QUA ĐAU KHỔ VÀO VINH QUANG
Ga 20,19-31
LM ĐAN VINH - www.hiephoithanhmau.com
1. Đức Kitô phục sinh phải qua đau khổ thập giá:
Một hôm do muốn cám dỗ thánh Martinô phạm tội, nên quỷ đã hiện hình thành một ông vua oai phong và phán rằng "Hỡi Martinô, Ta cám ơn con đã tin vào Ta, và Ta mong rằng từ nay con sẽ luôn ở bên Ta và vâng nghe lời Ta truyền dạy".
Martinô chăm chú nhìn ông vua giàu sang kia và hỏi: "Nhưng thưa ngài, ngài là ai vậy?". Vua liền trà lời: "Ta là Vua Kitô đây !"
Martinô lại hỏi: "Vậy những vết thương ở tay chân của Đức Kitô đã biến đi đâu cả rồi ?" Vua liền đáp "Ta từ trời xuống, nên không cần đến các vết hương đó nữa !"
Bấy giờ Martinô nói: "Tôi sẽ không bao giờ tin vào một Đức Kitô không chịu khổ nạn và tay chân không mang thương tích!" Tên vua quỷ nghe vậy liền biến mất.
2. Phúc thay những người không thấy mà tin:
Tin Mừng Gio-an hôm nay tường thuật hai lần Đức Giê-su hiện ra với các tông đồ sau khi sống lại. Cả hai lần Chúa đều hiện ra vào buổi chiều Ngày Thứ Nhất trong tuần và cách nhau đúng một tuần lễ. Lần thứ nhất vắng mặt Tôma, và lần thứ hai ông đã hiện diện cùng với các anh em. Trước đó, Tôma đã đòi phải được "mắt thấy tay sờ" mới chịu tin Thầy sống lại. Do đó, trong lần thứ hai hiện ra, Chúa Giêsu đã thỏa mãn đòi hỏi của Tôma khi chỉ cho ông xem các vết đinh ở hai bàn tay và vết thương do lưỡi đòng đâm thâu ở cạnh sườn Người. Bấy giờ Tôma lập tức đạt tới đức tin trọn vẹn khi tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế và là Con Thiên Chúa qua lời cầu nguyện: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!"(Ga 20,28). Sau đó Đức Giê-su đã nhắn nhủ Tôma và qua ông, Người chúc phúc cho những ai dù mắt không thấy, nhưng vẫn tin vào Người khi nghe lời rao giảng của các chứng nhân: "Vì đã thấy Thầy nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà Tin!"(Ga 20,29).
3. Tiến trình đức tin của các môn đệ Chúa:
Các môn đệ của Chúa Giêsu không phải là những người dễ tin. Đức tin của các ông được diễn tiến như sau:
-Vào sáng ngày Thứ Nhất trong tuần, khi nghe bà Maria bao tin xác Thầy biến mất, hai môn đệ Phêrô và Gioan đã chạy đến mồ quan sát thực hư. Gioan đã đạt tới đức tin trước các anh em nhờ đã nhìn thấy những tấm khăn liệm xác và các dây băng được xếp gọn để lại trong mồ. "Ông đã thấy và đã tin" nhờ sự tư duy và trực giác (x Ga 20,1-8).
-Bà Maria Mácđala đã gặp Chúa phục sinh nhưng không nhận ra Người và bà tưởng là người giữ vườn. Bà chỉ nhận ra Ngừơi khi nghe gọi đích danh "Maria" Ga 20,16).
-Hai môn đệ làng Emmau đã nhận ra Chúa phục sinh sau khi nghe người giải thích Kinh thánh và chứng kiến việc Người bẻ bánh (x Lc 24,13-31).
-Bảy môn đệ rủ nhau đi đánh cá tại biển hồ Galilê đã nhận ra Chúa Phục Sinh do vâng lời Người nên đã bắt được mẻ cá lạ lùng (x Ga 21,1-14).
-Còn Tôma trong Tin mừng hôm nay đã có đức tin khi được Người cho thỏa mãn đòi hỏi "mắt thấy tay sờ" của ông (x Ga 20,19-29).
-Tuy nhiên các môn đệ chỉ đạt tới đức tin trọn vẹn vào ngày lễ Ngũ Tuần, sau khi đã cầu nguyện kết hiệp với Đức Maria và các anh em Chúa trong Nhà Tiệc Ly (x Cv 2,1-12); Chính nhờ đón nhận được sức mạnh Thánh Thần từ trên cao, các ngài đã hăng say chu tòan sứ mệnh "loan báo Tin Mừng đến tận cùng thế giới".(x Cv 1,8).
4. Loan báo Tin Mừng cho thế giới hôm nay:
Như Tôma xưa, con người ngày nay cũng không dễ tin: họ luôn đòi phải được "mắt thấy tay sờ", phải thấy được bằng chứng đáng tin. Do đó, các tín hữu cần trình bày khuôn mặt của Chúa Phục Sinh cho người khác thấy.
Thực vậy: Làm sao họ có thể tin vào Chúa Phục Sinh, nếu không được xem những vết chai cứng nơi bàn tay lao động, những khuôn mặt ướt đẫm mồ hôi vì phục vụ những người nghèo khổ của các tín hữu chúng ta?
Làm sao họ tin Chúa đã yêu thương chịu chết đền tội thay và sống lại để ban cho họ sự sống đời đời, nếu họ không nhìn thấy những dấu chỉ yêu thương quên mình phục vụ giữa các cộng đòan tín hữu hay các hội đòan công giáo tiến hành... như sách Công vụ đã thuật lại sinh họat của cộng đòan sơ khai tại Giêrusalem:
"Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ Bẻ Bánh và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kính sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải , lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ Bẻ Bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ,. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được tòan dân thương mến. Và Chúa cho cộng đòan mỗi ngày có thêm những người được cứu độ" (Cv 2,42-47).
Đó chính là những dấu hiệu tình yêu đích thực của các môn đệ Đức Giêsu: "Ở điểm này , mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng yệu thương nhau" (Ga 13,35). Con người ngày nay luôn đòi thấy những chứng tích tình yêu như thế nơi các tín hữu.
5. Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh.
Khi chúng con đi tìm kiếm Chúa trong nước mắt đau thương, xin hãy âu yếm gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên bà Maria đang khóc bên mộ Chúa khi xưa.
Khi chúng con chán nản muốn bỏ Chú, xin hãy đi với chúng con trên những đọan đường dài, như Chúa đã đồng hành với hai môn đệ trên đường về làng Em-mau.
Khi chúng con đang đóng cửa lòng vì sợ hãi, xin hãy đến ban sự bình an cho chúng con, như Chúa đã đến ban bình an cho các môn đệ vào chiều ngày phục sinh.
Khi chúng con đang hòai nghi bất tín, xin hãy tiếp tục kiên nhẫn và khoan dung với chúng con, như Chúa đã tỏ lòng khoan dung với sự cứng lòng của Tôma.
Khi chúng con gặp thất bại trong cuộc sống, xin hãy đến nâng đỡ ủi an chúng con, như Chúa đã đến phục vụ bánh và cá cho bảy môn đệ trên bờ biển hồ Galilê xưa.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, xin hãy tỏ mình ra cho chúng con thấy Chúa đang hiện thân nơi những người đau khổ cả về thể xác cũng như tâm hồn, để chúng con quảng đại chia sẻ cơm bánh vật chất và nhiệt tình phục vụ họ như phục vụ chính Chúa, hầu sau này chúng con sẽ được Chúa liệt vào hàng các chiên ngoan trong đàn chiên Chúa. Amen
LM ĐAN VINH
www.hiephoithanhmau.com
SỐNG TIN YÊU CHÚA KITÔ PHỤC SINH
Ga 20, 19 - 31
Niềm tin là điểm tựa để con người vươn lên, là chất sống để con người tiếp tục tồn tại và là sự khởi đầu của tiến trình đi lên trong mối quan hệ hỗ tương. Như thế niềm tin quan trọng và cần thiết biết bao! Hơn nữa tin vào Chúa Kitô phục sinh càng cần thiết hơn. Chính Chúa Kitô luôn nâng đỡ niềm tin của chúng ta và đã thể hiện lòng thương xót, tình thương yêu vô bờ bến của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Chúa Kitô Phục sinh là một Tin mừng, Tin mừng của lòng thương xót, nhưng là một tin mừng không dễ tin, đặc biệt đối với những người theo Chúa, như các tông đồ. Thật thế, sự kiện ngôi mộ trống không đủ bằng chứng để họ tin. Cần phải có những lần hiện ra của Chúa Giêsu mới củng cố được lòng tin của các ông. Thánh Gioan đã ghi lại câu chuyện Chúa hiện ra cho các tông đồ và cho Tôma là để cho chúng ta tin. Thế nhưng, trong những lần hiện ra đó, cái gì đã giúp cho những người thân của Chúa Giêsu nhận ra Ngài? Có thể là một tiếng gọi (cho Maria), một cử chỉ bẻ bánh (cho hai môn đệ Emmaus) hoặc cũng có thể là một phép lạ xảy ra theo lệnh truyền của Chúa (như mẻ cá đầy ở biển hồ Tibêria), nhưng đặc biệt là những thương tích nơi tay chân và cạnh sườn của Ngài. Ông Tôma đã thưa cùng Chúa: "Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con" (Ga 20, 28). Khi Chúa Giêsu cho ông thấy những dấu đinh của cuộc khổ nạn trên thân thể Ngài và nói với ông những lời không thể ngờ được: "Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng tin nữa, nhưng hãy tin!" (Ga 20, 27). Điều đó cho chúng ta thấy được lòng thương xót của Thiên Chúa.
Như thế, dấu chỉ để các Tông Đồ nhận ra Chúa Phục Sinh không phải là vinh quang chói lọi hay cái gì khác, mà là chính những dấu đinh. Nếu chính Đấng Phục Sinh vinh hiển đã không muốn dùng vinh quang và sức mạnh chiến thắng của mình mà khuất phục thế gian, thì phương chi là chúng ta. Và nếu Chúa đã muốn dùng những dấu đinh nơi chân tay và cạnh sườn làm những dấu chứng Phục sinh, thì mỗi người chúng ta cũng không có dấu chỉ nào ý nghĩa hơn là những vết thương của các cuộc khổ nạn mà chúng ta có thể đã, đang và sẽ còn chia sẻ với Chúa. Chính với những dấu chỉ này mà chúng ta có thể làm chứng cho Chúa Phục Sinh một cách sống động nhất. Chúng ta hãy nhận ra lòng thương xót của Chúa nơi năm dấu thánh, chứ không phải trong ánh hào quang. Chúa Kitô thực sự là tình thương của Thiên Chúa đối với vũ trụ, con người. Ngày nay Ngài cũng vẫn đang hiện diện giữa chúng ta như là "người" và là Chúa trong những người anh em bị đau khổ, bị ngược đãi, bị đói khát, nghèo hèn, bị chối bỏ, bị giết vì tình yêu Thiên Chúa và tình yêu nhân loại.
Mỗi người Kitô hữu chúng ta có sẵn sàng mang dấu tích của Chúa Phục Sinh, có sẵn sàng trở nên khí cụ bình an của Chúa hay không? Nói khác đi, chúng ta có sẵn sàng chịu đau khổ, chịu đóng đinh để làm chứng cho Chúa Phục Sinh không? Có sẵn sàng hoà giải nhân loại với Chúa, hoà giải nhân loại với nhau, bằng những hy sinh và cả giá máu mà chúng ta sẵn sàng đổ ra hay không?
Con người ngày nay không dễ tin. Họ cũng đòi hỏi như ông Tôma, phải được trông thấy, phải được kiểm nghiệm, phải có dấu chứng khả giác mới chịu tin. Chúng ta có nhiệm vụ trình bày cho họ thấy rõ khuôn mặt thật của Chúa Phục Sinh. Làm sao họ có thể nhận ra khuôn mặt của Chúa Giêsu, nếu họ không thấy những vết thương, những chứng tích của Chúa Kitô đóng đinh nơi tay chân, nơi thân xác, nơi cuộc sống của người Kitô hữu? Làm sao họ có thể tin được, nếu họ không thấy chứng tích của những bàn tay chai cứng vì lao động, của những khuôn mặt đẫm mồ hôi vì phục vụ, của những cuộc đời xả thân hy sinh cho tha nhân? Làm sao có thể tin được, nếu họ không thấy dấu chứng của cộng đoàn Kitô hữu tương tự như cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi ở Giêrusalem sau ngày Chúa Phục Sinh theo sách Công vụ mô tả: "Những kẻ tin, muôn người như một, chuyên cần với lời giảng dạy của các tông đồ, hiệp nhất và cùng chung lo cho người nghèo khó bằng cách để chung tiền của, họ đồng tâm nhất trí chia sẻ bánh thánh và cầu nguyện"(Cv 2, 42 - 47). Đời sống chứng tá đó đã thu hút những người không tin, nên "số những người tin Chúa mỗi ngày càng thêm đông" (x. Cv 4, 32-35; 2, 42-47). Đó chính là chứng tích của tình yêu. Con người ngày nay cũng đang đòi kiểm nghiệm những chứng tích tình yêu của cộng đoàn Kitô hữu chúng ta.
Ước gì mỗi người chúng ta đều mang những chứng tích tình yêu của Chúa Kitô đóng đinh trên tay chân, trên thân xác, trong cuộc sống... để chia sẻ với Chúa Giêsu những vết thương của các cuộc khổ nạn đang diễn ra trên thế giới ngày nay, nhờ đó chúng ta mới có thể làm chứng cho chiến thắng vinh quang của Chúa Kitô Phục Sinh.
Lạy Chúa Kitô phục sinh, con tin Chúa đã sống lại và đang hiện diện với chúng con, với Giáo Hội. Xin Chúa thêm lòng mến Chúa để chúng con can đảm sống chứng nhân giữa đời thường bằng một tình yêu mà Chúa đã hiến mạng sống vì yêu thương chúng con. Amen.
CHÚA NHẬT II PHỤC SINH
Ga 20 , 19 - 31.
Anh chị em thân mến.
Có một đoàn hát đi về một vùng quê để phục vụ. Trong đoàn hát có một anh hề rất nỗi tiếng, chuyên đem đến cho người xem những phút thư giãn quí báu. Chỉ cần anh xuất hiện, thì bất cứ một cử chỉ, một hành động nào của anh cũng đem lại cho người xem những liều thuốc bổ bằng những trận cười thoải mái.
Nhưng chuyện không may lại xảy ra. Không biết vì lý do nào mà nơi cư ngụ của đoàn bị bốc cháy. Mọi người lo chạy chửa, còn anh hề lo đi tìm những người chung quanh đến phụ giúp. Nhưng khốn khổ thay, khi mọi người nhìn thấy anh, họ rất vui mừng, xúm lại chung quanh. Mặc cho anh nói gì, làm gì, họ chỉ có được những trận cười thỏa thích. Anh càng tỏ ra sự việc nguy hiểm, càng cầu khẩn, van xin, họ càng thích thú và cho rằng: Ở bên ngoài anh hề càng gần với thực tế thì càng biểu diễn xuất thần hơn. Thế là đoàn hát dành phải chịu như số phận nó đã được định như thế.
Họ cố gắng được bao nhiêu thì chỉ có bấy nhiêu thôi, còn sứ mạng của anh hề để cứu cho đoàn kể như thất bại. Vì bao nhiêu người chỉ nhìn thấy chất hề nơi anh ta, cũng với một cung cách đó, cũng với những hành động đó, cũng với những kiểu nói đó và cùng với chính con người đó thì làm sao có thể thuyết phục được người nghe có một cái nhìn khác về anh ta được.
Nghe qua bài Phúc Âm chắc có lẽ chúng ta không khỏi trách thầm Tôma tại sao lại quá cứng tin khi nghe các Tông Đồ tường thuật lại những gì mình đã chứng kiến, những gì mình đã nghe, những gì đã được chỉ bảo. Thử nhìn lại xem: cũng với những con người đó: Những con người đã từng phản bội, những con người đã từng hèn nhát , trốn chạy, những con người đã từng sợ sệt; cho đến giờ này, những thái độ đó vẫn còn hiện diện, không có gì thay đỗi. Làm sao Tôma có thể tin được lời: "Chúng tôi đã thấy Chúa, chúng tôi đã được nhận Thánh Thần, chúng tôi đã được sai đi . . ." Vậy mà giờ nầy họ vẫn còn ngồi ỳ ra đó, vẫn còn sợ sệt, vẫn còn bất động, thì thử hỏi các ông đã thấy, đã tin Chúa Sống lại như thế nào ? Nếu chính các ông không có thái độ tin thật sự, thì việc các ông báo lại cho người khác với một thái độ như thế thì làm sao người nghe có thể tin được, khi nhìn thấy lời nói và hành động hoàn toàn khác như thế. Vậy thì ai là người đáng trách ?
Chúa Giêsu không trách Tôma, Ngài đã nhìn thấy, Ngài muốn củng cố lòng tin cho ông. Chúng ta thấy thái độ của ông rất đáng khâm phục : Ông đã tỏ thái độ xứng đáng của một người tin thật sự. Chắc là Ông không cần phải thực hiện lời nói của mình là : phải chạm đến, phải sờ vào. Nhưng khi ông cảm nhận được những gì Thiên Chúa đặt biệt đối xử với ông. Không còn cách nào khác hơn là ông phải tin. Không phải chỉ bằng lời nó suông nhưng bằng hành động cụ thể.
"Phúc cho những ai không thấy mà tin."
Lời chúc phúc dã trải qua 2000 năm lịch sử. Giờ đây chúng ta có cảm nhận được Lời Chúc đó cho chính mình, hay chúng ta vẫn ngỡ rằng : Lời đó cho ai chứ không phải cho tôi. Vậy thì chúng ta vẫn còn mang nặng tâm trạng của các Tông Đồ khi xưa. Chỉ nhìn thấy nỗi thống khổ của Chúa Giêsu trên thập giá. Hình khổ thập giá vẫn đè nặng trên con người chúng ta, trong cuộc sống hằng ngày. Đó là chúng ta chỉ nhìn thấy những vất vã của cuộc đời, nên nỗi bi oan thống khổ luôn đè nặng trong tâm trí. Mặc dù Chúa đã sống lại, đã hiện ra, đã truyền lệnh và đã chúc phúc.
Trải qua bao nhiêu năm của cuộc đời, chúng ta vẫn ngồi yên bất động, không có chút gì thay đỗi trong cuộc sống. Chúng ta vẫn trình bày bộ mặt thảm sầu của cây thập giá qua cách sống của chính mình. Nhiều khi chúng ta cũng cố gắng thực hiện lệnh truyền của Chúa phục sinh: thông báo cho mọi người biết nhưng không kết quả, vì chúng ta chỉ dùng lời nói, nhưng hành động lại hoàn toàn khác.
