Sidebar

Thứ Tư
01.05.2024

Chúa Nhật II Mùa Chay C

  1. Cùng Bước Theo Đức Giêsu
  2. Từ Ðau Khổ Ðến Vinh Quang
  3. Biến Đổi
  4. Chúa Nhật II Mùa Chay
  5. Vinh Quang
  6. Thập Giá Vinh Quang
  7. Mùa Chay Hoán Cải Đời Sống
  8. Hãy Vâng Nghe Lời Người
  9. Kinh Ngạc
  10. Chúa Giêsu Biến Hình
  11. Vinh Quang Chúa
  12. Taborê - Một Thoáng Vinh Quang Thiên Giới
  13. Nếm Trước
  14. Lắng Nghe Lời
  15. Hãy Vâng Nghe Lời Người
  16. Khổ Đau Và Vinh Quang
  17. Chúa Biến Hình
  18. Hãy Vui Lên
  19. Phúc Lộc Của Lòng Tin Và Sự Lắng Nghe
  20. Qua Đau Khổ Đến Vinh Quang
  21. Núi Tabor Và Cuộc Sống Hằng Ngày
  22. Có Đau Khổ Mới Vinh Quang
  23. Vinh Quang Của Ngày Hiển Dung
  24. Chúa Giêsu Biến Hình Đổi Dạng
  25. Ánh Sáng Cuối Đường Hầm
  26. Chúa Giêsu Biến Hình

CÙNG BƯỚC THEO ĐỨC GIÊSU
Lc 9, 28b - 36

Chúng ta đang bước vào Mùa Chay, Chúa nhật thứ II. Mùa Chay thánh bắt đầu với ngày Thứ Tư lễ Tro. Trong mùa Chay, Giáo Hội muốn chúng ta trở về với Chúa, nhận ra tình yêu và ân sủng Thiên chúa ban cho để chúng ta can đảm và mạnh dạn chạy đến nương náu lòng thương xót của Thiên Chúa. Nhờ đó, tâm hồn chúng ta bình an và đời sống chúng ta đi trên đường thánh ý Chúa, yêu mến Chúa và yêu thương mọi người. 

Con người luôn khát vọng biết về cùng đích của mình. Biết về cùng đích để chúng ta phân định cuộc sống và đưa ra đường lối sống thích hợp cho cùng đích ấy. Mạc khải cho chúng ta biết, chúng ta có quê hương thật là Nước Trời, nơi đó có Thiên Chúa và những người lành hiện hữu. Đó còn là nơi mà chính Con Một Thiên Chúa đã phục sinh, đi vào và mở lối cho chúng ta đi vào. Đó là nơi cùng đích của con người, là nơi con người được mời gọi "tiến vào". Tuy nhiên để tiến vào hưởng hạnh phúc đời đời trong vinh quang của Nước ấy thì trong cuộc sống thế trần này, mỗi người chúng ta phải can đảm chiến đấu với những thử thách trong thế gian, phải chạy cho hết quãng đường trần gian và giữ vững đức tin.

Khi còn sống tại thế, Đức Giêsu đã loan báo con đường khổ nạn và phục sinh. Ngài cho thấy con người chúng ta phải trải qua gian khổ như Ngài rồi mới tiến vào cuộc phục sinh. Sau khi tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ nhất (Mt 16, 21; Mc 8, 31; Lc 9, 22) Đức Giêsu biến hình để cho ba tông đồ Phêrô, Giacôbê, Gioan thấy vinh quang phục sinh mà Ngài sẽ đạt được. Vì thế, chúng ta khám phá được một sự thật, Mùa Chay không phải là khoảng thời gian chúng ta phải đối đầu với những cám dỗ,  hay cũng không phải là khoảng thời gian để chúng ta phải tự buộc mình chịu đựng những sự đau khổ mà không tìm cách tránh né. Mùa Chay đầu tiên là một sự mạc khải về thân phận, về định mệnh, trong tiến trình tự nhiên của con người, và những kinh nghiệm phải có từ ý chí bề ngoài của cuộc sống. Một trong những kinh nghiệm đó chúng ta có được về việc biến hình của Đức Giêsu, trong bài Phúc Âm theo thánh Luca hôm nay.

Thánh Luca diễn tả, đang khi cầu nguyện, diện mạo của Đức Giêsu biến đổi khác thường, diện mạo chói loà hào quang ánh sáng. Nhưng Ngài vẫn là Ngài. Ngài vẫn là Chúa Giêsu, Con của Thiên Chúa. Một quang cảnh huy hoàng của cuộc đàm đạo giữa Đức Giêsu với Môisê và Êlia, đến nỗi khi được chiêm ngắm, các môn đệ đã phải thốt lên: "Lạy Thầy, nếu chúng tôi được ở đây thì tốt lắm. Chúng tôi xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Môisê và một cho Êlia" (Lc 9, 33) . Họ muốn ở lại nơi họ đã được chứng kiến. Một Thầy trong vinh quang và ân sủng.

Như chúng ta biết, Môisê và Êlia là hai tiên tri Cựu ước, Môisê là người đã được Chúa tuyển chọn để đưa dân Ngài ra khỏi ách nô lệ của nước Ai Cập. Êlia là tiên tri đã được kêu gọi để làm cố vấn cho giao ước, dân Do Thái muốn chối từ những ơn Chúa. Khi đề cập đến biến cố này, các thánh sử nói rằng: ông Môsê và ông Êlia đàm đạo với Đức Giêsu (Lc 9, 33). Đức Giêsu sẽ thực hiện cái chết tại Giêrusalem. Một cái chết không phải là dấu hiệu kết thúc của công trình cứu chuộc, nhưng là một cái chết mở lối cho sự sống lại trong vinh quang trong nước Ngài. Trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, sự chết, sự sống lại và lên trời của Đức Giêsu là một, nó được thể hiện cùng một lúc trong biến cố biến hình này. Sự chết trong thân xác hay chết của nhân tính của Đức Giêsu là một sự chuẩn bị cho sự vinh quang vĩnh cửu của một đời sống khác trong thiên tính của Đức Giêsu.

Nhờ Phúc âm hôm nay, chúng ta cùng với Phêrô, Giacôbê và Gioan chứng kiến việc Đức Giêsu biến hình. Từ đó, chúng ta gia nhập vào việc khổ nạn và cuộc Phục sinh của Chúa trong những ngày sắp tới.  Chúng ta ý thức rằng sự Chết và Phục Sinh, thập giá và vinh quang là hai mặt của cùng một thực tại cứu độ không thể tách rời nhau. Vinh quang mà không có khổ nạn chỉ là vinh quang của thế tục, sẽ nhạt nhòa theo năm tháng; ngược lại, khổ nạn mà không có vinh quang thì vô nghĩa và là một thất bại hoàn toàn. Do đó, sống tinh thần Mùa Chay có nghĩa là gắn bó chặt chẽ với cái Chết và sự Phục Sinh của Đức Kitô: chết đi cho con người cũ và tội lỗi, chết đi thói hư tật xấu, chết đi cho con người đối nghịch với Thập giá để cùng sống lại với Đức Kitô, Đấng có thể "biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài" (Bài đọc 2). Chắc hẳn, đây chính là một quá trình đầy gian khổ nhưng cũng tràn ngập vinh quang. Có trải qua gian khó, khổ cực thì mới mong có ngày đạt vinh quang. Để có thể trung thành bước theo con đường Đức Giêsu đã sống và đã vạch ra, người Kitô hữu không thể coi nhẹ hay dửng dưng với tâm tình cầu nguyện. Chính trong giây phút cầu nguyện, chìm sâu trong cuộc gặp gỡ ân tình với Chúa Cha, Đức Giêsu đã đón nhận kế hoạch cứu độ của Cha như lẽ sống của đời mình, đây cũng là lúc Ngài biến hình vinh quang, được tỏ lộ khi Ngài chấp nhận cái chết như một phương thế tuyệt hảo để tỏ lòng vâng phục Cha và yêu thương nhân loại đến nỗi hiến dâng chính mạng sống mình. Vì thế, trong cuộc sống còn lắm vất vả và không hề thiếu vắng những cạm bẫy thử thách, chỉ có sự chuyên cần cầu nguyện, gặp gỡ Thiên Chúa và nhờ sức mạnh ơn Chúa đỡ nâng, chúng ta mới mong an tâm, không hoang mang sợ hãi nhưng chủ động và mau mắn chu toàn  trách nhiệm phải thi hành. Vì thế, quê hương vĩnh cửu  khởi đi ngay từ mặt đất nay, ngay hôm nay, trong chính từ cuộc sống này đòi buộc chúng ta phải xây dựng và làm cho phát triển mỗi ngày. Như thế, chúng ta hãy đi theo Đức Giêsu trên con đường khiêm tốn phục vụ anh em và can đảm kiên vững bước theo Chúa trên các nẻo đường đau thương và tử nạn thập giá với Ngài, với niềm xác tín rằng Đức Kitô Phục Sinh sẽ chia sẻ vinh quang cho các tín hữu trung thành.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con can đảm bước theo Chúa đến cùng, trên đường gian khổ của Thập giá và cũng được tham dự vào vinh quang phục sinh với Ngài. Amen.

TỪ ÐAU KHỔ ÐẾN VINH QUANG
Lc 9, 28b - 36

Chúng ta đang sống trong một xã hội văn minh hiện đại. Thời buổi của một lối sống bị ảnh hưởng bởi nền công nghiệp hóa. Người người tranh nhau chạy để vật lộn với cuộc sống. Do đó, người ta chuộng những gì đó mau lẹ và gọn nhẹ. Ðến nỗi thức ăn người ta cũng chỉ muốn cái gì có liền chứ không cần phải khổ cực nấu nướng nữa.

Dường như tâm thức muốn nhanh lẹ này cũng đã có nơi thánh Phêrô khi ngài và hai vị Tông đồ được cùng với Chúa Giêsu cầu nguyện trên núi. Một sự kiện lạ thường xảy ra lạ thường trước mắt các ông. Ðó là dung mạo của Chúa Giêsu trở nên rực rỡ chói ngời. Trông thấy cảnh vinh quang ấy của Chúa Giêsu, thánh Phêrô đã nhanh chóng không chút e ngại mà thưa rằng: 
"Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a." (Lc 9, 33)

Thiết nghĩ với lời thưa này, Phêrô chỉ muốn mình và hai vị Tông đồ kia được ở mãi trong tình trạng như thế. Bởi lẽ, đây là tình trạng không còn phải đau khổ nữa. Chúa Giêsu được trở về tình trạng vinh quang như chính Người là. Dầu vậy, vì thương loài người mà Người sẵn sàng sống trong thân phận con người như bao nhiêu con người khác.


Lời phán bảo của Chúa Cha: 
"Ðây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!" (Lc 9, 35b) là lời nhắn nhủ với ba Tông đồ và cũng là lời nhắn nhủ cho mọi người chúng ta. Muốn đến được vinh quang phải trải qua đau khổ thử thách.

Ông bà chúng ta nói: 
Dục tốc bất đạt nghĩa là có nhiều chuyện làm trong hấp tấp vội vàng sẽ không mang đến kết quả tốt. Cũng vậy, đối với tình trạng vinh quang cao cả này cần phải có thời gian. Mặc dù, tình trạng vinh quang ấy là tình trạng hiển nhiên của Người nhưng Người vẫn chu toàn tốt sứ mạng cứu rỗi loài người trong sự tiệm tiến.

Cho nên, Chúa Cha đã kêu mời hãy biết vâng nghe lời của Người. Vâng nghe trong sự kiên nhẫn và vâng nghe trong sự noi gương bắt chước cách sống của Người. Nhiều khi trong đời sống đạo chúng ta thường hay đòi buộc Chúa và Giáo hội ban ngay cho mình những điều mình muốn. Ðang khi đó việc hy sinh sống đạo theo lời dạy của Chúa và Giáo hội thì chúng ta bỏ qua. Ði dự lễ thì muốn cho mau lẹ thậm chí bỏ đầu bỏ đuôi. Ðối với các giới răn thì yêu cầu Giáo hội phải nới lỏng cho hợp với thời đại. Ðó là chúng ta thiếu sự hy sinh, thiếu sự đón nhận gian nan đau khổ. Chính những sự hy sinh và đón nhận gian nan đau khổ trong đời sống đức tin sẽ là hành trang cho chúng ta đạt được vinh quang trong Nước Trời. 

BIẾN ĐỔI
Lc 9, 28 - 36

Hãy biến đổi là một chủ đề nổi bậc trong toàn bộ Tin mừng. Lời rao giảng trước tiên của Chúa Giêsu khi Ngài đi rao giảng Tin mừng là "Hãy ăn năm sám hối và tin vào Tin mừng" (x. Mc. Ăn năn và sám hối thật sự chính là biến đổi, là chuyển từ tình trạng xấu nên tốt hơn).

Tin mừng hôm nay cũng nói đến một sự biến đổi. Chúa Giêsu biến đổi hình dạng trước mặt các Tông đồ thân tín của Ngài. Chúa đã bày tỏ vinh quang vốn có của Ngài cho các tông đồ thấy để các ông thêm lòng tin mà tiến bước theo Chúa, nhất là khi Chúa đi vào cuộc tử nạn và Phục sinh của Chúa. Chúa biến đổi hình dạng là Chúa đã để cho thiên tính được tỏ bày ra. Và điều đáng chúng ta lưu tâm là khi nhìn thấy thiên tính của Chúa Giêsu được tỏ hiện, các tông đồ đã ngất ngây và say đắm. Tôi thiết nghĩ, chúng ta cũng có chung thái độ như thế nếu chúng ta được diễm phúc nhìn thấy vinh quang của Chúa được tỏ hiện vì đó là phần thưởng mà chắc ta vẫn hằng mong ước: diện kiến tôn nhan Chúa. Chắc chắn chúng ta cũng sẽ được nhìn thấy vinh quang ấy nếu như hôm nay, trong từng ngày sống của chúng ta, chúng ta không ngừng cùng với Chúa biến đổi để làm cho cuộc sống chúng ta nên" hoàn hào như Cha các con trên trời là Đấng hoàn hảo". Khi chúng ta làm cho những cái xấu nên tốt, những điều tốt được nên tốt hơn, những cái chưa hoàn hảo nên hoàn hảo trước mặt Thiên Chúa. Đó là cuộc biến hình mà Chúa đang mời gọi ta  và đang chờ đợi ta thực hiện với Chúa.

Cuộc biến đổi đích thật nào cũng đòi hỏi một thái độ độ anh hùng và dứt khoác để chối từ những quyến luyến đang vây kéo chúng ta. Abraham ngày xưa đã rất can đảm khi ông làm cuộc thay đổi trong cuộc đời của ông. Ông đã quyết tình chọn Chúa và theo Chúa dù ông đã cao niên, cơ ngơi đã ổn định. . . Ông quyết đi theo tiếng Chúa gọi vì ông tin vào Thiên Chúa quyền năng và tình yêu luôn làm điều tốt đẹp cho ông. Khi hành động như thế Abraham sẽ bị người khác cho là kẻ lắm tham vọng và tin hão huyền : bỏ cái đang có, đi tìm cái viển vông; bỏ ruộng vườn và nhà cửa theo ơn gọi để tìm sự vất vả, sống thiếu thốn và khó khăn; lùa đàn vật và dẫn gia nhân vào chốn vô định. Trước mặt Abraham là giải sa mạc mênh mông, đất cày lên sỏi đá. .  . Nhưng vì tin yêu Thiên Chúa, Abraham đã tiến bước ra đi và đã thành công, nêu gương sáng muôn đời cho chúng ta và trở thành người được chúc phúc!

Phaolô cũng làm một cuộc biến đổi ngoạn mục: từng là người hăng say bắt bớ những người tín hữu Chúa Kitô trở thành người sống chết vì Tin mừng của Chúa!  Phaolô đã vui vẻ đón nhận thử thách và trung thành đến giọt máu cuối cùng vì Đức Kitô và Thập Giá của Ngài. Phaolô đã được lột xác và biến đổi, một cuộc biến đổi không thể ngờ, thậm chí khó tin nếu nhìn theo khía cạnh loài người.


Lịch sử Giáo hội đánh dấu nhiều cuộc biến đổi lạ lùng, cụ thể:

Một Agustinô: từ say rượu đến say Chúa. 
Một Maria Mađalêna: từ gái giang hồ thành thánh và là chứng nhân nhiệt thành cho việc Phục sinh của Chúa. 
Một Inhaxiô Loyola: từ trai chinh chiến trở thành đấng lập dòng. 
Một Têrêsa Avial: từ kẻ khô khan đến người sốt mến
Một Giakêu: từ người tham lạm, hà khắc trở thành kẻ rộng lượng và khoan nhân... 

Đó là công việc của Chúa và con người hợp tác nhờ sức mạnh tình thương của Chúa. Đó là những cuộc canh tân và biến hình đã, đang và còn tiếp tục diễn ra trong lòng Giáo hội. Những điều cụ thể đó đủ chứng minh rằng ơn Chúa luôn tràn trề trong lòng mọi người dù cho họ có thể nào đi nữa, có ở trong hoàn cảnh và tình trạng nào đi nữa! Bất cứ khi nào, con người quyết tâm làm lại cuộc sống, biết đứng lên sau những vấp váp, sau những té ngã thì 
"ơn Ta vẫn đủ cho ngươi". Chúa đang ở cùng ta và giúp chúng ta chiến thắng ma quỉ, xác thịt và thế gian nơi cung lòng mỗi chúng ta. Chúa đã nói với chúng ta rằng: "Thầy đã thắng thế gian!" và "Các con đừng sợ!". Chúng ta đừng bao giờ thất vọng về chính mình, nhưng hãy biết can đảm đứng lên làm lại cuộc sống mỗi ngày và nhiệt tâm giúp đỡ những ai đang chán chường vì những thất bại và vấp ngã trên đường đời. Hãy lôi kéo họ đến với lòng thương xót của Chúa để họ được ơn biến đổi và trở thành kẻ chiến thắng thế gian nhờ sứac mạnh của Thánh Thần Chúa.

CHÚA NHẬT II MÙA CHAY
Lc 9, 28b - 36

Anh chị em thân mến.

Anh chị em đã nhiều lần xem văn nghệ, ca nhạc. Chúng ta nhìn thấy những nghệ sĩ trên sân khấu, họ biểu diển rất sinh động, sáng chói, khiến cho bao nhiêu người phải hâm mộ tài năng của họ. Nhưng chúng ta thử suy nghĩ xem: có phải tự nhiên mà họ có thể làm được như thế, mà trái lại không phải khổ công tập luyện, học hỏi trong một thời gian rất dài mới có thể bước lên trước mặt mọi người như thế. Đồng thời họ còn phải nhờ đến nhiều người khác, nhiều thứ phụ thuộc khác để phụ giúp cho tài năng của mình. Họ phải nhờ đến khung cảnh, âm thanh, ánh sáng. Nếu khi đang biểu diễn màbất ngờ nguồn điện không hoạt động, ánh sáng không còn nữa, thì xem như cuộc biểu diễn của nghệ sĩ đã thất bại. Họ phải tự luyện tập để tài năng của mình được vững vàng. Nhờ đến khung cảnh để tài năng được nhiều người biết đến. Nhờ đến ánh sáng bên ngoài để mình được tỏa sáng trong khung cảnh hơn.

Chúng ta vừa chứng kiến một khung cảnh sáng chói tuyệt đẹp mà các tông đồ đang ngất ngây. Các ông đang vui thích ngở ngàn vì mình được hưởng nhờ ánh sáng như thế. Các ông định dựng lều để ở trong ánh sáng đó mãi. " Lạy Thầy chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môi sen và một cho Elia". Các ông đang vui thích tận hưởng nguồn vinh quang mà mình không hề mất công để chuẩn bị. Các ông đang vui thích hưởng vinh quang không phải của mình. Vinh quang mà các ông đang nhìn thấy là vinh quang của Chúa Giêsu, Ngài được sáng chói trong khi cầu nguyện. Ngài được biến đỗi trong khi phải vượt lên núi cao, phải tỉnh thức và kế hợp với Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ thì đang ngủ. Các ông giật mình vì ánh sáng chói lòa. Các ông muốn tận hưởng điều không phải của mình. Khi các ông còn đang nói thì ánh sáng chợt biến mất, vì các ông nói điều không phải. Các ông chợt tỉnh ngộ vì tiếng nói: " Đây là Con Ta yêu dấu, Người được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người". Các ông đã vâng nghe và đã hưởng vinh quang thật.

Tiếng phán ngày xưa với các Tông đồ, cũng từng lập lại với chúng ta. Các Tông Đồ đã tĩnh ngộ, đã biết vâng nghe Lời, đã biết chuẩn bị để mình được biến đỗi trong ánh sáng. Còn chúng ta cũng như các Tông Đồ khi xưa, rất vui thích khi tận hưởng ánh vinh quang không phải của mình, chúng ta còn muốn chiếm hữu nó, và không muốn rời xa. Bổng nhiên ánh sáng vụt biến mất, chúng ta ngỡ ngàn, tiếc nuối, đôi khi còn có cả sự tức giận, vì ngở rằng đó là những gì của chính bản thân mình.

Trong đời sống hằng ngày, có những lúc chúng ta cảm thấy hạnh phúc bất ngờ, niềm vui bổng từ đâu hiện đến và ở bên chúng ta, rồi cũng vụt bay đi như khi đến, hết sức bất ngờ. Cũng có những lúc chúng ta đạt được thuận lợi trong công việc mà không cần phải tốn nhiều công sức; và còn có những của cải chúng ta đạt được không bằng con đường ngay chính. Chúng ta rất vui thích. Chúng ta ngỡ rằng, bằng chính tài năng, sức lực của mình mà có. Nếu bổng nhiên chúng ta mất đi tất cả, lúc đó chúng ta có biết nhận ra được sự thật như các Tông Đồ khi xưa: Biết nhìn vào chính mình, để lo chuẩn bị những cuộc khổ luyện đi lên núi, cầu nguyện thân tình với Chúa trong sự tỉnh thức để được tỏa sáng thật sự trong Chúa. Hay chúng ta kêu la phiền trách, đòi cho được những điều không phải là của chính mình. Chúng ta muốn mãi ở trong ánh sáng của người khác như thế sao? Thiên Chúa không cho chúng ta như thế đâu. Ngài sẽ cho ánh sáng biến đi khi chúng ta vừa có những ý nghĩ không chính đáng, để nhắc nhở và bảo mỗi người hãy quay về chính mình, hãy khổ công tập luyện như người nghệ sĩ, để có thể bước lên sân khấu. Hãy khổ công với những bước chân vượt lên núi, cầu nguyện thân tình với Chúa trong từng giây phút, từng công việc của cuộc sống. Khi đó mới được biến đỗi và trở nên sáng chói thật sự trước mặt Chúa. Khi đó ánh sáng sẽ không còn bị mất đi hay bị che phủ nữa.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết vâng nghe Lời Chúa, biết sống đúng với những gì mình lắng nghe, để được sáng chói trong vinh quang của Chúa.

VINH QUANG
Lc 9, 28b - 36

Người ta thường nói:

" Có làm thì mới có ăn 
Không dưng ai dể đem phần đến cho "

 
Hay: " Càng cao danh vọng càng dầy gian nan "

Thật vậy, muốn đạt được điều gì trong cuộc sống ta đều phải chịu nhiều hy sinh, vất vả. Càng gian lao khổ cực thì kết quả đạt được càng có giá trị cao. Một nông dân muốn vụ mùa của mình thu hoạch cao tất nhiên anh phải chịu gian lao, dầm mưa dãi nắng. Một sinh viên muốn được tuyển sinh cũng bắt buộc phải thức khuya dậy sớm dùi mài kinh sử ...

