SÁM HỐI - DẤU CHỈ SỰ TRỞ VỀ
Mc 1, 1-8
Nếu Ngôn sứ Isaia từng mơ đến ngày toàn dân Israel được thoát cảnh lưu đày, mơ về thời thái bình thịnh trị trong vinh quang Thiên Chúa, mơ đến thời mà mọi thung lũng, núi đồi và những nơi lồi lõm hay gồ ghề sẽ được lấp đầy, bạt xuống và làm cho phẳng phiu,... thì nay, mơ ước đó đã trở thành hiện thực khi Gioan Tẩy Giả xuất hiện. Vai trò của Gioan Tẩy Giả rất quan trọng trong công trình cứu độ của Thiên Chúa. Bởi ông không chỉ đơn thuần là "Ngôn sứ của Đấng Tối Cao", nhưng còn là một hoa tiêu, dẫn đường chỉ lối cho toàn dân hoán cải để đón nhận ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa.
Trong Tin mừng, chỉ duy nhất thánh sử Luca đề cập đến nguồn gốc xuất thân của Gioan Tẩy Giả với hàng loạt sự kiện diệu kỳ. Cuộc đời và con người của ông được gắn kết với sứ mạng duy nhất là chuẩn bị cho "Đấng nhân danh Chúa mà đến". Vì thế, sự hiện diện của Gioan Tẩy Giả báo trước một thời đại mới đang bắt đầu- thời đại thái bình thịnh trị, thời đại muôn dân sẽ được hưởng ơn cứu rỗi của Đấng Thiên Sai.
Vì là người đi trước mang sứ vụ Tiền hô cho Đấng Thiên Sai, Gioan Tẩy Giả không làm gì khác hơn là kêu gọi toàn dân trở về, thanh tẩy nội tâm, lãnh nhận phép rửa để đón nhận ơn cứu độ. Nhiệm vụ của ông được tóm gọn trong hai từ "tẩy giả"- kẻ thánh tẩy, cũng đủ nói lên tính cấp bách cần phải hoán cải trở về. Ông xuất hiện nơi "hoang địa" miền Giuđa, chắc là thung lũng sông Giođan để làm phép rửa cho dân chúng. Bởi chúng ta biết rằng, hoang địa ở đây được hiểu theo nghĩa thần học hơn là theo nghĩa điạ lý, nó phù hợp với lời loan báo của Ngôn sứ Isaia về tiếng gọi xuất phát từ miền hoang địa (x. Is 40, 3).
Là Ngôn sứ, nên lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả chỉ xoay quanh việc kêu gọi dân chúng hoán cải trở về, lãnh nhận phép rửa để được ơn tha thứ. Phép rửa của ông không giống với phép rửa trong nghi thức gia nhập đạo Dothái, cũng không giống như phép rửa của nhóm Étxêni và lại càng không như phép rửa của Chúa Giêsu. Chúng ta biết muốn gia nhập đạo Dothái, tân tòng sẽ phải dìm mình vào dòng nước để thanh tẩy mình. Còn ở đây, trong phép rửa của Gioan, kẻ lãnh nhận không thể tự mình dìm vào dòng nước mà phải do chính tay ông thực hiện; phép rửa của Gioan Tẩy Giả cũng không lặp lại hằng ngày như nhóm Étxêni chủ trương là mỗi ngày phải dìm mình vào dòng nước để thanh tẩy mình; phép rửa của ông cũng không giống như phép rửa của Chúa Giêsu. Bởi đơn giản rằng, phép rửa của ông chỉ là sự chuẩn bị cho dân đón nhận phép rửa đến từ Chúa Giêsu. Thế nên, phép rửa của ông không thể tha thứ tội lỗi mà chỉ là chuẩn bị cho ơn tha tội do Chúa Giêsu thực hiện nhờ cái chết và sự Phục sinh của Người. Phép rửa bằng nước của ông không thể sánh với phép rửa bằng Thánh Thần của Đấng Thiên Sai và vì thế, chính Đấng quyền năng này sẽ đem đến cho nhân loại ơn cứu độ.