Chúng ta hay phiền trách người này người nọ cứng tin, chúng ta chỉ biết quy lỗi cho người. Nhưng có khi nào tự nhìn lại bản thân, nhìn lại cách sống của chính mình xem. Chúng ta chưa sống thật với Lời chúc phúc, cũng chưa sống được với niềm vui phục sinh mà chúng ta đã lãnh nhận, thì làm sao thông báo cho ai được. Dùng lời lẽ để chứng minh cho đức tin là một điều tốt, nhưng tốt hơn và cần hơn là hành động cho người khác thấy niềm tin của mình.
Đó chính là điều mà các bạn của Tôma lẽ ra phải có, nhưng không có. Còn chúng ta, chẵng lẽ trong cuộc sống đời thường, mình cũng vẫn là một anh hề trên sân khấu, để đến khi kết cuộc chúng ta không có điều gì có thể tin được sao ? Như vậy, hậu quả chúng ta sẽ lãnh nhận được như thế nào ? Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người nhận được sự sống mới của Chúa, và biết sống sự sống mới, sự Phục Sinh trong cuộc sống đời thường.
PHÚC CHO AI KHÔNG THẤY MÀ TIN
Ga 20,19-31
1. Từ hồi rất bé khi có dịp ra viếng Đất Thánh quê tôi, tôi thường được mẹ dẫn đến viếng hai ngôi mộ bằng đá ong cũ kỹ, mẹ tôi nói đây là phần mộ của ông sơ và bà sơ của tôi. Có lần tôi hỏi: " Mẹ có biết mặt ông bà sơ không ? Mẹ có dự lễ an táng của ông bà sơ không ? "
Mẹ tôi trả lời : " Mẹ chỉ nghe ông bà ngoại (của tôi) nói lại thôi, ông bà sơ qua đời đã lâu lắm rồi, nhưng mẹ tin chắc rằng đó là mộ của ông bà sơ " .
Trong cuộc sống, có những điều chính mắt chúng ta chứng kiến, kiểm nghiệm nhờ đó ta tin, thế nhưng có những điều chúng ta tin nhờ vào người khác.
2. Đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại hai lần Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với các môn đệ. Lần thứ nhất không có Tôma, khi các môn đệ khác kể lại với ông : " Chúng tôi đã xem thấy Chúa " , thì ông đáp lại : " Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người ... thì tôi không tin " . Đó là nguyện vọng rất bình thường, rất hợp lý của Tôma. Tám ngày sau, Đức Giêsu Phục Sinh lại hiện ra, lời đề nghị của Tôma được đáp ứng. Chúa nói với ông : " Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra xỏ vào cạnh sườn Thầy, chớ cứng lòng nhưng hãy tin " . Tôma liền đáp lại và tuyên xưng đức tin: " Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi " . Giờ đây, ông chịu khuất phục vì sự hiện diện của Chúa, ông chẳng dám đưa tay ra sờ Chúa nữa, ông đã tin.
3. Chúa luôn sẵn sàng thỏa mãn những đòi hỏi của các môn đệ, của ta, nhưng bao giờ Người cũng muốn niềm tin của ta ở mức cao hơn : " Phúc thay những ai không thấy mà tin " . Thật vậy, từ mức độ thấp là tin dựa vào bằng chứng giác quan kiểm nghiệm được, lên mức độ cao là tin chỉ vì nghe, bởi vì mình đã an tâm về uy tín của người nói cho mình nghe. Như tôi tin vào lời mẹ tôi nói, mẹ tôi tin vào lời của ông bà ngoại tôi về mộ phần của ông bà sơ tôi, lẽ nào họ không nói đúng sự thật?
Tôma chậm tin vào lời chứng của các bạn, nên ông chậm tin vào Chúa Phục sinh. Ông cũng chậm tin, hay quên cả lời Chúa báo trước về sự phục sinh của Người. Điều đáng trách của Tôma là ở chỗ đó, nhưng cũng có cái hay là vì ông chậm tin, nên ngày hôm nay chúng ta vững tin vào việc Đức Kitô Phục Sinh hơn, bởi ông không là người nhẹ dạ cả tin.
4. Trong thực tế, có rất nhiều điều cần phải qua kiểm chứng để mới có thể tin được. Nhất là sống trong thời đại mà sự thật dễ bị coi thường, dễ bị lừa đảo. Thế nhưng chúng ta vẫn phải tin bao điều mình không thấy : như các bạn trẻ vẫn tin vào tình yêu, tình bạn. Các đôi vợ chồng vẫn tin vào sự chung thủy của nhau. Con cái tin vào sự hướng dẫn của cha mẹ. Học trò tin vào sự hướng dẫn của thầy cô . Cái khó là nên tin vào ai, và không nên tin vào ai? Tin điều gì và không nên tin điều gì ?
Trong cuộc sống hẳn chúng ta có rất nhiều kinh nghiệm về điều này để ứng xử ; nhưng trong lãnh vực đức tin và luân lý, thì không còn nghi ngờ gì nữa, mà phải tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu và Lời Người dạy. Vì Lời Người là chân thật, hằng sống. Chúng ta cũng phải tin vào lời chứng của các Tông Đồ và các đấng kế vị các ngài, vào Hội Thánh của Chúa, nơi chân lý được lưu truyền. " Phúc cho ai không thấy mà tin " , lời chúc phúc này tiếp tục trao ban cho mọi Kitô hữu, qua mọi thời, mọi nơi dù không thấy Chúa bằng mắt thường, nhưng nhận ra sự hiện diện của Người qua đức tin.
5. Thế nhưng hãy xem coi ta có xứng đáng nhận lời chúc phúc này của Đức Giêsu Phục Sinh hay không ? Bởi khi suy niệm về bài TM hôm nay, có khi ta trách Tôma cứng lòng, còn ta ? Phải chăng vì cứng lòng nên ta mới hờ hững với lời Chúa dạy ? Phải chăng vì cứng lòng nên ta đến nhà thờ không phải để thờ phượng Chúa mà để gặp gỡ nhau, để lương tâm được yên ổn vì thế cứ thích ở ngoài nhà thờ, dù bên trong nhà thờ còn rất nhiều chỗ ngồi ? Phải chăng vì cứng lòng nên ta chỉ tìm lợi ích cho mình mặc ai thiệt thòi đau khổ ? Phải chăng vì cứng lòng nên ta không vui trước sự thành công của người khác ? v.v
Với những cách sống như thế, chúng ta không thể là người có phúc được vì chứng tỏ ta không thực sự tin vào Chúa Phục sinh, không tin Lời Người dạy và như vậy làm sao có thể làm chứng cho tha nhân biết rằng Chúa đã phục sinh ?
SỨC MẠNH CỦA LÒNG TIN
Ga 20, 19 - 31
Bài đọc I (Cv 4, 32-35) cho ta thấy hình ảnh của một cộng đoàn Kitô hữu sơ khai sống trung thành tuyệt đối với Tin Mừng.
Bài đọc II (1Ga 5, 1-6) nhấn mạnh đến ơn gọi của người Kitô hữu là ơn gọi để yêu thương.
Tin Mừng thánh Gioan tường thuật lại việc Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra, tỏ cho các Tông Đồ xem thấy những vết thương và ban bình an cho họ. Sau đó, Ngài ban Thánh Thần và quyền tha tội cho các ông. Đặc biệt khi chạm vào những vết thương của Chúa Giêsu Phục Sinh thì sự nghi ngờ của Tôma trở thành lòng tin.
Đức tin là cái gì kỳ diệu và quý báu nhất trên đời. Nếu thế giới này chỉ có sự nghi ngờ thì mọi tương quan của chúng ta lấy gì mà bảo đảm. Chúa Nhật hôm nay, chúng ta hãy cố gắng nhận ra sức mạnh của lòng tin sắt đá.
"Nếu tôi không thấy, không chạm...tôi sẽ không tin". Những lời của Tôma nghe ra có vẻ rất hợp lý và có cơ sở. Nó đại diện cho những lối giải quyết thời đại theo con đường hiểu biết, lý trí. Ngày nay, người ta có thể giải thích mọi sự dựa trên lý trí. Nếu một điều gì khó hiểu, tất cả chúng ta phải làm sáng tỏ dưới ánh sáng của khoa học thì mọi chuyện sẽ được rõ ràng.
Tất nhiên, chúng a cần phải được lý trí hướng dẫn, nhưng chúng ta cũng phải biết lắng nghe trí tưởng tượng và biết lắng nghe tiếng nói từ con tim của mình. Có nhiều khía cạnh trong cuộc sống mà chúng ta không thể hoàn toàn giải quyết hay hiểu bằng lý trí. Khoa học chưa phải là tất cả. Như một nhà tư tưởng đã nói: Những gì khoa học biết thì rất ít, nhưng chưa biết thì rất nhiều.
Quan niệm của Tôma sẽ dẫn chúng ta đến với một cuộc sống duy vật thuần tuý (hoàn toàn dựa vào vật chất). Nhưng một trong những thành phần quan trọng nhất của cuộc sống chúng ta cũng chưa thể nhìn thấy hay chạm được. Có những điều vượt quá mà giác quan ta không thể cảm nhận được nhưng chúng lại hiện hữu thật sự. Thế giới mà chúng ta có thể nhìn thấy được chỉ là một phần của thế giới bao la với vô số những gì có thật mà ta không thấy nhưng nó mang một ý nghĩa quan trọng. Như thái tử Little đã nói: "Cái chính yếu là cái ta không nhìn thấy được."
Thấy và nghe có thể là một chướng ngại ngăn cản những suy nghĩ, cảm giác và trí tưởng tượng của chúng ta. Cái chúng ta thấy chỉ góp một phần nhỏ bé cho sự cảm nhận sâu sắc bên trong. Người ta chỉ thích cái nhìn thực tế, nhưng theo Van Gogh: muốn đặt niềm tin vào điều gì thì cái nhìn chỉ đóng vai trò nho nhỏ. Khi một người biết một cái gì và thật sự biết sâu sắc về nó trong tận cõi lòng, thì anh ta không cần phải lý luận hay chứng minh về nó. Anh ta chỉ biết nó, như thế là đủ. Chúng ta không đủ khả năng để nhận thức sự quan trọng của một điều gì nếu như chúng ta không hiểu chúng tường tận. Nhưng chúng ta còn cần phải biết bằng nhiều cách khác.
Tuy nhiên, chúng ta có thể thông cảm với Tôma. Ông ta chỉ là một tiếng vang trong nhân loại đang chạy tìm những gì thực tế. Vì ở trần gian, chúng ta không thể biết về Thiên Chúa và thế giới linh thiêng một cách tuyệt đối. Chúng ta hãy bằng lòng vì: thấy là sự phản chiếu mơ hồ từ một tấm gương soi. Chúng ta không được nhìn từ cánh cửa được mở sẵn nhưng nhìn xuyên qua từ những khe hở. Khe hở này đủ lớn để để ánh sáng có thể đi qua, nhưng nếu nó quá lớn sẽ làm mất đi sự thán phục và vẽ huyền nhiệm. Ánh sáng quá nhiều hay quá ít đều làm cho chúng ta bị mù. Cần có đủ ánh sáng để chúng ta có thể nhìn những gì mình muốn, cũng cần đủ bóng tối để con người có thể quay trở lại.
Chủ nghĩa duy lý xem Thiên Chúa và Tôn giáo như những gì có thể hiểu và lý giải được. Còn đức tin đến với Thiên Chúa như là mầu nhiệm không thể hiểu và lý giải được nhưng chỉ bằng cảm nghiệm. Đức tin sẽ mang chúng ta đến những nơi mà cảm giác không thể đến. Vì vậy mà Pascal đã nói: "Đức tin không đến từ lý trí nhưng đến từ con tim."
Lạy Chúa! Xin ban thêm lòng tin cho chúng con, để chúng con nhạy cảm nhận ra Chúa trong mọi nơi, mọi lúc, nhất là nhận ra Chúa nơi từng người mà chúng con gặp gỡ.
Các môn đệ khác nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa !" (Ga 20,25).
Tin là gì? Có phải tin là chấp nhận một điều mà ta không thấy? Nếu thế thì phải chăng tin chỉ là thất bại của trí tuệ? Nói tin vào Chúa thì đơn giản. nhưng khi niềm tin bị thử thách bằng tính mạng, của cải, thương tích... liệu chúng ta có còn đứng vững hay không? Đây là một thách đố cho niềm tin của con người.
Tin Mừng hôm nay thuật cuộc hiện ra của Đức Giêsu với các môn đệ sau khi Ngài sống lại, cốt ý là để phục hồi niềm tin cho các Tông đồ. Các ông hân hoan vì: "đã được thấy Chúa" (Ga 20,25). Thế nhưng, tin không phải là nhìn nhận một điều không có, nhưng là nhìn nhận một điều có mà không thấy. Một điều đã có mà dù chối từ, điều ấy cũng vẫn tồn tại. Tin Chúa Giêsu Phục Sinh không chỉ là việc của lý trí nhưng là việc làm của con tim.
Quả thật, điều này mọi kitô hữu điều biết và tin. Tuy nhiên, chúng ta có thể cảm nhận được thâm thuý điều này hay không còn tuỳ nơi mỗi tâm hồn. Vì niềm tin đòi buộc toàn diện cuộc sống, tình yêu, đau khổ, ước mơ, yếu đuối, sáng tạo, lầm lẫn... Bởi vì, Chúa Giêsu đi từ những thất bại của sự chết đến sự toàn thắng của phục sinh, chính trong cái tuyệt vọng nhất của cuộc đời theo Chúa lại tàn ẩn một niềm hy vọng và một sức sống mãnh liệt. Đó chính là khởi điểm cho một sự sống mới, sống niềm tin.
Qua cái chết và phục sinh của Đức Kitô đã trở nên một nguyên lý của sự sống, sống cho niềm tin. Là kitô hữu hãy soi rọi vào tâm hồn của mình với lòng cậy trông vững chắc của niềm tin, mỗi lần chúng ta trở về sau những lầm lỗi là được phục sinh với Chúa. Mỗi lần chúng ta tiếp tục cố gắng sau những lần thất bại là đang ra khỏi mộ với Chúa. Mỗi khi chúng ta chết với Đức Kitô là được phục sinh với Ngài.
Tin vào Đức Giêsu phục sinh, chính là đón nhận chứng từ của các Tông đồ. Vì các ngài đã lấy máu mình quả quyết trước mặt thế gian và cho rằng: Thầy mình đã chết trên thập giá và được phục sinh trong thân xác vinh hiển, vượt thắng những điều kiện thông thường của không gian và thời gian.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh xin cho con một lòng yêu mến Chúa như các Tông đồ: Maria Mađalênna, Phêrô, Gioan. đã cảm nếm được niềm vui phục sinh. Xin cho con biết chia sẻ niềm vui và sống niềm tin ấy cho mọi người mà con gặp gỡ, để tất cả được hưởng niềm vui phục sinh của Chúa. Amen.
CHÚA NHẬT II PHỤC SINH
Ga 20, 19-21
Trong suốt những ngày qua, từ đêm thứ bảy Vọng Phục Sinh, rồi Chúa Nhật Phục Sinh, và trong suốt tuần Bát Nhật Phục Sinh vừa qua, chúng ta đã nghe rất nhiều về sự kiện Chúa Phục Sinh, với những dấu chỉ ngôi mộ trống, các dây băng và vải khăn liệm, cũng như các lần hiện ra của Chúa Giêsu Phục Sinh với các môn đệ của Người. Ngày Chúa Nhật hôm nay được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chọn làm ngày Chúa Nhật của Lòng Thương Xót Chúa. Hôm nay chúng ta cùng suy niệm về Lòng Thương Xót Chúa trong mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa, để chúng ta thêm tin tưởng và phó thác đời mình vào tình thương bao la của Chúa.
Từ lúc khởi đầu của vũ trụ, Chúa đã tỏ tình thương khi dựng nên vũ trụ cùng muôn vật, muôn loài, trong đó có con người chúng ta. Chúa ban cho loài người cai quản và sử dụng muôn loài muôn vật trong vũ trụ làm phong phú đời sống con người. Thế nhưng con người đã nghe theo ma quỷ mà chống lại Thiên Chúa, trong lúc ấy Chúa lại hứa ban Đấng Cứu độ cho con người chúng ta. Chúa lấy Lòng Thương Xót mà xử với kẻ chống lại mình. Trong Cựu Ước Chúa không ngừng biểu lộ Lòng Thương Xót cho dân của Ngài khi dân chúng phản nghịch cùng Ngài mà chạy theo các thần mà thờ lạy. Chúa đánh phạt, sửa dạy nhưng không huỷ diệt họ.
Đến khi Chúa Giêsu xuống thế làm người, Chúa đã giảng dạy và cứu chữa làm cho người bệnh được lành mạnh, người đói được no nê, làm cho dân chúng cảm thấy được an ủi, được ấm lòng khi nhận được Lòng Thương Xót Chúa.
Đ ặc biệt là sau khi chết và sống lại Chúa Giêsu đã làm thay đổi rất nhiều trong đời sống các Tông đồ và những người theo Chúa. Chúa Phục Sinh đã "hoàn tất" sự biểu lộ của Lòng Thương Xót Chúa trong cuộc khổ nạn, khi Ngài đem lại sự Bình An và Sức Sống mới nơi các học trò của mình.
Chúa Giêsu Phục Sinh xóa tan sự sợ hãi nơi lòng các môn đệ và những người thân của Chúa. Trong cuộc khổ nạn của Chúa, các môn đệ của Người đã bị đánh tan tác, kẻ thì chạy trốn, người thì bỏ về quê, có người đi theo Chúa xa xa, nhưng lại yếu hèn chối Chúa. Chúa Giêsu Phục Sinh không truy cứu những lỗi lầm nhưng tha thứ cho những kẻ vấp ngã trong cuộc Thương Khó của Ngài. Chúa lại thương yêu tin tưởng ban cho kẻ yếu đuối trách nhiệm gánh vác đàn chiên của Chúa. Chúa Giêsu Phục Sinh biến đổi những anh thuyền chài thành những người thông thạo Kinh Thánh, thành những kẻ chài lưới người ta. Chúa Giêsu Phục Sinh ban Bình An và sự tha thứ, cùng niềm khích lệ cho các môn đệ và cho Hội Thánh khi trao phó trách nhiệm cho các ông. Chúa Giêsu Phục Sinh ban Chúa Thánh Thần trên các Tông đồ và Hội Thánh, nhờ đó Hội Thánh luôn vững bước tiến về quê hương vĩnh cữu là quê trời.