Hôm nay Chúa Giêsu dẫn 3 môn đệ lên núi và Người đã biến hình sáng láng trước mặt các ông. Điều này đã làm cho các ông cảm thấy hạnh phúc tột độ. Đến nổi Thánh Phêrô đã thốt lên: " Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a." (Lc 9, 33b). Đây chính là vinh quang thật của Chúa Giêsu. Vinh quang đã có tử thuở đời đời. Vinh quang được Chúa Cha xác nhận: " Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người! " (Lc 9, 35)

Do đâu mà Chúa Giêsu đã được vinh quang ấy? Vì Chúa Giêsu đã biết vâng theo ý Chúa Cha. Vâng theo ý Chúa Cha để sống thân phận làm người. Vâng theo ý Chúa Cha để đi con đường thập giá. Con đường mà có lúc Chúa Giêsu đã thốt lên: " Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha " . (Mt 26, 42)

Tất cả chỉ vì yêu thương con người. Từ thuở ban đầu Thiên Chúa đã ban cho con người được hưởng hạnh phúc và vinh quang. Tiếc thay điều ấy đã bị đánh mất do tội nguyên tổ. Ba môn đệ hôm nay thay mặt cho loài người hưởng vinh quang ấy trong chốc lát. Vinh quang ấy sẽ được vững bền khi ta biết đi theo con đường mà Chúa Giêsu đã đi. Người đã nói: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy " . (Ga 14, 6)

Như vậy, ta cũng sẽ được gọi là " Con yêu dấu " của Chúa Cha nếu ta biết sống và đi con đường như Chúa Giêsu. Con đường thập giá đi đến vinh quang. Một nhà Tu đức có nói: " Nếu bạn tìm Chúa Giêsu không Thập giá thì bạn sẽ gặp được Thập giá mà không có Chúa Giêsu " Và hãy nhớ ta không đi một mình mà luôn có Chúa Giêsu cùng đi. Người đã hứa: " Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28, 20b).

Khi ta chu toàn tốt bổn phận trong cương vị hiện tại của mình cách chu đáo và gương mẫu là ta đang sống và đang đi theo Chúa Giêsu đấy.

THẬP GIÁ VINH QUANG
Lc 9, 28b - 36

Chúa Giêsu biến hình hôm nay là một biến cố lạ kỳ đối với các môn đệ. Một người Thầy mà các ông đã gần gũi, từng chia sẻ buồn vui sao giờ lại trở nên vinh hiển đến khó tả? Tin Mừng chỉ nói dung mạo Ngài khác thường, áo Ngài trở nên trắng tinh. Với cách diễn tả rất vắn tắt cuộc hiển dung của Chúa Giêsu, Tin Mừng dẫn người nghe đến ý nghĩa cần thiết: Chúa Giêsu đang chuẩn bị cho cuộc khổ nạn của mình tại Giêrusalem, vinh quang Ngài tỏ ra trong phút chốc gieo cho môn đồ một niềm tin trước một biến cố đau buồn sắp xảy ra.

Các ông Phêrô, Gioan, Giacôbê lần đầu tiên chứng kiến là lùng này đến lạ lùng khác. Trước hết là gương mặt và y phục của Thầy mình: " Dung mạo Người trở nên khác thường, y phục Người trở nên trắng tinh" . Gương mặt Chúa Giêsu giờ đây được mặc lấy vinh quang của Thiên Chúa Cha. Nói cách khác, vinh quang Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu được biểu lộ cách rõ ràng cho các ông. "Á o của Người trở nên trắng tinh " nghĩa là Chúa Giêsu đã tiến vào khung cảnh của thiên đàng. Đức Giêsu tạm thời mặc lấy vinh quang phục sinh mà Ngài sẽ được hưởng khi sống lại.

Chúa Giêsu không tự ý quyết định điều gì ngoài ý Chúa Cha. Việc Ngài biến hình trong lúc cầu nguyện đã nói lên rằng Ngài cần biết thật chắc rằng Chúa Cha muốn Ngaì làm điều mà Ngaì sắp làm. Qủa thật , Ngài cần biết rõ ý Chúa Cha là Ngài phải lên Giêrusalem để chịu chết và chết trên thập giá.

Sự lạ kế đến đó là sự xuất hiện của Môisê và Elia. Đây là hai nhân vật vĩ đại của lịch sử Do thái. Môisen là nhà lập pháp vĩ đại, là người đã đem luật pháp của Thiên Chúa đến với loài người. Còn Elia là người vĩ đại hơn hết trong các tiên tri, qua ông mà Thiên Chúa phán dạy cách đặc biệt với loài người. Nhưng 2 ông xuất hiện ở đây để làm gì? Có thể nói 2 nhân vật vĩ đại này đến với Chúa Giêsu để ủng hộ Ngài, cứ mạnh bước đi! Hai ông muốn làm chứng rằng Chúa Giêsu đã đi đúng đường.

Điều lạ thứ 3 là hình ảnh đám mây sáng láng xuất hiện bao trùm lên các ông. Nếu đám mây này xuất hiện bao trùm thì cũng là chuyện thường tình, vì trên núi cao mây tụ lại là hết sức nhanh. Chỉ trong vài phút mây có thể tụ lại đầy ấp trên đỉnh núi rồi lại tan ra cũng nhanh như vậy. Tuy nhiên, có một điều đặc biệt là từ trong đám mây có tiếng nói của Chúa Cha: " Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người " . Chính Chúa Cha đã thừa nhận Chúa Giêsu là con của Ngài. Một lần nữa Chúa Cha đã chuẩn nhận con đường Chúa Giêsu sắp đi là hoàn toàn đúng đắn.

Chúa Giêsu giờ đây không còn nghi ngờ gì về quyết định của mình nữa. Con đường thánh giá Ngài sẽ qua trước hết có sự xác minh của lịch sử, có nhà lập pháp và vị tiên tri vĩ đại. Nhưng rồi một điều quá rõ ràng là chính Chúa Cha cũng đã chuẩn y con đường mà Chúa Giêsu đã chọn. Chính việc xảy ra trên núi này đã khiến Chúa Giêsu bước đi không nao núng trên con đường tới thập giá.

Cuộc biến hình của Chúa Giêsu mang lại cho các tông đồ niềm hy vọng và là một lời khích lệ cho các tín hữu. Đời sống của chúng ta tuy còn khó khăn, khổ cực, còn nhiều gánh nặng nhưng tất cả sẽ trở nên giá trị cứu độ khi ta biết thông phần với cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. Nếu ta chấp nhận khốn khó cùng Đức Kitô thì chắc chắn chúng ta cùng được hưởng vinh quang như Người. Cùng với 3 môn đệ xưa kia, ta ý thức rằng con đường thập giá hoàn toàn khổ nhục nhưng đằng sau đó là vinh quang mà Thiên Chúa sẽ ban cho ta. Các ông đã thấy được vinh quang bên kia cảnh nhục nhã, khải hoàn bên kia cảnh khổ đau.

Trong niềm mong chờ được hưởng vinh quang mỗi kitô hữu phải để Lời Chúa hướng dẫn từng ngày. Lời phán dạy của Chúa Cha " Hãy vâng nghe lời Người " như là điều kiện tiên quyết mà người môn đệ phải có. Khi ta để lời Chúa hướng dẫn, khi sống theo Chúa Kitô thì người tín hữu mới thoát khỏi cảnh hoang mang sợ hãi.

Điều nguy hiểm nhất ngày nay là con người không biết đâu là chân lý của cuộc đời. Con người sống trong nghi ngờ tất cả. Phần chúng ta thật may mắn vì Chúa Cha đã gửi gấm chúng ta cho Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chính là thầy dạy khôn ngoan và đang tin cậy nhất. Đời sống của kitô hữu không chủ trương đi tìm sự khổ nhục, vì chính tự sự khổ nhục không đem lại giá trị cứu rỗi. Chúng ta được mời gọi bước theo Chúa Kitô, con đường Chúa kitô là chấp nhận đau khổ. Chính khi chấp nhận đau khổ cùng Chúa Kitô chúng ta mới được hưởng vinh quang cùng với Ngài. Vinh quang không xuất hiện vì chính nó, nhưng nó xuất hiện để khoát lên một vẽ đẹp rực rỡ cho những công việc bình thường mà chúng ta thực hiện trên con đường theo Chúa Kitô.

MÙA CHAY HOÁN CẢI ĐỜI SỐNG
Lc 9, 28b - 36

1. LỜI CHÚA: "Đang lúc cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác" (Lc 9,29)

2. CÂU CHUYỆN: THẾ NÀO LÀ HOÁN CẢI

Trong một nhà giam các tù nhân trọng án, có một tù nhân khét tiếng hung ác tên là SI-TA ĐÊ-LI (Starr Daily). Anh ta vào tù ra khám nhiều lần vì tội say sưa đánh lộn và làm mất an ninh trật tự. Trong lần tuyên án thứ năm, quan tòa đã tuyên bố như sau: "Chúng tôi biết rằng có bắt anh ở tù thêm cũng chẳng kết quả bao nhiêu. Phải nói thật là: chúng tôi hoàn toàn thất vọng về anh! Nhưng chúng tôi không thể không tuyên án được. Lần này anh bị phạt tù giam 10 năm".

Sau khi vào nhà tù Đe-li vẫn ngoan cố, coi thường kỷ luật nhà tù hơn trước. Anh thường xuyên đánh đập bạn tù và chống lại cai tù, đến nỗi anh bị biệt giam trong một hầm tối dơ bẩn và đầy chuột cống... Một hôm, khi đang nằm ngủ trên nền gạch lạnh giá, đột nhiên Đe-li nghe thấy có tiếng nói như sau: "Hỡi Đe-li, tại sao mi lại bị nhốt riêng trong căn hầm khủng khiếp này? Tại sao mọi người đều thù ghét mi? Tại sao mi không dùng sức lực để làm tốt, mà cứ làm điều ác chống lại kẻ khác"... Tư tưởng này đã đánh động tâm hồn khiến Đê-li luôn suy nghĩ. Rồi một đêm kia Đe-li đã gặp được Đức Giê-su trong giấc mơ, Đấng mà anh đã xua đuổi ra khỏi cuộc đời mình từ năm 12 tuổi. Từ đó, hình ảnh của Đức Giê-su thường xuyên xuất hiện trong tâm trí anh. Anh mơ thấy Người đến bên âu yếm nhìn và nói với anh những lời mà anh đã từng thuộc lòng: "Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng", "Hãy yêu thương kẻ khác như yêu chính mình ngươi"... Anh cảm thấy tâm hồn bình an mà từ trước đến nay anh chưa bao giờ được hưởng. Rồi những ngày sau đó, khuôn mặt của những người đã từng bị anh hãm hại lần lượt xuất hiện trong tâm trí khiến anh cảm thấy rất hối hận. Lần đầu tiên, anh đã cầu nguyện: "Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội" (Lc 18,13).

Cảm nghiệm ấy đã biến Đe-li từ một người hung ác gian tham và đầy thù hận, trở thành một con người độ lượng bao dung! Sự biến đổi nội tâm khiến cho Đe-li không còn la hét đập phá như trước, Các nhân viên cai ngục đã nhận thấy có sự biến đổi nơi anh, họ đã cho phép anh được trở lại trại giam thường phạm. Tại đây anh bắt đầu đối xử tốt với các bạn tù: Anh luôn bênh vực những người mới đến, nên dần dần anh được mọi người trong trại quý mến. Rồi anh được giảm án từ mười xuống 5 năm. Mãn hạn tù, anh gia nhập vào "Nhóm cải thiện chế độ lao tù". Cùng với cha tuyên úy và các bạn, Đe-li đi thăm và động viên các tù nhân và hhuyên họ học tập tốt. Nhờ đó nhiều người đã sớm được trở về đoàn tụ với gia đình. Linh mục Pi-tơ Mác-sôn (Peter Marshall) đã bình luận về sự hóan cải này như sau: "Si-ta Đe-li là một bằng chứng sống động cho thấy: anh không chỉ là một người cũ được tân trang lại, nhưng chính là một tạo vật hoàn toàn mới của Thiên Chúa!".

Như vậy chính nhờ ơn Chúa mà Si-ta Đê-li đã được ơn biến đổi từ một tù nhân khét tiếng hung ác trở thành một tín hữu có lòng nhiệt thành yêu mến Thiên Chúa, một môn đệ đích thực của Chúa Giê-su khi anh quyết tâm học hỏi và thực hành Lời Chúa dạy, bênh vực những người yếu thế và tích cực góp phần làm cho nhiều người trở về làm con Chúa như mình.

3. SUY NIỆM:

Bài Tin Mừng Chúa Nhật II Mùa Chay hôm nay cho thấy Mùa Chay là thời gian thuận tiện để người tín hữu được ơn biến đổi nện tốt hơn và cần phải có những điều kiện nào để được biến đổi:

1) Phải kiên trì cầu nguyện: Ba môn đệ thân tín của Đức Giê-su là các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đã ngủ mê mệt khi Đức Giê-su đang cầu nguyện. Nhiều tín hữu hôm nay cũng thường bỏ bê việc cầu nguyện trong cuộc sống hằng ngày. Ho viện cớ quá bận bịu với việc làm ăn sinh sống nên không có giờ cầu nguyện, trong khi sẵn sàng bỏ nhiều thời gian để nói chuyện "chat" với bạn bè, chơi games hay xem phim trên mạng hoặc tụ tập ăn nhậu bê tha...  Sự cầu nguyện chính là thái độ tiên quyết cho thấy chúng ta có thiện chí muốn đổi mới đời sống hay không.

2) Phải nhờ ơn Chúa giúp: Đức Giê-su đã hiển dung khi đang cầu nguyện với Thiên Chúa như Tin Mừng ghi lại: "Dung nhan Ngừơi biến đổi và y phục Người cũng trở nên trắng tinh chói sáng". Cũng vậy, muốn được ơn đổi mới, các tín hữu cần lên núi cao để gặp Thiên Chúa. "Núi cao" ở đây không nhất thiết ở nơi đâu xa mà có thể ngay trong lòng chúng ta, khi chúng ta cùng đọc kinh tối với gia đình, hay khi tham dự các buổi ngắm nguyện tại nhà thờ, khi tham dự các buổi tĩnh tâm trong Mùa Chay Thánh... Chính nhờ ơn Chúa giúp mà chúng ta mới có thể được biến đổi như lời Chúa dạy: "Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được!" (Ga 15,5).

3) Phải năng học sống Lời Chúa: Trong cuộc hiển dung, Chúa Cha từ trong đám mây đã xác nhận Đức Giê-su là Con yêu dấu được tuyển chọn, và kêu gọi các môn đệ: "Hãy vâng nghe lời Người" (Lc 9,35). Lời Chúa có khả năng tỉa sạch các thói hư và biến đổi chúng ta nên tạo vật mới của Thiên Chúa (x. Ga 15,2). Trong Mùa Chay này, nhờ chấp nhận con đường "qua đau khổ vào trong vinh quang", biểu lộ qua việc quýet tâm ăn chay, hãm mình và chia sẻ bác ái... mà chúng ta sẽ được ơn Chúa biến đổi nên con thảo của Chúa Cha như Chúa Giê-su xưa.

4. THẢO LUẬN:

1) Trong Tin Mừng, các môn đệ thường buồn ngủ mỗi lần cùng Đức Giê-su cầu nguyện. Còn bạn, bạn có gặp khó khăn nào khi cầu nguyện không? Bạn cần làm gì để vượt qua điều ấy?

2) Trong Mùa Chay Hội Thánh kêu gọi các tín hữu siêng năng cầu nguyện, ăn chay và chia sẻ cơm bánh cho người nghèo để được ơn biến đổi. Vậy bạn sẽ làm gì cụ thể?

5. NGUYỆN CẦU:

- LẠY CHÚA GIÊ-SU, Xin hãy biến đổi con người con trong Mùa Chay này: Mỗi lần con được gặp Chúa, xin biến đổi con được nên giống Chúa nhiều hơn:  Xin hãy biến cái nhìn của con nên hiền từ bao dung như cái nhìn yêu thương của Chúa. Xin biến đổi môi miệng con chỉ nói những lời động viên an ủi những người đau khổ. Xin biến đổi tai con để sẵn sàng lắng nghe và cảm thông với những ai cần sẻ chia nâng đỡ. Xin cũng biến đổi khuôn mặt con luôn rạng ngời vinh quang của Chúa.

- LẠY CHÚA GIÊ-SU, ước chi những ai có dịp tiếp xúc với con đều nhận ra Chúa đang ở trong con qua ánh mắt nụ cười của con. Ước chi mọi người đều nhìn thấy sự hiền lành bao dung của Chúa qua lời nói và thái độ ứng xử của con. Con biết rằng: Thế giới hôm nay không cần những tín hữu chỉ đạo đức bằng kinh lễ tại nhà thờ, nhưng cần những ai biết vừa cầu nguyện kết hiệp mật thiết với Chúa, lại vừa biết tích cực dấn thân phục vụ tha nhân đau khổ. Xin cho con biết bỏ ý riêng ích kỷ để tích cực góp phần giúp cho nhiều người nhận được ơn cứu độ của Chúa.

X. Hiệp cùng Mẹ Maria

Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con. 

LM ĐAN VINH   www.hiephoithanhmau.com

HÃY VÂNG NGHE LỜI NGƯỜI
Lc 9, 28b - 36

"Này, ai chịu trách nhiệm chính ở đây vậy?" Đây là một mệnh đề, không mang tính trách cứ, của một người đang cần sự giúp đỡ. Có thể ai đó đi vào trong một tiệm sửa chữa và xem ra chăng ai thèm quan tâm gì hết. Các công nhân quá lơ đễnh hoặc đang bận tâm đến nhiệm vụ của mình. Còn có thể nói gì khác hơn là hỏi: "Thế ai phụ trách chính ở đây?" Chắc chắn sẽ có người nghe thấy và giúp đỡ.

Vì hậu quả của tội lỗi mà thế giới này trở nên một nơi hỗn độn và chẳng ai biết phải làm gì nữa. Con người sao nhãng và chỉ quan tâm đến thế giới riêng của họ. Thậm chí các quốc gia cũng lạnh nhạt với những nỗi đau của đám đông dân chúng. Chúng ta không chịu nổi và phải hỏi một câu hỏi lớn: "Ai chịu trách nhiệm đây?" Chúng ta hỏi câu hỏi đó bằng nhiều cách khác nhau: "Cuộc chiến này đã bắt đầu ra sao?" "Tại sao có quá nhiều người nghèo đói trên thế giới?" "Ai đã làm xáo trộn môi trường?" "Tại sao chúng ta phải chi khá nhiều tiền cho những thứ vũ khí quân sự?" "Tại sao quá nhiều người trước đây vẫn đi nhà thờ nay lại bỏ không đi nữa?" Chúng ta phải làm gì với vấn nạn nghiện ngập và cuộc sống của những bạn trẻ đang bị chúng huỷ hoại?" "Ai chịu trách nhiệm thế?"


Chính Thiên Chúa Đấng nói với chúng ta hôm nay qua Sách thánh cũng đang tiến đến và mời gọi chúng ta đáp lại trong vâng phục và tín thác. Liệu chúng ta có thể chấp nhận lời mời đó cũng như luật lệ của Người hay không? Nếu có thể, ít là một lần trong đời khi chúng ta hỏi: "Thế ai chịu trách nhiệm ở đây?" chúng ta có thể trả lời bằng chính lời của mình và hành vi của đời mình: "Thiên Chúa chứ ai".


Ápraham bắt đầu hiểu ra rằng Thiên Chúa có một kế hoạch dành cho nhân loại đang sống trong tình trạng hỗn độn do tội lỗi gây nên. Thiên Chúa đã gọi Ápraham và hứa rằng ông và Sara sẽ có con cái đông đảo và trở thành "một đất nước vĩ đại" (St 12,1-2). Câu chuyện Sách Sáng Thế hôm nay đã bắt đầu hé lộ cho thấy kế hoạch của Thiên Chúa sẽ được hoàn tất ra sao.


Trước hết, Ápraham và bà Sara không hề tin vào lời Thiên Chúa hứa với họ; họ không phải là những siêu mẫu về đức tin, ít là vào lúc ban đầu. Người ta có thể nghĩ rằng nếu thực sự Thiên Chúa muốn hoàn thành một điều vĩ đại, như Ngài hứa, Thiên Chúa nên chọn những ứng viên sáng giá hơn để khởi đầu cho tiến độ của mình. Nhưng ngay cả người tốt nhất cũng không thể nào xoá sạch được những xáo trộn của thế giới; chỉ Thiên Chúa mới có thể làm điều đó. Chính Thiên Chúa đã đi bước trước khi bước vào cuộc đời của Ápraham và Sara.


Sự tỏ hiện cho Ápraham bao phủ ông trong một "sự tối tăm kinh hãi". Trong Sách thánh khi Thiên Chúa tỏ hiện với con người, thường thì phản ứng trước tiên của họ là sợ hãi. Điều đó cũng đúng với những gì xảy ra trong Tin mừng; như được chứng tỏ trong câu chuyện Biến hình hôm nay. Một đám mây bao phủ trên ba Tông đồ và khi bước vào khung cảnh ấy họ hoảng sợ. Quý vị có sợ không? Đó là nỗi sợ của con người đơn thuần trước Đấng Toàn Năng và Đấng Thánh.


Thánh Phaolô (Rm 4,3) sẽ suy tư về sự đáp trả của Ápram (mà sau này gọi là Ápraham) Như được nói trong Sáng thế: "Ápraham đặt niềm tin nơi Đức Chúa, và Người gọi ông là công chính". Một người trở nên công chính bằng cách dấn thân và bước vào trong tương quan với Thiên Chúa.Chính lòng tín thác khiến cho Ápraham được nên công chính trước mặt Thiên Chúa; ông tin những gì Thiên Chúa hứa và nay trong mối tương quan thâm tín nơi Thiên Chúa. Ông sẽ đi đến cùng, tin tưởng rằng lời hứa dành cho ông đã được thực hiện.


Giao ước giữa Thiên Chúa và Ápraham chỉ là khởi đầu cho những lời hứa tương tự Thiên Chúa sẽ thực hiện với những con người khác. Điều yêu cầu nơi con người trong mỗi giao ước là tin tưởng vào lời hứa và thực thi những điều ấy - dẫu cho nó chưa thực sự hoàn trọn. Các Môn đệ của Đức Giêsu cũng làm tương tự: bước vào trong tương quan yêu thương với Đức Giêsu và thay đổi cuộc đời của mình để cho thấy sự dấn thân của họ cho những gì đã cam kết.


Phêrô, Giacôbê và Gioan cùng đi với Đức Giêsu lên núi để cầu nguyện. (Trong phần này của Tin mừng Luca, Đức Giêsu lưu tâm đến một nhóm nhỏ các môn đệ). Luôn luôn, trong Tin mừng Luca Đức Giêsu là hình ảnh của một con người cầu nguyện; đặc biệt là trước khi Người sắp quyết định một điều lớn lao. Trong bài Tin mừng hôm nay dường như các môn đệ cũng ở đó để cầu nguyện. Môsê và Êlia ở đó để nói về "cuộc vượt qua" của Đức Giêsu - một hình ảnh gợi nhớ việc dân Israel được giải thoát khỏi cảnh nô lệ bên Aicập. Xuất hành cũng ám chỉ đến việc Đức Giêsu chịu chết tại Giêrusalem; một cuộc giải thoát cho chúng ta khỏi cảnh nô lệ của tội lỗi.


Thế giới xáo trộn vì tội lỗi. Thiên Chúa lãnh trách nhiệm này và, trong Đức Giêsu, Người đã bước vào để can thiệp. Nếu có bất kỳ nghi ngại nào về việc Thiên Chúa sẽ hoàn tất hành động này ra sao thì tiếng nói phát ra từ đám mây loan báo cho các môn đệ: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người". Các môn đệ "đang ngủ say" nhưng lại "hoàn toàn tỉnh thức" khi vinh quang của Đức Giêsu chiếu toả và Môsê với Êlia hiện ra với Người. Một lần khác, các môn đệ cũng lại mê ngủ khi Đức Giêsu trải qua cơn hấp hối trong vườn Cây Dầu. Biến cố Biến Hình là hình bóng cho thấy vinh quang phục sinh và đưa ra hứa hẹn rằng các Tông đồ sẽ mãi là những môn đệ trung tín của Đức Kitô.


Những thất bại của các môn đệ cũng được nêu ra trong suốt Tin mừng. Thậm chí ngay trong bối cảnh này, Phêrô cũng không hiểu được tầm quan trọng của những gì ông đang chứng kiến. Ông muốn dựng ba chiếc lều cho Đức Giêsu, Êlia và Môsê. Dường như ông cho rằng cả ba đều cùng một cấp độ. Ông cũng muốn dừng lại đôi chút. Nhưng Đức Giêsu muốn những kẻ theo Người cùng hành trình lên Giêrusalem với Người. Người có việc phải làm và các môn đệ cũng sẽ tiếp tục công việc đó sau khi Người phục sinh và ban Thánh Thần cho các ông. Tiếng nói: "Đây là Con Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người", phải làm sáng tỏ sự việc cho các môn đệ. Đức Giêsu không chỉ là người ra lề luật như Môsê hay đơn thuần là ngôn sứ như Êlia. Nhưng, kế hoạch của Thiên Chúa hầu chữa lành con người khỏi vết thương do tội lỗi sẽ được thực hiện nơi Đức Kitô, Đấng trong tương quan đặc biệt với Thiên Chúa như tiếng nói ấy đã loan báo.