Chúng ta thấy hiệu quả lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả đã được toàn dân hưởng ứng. Dân chúng kéo đến và xin lãnh nhận phép rửa không chỉ vì lời rao giảng hùng hồn của ông, cũng không phải vì tò mò, thấy lạ nên đi theo cho vui, mà còn vì lối sống khiêm hạ, khắc khổ của ông nữa. Vâng, Gioan Tẩy Giả không chỉ rao giảng suông, đời sống nhiệm nhặt của ông cũng đủ minh chứng ông là một Ngôn sứ chính hiệu, là một Êlia mới. Ngày nay chúng ta thấy khoác trên mình bộ áo lông thú trong những ngày mùa đông giá lạnh; hay đi thưởng thức những món ăn như châu chấu hay mật ong nơi nhà hàng sang trọng được xem là mốt thời thượng, mắc tiền mà không phải ai cũng có thể tận hưởng được. Thời Gioan Tẩy Giả, bộ áo da thú được xem là bộ áo của khổ hạnh vì khoác trên mình bộ áo này chẳng khác gì khoác trên đó một chiếc áo dệt toàn đinh nhọn do những sợi lông thú sần sùi cắm vào da thịt. Cuộc sống khổ hạnh của Gioan Tẩy Giả không gì khác hơn là dấu chỉ để kêu gọi mọi người ý thức hơn nữa sự cần thiết phải trở về, cần thiết phải chuẩn bị để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa.
"Hãy sám hối để được ơn tha tội", lời mời gọi của Gioan Tẩy Giả được lặp lại trong Mùa Vọng này như một nhắc nhớ cần thiết cho mỗi người chúng ta. Sám hối phải là một thái độ sống của người Kytô. Sám hối phải là một sự trở về, là sự đổi mới, là sự từ bỏ mọi sự cho phù hợp với những đòi hỏi của Tin mừng. Có được thái độ sám hối như thế, để trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta luôn luôn sẵn sàng đón chờ ngày Chúa đến viếng thăm. Chờ đón trong tinh thần sám hối và cầu nguyện chứ không phải là thái độ thụ động, sợ hãi và chán chường. Chờ đón trong hy vọng và bình an, trong hân hoan vui mừng.
Ý thức rằng chỉ có sám hối và trở về nẻo chính đường ngay nơi tâm hồn mỗi người mới là điều cốt yếu chứ không phải là sự trang hoàng lộng lẫy, tốn tiền cho những hang đá, cho những cây Noel. Mùa Vọng chỉ thực sự ý nghĩa khi mỗi người biết cải hoán đời mình, từ bỏ những chướng ngại thế trần cản lối ta đến gặp Đấng Thiên Sai.
Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb
Dân Phương Đông thời xưa có tục lệ dọn đường khi có một vị quan khách nào sắp tới, sắp đi ngang qua. Bởi vì, đường sá lúc đó nào đâu có trơn tru, có thẳng tắp, có lát nhựa như nhiều đường thời nay, mà đường thời đó gập ghềnh, chỗ cao, chỗ thấp, chỗ trũng, chỗ sâu, chỗ lồi lõm, chỗ ngoặt ngoèo. Một viên quan chức sắp đi ngang qua, dân chúng trong toàn vùng được kêu mời dọn đường, bạt chỗ cao, lấp đầy chỗ trũng, làm cho những khúc quanh co thẳng hơn tốt hơn. Lời kêu gọi dọn đường như bài đọc 1 và bài Tin Mừng Mc 1, 1-8 cho nhân loại và mỗi người chúng ta thấy sự nhộn nhịp, chóng vánh, vui tươi của việc đón chờ Chúa đến. Ngài đang đến gần chúng ta...