Ngày hôm nay Chúa cũng không ngừng tha thứ cho chúng ta trong Bí tích Giải tội dù chúng ta cứ mãi phạm tội phản nghịch Ngài. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì Lòng Thương Xót Chúa luôn tuôn đổ trên đời sống chúng ta. Chúng ta đừng bao giờ thất vọng dù chúng ta tệ hại quá nhưng hãy tin tưởng phó thác mọi sự trong tình yêu và Lòng Thương Xót Chúa. Chúng ta cũng hãy học nơi Chúa để cũng biết thương xót và không ngừng tha thứ cho anh chị em đồng loại của chúng ta.
CHÚNG TÔI ĐÃ XEM THẤY CHÚA
Ga 20, 19-31
(Gn 20, 19-31): Chúng tôi đã xem thấy Chúa...
Anh chị em thân mến,
Còn niềm vui nào lớn hơn khi tìm lại được người thân, nhất là khi ta tưởng rằng họ đã chết vĩnh viễn. Thử tưởng tượng: sau trận sập cầu Cần Thơ, ta may mắn vô cùng vì tìm lại được người thân mà họ vẫn còn sống... hay trong trận bão số 5 ngày 02 tháng 11 năm 1997, giữa bao nhiêu ghe tàu bị mất tích, bao nhiêu người mất chồng, mất con, còn ta, ta lại may mắn trong gang tấc tìm được người thân trở về. Những hoàn cảnh nêu trên vô cùng giống với câu chuyện Chúa phục sinh của các tông đồ; họ tưởng rằng đã mất Chúa vĩnh viễn, nhưng bất ngờ sau đó đúng ba ngày, sáng Chúa Nhật, mấy bà nói Chúa đã sống lại. Rồi trong câu chuyện bài Tin mừng hôm nay đây, vào chiều tối Chúa Nhật, chính họ được xem thấy Chúa...Niềm vui nào diễn tả được đây? Trên môi miệng họ chỉ có một câu duy nhất: Chúng tôi đã xem thấy Chúa.... Xin mời anh chị em cùng suy niệm....
a/. Có một vài điều chúng ta cần lưu ý:
Khung cảnh câu chuyện của bài Tin Mừng hôm nay: diễn ra ở ba khoảng thời gian rõ rệt.- Thứ 1. Vào chiều ngày Chúa nhật phục sinh; có nghĩa: buổi sáng các bà đi ra mộ và thấy mộ trống; cũng có mấy bà nói đã được xem thấy Chúa sống lại. Chiều tối lại, chính hôm đó, Chúa hiện ra trong nhà Tiệc ly với hết mọi người, không có Tôma.- Thứ 2. Vào một ngày trong tuần đó, Tôma, đi đâu đó và trở về, họ bèn thuật lại cho ông nghe. Ông không tin.- Thứ 3. vào Chúa Nhật sau Chúa Nhật Phục Sinh, có thể cũng vào ban đêm, Chúa lại hiện ra với họ, có cả Tôma nữa. Chính Chúa đã sửa lòng cứng tin của Tôma...
b/. Lời Chúa nói với chúng ta ngày hôm nay cũng chính là lời các tông đồ truyền lại bằng câu này: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa.."
Bây giờ chúng ta thử tưởng tượng, như đang ngồi trong căn phòng lớn của một hội đường do thái, và đang nghe một vị tông đồ giảng về câu chuyện Chúa Giêsu vừa phục sinh... Vị tông đồ có thể nói thế này: "Thật vậy, Chúa Kitô đã sống lại. Chúng tôi đã thấy Chúa. Chúng tôi xin làm chứng về điều này.Trong chúng tôi, cả những người bị coi là cứng tin nhất như Tôma , cũng đã thấy và đã tin, đã nhìn nhận Chúa là Thiên Chúa, đã tin rằng người đã sống lại. Lời truyền này của chúng tôi cho các bạn hôm nay, không chỉ là lời truyền trên môi miệng, mà còn truyền bằng cả cuộc sống của chúng tôi nữa. Chính niềm vui phục sinh đã biến đổi chúng tôi, từ những con người tham sống, sợ chết, thành những chứng nhân trung kiên cho Chúa Kitô. Hiện nay, trong chính anh em chúng tôi, như Stêphanô, như Giacôbê, đã dám đổ máu đào mình ra, không hề sợ chết, sẵn sàng làm chứng Đức Kitô đã chết, và nay đã sống lại vì chúng ta....Các bạn cũng thế, hãy vui lên, đừng buồn rầu nữa, vì Đức Kitô đã sống lại. Người anh em chúng tôi là Phaolô, tông đồ dân ngoại, đã nói một câu rất chí lý: Nếu Đức Kitô đã chết mà không sống lại, thì niềm tin của anh em thật vô ích...
Dù sao, chúng tôi là các tông đồ, những người xưa kia khi Chúa còn sống, đã cùng ăn cùng ngủ với Chúa, chúng tôi trong vui mừng và hi vọng, xin hết lòng làm chứng cho anh em rằng, Đức Kitô đã sống lại. Anh em hãy vui lên. Anh em đã theo Chúa trên đường Khổ giá, đừng dừng lại ở đồi Golgôtha, mà hãy tiến thẳng lên núi Tabor, nơi Chúa phục sinh vinh hiển....
Câu chuyện trên đây được coi là bài giảng của các tông đồ sau khi Chúa phục sinh, hay sau ngày lễ Ngũ Tuần cũng được. Thực ra, đó không hẳn là bài giảng, mà phải nói đó là những lời chứng hùng hồn, đanh thép, đầy xác tín, đầy niềm vui và hi vọng, vì họ đã thấy Chúa sống lại. Rõ ràng họ muốn trao cho người nghe không phải là những lời nói mà thôi mà cả niềm tin, xác tín..... đúng hơn họ muốn trao niềm vui phục sinh cho hết mọi người....
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Các môn đệ vui mừng vì được xem thấy Chúa; điều đó các ông gọi là niềm vui phục sinh. Còn chúng ta ngày hôm nay, khi mừng lễ Chúa phục sinh, có phải đó cũng là niềm vui của chúng ta không? Trong bài Phúc âm này ghi, khi Chúa hiện ra, đến với các môn đệ, Chúa đều chúc bình an, và thực sự đã mang lại bình an cho họ. chúng ta có luôn là niềm vui và bình an cho những người chúng ta gặp gở không?
BIỂU LỘ NIỀM TIN
Ga 20, 19 - 31.
Anh chị em thân mến.
Trong một đoàn xiếc, có những diễn viên bước ra sân khấu người ta vẫn không biết người đó sẽ biểu diễn trò gì. Nhưng có một người vừa bước ra, thì không ai bảo ai, mọi người đều vui mừng vì họ sẽ được những giây phút thư giãn, được những trận cười thoã thích. Nhìn vào anh hề, người ta biết anh ta sẽ mang đến cho họ một sứ điệp vui mừng. Từng cử chỉ, từng điệu bộ, những lời nói, tất cả mọi hành động đều mang sứ điệp của niềm vui.
Nếu một người nào khác, làm nhiệm vụ thay thế cho anh hề, thì họ cũng phải có phong cách như thế nào để mọi người nhận ra được phong cách vui mừng mà họ thay thế. Nếu không làm được như thế thì họ sẽ khó được mọi người chấp nhận.
Vừa nghe qua bài phúc âm, có lẽ cảm giác đầu tiên đến với mọi người là Chúa Giêsu khó chịu vì Tôma quá cứng tin, không chịu nghe những gì các tông đồ chứng kiến và thông báo lại cho ông. Không phải thế. Chúng ta bình tâm nghe lại lời Chúa Giêsu, một lời nhẹ nhàn thân mật, một lời khiến cho Tôma cảm động và giật mình, một lời đi vào tận cõi riêng tư của ông mà ông cảm nhận được, lời khiến ông không thể nào đứng yên được mà phải quỳ gối xuống để tuyên xưng niềm tin của mình. Những gì Tôma suy tưởng, những gì ông nói, những gì ông làm, Chúa đều biết cả. Ông cảm nhận được đều đó. Cảm động hơn nữa là Chúa Giêsu còn nhớ đến ông đặc biệt hơn những người khác, đáp ứng nhu cầu của ông. Nhận ra như thế ông liền biểu lộ niềm tin của mình.
Còn các tông đồ cũng báo tin cho Tôma: các ông bảo rằng đã nhìn thấy Chúa sống lại, chúc bình an cho các ông, Chúa sai các ông đi rao giảng Tin Mừng. Làm sao Tôma có thể tin được các ông ấy khi các ông vẫn ngồi yên bất động trước lệnh truyền của Đấng đã sống lại. Các ông vẫn hèn nhát, vẫn trốn tránh mọi người, vẫn ưu sầu phiền muộn, vẫn không có gì đổi mới. Làm sao Tôma có có thể tin được những người lãnh sứ mệnh loan báo Tin Mừng, nhưng không có một chút nào là vui mừng. Làm sao Tôma có thể tin được nơi những người không có một chút niềm tin nào trong cuộc sống để cho ông nhìn thấy.
Chỉ cần nhìn thấy Chúa Giêsu, Tôma biểu lộ niềm tin của mình ngay: ông không thể ngồi yên bất động, ông quỳ xuống và tuyên xưng "Lạy Chúa Tôi, lạy Thiên Chúa của tôi".
Trong cuộc sống đời người, mỗi người mang lấy một sứ điệp mà Thiên Chúa trao ban, để đem Tin Mừng của Chúa đến cho người khác. Mọi người nhìn vào nơi chúng ta và có nhận ra được rằng chúng ta mang đến cho họ sứ điệp như thế nào không? Làm sao người khác nhận được niềm vui nơi gương mặt không có nụ cười, làm sao có được niềm vui nơi một gương mặt giận dữ và những lời nói nặng nề biều lộ sự nóng nãy, giận hờn với những lời chua cay khó chịu. Cũng thế, làm sao có được niềm vui nơi những người chỉ biết trốn chạy, với những lời nói khô khan. Như thế mọi người làm sao có thể tin vào Chúa Kitô được với những sứ giả Tin Mừng như thế.
Mọi người nhìn vào trong chúng ta và họ nhận ra được Tin Mừng, khi họ nhìn thấy được một con người biết đổi mới cuộc sống mình tốt hơn. Mọi người chỉ nhận được Tin Mừng nơi những người sống Tin Mừng thật sự.
Nếu chúng ta vượt qua được những ưu sầu phiền muộn của cuộc sống, với sự bình tâm chấp nhận mà vẫn có được niềm vui khi đón nhận người khác. Nếu chúng ta nhận ra được Chúa Phục Sinh và lắng nghe mệnh lệnh của Ngài để thi hành trong hoàn cảnh sống, để biết đến và giúp đở mọi người khi cần thiết, biết nói những lời động viên an ủi, biết giằng lại một chút nóng giận để có thể cho đi một nụ cười, biết nhẫn nhịn khi bi thiệt thòi chút ít, biết chấp nhận để nâng đỡ người khác làm cho đời sống được nhẹ nhàng hơn. Nếu chúng ta biết quỳ gối cảm tạ Chúa, vì nhận ra hồng ân lạ lùng của Chúa ban cho mình, thì thật là hạnh phúc cho chúng ta. Khi đó chúng ta không cần phải dùng lời nói mà loan báo Tin Mừng, nhưng chúng ta đã thi hành mệnh lệnh Chúa bằng hành động thật sự. Khi đó chúng ta đáng được lời Chúc phúc của Chúa Giêsu "Phúc cho những ai không thấy mà Tin".
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban đức tin cho mỗi người, để biết sống đức tin bằng chính đời sống hằng ngày, và biết đem Tin Mừng cho những người chung quanh.
LÒNG MẾN HỖ TRỢ ÐỨC TIN
Ga 20, 19 - 31.
Chúng ta đang sống trong một thế giới có nền khoa học phát triển vượt bậc. Ngày nay, người ta đã phát minh ra được nhiều thứ rất tinh vi và hiện đại. Người ta có thể đi lên cung trăng hay xuống lòng biển một cách dễ dàng như đi chợ... Trước tình trạng đó, dường như người ta tưởng là con người có thể kiểm nghiệm được tất cả mọi sự trong thế giới này. Rồi những gì họ thấy được, nghe được, sờ được... nói chung là những gì kiểm chứng được giác quan thì họ mới tin.
Thế là, con người nói chung và cách riêng với người Kitô hữu lại áp dụng điều trên cho cả niềm tin tôn giáo. Cách riêng là họ áp dụng điều ấy vào cho đức tin vào Chúa Giêsu phục sinh. Ðiều này đã có từ thời các Tông đồ. Khi nghe các bạn báo tin Thầy Giêsu sống lại, Thánh Tôma đã tuyên bố: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin".
Do đâu mà Thánh Tôma cũng như con người chúng ta lại thường hay muốn đòi kiểm chứng như vậy? Thưa vì chúng ta chưa thật sự mến Chúa hết lòng. Khi thật sự mến Chúa thì có lẽ chúng ta sẽ tin vào Người cách dễ dàng. Ngay cả, chúng ta sẽ cho là xúc phạm khi nghi ngờ Chúa. Và khi ấy chúng ta mới thật sự được hạnh phúc và bình an.
Thật vậy, một đứa con trong gia đình khi đã yêu mến cha mẹ thật lòng thì nó sẽ biết tin và làm theo những điều cha mẹ khuyên dạy. Lúc ấy, chắc chắn nó sẽ được cha mẹ yêu thương và chăm sóc cho nhiều hơn nữa. Cũng vậy, vợ chồng khi đã yêu nhau thì sẽ tin nhau chứ không nghi ngờ nhau. Bao lâu họ còn yêu và tin nhau thì bấy lâu gia đình họ sẽ còn hạnh phúc và đầm ấm.
Như vậy, lòng mến hổ trợ rất nhiều cho đức tin. Nó cũng sẽ là một trong những điều quan trọng làm nên sự hạnh phúc cho chúng ta đời này lẫn đời sau. Chúa Giêsu đã nói: "Phúc thay những người không thấy mà tin!". Hơn nữa, tin vào Chúa Giêsu phục sinh không phải là điều hão huyền. Vì nếu đây là chuyện phù phiếm thì chắc là niềm tin ấy đã tan rã từ lâu rồi.
Chúng ta đã theo Chúa từ khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Chúng ta đã long trọng mừng lễ Chúa Giêsu phục sinh cách đây đúng một tuần. Thử hỏi chúng ta có thật sự mến Chúa và thật sự tin vào Người chưa. Hay là chúng ta vẫn còn nghi ngờ như Thánh Tôma. Chúng ta hãy luôn nhớ bao lâu còn sống trong tâm trạng nghi ngờ thì bấy lâu đời sống của ta sẽ còn luôn bất ổn.
Như chúng ta biết, đoạn Tin mừng này được Giáo hội chọn đọc trong cả 3 năm Phụng vụ của Chúa nhật cuối tuần bát nhật hôm nay. Dĩ nhiên là có lý do. Ðó là Giáo hội muốn cũng cố lòng tin và lòng mến vào Chúa Giêsu Phục sinh của mỗi người chúng ta ngày càng trở nên chắc chắn hơn. Hãy xin Chúa Giêsu tiếp tục ban thêm lòng tin và lòng mến cho mỗi người chúng ta.
ĐỨC TIN VÀ LÝ TRÍ
Ga 20, 19 - 31
Sự kiện Chúa Giêsu Phục sinh không những là chuyện khó tin, khó hiểu đối với người thời đại nhưng nó vẫn luôn là một thách thức cho niềm tin của mọi Kitô hữu và ngay cả các tông đồ là những người sống cùng thời với Chúa. Mà đại biểu cho niềm tin yếu kém ấy chính là tông đồ Tôma.
Chúng ta phải công nhận rằng, dù sống cách chúng ta hằng 20 thế kỷ nhưng Tôma có tâm trạng và lối suy nghĩ giống với suy nghĩ của con người sống trong thời đại khoa học hôm nay. Ông thuộc mẫu người có đầu óc thực tế. Ông chỉ xác nhận những gì là chân lý khi được kiểm chứng bằng giác quan. Tuy nhiên, ông quên một điều quan trong là không phải tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống là tuyệt đối và chắc chắn, điều có thể kiểm chứng bằng giác quan, nhất là trong lãnh vực tinh thần. Khổng Tử có nói: "những gì mắt thấy, tai nghe chưa hẳn là sự thật".
Qua thật, kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta thấy, có quá nhiều vấn đề mà chúng ta không thể giải quyết với kiến thức khoa học. Khoa học không phải là tất cả và sự hiểu biết của con người vẫn luôn là giới hạn. Khoa học không thể cho chúng ta thấy được ý nghĩa của cuộc sống này, cũng như không thể cất đi những đau khổ mà con người đang phải đương đầu gánh chịu. Nhưng câu hỏi: Con người từ đâu tới? Rồi sẽ đi về đâu? Đằng sau cuộc sống đầy những nuớc mắt và hạnh phúc là gì...? Vẫn luôn là một dâu chấm hỏi thách thức các nhà khoa học.
Chúng ta tưởng rằng khi khoa học phát triển đến một cạnh giới rực rỡ thì chúng có có thể xóa hết mọi đau khổ của kiếp người. Nhưng thực tế cuộc sống hôm nay cho chúng ta câu trả lời chính xác: có qua nhiều chiến tranh, quá nhiều bệnh tật, quá nhiều vũ khí giết người tối tân do con người tạo ra...một sự thật là con người có nguy cơ là nạn nhân của khoa học: vũ khí hạt nhân, bom nguyên tử... Đương nhiên chúng ta không phủ nhận những giá trị và những cống hiến của khoa học cho công ích con người nhưng nếu khoa học không được đặt trên nền tảng ý nghĩa của cuộc sống con người thì nó trở thành thảm họa cho nhân loại.
Với cách suy nghĩ cá nhân và với đầu óc khoa học của mình, Tôma có quyền đặt nghi vấn cho sự kiện phục sinh của Chúa Giêsu do các Tông đồ thuật lại. Ông đòi được thấy và chạm vào Chúa. Và rồi Chúa đã hiện ra, có mặt Tôma. Chúa chê ông cứng lòng tin trước những lời chứng của anh em. Nhưng Ngài cũng đáp ứng khát vọng của ông. Đểø rồi ông cũng đượcthấy và tin như anh em.