Tiếng nói đó cũng tỏ cho thấy Thiên Chúa sẽ thực hiện lời hứa về dòng dõi, đông như sao trên trời, mà Người đã hứa cùng Ápraham và Sara. Những người "lắng nghe" Đức Giêsu sẽ được kể vào số những con cái của dòng dõi này. Trong Sách thánh "lắng nghe" hay "nghe" ám chỉ bước kế tiếp sau khi nghe - tin tưởng vào người nói và hành động theo những gì vừa nghe.


Chúng ta đang cùng với Đức Giêsu và ba môn đệ đi xuống núi. Nhưng nếu như kinh nghiệm trên đỉnh núi có chút nào ý nghĩa với các Kitô hữu hiện đại, thì điều đó cũng mạc khải Đức Giêsu cho chúng ta và vinh quang mà chúng ta sẽ được chia sẻ với Người khi chúng ta được sống lại. Trong khi chúng ta "đang lắng nghe" những gì Người nói với các môn đệ xưa kia cũng là nói với chúng ta về lời mời gọi vác lấy thập giá và theo Người trên con đường tự phục vụ, trao hiến chính mình cho người khác, như Người đã làm.


Thường thì những của lễ mà tư tế dâng trong Đền Thờ cũng như những hành vi vâng phục làm cho một người nên "công chính".Nhưng với trường hợp của Ápraham và những gì chúng ta nghe được trong trình thuật Biến Hình trên núi, thì chính đức tin mới đưa chúng ta vào trong tương quan đích thực với Thiên Chúa và tha nhân. Căn bản của sự công chính nơi chúng ta chính là niềm tin vào Đức Giêsu Kitô và lời của Người.


Lắng nghe lời của Đức Giêsu lúc đầu có thể cảm thấy lúng túng và khó hiểu. Nhưng một khi chúng ta nghe Người nói những lời an ủi và đảm bảo về tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người, thì đáng để chúng ta dành cả đời cho vị thế đáng giá của người môn đệ. Nếu chúng ta muốn chia sẻ vinh quang của Người, chúng ta cũng phải chia sẻ đau khổ của Người nữa. Chúng ta không chỉ đón nhận những đau khổ này cách đơn thuần như việc tự khinh chê mình, một hình thức của khổ chế. Nhưng, chúng ta trao hiến chính mình như người phục vụ dành cho những kẻ đau khổ sống xung quanh.


Những thực hành Mùa Chay cho chúng ta biết rằng, như những môn đệ trên núi, chúng ta cũng đang mê ngủ trong những trách nhiệm của người Kitô hữu, buồn ngủ và mộng tưởng về chính mình. Nếu như vinh quang của Đức Kitô có thể thấy được ngay bây giờ thì chúng ta thấy được ngay bên dưới những đau khổ. Mùa Chay mở mắt và đánh thức chúng ta để đáp lại lời mời gọi: "hãy vâng nghe lời Người". Những gì chúng ta nghe được nơi Đức Giêsu là mời gọi chúng ta phục vụ tha nhân.


Sau khi tiếng nói được phát ra, thánh Luca cho chúng ta biết "chỉ còn lại một mình" Đức Giêsu. Nơi Người có trọn vẹn cả hai vai trò: Môsê đại diện cho luật pháp và Êlia đại diện cho ngôn sứ. Tin tưởng vào Đức Giêsu giúp chúng ta thực thi luật và làm cho chúng ta trở nên công chính; lắng nghe và làm theo những lời ngôn sứ của Người, như các ngôn sứ đã làm, giúp chúng ta lắng nghe được tiếng kêu than của người nghèo.


Vì thế, chúng ta nhìn quanh và hỏi: "Ai chịu trách nhiệm ở đây?" Trong sách Sáng Thế và Tin mừng Luca, chúng ta lại được nhắc cho biết: "là chính Chúa". Đức Giêsu là dấu chắc chắn nhất cho thấy Thiên Chúa đã thực thi sự tha thứ, chữa lành và hiệp nhất. Nếu những dấu chỉ ấy đã được nhìn ra ngay trong thế giới của chúng ta, là những môn đệ của Người, pải nghe được lời Người nói và làm cho lời ấy thành hiện thực bằng chính hành động của chúng ta. Như tiếng nói phát ra trên núi: "Hãy vâng nghe lời Người".

Lm Jude Siciliano, OP
Chuyển ngữ: Anh Em HV. Đaminh Gò Vấp

KINH NGẠC
Lc 9, 28b - 36

Kinh ngạc bao gồm hai ý nghĩa, khi thì rất đỗi ngạc nhiên, khi thì thất đảm kinh hồn. Đời người là một chuỗi những kinh ngạc liên tục xảy ra. Những kinh ngạc này như giây tơ vô hình nối chặt đời người giữa quá khứ với tương lai. Dựa vào những kinh ngạc xảy ra trong đời con người tìm hiểu nhận biết về chính mình.

Có những ngạc nhiên chúng ta vui vẻ chấp nhận. Lại có những ngạc nhiên chúng ta bàng hoàng và có những ngạc nhiên chúng ta sửng sốt đến sững sờ, không biết phải phản ứng như thế nào cho thích hợp. Cả hai kinh nghiệm ngạc nhiên, thất đảm đều cần thiết vì chúng giúp cân bằng cuộc sống. Nếu toàn thất đảm kinh hồn đời ảm đạm, thê lương. Khi đời lắm hào quang rực rỡ, ánh quang đốt cháy lòng khiêm nhường, chối bỏ ngay cả Đấng dựng nên ta.


Lanh lẹ hay chậm chạp, khôn hay khờ là kết quả của tự học những kinh ngạc trong đời. Không sách vở nào hướng dẫn, chỉ bảo, thay thế được kinh nghiệm kinh ngạc cá nhân. Chính cá nhân đó phải trải qua kinh nghiệm bản thân để khám phá ra con người thật của mình, hiểu biết thêm về mình nhiều hơn. Đời quả là thú vị nếu chịu học hỏi vì ngạc nhiên này dẫn đến ngạc nhiên khác, liên tục nối tiếp nhau khám phá mới lạ trong đời. Nguồn sống đó không bao giờ cạn, chỉ có thời gian tìm hiểu bị giới hạn, sức khoẻ và ý chí khám phá mỏi mòn.


Huyền Bí


Thắc mắc huyền bí cuộc đời, câu trả lời thường đến sau biến cố. Sự việc xảy ra xong, nhìn lại, kiểm điểm mới nhận biết câu trả lời có từ trước nhưng giờ này mới nhận ra. Con người luôn khao khát muốn biết thêm về những huyền diệu, mầu nhiệm đời người. Vì lẽ đó nhiều người, trong đó có cả Kitô hữu, bị các nhà thần bí dụ dỗ, lung lạc niềm tin. Thay vì tìm hiểu mầu nhiệm cuộc đời họ đi khám phá những huyền bí trong đời. Đã gọi là huyền bí thì không thể khám phá. Khám phá được thì không phải là huyền bí. Tìm câu trả lời cho tương lai dựa vào bói toán, chỉ tay, tướng số, tử vi một cách nào đó biểu lộ lòng tin hời hợt. Thiên Chúa sáng tạo huyền bí cuộc đời tin vào lời Ngài chính xác và chính đáng hơn là tin vào lời kẻ thông dịch huyền bí. Tin hời hợt khổ hơn là không tin.


Mầu Nhiệm Đời Người


Mỗi Kitô hữu là một mầu nhiệm trong tay Thiên Chúa sáng tạo. Vì thế không có hai người giống hệt nhau. Trông từa tựa thì có, giống hệt thì không vì Chúa không bao giờ lập lại cùng công việc Ngài đã sáng tạo. Mỗi giây, phút đều khác nhau, mỗi người là tạo vật đặc biệt duy nhất trong Chúa. Không giờ nào giống giờ nào, không ai giống ai nên các nhà huyền bí dựa vào đâu để đoán. Dựa vào giờ sanh, năm tháng, đồng hồ bệnh viện thường chênh lệch nhau vài phút. Sai một li đi một dặm. Dựa vào chỉ tay, khuôn mặt, tướng đi là tiên đoán ngoài da, không đi sâu vào tim, óc, lòng người. Vấn đề tâm linh phức tạp vạn lần hơn tim óc. Hoa tay, chỉ chân, mụn ruồi đâu giải thích nổi mầu nhiệm tình yêu sáng tạo.


Nói đến võ đoán là chấp nhận đúng/ sai. Nếu tin câu trả lời luôn đúng thì vần đề không phải là đoán mà là xác quyết. Để xác định cần có dữ kiện. Sự việc xảy ra rồi mới có dữ kiện. Đoán vận mệnh tương lai dựa vào dữ kiện là việc làm thừa, mông lung. Không ai cầm giữ được dữ kiện tâm linh chính xác vì không thể cân đo, thử nghiệm, lập đi lập lại được. Thiếu các điều kiện cân đo, thử nghiệm, câu trả lời thuộc phạm vi võ đoán. Đã là võ đoán thì ai cũng có thể đoán được cần chi đến các nhà huyền bí coi tướng số, chỉ tay, tử vi trọn đời.


Đời người là một mầu nhiệm. Vì là mầu nhiệm nên có tính thần thiêng, linh thánh. Thiên Chúa yêu thương con người nên tạo dựng con người. Thiên Chúa còn yêu thương mặc khải mầu nhiệm tình yêu qua các biến cố trong đời để giúp con người học biết đáp trả tình yêu Chúa và yêu thương đồng loại. Mặc khải không xảy ra cùng lúc nhưng từ từ bộc lộ để con người học biết, trưởng thành và khám phá thêm về chính mình, hương vị tình yêu và ý nghĩa cuộc sống. Toàn thể mầu nhiệm con người tóm gọn trong mối tình Chúa yêu ta. Tình yêu chân chính đòi dấn thân và hy sinh. Đó là con đường vinh quang của thập giá.


Chìa Khoá Yêu Thương


Tình yêu mặc khải qua biến cố, lo âu, đau khổ, bệnh tật, già nua Kitô hữu gọi đó là thập giá. Tình yêu còn mặc khải qua niềm vui, hạnh phúc, hoan lạc Kitô hữu coi đó là vinh quang thập giá. Đời người pha trộn giữa thập giá và vinh quang. Chìa khoá duy nhất khai phá mầu nhiệm này là thực hành cầu nguyện, chay tịnh và bác ái.


Thánh Luca 9 thuật lại dung mạo Chúa thay đổi trong lúc Ngài cầu nguyện và đàm đạo với tổ phụ Môisê và Êlia về cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Jerusalem. Cuộc xuất hành chính là con đường khổ nạn Chúa sắp lãnh nhận.


Biến cố gồm niềm vui, nỗi buồn, đau khổ, bệnh tật. Chúa dạy các Tông đồ biến cố trên đời thường chóng, qua, tạm bợ như lều tạm các ông muốn xây trên núi thánh. Biến cố có thể gây cao hứng, chói loà mắt, làn mây mù che mờ mắt, mơ màng của giấc ngủ và xuống núi. Dựa vào Lời Chúa biến cố đều là chìa khoá tháo gỡ mầu nhiệm tình yêu. Đức Tin mạnh giúp nhận ra tình yêu Chúa qua biến cố. Tin nửa vời thường thông dịch là Chúa phạt.


Mầu nhiệm tình yêu hoàn toàn tháo gỡ khi con người trở về cùng Đấng đặt mầu nhiệm vào đời họ. Khám phá cuối cùng và cũng là khám phá thú vị nhất đến sau sự chết. Vì thế không ai có thể kể lại cho người khác biết về những gì họ đã biết. Nhân chứng duy nhất là Đức Kitô sống lại từ cõi chết kể lại có kẻ tin, người không. Trong số những kẻ tin lại có kẻ tin nửa vời, bán tín, bán nghi. Đời quả lắm ngạc nhiên.

Lm Vũ Đình Tường

CHÚA GIÊSU BIẾN HÌNH
Lc 9, 28b - 36

Chúa nhật thứ hai Mùa Chay trong năm đức tin càng thôi thúc chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Quả vậy, ba môn đệ thân tín của Chúa Giêsu là Phêrô, Giacôbê và Gioan đã được chứng kiến giây phút Thầy chí thánh trên núi xuất thần.

Cảnh tượng ấy đã củng cố niềm tin của các môn đệ, ngày nay nó vẫn làm vững mạnh niềm tin của mỗi Kitô hữu. Do đó, vinh quang của Chúa Giêsu là sức mạnh giúp các môn đệ và chúng ta vững tin, vượt qua những thử thách, gian gian ở trần gian này...


Trong cuộc hành trình rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã vài lần loan báo về cuộc thương khó mình sẽ phải chịu. Thực tế, các môn đệ đi theo chân Chúa vẫn không hiểu về những điều Thầy loan báo. Nên, đêm hôm ấy, Chúa Giêsu đã cùng ba môn đệ được xem là thân cận nhất của Chúa dẫn nhau lên núi cầu nguyện. Chúa Giêsu đã thưa với Chúa Cha thế nào, chúng ta không rõ...Chúa Giêsu cầu nguyện, ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan lại đắm chìm trong giấc ngủ miên man, không hay không biết Thầy của mình đang trò chuyện với Thiên Chúa Cha. Nhưng sau khi tỉnh giấc, ba môn đệ thấy Chúa Giêsu vinh quang sáng chói, hai ông Môsê và Êlia cũng rạng rỡ vinh quang, đàm đạo, chuyện trò thân mật với Chúa. Phêrô cao hứng thưa với Chua Giêsu: " Thưa Thầy, chúng con ở đây thì thật là hay " ( Lc 9, 33 ).Các môn đệ thích nơi vinh quang, sáng láng nhưng lại không tỉnh thức cầu nguyện. Các ngài muốn căng lều, đóng trại trên núi cao, nhưng lại đắm mình trong ngủ say. Và rồi, trong biến cố kinh hoàng của Thầy trong vườn Cây Dầu, các môn đệ vẫn chứng nào tật nấy, vẫn mê ngủ, khoái ăn, tới lúc kẻ thù đến bắt mất Thầy của mình, các Ông nhốn nháo, xôn xao, giao động...Đây thật sự cũng là sự yếu hèn của thân phận con người ở trần gian này.


Sống với các môn đệ, Chúa Giêsu hiểu rất rõ các ông thật yếu đuối, Ngài thấu suốt tâm hồn các Ông, nên trên núi Tabôrê, Chúa đã cho các môn đệ được chiêm ngắm vinh quang của Chúa cho dù vinh quang ấy chỉ xẩy ra chốc lát...Vinh quang này đã củng cố lòng tin của các môn đệ để các ngài thông phần với sự khổ nạn của Chúa Giêsu mà Ngài sẽ thực hiện tại Giêrusalem. Vinh quang này cũng minh chứng về lời loan báo của các môn đệ sau này về sự sống lại của Chúa.


Phêrô ở Cêsarê trước đó tám ngày đã tuyên xưng: " Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống " ( Mt 16, 16 ) thì hôm nay trên núi Tabôrê Chúa đã chứng thực cho các ông thấy sự sáng láng của Ngài vì Ngài thực là Con Thiên Chúa. Biến cố biến hình của Chúa Giêsu là mạc khải về vinh quang, về sự hiện diện của Chúa giữa nhân loại. Chúa đem Nước Trời vào trần gian để muôn người nhận ra tình thương và lòng thương xót của Chúa.


Vinh quang mà Chúa Giêsu biến hình trên núi Taborê quả thực là sự đáp trả tình thương của Chúa Giêsu khi Ngài chấp nhận đáp trả lại sự khổ nạn, phục sinh để vâng lời Thiên Chúa Cha. Sự đáp trả này là lời mời gọi mọi người chúng ta luôn gắn bó và bám chặt lấy Chúa Giêsu.


Việc Chúa biến hình sáng láng, vinh quang chỉ xẩy ra một thời gian ngắn. Để rồi sau đó, Chúa chấp nhận cuộc tử nạn và phục sinh. Tin mừng của thánh Luca cho hay khi trên núi đi xuống Chúa Giêsu đã nói về cái chết và sự sống lại của Ngài, nhưng các môn đệ không hề hiểu gì. Mọi người Kitô hữu cũng vậy thôi, đứng trước nhiều cái chết chúng ta chẳng hiểu gì về sự sống lại cho tới Chúa lại đến trong vinh quang.


Chúa biến hình chốc lát rồi lại trở lại trạng thái bình thường. Chúa và các môn đệ lại tiếp tục cuộc sống hằng ngày. Nhưng trong mọi niềm vui nỗi buồ, Chúa luôn hiện diện để nâng đỡ và củng cố niềm tin của chúng ta.


Lạy Chúa Giêsu,
Trong ánh vinh quang lung linh của ánh sáng chói lòa trên đỉnh núi Tabôrê
Chúa đã củng cố đức tin của ba môn đệ thân tín: Phêrô, Giacôbê và Gioan,
Ngày nay, Chúa luôn hiện diện giữa cuộc đời chúng con
Và can thiệp đúng lúc vào những hoàn cảnh cuộc đời của chúng con.
Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn nhận ra
Chúa nơi những người khác và nơi trạng huống cuộc đời dù thuận hay nghịch.Amen.

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

VINH QUANG CHÚA
Lc 9, 28b - 36

Người Việt Nam đã quan niệm "Sống gửi thác về".
Quan niệm này thật đáng trân trọng. Tuy nhiên "về đâu" thì lại còn tùy thuộc vào kinh nghiệm tâm linh của từng người.

Riêng người tín hữu, được lời Chúa hướng dẫn, trên cuộc lữ hành trần thế, họ bước đi theo ánh sáng của vinh quang thiên giới mà đích đến sẽ là quê trời vĩnh cửu.


Là người, ai cũng cần đến nhu cầu vật chất để tồn tại. Để có vật chất, nhiều người đã vất vả ngược xuôi để tìm định cư nơi những miền đất trù phú tràn trề sữa mật...; không ít người xây dựng cuộc đời trên những theo cách trần thế. Nhiều vị vua trần gian còn xây những lăng mộ cho chính mình để kéo dài sự tồn tại của bản thân bên kia cái chết.


Trái lại, ngày nọ, trong khi ông Áp-ra-ham già nua cùng với gia đình sống giàu sang sung túc thì Đức Chúa đã kêu gọi ông phải từ bỏ tất cả để đi theo tiếng Chúa (x. St 12, 1-9). Đức Chúa đã hứa ban cho cho ông: có đất làm gia nghiệp, có con để nối dõi. Người còn hứa ban cho ông được dòng dõi đúc như những vì sao trên vòm trời. Để giữ đúng lời hứa, Đức Chúa đã kết giao ước với ông (x. St 15, 5-12.17-18).


Thì ra, tất cả sang trọng của thế gian chỉ là phù vân; của cải, tài sản, niềm vui, ngay cả những khôn ngoan của con người cũng chỉ là phù vân. Ông Áp-ra-ham đã không rơi vào cơn cám dỗ đắm mình trong những phù vân. Ông đã hoàn toàn tin tưởng Đức Chúa và bước đi theo đường lối của Người.


Nối tiếp lòng tin của ông Ap-ra-ham, hôm nay, các môn đệ Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê cũng theo Đức Giê-su lên núi và đã chiếm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giê-su.


Trên núi cao Đức Giê-su đã mạc khải chính Người là trung tâm của lịch sử khi đàm đạo với hai nhân vật đặc biệt trong lịch sử cứu độ: ông Mô-sê đại diện cho lề luật, ông Ê-li-a đại diện cho các ngôn sứ. Như thế, tất cả lề luật và lời dạy của các ngôn sứ đã hướng về Đức Giê-su, Ngôi Lời của Thiên Chúa làm người.


Đang khi Đức Giê-su cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa (Lc 9, 28). Thánh Mác-cô còn xác định "Y phục người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy" (Mc 9, 3). Rõ ràng không có điều gì ở trần gian có thể so sánh được với Đức Giê-su. Người là Thiên Chúa vĩnh cửu "là một hôm qua cũng như hôm nay và như vậy mãi mãi đến muôn đời (Dt 13, 8).


Dung mạo Đức Giê-su rực rỡ, y phục Người đã chói lòa vinh quang thiên giới. Vinh quang ấy đã tỏa sáng trên cuộc đời các môn đệ, cuốn hút các ông đến nỗi ông Phê-rô tràn ngập niềm hạnh phúc quyết định nhanh chóng và vui sướng thốt lên: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a" (Lc 9, 33).


Vinh quang thiên giới đã được Đức Giê-su mạc khải và cuốn hút ông Phê-rô khiến ông quên đi tất cả chuyện trần gian, quên luôn bản thân mà chỉ còn biết phục vụ Thiên Chúa, phục vụ lề luật, phục vụ lời ngôn sứ, phục vụ ơn cứu độ.


Vinh quang thiên giới tiếp tục cuốn hút thánh Phao-lô khi ngài xác tín: "Quê hương chúng ta ở trên trời và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta" (Pl3, 3) và mời gọi: "Anh em hãy kết hợp với Chúa mà sống vững vàng như vậy" (Pl 4, 1).


Vinh quang thiên giới cũng đang cuốn hút người tín hữu hướng tới và mở ra cho họ cách thế để đạt thấu bằng đời sống đón nhận và "vâng nghe lời Người" (Lc 9, 35).


Vinh quang thiên giới đã được Đức Giê-su mạc khải nhưng trong thực tế nhiều người trong nhân lọai vẫn "sống đối nghịch với thập giá của Đức Ki-tô" (Pl 3, 18). Họ chỉ nghĩ đến "cái bụng" nghĩ đến chuyện thế gian, đắm mình trong những đam mê của thế trần,


Mùa chay thánh là lúc Hội Thánh khẩn thiết nhắc nhở người tín hữu:


- Hướng về Chúa Giê-su nguyện xin Người soi sáng để cảm nhận ánh sáng siêu nhiên của Chúa đang chiếu soi tâm hồn mình và sẽ cuốn phăng đi những tội lỗi và thay thế vào lòng yêu mến Chúa và dấn thân yêu thương phục vụ tha nhân.


- Từ bỏ cái tôi hầu mở rộng tấm lòng thiện chí để vâng nghe lời Chúa, để ý thánh Chúa được lớn lên trong cuộc đời, để ý kiến của người khác được đón nhận, để cộng đòan được hòa điệu hầu trở thành nơi tin tưởng chốn yêu thương.


- Nhìn mọi sự với ánh mắt tâm linh để chọn lựa thánh ý Chúa, hầu tự chủ đới với bản thân, kiên nhẫn với người vô kỷ luật, nâng đỡ những người yếu, khuyến khích người nhút nhát, luôn làm điều thiện.


- Theo gương Đức Giê-su, trước những thử thách không óan trách thiên hạ, đối thủ, xã hội, Thiên Chúa... không chui vào cái vỏ tủi thân, cay đắng buông xuôi chán đời... nhưng đón nhận đón nhận khổ chế như cơ hội "vàng" để rèn luyện và thánh hóa bản thân nên giống Chúa Giê-su.


Tất cả những điều nêu trên sẽ thể hiện qua những việc thực hành đạo đức: gia tăng cầu nguyện, xưng tội, dâng lễ, nghe giảng dạy, chay tịnh, khổ chế... hầu trở thành thói quen nhân đức khiêm tốn, giúp tan biến đi những tội lỗi hư đốn, thêm sức mạnh để vực dậy những đau khổ, hướng đến quê trời là niềm hy vọng bất diệt.


Thiên Chúa tạo dựng mọi sự đều tốt đẹp. Sử dụng những tiện ích trần gian thuộc họat động chính đáng của con người.


Tuy nhiên, mùa chay Hội Thánh nhắc nhở người tín hữu đừng ngủ quên trong những phù vân trần thế mà hãy chọn con đường về trời là con đường luyện tập chiến đấu thiêng liêng.


Con đường ấy Đức Giê-su đã đi với thập giá trên vai.