Chúa không đến trần gian như một ông vua, như một viên chức cao cấp cần đánh trống, dọn đường đi thật. Chúa đã đến trần gian như một người nghèo: Ngài sinh ra trong hang bò lừa tanh hôi, không kèn, không trống, không mũ, không lọng. Chúa đến một cách âm thầm nơi hang bò lừa Bêlem khi các quán trọ đều từ chối vì đã đông khách và sợ phiền toái, liên lụy. Ngài lớn lên trong sự khó nghèo của vùng quê với những con đường đất đỏ, bụi tung bay. Ngài không ngại lê bước chân tới mọi nơi, mọi chốn trên nhiều con đường với đôi chân đất đơn hèn để loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Ngài yêu mến những con đường dẫn lên núi để gặp dân chúng. Ngài đi qua những sa mạc nóng bỏng để gặp mọi người. Ngài đã đi qua những con đường ngoằn ngòeo dẫn tới biển để gặp các môn đệ của Ngài. Ngài đã lê bước lên núi sọ, vai vác thập hình để thực hiện ý của Cha Ngài cứu độ nhân loại. Ngài chấp nhận một cuộc sống không nhà, không cửa, không hòn đá gối đầu.Chúa chấp nhận cái chết trần trụi trên thập giá, bị treo lơ lửng giữa mây trời...Chấp nhận như một con người nghèo hèn, Chúa đâu có muốn chúng ta dọn đường như dọn đường cho một vị vua, vị quan đi qua. Chúa vẫn ước mong đi trên những nẻo đường đơn sơ dẫn đến lòng người, dẫn đến con người, dẫn đến từng người...
Dọn lòng như các bài đọc hôm nay mời gọi là dọn lòng để đón Chúa, đón nhận Tin Mừng cứu rỗi của Ngài. Tin Mừng cho thấy:" mọi người từ khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem kéo đến với Ông ( Gioan Tẩy giả ). Họ thú tội, và Ông làm phép rửa cho họ tại sông Giođan. Rõ ràng số dân chúng tới với Gioan Tẩy giả đã xưng thú tội lỗi, nhưng khi Chúa đến họ lại không đón tiếp, không chấp nhận Chúa. Trái lại họ lại la hò đòi thủ tiêu, đòi giết Chúa. Họ không nhận ra Chúa và ngại đi vào con đường của Chúa. Con đường do Chúa vạch ra có quá nhiều bấp bênh, chông gai, nguy hiểm: con đường đòi từ bỏ, hy sinh để nhận ra sự hiện diện của Con Thiên Chúa đang ở với họ. Dọn đường ở đây có nghĩa là dọn cõi lòng, làm cho tâm hồn con người nên đạo đức, thánh thiện. Con người phải cởi bỏ mọi cái ích kỷ, mọi cái vương vấn, bao quấn lấy con người khiến con người không thể nào rời bỏ được cái hạn hẹp của mình. Dọn đường cũng có nghĩa là trút bỏ mọi vướng mắc, mọi suy nghĩ xem ra cố định, xem ra ghì chặt con người làm cho họ không còn chỗ cho Thiên Chúa ngự trị. " Núi đồi phải bạt xuống, hố sâu phải lấp cho đầy, chỗ quanh co hãy uốn cho ngay thẳng ", lời của Gioan Tẩy Giả hô vang như một lời thức tỉnh con người làm cho con người tỉnh thức và ý thức hơn về kiếp sống trần gian của mình. Dọn đường cũng có nghĩa cởi bỏ những gì là không cần thiết để Chúa lấp đầy khoảng trống của con người và để con người nhận ra tiếng gọi đầy yêu thương của Chúa Giêsu. Dọn đường là bỏ tất cả những gì không dính dáng tới Tin Mừng để chọn một con đường như Chúa đã đi, con đường khó nghèo,con đường giải thoát vv...
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết sẵn sàng dọn đường cho Chúa đến trong cuộc sống chúng con và trong thế giới này.
Lm Giuse Maria Nguyễn Hưng Lợi DCCT
SỐNG CÙNG TRỜI VÀ ĐẤT MỚI
Mc 1, 1-8
Mùa Vọng -mùa của những ngóng trông. Mùa của những đợi chờ. Trông ngóng đợi chờ mưa Đấng Cứu Tinh như cộng đoàn của Phêrô đã mỏi mòn ngày đêm trông ngóng đợi chờ.
Đợi chờ trông ngóng đã lâu, họ cảm thấy nôn nao xao xuyến. Và Phêrô chỉ còn biết ủi an họ so sánh ý niệm về thời gian khác nhau một trời một vực giữa Thiên Chúa và con người. Như có người kia hỏi Chúa: "Một triệu đồng với Chúa đáng giá bao nhiêu?" "Chỉ một xu thôi!" Chúa đáp. "Thế một triệu năm thì sao?" "Một giây!" "Thế Chúa hãy cho con một xu," người kia khẩn khoản. "Hãy đợi Ta một giây," Chúa mỉm cười...