Xung quanh chúng ta hôm nay, cũng có nhiều người như Tôma, thậm chí còn cứng lòng hơn Tôma. Họ đòi được thấy và chạm đến những thực tại vô hình như: Thiên Chúa, linh hồn, đời sau... rồi mới tin. Nhưng liệu khi thấy và chạm đến thì đức tin có còn cần thiết và có ý nghĩa gì nữa không?
Thật ra đức tin và lý trí không mâu thuẫn nhau. Nhưng bổ túc cho nhau: chính đức tin làm cho chúng ta hiểu biết sâu rộng hơn và cũng chính nhờ lý trí mà niềm tin của chúng ta thêm vững chắc.
Trước những tực tại vô hình thì sự tuân phục của đức tin vẫn luôn cần thiết. Chính nhờ sự tuân phục của đức tin mà những người phụ nữ viếng mồ Chúa nhận ra Chúa Giêsu phục sinh và trở thành nhân chứng cho Người. Các Tông đồ cũng thế. Cách nào đó họ có diễm phúc hơn chúng ta. Nhưng đức tin của họ cũng không được trang bị hơn chúng ta bao nhiêu khi đứng trước sự kiện Chúa Giêsu sống lại và hiện ra. Sự khác biệt giữa Tôma và các Tông đồ khác chính là sự tuân phục của đức tin. Phép lạ chính yếu không phải là một việc phi thường mà trước tiêm là một gặp gở trong đức tin. Chỉ có trong đức tin con người mới nhận ra phép lạ, và cũng chỉ trong đức tin chúng ta mới có thể gặp được Đức Kitô phục sinh.
Đức tin của chúng ta hôm nay dựa trên đức tin của những người đã thấy và đã tin, đã dám hy sinh mạng sống để nói lên rằng Chúa đã sống lại. Vì thế, chúng ta cũng phải giúp người khác thấy và chạm đến Chúa. Muốn thế, chúng ta cần phải sống như người đang thấy Chúa. Thấy Chúa phục sinh khi sống thanh thoát, không bám díu vào những danh lợi thấp hèn. Tin Chúa phục sinh khi nhận ra ý nghĩa của thập giá đau khổ chỉ là chặng đường tiến đến sự sống vĩnh cữu. Tin vào Chúa Phục sinh là dám hiến thân vì hạnh phúc nhân loại. Vì nếu tin vào Chúa phục sinh mà con tha thiết với cuộc sống trần thế đến nỗi sợ thiệt thân, ngại hy sinh... thì đó là niềm tin giã tạo.
Lạy Chúa Kitô phục sinh, xin cho ánh sáng của Chúa hướng dẫn tâm trí, suy nghĩ và hành động của chúng con, để trong tất cả mọi sự chúng con luôn sống theo thánh ý Chúa. Xin cho chúng con nhận ra được giới hạn của lý trí và sự yếu kém của đức tin để cần được Chúa gia tăng đức tin và mở mang trí hiểu. Ước gì sự hiểu biết của con không làm cho con rời xa Chúa mà kéo chúng con đến gần Ngài hơn để chúng con nhận ra tình thương của Chúa hiện diện quanh con trong từng phút giây của cuộc sống.
Khi bị quân dữ bắt và tra tấn, mọi Tông đồ đều bỏ và chối Chúa, chỉ trừ một mình thánh Gioan. Trên cây Thánh Giá Chúa cũng chỉ nhìn thấy một Thánh Gioan bên cạnh và mẹ Người. Khi Chúa sống lại thì các tông đồ lại không tin, dù những người phụ nữ ra mồ trông thấy và đã nói một cách khẳng định cho họ, nhưng họ vẫn không tin. Nhưng Chúa vẫn không hề bực tức hay khó chịu, còn tỏ ra khoan hồng đến nỗi hiện ra với họ, để cho họ trông thấy mà không còn nghi ngờ nữa. Và hơn thế, khi nói chuyện, Người không một lời la rầy, mắng nhiếc cũng không, và nhất là không nhắc đến sự hèn nhát, bội phản và yếu tin của họ. Chắc chắn lần hiện ra này không phải chỉ có Đức Giêsu Phục Sinh, mà tất cả mọi người chúng ta ai cũng nghĩ tất cả các Tông đồ không còn ai dám nghi ngờ hay yếu tin nữa. Nhưng không phải thế! Chúa hiện ra và ban cho các Tông đồ ơn huệ được "mắt thấy" , "tai nghe". Má những ân huệ đó chúng ta chỉ có thể cảm nghiệm được khi chúng ta có đức tin.
Than ôi! đức tin là cái mà con người ta thường không có. Phúc âm hôm nay kể lại sự cứng lòng tin của Thánh Tôma. Khuýnh hướng đó cũng chính là khuynh hướng của những con người đang sống trong thời đại hôm nay. Ai ai cũng muốn sống bằng thực nghiệm bằng kiểm chứng, chỉ muốn tin cái gì mắt mình trông thấy, trí mình hiểu được. Còn cái gì mà người khác thuật lại, phải nhờ người khác cho biết thì khó tin, và cho là nhảm nhí. Vì thế, sự thật mà nói ai ai trong chúng ta cũng muốn được xỏ ngón tay vào lỗ đinh và bàn tay vào cạnh nương long Chúa thì mới tin ở Người.
Người cứng tin nhất chắc chắn là Tôma và người được may mắn nhất chắc cũng là ông, được thỏa tính tò mò, được đặt tay vào lỗ đinh và bàn tay vào cạnh nương long Chúa. Vì chính ông đã đòi hỏi đích thân động đến Chúa thì ông mới tin, nên Chúa đã phán với ông: "Vì đã thấy nên con tin. Phúc thay những người không thấy mà tin". Do đó, Chúa muốn đòi mỗi người chúng ta hãy rút ra bài học kinh nghiệm từ Tôma. Khi thấy thì mới tin thì chẳng còn gì lạ, mà hãy tin khi chưa thấy. Đó mới là đức tin Chúa cần nơi mỗi người.
Thật ra tin chính là chấp nhận có một cái gì đó mà ta chưa thấy, nhưng phải phó thác vào một người thật đáng tin cậy. Như thế, đức tin của chúng ta là phó thác vào sự chân thật của Thiên Chúa để mà chấp nhận những chân lý đã được Người truyền dạy. Mặc dù lúc đó ngũ quan ta không cảm thấy và trí khôn ta không hiểu được. Nhưng cũng đừng hiểu lầm tin như thế là mù quáng, nhưng mù quáng sao được khi ta tin vào một người rất đáng tin cậy, vì thế lòng tin của ta thật có lý.
Trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta cũng đã phải tin nhiều điều chúng ta không thấy rồi. Như ông bà ổ tiên, chúng ta cũng đâu thấy các ngài, cũng đâu sờ được các ngài, cũng đâu trò chuyện được với các ngài, nhưng chúng ta vẫn tin trong quá khứ vẫn có các ngài. vậy ai có thể quả quyết chỉ tin những điều mình trông thấy, và coi tất cả những người nói cho mình biết điều mình không trông thấy là dối trá, thì người ấy không thể sống trong xã hội loài người được. Vì trong xã hội loài người mối tương thân tương trợ, chỉ bảo, nương tựa tin tưởng lẫn nhau là điều cần thiết. Ngược lại, người không tin tưởng vào bất cứ ai, chứng tỏ họ không có một nhân cách thật sự, chỉ biết cố thủ trong ốc đảo ích kỷ nghi ngờ, nhìn người khác với cặp mắt giả dối, vì chỉ có người dối trá mới không tin vào lời người khác nói là sự thật, chỉ có người hà tiện mới không tin người rộng rãi. Một người không dám đặt niềm tin vào ai, chứng tỏ mình thiếu hẳn các đức tin của một con người. Đó là nhìn vào phạm vi tự nhiên. Trong phạm vi siêu nhiên sự lệ thuộc của ta vào Thiên Chúa còn sâu xa hơn sự lệ thuộc của ta vào xã hội nhiều. Vì thế đức tin không những cần thiết mà còn đánh giá sự thánh thiện của mỗi người, vì người thánh thiện chắc chắn phải có một đức tin chuyển được núi, vì người ấy nhận biết Thiên chúa toàn năng và đặt cả niềm cậy trông của mình vào Người.
Lạy chúa, chúng con không được may mắn như các tông đồ, được trông thấy Chúa, sờ đến Chúa, nói cùng Chúa và ăn uống với Người. Nhưng chúng con lại được may mắn chứng kiến rất nhiều người đã sống cho Chúa và chết cho chúa. Vì chỉ có Chúa Phục Sinh thật sự mới là động lực như thế. Xin cho con biết vững tin. Amen.
TIN - NGƯỜI CÓ PHÚC
Ga 20, 19 - 31.
Chuyện kể rằng: Một môn đệ của Khổng Tử hỏi sư phụ: "Thưa thầy, đâu là yếu tố cơ bản của một chính quyền vững chắc?". Sư phụ đáp: "Đủ lương thực, binh khí và lòng tin của dân". "Nhưng giả sử thầy phải cắt giảm một trong ba thứ đó, thầy sẽ bỏ cái nào?". "Binh khí". "Giả sử chỉ chọn một trong hai thứ còn lại, thầy sẽ bỏ cái nào?". "Lương thực. Chết là phần số của mọi người. Nhưng dân tộc không còn lòng tin vào lãnh đạo, dân tộc ấy sẽ tan rã!".
Vâng, không chỉ trong cộng việc lãnh đạo đất nước, mà bất cứ mối quan hệ nào cũng cần phải có lòng tin. Vợ chồng tin nhau, trò tin thầy, bạn bè tin tưởng nhau, tin tưởng đối tác làm ăn... Nếu mất niềm tin lẫn nhau, chẳng thể giao tế gì với nhau được nữa. Do đó, mỗi người phải tạo uy tín cho mình nơi người khác dựa trên sự thật.
Tin mừng về "Đức Kitô đã bị giết đi và Thiên Chúa đã cho Người sống lại" (x. Cv 2,23-24) không phải là tin đồn nhảm. Đây cũng không phải là chuyện bịa đặt lừa dối thiên hạ. Chính các Tông đồ đã thấy và đã làm chứng. Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại biến cố Đức Giêsu hiện ra với các Tông đồ, cho các ông tận mắt xem thấy thân xác sống lại của Người và sai các ông đi loan báo cho mọi người, để mọi người "nhờ tin mà được sống nhờ danh Người" (Gn 20,31).
Đức Giêsu không bao giờ lừa dối chúng ta. Hơn nữa, việc nầy chẳng mang lại cho Người ích lợi gì. Nhưng vì phần rỗi của chúng ta, Người đã hiện ra với các Tông đồ, những người bảo tồn và loan báo niềm tin Phục Sinh. Như vậy, niềm tin của chúng ta không đơn độc, không mù quáng. Chưa có một bằng chứng nào cho thấy tin vào Đức Kitô Phục Sinh là chuyện hoang đường, phù phiếm. Có hay chăng chỉ là những suy nghĩ thiếu đức tin mà thôi. Thử hỏi những kẻ chối bỏ niềm tin Phục Sinh giờ ở đâu? Tất cả đã qua đi với thời gian. Đức Kitô Phục Sinh vẫn ngời sáng từ lúc bước ra khỏi huyệt mộ cho đến ngày nay. Điều đó được minh chứng bằng Tin Mừng Phục Sinh của Người, Tin mừng ấy đã - đang và sẽ vang mãi cho đến tận cùng thời gian.
"Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin" (Gn 20,25). Sự cứng lòng của Tôma phản ánh lại thử thách đức tin mà mỗi người chúng ta thường gặp phải. Rất nhiều lúc chúng ta rơi vào tình cảnh của Tôma, "không thấy, không tin", một đòi hỏi về tính chắc chắn. Nhưng nếu đã thấy rồi thì chỉ chấp nhận sự thật thôi, khi đó không cần đến lòng tin nữa. Như thế, tin là chấp nhận những điều mình không thấy; và tin như thế mới thật là có phúc (x. Gn 20,29).
"Vì đã thấy Thầy nên anh tin, phúc cho những ai không thấy mà tin" (Gn 20,29). Lời phê bình nhắm vào sự bướng bỉnh của Tôma, lại là lời khích lệ đối với chúng ta, là những người được đòi hỏi phải tin vào Đức Kitô Phục Sinh, mặc dù không có khả năng nhìn thấy hoặc đụng chạm vào Người. Người ta nói: "Muốn xem thấy cầu vồng, phải biết chịu đựng cơn mưa". Thiên Chúa để chúng ta gặp thử thách trong đời sống đức tin là vì yêu ta và để ta chứng tỏ tình yêu dành cho Ngài. Giữa những thử thách mà ta vẫn giữ được lòng tin của mình thì ta càng xứng đáng hơn với tình yêu Chúa dành cho ta.
CHO NIỀM TIN QUAY VỀ
Ga 20, 19 - 31.
Sau cái chết của Thầy Giêsu, thì kể như mọi hy vọng và kế hoạch âm thầm nơi các môn đệ của Ngài cũng tan thành mây khói. Giờ đây, ngẫm nghĩ "sự đời", chắc các ông hơi nuối tiếc và hối hận vì đã chọn lựa sai lầm khi bước theo một người thầy có tên gọi Giêsu! Giờ đây, các ông phải sống trong căn phòng đóng kín vì sợ người Do thái; sợ họ làm khó dễ một phần, nhưng chắc cũng sợ miệng đời thị phi! Tôma, người hay vắng mặt nơi cộng đoàn bé nhỏ này chắc cũng vì đang mang tâm trạng buồn chán và thất vọng ấy. Tôma ra đi kéo theo cả niềm tin đã tắt lịm hay đã lệch hướng theo mình.
Nhưng rồi mọi sự đã thay đổi trong chớp mắt, vượt quá sức mong đợi hay nghĩ tưởng của các môn đệ Đức Giêsu. Ngài đã hiện đến với các ông mang theo niềm vui, hy vọng và bình an tràn đầy tâm hồn các ông. Aùnh sáng đã bừng lên giữa màn đêm tăm tối. Cộng đoàn bé nhỏ ấy đã bừng lên ánh sáng tin yêu và hy vọng. Nhưng niềm vui của các ông cũng còn chút gì đó chưa trọn vẹn bởi còn một thành viên đang vắng mặt. Rồi Tôma trở về, về thăm anh em mình nhưng cũng trong tâm trạng buồn hiu và thất vọng của ngày nào. Niềm tin của ông vẫn còn tắt lịm hay đang lạc lối nơi nao. Nghe các anh em bạn mình nói là đã thấy Thầy hiện ra và Thầy vẫn đang sống, ông cho đó là chuyện đùa của trẻ con. Niềm tin tắt lịm đã không cho ông tin nhận điều đó. Ông đã phủ nhận những gì các anh em mình nói lại bằng những lời đầy thách thức: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin" (Ga 20, 25).
Rồi 8 ngày sau đó, Tôma đã chứng kiến được điều ông đã liều lĩnh nói trong lúc chán nản vì thiếu vắng niềm tin. Và khi đã tận mắt nhìn thấy Chúa Giêsu, ông đã thốt lên rằng: "Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi". Lời nói của một con người tuyệt đối tin tưởng được thốt ra. Niềm tin của Tôma giờ đây đã sống lại, đã quay về với ông cách mãnh liệt nhất. Tôma là môn đệ cuối cùng tin vào Chúa Giêsu Phục sinh, nhưng ông đã tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu cách mãnh liệt nhất và cao độ nhất. Phải chăng, có lạc lối thì khi trở lại mới thấy mình hạnh phúc; có sai lầm thì khi hồi tâm mới nhận ra trọn vẹn ý nghĩa của tình yêu! Cho nên điều quan trọng không phải là tôi phạm tội, nhưng là tôi biết nhận ra tội lỗi để tôi hồi tâm quay về và cố gắng hết mình để sửa chữa. Cũng vậy, điều quan trọng không phải là lạc lối, nhưng biết mình lạc lối và can đảm quay về mới là quan trọng trước mặt Thiên Chúa.
Dù các môn đệ đã nhận ra sự thật là Thầy Giêsu của mình đã Phục sinh và không ai còn nghi ngờ gì nữa. Nhưng niềm tin của các ông vẫn còn là niềm tin của những con người tin ở cấp độ thấp: thấy mới tin. Niềm tin đòi có dấu hiệu để kiểm chứng là niềm tin còn yếu kém và ở mức độ thấp. Đức Giêsu muốn nâng đức tin và tâm hồn của các ông lên một mức độ cao hơn "Phúc cho những ai không thấy mà tin" Và lời chúc phúc này là dành cho chính chúng ta đó. Đức tin không cần kiểm chứng mới thật là đức tin trọn hảo và vững mạnh.
Chúa Giêsu Phục sinh đang sống và đang hiện diện với từng người chúng ta trong cách thức siêu nhiên. Ngài không còn lệ thuộc vào không gian và thời gian nữa. Cũng như Đức Giêsu đã đến với các môn đệ đang họp nhau trong căn nhà tiệc ly đang đóng kín sau ngày Ngài Phục sinh, thì hôm nay, Ngài cũng vượt qua các bức tường và rào cản trong hay ngoài chúng ta để đến với chúng ta, để hiện diện với chúng ta bằng nhiều cách thức khác nhau.
"Phúc cho những ai không thấy mà tin". Lời hứa này của Chúa Giêsu đảm bảo với chúng ta rằng: Không một thế hệ nào sẽ bị kém ưu ái hơn so với các môn đệ ngày xưa. Chúng ta hãy thắp lửa tin yêu lên trong lòng chúng ta để cho niềm tin của chúng ta quay về. Vì rất có thể, với những quyến rũ của trần gian, niềm tin vào Đức Giêsu Phục sinh của chúng ta đã tắt lịm hay còn lạc lối ở phương trời xa xôi nào đó. Sống đạo đích thực là làm cho niềm tin quay về trong ta và làm cho niềm tin đó bừng sáng lên trong ta mỗi ngày, để trong mọi hoàn cảnh, chúng ta vẫn hiên ngang tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa của chúng ta. Amen.