Lm Jb Nguyễn Minh Phương, C.Ss.R

TABORÊ - MỘT THOÁNG VINH QUANG THIÊN GIỚI
Lc 9, 28b - 36

Cũng vào dịp đầu Mùa Chay này năm trước, người CGVN khắp nơi, đặc biệt ở Giáo phận Xuân Lộc đang xôn xao về hiện tượng Đức Mẹ hiển dung tại Giáo xứ Bạch Lâm, thuộc Giáo hạt Gia Kiệm. Sự thật đến đâu, xin để cho giáo quyền xác nhận. Tuy nhiên, rất nhiều người chứng kiện hiện tượng đã chia sẻ những cảm nghiệm chung như sau:

Nếu ai đã trơng thấy sự kiện thay đổi dung nhan nơi Thánh tượng Đức Mẹ Bạch lâm thì đều mang một tấm lịng yếu mến nồng nàn đối với Đức Trinh Nữ Maria. Tất cả những ai đã một lần gặp được khuơn mặt kiều diễm của Mẹ sau nhiều ngày đêm thao thức thì lại thấy trong lịng vang lên tiếng mời gọi đến gặp Mẹ nhiều hơn. Tất cả những ai gặp khuơn mặt thánh thiện của Mẹ thị đều run sợ và nhận ra thân phận tội lỗi của mình để xin sự thứ tha của Chúa và để bắt đầu lại cuộc sống của mình.


Câu chuyện về Đức Mẹ Bạch lâm Hiển dung và những cảm nghiệm về hiện tượng đó có lẽ cũng gợi lại cho chúng ta câu chuyện về biến cố Chúa Giêsu hiển dung cách đây hơn 2000 năm. Vậy thì đâu là ý nghĩa của biến cố Chúa Giêsu hiển dung?


- Trước hết, biến cố hiển dung là biến cố chứng thực cho sự sống sau cái chết.


Quan niệm của người Dothái về sự sống lại, và sự sống sau cái chết vẫn còn có nhiều bất đồng và mơ hồ. Thậm chí nhóm Sađốc còn chủ trương không tin là có sự sống lại. Tuy nhiên, trong biến cố hiển dung, sự xuất hiện rạng ngời vinh hiển của hai nhân vật quá cố thời Cựu ước xa xưa là Môisê và Êlia, như một bằng chứng hiển nhiên và chắc chắn nói cho các môn đệ rằng có sự sống lại và sự sống sau cái chết. Nói cách khác, qua biến cố hiển dung các môn đệ có thể khẳng định một cách không sai lầm rằng có thế giới bên kia, và hai vị đại tiên tri đang sống hạnh phúc trong thế giới đó.


- Thứ đến, biến cố hiển dung là biến cố biểu lộ vinh quang thần tính của Đức Kitô.


Trong cuộc sống thường nhật, Chúa Giêsu thường chỉ biểu lộ nhân tính của Ngài là một con người như mọi người ngoại trừ tội lỗi. Còn thần tính của Ngài vẫn còn ẩn dấu. Thế nhưng, qua biến cố hiển dung, vinh quang Thiên Chúa, tức thần tính của Đức Giêsu tỏ hiện rõ nét và rạng ngời. Rõ nét đến độ, thánh Mathêu mô tả là các môn đệ choáng ngợp, té sấp mặt xuống đất: "Dung nhan Ngài chói lọi như mặt trời, y phục Ngài trắng sáng như sơn tuyết". Rạng ngời đến độ các môn đệ chỉ còn muốn sống mãi trên núi với Chúa mà thôi. Chính thánh Phêrô xác nhận điều này: Lạy Thầy, chúng con ở đây thì tuyệt cú mèo rồi. Nếu Thầy muốn, con xin làm 3 lều..... Rõ ràng nếu các môn đệ không nhìn thấy vinh quang thần tính của Đức Giêsu thì các ông không thể có những phản ứng như thế. Dù vinh quang ấy chỉ một thoáng thôi cũng đủ làm cho các môn đệ ngây ngất cõi lòng.


- Sau nữa, biến cố hiển dung còn là biến cố khích lệ niềm tin cho các môn đệ trước viễn tượng cuộc thương khó của Chúa Giêsu.


Ta thấy rằng khi Chúa Giêsu bị bắt thì ít là có 2 trong 3 môn đệ đã từng chứng kiến biến cố hiển dung đã không bỏ trốn như các môn đệ khác. Điều này chứng tỏ niềm tin của 3 môn đệ này được củng cố rất nhiều, nhờ thấy trước vinh quang phục sinh của Đức Giêsu. Đối tượng cụ thể của niềm tin đó chính là Đức Kitô, Con Một Yêu Dấu của Chúa Cha trên trời. Và vì tin vào Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, là Con Thiên Chúa, các ông cần phải lắng nghe lời dạy của Ngài: "Đây là Con Ta yêu dấu. Các Ngươi hãy nghe lời Ngài". "Lời Ngài" mà Chúa Cha muốn nói ở đây là lời Chúa Giêsu loan báo về cuộc thương khó tử nạn và phục sinh của Người. Lời Ngài ở đây là lời tiên báo về sự bắt bớ, tra tấn, đánh đập và bị giết chết nhục nhã trên Thánh Giá. Nghe để không bị chao đảo, nghe để không bị mất đức tin trước những thử thách nặng nề như thế.


Khi tái khám phá những ý nghĩa của biến cố hiển dung, chúng ta được mời gọi điều gì ? Chúng ta được mời gọi mỗi khi đối diện với những bế tắc, nghiệt ngã trong cuộc sống vô thường ở đời này, hãy chiêm ngắm biến cố hiển dung để hy vọng, để cậy trông vào một cuộc sống vĩnh phúc đích thực mai sau. Sau nữa chúng ta còn được gọi mời khi gặp những đau thương thử thách của thập giá, hãy hướng lòng trí lên Đức Kitô vinh quang trên núi Taborê để được khuyến lệ, để được vấn an hầu có thể vượt qua những thử thách đau thương trong cuộc đời này.

Lm. Giuse Nguyễn Thành Long

NẾM TRƯỚC
Lc 9, 28b - 36

Người nấu ăn thường hay thử trước món ăn đang nấu. Thử trước với mục đích tốt. Nhờ nếm thử trước mà biết được cần nêm nếm, thêm, bớt gia vị cho món ăn hoàn chỉnh, ngon miệng, hài lòng với thành quả. Vì nếm thử nên không bao giờ ăn nhiều. Nếu thử đến no bụng, thử biến thành ăn trước.

Hầu như mọi công việc, cẩn trọng đều tốt hơn là cẩu thả. Cẩn trọng cần thiết ngay cả trong lời nói vì thế sách Huấn Ca 26,16-21 ca tụng người cẩn ngôn là ân huệ Chúa ban.


Hình thức thử


Có nhiều hình thức thử khác nhau. Thầy giáo khuyên học sinh học ôn, tập luyện bài học trước khi các em dự thi. Thợ mộc đo đi, thử lại nhiều lần tránh trường hợp cắt sai, cưa dài, làm hư mộng, lệch khớp. Châm ngôn 'thực hành dẫn đến hoàn thiện' được các nhà thể thao triệt để áp dụng.


Sai đi


Đức Kitô sai môn đệ đi rao giảng Tin Mừng từng hai người một. Ngài dặn dò kĩ càng trước khi sai các ông đi. Sai đi trong Kinh Thánh chính là cho nếm thử tương lai. Tương lai mà ba môn đệ nếm thử đó là vinh quang nước trời. Các ông học được nhiều bài học quí về niềm tin và con người Đức Kitô.


Mặc khải


Bài học đầu tiên Chúa mặc khải cho các tông đồ biết vinh quang Chúa. Một vinh quang vượt quá mắt trần, trí tưởng và cảm xúc con người có thể cảm nhận được. Vinh quang ngời sáng bao trùm tâm trí Phêrô đến độ nói mà không nhận biết mình nói gì. Đây là một mặc khải đặc biệt.


Mỗi người Kitô hữu đều nhận được những mặc khải cá nhân mà đôi khi chúng ta không nhận ra đó là mặc khải, hoặc gọi bằng một từ khác đi. Thực ra, lần nào đó khi cầu nguyện mà cảm thấy tâm hồn sảng khoái, giờ cầu nguyện thoáng qua như phút giây. Đó chính là lúc con người cảm nhận ân sủng Chúa mặc khải riêng cho cá nhân đó. Cảm giác các tông đồ nhận được trên núi thánh là thấy Chúa gần kề, ngời sáng, hùng vĩ, oai phong nhưng lại rất gần, rất thực. Chúng ta nhận ra Chúa trong cuộc sống, qua câu nói, sự biết ơn hay niềm vui khi tha thứ và khi thực thi đức ái. Đây là những mặc khải cá nhân Chúa ban riêng cho từng cá nhân. Hãy trân trọng đón nhận những mặc khải cá nhân đó. Chúa ban ơn mặc khải riêng ta dường như ít trân trọng đón nhận. Trái lại ước mong đón nhận mặc khải Chúa ban cho người khác. Cũng là ơn mặc khải, sao lại khi trọng, khi coi thường. Bên trọng, bên khinh không phải là tâm tình chân chính, yêu Chúa chân tình.


Tông đồ phản ứng


Phản ứng nhất thời của các tông đồ phát xuất vì thiếu đắn đo suy nghĩ. Nói rõ ra phản ứng một cách vội vã, thiếu tinh thần cầu nguyện, thiếu cân nhắc ơn Thánh Thần hoạt động trong phán đoán. Mọi quyết định thiếu hướng dẫn của Thánh Thần đều là những quyết định thiếu khôn ngoan vì Thánh Thần là Đấng ban ơn khôn ngoan. Thiếu ý kiến, hướng dẫn của Thánh Thần thì không thể gọi là khôn ngoan được. Các ông phản ứng trong lúc tâm hồn mê man vì cảnh đẹp, rực rỡ, hào quang Thiên Chúa sáng rực bầu trời. Chính trong lúc tinh thần cao ngất các ông đưa ra quyết định, chọn lựa xin phép Chúa làm ba lều để cư ngụ trên núi thánh. Đức Kitô không đáp lại lời yêu cầu ngủ mê đó, dù phát xuất do thành tâm.


Ngủ mê


Tinh thần căng thẳng mấy ai ngủ ngon giấc. Trong tâm có thao thức, chao đảo, lo lắng, bồn chồn, mất ngủ là việc bình thường. Một người ngủ một cách êm thắm, bình an, người đó phải có một tâm hồn bình an, một thần khí sảng khoái. Đó chính là tâm tình của các tông đồ ngủ trên núi thánh. Các ông tìm được bình an nội tâm, các ông ngủ ngon vì có Chúa ở bên cạnh. Khác với giấc ngủ trên vườn Cây Dầu. Giấc ngủ đó có hơi men vì các ông dùng bữa Tiệc Li, có men rượu trước khi Thầy trò leo núi cộng với mệt mỏi.


Giấc ngủ yên lành là hạnh phúc Chúa ban. Chúng ta dâng lời cảm tạ do tinh thần thanh thản, thân xác thoải mái an bình.


Xuống núi


Tình trạng xuống núi biểu tỏ tâm tình của người sống trong cuộc sống hiện tại. Trong cầu nguyện đôi khi con người đụng chạm đến thần linh cũng cảm thấy tinh thần cao vời vợi, thần trí hoan lạc, mừng vui và muốn tiến bước mãi, không mệt mỏi, không chán nản. Rồi đùng một cái quay trở lại với thực tại, với hiện thực, với cuộc sống thường nhật.


Trên đường xuống núi Chúa cũng dậy các tông đồ bài học xuống núi. Cuộc sống thực tế không phải lúc nào cũng nhìn thấy trời quang, mây trắng bay, cảnh hùng vĩ của thiên nhiên. Cái đẹp ngây ngất của đất trời.


Cuộc sống thực tế có nhiều khó khăn đời người ai cũng ít nhiều trải qua. Cần trải qua gian nan, đau khổ trước khi thực sự sống cảnh vinh quang nước trời. Vinh quang được ban cho nhưng phải phấn đấu và trân trọng giữ gìn. Không thể coi thường, coi nhẹ.


Chúa nhắc nhở các môn đệ xuống núi đừng nói gì về điều tai nghe, mắt thấy vì vẻ huy hoàng, rực rỡ Chúa lớn hơn trí hiểu con người. Trần thế không gì sánh bằng. Để cảm nhận cần có đức tin. Không đức tin lời nói của các tông đồ trở nên truyện thần tiên, giả tưởng cho người nghe. Vì thế Chúa khuyên các ông nên giữ làm kỉ niệm riêng trong đời.

Lm Vũ đình Tường

LẮNG NGHE LỜI
Lc 9, 28b - 36

Thiên Chúa là một vị Thiên Chúa đầy quyền năng. Thiên Chúa vẫn bày tỏ quyền năng của mình bằng cách này hay cách khác, qua người này hay người kia để cho dân của Ngài biết rằng Ngài có quyền năng cũng như Ngài yêu thương dân của Ngài. Những ai được Thiên Chúa tỏ mình là những người được thương một cách đặc biệt, được chọn một cách hết sức là ưu ái.

Hôm nay, trang Tin mừng chúng ta vừa nghe, Thánh Luca thuật lại chuyện "Chúa Giêsu biến hình" để cho các môn đệ thấy vinh quang của Ngài. Rõ ràng, các môn đệ hôm nay được Chúa dẫn lên núi là những môn đệ được Chúa yêu hơn. Sự lựa chọn các môn đệ đi theo cũng mang tính chất biểu tượng: "Phêrô, Gioan và Giacôbê" những môn đệ được kêu gọi đầu tiên, những người tại nhà Zairô, đã là chứng nhân của sự toàn thắng trên cái chết (8,31-56).


Trang Tin mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta dung mạo khác, dung mạo tuyệt vời chưa từng có của Chúa Giêsu do Thánh Luca thuật lại. Nếu để ý, trừ hai ba chi tiết, Thánh Luca ba lặp lại y nguyên những chi tiết giống như Máccô và Matthêu để gợi lại một kinh nghiệm không diễn tả được.


Nơi biến cố diễn ra hoàn toàn có tính cách biểu tượng đó là một "ngọn núi". Theo truyền thống Thánh Kinh, núi chính là nơi con người gặp Thiên Chúa và cũng là nơi Thiên Chúa tỏ bày mạc khải của Người cho dân của Người.


Khung cảnh của biến cố này cũng mang tính chất biểu tượng: Đó là cảnh Chúa Giêsu cầu nguyện. Chỉ mình Luca đề cập đến chi tiết này. Theo Thánh Luca, lời cầu nguyện luôn đi theo những giây phút trọng đại trong sứ vụ Chúa Giêsu.


Lúc Người "cầu nguyện" trong ngày chịu phép rửa, trời mở ra, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Người và có tiếng từ trời phán ra (3, 21-22). Sau khi lánh vào "núi rừng để cầu nguyện", Người đã chọn 12 môn đệ (6, 12- 16). Khi Người "cầu nguyện một mình" Người đã đưa ra câu hỏi dẫn tới lời tuyên xưng đức tin của Phêrô (9, 18-20). Và chẳng bao lâu nữa, ta sẽ thấy Người cầu nguyện trong vườn Giếtsêmani để tìm sức mạnh đảm đương cuộc chiến cuối cùng; biến hơi thở cuối cùng thành lời cầu nguyện (23.34 và 46); Phục sinh rồi giã từ môn đệ khi đọc lời nguyện chúc phúc cho họ (24,50-5 1).


Tại nơi đây, trên núi cao, chính "đang khi cầu nguyện" mà Chúa Giêsu chiếu lên luồng ánh sáng thần linh. Khác với Máccô và Mátthêu, Luca không nói về sự biến hình biến dạng; Thánh sử chỉ nói "dung mạo Người trớ nên khác thường" và "Y phục Người trắng rực rỡ". Sau đó Thánh Luca viết rằng: "Phêrô và các bạn tỉnh giấc và được thấy vinh quang Chúa Giêsu".


"Mặc lấy vinh quang" có nghĩa là tham dự vào ánh sáng huy hoàng của Thiên Chúa hằng sống, được nâng lên địa vị siêu tôn; y phục trắng ánh chớp, có nghĩa Chúa Giêsu đã tiến vào khung cảnh thiên đường. Như thế, Chúa Giêsu như được tạm thời mặc trước nguồn vinh quang Phục sinh mà Người sẽ được thừa hưởng khi sống lại. Tuy nhiên Luca nghĩ rằng có lẽ nguồn vinh quang này đã tiềm ẩn trong Chúa Giêsu từ trước Phục sinh và do kết quả của việc cầu nguyện, Chúa Giêsu không thể ngăn chặn luồng vinh quang ấy chiếu toả từ thân thể Người "Tin Mừng theo thánh Luca"


Một chi tiết khác rất giàu biểu tượng đó là: Sự hiện diện của hai khuôn mặt lớn trong Cựu ước: Môsê và Êlia, là hai nhân vật tóm tắt tất cả Lề Luật (Môsê) và các tiên tri (Êlia), hai nhân vật chính của Cựu ước đã loan báo rằng: "Đức Kitô phải chịu đau khổ rồi mới bước vào vinh quang" (Lc 24,26-27).


Sự hiện diện của các ngài là bằng chứng hết sức sống động nói rằng lời tiên báo của Chúa Giêsu về tương lai của Người hoàn toàn phù hợp với Kinh Thánh.


Một chi tiết riêng của Thánh Luca đó là "cuộc lên đường của Người" mà hai nhân vật Cựu ước bàn tới. Môsê là một nhân chứng sống trong cuộc Xuất hành, của núi Si- nai, của cuộc vượt qua Biển Đỏ sao vì ông là người thay mặt cho Chúa để điều khiển dân và cũng là đại diện cho dân để gặp gỡ Thiên Chúa. Còn Êlia, Êlia chẳng là vị tiên tri lớn đã phải chịu đau khổ vì Thiên Chúa và vì dân tộc trước khi được cất lên trong vinh quang thần thánh.


Chúa Giêsu cũng được mời gọi chịu đau khổ trước khi được "cất lên" như một Êlia mới vậy. Trong vinh quang thiên quốc Người cũng là Môsê mới trong cuộc Xuất hành mới, trong lễ Vượt Qua mới của một Giao ước mới, sẽ vượt qua biển sự chết để giải phóng dân Người và dẫn đưa họ đến Đất Hứa thật sự là Vương quốc của Cha Người.


Phêrô đã nhớ đến lễ Lều như một biểu tượng báo trước sự chấm dứt của lịch sử, đã đề nghị nắm chặt khoảnh khắc hiện tại bằng cách dựng "ba lều". Nhưng Luca đã ghi nhận rằng mong ước cuộc thần hiển này kéo dài "ông không biết phải nói gì" vì ông vẫn chưa nhìn thấy viễn cảnh hổ nạn như một đoạn đường bắt buộc phải đi qua.


Lúc ấy Phêrô, Gioan và Giacôbê bị bao phủ trong "một đám mây" - Trong Thánh Kinh đó là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa - giống như Đức Maria trong ngày truyền tin, đám mây ấy "phủ bóng che rợp" các ngài. Các ngài "sợ hãi".


Chính lúc ấy "một tiếng nói" vang lên trong đám mây cũng là tiếng nói khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan. Nhưng hôm nay, tiếng ấy không còn nói với Chúa Giêsu nữa ("Con là Con Ta, hôm nay Cha đã sinh ra Con") nhưng nói với các môn đệ của Người: "Đây là Con Ta mà Ta đã tuyển chọn". Người Tôi Tớ đau khổ (Is 42,1-8). Chúa Giêsu, Người đang đồng hành với họ, thường che giấu vinh quang của mình, nay đã thoáng tỏ ra cho họ. là Người con, nơi Người, Cựu ước được hoàn thành; Người là Đấng nói năng với một uy quyền lớn hơn Môsê và Êlia nên ta phải "lắng nghe" Người là Đấng ta phải đi theo trên con đường dẫn về Giêrusalem: về vinh quang, qua thập giá.


Những trải nghiệm hôm nay của các môn đệ cách riêng của Phêrô là trải nghiệm hết sức tuyệt vời vì đã được tận mắt chứng kiến vinh quang của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi Thầy của mình. Trong hạnh phúc tuyệt vời ấy Phêrô đã có ý muốn dựng 3 cái lều, muốn được ở lại trong vinh quang của Chúa Giêsu lắm nhưng khi trở về với đời thường thì khác. Trong hành trình theo Chúa, trong hành trình loan báo Tin mừng, đã hơn một lần Phêrô đã cản Chúa không cho Chúa lên Giêrusalem chịu nạn và cũng đã chối Chúa. Cuộc đời của Phêrô vẫn đâu đó vấp phải những điều chẳng hay chẳng lành.


Những điều mà Phêrô vấp phải cũng là những điều mà chúng ta cũng phải kinh qua. Nhìn lại cuộc đời của chúng ta, đã hơn một lần chúng ta cũng được nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa trong đời mình nhưng sau đó chứng nào vẫn tật nấy, chuyện gì cứ y như cũ vậy và thậm chí còn tệ hơn trước nữa là đàng khác.


Từng say sưa với những thành công vang dội của Thầy, giờ đây họ chán nản khi gặp chống đối dữ dội. Đã hơn một lần các môn đệ thán phục và đón nhận Đấng Mêsia bây giờ vỡ mộng khi thấy Người bị phản đối. Cứ phân vân chọn lựa giữa "những sự dưới đất" và "những sự trên trời". Cuộc đời mình có thể tin tưởng vào ai, tin tưởng cái gì? Đây là lúc thuận tiện để tỉnh cơn mê, vươn vai đứng dậy để chiêm ngưỡng "dung nhan của Chúa" và sẵn sàng lắng nghe Lời Người. Ánh sáng chói chan, làn sóng hạnh phúc khôn tả, thị kiến thoáng qua về "thế giới khác" với cõi phàm trần nơi các môn đệ cư ngụ. Bỗng dưng quá hạnh phúc khi thấy Thầy mình biến đổi và rồi cơn cám dỗ muốn bám vào cái kinh nghiệm tuyệt vời trong phút chốc lại đến. Từ nay các môn đệ đã biết rằng Chúa Giêsu là Đấng được Cha sai đến. Các môn đệ đã nhìn thấy vinh quang của Người khiến dung mạo Người ra khác. Tuy đã thấy dung nhan đời đời thực sự của Người, nhưng từ nay họ vẫn chỉ được nhìn khuôn mặt xác phàm của Người, khuôn mặt chẳng bao lâu nữa sẽ rướm máu cùng với đầu đội triều thiên là vòng gai.


Sau ngày Chúa Giêsu chịu khổ nạn và nhất là chịu chết ấy thì các môn đệ đã ra chán nản, thất vọng nhưng nhớ lại quyền năng và đặc biệt là Lời của Chúa Giêsu thì các môn đệ hăng hái lên đường rao giảng Tin mừng. Lời của Chúa mà hôm nay Chúa Cha nhắc cho các môn đệ cũng như nhắc cho mỗi người chúng ta thật tuyệt vời.


Hãy nghe Lời Người ! Nghe Người và theo Người trở về với con con đường đầy chông gai của cuộc đời. Chỉ có Lời của Chúa Giêsu, giáo huấn của Ngài mới có thể khoả lấp mọi khát vọng của con người, mới lấp đầy mọi khoảng trống trong lòng của nhân loại. Nếu chúng ta để cho Lời của Chúa chi phối trong cuộc đời của chúng ta thì bảo đảm cuộc đời của chúng ta bình an và hạnh phúc và bình an đó, hạnh phúc đó là bình an và hạnh phúc thật chứ không như bình an và hạnh phúc của trần gians.


Nguyện xin Chúa ban thêm sức cũng như lòng tin nơi mỗi người chúng ta để cuộc đời của chúng ta dẫu thế nào đi chăng nữa cũng biết vâng nghe theo lời Chúa nói với chúng ta để chúng ta cũng như các môn đệ xưa hăng hái đi theo Chúa cho đến cuối cuộc đời dẫu cuộc đời của chúng ta còn nhiều chông gai, còn nhiều cạm bẫy.

Lm. Anmai, CSsR

HÃY VÂNG NGHE LỜI NGƯỜI
Lc 9, 28b - 36

Cùng với thánh Phêrô, thánh Giacôbê và thánh Gioan, hôm nay chúng ta cũng nhập đoàn với Chúa Giêsu đi lên núi để cầu nguyện. thường thì trong tin mừng Luca mỗi câu chuyện đều bắt đầu bằng việc cầu nguyện. Đó cũng là cách thánh Luca cho chúng ta biết sẽ có điều quan trọng diễn ra đối với các tông đồ cũng như cho chúng ta. Vì thế chúng ta cũng hãy hành xử như các tông đồ; chúng ta bị đánh thức và chúng ta lắng nghe. Cảnh tượng bỗng chố xảy ra: hai nhân vật vĩ đại nhất của lịch sử Israen hiện ra đàm đạo với đức Giêsu về những gì đang chờ Người ở Giêrusalem. Các ngài không ở đó để bàn bạc về những vấn đề tôn giáo thường ngày. Đó không phải là lúc để thảo luận hay cứu xét nhưng là lúc để suy nghĩ nghiêm túc về những gì sắp xảy đến. Môisê và Êlia ở đó cũng giống như hai thiên thần trong vườn Giệt Sêmani, để giúp đức Giêsu đối diện với những gì sắp xả đến cho Người. Thánh Luca mô tả đó như biến có xuất hành của ngài.