Nhưng ngay cả Phêrô cũng không thể nào tính toán xác định ngày giờ Đấng Cứu Tinh đến. Điều quan trọng trong tâm trí Phêrô không phải chờ đợi ngóng trông nhưng là thực lòng sống sự chờ đợi ngóng trông kia -một đời sống chân chính thánh thiện không tỳ ố. Sống một đời sống chân chính thánh thiện không tỳ ố chẳng phải giản đơn sống để rồi khi chết đi đuợc đến thiên đàng nhưng là sống cùng một "trời mới và đất mới". Và Phêrô cả quyết là có sự khác biệt giữa hai đời sống này như sự khác biệt ý niệm về thời gian giữa Thiên Chúa và con người.
Sống để rồi khi chết đi đuợc đến thiên đàng là không làm điều xấu nhưng cũng rất ngại ngần không làm điều tốt. Nếu tội đuợc hiểu theo nghĩa không hẳn chỉ làm điều xấu mà không dám làm điều tốt thì đây quả thật là một đời sống rất cứng nhắc và máy móc. Một đời sống an phận thủ thừa. Một đời sống không kết trái đơm hoa.
Nhưng khi sống cùng "trời mới và đất mới", chúng ta sống tay áo luôn xắn cao. Đó không bao giờ là một đời sống hưởng thụ cầu an nhưng hằng hằng chấp nhận và đối diện với những thực tế rất phũ phàng của cuộc đời để rồi từ đó tìm một hướng đi lên, một đuờng lối mới.
Sống cùng "trời mới và đất mới" là thực thi công lý hoà bình. Là gieo rắc tin yêu hy vọng. Là luôn gióng tiếng chuông cao mạnh dạn cảnh tỉnh những thái độ sống bất chính bất lương. Là xung phong nơi đầu tên ngọn gió đối đầu với những chế độ phi nhân xem thuờng mạng sống con người.
Vì thế, câu hỏi mà mỗi chúng ta cần tự vấn mùa Vọng năm nay chẳng phải là đã sẵn sàng chưa cho ngày sau hết nhưng là đã chuẩn bị chưa để sống cùng "trời mới và đất mới!" Và Gioan Tẩy Giả gọi đó là một đời sống luôn biết thống hối ăn năn.
Một đời sống thống hối ăn năn không hẳn chỉ hoài niệm về quá khứ để rồi ân hận, tiếc nuối, xót thương nhưng là luôn hướng về tương lai để khiêm cung nhận thức rằng qua những thiếu sót lỗi lầm con nguời, tình yêu và lòng thứ tha vô bờ bến của Thiên Chúa lại luôn chan chứa đầy tràn.
Chiến tranh, thù hận là khi con nguời u mê chôn chặt tâm trí vào quá khứ để rồi không dám mở rộng vòng tay ôm lấy "trời mới và đất mới." Sống trọn vẹn tinh thần mùa Vọng -mùa của những đợi chờ- là biết nhìn nhau và nhìn về tuơng lai với đôi mắt rất tha thứ bao dung và tay nắm tay xây dựng thế giới mỗi ngày mỗi tuơi đẹp hơn. Cho chính chúng ta. Cho đàn con đàn cháu. Như câu mở đầu cuốn phim đầy cảm xúc "The Schindler's List": "Cứu đuợc một người là cứu đuợc toàn thế giới."
Lm Nguyễn Khoa Toàn
SỬA LỐI CHO THẲNG ĐỂ NGƯỜI ĐI!
Mc 1, 1-8
Từ thành phố Hồ Chí Minh muốn ra thăm lăng Bác thì phải mất hơn ba mươi giờ đồng hồ. Đoạn đường hơn kém 1.500 km vậy mà mất thời gian dài như vậy. Có dịp ra Hà Nội thực tập mục vụ ngồi trên xe mất 34 tiếng đồng hồ mới đến nơi thấy sao mà nó vất vả quá ! Chưa đi nước ngoài nhưng báo chí và các phương tiện truyền thông cho biết là chỉ cần 5 đến 6 giờ đồng hồ để đi đoạn đường như trên. Như vậy, tính ra ở Việt Nam, cũng một đoạn đường như thế ta phải mất một khoảng thời gian gấp 6 lần. Nếu tính thiệt hại về tiền bạc, kinh tế, ta sẽ thấy tổn hao một con số khổng lồ cho bao nhiêu con người ngồi trên xe di chuyển trên một đoạn đường như thế ! Nguyên nhân do đâu thì ai cũng biết: đó là do đường sá Việt Nam quá kém !