NIỀM VUI PHỤC SINH
Ga 20, 19-31
Sau cái chết nhọc nhằn của Chúa Giêsu trên thập giá, các môn đệ của Chúa Giêsu rơi vào trong tình trạng thất vọng, sợ hãi, chán chường và chao đảo niềm tin. Mọi sự coi như đã tiêu tán và sụp đỗ tan tành! Có thể nói, các ông đã đánh mất thứ quí báu nhất nơi tâm hồn của con người, đó là sự BÌNH AN. Nhưng rồi Chúa Giêsu đã đến với các ông và Ngài ban tặng lại cho họ chính điều các ông đã đánh mất. "Bình an cho các con"! Khi sự bình an đã đến thì những hệ quả khác như niềm vui, hạnh phúc, sự thanh thản. . . cũng đến theo sau. Tin mừng nói rõ là các môn đệ rất vui mừng vì được nhìn thấy Chúa. Quả thật, Chúa thật là niềm vui của mọi người! Nhưng con người rất nhiều lần đã không đón nhận niềm vui cách trọn vẹn vì đã bỏ qua những cơ hội gặp gỡ Chúa. Niềm vui trong lần Chúa Giêsu Phục sinh hiện đến lần thứ nhất với các tông đồ chưa trọn vẹn vì thiếu vắng Tôma, một người anh em trong họ. Tôma chưa gặp Chúa Giêsu Phục sinh nên vẫn còn sống trong buồn chán và thiếu vắng bình an. Chính vì mang tâm trạng đó, nên khi các tông đồ khác nói là họ đã thấy Chúa Giêsu Phục sinh thì ông phản ứng liền; phản ứng qua lời nói thách thức của một con người đang buồn chán: "Nếu tôi không xỏ ngón tay tôi vào lỗ đinh; nếu tôi không thọc bàn tay vào cảnh sường Ngài thì tôi không tin". Qua lời nói này, chúng ta dễ dàng phê phán Tôma là kẻ kém tin, kẻ cứng lòng. Quả thật, Tôma cứng lòng tin, nhưng Tôma đang làm gương cho chúng ta đó. Gương sáng về sự thẳng thắn vì không dấu diếm nỗi hồ nghi của mình. Hồ nghi nói lên sự yếu kém trong niềm tin. Khi chúng ta hồ nghi ai thì đồng thời chúng ta cảm thấy như mình có lỗi với người ấy. Tuy nhiên hồ nghi cũng có thể là một bước khởi đầu tốt, dẫn tới một sự hiểu rõ hơn và sâu hơn. Đây là trường hợp của Tôma : "nhờ hồ nghi" nên sau đó Tôma đã đạt tới một lời tuyên xưng đức tin cao nhất: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con". Tôma từ một người đón nhận niềm tin Phục sinh sau hết trong các tông đồ đã trở thành người trước nhất tuyên xưng thần tính của Đức Giêsu cách trọn vẹn nhất. Sau khi vượt qua cơn khủng hoảng đức tin, Tôma đã mạnh dạn làm chứng cho Chúa Giêsu và trở thành một trong những vị thừa sai vĩ đại nhất của Giáo Hội sơ khai. Theo thánh truyền, ngài đã mang Tin Mừng đến các xứ Ba Tư, Syria và Ấn Độ, nơi ngài chịu tử đạo. Tôma là vị tông đồ đầu tiên chết vì đức tin!
Rất khó khăn, các Tông đồ mới tin nhận Đức Giêsu Phục sinh. Nhưng khi đã tin nhận rồi thì các ngài đã hoàn toàn để cho Đấng Phục sinh lôi kéo mình vào lối sống mới, lối sống Phục sinh: can đảm ra đi làm chứng cho điều mình đã lãnh nhận dù có phải hy sinh mạng sống của mình đi nữa! Các ông không còn sợ hãi người Do thái, mang trong lòng mình niềm hy vọng tràn đầy!
Niềm tin của chúng ta hôm nay được đặt nền tảng là lời chứng của các tông đồ, những người đã chứng kiến Đức Giêsu Phục sinh. Vì thế, đức tin của chúng ta có một nền tảng rất là vững chắc. Hơn nữa, chúng ta còn là những người được thừa hưởng lời chúc phúc của Chúa Giêsu: "phúc cho những ai không thấy mà tin". Nhưng như thế thì chưa đủ. Bây giờ đến lượt chúng ta, chúng ta được mời gọi để làm chứng cho một Đức Giêsu Kitô Phục sinh. Nhưng có lễ chúng ta sẽ nói rằng: làm sao tôi làm chứng nổi vì tôi có thấy Chúa Giêsu Phục sinh đâu. Chúng ta cũng nên để ý rằng: Giả như các tông đồ ngày xưa làm chứng rằng: chính mắt chúng tôi đã nhìn thấy Chúa Giêsu Phục sinh, chính chúng tôi đã gặp gỡ Ngài sau khi Ngài từ cõi chết sống lại. Các ông làm chứng hùng hồn như thế, nhưng đang khi đó, đời sống của các ông không có gì biến đổi, vẫn tiếp tục bán Thầy như Giuđa, vẫn tiếp tục chối Thầy như Phêrô, vẫn tiếp tục đứng xa xa để nhìn Chúa Giêsu khi Ngài đi vào cuộc khổ nạn, vẫn tiếp tục sợ hãi đóng kín cánh cửa Giáo hội lại, thì thử hỏi các ông có giúp cho ai tin Chúa Giêsu Phục sinh không? Chẳng ai thèm tin đâu! Cho nên, bên cạnh lời chứng của các tông đồ bằng giác quan: chúng tôi đã thấy, đã gặp Chúa Giêsu Phục sinh thì các ngài còn phải làm chứng bằng đời sống của các ngài nữa. Đó là việc ra đi rao giảng bất chấp gian nguy, dùng chính đời sống của mình và cả mạng sống của mình để minh chứng cho những gì mình rao giảng. Đó cũng là cách làm chứng mà Giáo hội đang cần và đang khuyến khích chúng ta trong hoàn cảnh hiện nay. Khi chúng ta biết làm chứng cho Chúa Giêsu Phục sinh bằng chính đời sống tốt lành và gương mẫu của mình như thế, chắc chắn chúng ta sẽ tim thấy được niềm vui và sự bình an do chính Chúa Phục sinh ban tặng.
CÓ PHÚC NHỜ TIN VÀO MẦU NHIỆM PHỤC SINH
Ga 20, 19 - 31
Cùng với Giáo hội chúng ta đang sống trong những ngày đầu của mùa Phục Sinh 2010. Hôm nay là ngày cuối trong tuần Bát nhật mừng Chúa Phục sinh. Mầu nhiệm Phục sinh là mầu nhiệm nền tảng và trung tâm đức tin của người kitô hữu. Ðây là mầu nhiệm hướng dẫn cả đời sống cho những ai tin vào Chúa Giêsu. Do đó, ai tin vào mầu nhiệm này thật là người có phúc.
Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã liên tiếp hiện ra với nhiều người. Ngày thứ nhất trong tuần Người đã hiện ra cùng các Tông đồ và nói: "Bình an cho anh em! Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa". (Ga 20, 19b - 20).
Tiếc thay, lúc ấy không có Tôma. Cho nên, sau đó ông được các anh em mình kể lại việc họ đã gặp Chúa Giêsu Phục sinh thế nào. Tôma đã không ngần ngại mà thốt lên: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin." (Ga 20, 25b)
Chúa Giêsu vẫn kiên nhẫn đáp lại ước nguyện của ông: Tám ngày sau, các môn đệ Ðức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Ðức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em. Rồi Người bảo ông Tô-ma: Ðặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Ðưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Ðừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." (Ga 20, 26 - 27)
Lúc đó, Tôma không còn thái độ nghi ngờ nữa. Ông thưa với Chúa Giêsu: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con! " (Ga 20, 28b). Chúa Giêsu đáp lời ông: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!" (Ga 20, 29)
Ðối với mầu nhiệm Phục sinh Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đón nhận bằng con tim chứ không bằng lý trí hay bằng những đụng chạm của giác quan bên ngoài có thể kiểm chứng được. Bởi vì, đây là mầu nhiệm chứ không phải là vấn đề cần giải quyết.
Vả lại, gọi là tin thì không thể kiểm chứng được. Hai người thanh niên nam nữ tự nguyện đến với nhau để ăn đời ở kiếp với nhau chỉ vì tin nhau chứ làm sao có thể kiểm chứng hết được.
Các Tông đồ đã được diễm phúc gặp được Chúa Giêsu Phục sinh trực tiếp. Chúng ta sẽ thật diễm phúc hơn nếu chúng ta thật sự tin vào mầu nhiệm cao cả này. Có tin vào mầu nhiệm Chúa Giêsu phục sinh chúng ta mới dám can đảm thay đổi đời sống mỗi ngày cho được xứng đáng hơn với ơn gọi làm con Chúa.
Sống trong thời đại khoa học thực nghiệm, thông thường người ta chỉ chấp nhận là có thật những gì có thể xem bằng mắt, bắt bằng tay, những gì có thể cân đo đong đếm được. Còn những gì mà người ta không kiểm chứng được thì bị xem như là không có. Thời các Tông Đồ não trạng này cũng đã có mà tiêu biểu nhất là Tôma
Sau khi Đức Giêsu Phục sinh, trước hết Người đã hiện ra bên mồ trống với Maria Mađalêna, và Người truyền cho bà đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các môn đệ, nên bà được truyền thống gán cho danh hiệu là "tông đồ của các tông đồ". Sau đó, Người đồng loạt hiện ra với 2 môn đệ trên đường Emmaus và với 10 tông đồ nhưng vắng mặt Tôma. Tuy các ngài đã tường thuật lại cho Tôma việc Đức Giêsu đã sống lại và hiện ra nhưng ông không tin. Tôma thật là con người chỉ thích sống với "óc thực nghiệm". Ông không muốn tin những gì mà giác quan chưa kiểm chứng được. Tôma tuyên bố không bao giờ tin Đức Giêsu sống lại, nếu ông không thấy tận mắt, không được đặt ngón tay vào dấu đinh trên tay Đức Giêsu, không được đặt bàn tay vào chỗ mũi giáo đã đâm nơi cạnh sườn Đức Giêsu.
Cuối cùng, Tám ngày sau, Tôma cũng được kiểm chứng lời yêu cầu của mình khi Đức Giêsu biểu ông "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." Thế nhưng, khi đối diện với Đức Giêsu, Tôma như hồn xiêu phách lạc chỉ biết hốt hoảng thốt lên một câu tuyên xưng đức tin đầy ý nghĩa: "Lạy Chúa con, Lạy Thiên Chúa của con".Tôma đã thấy nên ông đã tin. Vậy, câu hỏi đặt ra là chúng ta có cần phải xem thấy Chúa như các tông đồ để tin Chúa hơn hay không?
Tuy sống trong thời đại khoa học thực nghiệm nhưng có nhiêàu điều chúng ta không thấy mà chúng ta vẫn phải nhận là chúng hiện hữu. Người ta không thể nhìn thấy tình mẫu tử nơi người mẹ, không nhìn thấy ý chí kiên cường nơi những bậc anh hùng, không nhìn thấy trí khôn tuyệt vời của các nhà khoa học. Bởi vì tình yêu, ý chí, trí tuệ,...là những thực tại vô hình, không có màu sắc, không trọng lượng, không có khối lượng. Nhưng không ai dám phủ nhận rằng những thực tại này không có.
Con người thông thường rất dễ bị nhầm lẫn khi cho rằng những ai đã được nhìn thấy Đức Giêsu thì tin dễ dàng hơn. Tin Mừng cho biết có nhiều người được nhìn thấy Đức Giêsu, thế nhưng họ vẫn không tin vào Người. Ngay cả các tông đồ vẫn có những vấn đề về đức tin. Tôma không phải là môn đệ duy nhất nghi ngờ sự sống lại. Tất cả họ đều như vậy. Thánh Máccô kể rằng khi Chúa Giêsu hiện đến với họ vào buổi chiều ngày Phục Sinh: "Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người chỗi dậy" (Mc 16,14)
Vậy, ngày nay tuy chúng ta không còn trực tiếp thấy Đức Giêsu, nhưng để đức tin của chúng ta được củng cố và phát triển thì một trong những điều chúng ta phải có đó là lòng mến, là tình yêu. Vì lòng mến là một trong những điều kiện tiên quyết để chúng ta tin. Do đó, muốn tin Chúa chúng ta phải mến Chúa trước đã. Lòng mến càng nhiều thì đức tin càng mạnh. Chúng ta biết Thánh Gioan là người tông đồ duy nhất có can đảm đứng dưới thập giá với Mẹ Maria trong cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, trong khi các tông đồ khác thì trốn hết. Và cũng chính Thánh Gioan là người đầu tiên tin rằng Chúa Giêsu đã sống lại, khi thánh nhân nhìn thấy khăn liệm để lại trong ngôi mộ trống.
Sau khi chúng ta tin Chúa, yêu mến Chúa, điều quan trọng kế tiếp là thể hiện lòng yêu mến đó qua hành động đối với tha nhân. Mến Chúa thì phải tuân giữ lời Chúa, và điều răn quan trọng mà Chúa muốn chúng ta phải giữ là "anh chị em hãy yêu mến nhau, như Thầy yêu mến anh chị em". Nhờ vào đời sống tốt lành của chúng ta mà người khác cảm nhận được tình thương của Chúa. Và ngày nay, sức mạnh của nhân chứng mới là điều đáng kể hơn cả. Khi con người cảm nghệm được tình thương của Chúa thì họ sẽ yêu mến Chúa, và khi họ yêu mến Chúa thì họ sẽ tin Chúa.
Lạy Chúa, xin tăng thêm lòng tin cho chúng con để chúng con, để chúng con có thể nhận ra Chúa và nói về Chúa cho người khác một cách xác tín bằng cả cuộc sống của mình. Amen
Buổi tối, thằng bé làm đổ ly sữa. Mẹ bảo nó ra ngoài lấy cây lao nhà. Nó bảo không dám đi vì sợ. Mẹ nó bảo có Chúa Giêsu bên ngoài, Ngài sẽ bảo vệ cho. Thằng bé thò đầu ra ngoài nói: "Lạy Chúa Giêsu nếu thật sự có Ngài ngoài đó thì đưa dùm con cây lao nhà".
Tâm hồn đơn sơ, cậu bé không đắn đo tin thật có Chúa Giêsu ngoài cửa. Và cậu cũng tin rằng Ngài sẽ giúp được mình thoát khỏi tình trạng khốn khó hiện tại. Thật là vui và cũng thật dễ thương quá.
Đức Giêsu sống lại hiện ra cho các tông đồ. Mọi người không ai nghi ngờ gì việc phục sinh của Thầy. Nhưng ở lần hiện ra đầu tiên này không có Tôma. Và ông đã lý luận: không thấy không tin. Một lý luận đặc sệch tính duy vật. "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người. Nếu tôi không xỏ ngón tay tôi vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi không tin". Nếu như với môn đệ Đức Giêsu yêu chỉ nhìn thấy khăn liệm và vải thì đã tin (x. Ga 20,8), thì với Tôma đòi hỏi phải được kiểm chứng. Ông cứng lòng hơn. Ông không tin khi ông thật sự chưa mắt thấy tai nghe. Tám ngày sau, Đức Giêsu ưu ái hiện ra với các môn đệ một lần nữa, và lần này như chủ yếu là vì Tôma. "Lại đây mà xỏ tay vào cạnh sườn Thầy". Tôma với một chút ngỡ ngàng, không ngờ Thầy quá thẳng thắng như vậy. Ông sụp xuống: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con". Chính lời tuyên xưng này đã khởi đầu cho một viễn cảnh mới của đức tin. "Phúc cho những ai không thấy mà tin". Ở đây, niềm tin mang một tầm vốc rộng lớn hơn. Đó là niềm tin của Giáo Hội, của toàn thể cộng đoàn tín hữu, những người không được tận mắt chứng kiến sự phục sinh của Đức Kitô.
Đức tin thật khó cho Tôma và cũng thật khó cho chúng ta. Tin vào một việc cụ thể, rõ ràng đôi khi cũng đã là khó. Ở đây là tin vào một Thiên Chúa đã sống lại từ cõi chết. Một ý niệm dường như vượt quá trí hiểu tự nhiên của con người. Hơn nữa, do chúng ta bị hạn chế bởi khả năng trí thức và suy tư, đặc biệt là trong những lĩnh vực thuộc về Thiên Chúa thì càng trở nên khó khăn hơn. Do vậy, mà chúng ta thường phải dựa vào những gì minh nhiên hơn, sáng tỏ hơn. Mặc khác, do ảnh hưởng xã hội. Đôi khi chúng ta không dám làm một điều gì ngược lại với trào lưu chung của tập thể. Dẫu biết rằng hành động của chúng ta đúng, nhưng xung quanh chẳng ai làm như mình. Điều này dễ dẫn đến suy nghĩ mình đang tách ra khỏi cộng đồng. Mặc cảm có lỗi ấy khiến chúng ta dễ dàng không tin vào Thiên Chúa, không dám dấn thân cho sự thật.
Đó là tính phiêu lưu của đức tin. Tin vào Đức Kitô phục sinh đòi chúng ta phải vượt qua nhiều chướng ngại: phong tục, văn hoá, truyền thống tín ngưỡng, lối sống, lối nghĩ, hình thức xã hội, trình độ học vấn. Nhưng trở ngại lớn nhất có lẽ là chính bản thân mỗi người. Làm sao chúng ta có thể vượt qua được những mặc cảm, chống đối, nghi ngờ, những hạn chế về hiểu biết... Nhiều lúc, chúng ta gần như phải bước đi trong thất vọng và đau đớn. Vì như không ai hiểu chúng ta. Thậm chí là những xung đột trong chính bản thân mình. Tôi đang làm gì? Tin vào ai? Đúng hay sai? Rồi có khi chúng ta đành đánh liều. Và cũng đã có quá nhiều người không còn giữ được niềm tin nữa. Đó là một sự liều lĩnh. Liều lĩnh để tin và liều lĩnh để chối từ.
Tuy vậy, đây không là một cuộc phiêu lưu vô lý, hay một cuộc "chơi ngông" nhưng là một cuộc chiến chính nghĩa. Vì tôi biết tôi tin vào ai. Như lời chép của Thánh Gioan: "Đừng sợ, Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá Tử thần và Âm phủ" (Kh 1, 17-18). Chúng ta biết chúng ta đang làm gì và đi về đâu. "Thiên Chúa đã làm cho Đức Giêsu sống lại, về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng" (Cv 2, 32).
Lạy Chúa, xin nâng đỡ cho niềm tin còn yếu đuối của chúng con.
PHỤC SINH 2 PHỤC SINH
Ga 20,19-31
Buổi chiều ngày thứ I, Đức Giêsu hiện đến với các tông đồ, vắng Tôma.
Ngày thứ I, ngày của Chúa : Đây là ngày Chúa đã làm ra......
Các tông đồ đang hội nhau..cầu nguyện. Là ngày hội của cộng đoàn. Đức Giêsu đến - Chúc bình an - thổi hơi trên các ông - ban thần khí - quyền tha tội - sai đi...