Với những ai đọc Kinh Thánh thì hai từ Xuất Hành nhắc nhớ về biến cố quan trọng trong lịch sử của dân Do-thái. Đó là lúc Đức Chúa dẫn dắt dân đang chịu cảnh nô lệ đến với tự do. Đó là hành trình dẫn họ băng qua sa mạc để có được những hiểu biết sơ khởi về Thiên Chúa. Thiên Chúa là sức mạnh của họ khi họ yếu đuối. Ngài cho họ thức ăn khi đói và ban nước uống khi họ khát. Sau khi cố gắng vượt qua hành trình ấy, họ được vào Đất Hứa.


Đức Chúa giải thoát họ khỏi ách nô lệ không phải vì họ hùng mạnh, không phải vì họ xứng đáng, cũng chẳng phải do mẫu gương tuyệt vời về lòng tin của họ - nhưng là vì sáng kiến của Thiên Chúa. Qua kinh nghiệm sống trong sa mạc, dân đã có thể biết một Thiên Chúa, Đấng đã mạc khải tên mình cho Môisê: "Ta là Đấng Tự Hữu." Nghĩa là "Ta sẽ luôn ở với các ngươi." Nên không lạ gì bài Tin Mừng hôm nay với âm vang của cuộc Xuất Hành được chọn cho Chúa Nhật Mùa Chay này. Trong đó có một lời hứa cho chúng ta, khi chúng ta suy niệm về như cầu cần được giải phóng của chúng ta. Thiên Chúa Đấng đã dẫn dắt Israen ra khỏi cảnh nô lệ cũng sẽ giải thoát chúng ta khi chúng ta ý thức hơn đến sự cần thiết phải hoán cải trong Mùa Chay. Điều đó cả Israen và chúng ta không tự mình làm được, nhưng Thiên Chúa sẽ thực hiện.


Xin đừng nhìn cuộc hành trình của dân Israen cách lảng mạn khi chúng ta đứng ở một khoảng cách an toàn cách họ cả hàng ngàn năm. Dữ kiện Kinh Thánh cho chúng ta biết về những cám dỗ thường ngày của họ, những lần bất trung với Thiên Chúa, những phàn nàn chống đối Môisê và Đức Chúa. Họ ngày càng chán ngán cuộc hành trình của mình, với những đấu tranh thường nhật và nỗi bấp bênh. Mỗi ngày qua đi họ lại cảm thấy lo sợ, "liệu ngày mai chúng ta có bị lạc đường và bị diệt vong trong sa mạc hay không?" Cám dỗ bỏ cuộc trở nên rất mạnh mẽ và việc trở lại chính nơi mà họ làm nô lệ xem ra lại hợp lý. Ít nhất ở đó họ cũng có một chút thức ăn và biết được mỗi ngày họ sẽ được gì. Họ biết được công việc thường ngày và biết họ phải làm gì. Còn ở trong sa mạc không có sự bảo đảm đó, nhưng chỉ có sự bấp bênh, nguy hiểm và vất vả. Nhưng chính trong sa mạc cùng với tất cả những khốn khổ khốn nạn ấy họ mới khám phá ra rằng Thiên Chúa sẽ hoàn tất lời hứa mà Người đã ký kết với họ. "Ta là Đấng sẽ ở với các ngươi luôn mãi."


Chính lối suy nghĩ và hành xử cũ đã cho họ sự thoải mái, ngay cả khi họ phạm tội và giới hạn. Còn cuộc hành trình đòi họ phải đẩy lùi những lối nghĩ và cách làm cũ ấy để sống can đảm và thích nghi mỗi ngày. Đôi khi lối nghĩ và hành xử cũ vẫn cám dỗ người ta ngừng cố gắng, dễ đầu hàng và trở về đường lối cũ.


Thế nhưng khoảng cách ngàn năm của chúng ta thực ra cũng không phải là an toàn bởi vì chúng ta, cá nhân cũng như cộng đoàn, cũng lại được mời gọi để thực hiện một hành trình sa mạc. Giống như tổ tiên dân Dothái, chúng ta cũng là những kẻ lữ hành trong sa mạc. Chúng ta cũng luôn được mời gọi từ bỏ những lối sống quen cũ của mình, những lối sống không thể giúp chúng ta tồn tại mà chỉ khiến chúng ta đói khát trong sa mạc của cuộc sống hiện đại này. Mùa Chay giúp chúng ta hiểu được những gì khiến chúng ta có thứ cảm giác sai lầm về sự an toàn thì nên bỏ lại phía sau, vì chúng ta đang bước vào một miền đất mới. Phá vỡ những thói quen và lối sống cũ quả là khó khăn và mất thời gian. Nên chúng ta cũng có thể bị cám dỗ chùn bước và trở lại với lối sống cũ. Thế nhưng nếu chúng ta nghiêm túc thực hiện, thì cuộc hành trình, thì Mùa Chay sẽ thực sự đáng giá khi chúng ta thấy được cuộc sống mới ở cuối hành trình, đó là cuộc họp mừng Lễ Phục Sinh của chúng ta.


Chúng ta bỏ lại phía sau thế giới mà ta đã rất quen thuộc và lắng nghe tiếng nói khích lệ chúng ta tiếp tục hành trình, dẫu rất khó khăn. Trong giọng nói ấy chúng ta cũng nghe thấy một lời hứa "Ta là Đấng sẽ ở với ngươi luôn." Đó cũng là lời mà Môisê và Êlia đã nghe và đã đi theo. Tiếng nói ấy cũng phát ra trên đỉnh núi để hướng dẫn các tông đồ và chúng ta, "Đây là Người con ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người."


Ngay sau biến cố này, đức Giêsu cương quyết hướng về Giêrusalem. Trong cuộc hành trình ấy, Người biết thế nào là bị người thân thiết nhất bỏ rơi, kế hoạch của Người thất bại và cuối cùng bị chết tức tưởi trên thập giá. Ngay sau cuộc hành trình sa mạc của Người, Người đã được Thiên Chúa tôn vinh. Cuộc vượt qua của Nguòi đã hoàn tất. Khác với dân Do Thái, đức Giêsu đã trung thành với lời mời gọi của mình, tin tưởng Thiên Chúa và đặt mọi sự trong tay Người. Đó là những gì mà Môisê và Êlia nói với đức Giêsu về những gì Người sẽ "hoàn thành" ở Giêrusalem.


Bên cạnh cách đánh giá của chúng ta, những gì đức Giêsu đã làm trong cuộc đời Người có vẻ như thất bại hơn là hoàn tất. Khi chúng ta nói đến những thành quả vĩ đại thì thường nghĩ đến việc hoàn tất một dự định có ý nghĩa; một việc làm tốt phải được mọi người tán thưởng. Thường thì mọi người hay đề cập đến việc tăng số lượng, ngay cả trong gia đình Giáo hội của chúng ta. Chúng ta quan tâm xem: có bao nhiêu người đến với lớp giáo lý? Cộng đoàn chúng ta có bao nhiêu thành viên? Có bao nhiêu tham dự viên trong chương trình học tập của giáo xứ trong năm nay? Mùa chay này, chúng ta được mời gọi để bước vào một cuộc xuất hành, cả trên bình diện cá nhân lẫn cộng đoàn. Chúng ta xin Thiên Chúa "hoàn tất" những thay đổi mà chúng ta mong muốn.


Khi chúng ta xem xét kỹ lưỡng hiện tại và tương lai của mình, thì thấy những gợi ý mà chúng ta cần thay đổi trong Mùa Chay thánh này. Thánh Phêrô đã cảm thấy hạnh phúc và không muốn thay đổi, nhưng muốn giữ mọi sự yên như thế. Ông sẵn sàng ở lại nơi ông đang ở, thay vì tiếp tục lên đường với đức Giêsu tiến về Giêrusalem. Mùa Chay cũng cho chúng ta cơ hội để làm những việc mà đức Giêsu và các tông đồ đã làm: lánh ra một nơi để cầu nguyện, phản tỉnh và lắng nghe - và rồi tiến đến giai đoạn tiếp theo trên cuộc hành trình của chúng ta.


Cương vị môn đệ đòi hỏi mỗi ngày phải vượt từ cái tôi cũ kỹ của chúng ta đến đời sống mới mà đức Kitô đã mang lại. Biến cố Biến Hình đòi chúng ta phải lắng nghe tiếng nói từ đám mây và lắng nghe xem đức Giêsu muốn chúng ta bước theo Người như thế nào. Chúng ta đều biết việc lắng nghe phải bắt đầu từ sự thinh lặng. Thánh Luca cho chúng ta biết các môn đệ đã đi vào tĩnh lặng. Các ngài cũng giống như chúng ta, trong một trạng thái chạng vạng, nửa tỉnh nửa mê, các ngài nghe thấy cũng có thể đã không nghe. Mùa Chay là thời gian để hành động, nhưng hành động khởi đi từ việc lắng nghe Lời Chúa cách chăm chú hơn - cả Kinh Thánh lẫn nơi những người khác. Chúng ta đang lắng nghe điều gì? Đó là nghe tiếng gọi chúng ta từ tình trạng nô lệ và hướng dẫn chúng ta đến với không gian tự do khỏi tội lỗi.


Tại tiệc Thánh Thể này chúng ta hướng về Thiên Chúa để có sự sống, tin tưởng sâu sắc hơn và cầu xin sự giúp đỡ để giữ thinh lặng; để mở ra không gian lắng nghe Lời Chúa, Lời hướng dẫn chúng đi qua cuộc xuất hành của mình. Một lần nữa, hôm nay chúng ta đặt niềm tín thác vào Đấng đã nói: "Ta là Đấng sẽ ở cùng các ngươi luôn mãi.".

Lm. Jude Siciliano, OP
Anh em học viện Đaminh.

KHỔ ĐAU và VINH QUANG
Lc 9, 28b - 36

Trong cuộc hành trình rao giảng Nước Trời, Chúa Giêsu đã nhiều lần nói đến sự đau khổ, cái chết và phục sinh của Ngài, nhưng trớ trêu thay ngay các môn đệ là những người thân tín nhất, những người sẽ tiếp nối sứ mạng cứu thế của Ngài lúc đó vẫn chưa hiểu được lời tiên báo của Chúa Giêsu.Tuy nhiên, việc Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabôrê và tiếng Chúa Cha phán: " Đây là Con Ta, người được Ta tuyển chọn.Hãy nghe Ngài ". Lời của Chúa Cha cho biết Chúa Giêsu là Con của Thiên Chúa, hãy nghe lời của Ngài.

Cuộc biến hình trên núi Tabôrê để Phêrô, Giacôbê và Gioan chứng kiến sự vinh quang, sáng láng của Chúa Giêsu, và để một ngày kia trong vườn Cây Dầu cũng chính ba môn đệ này sẽ được thấy Chúa Giêsu hấp hối, mồ hôi và máu chảy ra.Cuộc sống của Chúa Giêsu: đau khổ và vinh quang luôn đan quyện với nhau. Trong cuộc biến hình ở trên núi Tabôrê: Môsê, Êlia và Chúa Giêsu đàm đạo với nhau. Thánh Luca cho biết ba Đấng nói:" Về sự chết của Chúa sẽ thực hiện tại Giêrusalem ".Vinh quang của núi Tabôrê không làm lu mờ cuộc khổ hình của Chúa Giêsu trên núi Calvê. Khuôn mặt sáng láng của Chúa Giêsu, một ngày kia sẽ không còn hình tượng.Áo vinh quang của chúa Giêsu một ngày kia sẽ bị lột trần để quân dữ phân chia nhau. Tiếng Chúa Cha từ trong đám mây: " Đây là con yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người ". Thực tế, đọc Tin Mừng chúng ta nhận thấy có ba lần tiếng Chúa Cha vọng xuống để tôn vinh Chúa Con: Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa bởi tay Gioan Tẩy Giả ở sông Giođan, lúc Ngài khởi đầu sứ vụ công khai, hôm nay trên núi Tabôrê và ngày mai khi sắp bước vào tuần tử nạn. Việc Chúa Giêsu biến hình trên núi nhằm tuyên xưng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Biến cố này cũng nhằm củng cố lòng tin cho các môn đệ. Tuy nhiên, Chúa vừa tiên báo cái chết và phục sinh của Ngài thì các môn đệ đã vấp phạm vì Ngài. Phêrô, người môn đệ thân tín trước đó vừa tuyên xưng:" Thầy là Đấng Kitô, con Thiên Chúa hằng sống ", hôm nay cũng chính Ông đã phản đối mãnh liệt chọn lựa của Chúa Giêsu.Phêrô hầu như không hiểu chút gì về mầu nhiệm thập giá và đã bị Chúa mắng là Satan. Quả thực, đức tin của Ông còn quá non nớt, Ông chưa hiểu thế nào là đau khổ, thế nào là sự chết và vinh quang theo ý của Chúa. Nhưng việc biến hình trên núi thánh hôm nay giúp củng cố lòng tin của ba môn đệ và các môn đệ khác vững tin theo Chúa hơn.


Lời Chúa hôm nay khích lệ mọi Kitô hữu vững lòng đi vào con đường khổ nạn của Chúa Giêsu. Tất cả những ai tin tưởng, cậy trông tìm gặp Chúa, Chúa sẽ tỏ lộ vinh quang của người để thưởng công và củng cố lòng tin của họ như Chúa đã làm đối với ba tông đồ Phêrô, Giacôbê vả Gioan tại núi thánh xưa.


Đi theo Chúa Giêsu trong ơn gọi là sống đức tin và lòng yêu mến, sẵn sàng làm theo ý của Chúa. Đức tin là một cuộc hành trình, một cuộc ra đi đòi hỏi người môn đệ của Chúa phải can đảm vượt thắng và đoạn tuyệt với những tội lỗi, những thói hư tật xấu, những điều đi ngược lại với Tin Mừng. Đức tin đòi hỏi sống theo thánh ý Chúa. Đức tin không phải chỉ sống bằng những lời trên môi miệng. Đức tin là phải biểu lộ ra bằng hành động. Phêrô dạy ta rằng tuyên xưng đúng chưa đủ mà còn phải hành động đúng nữa.


Mùa chay là cơ hội, là dịp thuận tiện để chúng ta sống lòng tin của mình. Mùa chay mời gọi chúng ta sám hối và điều chỉnh lại cuộc sống của mình.


Lạy Chúa Giêsu, xin tăng thêm lòng tin cho chúng con để chúng biết sống theo thánh ý Chúa.

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

CHÚA BIẾN HÌNH
Lc 9, 28b - 36

Giáo Hội là Mẹ Thánh Thiện. Phụng vụ trong Giáo Hội là con đường đưa dẫn mọi thành phần dân Chúa vươn đến đích thánh thiện tuyệt đối. Vì thế, khi khai mạc Mùa Chay Thánh với Thứ Tư Lễ Tro, Giáo Hội nhắc nhớ tôi về thân phận con người phải trở về với tro bụi, và Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay cảnh báo con người phải tỉnh thức trước những cơn cám dỗ để chiến đấu và chiến thắng, thì hôm nay, Chúa nhật thứ hai Mùa Chay, xây dựng cho con cái Giáo Hội một niềm tin, một niềm hy vọng vững chắc về một tương lai phục sinh vinh hiển. Hạt bụi vô danh kia, chút tàn tro bé bỏng ấy, không còn là nỗi ám ảnh kinh hoàng cho thân phận con người nữa, nhưng chính hạt bụi vô danh ấy, chút tàn tro bé nhỏ ấy, là con đường để con người ta biến hình nên sáng láng rực rở trong một thế giới mà không còn cái goi là thời gian chế ngự.

Đức Kitô mặc khải Thần Tính

Suốt những ngày theo chân Đức Ki tô, trong lòng các môn đệ luôn ấp ủ những vinh hoa trần thế. Đức Ki tô là con nguời thật. Vì thế, họ có quyền nghĩ đến một một Vua Ki tô khôi phục lại giang san, và chính họ, sẽ phải hưởng được một phần vinh quang của Ngài. Nhưng không, hôm nay Đức Ki tô đã cho họ thấy tận mắt dung mạo rực rỡ của Ngài là Con Thiên Chúa thật. Hai bản tính trong cùng một con người, trong cùng một thân xác, mà bản tính Thiên Chúa đã làm cho họ ngây ngất và sung sướng đến mức thánh Phêrô phải thốt lên " Lạy Thầy ở đây thì tốt lắm..." mà thánh Luca nhận định là "ông nói mà không biết mình nói gì" (Luc 9,33). Và lúc ấy, chính Thiên Chúa Cha xác nhận :"Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, các ngươi hãy nghe Lời Người" (Luc 9, 35) để cũng cố thêm niềm tin đã được mặc khải.

Nhưng, dung mạo sáng láng ấy chỉ lóe lên một thoáng để xây dựng nơi ba vị tông đồ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan một niềm tin chắc chắn vào Đức Giêsu Ki tô là Con Thiên Chúa thật. Ngài đã không mang dung mạo sáng láng huy hoàng ấy vào công cuộc cứu thế, nhưng ngược lại, Ngài mặc lấy dung mạo của con người thấp hèn nhất, đúng như Thánh Vịnh 30 đã nói : " Tôi trở nên đồ ô nhục đối với những người thù, nên trò cười cho khách lân bang, và mối lo sợ cho người quen biết- gặp tôi ngoài đường, họ tránh xa tôi. Tôi bị người ta quên, không để ý tới, dường như đã chết. Tôi trở nên như cái bình bị vỡ tan." (TV 30, 12-13). Đúng vậy, không lưu lại trên Núi Tabor- nơi Cha Con dạt dào thương mến, không giữ lại sự hiển vinh chói lói- thần tính nguyên sơ của Ngài, Ngài đã đưa các tông đồ xuống núi để đi vào cuộc thương khó vĩ đại nhất, mà cho đến hôm nay, sau hai ngàn năm, không có cuộc thương khó nào, không có đau khổ nào, không có sự trừng phạt nào, không có án tử nào của con người có thể sánh nỗi- cuộc thương khó dẫn đến cái chết của một con người thật-chết thật, tro bụi thật. Nhưng thần tính của Ngôi Vị Thiên Chúa đã phục sinh thân xác hư nát, thành thân xác vinh hiển chói ngời như thân xác mà các tông đồ đã chiêm ngưỡng trên núi Tabor hôm ấy.

Bài học "trở nên đồ vô dụng".

Đức Giêsu Ki tô, Con Thiên Chúa uy quyền đã trở nên thành phần thấp hèn nhất trong thiên hạ, đã chấp nhận trở thành vô dụng, để cho ý định cứu chuộc nhân loại của Thiên Chúa Cha được thực hiện cách hoàn hảo nhất nơi chính "cốt nhục" của Người, Người Con Chí ái. Vì hoàn toàn để cho "Ý Cha thể hiện" nên Ngài đã tuân phục thánh ý Chúa Cha cách triệt để, phó thác hoàn toàn trong tay Cha, Ngài đã trải qua những đau khổ kinh khiếp nhất của đời người, nhờ sức mạnh của sự tuân phục mang tính thần tính là nội lực ở bên trong một thân xác phàm trần yếu đuối, mỏng dòn...

Bài học "trở nên đồ vô dụng" đối với mỗi con người luôn luôn là một bài học khó. Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu biến hình thân xác Người, cho tôi một chìa khóa để có thể tiếp thu bài học ấy. Chỉ có lòng khiêm hạ chấp nhận để cho Thiên Chúa thực hiện ý định của Ngài trong tôi, trong bạn, trong mỗi con người chúng ta, thì chúng ta mới có thể hóa giải thân xác yếu hèn nầy nên thân xác vinh hiển, thân xác phục sinh. Không phải chờ đến lúc da mồi tóc bạc, nằm im bất động trên giường, trả lại cho đời bao nhiêu bằng cấp, bao nhiêu của cải bạc vàng... mới thấy mình là người vô dụng, nhưng phải hiểu là chúng ta đã vô dụng ngay trong mỗi thành công rực rỡ trong đời, vì tất cả đều là sự thể hiện của Thánh Ý Thiên Chúa.

Bài Giáo Lý cuối cùng của đời người Công Giáo: "Tôi tin xác loài người sẽ sống lại"

- Đứng trước thi hài của Mẹ, người con cả thưa với Mẹ: " Mẹ thân yêu của chúng con, chính qua thân xác nầy mà chúng con đón nhận bao nhiêu ơn lộc của Thiên Chúa, ơn được làm người, ơn được biết Thiên Chúa, được làm con cái thiên Chúa... Vì chính thân xác mẹ đã cộng tác với chương trình của Thiên Chúa trên đường thương khó với Chúa Giêsu để yêu thương và phục vụ chúng con hết mình. Chúng con tin, thân xác mẹ sẽ vinh hiển sáng láng trong nước Chúa. Nguyện xin Chúa thương tha các lầm lỗi cho Mẹ, và sớm cho Mẹ phục sinh vinh hiển".

- Một người bạn tôi, Anh Nguyễn Văn Úy, hơn 30 năm tận lực làm ca trưởng ca đoàn Giáo Xứ Hòa Nghĩa, Cam Ranh, đang lâm bệnh nặng, nằm cấp cứu ở Bệnh viện Nha Trang, có thể phải chạy thận để kéo dài sự sống- cách đây vài hôm đã nói với anh em: "Những gì mình đã nỗ lực, đã cống hiến cho Ca đoàn, cho Giáo Xứ, cho gia đình, đều là của Chúa, không có gì của mình cả. Xin Chúa thực hiện tiếp những gì Ngài muốn nơi mình".

- Chúa Giêsu biến hình, là niềm hy vọng của mỗi người công giáo chúng tôi. Nhưng không hẳn thân xác nào cũng "sống lại và sáng láng vinh hiển" như thân xác biến hình của Chúa Giêsu, vì hạnh phúc ấy, chỉ dành cho những thân xác đã hoàn toàn trở nên "vô dụng" cho Thánh Ý Thiên Chúa, thân xác đã "Nghe và thực hiện Lời Thiên Chúa, thân xác đã tan nát dập vùi vì yêu thương và phục vụ như chính Đức Giêsu Yêu Thương-Phục Vụ. Chính niềm tin và niềm hy vọng biến hình, hạt bụi vô danh kia, tàn tro bé bỏng ấy... không còn là nỗi ám ảnh kinh hoàng, để phải thốt lên giai điệu bi thảm "hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi..." (Trịnh Công Sơn)

Lạy Chúa Giêsu biến hình, xin cho chúng con biết quên mình, chấp nhận hy sinh để yêu thương và phục vụ Chúa, phục vụ tha nhân như ý Chúa muốn.

Cao Huy Hoàng

HÃY VUI LÊN
Lc 9, 28b - 36

Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu biến hình trước mắt ba tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê. Cũng chính ba tông đồ này là những người sẽ chứng kiến Đức Giêsu biến hình ở vườn dầu: "Ngài kinh hoảng âu sầu". Ở vườn dầu, Đức Giêsu sấp mình xuống đất cầu xin cùng Thiên Chúa Cha để nếu có thể cho Ngài khỏi phải uống chén đắng; còn ở đây, Đức Giêsu hiển dung vinh hiển và Thiên Chúa xác chuẩn Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng tuyển chọn Ngài. Ba tông đồ đã được chứng kiến Ngài hiển dung, để có thể chứng kiến Ngài buồn sầu xao xuyến: "linh hồn thầy buồn sầu đến chết được". Đức Giêsu hiển dung, dấu chỉ cho thấy thân xác con người sẽ được biến đổi trở nên vinh hiển sáng láng, cho dù hiện tại người ta thấy thân xác mong manh mỏng dòn.