Gần đây thôi, Cần giờ, một huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh, cách thành phố Hồ Chí Minh 60 km nhưng phải đi mất hơn 2 giờ rưỡi đồng hồ. Khi đó, Trung Tâm Mai Hoà - nơi nuôi dưỡng, chăm sóc bệnh nhân Sida giai đoạn cuối cách thành phố Hồ Chí Minh cũng khoảng 60 km nhưng chỉ hơn một giờ đồng hồ là ta có thể đến với Trung tâm. Đoạn đường, xét về địa lý thì khoảng cách như nhau nhưng mà thời gian cần đến của hai nơi lại cách biệt đến một nửa thời gian. Lý do tại sao thì chúng ta cũng hiểu rõ đó là do con đường về Cần Giờ xấu và phải nói là con đường này quá xấu.
Ngay như chúng ta, muốn đi đến đích thì phải có một con đường thật là thẳng, không được quanh co, không có ổ gà hay ổ voi. Đừng càng thẳng,càng đẹp thì chúng ta có cảm giác thích thú vô cùng. Ngược lại, đi trên con đường xấu ta cảm thấy chán và không muốn đi. Phải nói là đường nào cũng đến nơi nghèo để phục vụ nhưng bảo chọn thì ai cũng thích đến Mai Hoà hơn vì đường đến Mai Hoà thẳng và đẹp hơn đường đi Cần Giờ. Đó là tâm lý thường tình của con người thôi.
Thi thoảng có dịp chạy về Sài Gòn ngồi trên xe mà thầm xót xa. Giá như mà những người có trách nhiệm làm con đường này có trách nhiệm hay nói một cách mạnh hơn một chút là có lương tâm thì sẽ làm con đường này tốt hơn và sẽ tu bổ mỗi khi nó có vấn đề. Nếu như đi quen thì sẽ thấy buồn cười. Nếu như mà người ta chịu khó chăm chút, tu sửa khi nó mới bị thôi thì sẽ không có vấn đề nhưng đàng này người ta cứ như cố làm ngơ để cho con đường ngày mỗi ngày xấu đi.
Nghĩ về con đường về Cần Giờ tôi nhớ đến các bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay. Các bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay vẽ lên hình ảnh của ngày Đức Chúa xuất hiện, ngày vinh quang của Đức Chúa tỏ hiện trên trần gian này. Các bài đọc gợi lên cho chúng ta thái độ, tâm tình mà chúng ta phải có để đón chờ Đức Chúa.
Có hai vấn đề mà chúng ta phải đặt lại trong các bài đọc mà chúng ta nghe hôm nay ?
Chúa có phải là Đấng quyền thế hơn Gioan, đến sau Gioan mà Gioan đã tự nhận là Gioan không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Gioan chỉ cử hành phép rửa bằng nước còn Người thì Người rửa bằng Thánh Thần hay không ?
Vấn đề thứ hai là khi nhận ra Người rửa bằng Thánh Thần rồi chúng ta có dọn đường để mà đón Người hay không ?
Chắc có lẽ không chỉ là dân Do Thái thời Gioan Tẩy Giả không nhận ra Đấng Cứu Độ trần gian đã đến thế gian này nhưng trước đó, thế hệ cha ông của họ đã không nhận ra. Vì cha ông của họ đã không nhận ra Đấng Cứu Độ nên Đức Chúa - Thiên Chúa của họ đã gửi đến nhiều ngôn sứ cảnh báo có, răn đe có, ngọt ngào có để mà bảo họ hãy bỏ đường xưa lối cũ để chỉ còn phụng thờ một mình Đức Chúa là Thiên Chúa duy nhất của họ nhưng họ nào có nghe đâu ? Một trong những ngôn sứ lớn thời Cựu Ước đó là Isaia. Isaia đã nói lên tiếng nói của mình.
