Trường hợp thứ hai, có nghĩa trao cho ai khả năng để họ có thể làm một việc nào đó. Đây là cách nghĩ thông thường với từ "được ban năng lực" và diễn tả cách chính xác trường hợp các Tông Đồ trong ngày lễ Ngũ Tuần.

Khi người ta được năng lực, họ trở nên có khả năng và có ý hướng để thay đổi tình huống. Họ không chờ đợi ai khác để làm thay họ. Họ chấp nhận và tự mình có thể gánh vác trọng trách ấỵ

Chúa Thánh Thần đã ban năng lực cho các Tông Đồ. Ngài đã ngự xuống trên các ngài qua hình thức và gió lửa. Gió và lửa (sức nóng) là hình ảnh tượng trưng cho sức mạnh. Gió có sức mạnh di chuyển, nhổ lên. Lửa có sức mạnh toi luyện và biến đổi.

Sức mạnh mà chúng tượng trưng ở đây chính là sức mạnh của Thiên Chúạ Ở đây, chúng tượng trưng cho sự hiện diện và hành động của Thiên Chúạ Chúa Thánh Thần đến để cung cấp cho các Tông đồ năng lượng, động lực, sự hăng say, sự cam đảm và tình yêu để các ngài có thể đảm nhận sứ vụ mà Chúa Giêsu đã ủy thác. Chính Chúa Thánh Thần sẽ giúp các ông, nhưng Ngài không làm thay cho các ông.

Tuy nhiên, chúng ta không được nghĩ rằng sự biến đổi nơi cácTông đồ xảy đến trong chốc lát. Nhưng nó là cả một quá trình tiệm tiến, là một tiến trình lớn lên. Đôi khi sự lớn lên này có thể diễn ra cách chậm chạp và mang lại đau đớn. Vì chúng ta không dễ để từ bỏ những lối sống cũ, những thói quen cũ, tập quán cũ và những thái độ cũ...

Người ta chỉ có thể thay đổi khi được một ai đó còn biết hy vọng vào họ; khi một ai đó đặt niềm tin nơi họ mà trao cho họ một nhiệm vụ nào đó; khi một ai đó còn quan tâm đến họ. Nhưng vượt trên tất cả là họ chỉ thay đổi khi họ cảm thấy mình được yêu thương. Khi đó, họ sẽ chui ra khỏi cái vỏ mặc cảm và nhận ra được có một sức mạnh đã tiểm ẩn từ lâu trong họ. Chỉ có phép lạ của người biến đổi mới là phép lạ thật sự.

Chúng ta cũng cần một ai đó ban năng lực, đánh thức chúng ta để chúng ta có được động lực trong cuộc sống, để sống đáp lại một cách có trách nhiệm. Điều này có nghĩa là chúng ta phải biến đổi những gì cần được biến đổị Nhưng đặc biệt, chúng ta cần nguồn năng lực để có thể làm chứng cho Chúa Giêsu, cho đức tin Công giáo của chúng ta. Năng lực đã biến đổi các Tông đồ ngày xưa vẫn còn có giá trị đối với chúng ta hôm naỵ Chính Chúa Thánh Thần là động lực và sức mạnh cho tinh thần của chúng ta, sưởi ấm và biến đổi con tim ta trở nên tinh tuyền. (Viết theo Floy McCarthy)

THÁNH THẦN - NGUỒN HIỆP NHẤT
Ga 20, 19 - 23  

Năm mươi ngày sau Lễ Chúa Phục Sinh, Giáo hội long trọng mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Có khuynh hướng lấy ngày Chúa Giêsu đổ hết máu và nước trong mình ra để cứu độ trần gian làm ngày khai sinh Giáo hội, cũng có khuynh hướng lấy ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống làm ngày khai sinh Giáo hội. Như vậy, Chúa Thánh Thần là Đấng nào và Ngài đã làm gì cho các thụ tạo và cho Giáo hội?

Giở lại những trang đầu của Sách Sáng Thế, chúng ta bắt gặp hình ảnh mà tác giả Sách Sáng Thế trình bày "Thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước" (St1,2). Như thế, Thánh Thần hay Thần Khí Thiên Chúa đã tác thành vạn vật ngay từ buổi đầu của công trình tạo dựng.

Trong sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo thì nói: Chúa Thánh Thần là Ngôi thứ ba bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, cùng một bản tính và một quyền năng như Chúa Cha và Chúa Con. Như vậy, không phải là Chúa Thánh Thần chỉ hiện diện trong các thụ tạo từ ngày lễ Ngũ Tuần nhưng Ngài đã hiện diện trong các loài thụ tạo ngay từ buổi ban đầu, nhưng các hiện diện của Ngài thâm sâu và khó nhận biết. Nhưng từ khi được Chúa Giêsu mạc khải thì sự hiện diện của Ngài nổi bậc hơn. Ngài không đến để thay thế Chúa Giêsu nhưng Ngài đến để làm cho sự hiện diện của Chúa Giêsu được thể hiện cách thâm sâu nơi các loài thụ tạo.

Chúa Thánh Thần là Đấng hiệp nhất trong tình yêu. Như chúng ta nhận biết, Thiên Chúa chúng ta là Thiên Chúa duy nhất, Ba Ngôi vị. Tại sao có sự hiệp nhất cao siêu này? Thưa: Ba Ngôi hiệp nhất với nhau trong tình yêu hay nói cách khác là gắn kết nhau trong Chúa Thánh Thần. Chính trong tình yêu và sự hiệp nhất nên một là muôn loài được tạo thành.

Con người khi chưa phạm tội, được hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa nên họ thương yêu nhau và nên một trong nhau. Nhưng khi họ bị tội lỗi chia cắt thì họ không còn có thể hiệp thông với Thiên Chúa nữa nên họ cũng bị chia cắt với nhau. Sự kiện Ađam - Eva cũng như câu chuyện tháp Babel cho ta thấy rõ sự chia cắt đó.

Đến ngày lễ Ngũ tuần, các tông đồ cũng còn e sợ, còn ngại ngùng. Nhưng khi được Thánh Thần ngự xuống trong họ thì họ hăng hái mở toang cửa loan báo Tin Mừng Đức Giêsu đã chết và sống lại. Bởi không hiệp thông được với Thiên Chúa mà con người không thể xây được tháp Babel thì nay nhờ sự hiệp thông trong Chúa Thánh Thần mà các tông đồ rao giảng tiếng bản địa của các ông mà thính giả thì lại nghe như tiếng bản địa của mình.

Ngày nay, Chúa Thánh Thần vẫn hằng hoạt động trong Giáo hội "ở đâu có sự hiệp nhất ở đó có Thánh Thần", Ngài làm cho mọi người có khả năng đón nhận Tin mừng mạc khải như Chúa Giêsu đã nói "Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi. Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn" (Ga 16, 12-13).

Nhưng phải làm sao để có thể hoạt động theo Chúa Thánh Thần? Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống như là một cơ hội nhắc nhở mỗi người chúng ta về nguyên lý tối hậu của niềm tin "Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống", cho chúng ta năng cầu nguyện với Chúa Thánh Thần xin Ngài hướng dẫn cho chúng ta luôn được hiệp nhất trong Chúa và hiệp nhất trong nhau để Giáo hội mà Chúa Giêsu đã thiết lập mãi là sự hiện diện của tình yêu, sự hiện diện của sự hiệp nhất, sự hiện diện của Chúa Thánh Thần.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin cho chúng con luôn ý thức được sự hiện diện của Ngài, biết năng nghe tiếng Ngài hằng nói với chúng con trong thâm sâu của tâm hồn và cho chúng con trở nên mềm mại trong sự uốn nắn của Chúa và mỗi ngày chúng con được tiến lên trong đường nhân đức, tiến lên trong tình yêu và tiến lên trong sự hiệp nhất với Chúa và với mọi người.

CHÚA THÁNH THẦN LÀ ĐẤNG TÁC SINH
Ga 20, 19 - 23  
Jos. Vinc. Ngọc Biển

Cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta long trọng mừng Đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Khi nói đến Chúa Thánh Thần, chúng ta nghĩ ngay đến vai trò của Ngài là Đấng soi sáng, thánh hóa, đổi mới, Đấng ban sự bình an, niềm vui, can đảm, khôn ngoan, lo liệu, hiểu biết, đạo đức, kính sợ Chúa...

Như vậy, Ngài là hồn sống, hơi thở của Giáo Hội. Không có Ngài, Giáo Hội như mất đi sức sống, sinh động và trở nên trống rống. Đức Thượng phụ Athenagoras, Giáo chủ Constantinople đã nói: "Nếu cuộc sống thiếu vắng Chúa Thánh Thần thì Thiên Chúa sẽ nghìn trùng xa cách. Đức Kitô chỉ là một nhân vật quá khứ. Tin Mừng chỉ là một mớ chữ không hồn. Giáo Hội khác nào một cơ cấu cứng nhắc, biến quyền bính thành thống trị điêu ngoa, và giảng dạy chỉ là tuyên truyền láo khoét, việc thờ phượng chỉ là phù phép, và luân lý sẽ thành xiềng xích vong nô".

Để làm sáng tỏ vai trò của Chúa Thánh Thần, các bài đọc trong thánh lễ hôm nay sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về Ngài.

1. Vài trò của Chúa Thánh Thần qua ba bài đọc

Khởi đi từ bài đọc I trích trong sách Cv 2, 1-11, tác giả cho thấy: đến ngày lễ Ngũ Tuần, các môn đệ vẫn đang tụ họp quanh Đức Maria để cầu nguyện liên lỉ và chờ mong điều Đức Giêsu đã hứa trước đó. Và, đúng như lời Đức Giêsu đã loan báo, Chúa Thánh Thần đã lấy hình lưỡi lửa để hiện xuống trên Đức Mẹ và các môn đệ. Như một sự tác sinh, lập tức, tất cả được tràn đầy Thánh Thần.

Ngay sau đó, như một đặc ân của Chúa Thánh Thần, các môn đệ từ một người ít học, nhà quê, nhát đảm, sợ sệt, nay trở nên thông thái và nói được những tiếng mới lạ, khiến mọi người đổ về hành hương đền thờ Giêrusalem nhân dịp lễ Ngũ Tuần đều nghe các môn đệ nói được tiếng bản xứ của mình. Cứ thế, các ông tiếp tục can đảm, hăng say ra đi mọi nơi để loan báo và làm chứng về Đức Giêsu, Đấng đã chết và đã sống lại để cứu độ nhân loại.

Sang bài đọc II, 1Cr 12,3b-7.12-13, thánh Phaolô nhắc đến đặc sủng của Chúa Thánh Thần được ban xuống cho mỗi người tùy theo nhu cầu của họ. Tuy nhiên, sự đa dạng của ơn Chúa Thánh Thần trên mỗi người là khác nhau, nhưng đều chung quy một điểm, đó là hiệp nhất trong đa dạng để phục vụ cho Lời của Đức Giêsu hầu sinh ích cho cộng đoàn tín hữu.

Qua bài đọc này, thánh Phaolô nhắc các tín hữu Côrintô phải luôn hiệp nhất trong ân sủng của Chúa Thánh Thần, để cùng nhau xây dựng nhiệm thể Đức Kitô trong mầu nhiệm thân thể Ngài là Hội Thánh.

Sang bài Tin Mừng, Ga 20,19-23, thánh Gioan làm toát lên sứ mạng được sai đi rao giảng Tin Mừng của các môn đệ; đồng thời, ngài cũng cho thấy căn nguyên sự sống và hoạt động của các môn đệ là do Chúa Thánh Thần.

Thật thế, sau khi ban bình an cho các ông, ngay lập tức, Đức Giêsu đã trao ban cho các ông Chúa Thánh Thần và kèm theo là quyền tha tội. Tại sao thế? Thưa! Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa, Đấng đổi mới và nguồn mọi sự bình an. Khi con người nhận được ân sủng của Ngài và khi tội lỗi được tẩy xóa, thì ắt được bình an, chan chứa niềm vui và hy vọng.

Như vậy, ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống chính là ngày Giáo Hội được khai sinh, và cũng là ngày Giáo Hội lên đường để thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình.

Hiểu như thế, thì ngày lễ hôm nay cũng là ngày lễ Hiện Xuống nơi mỗi người chúng ta. Bởi vì: nếu xưa kia các môn đệ đã được lãnh nhận Chúa Thánh Thần cũng như sứ vụ loan báo Tin Mừng như thế nào, thì hôm nay, mỗi tín hữu cũng đón nhận cùng một Chúa Thánh Thần và cùng một sứ vụ như các ngài khi xưa.

2. Sứ mạng của Giáo Hội hôm nay

Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta đều đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, tiếp theo, qua Bí Tích Thêm Sức, mỗi người đón nhận Ngài cách dồi dào, phong phú để thi hành chức năng Tư Tế, Ngôn Sứ và Vương Đế cách triệt để hơn trong vai trò là thành phần chi thể trong thân thể mầu nhiệm Giáo Hội, có Đức Giêsu là Đầu.

Mừng lễ Chúa Thánh Thần hôm nay, là dịp mời gọi mỗi người chúng ta nêu cao ý thức về sự tinh tuyền, trong trắng của ngày lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, để tâm hồn chúng ta trở về tình trạng: "nhân chi sơ, tính bổn thiện", hầu sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần. Hôm nay cũng là dịp để chúng ta làm mới lại đặc sủng của Chúa Thánh Thần ngày lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức, qua đó, chúng ta hiểu được Lời Chúa, yêu mến Lời Chúa và can đảm, sẵn sàng loan báo cũng như làm chứng cho Lời Chúa.

Khi đón nhận và lắng nghe Lời Chúa, chúng ta sẽ loại bỏ được những thứ mà thánh Phaolô cho là hành động do xác thịt như: "dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy" (Gl 5,19-21). Khi loại trừ được những thứ đó, chúng ta sẽ lãnh nhận được những hoa trái của Chúa Thánh Thần như: "bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ" (Gl 5,22-23).

Đạt được điều đó, mỗi người chúng ta sẽ là khí cụ hữu dụng của Chúa Thánh Thần trên và trong cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội hôm nay.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến vì chúng con cần Ngài. Amen.

LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
Ga 20, 19 - 23
 
Lm Phêrô Phạm Ngọc Lê
Trước sự phong phú vô cùng của các bản văn phụng vụ, ta chỉ nên chọn một khía cạnh. Tự giới hạn mình trong lời giải đáp câu hỏi: Thánh Thần được đề cập đến trong phụng vụ lễ Hiện xuống là Đấng nào? Ngài là Thần Khí của Chúa Cha và của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Chúa Cha và Chúa Con yêu nhau từ đời đời bằng một tình yêu tuyệt hảo. Tình yêu ấy có một tên gọi. Đó là một ngôi vị. Đó là Thánh Thần, nghĩa là tình Cha yêu Con và tình Con yêu Cha trong một chuyển động không bao giờ ngừng. Do đó, Chúa Cha và Chúa Con gởi Ngài đến cho nhân loại như là quà tặng cao cả và vĩ đại nhất có thể chia sẻ cho chúng ta. Ngài là Thần Khí sáng tạo. Đối với người Do Thái, Lễ Năm Mươi nhắc nhớ Giao ước của Thiên Chúa trên núi Sinai và việc trao ban Lề Luật cho Môisen và dân Ítraen, giữa cuồng phong và sấm chớp. Thánh Luca đọc lại biến cố ấy như hình ảnh tiên báo về Thần Khí, xưa đã tác tạo dân Ítraen qua giao ước và lề luật, giờ đây tác tạo nên dân kitô hữu. Thật vậy, nhờ Thần Khí mà con người kết nối giao ước mới trong máu của Đức Kitô và sống dưới chế độ lề luật mới, luật tình yêu (Bài đọc 1) Thần Khí mang lại hiệu quả qua nhiều ân ban khác nhau, giống như điều xảy ra nơi cộng đoàn Corintô: ơn làm tông đồ, ơn tiên tri, ơn ngôn ngữ...tất cả đều nhằm ích chung của các kitô hữu (bài đọc 2). Thần khí sẽ mở rộng biên cương địa lý để đến với mọi dân tộc được nêu lên trong sách công vụ và nhất là lớn lên trong lòng mỗi người, tha thứ tội lỗi cho các tâm hồn và mang lại an bình cho tâm hồn (Tin Mừng)

Gợi Ý Mục Vụ
Dĩ nhiên, ngày nay trong Hội Thánh người ta không còn nói về Thánh Thần, như Đấng Xa Lạ nữa (Thánh Thần, Đấng xa lạ, đây là tựa đề một quyển sách xuất bản vào thập niên 50). Sau Công Đồng Vatican 2, Hội Thánh ý thức mạnh mẽ về sự hiện diện và hoạt động của Thánh Thần trong cộng đoàn của các tín hữu kitô. Hơn nữa, Hội Thánh còn ý thức đến hoạt động của Thánh Thần lớn mạnh trong môi trường ngoài kitô giáo.

Thật vui mừng khi thấy Chúa Thánh Thần hoạt động trong nhân loại, dưới nhiều hình thái và với nhiều mức độ khác nhau, vì tất cả điều gì tốt, điều gì chân thật, điều gì hoàn hảo, dù ở nơi đâu, cũng đều xuất phát từ nơi Ngài. Trong thời đại chúng ta, có một ít lạm dụng hoặc một ít điều quá khích "nhân danh Thần Khí", cần được lưu ý. Những quan niệm có sự chống đối giữa đặc sủng và cơ chế Hội thánh, giữa hoạt động cùa Thánh thần và sức mạnh của Lời Chúa, đã lỗi thời rồi.

Nhưng có còn sót lại chút nào trong các cộng đoàn của chúng ta không? Phải chăng cơ chế của Hội Thánh và hàng giáo phẩm không bị dễ dàng chống đối nhân danh một vài đặc sủng nào đó? Phải chăng đôi lúc người ta quên rằng ơn làm Tông Đồ, và từ đó cơ chế Hội thánh, là đặc sủng đầu tiên trong các đặc sủng?

Lễ Hiện Xuống cần đến một giải thích thẳng thắn, rõ ràng và đầy đủ về các đặc sủng trong Hội Thánh và về Chúa Thánh Thần như là nguồn mạch mọi ân sủng. Trong phạm vi thừa tác vụ của chúng ta hoặc trong giáo phận của chúng ta, có thể có một sự thái quá hoặc một lạm dụng "nhân danh Thánh Thần": gây chia rẽ vì các đặc sủng khác nhau. Tôi muốn quan tâm đặc biệt đến những đặc sủng trổi vượt được ban cho Hội Thánh ngày nay: các phong trào, các đoàn thể giáo dân, các hiệp hội dòng tu mới, những khởi xướng của những người có ơn "đặc sủng" hoặc những nhóm nhỏ, trong phạm vi hoạt động mục vụ của ta.