Thân xác con người sẽ được biến đổi. Đức Giêsu chết trần trụi trên thập giá và toàn thân Ngài bị biến dạng bởi những vết thương do người ta hành hạ, nhưng khi Ngài phục sinh thì thân xác Ngài trở nên tuyệt vời. Thân xác con người trước phục sinh và sau phục sinh tuy là một nhưng rất khác nhau. Đức Giêsu khi còn tại thế vẫn là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, Đức Giêsu Phục Sinh và Đức Giêsu trước đó vẫn là một tuy dù người ta thấy Ngài rất khác qua biến cố Phục Sinh. Theo niềm tin Kitô hữu, thân xác con người ở dương gian và lúc sống lại vào ngày cánh chung tuy là một nhưng vẫn khác. Theo thánh Phaolô, sống lại là thân xác thần thiêng, khác với thân xác dương thế biến đổi theo thời gian và cái chết (1Co.15, 44)

Con người thật lạ kỳ. Thân xác con người giới hạn và có những nhu cầu rất tự nhiên. Có người sống đời tại thế này chỉ biết lo thỏa mãn những nhu cầu của thân xác, mà quên đi một chiều kích siêu việt của con người. Khi chỉ thỏa mãn những nhu cầu vật chất, con người trở nên ích kỷ nhỏ nhen, không đạt được hạnh phúc thật ở trần gian này. Nếu người giầu chỉ biết lo tìm tiền bạc mà không chú trọng đến những nhu cầu tinh thần của mình và của những người thân của mình, thì họ không thể hạnh phúc thật. Con người có liên đới với người thân, với gia đình cha mẹ anh chị em họ hàng, và đặc biệt với con cái. Nếu không lo cho con cái triển nở, nếu không biết giáo dục con cái, con người sẽ không thể hạnh phúc được cho dù họ có tiền bạc dư giả, cho dù họ có địa vị chức quyền.

Phaolô đã có một thời bắt bớ những người tin vào Đức Giêsu Kitô, nhưng bây giờ ông đã miệt mài rao giảng Đức Giêsu Phục Sinh. Chính niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh đã làm Phaolô bình an hạnh phúc hơn. Phaolô đã tìm ra con đường hạnh phúc thật. Bây giờ, niềm vui niềm tự hào của ông là Thiên Chúa và những người thuộc về Ngài. Tuy rằng con người có thể thay đổi lòng dạ nhưng vì tin vào Thiên Chúa nên Phaolô vẫn an lòng. Trừ phi Thiên Chúa thất bại, còn không Phaolô luôn chiến thắng, vì Phaolô chọn những gì Thiên Chúa chọn. Cho dù ngay cả những lúc Phaolô cảm thấy rơi lệ khi thấy những con cái ngài đã thay lòng đổi dạ, đã chọn thực tại trần gian trên hết: "Chúa của họ là cái bụng", thì Phaolô vẫn hy vọng họ sẽ trở lại với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Đấng trung tín. Thiên Chúa vẫn kiên trì đến với con người, và sẽ làm con người trở lại với Ngài.

Qua những chọn lựa của mình trước những thực tại trần gian mà con người hình thành chính mình. Phaolô đã là một con người khác qua biến cố té ngựa trên đường đi Damas. Phaolô đã hình thành chính mình trong suốt đời ngài. Mỗi người trong chọn lựa sống của mình, làm mình trở thành người tuyệt vời hay chỉ giống con vật, trở nên con cái Thiên Chúa hay trở nên con cái ma quỷ. Qua hành vi yêu thương mà con người ra khác và trở thành tuyệt vời hơn. Con người không chỉ chờ đến ngày Phục Sinh mới được biến đổi, nhưng mỗi người cũng đã đang biến đổi ngang qua chọn lựa sống từng ngày.

Con người vui mừng, vì Thiên Chúa đã yêu thương và cứu độ con người qua Đức Giêsu. Thiên Chúa đã và đang làm tất cả qua Đức Giêsu Kitô. Ngày xưa Thiên Chúa ký kết giao ước với Abraham, ngày nay giao ước mới đã được ký kết với con người bằng máu Đức Giêsu Kitô. Máu Đức Giêsu là dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương con người. Làm sao không vui khi biết Thiên Chúa yêu thương mình như yêu chính Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô (Ga.17, 23)?!

Thiên Chúa đã ký kết giao ước với Abraham. Thiên Chúa ký kết giao ước với con người vì con người chứ không phải vì Thiên Chúa. Thiên Chúa không cần giao ước vì Ngài luôn chân thật và thành tín. Thiên Chúa luôn trung thành, không bao giờ Ngài phản bội. Chỉ có con người mới bất trung và hay thay đổi, vì vậy mới cần giao ước. Thiên Chúa đã thề hứa với con người, để con người được biết tình yêu của Ngài đối với con người, để con người có thể sống an bình hạnh phúc vì mình được Chúa Tể hoàn vũ thương yêu.

Thiên Chúa đã đặt nơi Abraham ước vọng có con cháu nối dòng, và chính Thiên Chúa cũng là Đấng hứa ban cho ông con cháu đông như sao trên trời như cát bãi biển. Thiên Chúa cũng là Đấng giao ước với ông, để ông thuộc về Thiên Chúa, để Thiên Chúa lo cho ông. Thiên Chúa vẫn luôn ở với con người, giúp con người đi tìm chính Ngài, làm con người thuộc về Ngài trong suốt quá trình sống. Thiên Chúa là tình yêu, Ngài đang làm con người sống trong tình yêu và thuộc về tình yêu. Chính khi con người sống trong tình yêu và làm tất cả vì tình yêu, thì con người được hạnh phúc, vì lúc đó con người nên giống Thiên Chúa.

LM Phạm Thanh Liêm, SJ

PHÚC LỘC CỦA LÒNG TIN VÀ SỰ LẮNG NGHE
Lc 9, 28b - 36

Ba câu văn trước bài đọc một hôm nay thuật lại chuyện trao đổi giữa Thiên Chúa và Abraham, trong đó Chúa đoan hứa cho ông và vợ là bà Sarah một dòng dõi đông hơn sao trên trời, cát dưới biển. Abraham thưa lại là ông không có hy vọng vì cả hai đã già cả và không con. Nhưng Kinh Thánh nói Abraham tin lời Thiên Chúa và được kể là người công chính. Từ lúc ấy, Abraham là mẫu mực cho kẻ tin. Tuy nhiên, xin lưu ý Abraham không đi bước trước trong lời hứa. Đức tin không phải là lý do để được Thiên Chúa ưu ái. Chính Thiên Chúa ưu ái và chọn vợ chồng ông, ban cho ông lời hứa có con cháu nối dòng; là do lòng tốt của Ngài. Ngài tự do thương yêu và ban ơn. Ngài đi bước trước trong tình yêu và ơn lành, trong khi chúng ta kéo lê gót trong đức tin. Xin nhớ bài học này về lòng tốt của Thiên Chúa. Đừng vô ơn tệ bạc "kể công" trước mặt Thiên Chúa mà mau mắn đáp lại lòng tốt của Ngài như cụ tổ Abraham. Chúng ta thường giống như những kẻ mộng du trước mặt Chúa. Cần phải tỉnh lại và ghi nhận tình yêu liên tục của Ngài ban xuống trên cuộc sống mình.

Sự thật là đức tin của Abraham được tỉnh ngộ vì sự kiên trì của Thiên Chúa. Ngài nhấn mạnh với ông về tình bạn của Ngài. Trăng sao trên trời là dấu chỉ lòng hào hiệp của tình bạn ấy. Con cháu ông sẽ đông đúc, bất chấp tuổi già và sức khoẻ suy yếu của hai ông bà. Abraham đã đầu hàng Thiên Chúa và hết lòng trông cậy vào quyền năng Ngài. Kinh Thánh nói ông ngay chính trước mặt Ngài và Ngài kể ông là người công chính. Đức công chính của Abraham là do Thiên Chúa mặc cho. Chúng ta đừng vênh vang kiêu ngạo về "công nghiệp" của mình. Nó chẳng là chi trước mặt Chúa. Pharisêu tân thời còn đông đảo hơn Pharisêu Dothái hơn hai ngàn năm trước. Vì giả dụ như chúng ta được yêu cầu bày tỏ đức tin của mình, chúng ta sẽ đưa ra một danh sách dài những điều kiện. Đức tin của Abraham chỉ đơn giản ăn rễ sâu vào quan hệ bạn bè giữa Thiên Chúa và ông. Ong đơn sơ tin vào lời Chúa hứa ban cho một dòng giống mặc dù hoàn cảnh là vô vọng. Abraham thực hiên đúng điều mà Thiên Chúa đòi hỏi những kẻ tin kính Ngài, không nghi nan, không kênh kiệu, không yêu sách nọ kia. Ong tin chắc chắn Thiên Chúa sẽ thực hiện lời Ngài. Nhưng liệu có bằng cớ nào để ông tin không? Chẳng có, cụ thể và lập tức. Chỉ một lời hứa suông và Thiên Chúa đã làm giao ước với Abraham. Giao ước có một chiều, Abraham không phải tuân giữ.

Có lẽ nhiều người trong chúng ta nhún vai khinh dể cái giao ước kỳ quặc ấy, theo thói tục mông muội thời xa xưa. Người ta lập giao ước bằng cách xẻ đôi các xúc vật, rồi hai bên đi qua giữa các xúc vật đó. Thế là xong một nghi lễ ký giao kèo. Đêm xuống dần trên cánh đồng hoang vắng, Abraham rơi vào giấc ngủ sâu. Kinh Thánh mô tả: "Lúc mặt trời đã lặn, thì một giấc ngủ mê mệt ập xuống trên ông Abraham, một nỗi kinh hoàng, một bóng đêm dày đặc bỗng ập xuống trên ông." Chúng ta đứng trước một màu nhiệm ở đây, mà không thể hiểu được, cũng như hàng ngàn màu nhiệm xảy ra trong cuộc đời mình. Một lò lửa nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi vượt qua các con vật đã bị xẻ đôi. Hình ảnh này biểu tượng sự hiện diện của Thiên Chúa. Nhưng còn sự tham dự của ông Abraham, đúng hơn của loài người? Chỉ đứng ngó mà không có vai trò tích cực nào trong việc lập giao ước. Chúng ta thì sao? Cũng không luôn, vì nếu có, chúng ta đã bị xẻ đôi nhiều lần vì vi phạm giao ước. Một mình Thiên Chúa đi qua các nửa xúc vật. Câu chuyện này còn được nhắc lại trong lịch sử loài người. Thiên Chúa hành động trước trong những sự trao đổi siêu nhiên giữa Thiên Chúa và chúng ta. Thiên Chúa không hề đặt Abraham vào thử thách rồi thưởng công cho ông bằng cách lập giao ước với ông. Chỉ sau này ông đã nhận lời hứa, lúc ấy Thiên Chúa mới thử thách lòng trung tín của ông. Còn lúc này, Ngài đi bước trước và mời gọi chúng ta đáp trả. Điều này Abraham đã làm và chúng ta cũng được mời gọi noi gương, bắt chước. Bằng chứng nào ông dựa vào để tin cậy khi tương lai trở nên khó khăn? Liệu ông có một bửu bối để đối phó với các khó khăn trên bước đường lang thang? Không, ông không có chi cả, và chúng ta cũng không hơn. Ong chỉ có lời hứa của Thiên Chúa và chúng ta cũng chỉ được Chúa Giêsu trấn an 365 lần: "Đừng sợ". Vậy thì giống như Abraham và Sarah, chúng ta cần lắng nghe và tin tưởng vào Chúa. Đó là dự phần của loài người vào giao ước.

Đó cũng là điều mà trên núi biến hình hôm nay, các môn đệ được nghe tiếng nói từ trời: "Đây là con ta, Người đã được ta tuyển chọn, hãy lắng nghe lời Người". Cuộc sống của Chúa Giêsu, những lời Người nói, những việc Người làm là lời Thiên Chúa để chúng ta đặt đức tin vào. Chúng ta phải mở to hai tai, ngắm thẳng đôi mắt, mở rộng tấm lòng để đón nhận và đáp trả. Chúng ta phải lắng nghe Chúa Giêsu và đem ra thực hành, đừng nên có thái độ giả hình mà mắc tội với Đức Chúa Trời. Sự kiện Tabor cũng có bầu khí màu nhiệm như trường hợp của Abraham trên cánh đồng Manbré. Các môn đệ, các tổ phụ, các Pharisêu và cả chúng ta nữa cũng đang mê ngủ. Mọi người phải thức dậy trước tôn nhan Thiên Chúa.

Chúng ta đang ở trong mùa chay, là mùa đáng lý phải tỉnh thức. Thoáng nhìn xem ra chúng ta không mê ngủ, trái lại rất tỉnh táo. Những đòi hỏi của thế giới văn minh không cho phép chúng ta thiếp ngủ. Chúng ta phải làm việc liên tục để có khả năng mua xe hơi, nhà lầu, tiện nghi cá nhân và gia đình, tivi, radio, di động hiện đại, biết bao nhiêu nhu cầu của cộng đoàn, Giáo Hội. Ngoài xã hội, nhu cầu càng bề bộn hơn: bạn bè, hàng xóm làng giềng, đồng nghiệp, hẹn hò chật kín cả thời gian. Ai có thời gian rảnh rỗi mà bảo là mê ngủ? Nhưng suy nghĩ sâu xa hơn thì đúng là như vậy. Những thói quen, những nếp sống dư dật, nhung lụa khiến chúng ta ngủ vùi trong xác thịt, ít có thời gian cho đời sống thiêng liêng. Năm thì mười hoạ mới ghé qua thánh đường lấy lệ cho yên ổn lương tâm. Thử hỏi như vậy có phải là ngủ vùi? Là mộng du như các tông đồ trên ngọn núi Tabor hay trong vườn cây Dầu? Cho nên chúng ta cần tỉnh thức trong mùa chay này, suy nghĩ về những nội dung thiêng liêng, bớt vui chơi đình đám, thực hành khổ chế để có khả năng cầu nguyện. Đời sống thừa mứa thì còn thiếu thốn chi mà cầu xin? Có đọc kinh nguyên gẫm thì bất quá môi miệng... Người ta thường nói bây giờ bận rộn quá, đời sống chật ních cả (life is full) nhưng thực tế tinh thần chúng ta giống như Abraham trong giấc điệp nặng nề, hay như các tông đồ trên núi Tabor.

Trước trình thuật biến hình hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Ngài về cuộc khổ nạn tại Giêrusalem (9, 18-22), Phêrô vừa tuyên xưng Chúa là Đấng Thiên Sai, con Thiên Chúa Hằng Sống, nhưng ông chẳng hiểu Chúa sẽ thực hiên vai trò đó ra sao? Ong chỉ mù mờ tưởng tượng theo ý niệm chung của cả dân tộc, đấng Thiên sai phải giống như vua Đavít, quyền uy mạnh mẽ, chinh đông phạt tây, giải phóng dân tộc một cách vẻ vang và lên ngôi hiển trị. Chúa Giêsu không đi theo lối đó, mà là bị chống đối, hiểu lầm, loại bỏ và khổ đau cho đến chết nhục nhã trên thập tự. Ngài kêu gọi các môn đệ đi theo lối bước của mình: "Hãy theo ta" (9, 23). Chẳng lẽ Lời Chúa là nói suông cho vui sao? Đa số pharisêu tân thời cho là như vậy. Bởi vì họ chạy theo thành công, vinh quang, tiện nghi và loại trừ những bất tiện, khổ chế. Nhưng quên rằng chuyện biến hình xảy ra ngay sau các lời Chúa tuyên bố về khổ nạn và tiếng từ trời xác nhận chân lý: "Các ngươi hãy nghe lời Người". Đúng là "No cross, no crown" (không có thánh giá thì chẳng bao giờ có triều thiên).

Chúa sẽ chỉ cho họ hay ý nghĩa thực sự của từ 'thiên sai' và những hệ luỵ của nó, các tông đồ phải chú ý lắng nghe. Muốn được vậy thì cần tỉnh thức, ăn uống say xưa chè chén, ham mê xác thịt thì làm sao tỉnh thức nổi? Cho nên các tông đồ tiếp tục hiểu lầm và sợ hãi. Các ông sẽ xuống núi và mộng mị của các ông cũng phải xuống núi. Chúa Giêsu sẽ gặp nhiều chống đối, khước từ hơn khi thầy trò tiến gần đến Giêrusalem. Thậm chí Chúa phải vào hoang địa rao giảng, vì người ở thành thị chẳng thèm nghe nữa. Vậy thì chúng ta nên nhớ lại lời từ trời cao "Hãy lắng nghe lời Ngài" mà giúp đỡ chính mình. Chúng ta cần lằng nghe lời đó để có khả năng chống lại cám dỗ ồn ào của thế gian. Thực chất vô số môn đệ Chúa đã ngã gục, ý thức hay không ý thức. Họ đã lãng quyên kinh nghiệm trên núi khi xem thấy vinh quang của Ngài. Họ ưa chuộng vinh quang satan nhiều hơn. Đúng họ là những kẻ đãng trí hoặc đã mất trí khôn (amnesiacs).

Làm môn đệ Chúa, bắt buộc phải nhớ Đấng mình dõi theo. Sự kiện thay đổi hình dạng của Chúa không phải là ngẫu nhiên, nhưng là chủ ý rõ ràng của Chúa Giêsu để gây ấn tượng mạnh cho các tông đồ. Nó báo trước cuộc sống lại. Cho nên ta phải nhớ chính Đấng phục sinh đang hành động và nói trong cuộc đời mỗi người chúng ta: "No cross, no crown". Suốt mùa chay này, chúng ta phải lắng nghe lời Ngài qua ăn chay, cầu nguyện, suy gẫm và nhất là bí tích thánh thể. Đúng là rất khó khăn trong hoàn cảnh rối beng của thế giới hôm nay, người ta xô đẩy chúng ta, bắt ép chúng ta hãy quên nghe theo Chúa. Nhưng lòng muốn và trí tuệ của chúng ta luôn được tự do.

Cho nên thánh Luca nhấn mạnh việc cầu nguyện của Chúa Giêsu hơn các Phúc Âm khác. Chúa cầu nguyện trong các tình huống quan trọng và trước các chọn lựa dứt khoát. Ngoài ra Luca còn kể Chúa quen lánh ra chỗ thanh vắng để cầu nguyện. Biến cố thay đổi hình dạng cũng xảy ra lúc Ngài cầu nguyện. Thánh nhân muốn cho chúng ta hay, qua cầu nguyện, Chúa Giêsu đã mở tâm hồn ra cùng Thiên Chúa và sứ vụ của Ngài. Ngược lại các tông đồ khi xưa và chúng ta hôm nay, ngủ vùi trên ngọn núi tiện nghi, danh vọng thì làm thế nào noi gương Chúa. Chẳng lẽ chúng ta chỉ môi miệng? Chúng ta phải tỉnh thức luôn đối với sự hiện diện của Chúa Cha và với sứ mệnh Ngài trao. Cầu nguyện là phương thế hữu hiệu nhất để làm tròn nhiệm vụ mùa chay. Nhưng cầu nguyện đòi hỏi khổ chế vì thế Kinh Thánh nói ăn chay cầu nguyện. Không ăn chay, chẳng thể cầu nguyện hữu hiệu được. Chẳng phải Thiên Chúa chỉ nhắn nhủ các môn đệ ngày xưa hãy lằng nghe Chúa Giêsu. Ngày nay chúng ta cũng phải lắng nghe như vậy trong cuộc sống mình. Không ăn chay, không cầu nguyện thì làm thế nào lắng nghe tiếng Chúa? Vậy sự kiện Chúa biến hình thúc giục chúng ta trả lời: "Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe!"

Leo núi là một môn thể thao nhiều người ưa thích. Tôi không đựơc hưởng kinh nghiệm ấy, vì tôi vốn sợ chiều cao. Tôi có biết nhiều thể thao gia đã chết trên đỉnh núi, vậy núi cũng có nguy hiểm. Mặc dù nhiều sự kiện Kinh Thánh xảy ra trên đỉnh núi. Tuyển dân đã gặp gỡ Thiên Chúa trên đỉnh núi và Chúa nói với họ cũng ở đó. Nhưng núi cũng đe doạ đời sống con người. Trong Chúa Kitô, chúng ta có kinh nghiệm đính núi, qua Ngài chúng ta cũng gặp gỡ Thiên Chúa. Nhưng núi cũng là nơi đầy đe doạ, bởi vì gặp gỡ Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải thay đổi nếp sống, từ bỏ những an toàn vật chất để đổi lấy liều lĩnh trong ơn Chúa. Nếu chúng ta thành thực "lắng nghe Ngài", nhất định sẽ gặp nhiều cái chết lớn nhỏ trong cuộc sống mình. liệu chúng ta có đủ can đảm mà lựa chọn? Lắng nghe lời Ngài chắc chắn sẽ gặp nhiều chống đối, tầy chay, từ chối của thế gian. Lời lẽ an toàn của họ là giàu sang, quyền lực và sung sướng xác thịt, những thứ mà kẻ lắng nghe Chúa phải từ bỏ. Lắng nghe Chúa là vác lấy thập giá hàng ngày mà bước theo Ngài; No cross, no crown.

Abraham và Sarah trên bước đường lưu lạc, lang thang đó đây trong gian truân nhọc nhằn chẳng có lá bùa hộ mệnh nào ngoài lời hứa của Thiên Chúa. Còn chúng ta có chi? Chúng ta chỉ có Chúa Giêsu như giao ước với Thiên Chúa, giao ước minh chứng Thiên Chúa chẳng bao giờ bỏ rơi một linh hồn nào. Vậy trong mùa chay này chúng ta làm chi? Xin hãy cố gắng tìm ra một đường lối nào đó, nơi chốn nào đó để lắng nghe Chúa Giêsu và thực hành những điều Chúa dạy bảo vì tiếng từ trời vẫn hằng nói với nhân loại rằng: "Đây là Người con ta yêu dấu, hãy lắng nghe lời Ngài". Ước chi mùa chay này sẽ không ra vô ích đối với mỗi linh hồn tín hữu. Amen

Lm. Jude Siciliano, OP

QUA ĐAU KHỔ ĐẾN VINH QUANG
Lc 9, 28b - 36

1/ Trong cuộc sống khi làm bất cứ việc gì cũng đòi hỏi một sự đầu tư tương xứng. Muốn làm một ngôi nhà đẹp và hiện đại, thì đòi hỏi đầu tư tiền của thật nhiều, thời gian xây dựng cũng không phài là ít, về phương diện mỹ thuật cũng không quá xơ xài. Hay trong lãnh vực tinh thần: Một người nam muốn đi tu làm linh mục cũng phải trải qua thời gian tu học thật chu đáo trong môi trường đào tạo, thật nghiêm túc đối với bản thân. Đến khi tuyển chọn để phong chức linh mục khách quan phải có sự đánh giá rất nghiêm túc của bề trên, của những vị có trách nhiệm về cách sống của ứng viên qua quá trình tu học, cũng như thời gian thực tập mục vụ...

Như vậy dầu trong lãnh vực tinh thần hay vật chất, nếu ta không đầu tư cho công việc cách chính trực và chính đáng thì sẽ không thu lợi, nhưng đó là điều bất lợi cho cá nhân và tập thể, cuối cùng sẽ gây nên tai hại khó lường.

2/ Cuộc đời của Đức Giêsu Kitô trong tư cách là con người, Chúa cũng đi theo quy luật trên. Khi chiêm ngắm sự kiện Chúa biến hình trên núi Tabor, đó là câu trả lời cho chúng ta biết trước sự kiện Chúa hiển dung là kết quả công trình đầu tư của Đức Giêsu. " Đang khi Chúa cầu nguyện dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà"(Lc 9,29). Đây là hình ảnh báo trước về cuộc phục sinh siêu tôn của Chúa. Thế nhưng để đi đến con đường vinh quang phục sinh, trước hết Chúa phải trải qua con đường đau khổ, đường thập giá, cuối cùng là cái chết. Vì tám ngày trước khi Chúa biến hình, Chúa đã báo trước cho các tông đồ biết là Ngài" phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy"(Lc 9,22).

Như vậy đường phục sinh vinh hiển mà Chúa đến đó không phải là con đường rộng dễ đi, nhưng là con đường phiêu lưu với nhiều khó khăn và đau khổ. Hơn nữa đó không phải là con đường để Chúa thể hiện sức mạnh bằng cuộc chiến đấu tranh giành theo kiểu trần thế, nhưng là con đường Chúa hạ mình nhận lấy phần xấu nhất của loài người qua việc đón nhận thập giá và chết trên thập giá. Con đường này là con đường Chúa Giêsu đầu tư theo Thánh ý Chúa Cha khi cứu độ loài người. Công trình ấy còn rất quan trọng cho con người, vì có liên quan đến sự sống vĩnh cửu của con người.