Mở đầu sách của mình, Isaia đã lên tiếng kêu ai oán: "Trời hãy nghe đây, đất lắng tai nào, vì ĐỨC CHÚA phán: "Ta đã nuôi nấng đàn con, cho chúng nên khôn lớn, nhưng chúng đã phản nghịch cùng Ta. Con bò còn biết chủ, con lừa còn biết cái máng cỏ nhà chủ nó. Nhưng Ít-ra-en thì không biết, dân Ta chẳng hiểu gì. Khốn thay dân tộc phạm tội, dân chồng chất lỗi lầm, giống nòi gian ác, lũ con hư hỏng! Chúng đã bỏ ĐỨC CHÚA, đã khinh Đức Thánh của Ít-ra-en, mà quay lưng đi". (Is 1,2-4)
Đó là lời sấm mà Isaia nói với dân của Đức Chúa. Isaia cũng không quên gửi những lời sấm đến với dân ngoại: "Hãy rên siết, vì ngày của ĐỨC CHÚA đã gần kề; ngày đó đến như cuộc tàn phá của Đấng Toàn Năng. Vì thế ai nấy đều rụng rời tay chân, đều sờn lòng nản chí. Chúng kinh hoàng, lên cơn đau, quằn quại, đau thắt như sản phụ. Chúng sửng sốt nhìn nhau, mặt đỏ bừng như lửa. Kìa, ngày của ĐỨC CHÚA đến, ngày khắc nghiệt, ngày của phẫn nộ và lôi đình, ngày làm cho đất tan hoang và tiêu diệt phường tội lỗi, không còn một tên nào ở đó". (Is 13, 6-9)
Isaia cũng loan báo ngày giải thoát cho Israel mà trong bài đọc thứ nhất chúng ta vừa nghe đấy: Có tiếng hô: "Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho ĐỨC CHÚA, giữa đồng hoang, hãy vạch con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu". (Is 40, 3-4)
Isaia mời gọi dân chúng hãy sửa đường đến cho Đức Chúa ngự đến và rồi khởi đầu tin mừng theo Thánh Maccô chúng ta vừa nghe cũng nói đến chuyện sửa lối để Người đến. Và hôm nay, sau những ngày tháng ẩn dật trong hoang địa, cầu nguyện và ăn chay xong Gioan lên đường. Gioan lên đường để thực thi sứ mạng của mình là người hô cho mọi người biết Đức Chúa đến. Gioan kêu gọi mọi người sám hối để đón chờ Người rửa trong Thánh Thần.
Lời của Isaia, lời của Gioan dẫu rằng cách chúng ta quá lâu. Gioan thì hơn 2000 năm còn Isaia thì hơn nữa nhưng mà lời đó hình như vẫn còn như quá mới, quá thiết thực và quá gần với chúng ta. Chúng ta đã để cho lòng chúng ta còn quá nhiều hố sâu, còn quá nhiều đồi núi. Hố sâu, đồi núi đó chính là những hành vi, những lối sống ngược với Tin mừng. Nếu như chúng ta cứ để những cái hố sâu đó ban đầu be bé mà không chịu sửa thì dần già thời gian chúng ta sẽ khó lường được hậu quả. Cũng như trên con đường đi, thoạt đầu nó chỉ là cái lỗ nho nhỏ nhưng nếu như người ta lấp đi thì nó không có phá đường nhưng đàng này người ta làm ngơ. Ngày qua ngày cái ổ gà trở thành cái ổ voi và hết sức vất vả để qua con đường đó và thậm chí đến một lúc nào đó thành một cái vũng thì ta không thể nào qua được.