Đây là một tình trạng mới trong Hội Thánh, trong các giáo phận, giáo xứ, giữa nhiều phong trào đoàn thể và lẽ đương nhiên sẽ xảy ra những căng thẳng, hiểu lầm và bất cộng tác, và đôi lúc đưa đến chống đối nữa. Đứng trước hiện trạng như thế, nên nhớ rằng mọi đặc sủng phải dẫn đến hiệp nhất và phục vụ thiện hảo cho mỗi người và cho mọi người; tất cả là những chi thể trong cùng một thân thể là Hội Thánh. Lòng mến, hiểu tốt về người khác, cởi mở, sáng suốt, ưu tiên đặc lợi ích chung trên lợi ích cá nhân và đồng cảm với Hội Thánh luôn là những điều cần có.

LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
Ga 20, 19 - 23 
John Nguyễn

1. Bình an tâm hồn, điều kiện quan trọng để phát triển tâm linh
Trong Tin Mừng, sự bình an, đặc biệt sự bình an trong tâm hồn, được coi là một giá trị hết sức quan trọng. Khi Đức Giê-su sinh ra, muôn vàn thiên thần đã hát mừng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương" (Lc 2,14). Điều Đức Giê-su khuyên các môn đệ làm khi vào nhà mọi người để loan báo Tin Mừng là: "Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy" (Mt 10,12; x. Lc 10,5). Sau khi chữa lành bệnh cho ai, Đức Giê-su cũng chúc bình an cho người ấy (x. Mc 5,34; Lc 8,48). Khi gặp các môn đệ, nhất là những lần sau khi phục sinh, Đức Giê-su luôn luôn cầu chúc: "Bình an cho anh em!" (Lc 24,36; Ga 20,19; 20,26). Thánh Phê-rô và Phao-lô gọi Tin Mừng mà các ngài loan báo là "Tin Mừng bình an" (Cv 10,36; Ep 2,17; 6,15).

Trong cuộc sống đời thường, bình an là một điều kiện quan trọng để sống vui tươi hạnh phúc và để phát triển; trong đời sống tâm linh cũng vậy. Sự bình an trong tâm hồn là điều kiện quan trọng để đời sống tâm linh cũng như niềm vui nội tâm phát triển. Không có bình an trong tâm hồn, đời sống tâm linh không phát triển được. Và người có đời sống tâm linh phát triển thì tâm hồn luôn luôn bình an, bất chấp những xáo trộn, bất an do ngoại cảnh. Có bình an mới có hạnh phúc. Sự bình an mà Tin Mừng nói đến, mà Đức Giê-su cầu chúc hoặc hứa ban, chủ yếu là thứ bình an trong tâm hồn hơn là thứ bình an bị lệ thuộc vào ngoại cảnh. Bình an bên ngoài thuộc thể chất hay vật lý thì người thế gian cũng có thể ban cho ta được, nhưng họ khó có thể ban được bình an trong tâm hồn. Còn Đức Giê-su chủ trương ban sự bình an ấy: "Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian" (Ga 14,27). Sự bình an cũng như niềm vui nội tâm ấy "không ai lấy mất được" (Ga 16,22). Đó là một thứ bình an và niềm vui độc lập với ngoại cảnh, không vì khó khăn hay rắc rối bên ngoài mà bị mất.

Người Ki-tô hữu cần phải đạt được sự bình an và niềm vui nội tâm ấy. Để đạt được, họ chỉ cần thật sự tin tưởng vào Tin Mừng sống tinh thần Tin Mừng, vì Tin Mừng này là "Tin Mừng bình an". Sống tinh thần Tin Mừng là: sống yêu thương thật sự, tin tưởng và phó thác vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa, luôn tha thứ không để tâm chấp nhất lỗi lầm của bất kỳ ai, nhất là sống tinh thần tự hủy, không đặt quá nặng "cái tôi" của mình, nhận ra thánh ý Thiên Chúa luôn luôn khôn ngoan và đem lại nhiều ích lợi hơn ý riêng của mình, có tinh thần siêu thoát, không quá gắn bó với những thực tại chóng qua của trần gian...

2. Bình an nội tâm, điều kiện để lãnh nhận Thánh Thần
Trong bài Tin Mừng hôm nay, có lẽ không phải vô tình mà Đức Giê-su trước khi thổi hơi và ban Thánh Thần cho các tông đồ đã lập lại một lần nữa lời cầu chúc "Bình an cho anh em!". Như vậy phải chăng để nhận lãnh Thánh Thần, thì điều kiện quan trọng là phải có tâm hồn bình an? Và đồng thời bình an cũng lại là kết quả của một tâm hồn tràn đầy Thánh Thần (x. Gl 5,22)? Thực ra, điều kiện quan trọng để nhận được Thánh Thần là phải có tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân, phải có tâm hồn trong sạch. Chính vì thế mà Giáo Hội buộc những ai lãnh nhận bí tích thêm sức - tức lãnh nhận Thánh Thần - phải sạch tội, nghĩa là có ân nghĩa với Thiên Chúa, yêu mến Thiên Chúa. Mà một khi đã sạch tội, sống trong ân nghĩa với Thiên Chúa, sống theo tinh thần của Ngài thì đương nhiên sẽ có sự bình an trong tâm hồn.

Bình an này chỉ đến với hoặc ở với những ai xứng đáng với nó, tức những người sống theo tinh thần Tin Mừng là tinh thần yêu thương, tinh thần Tám Mối Phúc của Đức Giê-su (Mt 5,3-12), là lối sống siêu thoát: "Ai đáng hưởng bình an, thì bình an sẽ ở lại với người ấy" (Lc 10,6). Những người chạy theo tinh thần thế tục, coi trọng tiền bạc, danh vọng, địa vị hơn tình nghĩa, sống ích kỷ, vụ lợi, tham lam... không thể có được thứ bình an sâu xa này. Do đó, thay vì nói có ân nghĩa và tình yêu đối với Thiên Chúa là điều kiện để lãnh nhận Thánh Thần, có thể nói cách khác: bình an nội tâm là điều kiện để lãnh nhận Thánh Thần. Thánh Thần có thể được ban cho người không có bình an vật lý hay thể lý, nhưng chắc chắn không thể ban cho người không có bình an nội tâm.

Những ai đã cảm nghiệm được sự bình an và niềm vui nội tâm thật sự - nghĩa là thứ bình an lâu dài và thường xuyên - đều cảm thấy đó là một phần thưởng rất lớn và xứng đáng cho việc sống theo tinh thần Tin Mừng của mình, vì họ đã được phần nào nếm trước hạnh phúc thiên đàng ngay tại trần thế này, thứ hạnh phúc tự tại trong lòng họ, không ai lấy mất được. Đang khi những người khác cho họ là dại dột vì từ bỏ những lợi lộc và thú vui trần tục, thì họ lại cảm thấy chính những người theo đuổi những thứ chóng qua và dễ bị cướp đoạt ấy mới là dại dột. Những người này đã từ bỏ một cái gì quí giá, sâu xa và trường tồn để đổi lấy cái mau qua, dễ mất. Các tông đồ và các Ki-tô hữu tiên khởi đã suy nghĩ như thế vì thật sự cảm nghiệm được sự bình an và Thánh Thần Đấng ban bình an luôn ở với họ. Các ngài đã quí Thánh Thần và sự bình an ấy hơn cả mạng sống và mọi thứ của cải trần gian. Còn chúng ta, những kẻ đang mang danh Ki-tô hữu, thì sao?

3. Nhận lãnh Thánh Thần để được sai đi
Ngay trước khi thổi hơi để ban Thánh Thần cho các tông đồ, Đức Giê-su không chỉ chúc bình an, mà còn nói: "Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em". Như vậy, việc lãnh nhận Thánh Thần còn có một mục đích quan trọng là để làm công việc của Thiên Chúa. Trong sách Công Vụ Tông Đồ, ngay sau khi lãnh nhận Thánh Thần, các tông đồ lập tức làm việc cho Thiên Chúa: rao giảng Tin Mừng một cách mạnh dạn, không sợ sệt, và còn làm được nhiều điều kỳ diệu: các ngài nói một cách rất bình thường nhưng ai nấy đều nghe thấy các ngài nói ngôn ngữ của mình, các ngài còn có thể trừ quỉ ám hay chữa khỏi những bệnh nan y trong chốc lát...

Thánh Thần được ban xuống trên những ai xứng đáng lãnh nhận với nhiều quyền năng kèm theo, không phải để phục vụ cho lợi ích riêng của người ấy, mà vì lợi ích chung của mọi người: "Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung" (1 Cr 12,7). Vì thế, những ai được ơn đặc biệt của Thánh Thần đều phải dùng ơn ấy để phục vụ mọi người, nhất là để loan báo Tin Mừng, để thăng tiến đời sống tâm linh con người, để giúp ích cho Giáo Hội, cho xã hội và thế giới. Không ai lãnh nhận ơn Thánh Thần lại được phép dùng ơn ấy cho lợi ích riêng của mình: để được danh tiếng, được kính nể, nhờ đó được lên chức, được nắm quyền, được dồi dào tiền bạc, v.v... Những người có những ý hướng vị kỷ ấy cho dẫu có làm những công việc tốt đẹp, cũng không thể lãnh nhận Thánh Thần.

Vậy, muốn lãnh nhận Thánh Thần, chúng ta cần phải có "bụng chung", biết lo lắng cho công việc chung, của Giáo Hội hay xã hội, của tập thể hay cộng đoàn, của quê hương đất nước. Vừa tha thiết xin Thánh Thần đến với mình, vừa giữ tính ích kỷ, chỉ biết vun quén cho mình, không hề nghĩ đến người khác thì chẳng khác gì muốn thổi cơm mà lại đổ cát vào nồi. Thật là "công dã tràng", nhưng có biết bao Ki-tô hữu đang làm như vậy! Bạn có làm như vậy không? Đừng chờ đợi có ơn Thánh Thần rồi mới làm tông đồ, hãy hăng say làm tông đồ trước đi rồi tự động Thánh Thần sẽ được ban cho ta!

CẦU NGUYỆN
Tiếng Chúa nói với tôi: "Sự bình an của Cha rất quí giá, nên đã có biết bao người sẵn sàng hy sinh tất cả để có được sự bình an ấy! Họ là những người khôn ngoan. Vì chỉ có thể thứ bình an ấy mới làm cho họ hạnh phúc, thứ hạnh phúc mà thế gian không thể ban được, cũng không thể hủy hoại được. Thứ bình an ấy, Cha chỉ ban cho những người xứng đáng, những người dám thật sự sống Tin Mừng của Cha. Con chắc chắn sẽ được sự bình an ấy nếu con thật sự sống đúng những đòi hỏi của Tin Mừng. Con có dám sống như thế không? Nếu không dám thì con cũng đừng lấy làm lạ và thắc mắc tại sao Cha không ban thứ bình an ấy cho con!".

LỄ NGŨ TUẦN - MỘT CUỘC BIẾN ĐỖI MỚI
Ga 20, 1 9- 23
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT
Như lời cầu trong lòng tin, như lời tạ ơn chân thành phát xuất từ tận đáy thẳm sâu tâm hồn dâng lên Thiên Chúa Ba Ngôi. Lời cầu gói trọn tình thương trong mầu nhiệm chết, sống lại và lên trời của Đức Giêsu Kitô. Lời khẩn nguyện chân thành với đôi mắt rộng mở, với con tim đơn hèn, với đôi tay giơ cao trong hiến lễ ban chiều. Tội lỗi của con người đã được máu Chúa Kitô tẩy xoá để xứng đáng lãnh nhận ơn làm con Chúa phục sinh. Trong hương thơm ngào ngạt của hiến lễ sáng nay, với ánh nến phục sinh rực sáng, biểu trưng cho chính Chúa kitô phục sinh khải hoàn.Chúa đã về trời để thực hiện lời hứa ban Chúa Thánh Thần. Và hôm nay,biến cố ngày lễ Ngũ Tuần mang lại cho các tông đồ và Giáo Hội một luồng sinh khí mới, một cuộc lột xác, một cuộc đổi đời. Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta hãy tìm hiểu biến cố ngày lễ 50 như dấu chỉ muôn thời mở nước Thiên Chúa.

Chúa về trời vừa làm bỡ ngỡ tất cả các tông đồ và toàn dân Galilêa khi họ cứ đăm đăm nhìn lên trời với vẻ tiếc nuối đợi chờ. Chúa về trời để thực hiện lời hứa ban Chúa Thánh Thần để củng cố niềm tin của các môn đệ và tăng cường sức cho các tông đồ để các ông có lòng quả cảm, sự dũng mạnh mà ra đi rao giảng Tin Mừng. Sự kiện Chúa phục sinh ban Thánh Thần được tường thuật cách rõ ràng, tỉ mỉ trong sách tông đồ công vụ đoạn 2, 1-11 như sau:" Thần khí Chúa hiện xuống vào ngày lễ Ngũ Tuần, khi các môn đệ tụ họp nhau đầy đủ để cầu nguyện và suy nghĩ về biến cố Giêsu kitô về trời. Lúc ấy, Thánh Thần Chúa hiện xuống và tuôn đổ trên các môn đồ " ( Cv 2,1).

Những hình ảnh:"gió rào rào như cuồng phong, lưỡi lửa đậu trên mỗi người "( Cv 1, 2-3 ), ám chỉ Thần khí Thiên Chúa ngự xuống. Sự kiện Thánh Thần hiện xuống làm cho các môn đệ mạnh dạn và nói đủ thứ tiếng của muôn dân thiên hạ ( Cv 2,4 ).Các môn đệ lãnh nhận thần khí, thêm can đảm, sức mạnh tăng phi thường đến nỗi họ dạn dĩ rao giảng lời Chúa, làm cho mọi người đều sửng sốt và ngạc nhiên vì ai cũng nghe họ nói tiếng bản xứ mình " ( Cv 2, 5.11 ).Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi cộng đoàn tín hữu corintô đoạn 12 câu 3b đã đề cập tới vai trò của thần khí như sự duy nhất của Thiên Chúa, đến nỗi ai tuyên xưng Đức Kitô là Chúa đều do Thánh Thần hướng dẫn và dù con người sống được đặc ân nào thì cũng đều do thần khí độc nhất làm nên ( 1co 12, 11 ).Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, sống trong sự duy nhất của Ba Ngôi, nên sự kiện duy nhất của Thánh Thần, đánh dấu sự duy nhất của Thiên Chúa, đồng thời giúp cho các môn đệ của Chúa sức mạnh, lòng trung kiên và tình thương để rao giảng nước Thiên Chúa. Sự kiện Thánh Thần hiện xuống, còn được diễn tả cách khác trong Tin Mừng của Thánh sử Gioan 20, 19-23. Chúa hiện đến với các môn đệ khi các Ngài còn hoang mang, sợ sệt, Ngài chúc bình an cho các môn đệ và trao sứ vụ cho các Ngài, Ngài nói :"...Cũng như Cha đã sai Ta, Ta cũng sai các Ngươi " ( Ga 20,21 ) và Chúa Giêsu thổi hơi trên các môn đệ và nói với họ:" Hãy chịu lấy Thánh Thần. Các Ngươi tha tội cho ai, thì tội họ được tha. Các Ngươi cầm giữ tội ai, thì tội họ bị cầm giữ " ( Ga 20, 22-23 ).

Lễ Hiện Xuống của Tin Mừng Thánh Gioan và của Sách Tông Đồ Công Vụ chỉ có một ý, nói lên sự duy nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi : Cha, Con và Thánh Thần. Nên, thương khó, sống lại, lên trời và Thánh Thần Hiện Xuống là một mầu nhiệm phục sinh của việc tôn vinh Chúa Giêsu Kitô và của ơn cứu độ mà Ngài mang lại cho nhân loại. Chúa Thánh Thần là ân huệ cao cả nhất của phục sinh. Thánh Thần nối kết các môn đệ luôn mãi gắn chặt vào Chúa phục sinh, Ngài tái hợp nhất họ lại với nhau và chính Ngài đổi mới họ qua tác vụ tha tội cho nhân loại, cho tha nhân.Vì thế, qua biến cố Ngũ Tuần, các môn đệ nắm một sứ mạng quan trọng:" rao giảng Tin Mừng cho mọi dân, mọi nước". Công việc loan báo Tin Mừng của các tông đồ và Hội Thánh của Chúa ( Ga 4, 38 ), được chính Thánh Thần hướng dẫn và thúc đẩy ( Ga 1, 33; Cv 2, 1t ).

Thánh Thần hiện xuống đem lại cho các tông đồ nguồn sinh khí mới, biến đổi cả một Giáo Hội sơ khai đang rụt rè, sợ sệt và mệt mỏi. Thánh Thần đã làm cho các môn đệ từ tình trạng hoang mang, sệ sệt trở thành những chứng nhân anh hùng của Thiên Chúa. Nhờ Thánh Thần tuôn đổ trên các môn đệ, niềm tin của các Ngài mãnh liệt hơn, sứ mạng rao giảng Tin Mừng của các Ngài có ý nghĩa tốt đẹp hơn. Các Ngài không còn sợ chết, sợ bắt bớ, tù tội, mà các Ngài đã minh chứng cách anh hùng về sự kiện Giêsu Kitô chịu chết và phục sinh. Thánh Thần ấy cũng đã tuôn đổ trên Giáo Hội Chúa, muôn thời, muôn thế hệ. Vì " chỉ có một thân thể và một thần khí...chỉ có một Chúa...một Thiên Chúa thôi " ( Eph. 4, 4t ). Nhờ Thánh Thần, Giáo Hội và mọi người có thể dạn dĩ tuyên xưng Giêsu Kitô là Chúa và làm vinh hiển cho Thiên Chúa Cha ( Ga 12, 3 ) và chính trong thần khí mà chúng ta cầu xin Thiên Chúa ( Rm 8, 26 ) và gọi Ngài bằng chính tên của Ngài ABBA " CHA ". Thánh Thần Chúa luôn tác động trong Hội Thánh, trong mỗi người chúng ta, khiến ta có thể luôn là con Chúa và luôn được Ngài nâng đỡ, hộ phù.

Đức Giêsu Kitô Kitô chịu đau khổ, chịu chết, sống lại, lên trời và ban Thánh Thần để nói lên sự duy nhất của Hội Thánh ở trần gian. Là chi thể của Chúa phục sinh, ta hãy sống trong tình thương và tung vãi niềm tin yêu, sự bình an hoa quả của Thánh Thần cho mọi người, để muôn người nhận ra Chúa phục sinh nơi cuộc đời, nơi thế giới :

-Chúa phục sinh hiện ra, ban an bình cho các môn đệ và ân huệ phục sinh Chúa ban cho họ là niềm vui, hạnh phúc sung mãn. An bình và niềm vui là hoa quả của Chúa Thánh Thần ( Gal 5, 22 ).

-Là con Chúa, chúng ta cũng cố gắng chu toàn nghĩa vụ của người con thảo, trung thành với kinh nguyện hàng ngày, trung thành với các bí tích, phụng vụ hàng tuần. Ngoài ra, chúng ta còn cố gắng học hỏi Kinh Thánh, giáo lý, chăm lo đời sống đạo đức cho gia đình, cho con cái. Chu toàn đời sống kitô hữu mỗi ngày vì tất cả những điều đó là hoa trái của Chúa Thánh Thần.

Lạy Chúa Thánh Thần xin Ngài ngự đến...Xin Chúa ban cho các tín hữu, là những người tin cậy Chúa, được ơn bảy nguồn. Xin ban cho họ được huấn nghiệp nhân đức, được hạnh phúc cứu độ và được hoan hỉ đời đời.