Tôma vắng - vì bị mắc - không nhận được - bình an - hơi thở-thần khí - và mọi thứ khác ie. không được gì hết - vì vắng mặt do bị mắc gì đó. Mắc gì thì mắc nhưng không được gì hết thì mới đáng nói.
Tôma bỏ Chúa Nhật-ngày của Chúa- Ngày hội của cộng đoàn-không nhận dược gì mà Chúa ban trong ngày ấy. Cho nên thay vì nhận được bình an của Đấng Phục Sinh mà mọi người đang âu lo sợ hải rất cần. Nên Tôma không được bình an mà còn tỏ thái độ mà Thánh Gioan muốn chúng ta lưu ý qua tường thuật của ông. Không tin - Gioan trong suốt Phúc Âm thứ IV dường như chỉ chú trọng đặc biệt đến tin- không- tin. Tin thì được sống. Không tin thì không được. Tôma không tin nên nghe các ông khác nói đã thấy Chúa và thấy các dấu đinh ở tay chân và lổ cạnh sừơn Người nữa. Ông còn khinh khỉnh: Nếu tôi không xỏ ngón tay vào lổ đinh.......mà không thấy mình quá đáng. Không tin là như vậy.
Người tín hữu không có mặt ngày Chúa Nhật thì cũng như vậy. Ngay việc không có mặt trong ngày hội của cộng đoàn đã là dấu không tin rồi. Kẻ vắng mặt thì không được tính.
Chúa Giêsu đã quở Tôma : vì anh thấy nên anh mới tin. Thấy thì là thấy chớ còn gì mà gọi là tin nữa. Phúc cho kẻ không thấy mà tin. Người do thái đòi dấu lạ mới tin Đức Giêsu cũng đã quở nặng.
Ngày nay vẫn thế. Người ta vẩn chờ dấu lạ, vẫn di tìm phép lạ. Người ta đi Tác Sậy cầu xin Cha Phanxicô như là cha Phanxicô mới cho, Chúa không có cho. Đi Tà Pao xin Đức Mẹ. Người ta nói Mẹ ở đó chờ, hãy đến để Mẹ thương, Mẹ ban ơn. Như ở đó mới có Mẹ. Sự lạ là dấu Mẹ hiện diện. Tôi đến thăm Mẹ. Như người ta kể: người nầy chuyến đi Tà Pao nào cũng có mặt mà ở nhà không có tới nhà thờ ngày Chúa Nhật.
Có người nói giữ đạo vì có lợi là lợi dụng. Nếu chỉ để xin ơn phần xác thôi thì có lẻ đúng. Còn nếu để dược lợi linh hồn và sự sống đời đời thì lợi dụng cũng nên. Lợi được sự sống đời đời thì phải lợi dụng chứ. Nên lắm chứ.
Hãy có mặt ngày của Chúa. Chúa có thấy mặt mới đặt tên, mới ban bình an,mới thở hơi Phục Sinh cho, mới biến đổi thành con người mới và mới sai đi.
Chúc Phục Sinh Bình An trong Niềm tin.
CHÚA NHẬT II PHỤC SINH
Ga 20,19-31
Anh chị em thân mến.
Nếu có dịp đi về miền quê, chúng ta sẽ ngạc nhiên khi nhìn thấy phương tiện giao thông rất đơn sơ, thế mà người ta vẫn bằng lòng và vui vẻ chấp nhận dễ dàng.
Có lần tôi nhìn thấy, một chiếc xe không biết có từ bao giờ, cũng có thể không có một chiếc xe thứ hai như thế trên thế giới. Nó vừa cũ, vừa không an toàn, hình thể của nó cũng được biến đỗi sao cho phù hợp với thôn quê, vừa là xe khách, vừa là xe tải. Trên xe chất đầy người và hàng hóa cho đến đỗi không còn nhìn thấy chiếc xe, chỉ thấy một khối người từ từ tiến tới. Bổng nhiên chiếc xe dừng hẳn và không còn chuyển động được nữa. Hành khách xuống xe, không có gì là vội vã. Chủ xe lo sữa chữa. Một lúc sau, chủ xe xin mọi người trợ lực cho chiếc xe để nó có thể lăn bánh. Hành trình lại tiếp tục.
Tôi suy nghĩ. Đáng lẽ chiếc xe phải về hưu, nó phải được nghĩ ngơi, sau một thời gian làm việc. Nói đúng hơn, khả năng của chiếc xe, không còn xứng đáng để xử dụng được nữa. Thế mà trong thực tế, chiếc xe vẫn còn hữu dụng cho nhiều người, vì những người nầy cần đến nó và biết cách xử dụng nó, nên nó vẫn phục vụ cách đắc lực.
Các môn đồ sợ sệt vì có liên hệ với phạm nhân bị tử hình. Các ông dường như là những người bị bỏ đi của xã hội, còn đối với Thầy, các ông không còn xứng đáng là những môn đồ trung tín, vì các ông đã bỏ Thầy mà chạy trốn. Chúa Giêsu vẫn tìm đến với những con người dường như bị bỏ đi nầy, Ngài nói lời chúc bình an. Ngài còn trao cho sứ mệnh, đó là Ngài xử dụng họ vào công việc của Ngài. Còn Tôma, vẫn chưa chấp nhận được cách xử dụng bình thường của Chúa Giêsu.
Cổ máy của con người ông chưa thể hoạt động được. Ngài phải ra tay, phải trợ lực để cổ máy được xử dụng theo ý muốn của Ngài. " Hãy đặt ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy. Đưa bàn tay con ra và đặt vào cạnh sường Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin". Nhìn thấy được nhu cầu, Chúa Giêsu không ngần ngại vì người môn đồ đặt biệt nầy. Tất cả các môn đồ đã nhìn thấy những điều Tôma đã thấy, tất cả đã được nghe những điều Tôma đã nghe. Tất cả cũng đã nhận được những điều Tôma đã được. Nhưng tất cả không có được hành động mà ông đã có. Tất cả cũng không nói được lời mà ông đã tuyên xưng đối với những gì mà ông đã nghe, đã nhìn thấy và đã nhận được. Chúa Giêsu đã xử dụng con người mà dường như không ai xử dụng được, nên những gì Ngài xử dụng đều trở nên công cụ đắc lực cho Ngài.
Khi vừa nghe qua bài phúc âm, chắc chúng ta thầm trách Tôma, nếu thế thì các môn đồ kia còn đáng trách hơn, vì hành động của các ông chưa đi đôi với lời nói để Tôma có thể tin được. Còn Tôma đã biểu lộ niềm tin mình bằng hành động cụ thể. Còn chúng ta, nếu nhìn lại, chúng ta còn đáng trách hơn Tôma, hơn cả các môn đồ ngày xưa nhiều.
Chúng ta không chỉ nghe một lần Lời chúc bình an. Nhưng nghe rất nhiều, trong mỗi thánh lễ, trong đời sống hằng ngày, trong từng công việc, qua những người chúng ta tiếp xúc. Chúng cũng không chỉ nhìn thấy những vết đinh. Nhưng chúng ta còn nhìn thấy hiệu quả, không phải nơi người khác, nhưng chính nơi bản thân của mình. Chúng đã nhận rất nhiều hồng ân của Chúa, Ngài đã đến vì nhu cầu riêng cho chúng ta trong cuộc sống. Bao ước mơ, bao nguyện vọng đã được đáp ứng. Lời nói với Tôma ngày xưa cũng vang bên tai chúng ta : "Chớ cứng lòng, nhưng hãy tin".
Lời nói đã làm cho Tôma tỉnh giấc, quỳ gối, sụp lạy, và tuyên xưng niềm tin của mình. Còn những Tôma của thời đại mới nầy, vẫn còn khô cứng trong những suy tư của mình , khô cứng trong lối sống của mình. Chúng ta không nhận ra được Chúa đến với chúng ta, đáp ứng như cầu của chúng ta, thì làm sao nghe được để có thể thay đỗi cách sống cho xứng với niềm tin.
Thay vì trách Tôma, phiền trách những người chung quanh, chúng ta có tự trách mình đã quá khô cứng, để không còn nhìn thấy, không còn biết lắng nghe và cũng không thể thay đỗi được con người không thể chấp nhận được của chúng ta. Không lẽ chúng ta là một chiếc xe không thể chuyển động được mà chủ xe không thể chữa nổi. Không lẽ chúng ta không còn có thể xử dụng được vào một việc gì nữa sao? Như thế thì những ngày tháng sống ở trần gian này lại vô dụng sao?
Xin Chúa cho chúng ta biết nhận ra Chúa trong cuộc sống đời thường, để biết lắng nghe và sống cho xứng đáng với những Hồng Ân bằng tất cả niềm tin.
PHÚC CHO AI KHÔNG THẤY MÀ TIN
Ga 20,19-31
1. Từ hồi rất bé khi có dịp ra viếng Đất Thánh quê tôi, tôi thường được mẹ dẫn đến viếng hai ngôi mộ bằng đá ong cũ kỹ, mẹ nói đây là phần mộ của ông sơ và bà sơ của tôi. Có lần tôi hỏi: "Mẹ có biết mặt ông bà sơ không ? Mẹ có dự lễ an táng của ông bà sơ không ?". Mẹ tôi trả lời :" Mẹ chỉ nghe ông bà ngoại (của tôi) nói lại thôi, ông bà sơ qua đời đã lâu lắm rồi, nhưng mẹ tin chắc rằng đó là mộ của ông bà sơ".
Trong cuộc sống, có những điều chính mắt chúng ta chứng kiến, kiểm nghiệm... nhờ đó ta tin, thế nhưng có những điều chúng ta tin nhờ vào người khác.
2. Đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại hai lần Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với các môn đệ. Lần thứ nhất không có Tôma, khi các môn đệ khác kể lại với ông : "Chúng tôi đã xem thấy Chúa", thì ông đáp lại: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người... thì tôi không tin". Đó là nguyện vọng rất bình thường, rất hợp lý của Tôma. Tám ngày sau, Đức Giêsu Phục Sinh lại hiện ra, lời đề nghị của Tôma được đáp ứng. Chúa nói với ông : "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra xỏ vào cạnh sườn Thầy, chớ cứng lòng nhưng hãy tin ". Tôma liền đáp lại và tuyên xưng đức tin: "Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi ". Giờ đây, ông chịu khuất phục vì sự hiện diện của Chúa, ông chẳng dám đưa tay ra sờ Chúa nữa, ông đã tin.
3. Chúa luôn sẵn sàng thỏa mãn những đòi hỏi của các môn đệ, của ta, nhưng bao giờ Người cũng muốn niềm tin của ta ở mức cao hơn: "Phúc thay những ai không thấy mà tin". Thật vậy, từ mức độ thấp là tin dựa vào bằng chứng giác quan kiểm nghiệm được, lên mức độ cao là tin chỉ vì nghe , bởi vì mình đã an tâm về uy tín của người nói cho mình nghe. Như tôi tin vào lời mẹ tôi nói, mẹ tôi tin vào lời của ông bà ngoại tôi về mộ phần của ông bà sơ tôi, lẽ nào họ không nói đúng sự thật?
Tôma chậm tin vào lời chứng của các bạn, nên ông chậm tin vào Chúa Phục sinh. Ông cũng chậm tin, hay quên cả lời Chúa báo trước về sự phục sinh của Người. Điều đáng trách của Tôma là ở chỗ đó, nhưng cũng có cái hay là vì ông chậm tin, nên ngày hôm nay chúng ta vững tin vào việc Đức Kitô Phục Sinh hơn, bởi ông không là người nhẹ dạ cả tin.
4. Trong thực tế, có rất nhiều điều cần phải qua kiểm chứng để mới có thể tin được. Nhất là sống trong thời đại mà sự thật dễ bị coi thường, dễ bị lừa đảo. Thế nhưng chúng ta vẫn phải tin bao điều mình không thấy : như các bạn trẻ vẫn tin vào tình yêu, tình bạn. Các đôi vợ chồng vẫn tin vào sự chung thủy của nhau. Con cái tin vào sự hướng dẫn của cha mẹ. Học trò tin vào sự hướng dẫn của thầy cô... Cái khó là nên tin vào ai, và không nên tin vào ai ? Tin điều gì và không nên tin điều gì ?
Trong cuộc sống hẳn chúng ta có rất nhiều kinh nghiệm về điều này để ứng xử ; nhưng trong lãnh vực đức tin và luân lý, thì không còn nghi ngờ gì nữa, mà phải tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu và Lời Người dạy. Vì Lời Người là chân thật, hằng sống. Chúng ta cũng phải tin vào lời chứng của các Tông Đồ và các đấng kế vị các ngài, vào Hội Thánh của Chúa, nơi chân lý được lưu truyền. "Phúc cho ai không thấy mà tin ", lời chúc phúc này tiếp tục trao ban cho mọi Kitô hữu, qua mọi thời, mọi nơi dù không thấy Chúa bằng mắt thường, nhưng nhận ra sự hiện diện của Người qua đức tin.
5. Thế nhưng hãy xem coi ta có xứng đáng nhận lời chúc phúc này của Đức Giêsu Phục Sinh hay không ? Bởi khi suy niệm về bài Tin Mừng hôm nay, có khi ta trách Tôma cứng lòng, còn ta ? Phải chăng vì cứng lòng nên ta mới hờ hững với lời Chúa dạy? Phải chăng vì cứng lòng nên ta đến nhà thờ không phải để thờ phượng Chúa mà để gặp gỡ nhau, để lương tâm được yên ổn... vì thế cứ thích ở ngoài nhà thờ, dù bên trong nhà thờ còn rất nhiều chỗ ngồi ? Phải chăng vì cứng lòng nên ta chỉ tìm lợi ích cho mình mặc ai thiệt thòi đau khổ ? Phải chăng vì cứng lòng nên ta không vui trước sự thành công của người khác ? v.v...
Với những cách sống như thế, chúng ta không thể là người có phúc được vì chứng tỏ ta không thực sự tin vào Chúa Phục sinh, không tin Lời Người dạy và như vậy làm sao có thể làm chứng cho tha nhân biết rằng Chúa đã phục sinh ?
Thường mỗi lần đọc câu chuyện của thánh Tôma khi sống trong những ngày Phục Sinh, chúng ta vẫn có nhiều phản ứng khác nhau. Kẻ chê thì cho là Tôma yếu đức tin, Tôma nhát đảm không mạnh mẽ đủ để làm chứng cho Thầy mình. Kẻ khen thì cho là thánh Tôma thực tế, dân dã, nghĩ sao nói vậy, tin phải có kiểm chứng chứ đâu cứ nhắm mắt mà tin bừa đâu.câu chuyện của Tôma sẽ cho chúng ta hiểu thế nào là đức tin ? Thế nào là tuyên xưng nơi Đức Kitô.
Tin Mừng về Đức Giêsu Phục Sinh luôn dựa trên những chứng nhân, dựa trên những điều mà những người phụ nữ và những tông đồ đã thấy, đã nghe và đã gặp để rồi họ loan truyền cho những người khác về những điều họ đã cảm nghiệm, đã thấy, và đã nghe. Chính đức tin của những người phụ nữ, của các tông đồ đã làm thay đổi cục diện lịch sử nhân loại.Bởi vì, không một lời giải thích nào có thể cho chúng ta thấy họ đã biến đổi như thế, ngoại trừ chính họ giải thích: họ đã thấy Đức Giêsu hiện còn sống.Đức Kitô phục sinh đang hiện diện và Ngài nói: " Bình an cho các con ". Chúa Giêsu đang tiếp tục nói với chúng ta, nói với nhân loại: " Ta là sự sống lại và là sự sống ".Đây là lời Đức Giêsu đã nói với cô Matta để củng cố đức tin cho cô, bởi vì chính quyền năng của Ngài có thể phục sinh em trai của cô là Lagiarô đã chết chôn bốn ngày trong mộ. Tuy nhiên, chính vào buổi chiều Phục Sinh, Chúa Giêsu nói: " Hãy nhận lấy Thánh Thần. Các con tha tội cho ai, thì tội kẻ đó được tha, các con cầm tội ai thì tội kẻ đó bị cầm lại ".
Những người phụ nữ và các môn đệ đã theo chân Chúa từ ba năm nay, dù họ không có học thức bao nhiêu, chắc chắn họ đã không dám làm chứng gian, chứng láo bởi vì thế nào trong bọn họ cũng có người sẽ phải nói ra sự thật vì sẽ không chịu nổi sự bách hại và chết chóc. Vâng, họ đã làm chứng thật, lời chứng của họ về Đức Giêsu Kitô Phục Sinh không bị lay chuyển chút nào cả. Các môn đệ và những người phụ nữ như bà Maria Mađalêna, và những bà Maria khác đều cảm nghiệm sâu xa về Đấng Phục Sinh. Sự biến đổi không thể nào giải thích được nơi các môn đệ về Chúa Phục Sinh khiến cho nhiều người nói rằng chính lý trí cũng minh chứng Đức Giêsu Kitô đã Phục Sinh.
Thánh Tôma đã muốn Chúa Phục Sinh minh chứng Ngài đã sống lại. Chúa Phục Sinh đã nói với Tôma: ' Hãy xỏ tay vào cạnh sườn Ngài và hãy thọc ngón tay vào lỗ đinh trên tay bị đóng đinh của Chúa Giêsu ". Tôma không dám làm điều đó dù rằng ttước khi gặp Chúa Phục Sinh, Ông đã cương quyết làm việc đó. Chúa Phục Sinh nói: " Phúc cho ai không thấy mà tin " ( Ga 20, 28 ). Ngày nay chúng ta, những Kitô hữu không thấy Chúa Phục Sinh như các tông đồ, như các người phụ nữ xưa, nhưng họ vẫn tin Chúa Phục Sinh nhờ đức tin. Người Kitô hữu không thấy Chúa bằng xương bằng thịt, bằng giác quan nhưng bằng trái tim nhạy cảm của mình. Cha Michel Quoist viết thế này: " Tin Chúa, không phải là hướng mắt về Người để chiêm ngưỡng, nhưng đồng thời cũng là nhìn vào trần gian với ánh mắt của Đức Kitô ". Người Kitô hữu có thể dùng tặng phẩm tuyệt vời Chúa ban là lý trí để xác quyết điều Kinh Thánh đã truyền dạy. Rồi, người Kitô hữu cũng có thể quì gối xuống như thánh Tôma đã làm và thưa với Chúa Phục Sinh: " Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con ". Và chắc chắn Chúa Phục Sinh sẽ đáp lại: " Phúc cho những ai không thấy mà tin ".
Henry Fable, nhà sinh vật người Pháp sau bao nhiêu năm nghiên cứu khoa học, khảo sát và suy tư đã phải thốt lên: ' ... Tôi đã trông thấy Chúa ".