Chúng ta cũng không quên một điểm nhỏ là khi Gioan tin nhận Đấng Cứu Thế thì Gioan đã thi hành sứ mạng của mình là loan báo Đấng Cứu Thế cho người khác tin nhận như ông. Và đoạn sách ngôn sứ Isaia mà chúng ta vừa nghe cũng mời gọi chúng ta hãy thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình: "Bấy giờ vinh quang ĐỨC CHÚA sẽ tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy rằng miệng ĐỨC CHÚA đã tuyên phán." Có tiếng nói: "Hãy hô lên! " Tôi thưa: "Phải hô lên điều gì? " - "Người phàm nào cũng đều là cỏ, mọi vẻ đẹp của nó như hoa đồng nội. Cỏ héo, hoa tàn khi thần khí ĐỨC CHÚA thổi qua. Phải, dân là cỏ: cỏ héo, hoa tàn, nhưng lời của Thiên Chúa chúng ta đời đời bền vững." Hỡi kẻ loan tin mừng cho Xi-on, hãy trèo lên núi cao. Hỡi kẻ loan tin mừng cho Giê-ru-sa-lem, hãy cất tiếng lên cho thật mạnh. Cất tiếng lên, đừng sợ, hãy bảo các thành miền Giu-đa rằng: "Kìa Thiên Chúa các ngươi! " Kìa ĐỨC CHÚA quang lâm hùng dũng, tay nắm trọn chủ quyền. Bên cạnh Người, này công lao lập được, trước mặt Người, đây sự nghiệp làm nên. Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt". (Is 40 5.9-11)
Chúng ta là những người được Thiên Chúa yêu thương, được Thiên Chúa tuyển chọn và đôi khi chúng ta biết nhiệm vụ loan báo tin mừng của chúng ta nhưng dường như chúng ta cứ phớt lờ đi cái nhiệm vụ ngôn sứ đó của chúng ta. Không chỉ quên đi nhiệm vụ ngôn sứ mà đôi khi chúng ta còn sống làm phai mờ đi hình ảnh đẹp của ngôn sứ.
Lối sống loan báo, ngôn sứ của mình đẹp nhất mà ông Gioan cũng như ngôn sứ Isaia loan báo là gì ? Chúng ta nhớ lại lời của thánh Phêrô tông đồ trong thư thứ hai của Ngài: "Anh em thân mến, một điều duy nhất, xin anh em đừng quên: đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày. Chúa không chậm trễ thực hiện lời hứa, như có kẻ cho là Người chậm trễ. Kỳ thực, Người kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải. Nhưng ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó, các tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy tiêu tan, mặt đất và các công trình trên đó sẽ bị thiêu huỷ. Muôn vật phải tiêu tan như thế, thì anh em phải là những người tốt dường nào, phải sống đạo đức và thánh thiện biết bao, trong khi mong đợi ngày của Thiên Chúa và làm cho ngày đó mau đến, ngày mà các tầng trời sẽ bị thiêu huỷ và ngũ hành sẽ chảy tan ra trong lửa hồng. Nhưng, theo lời Thiên Chúa hứa, chúng ta mong đợi trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị. Vì thế, anh em thân mến, trong khi mong đợi ngày đó, anh em phải cố gắng sao cho Người thấy anh em tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình an" (2 Pr 3, 8-14).
Thánh Phêrô nhắc nhở chúng ta về ngày Chúa đến như kẻ trộm vậy và Thiên Chúa là tình yêu, Ngài không muốn cho ai phải diệt vong. Ngài muốn và Ngài chờ đợi sự hoán cải của con người. Thánh Phêrô mời gọi chúng ta hãy sống làm sao cho tinh tuyền trong những ngày mong đợi Thiên Chúa này.
Là con người mỏng dòn và yếu đuối, đôi khi chúng ta đã khép lòng chúng ta lại, chúng ta không dám mở lòng mình ra để cho Chúa sửa chữa những khuyết điểm những lầm lỗi trong ta. Hôm nay, nghe lời của ngôn sứ Isaia, nghe lời của ông Gioan, nghe lời của Thánh Phêrô để rồi chúng ta cải hoá con người chúng ta để chúng ta đứng vững trước mặt Con Người khi Con Người đến lần thứ hai trong vinh quang.
Chúng ta hãy siêng năng chạy đến Chúa, đặt mình trước mặt Chúa, xin Chúa thương hoán cải con người yếu đuối con người tội lỗi của chúng ta. Chúng ta cũng xin Chúa cho chúng ta cái ơn biết hoán cải để rồi ngày mỗi ngày chúng ta sống chúng ta nhớ đến ngày Đấng Cứu Độ đến lần thứ hai trong vinh quang và chúng ta cũng sống làm sao liệu liệu để dọn con đường cho Chúa đến. Con đường đó chính là sự thánh thiện, lòng tinh tuyền mà Thánh Phêrô mời gọi chúng ta.