QUYỀN NĂNG THA TỘI
Ga 20, 19 - 23  
Lm Bùi Quang Tuấn, CSsR
Trong một lần giáo huấn, Đức Giêsu đã quả quyết với các Tông đồ: "Sự gì các con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc. Sự gì các con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở" (Mt 18,18). Và hôm nay, sau ngày phục sinh, trong một lần hiện ra với họ, Chúa Giêsu đã phán: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai thì tội người ấy bị cầm lại". (Gn 19, 22-23). Khi nói lên lời đó, Ngài chính thức thiết lập Bí tích Giải tội, ủy thác cho Hội thánh quyền năng tha thứ và cầm buộc. Quyền năng nầy không chỉ được trao ban cho các Tông đồ nhưng còn thông chuyển đến các đấng kế vị là các Giám mục và những linh mục hiệp thông với các ngài.

Qua lời tuyên bố thiết lập Bí tích Giao hòa Chúa Giêsu muốn nói với các vị thừa tác viên đầu tiên và những người kế nghiệp rằng: một khi dưới đất họ đọc lên lời tha tội "Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần" thì lập tức trên trời Ngài sẽ chuẩn y, và dù tội con người có thẫm như máu đào cũng sẽ được biến đổi tinh trắng như bông.

Trong Tông thư Reconciliation and Penance, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã khẳng định: "Khơi dậy lòng sám hối và thay đổi tâm hồn nhân thế cùng trao ban cho con người tặng phẩm giao hòa chính là sứ mạng đặc thù của Hội thánh khi tiếp nối công trình cứu độ của Đấng Sáng Lập".

Có người đặt vấn đề: Tại sao lại phải đi xưng tội với một linh mục? Tới thẳng với Chúa không được sao?

Lẽ dĩ nhiên Đức Giêsu có trăm muôn ngàn cách tha thứ tội lỗi con người, nhưng phương cách Ngài "làm người" để cứu thế và "chọn con người" để thi hành quyền năng tha tội là một ý định tỏ tường. Tuy nhiên, bên cạnh ý định của Thiên Chúa cũng có đó một số lý do khiến cho việc xưng tội với một linh mục trở nên cần thiết.

Catholicism and Life có chỉ ra những lý do như sau:

Thứ nhất, vì "có những tội được tha và có những tội bị cầm" nên hối nhân phải xưng tội mình ra thì linh mục mới có thể xác định được tội nào được tha và tội nào bị cầm.

Thứ hai, việc xưng tội với một linh mục sẽ giúp cho con người trở nên khiêm tốn. Người ta dễ chừa tội hơn khi biết rằng nếu mình phạm, mình sẽ phải xưng.

Thứ ba, chắc chắn hối nhân sẽ đón nhận được ơn thánh hóa từ bí tích Hòa giải. Nhưng trước đó, họ sẽ nhận được những lời khuyên hữu ích từ vị linh mục, giúp họ thăng tiến hơn trên đường thiêng liêng.

Thêm vào đó, có không ít khuynh hướng nhiệm nhặt hay buông thả khiến cho có người quá khắt khe, thấy điều chi cũng tội, hay có người qua lỏng lẻo đến nỗi bao tội tày trời cũng cho là chẳng có gì ghê gớm. Thậm chí có khi còn biện minh để lương tâm thấy tội nhẹ đi hay không còn tội lỗi gì nữa. Vì vậy, nếu không có sự trợ giúp của vị linh mục làm sao người ta có thể quân bình với chính mình và chân thành với Thiên Chúa được.

Cuối cùng, khi ban ơn tha tội, vị linh mục thay mặt Chúa sẽ bảo đảm ơn tha thứ cho hối nhân. Đối với người đi "xưng thẳng" với Chúa, ai sẽ đoan quyết cho điều đó? Chắc chắn không ai hết.

Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã cảnh cáo những người cho mình không cần Bí tích Giải tội như sau: "Thật là điên rồ và kiêu căng đối với những ai tự ý coi thường phương thế trao ban ơn sủng và cứu thoát mà chính Chúa Giêsu thiết lập, nhất là đối với những kẻ cho rằng không cần đến Bí tích Giải tội để được tha tội".

Có nhiều người vì ý thức lệch lạc nên coi thường xưng tội, nhưng cũng có không ít người vì đánh mất cảm thức về tội nên không còn thấy cần đi xưng tội nữa. Thậm chí có người xấu hổ ngại ngùng khi phải thú nhận tội mình với kẻ khác. G.K. Chesterton, một nhà văn trở lại Công giáo đã viết: "Không việc gì phải xấu hổ về những dại dột của mình... Đã là con người không ai không có lỗi lầm, nhưng lỗi lầm kinh khủng nhất của con người là cho mình không có lỗi". Thánh Gioan Tông đồ viết thẳng thừng hơn: "Nếu ta nói: ta không có tội là ta tự lừa dối mình, và sự thật không có trong ta" (1 Gn 1,8). Trái lại, "Nếu ta xưng thú tội lỗi mình thì Người trung tín và công chính đủ để tha thứ tội lỗi cho ta,và tẩy ta khỏi mọi bất chính" (1 Gn 1,9).

Một điều luôn gắn liền với Bí tích Giải tội là "ấn tòa" mà tất cả mọi linh mục phải tuân giữ. Không một điều gì nghe trong toà mà cha giải tội lại được phép nói ra cho người thứ ba, dù tính mạng của mình bị đe dọa hay an ninh quốc gia được bảo toàn.

Lịch sử Giáo hội ghi nhận biết bao hình ảnh hào hùng của những con người dám lấy máu đào bảo vệ đức tin, trong đó cũng có hình ảnh của những linh mục dám lấy mạng sống bảo vệ "ấn tòa giải tội".

Cha Gioan Nepomucene là mẫu gương tiêu biểu trong thế kỷ 14. Ngài là cha giải tội của Hoàng hậu Jane, nước Bohemia. Vua Wenceslaus là người đa nghi và ghen tuông. Vì muốn biết Hoàng hậu đã làm điều chi thầm lén nên vua yêu cầu cha Gioan thuật lại những gì nàng xưng ra với Ngài.

Tưởng rằng quyền lực và uy thế của mình có thể khui được ít nhiều bí mật nơi miệng cha Gioan, nhưng vua đã lầm. Vị linh mục của Chúa nhất quyết không hé lộ bất cứ điều gì. Kết quả, ngài bị nhốt vào hầm tối, và một đêm kia, bị nhận nước cho đến chết.

Ba trăm năm sau, khi khai quật lăng mộ cha Gioan, những người hữu trách ngỡ ngàng chứng kiến thân thể ngài mục hoàn toàn, ngoại trừ chiếc lưỡi vẫn nguyên vẹn như lúc còn sống. Ngày nay, trên chỗ ngài bị giết người ta dựng lên một tượng đài, phía dưới chân có khắc dòng chữ: "Nơi đây vị chứng nhân của Ấn toà Giải tội đã nằm xuống".

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao ban cho các Tông đồ món quà vô giá là Chúa Thánh Thần và quyền năng tha tội. Sứ mạng của các ngài và những người kế vị sẽ là việc làm nảy sinh hoa trái cho toàn nhân loại. Biết khiêm tốn mở lòng đón nhận ơn tha thứ, con người sẽ tìm thấy bình an và sự sống đích thực, dù thần chết có đang hăm he rình chờ. Biết tìm đến cùng tòa cáo giải, tâm hồn sẽ được chữa lànhvà ngập tràn hân hoan.

CHÚA THÁNH THẦN SỨC MẠNH NÂNG ĐỠ ĐỨC TIN
Ga 20, 19 - 23  
Lm J.B. Nguyễn Minh Hùng

Nếu sự kiện Chúa lên trời kết thúc Phúc âm theo thánh Luca, thì chính sự kiện này lại mở đầu sách Công vụ Tông đồ. Không phải ngẫu nhiên ma Luca làm thế. Trong quyển Phúc âm của mình, Luca hé mở một phần suy nghĩ khi ghi lại câu nói của Chúa Giêsu ngay trước lúc Người lên trời: "Thầy sẽ gởi cho các con điều mà Cha Thầy đã hứa" (Lc 24, 49). Và trong Công vụ Tông đồ, điều mà Chúa Cha đã hứa trở nên hiệu lực: Chúa Thánh Thần đang hoạt động mạnh mẽ trong thế giới. Như vậy điều quang trọng đối với thánh Luca, có lẽ không phải kết thúc hay mở đầu một quyển sách. Trên hết, ngài muốn nói với chúng ta rằng: Chúa lên trời kết thúc một giai đoạn lịch sử mà trong đó lời hứa cứu độ đã được thực hiện và mở ra một giai đoạn lịch sử mới, bao gồm các hoạt động của Chúa Thánh Thần. Một trong các hoạt động đó là nâng đỡ đức tin chúng ta.

1. Người nâng đỡ đức tin trong chính ý thức truyền giáo nơi mỗi người
Điều này rõ ràng qua thái độ của các tông đồ. Thánh gioan kể lại: một buổi chiều Chúa nhật, các tông đồ tụ họp và "đóng kín" cửa lại. Ở đây hai từ "đóng kín" cần được nhấn mạnh. Vì các ngài không "đóng kín" để tránh sự ồn ào, không "đóng kín" để tạm quyên đi những lo toan đời thường, không "đóng kín" vì gặp gỡ Thiên Chúa. Nhưng "đóng kín" vì "sợ người Do thái". Và bởi "sợ", nên dù "đóng kín", các thánh tông đồ vẫn ở trong tâm trạng rối bời.

Nhưng khi Chúa Thánh Thần ngự đến, tâm trạng rối bời này bị phá vỡ. Ý thức truyền giáo phát triển từ con số không, bỗng vượt quá sức người bé bỏng của các tông đồ, và tỷ lệ thuận với lòng can đảm phát xuất từ một đức tin dũng mãnh: Tin vào Đấng phục sinh. Từ đây, chính Thánh Thần tác động, làm cho các ngài mạnh dạn loan báo Lời Chúa, dám sống, dám chết cho đức tin dũng mãng ấy.

Lẽ nào, sau khi nhận ra thái độ truyền giáo của các thánh tông đồ, chúng ta lại trở về với cuộc sống đời thường mà không có gì thay đổi? Ngay từ bây giờ, ta hãy sắm cho mình một ý thức truyền giáo bằng chính trách nhiệm hằng ngày của ta: đó là trách nhiệm của một linh mục, một người buôn bán, một người dạy học, một công nhân, một học sinh... Ta cũng có thể thể hiện tinh thần truyền giáo trong những việc làm hết sức nhỏ bé như: tha thứ cho một người mất lòng ta, dắt một cụ già qua đường, chào hỏi những người ta quen biết...

Nếu ta có một ý thức truyền giáo trong trách nhiệm và trong những việc làm từ ngày này qua ngày khác như thế, không những đức tin không bị lung lạc giữa các môi trường ta sống, mà còn vững mạnh và có sức thu hút nữa. Bởi vì Chúa Thánh Thần đang hoạt động nơi ta, làm cho nó trở thành khí cụ đưa công việc truyền giáo thầm lặng của mọi người đạt hiệu quả.

2. Chúa Thánh Thần nâng đỡ đức tin trong những hoàn cảnh khó khăn của đời sống
Ai mà không ít là một lần thấm thía nỗi đau, nỗi bất hạnh? Đó có thể là cái chết bất ngờ của một người thân, một cơn bạo bệnh, một tình yêu bị phụ bạc... Đó cũng có thể là cái nghèo, cái dốt, là đứa con chưa ngoan, vợ chồng thiếu tin tưởng nhau... Trong hoàn cảnh khó khăn như thế, đức tin bị chùn bước chăng?

Vì tính người mỏng dòn, nên đức tin cần được tôi luyện. Các thánh tông đồ cũng từng được tôi luyện như thế. Đức Giêsu, người mà Phêrô đại diện anh em mình tuyên xưng là Con Thiên Chúa; người đã từng hiển dung trước mặt Phêrô, Gioan, Giacôbê; người đã từng làm phép lạ như "Đấng có uy quyền" trước mặt các ngài, bây giờ chỉ là một người bị đánh bại thê thảm. Trong hoàn canh đó niềm hy vọng của các tông đồ như một tim đèn chực tắt. Đức tin đang lụn dần.

Khi Chúa Thánh Thần đến, đức tin các tông đồ trở nên mạnh mẽ. Người không chỉ nâng đỡ cách nhất thời, nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào mà các ngài gặp phải như: bị chống đối, bị sỉ nhục, bị tù đày, nhất là bị sát hại.

Ngày nay Chúa Thánh Thần vẫn ở với ta. Tôi có kinh nghiệm thế này: trong những hoàn cảnh xem ra bi đát nhất, tôi lại được ơn nâng đỡ nhiều nhất. Khi biến cố ấy qua rồi, tôi thường nhìn lại, và rất nhiều lần phải tự thốt lên: ôi tình yêu nhiệm mầu!

Tôi đồng cảm rất sâu với tư tưởng của Hội đồng Giám mục Việt Nam trong bản góp ý cho tài liệu làm việc của Thượng Hội đồng Giám mục Á châu. Tư tưởng đó là: "Hội Thánh tại Á châu phải trở nên một Giáo Hội không quyền lực". Nhìn vào Hội Thánh Việt nam, tôi thấy rất đúng! Nhưng cũng rất lạ lùng, vì một Hội Thánh như thế lại có sức sống căng tràn và đức tin vững vàng.

Cũng thế, chính tôi tận mắt hoặc nghe kể lại những cảnh đời rất bế tắc, nhưng niềm tin yêu lại sáng ngời. Có ai đã từng chứng kiến cảnh một cô gái trẻ bị bệnh ung thư sắp chết, an ủi người mẹ đang nứt nỡ chưa? Đó là một giáo lý viên. Thấy tôi đến thăm, cô nhờ tôi nói chuyện với mẹ cô để xoa dịu nỗi đau của bà. Cô hứa, trước tòa Chúa, cô sẽ cầu nguyện cho gia đình cô, cho cha sở, cho tôi và cho lớp giáo lý mà cô đang phụ trách. Trong tình cảnh đó, tôi chỉ còn biết im lặng đón nhận bài học về đức tin mà cô vừa giúp tôi nhận ra.

Bởi đâu một Giáo Hội còn trẻ trung, còn thiếu thốn nhiều mặt như Giáo Hội tại Việt Nam lại căng tràn sức sống? Bởi đâu nơi một cô gái yếu mềm lại ẩn chứa một đức tin can đảm đến thế? Chính Chúa Thánh Thần tạo nên tất cả. Đấng "Phù Trợ" mà Chúa Giêsu ban đang âm thầm nâng đỡ đức tin của Hội Thánh, của mỗi người. Chỉ cần biết mở lòng ra, chỉ cần khiêm tốn một tí, và đừng ở lỳ trong sự cứng cỏi, chúng ta sẽ khám phá ra sức mạnh của Chúa Thánh Thần đang tác động nơi niềm tin của mình. Đành rằng ai cũng sợ đối đầu với đau khổ, nhưng đau khổ lại là phương thế rèn luyện đức tin. Tin rằng Chúa Thánh Thần sẽ không để chúng ta chiến đấu một mình, Người nâng đỡ như đã từng nâng đỡ các thánh tông đồ khi xưa.

Lời của Đấng Phục sinh nói với chúng ta: "Bình an cho anh em". Xin Ngài ban ơn bình an đó cho chúng ta, vì ơn bình an rất cần cho những người sống đời truyền giáo. Ơn bình an cũng rất cần cho những biến động, những thăng trầm của cuộc đời. Xin dâng tất cả lên Chúa Thánh Thần, Đấng là sức mạnh nâng đỡ đức tin chúng ta.

LỄ HIỆN XUỐNG MỚI
Ga 20, 19 - 23  
Lm Augustine, S.J

Lần đầu tiên thành viên của 56 phong trào đoàn sủng và cộng đoàn mới của Giáo Hội tập họp lại theo lời mời của vị Đại Diện Chúa Kitô. Đức Gioan Phaolô II muốn cuộc tập họp khổng lồ này chứng tỏ để mọi người thấy Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục hiện xuống và đang canh tân bộ mặt trái đất.

Hôm ấy là thứ bảy 30 tháng 5, 1998, ngày áp lễ Hiện Xuống, có tới nửa triệu người đến từ khắp nơi trên thế giới. Riêng Âu Châu chừng 2,000 xe buýt chở khách tới Roma. Hàng triệu người coi truyền hình theo dõi biến cố này, qua 20 hệ thống truyền thông. Chưa bao giờ công trường Đền Thờ thánh Phêrô lại chật ních người tới mức đó, kể từ Năm Thánh 1950 đến nay.

Nhưng có phải chính Chúa Thánh Thần đã khơi dậy những phong trào đoàn sủng và những cộng đoàn mới này của Giáo Hội? Ta hãy thử coi một số trường hợp.

Cộng Đoàn Thánh Êgiđiô
CỘNG ĐOÀN THÁNH ÊGIĐIÔ là cộng đoàn từng tổ chức những buổi cầu nguyện do các vị lãnh đạo tôn giáo vì hoà bình thế giới, tại Assidi và ở nhiều nơi khác. Cộng đoàn này còn tổ chức những cuộc hoà đàm để chấm dứt chiến tranh tại Libăng, Ensavađo, Guatemala, Anbani, Acmêni, Angiêri, Etiôpi, Namibia, Môgiambic, v.v... Thế mà người khởi xướng, 30 năm trước đây, chỉ là một học sinh trung học cùng với các bạn trẻ 17-18 tuổi. Họ rắp tâm sống Tin Mừng và phục vụ người nghèo. Cậu học sinh lãnh đạo nhóm tên là Anrê Đinh Khang Đệ (Andrea Ricardi), nhưng số người nhập nhóm nay đã lên tới 15,000 người thuộc đủ mọi lứa tuổi và hiện có mặt trên 20 quốc gia. Sở dĩ họ tự xưng là Cộng Đoàn Thánh Egiđiô, vì chính tại ngôi thánh đường nhỏ này ở Rôma, họ từng hẹn nhau tới họp. Ba điểm đặc sắc cơ bản của cộng đoàn này là cầu nguyện, tình bạn và phục vụ người nghèo. Ở đâu cộng đoàn này có mặt cũng đều có những chương trình phục vụ người nghèo như, bếp nấu cháo cho người nghèo, các bà săn sóc trẻ em túng thiếu nơi xóm nghèo, chương trình kèm học sinh sau giờ học, chương trình tự nguyện săn sóc bệnh nhân tại gia hoặc tại bệnh viện.

Lý do Cộng Đoàn Thánh Egiđiô tham gia sinh hoạt liên tôn như tổ chức những buổi cầu nguyện tại Asidi, Nagasaki, v.v... hoặc tham gia sinh hoạt ngoại giao vì hoà bình thế giới, chính là để bảo vệ người nghèo mà thôi. Có thể nói, chiến tranh là mẹ đẻ ra khổ đau và chết chóc trên thế giới. Trong chiến tranh, chỉ có người giàu được hưởng lời nhờ bán vũ khí và những dụng cụ khác, còn người nghèo chỉ là nạn nhân. Thậm chí tôn giáo từng bị lạm dụng gây chết chóc tang thương cho dân nghèo. Do đó nhu cầu bảo vệ người nghèo khỏi chiến tranh bằng những sinh hoạt ngoại giao và những buổi cầu nguyện vì hoà bình thế giới.