3/ Thông thường ai trong chúng ta cũng muốn sống và sợ chết. Riêng đối với sự sống vĩnh cửu thì chúng ta lại càng mong muốn hơn. Thế nhưng muốn được sống hạnh phúc vĩnh cửu, chúng ta hãy can đảm đầu tư cho sự sống cao quý ấy ngay từ bây giờ. Phải hy sinh từ bỏ ý riêng để chấp nhận ý Chúa, chấp nhận thập giá và chết trên thập giá. Đây như là một kiểu nói rất quen thuộc đối với chúng ta, bên cạnh đó vẫn còn rất xa với hành đông đáp trả của chúng ta. Lý do đa số chúng ta chưa cảm nghiệm đầy đủ về chiều sâu, chiều rộng, chiều cao của thập giá Chúa Giêsu. Hay phần nhiều chúng ta còn rất mơ hồ về ý nghĩa thập giá của Chúa trong đời sống của mình. Từ đó chúng ta rất xa lạ với thập giá, rất sợ đón nhận thập giá. Khi càng xa lạ và càng loại trừ thập giá ra khỏi đời sống, chắc chắn công trình đầu tư cho đời sống vĩnh cửu của chúng ta sẽ kém chất lượng, nó giống như "người ngu dại xây nhà trên cát, gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành"(Mt 7, 26-27).

4/ Người ta kể một câu chuyện tưởng tượng nhưng mang một ý nghĩa sâu sắc:

Một đoàn người bước theo Chúa Giêsu với thập giá trên vai. Chúa Giêsu dẫn đầu cũng mang thập giá mà Ngài đã vác hôm xưa trên đường núi sọ. Trong đoàn, có một chàng thanh niên kéo lê thập giá của mình một cách mệt mỏi. Miệng anh luôn kêu trách phàn nàn vì nghĩ rằng thập giá anh nặng hơn và dài hơn của những người khác. Chẳng mấy chốc anh là người kéo lê cuối đoàn. Cuối cùng anh quyết định dừng lại và cưa bớt thập giá của anh một đoạn để có thể nhẹ nhàng bắt kịp những người đi trước. Khi đoàn đến cuối đường thì gặp một hố sâu. Chúa Giêsu bảo: Bây giờ mỗi người hãy đặt thập giá mình ngang qua miệng hố làm cầu và tiến vào thiên đàng. Chúa Giêsu đặt thánh giá của ngài xuống và bước ngang qua, những người khác cũng đều làm theo, lạ lùng thay, thập giá cỡ nào cũng vừa khoảng cách hai bờ miệng hố, tất cả mọi người theo Chúa Giêsu đều vào thiên đàng, ngoại trừ anh chàng kia, vì anh cưa ngắn một đoạn thập giá nên anh không được vào thiên đàng.

Câu chuyện trên như muốn dạy chúng ta bài học: Khi càng tạo thập giá theo ý mình thì chúng ta sẽ loại trừ thập giá của Chúa ra khỏi đời ta. Vì Chúa muốn chúng ta vác thập giá theo ý Chúa chứ không phải theo ý ta. Hơn nữa khi càng xa thập giá của Chúa trong đời sống thì con đường hạnh phúc mai sau sẽ rất xa lạ đối với chúng ta. Ngược lại khi chấp nhận vác thập giá theo ý Chúa, thì mỗi ngày chúng ta sẽ trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Khi đời ta luôn gắn bó với thập giá của Chúa thì đó là dấu hiệu chúng ta đang gắn bó với hạnh phúc sau này.

Mẹ Maria là người rất có kinh nghiệm về việc vác thập giá trong đời. Xin Mẹ giúp chúng ta ngay từ bây giờ biết làm quen với thập giá của Đức Giêsu, biết vui lòng đón nhận thập giá của Đức Giêsu. Vì muốn vươn đến cuộc sống toàn thiện mai sau, điều cơ bản chúng ta phải từ bỏ tất cả để vác thập giá theo Đức Giêsu. Đây chính là cuộc đầu tư chính xác nhất cho sự sống vĩnh cửu trên thiên đàng. Vì qua sẽ đau khổ đến vinh quang.

LM Nguyễn Minh Chánh

NÚI TABOR và CUỘC SỐNG HẰNG NGÀY
Lc 9, 28b - 36

« Thật phi thường ! Quá trời ! Không thể tưởng tượng được ! Số dách ! Số một ! Kinh khủng ! Hạng nhất ! » và còn bao nhiêu danh từ kỳ cục khác, nếu không nói là nhiều khi còn vô nghĩa nữa, mà chúng ta đã xử dụng khi phải diễn tả một sự kiện ngoại thường mà chúng ta chưa tìm ra được những danh từ và những ý niệm thích hợp. Ðó là những sự kiện hay biến cố điển hình đã làm cho chúng ta quá sung sướng và ngạc nhiên, những sự kiện và biến cố cực kỳ lạ thường, độc nhất vô nhị và không sao diễn tả hết ! Và trong hoàn cảnh đó, chúng ta thường nói : « Tôi không có đủ lời để nói; nó làm cho tôi hết đổi sững sờ và không sao nói lên lời; thật không sao diễn tả hết ! »

Các môn đệ xưa kia cũng đã từng đứng trước những trường hợp kỳ lạ tương tự. Bởi vì Ðức Giêsu đã làm những việc « có một không hai », như : Người làm cho bệnh nhân nan y lành mạnh, mở mắt người mù, cho người chết sống lại, v.v... Nhiều người sau khi gặp gỡ và nói chuyện với Người đã cảm thấy được giải thoát, cảm thấy lòng mình thơ thới nhẹ nhàng, đầy vui mừng. Họ trở nên lạc quan và như được biến đổi hoàn toàn. Vì thế, xưa kia các môn đệ chắc chắn cũng đã tự hỏi : « Làm thế nào mà Người có thể hành động được như vậy, là thay đổi được bao nhiêu người khác và cả chính chúng tôi nữa ? »

Những điều được tường thuật trong bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, đã giúp cho các môn đệ - ít là từ từ - hiểu được Ðức Giêsu cách sâu xa và rõ ràng hơn.

Biến cố Chúa biến hình trên núi Tabor là một trong những biến cố đặc biệt, và đã trở nên như một ngôi sao sáng cho các môn đệ trong đêm tối của những gian nan thử thách. Thế nhưng biến cố Tabor đối với các môn đệ vào lúc bấy giờ còn là một điều xa lạ, không trực tiếp liên quan đến họ. Họ chỉ nhìn thấy được trong biến cố đó sự quan hệ của Ðức Giêsu với Thiên Chúa, Cha của Người, trong sự vinh quang thần thiêng, chứ họ chưa cảm nhận được rằng biến cố đó xảy ra là vì họ. Chẳng những thế, họ còn tỏ ra rối rắm và mất hết tự chủ. Bởi vì một biến cố như thế không nằm trong khả năng hiểu biết về đức tin, cũng như không thuộc về phạm vi thực hành đức tin của họ. Họ cảm thấy mình là những người ngoại cuộc ! Cũng vì thế họ đã ngủ gật, tương tự như sau đó ít lâu tại Vườn Cây Dầu : Trong khi Ðức Giêsu đầy lo âu sợ hãi trước cuộc khổ nạn, đến đổ mồ hôi máu ra, thì các môn đệ vẫn dửng dưng và ngồi ngủ gật !

Chỉ sau đó khá lâu, các ông mới khám phá ra được ý nghĩa quan trọng của biến cố Tabor. Ðó là lúc các ông cảm nhận và hiểu rõ được cuộc khổ nạn vả sự vinh hiển trong biến cố phục sinh của Ðức Giêsu. Bấy giờ lòng trí các ông mở ra và hiểu được những gì mà các ông đã từng cảm nhận và từng chứng kiến phần nào trong cuộc sống trần thế của Ðức Giêsu. Nhất là họ hiểu được một cách sâu xa đầy đủ, tại sao họ cần phải lắng nghe các giáo huấn của Ðức Giêsu và chiêm ngưỡng cuộc đời của Người. Bởi vì đã có tiếng từ trời bảo họ : « Các ngươi hãy vâng nghe lời Người ! »

Dĩ nhiên đối với Phêrô, Gioan và Giacôbê : Biến cố trên núi Tabor là một hiện tượng có một không hai. Ðó là một biến cố không ai có thể áp đặt hay tạo ra được. Ðối với ba ông, đó là một điều ngoại lệ. Ðể hiểu được như vậy, đòi hỏi người ta phải có tâm hồn cởi mở và thuần phục. Nếu không, người ta sẽ nói ngay : « Ðiều đó chẳng có gì liên quan tới tôi cả ! Tôi chẳng có ý kiến gì về chuyện đó cả ! »

Những biến cố đặc biệt và độc nhất vô nhị trên núi Tabor, ngày nay cũng vẫn còn xảy ra trong nhiều lãnh vực - thuộc tôn giáo cũng như dân sự -, thí dụ :

Những ai khi đi vào trong rừng rậm xa lạ, mà vẫn tìm ra lối đi, chứ không bị lạc đường, sẽ cảm thấy sung sướng.

Một nhà thể thao sau khi đã đạt được những thành công vàng son của mình, anh sẽ bày tỏ cho người khác hay sự hạnh phúc của mình. Và anh càng được động viên trong những nỗ lực mới.

Khi một người nhận được sự thông cảm và tha thứ mà anh không dám chờ đợi. Phải chăng đó không phải là một sự kiện quan trọng đáng mừng?

Hay khi một người có được một cảm nghiệm ngọt ngào và đầy an ùi trong khi cầu nguyện, mà người đó không hề dám nghĩ tới. Ðiều đó chắc chắn sẽ giúp anh ta rất nhiều trong việc tiếp tục trông cậy vào Thiên Chúa hay lại có được sự phó thác vào Thiên Chúa, v.v...

Vâng, đức tin của chúng ta sống nhờ những cảm nghiệm đặc biệt và cả những cảm nghiệm bình thường hằng ngày. Trong cuộc sống cụ thể, nhiều khi chúng ta cảm thấy lòng đầy sốt sắng và hạnh phúc trong việc đọc kinh xem lễ, và chúng ta rất vui mừng khi tiếp xúc với cộng đồng dân Chúa. Thế nhưng, thường tình thì chúng ta lại phải đối mặt với cuộc sống vật lộn hằng ngày.

Ðúng vậy, Ðức Giêsu không để các môn đệ ở lại trên « núi Tabor của những an ủi » lâu, ngay sau đó Người đã dẫn họ trở lại với cuộc sống thường nhật của họ. Người không để họ xây dựng những căn lều trên núi Tabor, nhưng ở dưới thung lủng của cuộc sống đức tin hằng ngày với bao những thử thách. Vâng, cuộc sống hằng ngày phải thực sự là nơi các môn đệ vâng nghe Ðức Giêsu, là nơi họ phải hướng nhìn lên Người, và là nơi họ phải bước theo Người.

Tuy nhiên, biến cố trên núi Tabor vẫn luôn ghi đậm trong ký ức của các môn đệ. Nó là một điểm tựa, là một trợ lực cho đức tin của họ trong suốt tiến trình theo Ðức Giêsu. Cũng vậy, trong cuộc sống đức tin, trong cuộc sống đạo hằng ngày, chúng ta cần có ơn an ủi đỡ nâng của Thiên chúa, để chúng ta có thêm sức mạnh chống chọi với các thách đố của cuộc sống, nhưng chính chúng ta phải tự ra tay chiến đấu lấy. Và để cuộc chiến đấu đức tin đạt được thắng lợi, chúng ta phải thực hành theo lời khuyên đến từ trời cao : « Các ngươi hãy vâng nghe lời Người ! » Amen

LM Nguyễn Hữu Thy

CÓ ĐAU KHỔ MỚI VINH QUANG
Lc 9, 28b - 36

Đêm năm xưa, Chúa Giêsu và ba môn đệ thân tín nhất là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. Và nếu, câu chuyện chỉ dừng lại ở đó thì chẳng phải nói ra làm gì. Ở đây, Tin Mừng cho thấy khi Chúa cầu nguyện, nói chuyện thân mật với Chúa Cha, các môn đệ lại mê mệt trong giấc ngủ say, các ông không còn biết gì nữa, tỉnh dậy các ông thấy Chúa Giêsu vinh quang chói lòa, có Môisê và Êlia đàm đạo với Người cũng vinh quang sáng ngời., dọi sáng, thì Phêrô đã nhanh nhảu thưa với Chúa Giêsu:" Thưa Thầy, chúng con ở đây thì hay quá..."( Lc 9, 33 ).

Cái lạ lùng vẫn là khi Chúa đang thân mật thưa chuyện với Cha của Người, ba môn đệ ngủ vùi, ngủ say,thì Chúa biến hình "diện mạo Ngài đổi khác thường" " áo Ngài trắng tinh sáng láng", có Môisen và Êlia xuất hiện, trò chuyện với Chúa Giêsu. Hai ngôn sứ Môisen và Êlia đã chứng kiến vinh quang của Thiên Chúa trên núi Horeb và Sinai. Chúa Giêsu và hai ngôn sứ đề cập về sự chết của Chúa sẽ thực hiện tại Giêrusalem. Chúa đến trần gian để đem lại hạnh phúc, niềm vui và ơn cứu độ cho mọi người. Ngài là chiên hy tế, là Chiên Con bị sát tế để cứu rỗi con người. Ao chói lọi của Người sẽ bị quân dữ lột trần ngày Ngài bị kết án tử hình. Vinh quang lúc này không che lấp cái nhục hình đồi Canvê. Các môn đệ tỉnh dậy và bàng hoàng trước cảnh tượng nhiệm lạ của núi Taborê, trước vinh quang cực kỳ sáng chói của Chúa Giêsu và hai đại ngôn sứ đại diện cho Cựu Ước. Các môn đệ thích cảnh tượng ngây ngất, huyền diệu và mầu nhiệm của Ba Đấng, các Ngài muốn ở trong vinh quang mầu nhiệm nhưng lại không tỉnh thức và cầu nguyện. Các môn đệ muốn dựng ba lều cho Chúa, cho hai ngôn sứ và muốn cắm lều cho mình để được chìm sâu trong cảnh huy hoàng, hoành tráng cùa núi Taborê, nhưng các ông lại chìm sâu trong cơn ngủ say đến quên cả việc trò chuyện, cầu nguyện. Do đó, cũng chính ba môn đệ này trong vườn Cây Dầu, đã không quan tâm gì đến Thầy, khi Thầy đang cầu nguyện, phủ đầy lo âm, mồ hôi và máu chảy ra, ba ông vẫn ngáy khò, đến nỗi quân dữ ập đến bắt mất Thầy, họ mới bừng tỉnh thì đã quá muộn. Đây là thân phận yếu hèn của ba môn đệ: Phêrô, Giacôbê, Gioan và các môn đệ khác. Đây cũng chính là thân phận yếu hèn của con người, của mỗi người, của nhân loại trong mọi thời đại. Chúa Giêsu biết các môn đệ yếu đuối :" Không Thầy các con không thể làm được gì ". Chính vì thế, Chúa đã tỏ lộ vinh quang của Người để củng cố đức tin của các môn đệ và để các ông không ngã lòng vì cuộc khổ nạn Chúa sẽ thực hiện tại Giêrusalem. Và để các ông có bằng chứng rao giảng về sự phục sinh của Chúa Giêsu sau này.


Chúa Giêsu biến hình trên núi Taborê là để minh chứng cho lời tuyên xưng đức tin của Phêrô, thay mặt các môn đệ ở Xê-da-rê cách đây tám ngày:" Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống"( Mt 16, 16 ). Việc biến hình trên núi Taborê của Chúa Giêsu là sự đáp trả của Chúa Cha qua việc Người chấp nhận cái chết trên thập giá, thì sự vâng lời của Chúa Giêsu theo ý Thiên Chúa Cha là niềm tin cho mọi người tin vào Chúa Giêsu. Tiếng Chúa Cha phán từ trong đám mây:" Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người ". Môisen và Êlia không còn đó: Cựu Ước đã qua và chỉ còn lại mình Chúa Giêsu với tất cả Con-Người-Trần và Người-Chúa của Ngài. Chúa ở đó với ba môn đệ trong thực tế của đời người. Chúa chấp nhận kiếp sống của con người, để chia sẻ với loài người, với con người cuộc sống đời thường chỉ trừ tội lỗi. Nếu hôm nay khi Chúa đang cầu nguyện thì biến hình, việc cầu nguyện và sự kết hiệp thân mật, sâu xa của chúng ta với Chúa Giêsu sẽ biến đổi tâm hồn con người, tâm hồn chúng ta để mỗi ngày chúng ta càng nên đồng hình đồng dạng với chúa. Chính vì thế, Chúa cho chúng ta biết con người phải trải qua đau khổ mới tới vinh quang. Sau vinh quang, Chúa lại tiếp tục sống với các môn đệ để chứng minh cho các ông hay cầu nguyện, tỉnh thức, sám hối, chay tịnh, bố thí và bác ái luôn là niềm vui và động lực giúp con người vượt thắng thử thách, khó khăn và Chúa vẫn luôn tiếp tục đồng hành với chúng ta trong mọi biến cố của cuộc đời.


Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết cầu nguyện và đừng bao giờ ngã lòng cầu nguyện. Amen.

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT

VINH QUANG CỦA NGÀY HIỂN DUNG
Lc 9, 28b - 36

Chúa nhật thứ hai mùa Chay, Giáo hội mời gọi con cái mình chiêm ngưỡng trước vinh quang Chúa Giêsu tỏ hiện cho các môn đệ trên núi- điều mà Người sẽ lãnh nhận trọn vẹn sau khi Người trải qua cuộc Khổ nạn và Phục sinh.

Trước những biến cố trọng đại, Chúa Giêsu thường lên núi hoặc đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện, trò chuyện với Chúa Cha. Hôm nay cũng vậy. Đem theo ba môn đệ là những người đã theo Chúa Giêsu từ những giây phút đầu tiên trong sứ vụ rao giảng. Các ông là những trụ cột của Giáo hội và vì thế, biến cố Hiển dung là một biến cố rất quan trọng cho đức tin của các ông mà Chúa Giêsu cách nào đó muốn tỏ hiện để củng cố niềm tin vốn còn yếu nơi con người các ông.


Điểm khác biệt quan trọng trong Tin mừng Luca so với Mátthêu và Máccô chính ở chỗ đang khi Chúa Giêsu cầu nguyện thì dung mạo Người bỗng "đổi khác" chứ không phải "biến đổi" như hai tác giả Tin mừng trên. Sở dĩ Luca sử dụng từ ngữ như vậy là vì trong ngôn ngữ Hylạp và nhất là trong những câu truyện thần thoại, "biến đổi" vốn được hiểu là sự hoá thân, hoá kiếp của một nhân vật nào đó. Đang khi cầu nguyện, nghĩa là đang khi Chúa Giêsu trò chuyện, tâm tình với Chúa Cha, tiếp xúc với Chúa Cha thì chính con người nhân loại của Người đổi khác. Cho hay, cầu nguyện là việc rất quan trọng để có thể đổi mới tâm thần, biến cải con người và là nền tảng cho việc thực thi thánh ý Thiên Chúa.


Không phải ngẫu nhiên mà Tin mừng Nhất lãm đều nói đến sự hiện diện của hai nhân vật trong Cựu ước là Môsê và Êlia. Chúng ta biết, Môsê và Êlia là hai nhân vật quan trọng của Cựu ước cũng như trong lịch sử dân Dothái. Môsê đại diện cho Lề luật dân Dothái. Thông qua ông, Giavê Thiên Chúa đã ban xuống cho dân Người những giới luật làm kim chỉ nam, hướng dẫn tinh thần cho dân tộc Dothái. Môsê chính là con người của Biển Đỏ, con người của núi Xinai và là con người của cuộc Xuất hành. Còn Êlia là một Ngôn sứ vĩ đại, ông đại diện các Ngôn sứ. Chính ông là người chịu nhiều đau khổ vì Giavê Thiên Chúa, vì dân tộc Israel để rồi sau đó được cất lên trong vinh quang. Cả hai ông đều có kinh nghiệm tiếp xúc với Giavê Thiên Chúa và được chiêm ngưỡng vinh quang của Người trên núi Sinai và Khôrếp. Đặc biệt hơn, khi nhắc đến tên hai ông, Tin mừng Nhất lãm không chỉ chỉ nhắc đến những công trạng của các ông mà còn nhắc đến toàn bộ Kinh thánh Cựu ước (Lề luật + Ngôn sứ = Kinh thánh) mà hai ông đại diện. Mà Kinh thánh Cựu ước là gì nếu không phải là lời loan báo về một Đấng Mêsia chịu nhiều đau khổ để đạt đến vinh quang?


Cuộc đàm đạo giữa Chúa Giêsu với hai nhân vật Cựu ước xoay quanh cuộc "Xuất hành" mà Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem. Như dân Dothái xưa đã trải qua cuộc xuất hành, nghĩa là ra khỏi Aicập, ra khỏi sự thống trị, sự đau khổ để vào miền Đất Thiên Chúa hứa ban, thì nay các ngài cũng bàn đến việc Chúa Giêsu sẽ đi qua cuộc Khổ nạn và Phục sinh để bước vào vinh quang Thiên Chúa.


Về phần các môn đệ, chúng ta thấy trong khi Chúa Giêsu cầu nguyện thì các ông vẫn ngủ mê mệt. Điều này cũng giống như khi ở núi Ôliu, đang khi Thầy các ông cầu nguyện và tâm hồn của Người đang trong trạng thái xao xuyến đến nổi "đổ mồ hôi máu" thì chính các ông vẫn thản nhiên ngủ ngon lành khiến cho Chúa Giêsu phải trách : "Sao anh em lại ngủ? Dậy mà cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ" (x. 22, 39-46). Điều đó cho thấy các môn đệ chưa được biến đổi, chưa hiểu gì nhiều về người Thầy của mình. Các ông chợt tỉnh và nhìn thấy vinh quang của Thầy mình thì cũng là lúc Môsê và Êlia đang rời xa Chúa. Dù cho Phêrô có nhanh nhảu xin Chúa dựng ba lều hay gì gì đi nữa, tất cả chỉ là những giây phút gây hứng khởi nhất thời mau qua, không đủ giúp các ông trung thành theo Chúa đến cùng. Các ông cần phải được biến đổi và chính Chúa Cha sẽ làm công việc này. Thật vậy, lời của Chúa Cha giới thiệu cho các môn đệ không chỉ chứng thực cho các ông biết người mà các ông đang theo, đang tôn là Thầy, chính là Môsê mới, các ông phải vâng theo mà đó còn là những ân ban của Chúa Cha nhằm củng cố niềm tin vốn đang còn non yếu đồng thời mời gọi các ông biết đón nhận những biến cố trong cuộc Khổ nạn - Phục sinh của Thầy để có thể trở nên những chứng nhân đích thực.


Chúa Giêsu Hiển dung, điều đó cho thấy Người sẵn sàng chấp nhận cuộc Khổ nạn, chấp nhận Thập giá để mang lại ơn cứu rỗi cho nhân loại. Mỗi người chúng ta cũng cần được hiển dung, cần được biến đổi khi sẳn sàng chấp nhận một cuộc thanh tẩy tâm hồn, để cho những cạm bẫy tội lỗi, những thú vui chóng qua, những ích kỷ nhỏ nhen,.. ra khỏi con người mình hầu xứng đáng bước đi trên con đường của Thầy Chí Thánh.

Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

CHÚA GIÊSU BIẾN HÌNH ĐỔI DẠNG
Lc 9, 28b - 36

1. Chúng ta cũng giống như Đức Giê-su: có bản chất cao quí ẩn trong thân xác yếu đuối của kiếp người trần Cuộc biến hình của Đức Giê-su cho ta thấy bản chất sâu thẳm của Ngài, Ngài không chỉ là một con người yếu đuối, phải đau khổ, và chịu bao hạn chế của kiếp người như bao người khác, mà còn là một vị Thiên Chúa đầy vinh quang và quyền năng. Trước khi Ngài bước vào cuộc khổ nạn và chịu chết, Ngài đã cho ba môn đệ yêu dấu nhất của Ngài thấy được bản chất sâu thẳm của Ngài, để củng cố niềm tin của các ông. Nhất là trong những ngày sắp tới, đức tin của các ông sẽ bị chao đảo dữ dội, vì lúc ấy các ông chỉ có thể thấy được con người hết sức bất lực và hạn chế của Ngài. Nhưng thật ra, sự yếu đuối bất lực ấy chỉ là tạm thời, bản chất thường hằng của Ngài là bản chất đầy vinh quang, cao cả như các môn đệ đã chứng kiến trên núi Ta-bo. Bản chất ấy vẫn còn trong tình trạng ẩn dấu, chưa tỏ lộ.