Lạy Chúa Giêsu, xin tăng thêm đức tin cho chúng con để chúng con nhận ra Chúa đang hiện diện sống động trong cuộc đời chúng con và trong những người anh em mà chúng con gặp. Amen.
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Quan tổng trấn Philatô tra vấn Đức Kitô. Đức Kitô đứng yên lặng không trả lời. Philatô lên tiếng:
Ông không biết là tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao?
Đức Kitô lên tiếng:
Ông không có quyền gì trên nói nếu Thiên Chúa không ban cho ông. Gn 19,10
Đức Kitô nhắc Philatô quyền hành ông hiện nắm giữ trên tay không phải tự ông có được mà chính là do ơn Trên ban cho. Vì là ơn trên ban cho nên có ngày ông cũng sẽ mất quyền đó. Chính vì nhận biết quyền đó không tồn tại suốt đời, không nắm vững trọn đời nên tốt hơn hết là xử dụng quyền đó một cách chân thành. Dùng quyền hành trong khả năng để bảo vệ sự sống, cổ võ công bình và sống thật thà, ngay thẳng.
Cuộc đối thoại giữa Đức Kitô và tổng trấn Philatô tưởng đâu đã đi vào quyên lãng, không ngờ mẩu đối thoại trên tồn tại cho đến ngày nay. Nó tồn tại đến ngày nay là vì nó liên quan đến Đức Kitô. Ngày nào còn có người tin vào Đức Kitô ngày đó mẩu đối thoại kia còn tồn tại. Không phải chỉ có mẩu đối thoại kia tồn tại mà chính những giáo huấn của Chúa cũng tồn tại. Đức Kitô sống lại từ cõi chết nên những gì lên quan đến Ngài cũng sống lại từ cõi chết. Giáo huấn của Ngài, việc Ngài làm, điều Ngài nói tất cả đều tồn tại và sống động. Những điều trước kia người ta sợ không dám loan truyền rộng rãi sau khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết tất cả đều được phô bày, dù nói nơi kín đáo, dù nói trong cung điện. Tất cả đều bộc lộ, đều được phơi bày ra ánh sáng. Nếu không được phô bày làm sao ngày nay chúng ta còn được nghe thuật lại những mảu đối thoại nơi cung cấm xưa.
Sự kiện Đức Kitô sống lại làm sống lại những gì câm nín trước kia. Tất cả dù tin hay không tin đều vướng vào vòng tranh biện về cái chết và sự sống lại của Ngài. Kẻ tin thì mau mắn rao giảng Tin Mừng cho muôn dân như được truyen dậy trước kia. Kẻ không tin, chống lại thì ngày đêm suy nghĩ tìm mưu, tính kế chống phá lại giáo huấn của Ngài. Như thế không ai có thể nói rằng, không biết, không nghe đến Đức Kitô. Chính những kẻ chống đối và câm nín nhiều nhất lại là người nghe được nhiều nhất. Nhóm đầu tiên tự thú chính là viên đội trưởng thi hành lệnh hành hình Đức Kitô. Đứng dưới chân thập tự ông chứng kiến giờ Đức Kitô sinh thì, trời u ám, đất rung chuyển. Vị đội trưởng đấm ngực ăn năn tự thú:
Người này quả là người công chính Lc 23,47
Kế đến là nhóm chống đối và cũng là nhóm ra lệnh giết Đức Kitô đó là các Kinh Sư đền thờ và hàng qúi tộc nắm quyền sinh sát trong tay. Ba ngày trước đó họ tuyên án, ra lệnh cho thuộc hạ thi hành bản án ngay lập tức mà không thể đình vì sợ có thay đổi ngoài dự tính của họ. Họ vỗ ngực tự nhận là kẻ chiến thắng. Chiến thắng tồn tại đúng ba ngày họ hạ hối lộ thuộc cấp ra lệnh cho thuộc cấp phao tin thất thiệt.
Các ngươi cứ nói là trong lúc chúng tôi ngủ môn đệ ông Kitô đến trộm xác. Nếu việc này đến tai quan tổn trấn đã có chúng ta lo, các ngươi sẽ không liên luỵ gì. Mat 28,15
Quả là lạ, quan quân hoàng gia, vũ khí trong tay lại thua các tông đồ tay không, chân đất. Quân canh, ngủ gục, không làm tròn trách nhiệm được cấp trên bao che. Bất công từ trong tổ chức đi ra. Lạm dụng quyền hành từ đầu đến cuối. Khởi đầu cuộc xét xử quan tổng trấn không cần biết sự thật. Ngài tuyên bố tha kẻ đó vô tội; ngài tuyên án kẻ đó có tội.
Nhóm lãnh đạo không thể giải thích lí do nào khiến môn đệ Đức Kitô chạy tán loại khi Ngài còn sống nhưng lại tụ họp lại, liên kết lại sau khi Đức Kitô qua đời. Lời nói mất tiền mua chuộc quân lính có quá nhiều kẽ hở cho công luận nhận xét.
Những kẻ không tin chắc chắn không nghe được tiếng nói lặng câm của Thánh Thần Chúa. Chính tiếng nói âm thầm thúc đẩy những người tin theo Đức Kitô mạnh dạn tiến ra ánh sáng, đối diện với sự thật dù có phải bách hại, đau khổ và kết án họ cũng sẵn sàng hy sinh để làm nhân chứng sống động cho Đức Kitô. Trước Kia họ chạy trốn vì chưa nghe được tiếng nói lặng câm kia. Nghe được họ cất tiếng ca ngợi Lậy Chúa, Lậy Thiên Chúa.
Chúng ta cầu xin nghe được tiếng Thánh Thần Chúa.
Lm Vũđình Tường
CỘNG ĐOÀN PHỤC SINH
Ga 20, 19-31
Các bài đọc hôm nay cho ta biết đôi nét về sinh hoạt của cộng đoàn thời Hội Thánh sơ khai. Căn cứ vào các sách Tin mừng và nhất là sách Công vụ Tông đồ, ta thấy cộng đoàn Hội Thánh sơ khai có mấy đặc điểm sau:
Đó là cộng đoàn cầu nguyện.
Hoàn cảnh ban đầu với những cộng đoàn bé nhỏ, những con người yếu đuối. Kỷ niệm về Đức Kitô, người Thày thân thương còn quá tươi mới, quá đậm nét. Đó là lý do khiến các tín hữu sơ khai tha thiết họp nhau cầu nguyện. Những buổi cầu nguyện là những buổi ôn lại kỷ niệm của Thày Chí Thánh. Các ngài bẻ bánh để tái diễn cử chỉ thân thương của Thày. Các ngài kể cho nhau nghe những lời nói và những việc làm của Thày để ghi tâm khắc cốt. Khao khát sự hiện diện của Thày đã làm cho lời cầu nguyện của các ngài trở nên sống động. Và Đức Kitô phục sinh vẫn thường đến an ủi các ngài trong các buổi cầu nguyện ấy.
Đó là cộng đoàn đức tin.
Các ngài quây quần sống bên nhau vì cùng chung một niềm tin vào Đức Kitô phục sinh. Niềm tin ấy rất mãnh liệt vì các ngài đã được tận mắt nhìn thấy Ngài. Niềm tin ấy không chỉ là lý trí mà còn ảnh hưởng tới cả cuộc sống. Niềm tin ấy không chỉ biểu lộ trong những giờ cầu nguyện mà còn đi sâu và thực hiện cụ thể trong những chọn lựa, trong những sinh hoạt đời thường.
Cộng đoàn đóng vai trò gìn giữ, bồi dưỡng và phục hồi đức tin. Như trường hợp của Tông đồ Tôma. Ông tìm lại được đức tin nhờ sự giúp đỡ của cộng đoàn. Chúa ban lại đức tin cho ông khi ông ở giữa cộng đoàn.
Đó là cộng đoàn đức ái.
Đức tin chân thật sẽ dẫn đến đức ái. Thật sự tin Chúa sẽ dẫn đến yêu mến Chúa. Thật sự yêu mến Chúa sẽ biểu lộ trong tình yêu mến tha nhân. Nên các tín hữu sơ khai tự nhiên đồng tâm nhất trí với nhau. Sự đồng tâm nhất trí không chỉ trong tư tưởng lời nói mà nhất là cả trong việc chia sẻ của cải vật chất. "Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung...Trong cộng đoàn không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các Tông đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tuỳ theo nhu cầu". Thật đẹp và đáng mơ ước. Ai mà không mong muốn được sống với những con người như thế. Ai mà không mong muốn được chia sẻ đời sống của một cộng đoàn như thế.
Đó là cộng đoàn chứng nhân.
Các ngài làm chứng cho nhau. Kinh nghiệm gặp gỡ Đức Kitô phục sinh quá mãnh liệt làm cho các ngài sung sướng hạnh phúc, không thể kìm giữ, nên đã trào dâng trong việc chia sẻ với bạn bè. Câu nói "Chúng tôi đã thấy Ngài" là câu nói cửa miệng của các Tông đồ. Ta được nghe các chứng từ dồn dập của Maria Mácđala, của Phêrô và Gioan, của các môn đệ đi làng Emmau, và muộn màng nhưng mãnh liệt trong tiếng kêu của Tôma.
Hữu xạ tự nhiên hương. Chứng từ của các ngài lan toả ra cả những người chung quanh. Trước hết là do đời sống của các ngài. Đời sống đức tin mạnh mẽ. Đời sống cầu nguyện sống động. Đời sống bác ái chan hoà. Tất cả trở thành một lời chứng hùng hồn, có sức thuyết phục hơn biết bao lời hay ý đẹp. Hơn thế nữa, các ngài còn hăng hái ra đi làm chứng cho Chúa. Bất chấp khó khăn thử thách. Bất chấp mất danh vọng chức quyền. Bất chấp cả mất mạng sống.
Cộng đoàn Hội Thánh sơ khai có những nét đẹp như thế là nhờ các ngài đã gặp gỡ Đức Kitô phục sinh, đã đón nhận được ơn phục sinh nên đã hoàn toàn thay da đổi thịt, trở thành những con người mới. Đó không còn là một cộng đoàn bình thường nữa. Đó là một cộng đoàn phục sinh. Cộng đoàn phục sinh đã vượt qua trần gian. Cộng đoàn phục sinh tiên báo cuộc sống hạnh phúc trên Nước Trời.
+ TGM Giuse Ngô quang Kiệt
CHÚA NHẬT LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA
Ga 20, 19-31
Bài trích Phúc Âm theo thánh Gioan: "Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do Thái, Đức Chúa GIÊSU hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con". Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Đức Chúa GIÊSU lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con. Như CHA đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại".
Bấy giờ trong 12 Tông Đồ, có ông Tôma không cùng ở với các ông khi Đức Chúa GIÊSU hiện đến. Các môn đệ khác nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa". Nhưng ông nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Thầy, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin".
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Đức Chúa GIÊSU hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Đoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy THIÊN CHÚA của con". Đức Chúa GIÊSU nói với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin".
Xin suy tư về 3 điều: nỗi sợ hãi của các Tông Đồ; lòng cứng tin của Tôma và hồng ân tha thứ của Đức Chúa GIÊSU KITÔ Phục Sinh.
1/ Nỗi sợ hãi của các Tông Đồ.
Lúc ấy là buổi chiều Chúa Nhật Phục Sinh. Tin Vui Đức Chúa GIÊSU KITÔ Sống Lại quá mới mẻ. Các Tông Đồ chưa được diễm phúc trông thấy Thầy Chí Thánh. Trong khi các biến cố đau thương dồn dập xảy ra từ Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bảy Tuần Thánh vẫn còn đó. Chỉ vỏn vẹn 3 ngày nhưng lại kinh hoàng đến gần như bất tận. Nói thế để diễn tả trạng huống hỗn độn của 12 Tông Đồ: Giuđa phản bội Thầy. Phêrô chối bỏ Thầy. Các vị còn lại hoảng sợ chạy trốn, ngoại trừ Gioan.
Kinh hoàng, hoảng sợ là tâm tình con người khi đối diện với gian nguy và thử thách. Cuộc sống nào cũng tràn đầy khó khăn. Nhưng khó khăn củng cố niềm tin sâu xa vào sự trợ giúp của THIÊN CHÚA, Đấng là CHA Nhân Lành. Ngài không bao giờ để con người mang gánh nặng quá sức. Ngài không bỏ rơi con người đơn độc trong cuộc chiến đấu. Vào mọi lúc và ở bất cứ nơi đâu, tín hữu Công Giáo hãy luôn khẩn cầu cùng Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Đấng đã đánh bại cái chết cùng sự dữ. Ngài là Đấng Toàn Thắng, là Vị Vua Khải Hoàn. Trong gian nan khốn khó hãy ngước nhìn Đức Chúa GIÊSU KITÔ, hãy van xin Ngài. Ngài sẽ đến và ban cho mỗi người sức mạnh, an bình và Tình Yêu.
2/ Lòng cứng tin của Tôma.
Tông Đồ Tôma đại diện cho lớp người kiêu căng, thiển cận, ngoan cố và mù quáng. Họ tự ban cho mình khả năng phê phán tất cả và quyền kiểm chứng mọi sự. Trước mọi dấu chỉ tình yêu, họ chỉ bịt tai nhắm mắt lập đi lập lại: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Thầy, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin".
Ôi cái quyền kiểm chứng hạn hẹp của loài người thật đáng thương biết bao! Làm sao con người có thể hiểu cho thấu và suy cho tường mọi biến cố xảy ra trên trần thế này? Điều khôn ngoan nhất chính là lòng khiêm tốn. Khiêm tốn chấp nhận mọi giáo huấn của các Mục Tử trong Giáo Hội Công Giáo, duy nhất, thánh thiện và tông truyền.
3/ Hồng ân tha thứ của Đức Chúa GIÊSU KITÔ Phục Sinh.
Vì biết rõ cái dại-dột cứng-đầu của Tôma, nên Người đáp ứng ngay: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin".
Đó chính là thái độ khoan dung tha thứ vô bờ của Đấng vừa là THIÊN CHÚA vừa là Vị CỨU TINH muôn loài. Đôi Bàn Tay mang thương tích của Đức Chúa GIÊSU KITÔ luôn luôn giang rộng để tiếp rước mọi tội nhân, tất cả các hối nhân. Tiếp rước để trao ban an bình và ơn tha thứ. Tín hữu Công Giáo hãy mau mau nép vào vòng tay của Thầy Chí Thánh và khiêm tốn tuyên xưng: "Lạy Chúa con, lạy THIÊN CHÚA của con".
Dịp Đại Năm Thánh 2000, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II (1978-2005) thiết lập Lễ Lòng Thương Xót Chúa mừng vào Chúa Nhật II sau Lễ Phục Sinh.
Toàn trái đất tràn ngập lòng Nhân Lành của THIÊN CHÚA. Nếu các tâm hồn biết thật sự đón nhận lòng Thương Xót THIÊN CHÚA tuôn đổ trên mọi thọ tạo thì chắc chắn sẽ không có người bất hạnh, kẻ tội nhân và người bị bỏ rơi. Nhưng TẤT CẢ cùng quy tụ trong một đàn chiên duy nhất được hướng dẫn và bảo vệ bởi Đấng Chăn Chiên Nhân Lành đã hiến mạng sống vì đàn chiên. Đấng Chăn Chiên Nhân Lành không hiến dâng mạng sống một lần nhưng tiếp tục trao ban Sự Sống mỗi ngày cho tất cả mọi người cho đến tận cùng thời gian.
Sự dữ tràn ngập trái đất vì Kẻ Thù Satan luôn luôn tìm cách gieo rắc chia rẽ và oán thù. Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa nhắc nhở từng tín hữu Công Giáo van xin Lòng Nhân Lành THIÊN CHÚA và mở cửa tiếp rước Đấng là Tình Quân muôn thưở: "Này đây Thầy đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Thầy và mở cửa, thì Thầy sẽ vào nhà người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Thầy. Ai thắng, Thầy sẽ cho ngự bên Thầy trên ngai của Thầy, cũng như Thầy đã thắng và ngự bên CHA Thầy trên ngai của Ngài. Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh" (Khải Huyền 3,20-22).
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
VUI MỪNG VÌ THẤY CHÚA
Ga 20,19-31
Niềm vui và Tin Mừng Phục Sinh vẫn vang lên mãi mãi trong lịch sử cứu độ, trong lịch sử dân Chúa. Các môn đệ quả thực đã sống những giây phút như nín thở bởi vì thầy Giêsu đã chết và họ chưa hiểu ra sao! Nhưng, sự ưu phiền, ảo não, lo âu ấy đã bị biến tan mau chóng khi bất ngờ các môn đệ thấy Chúa phục sinh hiện đến đứng giữa họ, thật gần gũi. " Chúng tôi đã được thấy Chúa ". Các môn đệ đã vui mừng, niềm vui vỡ òa bởi Chúa sống lại đã hiện đến với các ông.
Đọc đoạn Tin Mừng của thánh Gioan Ga 20, 19-31 dùng tới sáu động từ thấy. Ở đây, thánh Gioan nhấn mạnh cho chúng ta về các môn đệ đã xem thấy Chúa. Thấy Chúa vẫn như thuở xưa, thấy Chúa với những lỗ đinh và vết đâm của tên lính ở cạnh sườn. Tuy nhiên, Chúa Giêsu phục sinh lại khác xưa nên, các môn đệ không thể dễ nhận ra Ngài ngay. Bởi vì Chúa sống lại với một thân xác khác, thân xác phục sinh và đó là cái kỳ diệu,sự mầu nhiệm của sự sống lại. Maria Mađalêna cứ ngỡ thầy mình là người làm vườn, các môn đệ lại ngạc nhiên đến ngỡ ngàng: " à ra là Thầy ". Muốn thấy, muốn nhận ra Chúa phục sinh, điều kiện tiên quyết nhất là phải có đức tin. Người nào tin mới thấy được và thấy rồi sẽ tin hơn. Chúa phục sinh dù rằng suốt chặng đường ở với các môn đệ, Ngài đã dùng lời nói và việc làm để loan báo trước về cái chết và sự sống lại của Ngài, nhưng các môn đệ đâu có phải thấy Chúa phục sinh là nhận ra Chúa ngay đâu. Các Ngài còn phải hồi tỉnh và nhờ vào lòng tin mới nhận ra được Chúa sống lại.