Phong Trào FOCOLARE
Phong trào FOCOLARE khởi đi từ một kinh nghiệm thần bí. Một cô sinh viên sư phạm nhân dự đại hội Công Giáo Tiến Hành tại thành phố Loretô, miền Nam Italia, chỉ muốn vào nhà thờ cầu nguyện một chút. Cô sinh viên 19 tuổi này tuyệt nhiên không tìm cho mình một bậc sống hoặc một đường tiến thân nào. Thế mà khi bước vào căn nhà Nadarét trong lòng nhà thờ Loretô, cô Chi Lan Lưu Bích (Chiara Lubich) bỗng thấy mình như bị tràn ngập trong một mầu nhiệm lớn lao. Mầu nhiệm nào? Mầu nhiệm thánh gia thất Đức Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse. Tai cô như được nghe tiếng nói bập bẹ của cậu bé Giêsu và tiếng hát của Mẹ Maria vọng lại từ bốn bức tường. Công trình của thánh Giuse cũng hiển hiện trước mắt cô.

Thời gian đại hội kéo dài, ngày nào Chi Lan cũng một mình trở lại căn hộ Nadarét thân thương ấy với cũng một cảm xúc mạnh, cũng một ấn tượng sâu, như thể con người cô hoàn toàn ngập chìm giữa bao hồng ân từ trời cao.

Ấn tuợng nổi bật trong thánh lễ kết thúc đại hội ấy là đám đông nữ sinh viên đội lúp trắng tràn ngập nhà thờ Loretô. Cô Lưu Bích được cho biết từ nội tâm rằng đó là hình ảnh về đám đông sẽ theo lối sống của cô. Lối sống nào? Khi cha sở họ đạo nơi cô dạy học, hỏi cô về kết quả đại hội, cô liền thưa: "Con đã tìm ra lối sống cho con." "Vậy là con sẽ lập gia đình?" "Thưa không." "Con sẽ vào dòng tu chăng?" "Thưa không." "Con sẽ sống độc thân giữa đời?" "Thưa không." Cha sở hoàn toàn không hiểu gì về lối sống trinh tiết giữa đời mà lại khăng khít trong liên đới cộng đoàn, là lối sống mà Đức Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse đã sống.

Điều gây ngạc nhiên là bốn năm sau đó chẳng có gì xảy ra như hậu quả của kinh nghiệm thần bí nói trên, nhưng khi nó xảy ra thì lại ở giữa một hoàn cảnh rất bất lợi, tức là giữa những cuộc dội bom, bất kể đêm hay ngày, vào cuối thế chiến thứ hai tại Italia. Chi Lan và các bạn mỗi khi chạy đến hầm trú đã không quên mang theo sách Phúc Âm. Chính nơi hầm trú và giữa cảnh chiến tranh tàn khốc, họ được ban cho ơn nhận biết Thiên Chúa là Tình Yêu như lý tưởng duy nhất đời họ. Thâm tín ấy mãnh liệt đến nỗi đời họ được lôi kéo tham dự vào Tình Yêu của chính Thiên Chúa. Tới nay đã hơn nửa thế kỷ rồi thế mà họ vẫn sung sướng cam kết với nhau lời cam kết "Em yêu chị tới mức sẵn sàng chết vì chị" hoặc "Chị yêu em tới mức sẵn sàng chết vì em." Cũng tình yêu ấy thúc đẩy họ phục vụ tha nhân.

Những bạn đầu tiên của cô Lưu Bích chẳng phải là những con người nổi nang, như Nga (Natalia Dallapiccola), cô gái mồ côi cha từ tuổi 16 nên phải lo vừa đi học vừa đi làm; hoặc Đỗ Thị Ri (Doriana Zamboni), cô học trò không được lên lớp nên đến với cô Lưu Bích ban đầu chỉ để được kèm mà thôi v.v... Nhưng chính qua những con người loại đó mà ngọn gió Tin Mừng do Chúa Thánh Linh thổi cách mãnh liệt. Tại hầm trú họ đọc Tin Mừng chỉ để đưa ra thực thi. Kết quả thật lạ lùng. Những người theo gương họ ùn ùn kéo đến ban đầu từ 58 thôn xã nhỏ xung quanh thành phố Tân Đô tức Trentô. Khi chiến tranh chấm dứt năm 1945, đám người ấy mà con số lên tới 500, phải tìm đến họp tại phòng họp của nhà Dòng Tên tại Tân Đô thay vì tại nhà các cha Phanxicô như trước kia họ vẫn họp.

Ban đầu họ chỉ kể mình là Kitô hữu có bổn phận thực thi Phúc Âm nhưng Chúa an bài để Focolare trở nên như một cây xum xuê hiện nay với hơn 100,000 thành viên nòng cốt và hơn 2 triệu thân hữu đang góp phần xây dựng nền văn minh tình yêu hướng tới thế giới hiệp nhất.

Rao giảng Tin Mừng và huấn luyện các Kitô hữu vững theo bề sâu
Điều xảy ra với Cộng Đoàn Thánh Egiđiô và Focolare minh họa lời Đức Gioan Phaolô II nói ngày 30 tháng 5, 1995. Ngài nhắc nhở mọi người có mặt về lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống đầu tiên có Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu và các môn đệ của Người tại nhà Tiệc Ly. "Điều đã xảy ra 2000 năm trước đây tại Giêrusalem thì nay như được làm mới lại nơi công trường Đền Thờ Thánh Phêrô như tâm điểm của Kitô giáo." Điều mà Đức Thánh Cha nhấn mạnh là cần phải nhiệt thành rao giảng Tin Mừng, đồng thời huấn luyện những Kitô hữu vững vàng theo bề sâu. Ngài nói rằng chính các phong trào và các cộng đoàn mới của Giáo Hội là một đáp trả do Chúa Thánh Thần khơi dậy để đối phó với thách đố gay cấn ở cuối thiên niên kỷ thứ hai. Vậy Đức Gioan Phaolô II hướng về phía các thành viên các phong trào và các cộng đoàn mới của Giáo Hội và nói với họ: "Chính anh chị em là một đap trả sống động với thách đố cuối thiên niên kỷ thứ hai." Và để kết luận, ngày nói với họ: "Hôm nay, từ công trường này, Đức Giêsu kêu gọi từng người giữa anh chị em khi tuyên bố: các con hãy đi đến với thế giới và hãy rao giảng Tin Mừng cho mọi thọ tạo (Mc 16,15). Quả thật, Chúa Giêsu tin tưởng nơi mỗi người anh chị em và Giáo Hội cùng chung một niềm tin tưởng đó."

Vậy bài Tin Mừng hôm nay (Ga 20,19-23) nói về Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra và ban Thánh Thần xuống trên các môn đệ xưa không thể xa lạ với những điều được người kế vị tông đồ Phêrô xác chuẩn như vừa nói.

Xưa Đức Kitô sống lại đến với các môn đệ để ban cho họ ơn bình an (20,19-21) và niềm vui (20,20). Cở sở của bình an và niềm vui chính là tình yêu toàn thắng của Đức Kitô như được ghi lại nơi tay và cạnh sườn Người (c.20).

Nhưng Đức Giêsu phục sinh đến không chỉ để làm cho các môn đệ được vui và bình an. Những ơn ấy phải tràn ngập thế giới. Lý do vì các môn đệ tiếp nối cùng một cuộc sai phái khởi đi từ Đức Giêsu: "Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em" (c. 21). Sức sống mới mà các môn đệ đón nhận từ Đấng Phục Sinh là Thánh Thần mà Đức Giêsu thổi trên các ông (c.22). Xưa trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào con người (St 2,7) và ban sự sống, thì nay Đấng Phục Sinh cũng thổi Thần Khí của Người trên các môn đệ. Đó là công cuộc tạo thành mới do Đức Kitô Phục Sinh nhờ Thánh Thần và qua các môn đệ.

Các môn đệ đón nhận sự sống mới của Đấng Phục Sinh nhờ Chúa Thánh Thần nên đã làm chứng và loan Tin Mừng đó cho thế giới. Giáo Hội tiếp nối cũng công trình đó. Cho nên cuộc tập họp thành viên của 56 phong trào đoàn sủng và cộng đoàn mới của Giáo Hội ngày 30 tháng 5,1998 thực là hình ảnh của một lễ Hiện Xuống được nối dài.

NGÔN NGỮ CỦA TOÀN CẦU
Ga 20, 19 - 23
 
Lm. Nguyễn ngọc Long

Ngôn ngữ là phương cách thông tin, biểu lộ tâm tình cho nhau và dùng để liên lạc với nhau trong cuộc sống. Bất cứ dân tộc nào trên mặt đất cũng đều có ngôn ngữ cho mình. Trong niềm tin đạo giáo chúng ta dùng ngôn ngữ gì để bày tỏ tâm tư của mình với Chúa? Và Chúa dùng ngôn ngữ gì để thông tin nói với ta?

Nói với Chúa chúng ta dùng ngôn ngữ của ta, vì Ngài hiểu được hết. Còn khi Chúa nói với chúng ta, Ngài cũng dùng ngôn ngữ của chúng ta. Nhưng khi nói loan truyền lời Chúa cho các dân tộc khác nhau về ngôn ngữ, ngôn ngữ gì được xử dụng để mọi người có thể nghe hiểu được?

Kinh Thánh thuật lại phép lạ ngày lễ Chúa Thánh hiện xuống như sau: Gió thổi đến và lửa chiếu dọi ánh sáng cùng mang hơi nóng trên các Tông Đồ. Đó là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, người từ nay thay Chúa Giêsu cùng đồng hành với họ và trong Hội Thánh Công Giáo. Khi Chúa Thánh Thần xuống trên các Tông Đồ, Ngài mang đến cho các Ông luồng gió mới. Luồng gió mới này làm các ông phấn khởi tung cửa đứng ra trước công chúng nói về Chúa Giêsu là con Thiên Chúa đã sinh ra, đi khắp nơi rao giảng tin mừng nước Thiên Chúa, chữa lành bệnh tật cho người đau ốm, mang niềm an ủi cho người bị bỏ rơi, bị đau khổ, sau cùng đã chết và đã sống lại. Các ông được ơn lạ nói những thứ ngôn ngữ của tất cả những người hôm đó hiện diện nghe các ông. Chúa Thánh Thần ban cho các Tông Đồ ân đức nói thứ ngôn ngữ mà tất cả mọi người cùng hiểu được, bất kể họ đến từ xứ sở nào...

Phép lạ này nói lên quyền năng của Thiên Chúa thực hiện nơi con người. Ngày xưa, con người cũng đã có lần toan tính xây cây tháp Babel chạm tới tầng trời, nhưng Thiên Chúa đã phá huỷ toan tính kiêu ngạo của họ bằng các ngôn ngữ khác nhau. Vì ngôn ngữ bất đồng, họ không thể thông hiểu nhau, nên công trình đó đã tan hoang. ( St 11, 1-9)

Máy vi tính ngày nay là phát minh mới lạ của con người. Máy cũng có một thứ ngôn ngữ riêng. Ngôn ngữ của máy vi tính xây dựng trên cơ sở lý luận toán học và sự chính xác. Ngôn ngữ máy vi tính giúp con người rất nhiều trong việc thông tin và trao đổi liên lạc với nhau nhanh chóng.

Trong đời sống, con người chúng ta dùng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ như Anh, Pháp, Việtnam... cho nhu cầu thông tin liên lạc với nhau. Nhưng có một thứ ngôn ngữ ngay từ thuở sơ sinh ai chúng ta cũng có, cũng biết: ngôn ngữ tình yêu, ngôn ngữ vỗ về âu yếm, ngôn ngữ sưởi ấm tâm hồn. Khi ngôn ngữ này được nói ra bằng âm thanh hay biểu lộ qua nét mặt nụ cười của ông bà cha mẹ, anh chị em, tất cả mọi người đều hiểu được cả.

Ngôn ngữ tình yêu này phát xuất từ trái tim tâm hồn, nên gọn nhẹ trong sáng và truyền đi tín hiệu nhanh chóng nhậy cảm ngay từ những giây phút đầu tiên của sự sống một con người. Qua ngôn ngữ này mối liên lạc tình người được xây dựng từ cha mẹ tới con cái còn thơ bé, con người với nhau trong đời sống, Thiên Chúa với công trình sáng tạo của Ngài trong hoàn vũ và con người với Thiên Chúa.

Ngôn ngữ này không viết bằng mẫu tự A B C hay hình vẽ biểu tượng như chữ Nho, chữ Thailan, chữ Arập... cũng không bằng những dấu hiệu chương trình lý luận toán học như ngôn ngữ của máy vi tính. Nhưng ngôn ngữ này từ bẩm sinh nằm ẩn sâu trong trái tim tâm hồn mỗi người. Mỗi người đều có chương trình ngôn ngữ này và đều có thể sử dụng được chương trình này.

Dù là tiếng mẹ để, ta cũng cần phải học, phải mài dũa, phải sửa đổi mới hoàn chỉnh trong sáng văn phạm cùng câu cú. Dù là ngôn ngữ đã được hệ thống và cài sẵn chương trình chạy trong máy vi tính, người sử dụng máy cũng vẫn phải học cách sử dụng điều khiển sao cho đúng không bị sai lầm.

Những sai lầm trong tiếng mẹ đẻ và trong ngôn ngữ máy vi tính là do con người sử dụng gây ra. Và chúng ta phải điều chỉnh lại cách sử dụng cho đúng. Trong ngôn ngữ tình yêu cũng thế, khi chương trình ngôn ngữ này chạy không đúng là do con người gây ra. Thiên Chúa ghi trong tâm hồn mỗi người chương trình ngôn ngữ này, nhưng khi sử dụng hoặc là con người không dùng đúng chương trình này hoặc là muốn sử dụng chương trình sai riêng của mình. Vì thế sinh ra sai lầm và không còn truyền đi tín hiệu thông tin, hiểu nhau được nữa.

Những sai lầm này là thiếu tình liên đới với nhau, khi chỉ chú ý đến quyền lợi riêng tư của mình. Ngôn ngữ tình yêu kêu gọi sự hiểu biết thông cảm với nhau, mang niềm vui, niềm hy vọng, sự tha thứ làm hoà và tình liên đới trong cuộc sống.

Ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống năm xưa, các Thánh Tông Đồ đã tìm ra được ngôn ngữ chung cho hết mọi người. Ngôn ngữ này do Chúa mang đến và ghi khắc trong tâm hồn con người. Qua ngôn ngữ này ai cũng hiểu được tin mừng ơn cứu độ của Chúa và cùng nhau tìm về với Chúa, với nhau là anh em con một Chúa: ngôn ngữ tình yêu.

Chúa Thánh Thần mang từ trời cao đến cho con người ngôn ngữ của Chúa Cha, ngôn ngữ này khác gì là "tiếng mẹ đẻ" của con người: ngôn ngữ tình yêu - ngôn ngữ của toàn cầu.

ÁNH SÁNG CHÚA THÁNH THẦN
Ga 20, 19 - 23 
Sr Magdalena Oanh, MTGQN

Có một báu vật được mọi thời đại trân trọng-kiếm tìm đó là Tình Yêu. Con người có thể sống nghèo, sống với tật nguyền, sống phận vô danh, nhưng con người không thể sống trọn chữ "người" khi họ không cảm nhận tình yêu trao dâng, tình yêu nhận lãnh. Chính vì thế mà trước lúc rời các môn đệ trở về cùng Chúa Cha, Đức Giêsu đã ân trao báo vật Tình Yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. "Ngài thở hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần." (Jn 20,22). Thật vậy, Chúa Thánh Thần là Tình Yêu vỉnh cửu Thiên Chúa hằng tuôn ban trên nhân loại, đặc biệt cho thời đại chúng ta đang sống. Thời đại được mệnh danh: thời đại của Chúa Thánh Thần. Vậy bằng cách nào chúng ta nhận ra ơn Chúa Thánh Thần soi dẫn trong từng biến cố cuộc đời?

Đọc lại Tin Mừng hôm nay, chúng ta sẽ dần khám phá ra lộ trình của Chúa Thánh Thần đến với môn đệ xưa. Khi hiện ra, Chúa Giêsu "chúc bình an" cho môn đệ. Đức Giêsu muốn chuẩn bị tâm hồn các môn đệ trước khi mời họ cùng cộng tác với Ngài tiếp nối sứ mạng cứu độ, để ngay sau đó Ngài trao ban Thần Khí cùng lời truyền dạy : "Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ" (Jn 20, 23). Như vậy, để nhận được ơn Chúa Thánh Thần đòi buộc chúng ta hai điều kiện cốt lõi: tâm hồn bình an và lòng nhiệt tâm dấn thân vì Nước Chúa.

Tâm hồn bình an trong Đức Giêsu không dựa vào sự an ninh vật chất, điều kiện sống, sự an nhàn thư thái. Bình an của Đức Giêsu là sự tĩnh lặng sâu thẳm của một tâm hồn khiêm hạ đang sẵn sàng đón nhận ý Chúa nơi từng biến cố. Tâm hồn an bình thật loại trừ những tư kiến, tự lợi hẹp hòi, dễ dàng đón nhận thiện ý từ tha nhân, biết trọng tài năng đa dạng của những người cộng tác, như các chi thể trong cùng nhiệm thể Đức Kitô.

Bên cạnh đó tâm hồn an bình thật còn tiềm ẩn khát vọng hướng thiện. Khát vọng đốt cháy trần gian bằng tình yêu tự hiến của Đức Giêsu. Khát vọng này trở thành hơi thở của Đức Giêsu Phục Sinh. Hơi thở đem lại Ngôi Ba Cực thánh, Đấng khai sinh Giáo Hội trong sự sống mới, "Thần khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung" ( 1Cor 12,7). Như vậy, chính nhờ chìa khóa an bình và lòng nhiệt thành vì Nước Chúa, chúng ta sẽ mở tung cách cửa tâm hồn đón nhận ánh sáng soi dẫn của Thần Khí Chúa, để Ngài đồng hành với chúng ta xuyên qua nghịch cảnh phận người cách bền bỉ, tín trung và đầy lòng yêu mến.

Lạy Chúa Thánh Thần,
Xin là ngọn lửa hồng đến tiêu hủy những thói hư, ý riêng trong con, trong cộng đoàn Giáo Xứ, và thắng sáng đức cậy - đức mến, để qua đó ánh sáng Đức Giêsu Phục Sinh được tỏa lan cho môi trường chúng con sống.

Xin là hơi thở Phục Sinh của Đức Giêsu đến dạy chúng con biết sống quảng đại, thuận hòa và liên đới với nhau xây dựng Giáo Hội Chúa ngày thêm thánh thiện.

Xin là cánh chim hòa bình trong lòng chúng con, trong lòng thế giới để hướng dẫn nhân loại đến chân trời công lý hòa bình đích thực
. Amen.