Chúng ta cũng một phần nào tương tự như Đức Giê-su, chúng ta cũng có hai bộ mặt, với hai cách hiện hữu hết sức khác nhau. Một đằng chúng ta là con người như bao nhiêu người khác, nhưng đằng khác, chúng ta là con cái Thiên Chúa. Là con cái Ngài, ta được Ngài ban những ơn đặc biệt để trở nên xứng đáng với địa vị đó. Căn bản và cao quí nhất là Ngài thông ban cho chúng ta chính bản tính Thiên Chúa của Ngài. Thánh Phê-rô đã cho ta biết chân lý ấy: "Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quí báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa, sau khi thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian" (2Pr 1,4).

2. Bản chất cao quí của chúng ta: là con cái của Thiên Chúa

Thông thường, ta ít khi ý thức được phẩm giá hết sức cao quí của mình cũng như của những Ki-tô hữu sống gần ta, chung quanh ta, tất cả đều là con cái Thiên Chúa. Không ý thức được điều ấy, nên ta không trân trọng đủ chính bản thân ta cũng như không trân trọng những Ki-tô hữu khác. Chúng ta sống giống như mình không phải là con cái của Ngài, vì nếu ta xác tín được mình là con cái của Ngài, đời sống chúng ta sẽ thay đổi rất nhiều. Chúng ta thử nghĩ, nếu ta là con một vị vua, là một hoàng tử, thì ta sẽ xử sự thế nào? Trước mặt mọi người, ta sẽ phải cư xử cho đúng với tư cách một vị hoàng tử. Đi đâu ta cũng không sợ bị ai ăn hiếp hay bắt nạt, vì đằng sau ta có cả một hậu thuẫn mạnh mẽ.

Tuy cũng có cái vỏ bề ngoài yếu đuối và đầy hạn chế như bao nhiêu người khác, nhưng bản chất của chúng ta vượt hẳn cái vỏ bề ngoài yếu đuối ấy. Chúng ta là con cái Thiên Chúa, được thông phần bản tính của Thiên Chúa, đầy vinh quang, quyền năng, tình thương. Tình trạng của chúng ta giống như bức tượng bằng vàng trong câu chuyện minh họa sau đây.

Một ngôi chùa kia có một tượng Phật bằng vàng, nhưng trong thời chiến tranh loạn lạc, người ta phải che dấu sự quí giá ấy bằng một lớp đất sét bọc bên ngoài. Thành thử mọi người tới xem chỉ thấy đó là một bức tượng bằng đất sét, chẳng quí giá hơn những tượng đất sét khác. Chiến tranh kéo dài quá lâu, nên sau chiến tranh, người ta không còn nhớ bức tượng đó bằng vàng nữa, cho đến một hôm... Một hôm, sư trụ trì vô tình để một vật cứng chạm mạnh vào bức tượng, khiến bức tượng bị bể một mảnh lớn, và để lộ ra chất vàng lấp lánh sáng chói. Thế là ông bèn đập bỏ tất cả lớp đất sét bọc bên ngoài. Và tượng Phật bây giờ đã trở thành một bức tượng bằng vàng sáng chói, đầy giá trị.

Mỗi người Ki-tô hữu chúng ta đều có một cái gì giống như bức tượng đó. Bên ngoài dù chúng ta không khác gì ai, không hơn gì ai, nhưng thực ra, chúng ta là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh của chính Thiên Chúa, mang bản tính Thiên Chúa nơi bản thân. Dù ta có yếu hèn, tội lỗi, hay xấu xa đến thế nào đi nữa, thì bản tính Thiên Chúa trong chúng ta vẫn là bản tính của Thiên Chúa, đầy quyền năng, mạnh mẽ, trong sạch, thánh thiện. Vào thế kỷ thứ nhất của Ki-tô giáo, một giám mục thuộc phái Ngộ Đạo (gnosticisme) nói rằng: "Chúng ta, những người Ki-tô hữu, cũng giống như một thỏi vàng nguyên chất, dù có bị ném xuống bùn nhơ, cũng vẫn là một thỏi vàng nguyên chất với đầy đủ giá trị của nó. Chỉ cần rửa sạch lớp bùn bám bên ngoài, thì thỏi vàng lại sáng lên ánh sáng đặc trưng của nó". Hay tương tự như một hoàng tử trong thời gian bị lưu lạc xa vua cha, dù có làm nghề gì thấp hèn đến đâu để sinh sống, thì cũng vẫn là hoàng tử. Chỉ cần hoàng tử ấy trở về với vua cha, thì hoàng tử sẽ lại trở thành hoàng tử chính hiệu, với quyền kế vị vua cha.

3. Chúng ta thường quên không ý thức được bản chất cao quý ấy

Rất nhiều khi người Ki-tô hữu chúng ta đã quên mất bản chất hết sức cao quí của mình là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh Thiên Chúa (nghĩa là giống như Thiên Chúa), là người mang trong mình bản tính của Thiên Chúa, và vì thế chúng ta có quyền thừa hưởng gia nghiệp cua Ngài với tư cách là con cái Ngài. Chính vì quên mất cái bản chất cao quí ấy, nên nhiều khi chúng ta đã sống không xứng đáng với bản chất ấy, nghĩa là cũng chỉ sống giống như bao người khác, thậm chí sống như con cái của ma quỉ, của thế gian, không phù hợp với phẩm giá của mình. Là con cái Thiên Chúa, nhưng nhiều khi chúng ta tin tưởng, cầu xin, khiếp sợ hoặc trông cậy vào những thế lực khác, vào sự can thiệp của những quyền lực không phải của Thiên Chúa, thậm chí đối nghịch với Thiên Chúa. Chúng ta đã hành xử như thể Thiên Chúa là một hữu thể xa lạ đối với mình, không phải là người Cha rất yêu thương mình, mà hành xử như một người có bản chất thấp hèn. Hành xử như thế, vô tình, chúng ta đã hạ thấp hoặc xúc phạm đến hình ảnh và bản tính Thiên Chúa trong chúng ta.

4. Hãy thường xuyên biểu lộ bản tính cao cả của chúng ta trong tư tưởng, qua lời nói và hành động

Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy thần tính hay bản chất vinh quang cao cả của Đức Giê-su, vốn ẩn dấu trong thân xác đầy hạn chế của Ngài, nay hiện ra một cách tỏ tường trước mặt các tông đồ. Điều đó cũng nhắc cho chúng ta ý thức về bản tính hay hình ảnh của Thiên Chúa nơi thân xác yếu đuối của chúng ta. Chúng ta cần thường xuyên biểu lộ bản tính hay hình ảnh của Thiên Chúa nơi chúng ta qua tư tưởng, lời nói, hành động của mình. Làm sao để mỗi tư tưởng, mỗi lời nói, cũng như mỗi hành động của chúng ta đều nói lên được bản chất cao quí của chúng ta là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh trung thực của Thiên Chúa. Giống như người ta có thể nhìn vào cách ăn nói, xử sự của một người mà đoán được bản chất của người ấy. Hay như khoa học thời nay có thể căn cứ vào một sợi tóc, một tế bào của một người mà biết được tính chất hay tình trạng thể lý của người ấy. Cuộc sống của một người con cái Chúa cũng phải toát lên được bản chất ấy của mình.

Bài đọc 2 cũng nhắc lại cho ta biết quê hương đích thật của chúng ta là ở trên trời. Và trong tương lai thân xác yếu hèn của chúng ta cũng sẽ trở nên vinh hiển, mạnh mẽ như thân xác của Ngài. Tất cả những đau khổ, hạn chế của ta chỉ là tạm thời, sẽ qua đi, nhưng bản chất cao quí của ta thì mãi mãi tồn tại và không thay đổi.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa, xin giúp con ý thức được bản chất cao quí của con là con cái Chúa, là hình ảnh của Chúa, và được Chúa thông phần bản tính của Chúa cho con. Xin cho con biết luôn ý thức bản chất cao quí của mình, và sống xứng đáng với bản chất ấy. Amen.

John Nguyễn

ÁNH SÁNG CUỐI ĐƯỜNG HẦM
Lc 9, 28b - 36

Với tốc độ 300.000 cây số một giây, ánh sáng có thể bay nhanh tới những miền xa thẳm trong chớp mắt. Không vật nào có thể di chuyển nhanh như thế. Nhờ ánh sáng Chúa biến hình hôm nay, ba môn đệ cũng phóng tầm nhìn rất xa, xa tới tận bản tính Thiên Chúa. Chính vì thế, các ông đã xác định được hướng sống và tìm được nền tảng của niềm hi vọng cho cuộc đời. Trong ánh sáng thần kỳ, Đức Giêsu đã mạc khải tất cả sự thật về Người. Sứ mệnh Người hiện rõ từng nét. Chúng ta tìm về ánh sáng đó để cùng các môn đệ ngất ngây chiêm ngưỡng dung nhan tuyệt vời của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa và là Đấng cứu độ muôn dân.

Nếu không được chứng kiến ánh sáng thần kỳ trên núi, các môn đệ mãi mãi sống trong giằng co bất tận giữa thực tế và mộng tưởng. Giấc mơ Thiên sai vẫn đẹp như ngày nào. Thiên sai phải là một anh hùng cái thế thực hiện tất cả những giấc mộng bá chủ của dân tộc Do thái. Thực tế Thày lại tiên báo về một Thiên sai đau khổ và bị những nhà lãnh đạo dân chúng tiêu diệt khỏi mặt đất (Mt 16:21; Lc 9:22; Mc 8:31). Lời Thày như dẫn các môn đệ vào con đường hầm dầy đặc bóng tối.

Nhưng đã đến lúc ánh sáng lóe lên ở cuối đường hầm. Đức Giêsu muốn lôi các môn đệ ra khỏi cảnh hoang mang đó. Người phải củng cố niềm tin các môn đệ. Nếu không, các ông sẽ mất hẳn chiếc phao và sẽ trôi dạt đến một chân trời vô định. Cả sự nghiệp Thày trò sẽ tan tành ra mây khói. Bởi vậy Thày quyết định dẫn ba môn đệ thân tín nhất lên núi để tìm một điểm mốc cho tương lai.

Núi là nơi lý tưởng để Thày trò cầu nguyện. Nhưng lần này khác hẳn. "Núi là nơi thường chứng kiến những mạc khải siêu nhiên và những cuộc thần hiển" (The New Jerome Biblical Commentary 1990:615). Sau khi đã leo tới đỉnh núi, "Người biến đổi hình dạng trươc mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy" (Mc 9:3). Đức Giêsu đã xuất hiện nguyên hình. Thân xác không cản nổi luồng sáng từ thiên tính Người. Niềm tin các môn đệ bừng dậy. Có lẽ trong niềm tin Phật tử, Đức Phật cũng tỏa ra một thứ hào quang tương tự khi chứng ngộ, thành đạo dưới gốc cây bồ đề (?). Bởi vậy nói theo kinh nhà Phật, trong cuộc biến hình hôm nay, Đức Giêsu cũng đã thành con đường dẫn các môn đệ thoát khỏi bến mê và trở về nhà Cha an toàn.

Trong ánh sáng biến hình, các môn đệ sẽ hiểu được lời Đức Giêsu hứa về "Triều Đại Thiên Chúa đầy uy lực" (Mc 9:1) và xác tín "Thày là Đức Kitô" (Mc 8:30). Nói cách khác, Thày tự mạc khải là Đấng quyền năng có sứ mạng cứu nhân độ thế. Trong địa vị và vai trò lớn lao đó, Thày xứng đáng là vị lãnh đạo muôn dân vào Đất Hứa. Thày xuất hiện để lời các tiên tri trở thành hiện thực. Chính vì thế hai ông Môsê và Elia đã xuất hiện để củng cố và chiếu sáng niềm tin các môn đệ vào sứ mạng của Thày. Đúng hơn, hai ông là cái nền đánh bóng dung nhan Đức Giêsu.

Nhưng trên hết, chính lúc các ông ngây ngất về dung nhan Thày trổi vượt hơn các ông Môsê và Elia, thì "có một đám mây bao phủ các ông" (Mc 9:7). Mây là biểu tượng Thiên Chúa hiện diện. Phải được nhắc lên đám mây, các ông mới nghe được tiếng Chúa Cha : "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người" (Mc 9:7). Lời trìu mến chừng nào !

Tất cả cơ nghiệp Chúa Cha là Đức Giêsu ! Nhưng cơ nghiệp ấy Chúa Cha đã không ngần ngại hi sinh cho hạnh phúc nhân loại. Hình ảnh Abraham sẵn sàng sát tế Isaac chỉ diễn tả phần nào tấm lòng hi sinh cao cả của Thiên Chúa đối với con người. Abraham chỉ bị thử thách, chứ không sát tế người con yêu quí. Trái lại, "đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta" (Rm 8:32). Thiên Chúa Cha quí trọng mạng sống Con Cha tới mức nào. Vậy mà Người đã hi sinh mạng sống ấy cho chúng ta (Disciples in Mission [Homily Guide, Lent Cycle B] 1999:10). "Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em"6 (1 Cr :20).

"Tiếng trong đám mây làm liên tưởng tới vị tiên tri trong Đệ Nhị Luật (18:15) sẽ được lắng nghe vào những ngày sau hết" (Faley 1994:231). Đám mây và Lời Chúa Cha chứng minh rõ ràng tự bản tính Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Còn ai xứng đáng cho các môn đệ nghe lời hơn không ? Vậy mà từ xưa tới nay, các ông vẫn hoang mang vì dư luận ! Bởi vậy từ nay, dù Thày có nói những điều trái tai gai mắt, các môn đệ cũng phải chấp nhận. Sự thật vẫn là sự thật. Thày không sợ sự thật. Thày muốn môn đệ cũng phải đối diện với sự thật. Vì "sự thật sẽ giải phóng các ông" (Ga 8:32).

Thấy cảnh Đức Giêsu biến hình, Phêrô cảm thấy lúng túng. "Ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng" (Mc 9:6). Một kinh nghiệm khó quên. Một cảm nghiệm thần bí tuyệt vời. Tuyệt vời đến nỗi ông muốn kéo dài mãi cảnh thần tiên đó. Đề nghị dựng ba lều chỉ là một cách nói lên điều ông không biết diễn tả làm sao nỗi vui sướng ngây ngất. Nhưng Đức Giêsu không muốn các môn đệ "ngủ quên trên chiến thắng". Ngay trên núi, vừa mới chứng kiến cảnh Thày biến hình, các ông bị trả về thực tế. "Các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi" (Mc 9:8). Thực tế trơ ra đó. Nhưng thực tế không phải chỉ có thế. Các ông lại phải tiếp tục nghe những điều nhức nhối tâm can phát ra từ miệng Thày. Thày trò rủ nhau xuống núi. Thày tiếp tục quả quyết về số phận không thể tránh : "Người phải chịu nhiều đau khổ và bị khinh chê" (Mc 9:12).

Lúc này có lẽ các ông đã sẵn sàng nghe Đức Giêsu hơn, vì ai có thể tẩy mờ hình ảnh Thày biến hình khỏi tâm trí các ông ? Làm sao các ông quên được lời phán từ đám mây : "Hãy vâng nghe lời Người". Nghe lời Người để tìm đến sự sống, chứ không phải cái chết. Đúng hơn, niềm hi vọng sẽ bừng dậy khi "Con Người từ cõi chết sống lại" (Mc 9:9). Đó mới là điều ám ảnh tâm trí các ông suốt đời. Đức Giêsu Phục sinh sẽ là câu trả lời đích xác, dẹp yên mọi xôn xao trong lòng các ông từ trước tới nay. Từ đây giấc mộng Thiên sai bá chủ sẽ nhường bước cho niềm hi vọng Phục sinh lớn lao đó. Ánh sáng biến hình chỉ là bóng mờ so với ánh sáng Phục sinh.

Nhưng không chứng kiến hay cảm nghiệm được ánh sáng biến hình, người ta có thể ngộ nhận về sứ mệnh thiên sai của Đức Giêsu. Đó là lý do tại sao "Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trừ khi Con Người từ cõi chết sống lại" (Mc 9:9). Trong ánh sáng Phục sinh, các môn đệ mới nhận thấy rõ ràng "nơi Đức Giêsu Kitô, chính Thiên Chúa đã can thiệp để cứu độ dân Người" (Fisichella 1995:669). Người chính là vị Thiên sai đến thực hiện tất cả những lời Thiên Chúa hứa giải thoát nhân loại.

Ngày nay, nhiều nơi trên thế giới, nhân loại vẫn còn sống trong những đường hầm chật chội, tăm tối. Sự dữ và bất công còn hiện diện khắp nơi. Chính vì thế người Kitô hữu vẫn chưa thể nghỉ yên. "Sứ mệnh Thiên sai vẫn còn đó như mời gọi dân thiên sai thực hiện cuộc giải thoát toàn vẹn và sau cùng. Biến cố huyền nhiệm Phục sinh chắc chắn đã mang lại ơn cứu độ. Biến cố đó không chuẩn chước, nhưng đúng hơn thúc ép chúng ta phải trở nên khí cụ thực hiện công bình và từ bi ở bất cứ nơi đâu sự dữ còn hoành hành"(Fisichella 1995:669). Nhờ đó, hòa bình sẽ là dấu chỉ rõ nhất của Thiên Chúa tình yêu giữa một xã hội đầy bạo động và sa đọa này. Vẫn còn hi vọng ánh sáng lóe lên ở cuối đường hầm.

Như Hạ OP

CHÚA GIÊSU BIẾN HÌNH
Lc 9, 28b - 36

Trong những ngày chuẩn bị cho cuộc thương khó, sự kiên Chúa Giêsu biến hình là để củng cố đức tin cho các Tông Đồ trước cuộc thương khó sắp tới. Vì cuộc thương khó của Chúa là một thử thách rất lớn cho đức tin của các Tông Đồ.

Cùng với việc Ba vua thờ lạy Chúa, tiếng Chúa Cha phán khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, phép lạ nươc hóa thành rượu tại tiệc cưới Cana, việc Chúa biến hình hôm nay cũng là một sự kiện Chúa hiển linh :Chúa tỏ mình ra là Thiên Chúa.

Sự hiện diện của Elia và Mô-sê.

Sự hiện diện của hai nhân vật quan trọng của Cựu Ước, Môsê và Elia nói với ba Tông Đồ rằng Chúa Giêsu là chính Đấng mà các tiên tri đã loan báo. Sự hiện diện của hai nhân vật nầy cộng với sự kiện Chúa biến hình làm cho các Tông Đồ thấy rõ Ngài là Đấng Messia. Có lẽ nhờ chứng kiến sự kiện hiển linh trên nên và nghe tiếng Chúa Cha phán : "Đây là Con Ta yêu dấu", mà sau nầy, khi Chúa hỏi các Tông Đồ: "Các con bảo Thầy là ai?, Phêrô liền tuyên xưng đức tin rằng: "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".

Khi đọc lại sự kiện Hiển Linh nầy, và dựa vào niềm tin của các Tông Đồ, chúng ta thấy niềm tin của mình vững vàng hơn, thấy Chuá là Thiên Chúa thật.

Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm.

Được chứng kiến cảnh tượng Chúa biến hình, ba Tông Đồ hết sức phấn khởi, và Phê-rô đại diện anh em, thưa với Chúa Giêsu như nói trong mơ rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm." Họ muốn ở lại đó: "ở đây thì tốt lắm", không muốn trở về thế gian nữa.

Nhưng để được chứng kiến cảnh huy hoàng và nếm cảm được bầu khí thiên đàng đó, các môn đệ đã phải khó nhọc trèo lên núi Tabo, một ngọn núi khá cao, và phải ở với Chúa Giêsu trên núi, và cầu nguyện với Ngài; bởi vì khi Chúa rút lui vào nơi thanh vắng, lên núi, vào sa mạc, là để cầu nguyện.

Khó nhọc trèo núi hôm nay là cố gắng vào cửa hẹp; ở với Chúa hôm nay là cầu nguyện, là nghe Lời Chúa, là rước lấy Chúa trong BT.Thánh Thể. Một khi chúng ta thực thi những điều đó cách nghiêm chỉnh thì chúng ta cũng sẽ được gặp Chúa, cũng sẽ được chứng kiến vinh quang của Chúa. Và khi ấy chúng ta cũng sẽ có một tâm tình như các Tông Đồ trên núi Tabo: "Lạy Thầy,chúng con được ở đây thì tốt lắm.".

Họ chỉ thấy một mình Chúa Giêsu.

Sau khi đã củng cố niềm tin cho các Tông Đồ bằng sự kiện biến hình, Chúa Giêsu đem họ về với thực tại của trần gian. Cùng Ngài, họ xuống núi. Và Chúa Giêsu lại trở về với trạng thái cũ của Ngài, một con người bình thường và tầm thường là đằng khác. Nhưng kể từ đây, đối với các Tông đồ thì, đằng sau cái vỏ tầm thường ấy, ẩn dấu một kho tàng vĩ đại, Con Đấng Tối Cao. Họ giữ bí mật đó trong lòng, không dám nói ra.

Trong cuộc sống, có những cái không nên nói ra và không được nói ra, nếu không thì dễ mất, dễ tan vỡ, như tình yêu chẳng hạn. Một tình yêu càng kín đáo, như một bí mật của cuộc sống, lại càng mạnh liệt và sâu xa, và càng đẹp. Khi các thánh được ơn Chúa, họ ít tỏ ra bề ngoài, họ thường giữ kín trong lòng :"Suốt thời gian đó, các môn đệ giữ kín không nói với ai những điều mình đã chứng kiến."

Muốn thấy được vinh quang Phục sinh của Chúa Giêsu đã tỏ cho các môn đệ trên núi, muốn hưởng niềm vui của các Tông Đô trên núi Tabo, chúng hãy cùng nhau trèo lên núi với Chúa Giêsu, nghĩa là sống mùa chay thánh nầy một cách nghiêm túc trong đời sống sám hối và đền tội; cùng nhau ở với Chúa Giê-su, nghĩa là siêng năng nghe lời Chúa và rước lấy Chúa mỗi ngày.

Hãy biết bắt đầu lại.

Một thanh niên thấy cuộc sống mình bê bối, muốn sám hối ăn năn, đến gặp một linh mục và nói:

-Thưa cha, hôm nay con đến xin cha giúp con, con bê bối lắm nhưng con không biết bắt đầu từ đâu cả ! Mười điều răn Đức Chúa Trời, sáu điều răn Hội Thánh, bảy mối toi đầu con đều phạm hết. Con nản quá ! Bạn bè khuyên con, con trả lời rằng: Thôi đã lỡ phạm tội thì phạm cho hết mọi tội, xuống lót đáy hỏa ngục luôn. Nằm dưới đáy có lẽ đỡ nóng hơn lànằm hơ hơ trên ngọn lửa, nóng lắm! Nói thì nói thế cho vui, chớ con không yên tâm chút nào! Vị linh mục cười và nói:

-Cha lại thích mấy con cá bự, cá nhỏ ăn hoài chán rồi! Cả hai cha con cười xòa. Vị linh mục nói tiếp:

-Cha kể cho con một câu chuyện nhé: Một người con trai kia thất nghiệp, trở về nhà buồn bã. Người cha an ủi: Thôi con ơi, nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông thì nhất nông nhì sĩ; con trở lại với miếng ruộng của gia đình đi. Sáng mai con ra làm cỏ năm sào ruộng để mùa tới chúng ta sẽ xạ lúa. Người con nghe lời, sớm mai vác cuốc ra ruộng. Nhưng khi nhìn thấy đám ruộng mênh mông chỉ có cỏ với cỏ, anh ngán ngẩm, tìm một gốc cây nằm ngủ?

Người cha biết sự việc, không la rầy, ôn tồn nói với con: Mỗi ngày con làm cho cha chừng 20 mét vuông thôi, con làm được không ?-Dạ ít vậy thì được. Và cứ như thế, chẳng bao lâu đám ruộng đã sạch cỏ.- Tâm hồn con bây giờ cũng như đám ruộng kia, đầy cỏ dại, nhưng con hãy bắt đầu đi, rồi con sẽ thấy kết quả. Rồi đây con sẽ còn sa ngã, nhưng cái quan trọng là luôn biết bắt đầu lại. Tội con Chúa đã tha rồi, Chúa chỉ đòi hỏi con cố gắng mà thôi. Mười năm sau đó, vào một buổi sáng đẹp trời, một tu sĩ bước vào nhà xứ và cúi đầu chào vị linh mục, rồi nói: cha còn nhớ con nữa không? Con là người cha đã chỉ cho cách làm cỏ cách đây khoảng mười năm.

Lm. Damien OFM

Nguồn vietcatholic.org

918    22-02-2013 20:47:17