Anmai, CSsR
HÃY DỌN ĐƯỜNG ĐÓN CHÚA
Mc 1, 1-8
Mùa vọng là thời gian, là dịp thuận tiện để trở về với những gì thật nền tảng và đặt Đức Giêsu Kitô lên hàng đầu trong cuộc hành trình đức tin của mỗi Kitô hữu. Vâng, để nhận ra Đấng Thiên sai, Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa trong suốt thời dài của Cựu ước đã chuẩn bị cho dân của Người đón Đức Kitô. Một cuộc sửa soạn, chuẩn bị lâu, rồi khi tới thời đã định, Thiên Chúa đã dùng Gioan Tẩy Giả, một Vị Ngôn sứ vĩ đại nối kết giữa Cựu ước và Tân ước để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế: " Có tiếng kêu trong hoang địa; Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng " ( Mc 1, 3 ).
Gioan Tẩy Giả xuất hiện như một người nghèo ở giữa người nghèo, nhưng lại rất đặc biệt, Ngài không làm một cuộc cách mạng như người ta lầm tưởng, Ngài cũng không đánh Đông dẹp Bắc như người ta mong đợi, Ngài không bắt người ta phải thay đổi đời sống, thay đổi cuộc sống, thay đổi địa vị, nghề nghiệp xã hội, dù họ đang làm những công việc như binh lính, thu thuế, những nghề nghiệp mà thời đó, những hạng người này thường bị coi như tội lỗi, như tiếp tay với ngoại bang để đàn áp người khác và những người này lúc bấy giờ bị khinh thường và bị cho là những còn người ghê gớm. Gioan Tẩy Giả không đòi buộc họ phải bỏ việc làm, bỏ cái nghề họ đang sống, nhưng Ông chỉ thúc giục họ đổi mới đời sống, làm mới tâm hồn để sẵn sàng chờ đón Chúa đến. Gioan đã ăn mặc đơn giản, thức ăn, thức uống là châu chấu và mật ong. Lối sống khắc khổ của Gioan đã trở nên dấu chứng cho mọi người. Gioan kêu gọi người ta sám hối để đón chờ Chúa đến. Ông đã làm gương bằng chính cuộc sống ngay thẳng của Ông. Chính cuộc sống kham khổ, thánh thiện siêu thoát và những lời giảng dạy phù hợp với lối sống của ông đã thu hút biết bao nhiêu người đến với Ông để khiêm tốn thú tội và xin Gioan Tẩy Giả làm phép rửa thống hối hầu đón chờ Đấng Cứu Thế.
Vâng, ngày hôm nay, nhân loại hay nói cách nôm na hơn: mỗi người chúng ta không thể vào sa mạc để thực hiện những điều như Gioan Tẩy Giả đã làm nhưng chắc chắn chúng ta không thể đi con đường nào khác ngoài con đường Gioan Tẩy Giả đã sống, đã mời gọi. Để thực hiện điều Gioan Tẩy Giả đã sống, đã rao giảng, chúng ta chắc chắn không thể sống như mọi người được. Nhiều lúc, người Kitô hữu phải sống khác người bởi vì muốn sống đích thực là môn đệ Chúa nhiều khi họ phải khước từ những dễ dãi, những tiện nghi, những thỏa hiệp để tìm kiếm cái gì sâu xa và bền vững hơn. Người Kitô hữu phải dám sống cái khác thường trong chính cuộc sống bình thường mà mọi người vẫn sống.
Gioan Tẩy Giả đã có sức thu hút nhiều người vì Ông dám lội ngược dòng, dám sống đúng Tin Mừng đòi hỏi. Chúng ta vẫn được mời gọi sống như Gioan Tẩy Giả để chuẩn bị tâm hồn đón chờ Chúa đến.
Để kết luận, xin dùng một câu tuyệt vời của một nhân vật: " Bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời, và lãnh cả triệu đô la mỗi năm, nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài của bạn lại, ngày đó bạn chẳng khác tôi chút nào. Đó là lúc mọi người chúng ta đều y như nhau. Tôi không cần tới những gì các bạn đang có trong cuộc sống, nhưng điều duy nhất tôi chắc chắn là: các bạn cần cái tôi đang có, và đó chính là Đức Giêsu Kitô ".
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT (Nguồn vietcatholic.org)