VIỆC LÀM CẢN TRỞ ƠN CHÚA THÁNH THẦN
Ga 20, 19 - 23

Lm Trần Bình Trọng

Có thể nói Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là ngày Sinh nhật của Giáo Hội và cũng là Giáo Hội chính thức lãnh sứ vụ rao giảng Tin mừng cứu độ. Trước ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, ta thấy cái cảnh một môn đệ bán Thầy, môn đệ khác chối Thầy, số còn lại bỏ chạy trốn. Sau ngày Lễ Hiện Xuống, các tông đồ trở nên hăng say, làm chứng cho việc Chúa sống lại và rao giảng Tin mừng cứu độ, mà không còn sợ hãi. Vậy thì cái động lực nào đã khiến có sự thay đổi đó?

Sách Tông Đồ Công Vụ ghi lại: Các tông đồ được đầy tràn Chúa Thánh Thần (Cv 2,4), và tiếp tục rao giảng Lời Chúa cách tự tin (Cv 4,31) và với quyền năng Chúa trao ban, họ làm chứng cho việc Chúa sống lại (Cv 4,33) và làm nhiều phép lạ cho người ta tin tưởng (Cv 5,12). Không những Chúa Thánh Thần biến đổi đời sống các tông đồ, mà còn biến đổi đời sống của những người nghe lời họ giảng dạy. Sách Tông Đồ Công Vụ ghi lại: Tất cả mọi kẻ tin đều sống hòa hợp với nhau và để mọi sự làm của chung. Họ bán tài sản gia nghiệp rồi phân phát cho mỗi người tùy theo nhu cầu từng người (Cv 2,44-45). Hằng ngày họ hiệp nhất một lòng một ý cùng nhau ở trong đền th (Cv 4,33). Mỗi ngày Chúa cho gia tăng số những người được cứu rỗi (Cv 2,47). Có ngày thêm chừng năm ngàn người gia nhập đạo Chúa (Cv 4,4).

So sánh những hoạt động của Chúa Thánh Thần thời Giáo Hội sơ khai với thời nay, nhiều người tự hỏi: Tại sao Chúa Thánh Thần không làm những việc đại thể trong thời đại ta đang sống? Rồi họ kết luận: Thời đại ta đang sống không phải là thời đại Chúa Thánh Thần. Thiết tưởng hôm nay mỗi người phải loại trừ ra khỏi đầu óc cái quan niệm cho rằng thời đại ta đang sống không phải là thời đại Chúa Thánh Thần.

Trước hết không có chuyện bỏ rằng thời đại nọ là thời đại Chúa Thánh Thần, còn thời đại kia không phải là thời đại Chúa Thánh Thần. Cái thời đại mà người ta cho rằng không phải là thời đại Chúa Thánh Thần là tại người ta chứ không phải tại Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần bao giờ cũng hiện diện trong ta hay xung quanh ta. Nếu ơn Chúa Thánh Thần không thấm nhập vào tâm hồn ta là vì ta đã đóng cửa tâm hồn, không cho Chúa vào hoặc ta làm tắc nghẽn ơn Chúa Thánh Thần ở trong ta. Ta làm cho ơn Chúa Thánh Thần bị sa lầy bằng những chướng ngại vật trong đời sống như khi ta làm việc thờ phượng đạo đức một cách máy móc cho qua lần chiếu lệ. Ta làm bế tắc ơn Chúa Thánh Thần khi ta chỉ giữ những điều kiện tối thiểu của người Công giáo, khi ta tiếc rẻ thời giờ với Chúa, bủn xỉn và mặc cả với Chúa như: Lạy Chúa, nếu con theo đạo, nếu con làm việc tông đồ, đạo đức, nếu con thế nọ thế kia thì con sẽ được hưởng lợi gì trong đời sống?

Theo kinh nghiệm của những nhà dẫn đàng thiêng liêng thì Chúa không thích lối mặc cảm đó của loài người. Ta cứ làm cho Chúa cách quãng đại, Chúa sẽ bù đắp lại. Ta làm tắc nghẽn ơn Chúa Thánh Thần khi ta phân chia trái tim thành những ngăn ơ khác nhau như một ngăn dành cho công việc làm, một ngăn dành cho việc giải trí, một ngăn dành cho việc ăn uống, một ngăn dành cho việc ngủ nghỉ. Và những ngăn đó thì ta không cho Chúa vào. Còn cái ngăn nhỏ nhất cuối cùng, ta mới dành cho Chúa, cho việc thờ phượng và cầu nguyện. Một chướng ngại vật nữa làm cản trở ơn Chúa Thánh Thần là tính lười biếng, tham lam, ích kỷ, ghen tương, giận hờn, nói hành nói xấu, bỏ vạ cáo gian, bịa đặt, vu khống, khoe khoang, tự phụ...

Vậy để ơn Chúa Thánh Thần có thể tác động trong tâm hồn và đời sống, ta cần:
- Loại bỏ những chướng ngại vật trong tâm hồn.
- Mở nắp đậy để ơn Chúa khỏi bị tắc nghẽn mà tuôn trào vào tâm hồn.
- Khuấy động ơn Chúa Thánh Thần như khuấy một ly cà phê hay sinh tố để có thể uống chất bổ béo.

Ơn Chúa Thánh Thần có thể tác động tâm hồn bất cứ ai miễn là họ biết mở rộng tâm hồn đón nhận ơn Chúa và cộng tác với ơn Người. Và đó là chính lúc mà ta cảm nghiệm được thời đại Chúa Thánh Thần trong đời sống. Và nếu các thành phần trong Giáo Hội cũng làm như vậy thì ta sẽ có được thời đại Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội.

THẦN HỨNG
Ga 20, 19 - 23
 
Lm D. Nguyễn Ngọc Long

Khi tìm hiểu về một người hay một dân tộc, đất nước nào đó, chúng ta thường tìm về gốc gác, tên tuổi, hình dạng, sự nghiệp hay những đặc điểm của họ, để nhận dạng. Còn khi tìm hiểu về Thiên Chúa, nhất là Chúa Thánh Thần, ta căn cứ vào điểm gì để nhận diện Ngài? Ai có thể phác họa về thân thế, hình dạng Ngài? Ngài là Đấng vô hình, nào ai có thể phác họa thân thể, hình dạng Ngài được! Lẽ tất nhiên không vì thế, mà có thể nói: Ngài không có hay chỉ là do óc tưởng tượng của con người chúng ta vẽ ra!

Không kiếm ra hình hài, gốc gác thân thế, sự nghiệp, nhưng vẫn có thể căn cứ vào đặc điểm, vào thành tích, vào dấu vết việc làm, để biết về một người. Điều này còn diễn tả chính xác hơn về bản thân người đó.

Tìm hiểu diễn tả về Chúa Thánh Thần, điều này lại càng cần thiết và sát với thực tế hơn hết. Vì dấu vết của Ngài hiện diện khắp mọi nơi, nơi từng người, nơi mọi công trình trong thiên nhiên vào mọi thời đại.

Khi trong người cảm thấy khoan khoái, suy nghĩ ra ý tưởng mới, tìm được giải đáp cho vấn đề suy nghĩ từ lâu. Khi xem, nghe được những câu nói đánh động gây chú ý, gây hứng khởi bừng rộn lên niềm vui, gợi ý suy nghĩ... Tất cả những ý tưởng đó xuất hiện như làn gió tươi mát thổi đến. Ta cho đó là được gợi hứng từ trong tâm hồn, từ trong trí khôn.

Hứng đó không phải tự nhiên từ khoảng chân không thổi đến, nhưng có chủ từ và túc từ, cùng đối tượng. Túc từ là hứng mới, đối tượng là ta, nhưng chủ từ là ai?

Trong thế giới khoa học kỹ thuật, kỹ nghệ tân tiến, của multimedia, của lý luận, người ta sẽ không do dự trả lời: Trí óc con người, phát minh khoa học, hay computer chứ còn ai vào đó nữa!

Câu trả lời ngắn gọn và gần như đánh đúng vào tầm hiểu biết của con người. Nhưng sao tâm hồn, con người vẫn cảm thấy bình an, vẫn chưa thoả mãn, vẫn còn thấy chưa đầy đủ, vẫn còn thấy khuyết điểm thiếu sót... Chúng ta còn khao khát điều gì đó mang đến cho đời sống ý nghĩa, nhân vị, giá trị và niềm Vui. Và qua đó có thể phát triển những khả năng còn tiềm tàng trong con người. Đó là nhu cầu tinh thần, nhu cầu thiêng liêng của con người.

Saint-Exupéry cách đây hơn nửa thế kỷ đã có nhận xét như sau về nhu cầu nầy của con người: "Hai tỷ người trên địa cầu chỉ còn biết tuân lệnh của chú Rô-bô-tơ. Họ hiểu biết chú, và ngày nào đó họ sẽ trở thành chú Rô-bô-tơ. Bây giờ chỉ còn vấn đề duy nhất: làm sao khơi dậy đời sống tinh thần, đời sống thần linh. Đời sống này vượt trên mọi tư duy hiểu biết của lý trí. Chỉ đời sống này mới làm thỏa mãn con người được".

"Catch the Spirit!" Hãy nắm bắt lấy Thần hứng!

Catch the Spirit! Câu này tôi đọc thấy trên áo T-Shirt (áo thung) của một bạn trẻ đi ngoài đường phố. Câu này gợi suy nghĩ: Phải chăng người viết câu này, và có thể cả người đang mặc chiếc áo với hàng chữ này, đang có suy nghĩ về đời sống tinh thần? Và chúng ta có thể nắm bắt được thần hứng không? Tôi không tin là có thể làm được chuyện này. Vì thần hứng làm gì có hình hài vuông tròn, mầu sắc đen trắng, xanh đỏ... hay thân xác như con người chúng ta, như một vật nào đó, mà nắm bắt giữ lại được.

Những gì xuất hiện trong tâm hồn, gợi hứng trong tâm trí, như buồn vui, yêu ghét, giận dữ, phấn khởi, hào hứng, cảm động, ý tưởng mới lạ... Nào ai có thể nắm bắt giữ được, có chăng là cảm nghiệm thấy, và diễn tả ra qua lời noi, cử chỉ thái độ, hành động, chữ viết thôi. Ai cũng có kinh nghiệm về tình yêu cha mẹ con cái, vợ chồng, tình yêu quê hương đất nước... Tình yêu chỉ có thể cảm thấy thôi, và không thể chiếm đoạt được như đồ vật. Vì tình yêu vô hình.

Cũng như không khí có đó và cần thiếu cho sự sống. Không có không khí, sự sống sẽ tàn lụi và biết mất. Nhưng không khí lại vô hình, vô sắc, vô thanh, luân chuyển không ngừng và không thể bắt giữ lại được.

Ông Ni-cô-đê-mô hỏi Chúa Giêsu về Chúa Thánh Thần, Ngài trả lời: "Gió muốn thổi đâu thì thổi; khi gió thổi ta có thể nghe tiếng gió, nhưng không biết từ đâu đến và đi về đâu. Thần Linh Thiên Chúa cũng vậy, Ngài ở trong những ai sinh ra bởi Ngài." (Ga 3,8).

Nhà thần học Karl Rahner, khi suy niệm về chủ từ của thần hứng, đã viết lại những dòng như sau:

"Kinh nghiệm về Thần Hứng, về Tự do về Ân Đức, mổi người đều có tùy theo hoàn cảnh đời sống cá nhân của họ:

- Khi nhận lãnh trách nhiệm và chu toàn tới nơi tới chốn. Và cả khi làm việc mà không nhìn thấy kết quả.

- Khi cảm thấy sự thong dong tự do của mình không bị giới hạn.

- Khi phải chấp nhận sống trong giờ phút đen tối, sợ hãi, như bước khởi đầu cho một giai đoạn được chúc phúc, mặc dù không hiểu nổi.

- Khi bình thản chấp nhận thất vọng trong đời sống hằng ngày xảy đến, dù phải chịu đựng tới cùng sức.

- Khi kiên nhẫn cầu nguyện trong thinh lặng, trong u tối. Vì tin rằng thế nào cũng được nhận lời, mặc dù không có dấu hiệu thấy hiệu quả của lời cầu xin kêu khấn.

- Khi chấp nhận từ bỏ không có điều kiện gì. Vì tin rằng chính sự từ bỏ mang lại chiến thắng thật sự cho đời sống.

- Khi trong cuộc sống hằng ngày, bình thản sống và sẵn sàng chấp nhận sự chết xảy đến.

- Và còn rất nhiều cảnh huống nữa trong đời sống mỗi người... "

Tất cả những điều đó là Ân Đức của Thiên Chúa. Ân đức này, người Kitô hữu chúng ta gọi là Đức Chúa Thánh Thần. (K. Rahner trong Pfingsten entgegengehen, Freiburg. Basel. Wien 1986, tr 86).

THÁNH THẦN, ĐẤNG BAN BÌNH AN
Ga 20, 19 - 23  
Lm Trần Thanh Sơn

Tự thâm tâm sâu thẳm của từng người, cách này hay cách khác, mỗi người chúng ta đều khát khao hạnh phúc và một trong những dấu hiệu của một tâm hồn hạnh phúc, đó là sự bình an. Bình an là một cái gì không thể thiếu trong đời sống của con người. Vì thế, chúng ta tìm mọi cách để có được bình an. Trong quá trình tìm kiếm đó đã có không ít người nghĩ rằng: tiền bạc, danh vọng có thể đem lại cho họ hạnh phúc và sự bình an. Do đó, họ tìm mọi cách kiếm cho thật nhiều tiền, nhiều quyền. Đối với họ: "Đồng tiền là Tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khoẻ của ông già, là cái đà danh vọng, là cái lọng che thân, là cán cân công lý. Đồng tiền là hết y". Với sức mạnh của kim tiền, có những lúc, người ta có thể đổi trắng ra đen, nói trái thành phải. Họ nghĩ rằng có tiền, họ có thể mua được mọi sự kể cả hạnh phúc. Nhưng thực tế có đúng như vậy không?

Với kinh nghiệm của cuộc sống, hẳn mỗi người chúng ta đều nhận ra rằng: Tiền bạc nay còn mai mất, nay trong tay ta mai ở trong tay người và quan trọng hơn: Tiền bạc không mang lại cho ta sự bình an và không những nó không mang lại hạnh phúc, mà lắm khi nó còn là nguyên nhân của biết bao nỗi bất hoà, lục đục trong gia đình: giữa cha mẹ với con cái, giữa anh chị em với nhau. Nó còn là nguyên nhân của biết bao cuộc tranh chấp, cãi vả thậm chí dẫn đến việc người ta giết nhau, gia đình tan vỡ, anh chị em thưa kiện nhau cũng chỉ vì đồng tiền.

Nhận ra được nỗi thao thức, khắc khoải của con người, Đấng Phục Sinh, khi hiện ra với các môn đệ, cùng với việc trao ban Thánh Thần, Ngài đã ban bình an cho các ông và cũng là cho từng người chúng ta: "Bình an cho các con". Bình an mà Thiên Chúa ban là sự bình an nội tâm khác hẳn với bình an của con người.

1. ĐẶC ĐIỂM CỦA BỈNH AN NỘI TÂM :
Bình an nội tâm mà Thiên Chúa ban không lệ thuộc vào ngoại cảnh, thánh Phaolô kêu gọi chúng ta: "Hỡi anh em, hãy vui mừng trong Chúa" (Pl 3, 1). Thánh nhân kêu gọi chúng ta vui trong Chúa, vì ngoại cảnh có thể không làm chúng ta vui, nhưng trong Chúa, chúng ta vẫn có thể vui và bình an. Điều này chúng ta dễ dàng nhận ra khi nhìn lại hoàn cảnh của các Tông đồ lúc bấy giờ. Sau khi Thầy của mình đã bị bắt và giết, các ông hoang mang, lo lắng, sợ hãi như lời tường thuật của thánh Gioan trong bài Tin mừng mà chúng ta vừa nghe: "Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do Thái" (Ga 20, 19). Nhưng ngay sau đó, khi gặp được Đấng Phục Sinh và nhận lãnh được Thánh Thần, các ông đã vui mừng cho dù ngoại cảnh vẫn không thay đổi, như lời thánh Gioan kể lại cho chúng ta: "Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa."

(Ga 20, 20). Các tông đồ vui mừng vì tìm lại được Chúa là nguồn bình an. Và niềm vui thật sự và mạnh mẽ đó, các ngài đã không thể giữ nó cho riêng mình. Các ngài đã biến niềm vui đó thành một hành động thật cụ thể. Các ngài đã mạnh dạn mở tung cửa rao giảng tin mừng Phục Sinh cho mọi người như trong bài sách Tông đồ công vụ chúng ta vừa nghe.

Như thế, bằng hai cách khác nhau, thánh Gioan và thánh Luca cùng diễn tả đặc điểm của tâm hồn bình an. Đó là tâm hồn của một người không lệ thuộc vào ngoại cảnh, một tâm hồn luôn quy hướng về Chúa, có Chúa ở cùng, một tâm hồn chan chứa niềm vui. Sự bình an nội tâm đó còn được được tác giả Thánh vịnh 4 diễn tả thật cụ thể như sau: "Thư thái bình an, vừa nằm con đã ngủ, vì chỉ có mình Ngài, lạy Chúa, ban cho con được sống yên hàn." (Tv 4, 9-10). Vâng, một hình tượng thật cụ thể và cũng thật súc tích: "Thư thái bình an, vừa nằm con đã ngủ". Biết bao đêm trường chúng ta thao thức, trằn trọc cho dù tiền của, danh vọng chúng ta không thiếu. Chúng ta thao thức bởi tâm hồn chúng ta không có sự bình an. Sự bình an này không do chúng ta, nhưng là do ân ban của Thiên Chúa. Và đây mới là sự bình an thực sự. Nhưng chúng ta phải làm thế nào để nhận lãnh được sự bình an này?

2. BÌNH AN NỘI TÂM, ĐIỀU KIỆN ĐỂ LÃNH NHẬN THÁNH THẦN
Trong bài Tin Mừng hôm nay, có lẽ không phải vô tình mà Đức Giê-su trước khi thổi hơi và ban Thánh Thần cho các tông đồ đã lập lại một lần nữa lời cầu chúc "Bình an cho anh em!". Như vậy phải chăng để nhận lãnh Thánh Thần, thì điều kiện quan trọng là phải có tâm hồn bình an? Và đồng thời bình an cũng lại là kết quả của một tâm hồn tràn đầy Thánh Thần (x. Gl 5, 22)? Thực ra, điều kiện quan trọng để nhận được Thánh Thần là phải có tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân, nghĩa là phải có tâm hồn trong sạch. Chính vì thế mà Giáo Hội buộc những ai lãnh nhận bí tích Thêm Sức - tức lãnh nhận Thánh Thần - phải sạch tội, nghĩa là có ân nghĩa với Thiên Chúa, yêu mến Thiên Chúa. Một khi đã sạch tội, sống trong ân nghĩa với Thiên Chúa, sống theo tinh thần của Ngài thì đương nhiên sẽ có sự bình an trong tâm hồn.

Sống theo tinh thần của Đức Kitô hay của Thánh Thần là sống tinh thần hiệp nhất, vì như lời thánh Phaolô trong bài đọc hai tất cả chúng ta được nhận lãnh cùng một Thánh Thần để làm nên một Thân Thể. Do đó, bình an này chỉ đến với hoặc ở với những ai biết sống hiệp nhất kiến tạo hoà bình. Mặt khác, bình an này cũng chỉ được ban cho những ai có lối sống siêu thoát xứng đáng với nó. Những người chạy theo tinh thần thế tục, coi trọng tiền bạc, danh vọng, địa vị hơn tình nghĩa, sống ích kỷ, vụ lợi, tham lam... không thể có được thứ bình an sâu xa này. Do đó, thay vì nói có ân nghĩa và tình yêu đối với Thiên Chúa là điều kiện để lãnh nhận Thánh Thần, có thể nói cách khác: bình an nội tâm là điều kiện để lãnh nhận Thánh Thần. Thánh Thần có thể được ban cho người không có bình an vật lý hay thể lý, nhưng chắc chắn không thể ban cho người không có bình an nội tâm.

Tóm lại, để có được bình an, mỗi người chúng ta cần có một tâm hồn trong sạch, ngay thẳng không quanh co dối trá. Vì thế, mừng lễ Chúa Thánh Thần hôm nay, mỗi người chúng ta hãy dọn mình sốt sắng, để con người chúng ta xứng đáng trở nên đền thờ cho Ngài ngự đến, nhờ đó, tâm hồn chúng ta luôn được bình an và hạnh phúc. Sự bình an của một người có Chúa ở cùng. Amen.

HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN
Ga 20, 19 - 23
Sr Mai An Linh, OP

Trong toàn bộ phụng vụ Lời Chúa hôm nay, từ sách CV.2,1-11 của Thánh Luca, tới thơ của Thánh Phaolô gửi tín hữu 1Cor.12,3b-7.12-13 và Tin Mừng Thánh Jn.20,18-23 đều nói tới sự kiện Chúa Thánh Thần được ban xuống từ Chúa Giêsu, qua việc thổi hơi trên các tông đồ, các ông nhận lãnh và thi hành sứ vụ được trao.

Khi thông ban Thánh Thần cho các tông đồ, Chúa Giêsu thổi hơi trên họ và nói : " Các con hãy nhận Thánh Thần". Hành vi ấy nhắc nhở chúng ta rằng : Kinh Thánh đã so sánh Thần Khí của Thiên chúa như hơi thở, như gió. Người ta nghe tiếng gió thổi mạnh nhưng không thấy gió đâu hết và cũng không biết nó đi đâu ! Cũng thế, Thần Khí Thiên Chúa như làn gió thật mạnh xuyên qua tất cả, bẻ gẫy, lật nhào, phá hủy tất cả những gì trong chúng ta chống lại tình yêu. Nếu chúng ta để cho Ngài hành động thì Ngài cũng làm sung mãn, biến đổi, sưởi ấm tâm hồn chúng ta, với điều kiện chúng ta không làm cản trở tác động của Ngài.

Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần đã đem đến cho Hội Thánh tiên khởi một luồng sinh khí mới, một bộ mặt hoàn toàn khác. Các tông đồ lúc này không còn co cụm thực hiện việc rao giảng chỉ nơi người Do Thái, mà bung ra tới mọi dân tộc, không kể chủng tộc, tiếng nói, mầu da, điạ vị sang hèn....Tất cả đã để cho Chúa Thánh Thần hoạt động : Người làm việc này, kẻ làm việc kia. Người nói tiên tri, kẻ được ơn chữa bệnh...mọi thành phần làm việc như những chi thể trong một thân thể, nghĩa là đều làm với tác động của Chúa Thánh Thần và cùng nhằm mục đích loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo với mong ước : Mọi người được hưởng ơn cứu độ khi tháp nhập vào thân thể mình mầu nhiệm Chúa Kitô là Hội Thánh.

Làn gió Chúa Thánh Thần đã biến đổi mọi sự. Thật vậy, trước đây các tông đồ co cụm trong phòng đóng kín, lo sợ người Do Thái, thì giờ đây vui mừng được thấy Chúa. Ngài sinh động họ bằng hơi thở sáng tạo của Chúa Thánh Thần và được sức mạnh để được sai đi thi hành sứ mệnh theo lời Đức Kitô. Từ nhóm nhát đảm, Chúa Giêsu đã dùng lời nói và cử chỉ tạo nên một đội quân xung phong sai đi vào trần gian và được trang bị bằng quyền năng, bẻ gẫy sức mạnh của tội lỗi.Khi nhận lãnh Thánh Thần, các tông đồ tràn ngập vui sướng, niềm vui ấy phát xuất từ việc thấy Chúa. Trong lúc hoang mang, việc nhìn thấy Chúa hiện đến đã tái lập lại sự bình an và hi vọng trong tâm hồn các ông. Niềm hi vọng trước kia nay đã tìm lại khi thấy Chúa Giêsu hiện diện với các ông và hân hoan tột cùng. Vậy chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần của Đức Giêsu ban cho chúng ta niềm vui ấy.

Chúa Giêsu từ biệt các tông đồ để về trời nhưng Ngài đã hứa " không để các con mồ côi, sẽ ban Chúa Thánh Thần đến ở với các con" nên giờ đây Chúa Giêsu ban Thánh Thần ở lại với Hội Thánh. Thời gian của Hội Thánh là thời gian hoạt động và hiện diện liên tục của Chúa Thánh Thần trên trần gian. Sự hiện diện này có làm cho chúng ta vui sướng mà cảm nhận rằng : Thánh Thần Chúa làm cho Chúa Giêsu hiện diện trong cuộc đời chúng ta không ?

Điều mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, không chỉ là các ơn của Ngài, mà còn là chính bản thân Ngài, với trọn cả tình yêu, sức mạnh và sự sống vĩnh cửu của ngài, đó chính là Thánh Thần của Thiên Chúa. Từ nay Ngài là của chúng ta, thuộc về chúng ta đến nỗi ngài là thành phần của cuộc sống chúng ta " Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là chính Đức Giêsu sống trong tôi" (Gal.2,20)

Như thế ý nghĩa của ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống phải là Thiên Chúa đã trở nên Thiên Chúa của chúng ta. Chúa Thánh Thần ngự đến đã dấu một giai đọan mới của lịch sử Hội Thánh. Xin Ngài canh tân bộ mặt trái đất, đổi mời tâm hồn chúng con, tái tạo trong chúng con thành những chứng tá sống động của Thiên Chúa giữa Hội Thánh, để chúng con sống xứng đáng với ơn gọi Kitô hữu.

CHÚA THÁNH THẦN HIỆN DIỆN
Ga 20, 19 - 23
 
Lm. Giacôbê Phạm văn Phượng, OP.

Trước khi về trời, nhiều lần Chúa Giêsu đã nói và đã hứa với các môn đệ : Ngài sẽ ban Chúa Thánh Thần xuống. Lời hứa đó đã được hoàn tất trong ngày lễ Ngũ Tuần, tức là lễ ngày thứ 50 tính từ lễ Vượt Qua của người Do Thái, và từ khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, lễ này được gọi là lễ Hiện Xuống. Chúa Thánh Thần đã hiện xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa và biến đổi các ông thành những con người mới. Như vậy, Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá là điều kiện để ban Chúa Thánh Thần cho Giáo Hội. Và khi được vinh quang bên hữu Chúa Cha, Chúa Giêsu đã sai Chúa Thánh Thần xuống và ban Chúa Thánh Thần cho Giáo Hội như linh hồn của Giáo Hội.

Đối với Giáo Hội nói riêng và đối với toàn thể nhân loại nói chung, ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống thật là quan trọng, vì đánh dấu một kỷ nguyên mới : kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần, kỷ nguyên áp dụng ơn cứu độ, thời kỳ cuối cùng, thời kỳ cánh chung, trước khi Chúa Kitô trở lại để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Nhưng tại sao chúng ta có thể nói hay dám nói Chúa Thánh Thần được ví như linh hồn của Giáo Hội ? Bởi vì những lý do sau đây :

Thứ nhất, cũng như linh hồn quan trọng đối với thân xác thế nào thì Chúa Thánh Thần cũng quan trọng đối với Giáo Hội như vậy. Bởi vì Giáo Hội được ví như một thân thể nhiệm mầu, mà Chúa Kitô là đầu và tất cả chúng ta là thân mình. Vậy nếu đã là một nhiệm thể thì cần phải có một linh hồn, linh hồn của Giáo Hội là Chúa Thánh Thần.

Thứ hai, cũng như linh hồn ở khắp thân thể và ở trong từng phần thân thể, thì Chúa Thánh Thần cũng ở trong toàn thể Giáo Hội và trong từng người. Linh hồn là nguyên lý, là căn bản của sự sống tự nhiên của thân thể, không có linh hồn thì chúng ta không sống được, không có linh hồn thì thân thể chúng ta là cái xác chết. Chúa Thánh Thần cũng là nguyên lý căn bản siêu nhiên nơi đầu là Chúa Kitô và nơi các chi thể là chúng ta, Ngài trực tiếp ban ơn cho từng thành phần để sinh hoa quả là những việc lành.

Thứ ba, cũng như nơi con người, linh hồn hoạt động qua trí khôn, ý chí, tình cảm. Cũng vậy, Chúa Thánh Thần hoạt động qua những khả năng siêu nhiên là bảy ơn Chúa Thánh thần, qua ba nhân đức đối thần là tin, cậy, mến. Chúa Thánh Thần gìn giữ, thánh hóa, biến đổi từng tâm hồn. Chẳng hạn : 12 tông đồ trước kia nhút nhát, sợ hãi, Chúa Thánh thần đã làm cho họ mạnh bạo can đảm. Rồi suốt hai mươi thế kỷ qua, biết bao gương anh dũng của các thánh đồng trinh, hiển tu, tử đạo...và hôm nay cả tỉ con cái Chúa đang được Chúa Thánh Thần thôi thúc bước mau về trời, Ngài hướng dẫn, trợ giúp chúng ta trên đường về trời.

Thứ tư, cũng như một linh hồn hiện diện nơi mỗi người làm cho người đó thành một người riêng biệt, khác với những người khác, thì Chúa Thánh Thần cũng hiện diện nơi mỗi tín hữu, để làm thành những tín hữu khác nhau : Chúa Giêsu, Đức Maria, các thánh, kẻ lành ...và ơn Chúa Thánh Thần khác nhau, nên có những loại thánh khác nhau, rồi lại có những ơn sủng khác nhau, tùy theo chức bậc : người truyền giáo, người làm cha mẹ, người đi tu v,v...

Ngoài ra, ngày lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống dưới hình lưỡi lửa. Hình ảnh này thật đầy ý nghĩa : Giáo Hội của Chúa được ví như một đống củi, được lửa của Chúa Thánh thần đốt cháy lên và sưởi ấm trần gian lạnh lẽo. Không có Chúa Thánh Thần, Giáo Hội chỉ là một tổ chức trần gian như bao hội khác trên đời này, nhưng suốt hai mươi thế kỷ qua, Chúa Thánh Thần luôn ở giữa Giáo Hội, hướng dẫn mọi hoạt động của Giáo Hội và Ngài vẫn tiếp tục hoạt động mãi cho đến tận thế.

Mỗi người chúng ta đều đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần ngày chúng ta chịu phép Rửa tội, và nhất là khi lãnh nhận phép Thêm sức, Ngài luôn ở cùng chúng ta, hướng dẫn và trợ giúp chúng ta. Vậy chúng ta chớ dập tắt Chúa Thánh Thần. Nếu dập tắt Chúa Thánh Thần thì chẳng khác gì chiếc tàu bỏ bánh lái, đoàn xe lửa bỏ đầu tàu, con người bỏ trái tim. Chúng ta có thể dập tắt Chúa Thánh Thần thế nào ? Nhiều cách lắm, chẳng hạn : chúng ta không sử dụng tối đa những ân huệ Ngài ban, những khả năng, những tiền bạc Chúa ban để chúng ta làm lợi cho linh hồn, cho gia đình, chúng ta sử dụng vào những việc có hại cho mình và người khác. Chẳng hạn : Chúa cho chúng ta cơ hội để phục vụ Chúa và Giáo Hội, nhưng chúng ta không lợi dụng những cơ hội đó, bỏ dịp tốt qua đi đó là dập tắt Chúa Thánh Thần.

Đàng khác, Chúa Thánh Thần là Đấng Phù Trợ. Phù trợ chứ không phải là làm thay chúng ta. Chúng ta phải làm hết sức mình, hết khả năng mình, phải học hỏi, phải nghiên cứu, phải thực hiện hết sức của mình, Chúa Thánh Thần sẽ phù trợ thiện chí của chúng ta. Ngài không bao cấp làm thay chúng ta. Nếu chúng ta không cố gắng đổi mới chính mình, đổi mới môi trường của mình, nếu chỉ cậy trông suông, khoán trắng cho Chúa Thánh Thần, thì Chúa Thánh Thần sẽ không làm thay. Bởi vì trách nhiệm ấy thuộc về chúng ta, những người Chúa đã trao cho những khả năng để có thể làm được, không nhiều thì ít, không việc lớn thì việc nhỏ, ai cũng có khả năng làm việc tốt.

Xin Chúa Thánh Thần khơi dậy trong chúng ta những nguồn sinh lực mới, để chúng ta biết quyết tâm đổi mới chính mình, biết quyết tâm góp phần xây dựng thời đại chúng ta. Sự quyết tâm này chúng ta sẽ gữi gấm nơi Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ ban phép lành cho chúng ta, Ngài sẽ phù trợ cho chúng ta thực hiện. Mặc dầu hôm nay chúng ta không thấy kết quả nhưng hãy kiên trì nhẫn nại như những người gieo giống, mùa màng không thấy ngay, nhưng mùa màng nếu làm đúng, làm với cố gắng, với ơn phù trợ của Chúa Thánh Thần, chắc chắc sẽ thành công và hiệu quả sẽ phong phú.

ANH EM HÃY NHẬN LẤY CHÚA THÁNH THẦN
Ga 20, 19 - 23
Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb
Chính trong ngày thứ năm mươi sau biến cố Phục sinh, Chúa Giêsu trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ, đánh dấu một trang sử mới trong công trình cứu rỗi của Thiên Chúa. Giáo hội được khai sinh. Kể từ đây, hành trình của Giáo hội tiến về nhà Cha được tràn đầy ơn thánh Chúa và rộng mở dưới sự dạy dỗ và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần là nguồn cảm hứng, sự bình an, lòng hân hoan và sự mạnh mẽ làm cho các môn đệ cũng như cho Giáo hội thời sơ khai can đảm ra đi loan báo Tin mừng cho mọi dân tộc.

Sách Công vụ Tông đồ ghi lại biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống nhằm vào ngày lễ Ngũ tuần của người Dothái. Có thể nói biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống cách nào đó đã làm mờ đi ý nghĩa của ngày lễ ngũ tuần vốn xuất phát từ ngày lễ truyền thống của nhà nông cũng như sau này dùng để kỷ niệm ngày Giavê ban Lề luật và thiết lập Giao ước Xinai với dân. Bởi biến cố hôm nay chính là ngày lễ Ngũ Tuần mới, ngày mà sách Công vụ Tông đồ ghi lại rất nhiều dấu lạ do Chúa Thánh Thần mang đến.

Tiếng gió và hình lưỡi lửa là những hiện tượng khác thường trong ngày lễ Ngũ tuần. Tiếng gió hẳn gợi nhớ đến thời gian lúc khởi đầu công trình tạo dựng vũ trụ, khi mà "Thần Khí Giavê bay lượn trên mặt nước" (St 1,2b) để tác tạo muôn loài. Chúa Thánh Thần chính là làn gió, là hơi thở làm bừng lên sự sống như Ngôn sứ Edêkien xưa đã trông thấy chính Thần Khí đã làm hồi sinh cả một thung lũng xương khô và gầy đét (x. Ed 37, 1-14). Trong ngôn ngữ Hípri, từ ngữ Thần Khí thuộc giống cái, dường như có ngụ ý rằng Thần Khí của Thiên Chúa giống như người mẹ hiền sản sinh những người con trong tình yêu thương từ ái của mình.

Còn hình ảnh Lưỡi Lửa, chúng ta có thể hiểu lưỡi chính là lời nói, là lời ca của con người. Để con người nói lời của Thiên Chúa, truyền thông sứ điệp của Thiên Chúa, lưỡi đó cần phải được thanh luyện, cần thiết phải đi qua ngọn lửa Thánh Thần để có thể đi vào tâm trí người nghe những lời nói chân thật nhằm đốt nóng tâm hồn mọi người lòng yêu mến Thiên Chúa. Các môn đệ nhờ được tôi luyện bởi ngọn lửa tình yêu và lòng nhiệt thành của Chúa Thánh Thần, khiến các ông hăng hái ra đi, rao giảng Tin mừng và làm chứng cho tình yêu Chúa Giêsu.

Đồng thời với những dấu lạ chính là những ơn ích thiêng liêng do Chúa Thánh Thần mang đến. Một trong số đó chính là ơn nói "các thứ tiếng khác nhau". Các thứ tiếng khác nhau ở đây cần phải hiểu thế nào? Thật thú vị là có nhiều cách giải thích khác nhau xung quanh vấn đề này.

Có người cho rằng các môn đệ biết nói nhiều ngoại ngữ (Công vụ Tông đồ ghi lại 16 thứ tiếng khác nhau)! Có lẽ không đúng. Vì các môn đệ lúc bấy giờ đa số là dân biển, đánh bắt cá làm sao có thể "siêu quần bạt chúng" như vậy được. Ngôn ngữ mẹ đẻ của các ông chính là tiếng Aram, và cùng lắm thì các ông nói được tiếng Hylạp chứ làm gì có chuyện biết nói mười mấy ngoại ngữ trên.

Có người lại cho rằng các ông nói tiếng lạ. Thánh kinh có ghi lại ơn nói tiếng lạ này (x. Cv 2,3-4; 10, 44-46; 1 Cr 12, 10). Ơn nói tiếng lạ tức là một thứ ngôn ngữ chẳng ai có thể hiểu được bởi xuất phát từ nguồn cảm hứng của Chúa Thánh Thần và giống như tình trạng xuất thần. Vì là thứ tiếng "chẳng giống ai" nên cần phải có người thông dịch lại. Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho người hiểu được loại ngôn ngữ này để truyền đạt cho người nghe. Thế nhưng sách Công vụ Tông đồ không ghi lại có ai đứng ra để giải thích cho đám đông đang nghe các môn đệ nói. Đám đông hiểu trực tiếp tiếng nói của các môn đệ.

Có lẽ cách giải thích sau đây dễ chấp nhận hơn, vì nó liên quan đến câu chuyện về tháp Baben (x. St 11). Thời đó, con người nói cùng một thứ tiếng. Chính vì thế sinh ra lòng kiêu ngạo, phạm thượng đến Giavê Thiên Chúa. Họ muốn làm một ngọn tháp cao chọc trời và bất cần sự có mặt của Thiên Chúa. Chính vì thế, Thiên Chúa đã khiến cho tiếng nói của con cháu Nôe phải xáo trộn, chẳng còn ai hiểu ai. Nay nhờ biến cố Ngũ tuần, Chúa Thánh Thần đã hàn gắn sự chia rẽ ngôn ngữ đó của loài người. Các môn đệ tuy nói tiếng mẹ đẻ của mình nhưng nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng khiến cho mọi dân tộc, tuy không cùng một ngôn ngữ, đều có thể hiểu được sứ điệp của Thiên Chúa.

Được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, các môn đệ hăng hái ra đi, theo chân Thầy Chí Thánh rao giảng Tin mừng. Hoa trái của Chúa Thánh Thần chính là bình an và sự tha thứ. Tiếng nói của Chúa Thánh Thần chính là ngôn ngữ của tình yêu sẽ nối kết tất cả nên một. Từ nay, sứ mạng của Giáo hội chính là đi đến muôn dân để rao giảng về một Đức Kytô chịu đóng đinh, làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa giữa lòng thế giới với sự trợ giúp cách đặc biệt của Chúa Thánh Thần.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến canh tân bộ mặt thế giới, Giáo hội và gia đình nhân loại hầu tất cả cùng chung một tiếng nói của Tình yêu, ơn an bình và sự hiệp nhất.

LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
Ga 20, 19 - 23
 
Anmai, CSsR.

Nhạc sĩ Phanxicô gởi gắm tâm tình của mình trong bài hát cầu xin Chúa Thánh Thần thật dễ thương : "Hãy chiếu soi lửa hồng vào đêm tối sâu thẳm hồn con, lửa tình yêu, lửa huyền siêu, Ngôi Ba Thiên Chúa ban nhiều thánh ân ..."

Linh mục nhạc sĩ Thành Tâm bộc lộ : "Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, canh tân đổi mới đời sống chúng con, tăng sức linh hồn, bồi thêm lửa mến soi sáng trí khôn, hiệp nhất muôn lòng ..."

Không chỉ có thế, linh mục Thành Tâm thêm : "Thánh Thần ! khấn xin ngự đến. Hồn con đang mong chờ Ngài, sưởi lòng những ai lạnh giá, gặp phong ba, không còn tin yêu. Ngài ơi, xin Ngài trông đến, đốt cháy lửa thiêng vô biên, mến thương. Ngài ơi, xin Ngài hãy đến, đến ban bình an.

Lạy Ngài xin đến, dẫn dắt chúng con trên đường. Cầu Ngài liên kết chúng con nhất tâm trong Ngài. Cầu Ngài ban ơn, thêm sức kiên vững không lay. Sống sao nên người con Chúa chứng nhân tình yêu
..."

Nhiều và nhiều bài hát nữa viết về Chúa Thánh Thần, nhưng tất cả chỉ có một điểm chung duy nhất đó là xin Chúa ban cho con người, xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta tình yêu của Chúa.

Tình yêu là cái gì đó thật trừu tượng, thật huyền nhiệm, thật lung linh, thật dễ thương. Nói về tình yêu thật là khó ! Không biết bao nhiêu nhạc sĩ, không biết bao nhiêu thi sĩ, không boết bao nhiêu giấy mực viết về tình nhưng hình như chưa bao giờ làm thoả mãn lòng người. Không có gì có thể diễn đạt được tình yêu ! Tình yêu là cái chi chi thật khó hiểu, chỉ có ai yêu mới có thể biết tình yêu là gì.

Tưởng nhớ đến một chuyện tình đẹp để rồi hằng năm người ta nhớ đến ngày gọi là Ngày Lễ Tình Nhân. Cả thế giới kỷ niệm ngày 14 - 02 để ca tụng, tôn vinh tình yêu nam nữ, tình yêu đôi lứa thì Hội Thánh Công Giáo cũng có cái ngày Tình Yêu. Love's day - ngày tình yêu - vì hôm nay Giáo hội tha thiết van nài, mời Thánh Thần Tình Yêu đến trên mình. Tình yêu mà người ta mừng ngày Valentine chỉ dành riêng cho tình yêu nam nữ. Ngày Tình Yêu hôm nay chúng ta mừng tất cả mọi người không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, tuổi tác, địa vị xã hội, chủng tộc, màu da. Vì lẽ, đã là con người thì cần lắm một tình yêu. Nếu không có tình yêu thì thật là chán, nếu không có tình yêu thì cuộc sống thật nhạt nghẽo và vô vị.

Cố nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn đã viết : "Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu, thân phận thì hữu hạn. Tình yêu thì vô cùng. Chúng ta làm cách nào nuôi dưỡng tình yêu để tình yêu có thể cứu chuộc thân phận trên cây thập giá Đời".

Thân phận con người hữu hạn và quả thật là quá vắn vỏi còn tình yêu thì vô cùng. Tình yêu thì cứ trải rộng ra vô biên vô tận với trời, với đất và với người. Như cố nhạc sĩ nói đấy, là người, chúng ta phải bằng mọi cách để nuôi dưỡng tình yêu trong lòng ta. Cuộc đời mà không có tình yêu chắc ngột ngạt và chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Thử nghĩ xem thế giới này mà không còn tình yêu thì không còn lý do gì để tồn tại.

Hôm nay, cử hành lễ tình yêu - Love's day thật là tuyệt vời. Ngày Chúa Giêsu về Trời cũng chính là ngày Ngài ban Thánh Thần Tình Yêu xuống cho chúng ta. Thế nhưng đứng trước Tình Yêu bao la của Thiên Chúa thái độ con người như thế nào ?

Điều mâu thuẩn, điều nghịch lý của cuộc đời, của con người đó là ai ai cũng cần tình yêu, ai ai cũng mong cho mình có tình yêu nhưng thực tế nhìn vào đời sống chúng ta thấy làm sao ? Tình yêu ngày hôm nay nó làm sao đấy ! Nó không còn thật nữa, nó đã bị vẩn đục bởi những thứ tình yêu thực dụng, tình yêu ích kỷ, tình yêu chỉ nghĩ đến bản thân mình. Để rồi từ đó chúng ta thấy con người ngày hôm nay dẫu rằng đời sống tiện nghi, đời sống vật chất có đi lên đấy nhưng mà tình yêu hình như tỷ lệ nghịch với vật chất thì phải. Vật chất càng đi lên thì tình yêu càng đi xuống.

Ngày nay người ta ở trong những căn nhà thật rộng, thật sang trọng, thật tiện nghi nhưng lòng của họ thì khép lại.

Ngày nay phương tiện đi lại dễ hơn trước nhưng rồi người ta lại ít đến thăm viếng, chia ngọt sẻ bùi với nhau hơn.

Ngày nay vật chất nhiều hơn nhưng rồi người ta lại ích kỷ nhiều hơn, cứ khư khư giữ lấy cho bản thân mình chứ không hề biết chia sẻ.

Qua những phương tiện thông tin đại chúng, chúng ta thấy đau lòng làm sao đấy khi mà người con gái được người mẹ già ở Cần Thơ cho về ở chung nhà khi cô làm ăn thất bại. Sau đó cô gom góp tiền sửa nhà cho mẹ. Mẹ tưởng mừng lắm vì con mình có hiếu nhưng nào ngờ sau khi căn nhà hoàn tất việc sửa chữa thì cũng là lúc mà cô đã đẩy người mẹ ruột của mình ra khỏi căn nhà của bà. Chẳng còn cách nào hơn là ra tòa. Được hay mất nhà không cần biết nhưng tình thương, tấm lòng mẫu tử hình như cũng chẳng còn.

Mới đây, trên con đường Thủ Khoa Huân quận 1 thành phố Hồ Chí Minh, người ta vẫn thường nói với nhau là con đường có lá me bay bay vào mỗi buổi chiều đã phải chứng kiến sự tan vỡ của một gia đình. Người anh bên Mỹ về, nhờ người em đứng tên mua căn nhà để người anh kinh doanh. Thế nhưng sau một thời gian người anh đi Mỹ về rồi thì người em đã tráo trở không cho anh vào nhà và rồi lại phải ra tòa. Người anh đã đưa ra chứng cứ về thu nhập của mình bên Mỹ để chứng minh anh bỏ tiền ra mua căn nhà ấy và người anh dẫn thêm một người anh về làm chứng. Đau đớn thay trước tòa người em ở Việt Nam đã nói với Tòa rằng người anh dẫn về làm chứng ấy đã chết ! Vụ việc vẫn còn giằng co chưa đến hồi kết. Cũng thế ! Nếu kết rồi thì tình anh em, tình máu mủ cũng chẳng còn.

Thế nhưng, nói gì thì nói, thế giới và con người có muôn màu muôn vẻ của nó. Thế gian này không phải toàn là người chưa tốt, vẫn còn đâu đó những con người chỉ sống vì tình yêu và thậm chí dám chết cho tình yêu.

Cũng chẳng phải là để xông hương, cũng chẳng có huân chương để mà gắn vì mình chẳng là cái gì trên cái cõi đời này nhưng sự thật ta phải nhìn sự thật. Sự thật là đâu đó giữa những mảng đen thiếu vắng tình yêu trong cuộc đời này thì vẫn còn đó những ánh sáng lấp lánh dáng dấp của một tình yêu chân thật, một tình yêu vô vị lợi.

Ai đã từng đi xa lộ thì đều kinh hoàng với tệ nạn đinh tặc.

Có gia đình bà Nguyễn Thị Chí ở khu phố 3, phường Tân Chánh Hiệp, quận 12, gia đình ấy có bảy mẹ con kể cả 3 người con dâu, chẳng ai bảo ai đã đi chế cái máy thu đinh của bọn đinh tặc rải. Họ cứ lặng lẽ đi thu đinh ở quốc lộ 1A, 52, 22. .. Công việc của họ dưới cái nhãn giới bình thường thì chẳng là cái gì cả nhưng nhìn vào chiều sâu, nhìn bên dưới cái hành động đấy quả là một hành động phi thường. Một hành động mà trong đó chất chứa quá lớn cái tình người, cái tình yêu đồng loại. Vì lẽ họ biết rằng nếu họ không dọn đinh thì những người khách đi ngang qua đó chẳng may cán vào thì tai nạn sẽ kinh khủng như thế nào và hậu quả khó mà lường được.

Gia đình đi nhặt đinh này không có đạo, không biết Chúa Thánh Thần là ai nhưng Chúa Thánh Thần biết họ. Chúa Thánh Thần đã đến và Ngài ở lại trong họ, Ngài đốt lên trong lòng họ một ngọn lửa, thắp lên trong họ một tình yêu khiến họ quên mình để giúp anh chị em đồng loại.

Ai đã từng đến các trung tâm nuôi dưỡng người bị phong, khuyết tật, nạn nhân của tệ nạn xã hội thì đều nhận ra một tấm lòng, một tình yêu chân thật của những người phụ trách, của những người nuôi dưỡng.

Xin vị phụ trách Trung Tâm Sida giai đoạn cuối Mai Hòa niệm tình tha thứ khi mà nhắc đến Dì. Phải nói rằng với cái nhiệm vụ cơm ăn ngày ba bữa, thuốc sida uống 2 cử 8 giờ sáng - 8 giờ tối là đã quá tốt cho những bệnh nhân vô gia cư ! Đàng này, mọi lúc, mọi cách có thể được Dì phụ trách đã cho bệnh nhân, cách riêng các em thiếu nhi ở Trung Tâm được hưởng những điều gì tuyệt vời nhất.

Cách đây 2 tuần, Dì dẫn tất cả các em gần 20 chục lớn bé làm một chuyến hành hương Đức Mẹ La Vang. Nghe tin ấy, tôi không tin vào tai mình vì lẽ thường ngày Dì đã quá bận bịu với công việc của Trung Tâm, ấy vậy mà người nữ tử bác ái Thánh Vinh Sơn Phaolô đã vượt qua những hạn chế của con người, của sức khỏe hầu mong làm điều gì đó cho những em bất hạnh. Giữa những tất bật lo toan của cuộc sống nhưng cảm nhận được sự Bình An, Tình Yêu Thiên Chúa, sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần nên vị nữ tu đấy đã chung chia, phân phát những gì mà vị nữ tu nhận được cho những người bất hạnh, kém may mắn.

Thế đấy ! vẫn còn đó sự giằng co giữa tình yêu và lòng ích kỷ, độc ác của con người.

Trước khi về trời, Chúa lo lắng cho các môn đệ, Chúa lo lắng cho mỗi người chúng ta như trong trang Tin mừng theo Thánh Gioan công bố. Tin mừng hôm nay thuật lại Chúa làm hai chuyện : trước hết Chúa Ban Bình An và sau đó ban Thần Khí.

Bình an cũng quan trọng, Thần Khí cũng quan trọng.

Vì sao phải ban bình an ? Vì lẽ con người ta cư xử với nhau thiếu tình yêu. Thiếu tình yêu thì ắt sẽ gây ra bất an. Ta cứ thử nghiệm chính đời của ta ta sẽ thấy. Nếu như ta có tình yêu chân thật với Thiên Chúa, với anh chị em đồng loại thì ta sẽ có một sự bình an thật trong lòng của mình. Khi lòng ta cạn đi ngọn lửa tình yêu thì khi đấy tự nhiên sự bất an sẽ đến.

Bình an của Chúa ban không giống như bình an của thế gian. Bình an là bình an của Chúa, bình an trong tâm hồn chứ không phải bình an khi có dư thừa của cải vật chất. Cũng chính trải nghiệm của từng người, có nhiều của cải vật chất chưa hẳn là có bình an. Nhưng nếu có Chúa thật, có Chúa là gia nghiệp đời mình thì mình sẽ cảm thấy bình an.

Thiếu tình yêu : cần bình an.

Thiếu tình yêu : cần Thần Khí Chúa đến để ban tình yêu.

Cử hành lễ tình yêu hôm nay nhắc nhớ chúng ta rằng không phải giờ này Chúa mới ban Bình an, Chúa mới ban Thánh Thần, Chúa mới ban tình yêu. Nhưng những điều ấy Chúa đã ban từ lâu, cho Hội Thánh Tiên Khởi từ ngày Ngài về Trời.

Như các tông đồ ngày xưa cũng thế ! Khi chưa có bình an của Chúa, khi chưa có Thần Khí của Chúa thì họ chia rẽ, hơn thua, tranh giành nhưng khi Thần Khí xuống trên họ thì cuộc đời của họ hoàn toàn thay đổi. Họ đồng tâm nhất trí, họ hiệp nhất với nhau để cùng nhau tham dự lễ Bẻ Bánh và chia sẻ Tình Yêu mà họ nhận được cho người khác.

Các môn đệ và cộng đoàn Hội Thánh Tiên Khởi đã mở lòng ra để đón nhận Bình An, đón nhận Thánh Thần, đón nhận tình yêu và họ đã mạnh dạn ra đi làm chứng cho Chúa như sách Công vụ Tông đồ chúng ta vừa nghe trong bài đọc thứ nhất. Có Thần Khí, họ lên đường, họ hăng say chia sẻ tình yêu, loan báo tình yêu mà họ vừa đón nhận cho anh chị em đồng loại.

Hôm nay, chúng ta có dịp dừng chân lại, nhìn lại chính bản thân của mỗi người chúng ta, chúng ta mở lòng hay khép lòng lại với Thần Khí của Chúa. Lúc nào Ngài cũng đến cạnh bên lòng của mỗi người chúng ta cho dù chúng ta có bất xứng, có tội lỗi, có hèn yếu đi chăng nữa nhưng còn lại, phần chúng ta, chúng ta như thế nào với Chúa ?

Nguyện xin Chúa Thánh Thần là Đấng đã đến và ở lại với các tông đồ trong ngày Lễ Ngũ Tuần, Ngài cũng đến và ở lại với mỗi người chúng ta. Nguyện xin Chúa mở toang cửa tâm hồn chúng ta ra để chúng ta đón Chúa vào trong tâm hồn của mình để sau khi có Chúa Thánh Thần, có Tình Yêu, có Bình An của Chúa thì cách hành xử, lời ăn tiếng nói của chúng ta sẽ khác. Khi có Thánh Thần thì trong lòng mỗi người chúng ta bỗng nhiên sẽ phát sinh ra bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ.

SỐNG THA THỨ VÀ HÒA GIẢI TRONG CHÚA THÁNH LINH
Ga 20, 19 - 23
 
Lm Thomas Trần Ngọc Túy, OP

Nói về quan hệ với miền Trung Đông, đặc biệt với thế giới Hồi Giáo, một nhà báo, bình luận gia của một tờ báo lớn phương Tây đã viết: "Làm thế nào chúng ta có thể nói chuyện với các dân tộc nhận mình có quan hệ trực tiếp với Thượng Đế?". Nhà báo vô tình nhận xét về hiện trạng của các tín hữu Kitô. Chúng ta cũng có quan hệ ấy. Đó là Đức Thánh Linh mà hôm nay là lễ của Ngài. Lễ của Thiên Chúa tình yêu đích thực và duy nhất.

Nhưng xin hãy tưởng tượng: tình yêu sẽ như thế nào khi thể hiện hữu hình cho người ta thấy? Tông đồ công vụ kể: "Khi đến ngày lễ ngũ tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa, tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được đầy tràn ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác nhau, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho ". Như vậy hình dáng của Tình Yêu là cái lưỡi, lưỡi bày tỏ trái tim ra bên ngoài. Trước hết chỉ có một lưỡi, sau đó phân tán thành nhiều và cư ngụ trên mỗi người. Phải chăng đó là thần khí của sự thật mà Đức Kitô đã hứa? Như vậy tình yêu là sự thật trong hành động mà chúng ta đã suy niệm ở CN V Phục Sinh vừa qua về bổn phận của các tín hữu phải chuyển tải cho thiên hạ qua dây siêu dẫn (superconductor). Dây siêu dẫn không làm hao hụt năng lượng khi phân phối điện năng (tức hiệu suất điện trở bằng zero từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ). Người tín hữu chuyển tải sự thật và tìnhh yêu Thiên Chúa cho thế giới cũng phải trong trạng thái tuyệt đối như vậy.

Cho nên Thánh Thần ngự xuống bằng tiếng gió mạnh và xuất hiện như hình lưỡi lửa. Gió mạnh là năng lượng không trông thấy được, nhưng thổi đến đâu là hiệu quả đến đó. Lưỡi lửa tượng trưng cho tình yêu nồng cháy diễn tả cảm tình yêu mến của con tim. Liệu người tín hữu nào lại không khao khát hiện diện trong ngày lễ ngũ tuần? Năm 1987, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II xuất hiện trên truyền hình toàn cầu buổi chiều hôm trước ngày lễ ngũ tuần và khắp mọi ngôn ngữ đều có thể nghe Ngài cầu nguyện. Một hình ảnh tuyệt đẹp diễn tả lại lễ hiện xuống ngày khởi đầu giáo hội.

Cả ba bài đọc Chúa Nhật hôm nay đều diễn tả hành động của Chúa Thánh Linh trong vai trò hướng dẫn sự thật và tình yêu. Bài công vụ tiếp tục viết: "Nào là những người Roma đến đây, nào là người Do Thái cũng như người đạo theo, là người đảo Creta hay người Ả Rập, vậy mà chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa". Kỳ công nào nếu không phải là việc làm của tình yêu và sự thật về Thiên Chúa, và thân phận con người nơi Đức Giêsu Kitô? Nghĩa là Thánh Thần ngự xuống trên họ, làm thay đổi, kiện cường và sai họ đi khắp thế gian thu nhận môn đệ về cho Thiên Chúa. Đức Thánh Linh cư ngụ trong linh hồn mỗi tín hữu tiên khởi, như trong chúng ta hôm nay, chia sẻ cho họ đoàn sủng, sứ vụ và phục vụ. Biến họ thành các dây điện siêu dẫn, tức không điện trở. Chẳng lạ gì họ thâu lượm được nhiều kết quả.

Hãy để thánh thần tỏ rõ Đức Giêsu trong mỗi người rao giảng, linh mục cũng như tu sĩ, giáo dân để thiên hạ trông thấy những kỳ công của Thiên Chúa và khâm phục, cảm tạ Ngài. Vì thế, bài Phúc Âm thuật lại Chúa Giêsu thổi hơi trên các môn đệ để họ nhận lấy thần khí, mạnh dạn rao giảng cho thế gian: "Đến đây chúng ta thấy rõ câu trả lời cho nghi vấn trên: tình yêu khả thị sẽ như thế nào?". Chúa Cha tỏ tình yêu và sự thật và tình yêu của Ngài cụ thể nơi Đức Giêsu Kitô. Đức Kitô hứa sai Thánh Thần để hướng dẫn chúng ta sống sự thật và tình yêu ấy. Thánh Thần linh hứng cho Hội Thánh viết Phúc Âm, dạy dỗ chân lý mạc khải. Hôm nay Thánh Thần hiện hình để cho biết Ngài có mặt trong Giáo Hội, trong từng linh hồn tín hữu tin kính Đức Kitô, biến toàn bộ thành dây siêu dẫn của Thiên Chúa.

Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta nghĩ sao đây? Vấn đề đúng là như vậy. Vì khi sống gió nổi lên trong lòng hội thánh về đức tin. Các tông đồ đã cho hay sự hướng dẫn của Thần Khí Đức Kitô trong công nghị đầu tiên ở Giêrusalem: "Thánh Thần và chúng tôi quyết định rằng: không nên đặt thêm gánh nặng ngoài những chi cần thiết trên vai họ, gánh nặng mà cha ông chúng ta cũng không mang nổi". Rõ ràng các tông đồ đã khẳng định Thánh Thần đang dẫn dắt Hội Thánh Chúa, chúng ta dám xác tín như vậy không? Thánh Thần là thần khí của sự thật và tình yêu, luôn âm thầm hướng dẫn hội thánh trong suy nghĩ, học thuyết một cách không sai lầm, chứ không nông nổi tuyên bố lung tung như các diễn giả thời nay. Thánh Irênêo viết về Hội Thánh tiên khởi: "Ở đâu có Hội Thánh, ở đấy có Thánh Thần, ở đâu có Thánh Thần, ở đấy có Giáo Hội". Chúng ta nên suy nghĩ câu nói ấy để hành xử cho tốt, kẻo gây nhiều thiệt hại cho Giáo Hội.

Ở miền nam Hoa Kỳ, giáo dân có câu châm ngôn: "God has no grandchildren" (Thiên Chúa không có cháu chắt). Ý nói đức tin không phải là của gia bảo, hay đơn thuốc gia truyền, đời nọ thừa kế đời kia, từ đời ông cho đến đời cha, rồi con cái cháu chắt. Dĩ nhiên chúng ta phải giáo dục đức tin cho các thế hệ kế tiếp. Nhưng các tín hữu thời nay không phải là các hậu duệ của các tín hữu tiên khởi, của thế hệ Hội Thánh trực tiếp lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Không phải vậy. Hội Thánh bây giờ vẫn là Giáo Hội "tiên khởi" được Chúa Thánh Thần sinh ra qua bí tích rửa tội và được sai đi rao giảng tin mừng cho thế hệ mình. Chỉ khác nhau về thời gian. Chúng ta không được phép nuối tiếc: giả như tôi có mặt lúc bấy giờ. Phép thanh tẩy, các bí tích mà tín hữu lãnh nhận, Chúa Thánh Linh ngự xuống trong ngày hôm nay vẫn y nguyên như thời các tông đồ, mới mẻ và tinh tuyền, đầy sức sống và ơn thánh. Thiên Chúa không có cháu chắt, toàn bộ là con, là thế hệ tiên khởi, sinh ra trong thần khí Chúa.

Điều rõ nét là phúc âm hôm nay, Gioan cho chúng ta hay: "Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đế, đứng giữa các ông và nói: bình an cho anh em ... Nói xong Người thổi hơi vào các ông và nói: anh em hãy lãnh nhận Thánh Thần". Cả một sự tạo dựng mới. Nhân loại lại trở về ân huệ cũ: hình ảnh và hoạ ảnh của Thiên Chúa. Lần này thì không ai làm hư hỏng được nữa, vì Adam chính là Con Thiên Chúa, đức Giêsu Kitô. Các tông đồ, mặc dù được trao sứ mệnh ra đi rao giảng tin mừng cho nhân loại, nhưng vẫn sợ sệt, phần vì lãnh đạo Do Thái đe doạ, phần vì xấu hổ đã phản bội thầy. Vì thế Chúa làm hoà trước: bình an cho anh em. Ngài nói tới hai lần trong một đoạn văn ngắn, để đảm bảo với các ông sự tha thứ của Ngài. Sau đó Ngài sai các ông đi rao giảng cho thế gian. Nhưng chẳng thể tha thứ được nếu không có tình yêu. Ở đây là vai trò của Thánh Linh. Và hơn thở của Thiên Chúa chính là Thánh Linh: "Chúng con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì người ấy được tha". Thánh Linh không loại trừ ai, ngoài những kẻ từ chối tình yêu của Thiên Chúa.

Ngày nay chúng ta cũng cần Chúa tha thứ: bình an cho anh em. Vì chúng ta cũng đã phản bội. Lòng chúng ta cũng đầy xao xuyến lo âu vì tội lỗi cũ, những tội còn ghê gớm hơn là các tội của các tông đồ, vì dầu sao các ông hèn nhát là do không đủ kiến thức. Còn chúng ta, được học hỏi, biết rõ Chúa, nhưng vẫn chối bỏ tình yêu của Ngài vì dục tình, vì chạy theo thế gian, rồi biện minh bằng những lý lẽ ngô nghê. Bình an cho anh em. Chúng ta cũng cần Chúa tha thứ và đảm bảo như vậy. Ngõ hầu cảm thấy được làm hoà với Thượng Đế, được tạo dựng lại. Làm những thụ tạo mới qua lời Chúa như các tông đồ. Con người đầy tội lỗi, hèn nhát, mù tối, nguội lạnh, thoả hiệp với thế gian, bây giờ được tha thứ và can đảm để bắt đầu một cuộc sống mới trong "ngày thứ nhất" như các môn đệ xưa mà nhận lãnh Thánh Thần qua hơi thở của Đức Kitô.

Xin lưu ý, Chúa bao giờ cũng làm gương trước rồi mới dạy dỗ sau: Ngài rửa chân cho các môn đệ rồi mới nói: anh em cũng phải rửa chân cho nhau, phải thương yêu và phục vụ lẫn nhau. Phúc Âm hôm nay cũng vậy. Ngài tha thứ và làm hoà với các ông: bình an cho anh em, rồi mới sai các ông đi rao giảng thứ tha. Các tông đồ y hệt chúng ta: yếu đuối và hèn nhát, nhưng có thể tha thứ và rao giảng thứ tha vì họ được hơi thở của Đức Giêsu tạo dựng mới: Thiên Chúa không có cháu chắt, chúng ta không thuộc hàng cháu chắt của đức tin. Chúng ta là con trực tiếp. Vậy thì cũng phải làm như vậy: tha thứ và rao giảng hoà giải cho thế giới đầy những bất ổn, tranh chấp, chia rẽ, đánh nhau, chém giết.

Lưu ý thứ hai là theo như Gioan trong Phúc Âm hôm nay, Chúa không trì hoãn việc tha thứ và hoà giải với các môn đệ. Ngài thực hiện ngay chiều ngày thứ nhất trong tuần, khi vừa trỗi dậy từ cõi chết. Ngài ban cho họ thần khí tha thứ để họ tiếp tục ngay công việc của Ngài: anh em hãy đi rao giảng và thu thập môn đệ cho thầy. Chúng ta nghĩ thế nào về thái độ của mình; tẩy rửa và làm dây siêu dẫn cho Ngài hay chìm sâu trong nết xấu và đam mê tiện nghi thế gian?

Lưu ý thứ ba là Chúa cho các ông xem các vết thương chân tay và cạnh sườn Ngài. Rao giảng không đơn giản đâu. Nó cũng gây nên các vết thương cho người xây dựng hoà bình. Dĩ nhiên việc xem thấy Chúa phục sinh mang đến cho các tông đồ niềm vui khôn tả, nhưng đi rao giảng, thi hành sứ vụ Ngài trao cũng có nghĩa chịu thương tích. Xin đừng trốn tránh, hoặc lựa chọn những dễ dãi, mà phải cắm mắt nhìn vào các vết thương nơi chân tay và cạnh sườn Chúa. Chúng ta phải trả giá cho việc rao giảng tha thứ và hoà giải. Thực tế đã có nhiều môn đệ trả giá bằng cái chết của mình như xưa nay vẫn thường xảy ra. Chúng ta phải noi gương các vị, ít là từ bỏ những phù phiếm hàng ngày để làm gương.

Dĩ nhiên có những người từ chối tha thứ và hoà giải, và nhiều nữa là khác. Thậm chí cả một quốc gia, một dân tộc. Nhưng chính những quốc gia, dân tộc ấy sẽ lãnh nhận bản án cho mình vì quay mặt đi khỏi tha thứ hoà giải của Chúa. Phần mình, chúng ta phải cố gắng trở nên những dây siêu dẫn (super conductors) không làm hư hao năng lượng thứ tha và hoà giải, tình yêu và sự thật của Thiên Chúa qua tính mê nết xấu của mình. Có như vậy, chúng ta mới xứng đáng mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Amen.
Tổng hợp theo: Smith & Jude Sicilianô

TÁI TẠO TRONG THÁNH THẦN
Ga 20, 19 - 23
 
Lm Trần Xuân Lãm

Sự kiện hằng năm người Do thái tụ tập về đền thờ Giê-ru-sa-lem vào các dịp lễ lớn là do luật Mô-sê (Xh 23:14). Người ta trẩy lễ mỗi năm 3 lần vào các dịp lễ Vượt qua, lễ Ngũ tuần và lễ Lều trại. Ai bận, thì về vào bất cứ ngày nào trong năm, cùng lắm thì cũng phải về thờ phượng tại đền thánh một lần trong đời.

Đám đông dân chúng nói nhiều ngôn ngữ khác nhau. Điều này nhắc lại câu chuyện sách Sáng thế chương 11, khi con người sinh sôi nảy nở, chúng nói cùng một ngôn ngữ. Chúng muốn xây tháp Babel chọc trời, vì chúng kiêu ngạo, y như câu chuyện Adam Eva đã muốn sáng láng bằng Chúa, tượng trưng bằng việc ăn quả Chúa cấm. Việc xây tháp Babel thất bại, vì Chúa làm chúng nói nhiều thứ tiếng khác nhau, chúng không hiểu nhau.

Nhưng trong Ngày lễ Hiện xuống mới này, một sự vãn hồi kể từ vụ tháp Babel, đó là người ta đã có thể hiểu được sứ điệp các Tông đồ, dù họ đến từ các nguồn ngôn ngữ khác nhau. Tội lỗi và sự kiêu ngạo đã làm con người chia lìa, nay họ được đoàn tụ bởi quyền năng Chúa Thánh thần.

Hình lưỡi lửa trên đầu các tông đồ là dấu chỉ sự tinh ròng và sức mạnh. Thời xưa, người ta dùng lửa để luyện quý kim như vàng, bạc. Lửa cũng để tôi kim loại như sắt khiến nó cứng và bền.

Chúng ta thấy hình ảnh cơn gió mạnh liên quan tới việc tạo dựng và đổi mới. Trong sách Sáng thế, cơn gió mạnh thổi và thần khí Chúa bay lượn trên nước, làm cho nước được thánh hóa. Sách Tông đồ công vụ cũng tường thuật cơn gió mạnh thổi tới khi các Tông đồ đang tụ họp. Trong việc tạo dựng, Chúa thổi thần khí trên Ađam Evà khiến nguyên tổ có sự sống và trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Các ngài có trí khôn để nhận biết, có tự do để lựa chọn yêu mến Chúa. Trong Phúc âm Gioan, Chúa thổi hơi để ban cho các Tông đồ sự sống mới, là ân sủng tuyệt hảo khiến chúng ta không còn là tạo vật, nhưng là con cái của Thiên Chúa.

Chúa còn ban cho các Tông đồ và Giáo hội quyền tha tội, đưa kẻ sa ngã trở về với tình yêu Thiên Chúa, và tiếp tục làm con Thiên Chúa, mặc dù con người vụng về, lạc lõng và yếu đuối.

Là phần tử Hội thánh, chúng ta thông chia ân sủng của Chúa Thánh thần, được kêu gọi để gieo rắc lời Phúc âm, làm cho nhiều người nhận biết, yêu mến và phụng sự Thiên Chúa: "Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em" (Jn 20:21b)

CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
Ga 20, 19 - 23  
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Chúa Giêsu Phục Sinh là niềm vui cho nhân loại, đặc biệt cho các môn đệ, và cho mỗi người chúng ta. Chúa sống lại trước khi về trời đã nói với các môn đệ nhiều lần, Ngài ra đi nhưng không để các môn đệ mồ côi, nhưng sẽ xin Chúa Cha sai Chúa Thánh Thần xuống.Lời hứa của Chúa Phục Sinh đã được thực hiện. Vào ngày lễ Ngũ Tuần nghĩa là lễ Năm Mươi, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa và biến đổi các Ngài thành những con người mới. Chính vì thế, Chúa Giêsu chịu chết trên Thập giá là điều kiện để Ngài ban Chúa Thánh Thần cho Giáo Hội, cho nhân loại.

Chúa sống lại khi được vinh quang ngự bên hữu Thiên Chúa Cha. Ngài đã sai Chúa Thánh Thần xuống và trao ban Chúa Thánh Thần cho Giáo Hội. Chúa Thánh Thần quả thực là linh hồn của Giáo Hội.

Chúa Thánh Thần hiện xuống là một biến cố quan trọng, là kỷ nguyên mới, thời kỳ mới của Giáo Hội. Bởi vì, đây là thời kỳ của Chúa Thánh Thần trước khi Chúa lại đến trong ngày cánh chung, ngày sau hết để phán xét nhân loại. Chúa Thánh Thần đến :"...Ngài sẽ dẫn anh em tới sự thật trọn vẹn " ( Ga,16, 13 ). Trong ngày Lễ Ngũ Tuần,Chúa Thánh Thần đã biến đổi lòng trí các tông đồ...Từ những con người nhát đảm, ham sống, sợ chết, các Ngài đã trở nên những chứng nhân can trường, mạnh dạn cho Chúa Phục Sinh. Các Ngài đã làm cho nhiều người ở nhiều miền, nhiều nước, nhiều quê hương, nhiều ngôn ngữ hiểu được lời của các Ngài rao giảng. Điều này cho chúng ta hiểu rõ vai trò của Chúa Thánh Thần. Nhờ Chúa Thánh Thần, chúng ta hiểu được con người trọn vẹn của Đức Kitô, hiểu được phép lạ, các việc làm và lời nói của Ngài. Nhờ Chúa Thánh Thần, chúng ta thấy Chúa Giêsu luôn luôn mới mẻ, chúng ta luôn nhận ra lời Chúa thật mới mẻ. Chúa Thánh Thần sẽ cho biết lời Chúa luôn sống động, là lưỡi gươm sắc bén, là ánh sáng soi đường cho nhân loại, cho con người, cho mỗi người. Chúa Thánh Thần luôn thổi vào Giáo Hội luồng gió mới, biến đổi và làm cho Giáo Hội luôn được đổi mới. Mỗi lúc gặp khó khăn, mỗi lúc gặp gian nan nguy khốn, Chúa Thánh Thần luôn soi sáng, biến đổi làm cho Giáo Hội tỉnh thức. Công Đồng Vaticanô II là một cuộc Hiện Xuống mới, làm cho Giáo Hội được đổi mới, được thay đổi. Bởi vì, Chúa Thánh Thần luôn sống cho Đấng đã sai mình là Đức Giêsu Kitô. Chúa Thánh Thần là sứ giả chính thức của Đức Kitô. Ngài chỉ nói những gì Đức Kitô đã nói, Ngài không nói những gì mới lạ, Ngài luôn luôn làm mới, làm sống động lời của Đức Kitô.Chúng ta nhớ lại lời của thánh Phaolô nói với Timôthê :" Hãy bảo toàn kho tàng đức tin nhờ Thánh Thần ở trong chúng ta " ( 2 Tm 1, 14 ). Giáo Hội luôn kiên vững,hiệp nhất nhờ Chúa Thánh Thần bảo vệ, gìn giữ vv...

Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống như một bảo chứng sống động cho sự vươn lên của Giáo Hội. Chính Chúa Thánh Thần là hơi thở, là sinh khí sống động của Giáo Hội.Hình lưỡi lửa ngày lễ Ngũ Tuần tượng cho lửa của Chúa Thánh Thần đốt lên để sưởi ấm trần gian lạnh giá. Không có Chúa Thánh Thần, Giáo Hội của Chúa sẽ giống như những tổ chức trần gian mà thôi.Tuy nhiên, đã hơn 2.000 năm qua, Chúa Thánh Thần vẫn luôn có mặt trong Giáo Hội để bảo vệ, soi sáng, hướng dẫn Giáo Hội, nhờ thế Giáo Hội luôn đứng vững, và vươn cao tươi tốt. Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục hoạt động trong Giáo Hội cho đến ngày tận thế.

Chúa Thánh Thần cũng được Chúa trao ban cho mỗi người chúng ta khi chúng ta chịu phép rửa tội, đặc biệt khi chúng ta chịu phép thêm sức. Chúng ta phải tôn kính, yêu mến Chúa Thánh Thần.Đừng bao giờ dập tắt Chúa Thánh Thần.Chúa Thánh Thần là Đấng phù trợ chúng ta. Ngài hết sức phù trợ chúng ta, hướng dẫn, soi sáng để chúng ta luôn được đổi mới.Ngài không làm thay chúng ta, nhưng giúp chúng chúng ta làm tốt công việc của mình.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, canh tân đổi mới đời sống chúng con... ( Lời Lm Thành Tâm ).

Lạy Chúa Thánh Thần, xin khơi dậy nơi chúng con những sinh lực mới để chúng con quyết tâm biến đổi.Xin Chúa Thánh Thần ban cho chúng con cái nhìn mới, sự suy nghĩ mới, một con tim mới để chúng con biết sống hiệp nhất, yêu thương nhau và nâng đỡ nhau vì chính Chúa Thánh Thần là Đấng tác tạo, đổi mới và hiệp nhất. Amen.

Nguồn vietcatholic.org

1456    05-06-2014 09:13:27