Trên trần gian này có nhiều điều, chúng ta không thấy nhưng vẫn tin. Người trẻ lớn lên vẫn tin vào tình yêu, dù họ không biết định nghĩa tình yêu là gì.Họ vẫn tin vào tình bạn. Các đôi vợ chồng luôn tin vào sự chung thủy của nhau dù họ cũng không thể nào đọc hết được lòng dạ của nhau.Chẳng ai thấy cái sâu thẳm của tâm hồn nhưng con người vẫn tin vào tình làng nghĩa xóm, tin vào sự gắn bó yêu thương vv...Người ta cũng không thể cho rằng tin là mù quáng, là phi lý, là không thể chấp nhận được. Tin không hề làm giảm giá trị của con người. Bởi vì, chỉ có con người mới biết tin, mới dám tin.Tin là chấp nhận bấp bênh, có thể bị cả lừa dối, người Kitô hữu là người không thấy Chúa nhưng vẫn tin. Người Kitô hữu không thấy Chúa bằng mắt thịt nhưng họ thấy Chúa bằng con mắt đức tin. Người Kitô hữu không thấy Chúa bằng giác quan, nhưng thấy Chúa bằng con tim nhạy cảm. Họ thấy Chúa là Cha yêu thương, giúp đỡ con người và cứu độ con người, và thấy mọi người là anh em với nhau. Cha Michel Quoist viết một câu thật chí lý và ấn tượng: " Tin Chúa, không phải là hướng mắt về Người để chiêm ngưỡng, nhưng đồng thời cũng là nhìn vào trần gian với ánh mắt của Đức Kitô ". Cái đẹp, cái huyền diệu, cái mầu nhiệm của người Kitô hữu là tin bằng con mắt đức tin, tin bằng tất cả con tim của mình.
Trên thế giới ngày nay đang xẩy ra một cuộc khủng hoảng lớn về niềm tin. Tuy nhiên, Giáo Hội luôn mời gọi con cái giữ vững niềm tin. Hội Thánh chỉ ra rằng con cái phải tin vào Thiên Chúa và tin vào con người. Tin vào thế giới và tất cả mọi công trình do Người tạo nên. Tin vào tất cả những gì mà Người gửi đến cho con người. Bởi vì nếu cái gì con người cũng đòi hỏi phải có bằng chứng mới tin thì đức tin đã trở thành khoa học mất rồi. Người Kitô hữu quả thực rất hạnh phúc vì họ không thấy nhưng vẫn tin.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm niềm tin cho chúng con để chúng con luôn nhận ra Chúa đang hiện diện trong cuộc đời của chúng con và trong mọi người anh em của chúng con . Amen.
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, bà Maria Mađalêna sau khi đi ra mộ và được Chúa Phục Sinh hiện ra trao cho sứ vụ loan báo tin vui Phục sinh cho các môn đệ. Các môn đệ bán tín bán nghi về sự sống lại của Chúa như tin mừng Nhất lãm tường thuật (x. Mt 28,17; Mc 16,11.13.14; Lc 24, 37-41). Đồng thời các ông thêm phần lo sợ vì trong dân Do thái lúc bấy giờ phao tin các ông đã đánh cắp xác Chúa, như thông tin của các binh lính về việc Chúa sống lại và kế hoạch lừa đảo của các Thượng tế và kỳ mục (x. Mt 28, 11-15). Vì thế, các ông sợ hãi và đóng kín cửa. Chính trong hoàn cảnh khủng hoảng và lo sợ đó, Chúa Phục Sinh đích thân hiện đến cùng các môn đệ, cho các ông biết Người là ai, đồng thời trao ban cho các ông sứ mệnh loan truyền Tin mừng Phục sinh cho muôn dân.
Trước hết chúng ta nhận thấy, Chúa Kytô Phục sinh đích thân đến cùng và đứng giữa các môn đệ của Người. đây quả là sáng kiến riêng của Chúa Giêsu. Vì nếu Người không "đi bước trước", các môn đệ khó có thể tin rằng Thầy của các ông đã sống lại. Chúng ta còn nhớ Chúa Giêsu trong "diễn từ ly biệt" đã hứa với các môn đệ rằng Người sẽ không để các ông mồ côi và Người sẽ "đến cùng" các ông (x. Ga 14, 18). Giờ đây Người đã đến để chứng thực rằng Người không chỉ thực hiện lời đã hứa mà còn là một bằng chứng cho thấy Người đã chỗi dậy từ cõi chết.
Khi hiện ra với các môn đệ, lời đầu tiên của Chúa Phục Sinh gửi đến cho các ông- bấy giờ đang sống trong tâm trạng lo sợ, là lời chúc bình an. "Bình an cho anh em" (Shalom). Người Dothái mỗi khi gặp nhau dù thân hay sơ đều dùng câu nói này để xã giao. Chúa Giêsu không chỉ dùng câu xã giao này như một công cụ giao tiếp thường nhật mà còn mặc cho nó một ý nghĩa mang tính tôn giáo. Vâng, Bình an mà Chúa Giêsu Phục sinh trao ban cho các môn đệ là sự Bình an đích thực, không phải đầu môi chót lưỡi, một sự Bình an "không như thế gian ban tặng" như Người đã nói (x. Ga 14 27).
Nhận lãnh sự Bình an đích thực từ chính Đấng Phục sinh, thế nhưng dường như tâm trí các môn đệ vẫn chưa được an bình. Lý do có lẽ do quá ngỡ ngàng, quá bất ngờ và xúc động cũng như có cả sự hoài nghi ngờ vực nữa. Chính vì thế Chúa Giêsu Phục sinh đã kiện toàn niềm tin cho các ông khi chính Người cho các ông xem những dấu đinh ở tay chân và cạnh sườn. Nhận được lời chúc Bình an, xem các dấu đinh như là bằng chứng xác thực nhất về việc Thầy các ông đã chết nay đang sống và hiện diện trước mặt các ông, các môn đệ giờ đây không còn hoài nghi nữa, các ông xác tín mạnh mẽ và tràn đầy niềm vui trong Chúa. Tuy thế, vẫn ngoại trừ một người, đó là Tôma.
Tôma được biết đến như là "ông tổ của thuyết duy thực nghiệm" : cái gì chỉ được xem là chân lý khi nó được kiểm nghiệm, cân đong, đo, đếm chính xác. Khi được các bạn đồng môn báo tin rằng họ đã được thấy Chúa, Tôma liền áp dụng ngay lý thuyết thực nghiệm của mình : "Nếu tôi không... tôi chả tin". Đó cũng là lý do cho lần hiện ra thứ hai của Chúa Phục Sinh. Vẫn là câu chúc Bình an của Đấng Phục Sinh rồi sau đó là việc Chúa đồng ý cho Tôma kiểm nghiệm "học thuyết" của mình để truy tìm chân lý : Hãy đặt. Hãy nhìn. Hãy đưa tay đặt cạnh sườn.
Không biết Tôma có dám kiểm nghiệm không, tác giả Tin mừng không nói nhưng đổi lại là phản ứng tức thời của Tôma là thay đổi hẳn thái độ hoài nghi, thay vào đó là một lời tuyên xưng niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa. Lời tuyên xưng danh hiệu Thiên Chúa của Chúa Giêsu- một danh hiệu độc nhất vô nhị trong Tin mừng lại được dành cho Tôma - kẻ hoài nghi: "Lạy Chúa của con! Lạy Thiên Chúa của con!".
Chúa Phục Sinh thông ban Thần khí để các môn đệ cũng được hiệp thông với Chúa trong việc loan báo sứ mạng tha thứ và hoà giải giữa Thiên Chúa với con người. Từ nay, chính các ông chứ không ai khác sẽ là những chứng nhân Tin mừng Phục sinh cho toàn cõi địa cầu. Chúa Giêsu đảm bảo sự hiện diện với các ông cho đến giờ tận cùng.
Chúa Phục Sinh kết thúc bằng một lời hứa "Phúc cho những ai không thấy mà tin". Đây chính là lời hứa cho các môn đệ tương lai trong đó có chúng ta. Như thế, bước theo Chúa Kytô Phục Sinh, loan báo tin mừng Phục Sinh cho hết mọi người, đó còn là sứ mệnh của tất cả chúng ta - những người "không thấy mà tin". Một sự bước đi trong niềm tin, trong lời hứa của Chúa Phục sinh đã được thánh Phêrô diễn tả rất tuyệt vời : "Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang" (1 Pr 1, 8). Chúng ta còn sợ gì để ngại bước dấn thân?
Xin Chúa Kytô Phục sinh giúp mỗi người chúng ta cảm nếm được niềm vui Phục sinh để, như các môn đệ xưa, hăng hái ra đi rao giảng tin vui Phục sinh cho khắp nhân trần ngõ hầu toàn thể trái đất này chung lời ngợi khen và cảm tạ tình Chúa yêu thương trong ánh sáng huy hoàng của niềm vui sống lại mai sau.
Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb
Ông Tô-ma là một người có óc thực tế, có vẻ chậm hiểu và chậm tin hơn các môn đệ khác. Điều đó cũng đúng và dễ hiểu thôi. Ông có đủ lý do để nghi ngờ, vì ông chưa thấy Chúa sống lại rõ ràng như các môn đệ khác. Và sự kiện ông đòi chính mình phải kiểm chứng mới tin lại có lợi cho chúng ta, và là dịp khiến Chúa Giêsu liên tưởng tới đông đảo những Ki-tô hữu, từ đó cho đến ngày cánh chung, sẽ tin vào Ngài. Chúa chúc phúc cho họ, vì họ là những người, dù không thấy tận mắt sự kiện phuc sinh nhưng vẫn tin vào Ngài : "Phúc cho những ai không thấy mà tin". Lời Chúa Giêsu trên đây được coi là mối phúc thứ chín trong đời mỗi Ki-tô hữu. Chúng ta phải cám ơn ông Tô-ma, chính vì thái độ thực tế của ông mà chúng ta được thêm một lần Chúa Ki-tô Phục Sinh hiện ra để minh chứng Ngài đã sống lại, và ban cho chúng ta, qua Tô-ma, một mối phúc thật khác là "phúc thật đức tin".
Một điều lý thú nữa trong bài Tin mừng hôm nay, đó là lời chào và cũng là lời cầu chúc của Chúa Ki-tô Phục Sinh cho các môn đệ : "Bình an cho anh em". Lời cầu chúc này được Chúa nói tới ba lần, đối với các môn đệ lúc ấy thật ý nghĩa và cần thiết. Còn gì vui mừng và sung sướng hơn họ nữa không ? Họ được gặp lại người thân yêu nhất vừa mời chết. Họ được thấy tận mắt Thầy của họ, được nghe tận tai tiếng nói của Thầy. Thầy của họ đã sống lại thật rồi và còn được Thầy ban cho một món quà mà họ đang khao khát nhất, đang cần nhất, đó là "bình an".
Món quà ấy Chúa cũng dành cho mỗi người chúng ta hôm nay. Bởi vì Chúa quá hiểu tâm lý con người nhân loại. Chúa quá hiểu cục diện thế giới này, ít khi có bình an, lúc nào cũng đầy những bất hòa, bất thuận, chia rẽ, xô xát, đố kỵ, ích kỷ, nghi ngờ, giả dối...nên ai cũng muốn xin được hai chữ "bình an". Có hiểu như thế chúng ta mới thấy lời chúc bình an của Chúa thật ý nghĩa và là món quà quý giá Chúa dành cho các môn đệ xưa kia và mỗi người chúng ta hôm nay.
Anh chị em hãy hồi tưởng lại cuộc đời mình xem : có phải anh chị em rất cần sự bình an không ? Có lần người ta hỏi ông Đan-tê, một đại thi hào của nước Ý rằng : "Điều ông mong mỏi và tìm kiếm nhất trong cuộc đời là gì ?". Bậc vĩ nhân đã trả lời rằng : "Tôi vẫn luôn đi tìm kiếm điều mà bất cứ ai cũng tìm kiếm, đó là sự bình an". Chúng ta cần và chúng ta tìm kiếm sự bình an, là bởi vì cuộc sống của chúng ta lúc nào cũng đầy những lo âu và phức tạp về bản thân mình, về gia đình mình và xã hội chung quanh...luôn gây cho chúng ta những bất an.
Có khi chúng ta muốn yên ổn mà không được, vì cây muốn lặng mà gió chẳng dừng. Không cần nói đâu xa, ngay trong gia đình chúng ta cũng đầy những ngột ngạt, lườm nguýt, hành tỏi, xích mích, tranh giành, lừa dối nhau, nghi ngờ nhau...khi thì chiến tranh lạnh khi thì chiến tranh nóng, mạnh ai nấy sống. Thậm chí có những người chỉ muốn sống ở những nơi khác mà không muốn về nhà mình. Chính vì thế mỗi người chúng ta, mỗi người trong gia đình, cần suy nghĩ xem : tại sao mình không có bình an, lý do là bởi ai, bởi đâu ? Và chính mình có là nguyên nhân gây bất an cho gia đình cho những người chung quanh không ?
Người ta nói : "Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết oan", "hai con voi đánh nhau, dẫm nát đám cỏ non", nghĩa là chúng ta là những người lớn, là cha mẹ mà cãi nhau, oán thù nhau, thì ảnh hưởng tai hại không nhỏ cho chính những con cái trong nhà, cho anh em hàng xóm chung quanh và xã hội. Xin mọi người hãy suy nghĩ hai chữ "bình an" hôm nay để chính mình sống bình an và giúp người khác cùng sống bình an.
Tất cả chúng ta, ai ai cũng cần sự bình an, có khi còn cần hơn cả cơm ăn áo mặc nữa. Vì thế, Chúa luôn luôn muốn ban bình an cho chúng ta. Giáo Hội cũng mong muốn như vậy. Cho nên mỗi khi tham dự thánh lễ, linh mục thay mặt Chúa cũng như Giáo Hội cầu chúc chúng ta " "Bình an của Chúa ở cùng anh chị em", rồi linh mục bảo chúng ta : "Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau". Vâng, đúng vậy, có bình an của Chúa ở nơi mình, chúng ta mới có bình an để chia sẻ cho nhau.
Bình an là một hồng ân Chúa ban và cũng là một trách nhiệm. Không phải chúng ta chỉ cầu khẩn tìm kiếm bình an cho mình mà còn phải là "khí cụ bình an của Chúa", nghĩa là góp phần tạo nên bình an cho mọi người và cho toàn xã hội. Xin nhớ rằng : nếu chúng ta không chia sẻ bình an thì thôi nhưng đừng bao giờ làm mất bình an của người khác.
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Chúa phục sinh đã hiện ra với các môn đệ vào ngày thứ nhất trong tuần khi các môn đệ còn đang hoang mang, sợ hãi và mệt mỏi vì biến cố Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá. Chúa hiện ra để thánh hoá ngày thứ nhất là ngày Chúa nhật, ngày của Thiên Chúa. Lần hiện ra này không có Tôma. Tám ngày sau, Chúa sống lại hiện ra với các môn đệ. Hôm nay có cả Tôma. Chúa thánh hoá ngày hôm đó. Và cả hai lần Chúa phục sinh đều ban bình an cho các môn đệ.Sự bình an này làm các môn đệ bình tĩnh và hân hoan...
Đọc lại Tin Mừng, Chúng ta hiểu ngay các môn đệ lúc đó đang hết sức sợ sệt, âu lo vì Thầy của mình đã chết. Họ cứ tưởng Thầy mình không còn nữa. Do đó, các môn đệ mỗi lúc mỗi cảm thấy đau khổ. Giữa lúc đó, Chúa phục sinh xuất hiện để củng cố niềm tin cho các mônđệ về việc Chúa sống lại. Lần thứ nhất, Chúa chúc bình an cho các môn đệ, rồi cho các ông xem các dấu đinh ở chân tay, ở cạnh sườn của Người ( Ga 20, 20 ) và các môn đệ hết sức vui mừng khi được xem thấy Chúa ( Ga 20, 20 ).Chúa sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng. Chúa ban Thánh Thần cho các ông để các ông tha tội cho mọi người. Đây là quyền "cầm buộc và tháo cởi" đã được Chúa Giêsu ban cho Phêrô (Mt 16, 19 ) và nhóm mười hai ( Mt 18, 18 ). Chúa củng cố niềm tin cho cộng đoàn các môn đệ. Sở dĩ, Chúa phục sinh hiện ra liên tiếp hai Chúa nhật liền là để minh chứng cho các môn đệ Ngài đã sống lại thật theo như lời Kinh Thánh viết:" Cứ phá hủy đền thờ nội ba ngày Ta sẽ xây dựng lại ". Chúa sống lại vừa củng cố niềm tin, vừa han gắn những chia rẽ nội bộ của các môn đệ và Ngài gầy dựng Giáo Hội của Ngài ở dưới trần gian này. Giáo Hội là Chúa Giêsu và Giáo Hội cũng là chính các tông đồ." Chúng tôi đã nhìn thấy Ngài ". Cái trớ trêu nằm ở chỗ lần Chúa hiện ra thứ nhất không có môn đệ Tôma. Nhưng rồi tám ngày sau, cái ngày Tôma cứ khăng khăng nói " Nếu tôi không thấy Ngài, nếu tôi không được xỏ ngón tay vào lỗ đinh nơi chân tay, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không tin"...Đây là thái độ rất thực tế của Tôma. Nếu ông không nhìn thấy Thầy Giêsu, tay ông không sờ đụng được vào con người của Chúa phục sinh. Ông nhất mực không tin. Hôm nay, Chúa phục sinh lại hiện ra với các môn đệ khi cửa các ông vẫn cài kín vì sợ người Do Thái. Chúa xuất hiện trước mặt các ông và ban bình an cho các ông. Đặc biệt, hiểu rõ tấm lòng của Tôma, Chúa lưu tâm tới ông ngay. Ngài thỏa mãn những ước vọng của Tôma như cho ông được nhìn thấy Chúa và có thể sờ đụng vào Chúa. Đứng trước mặt Chúa phục sinh, Tôma quên hết, Tôma không dám nghi ngờ, Tôma không dám đòi thọc ngón tay vào các lỗ đinh và thọc bàn tay vào cạnh sườn của Chúa. Tôma như thấy mình được mạnh mẽ, đức tin của ông bật sáng và ông tuyên xưng:" Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con"( Ga 20, 28 ). Đây là lời tuyên tín cao cả nhất của Tôma. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, với sự phục sinh của Ngài, Ngài đã được tôn vinh bên cạnh Chúa Cha:" Khi các ngươi treo Ta lên, các ngươi mới biết Ta là ai"( Ga 8, 28 ). " Ta là Thiên Chúa thật và là sự sống đời đời"( 1 Ga 5, 20 ).
Nhân loại sống cách Chúa 2006 năm nhưng qua Tôma Chúa Giêsu như muốn nhắn gửi tới mọi người:" Vì đã thấy Thầy, nên con tin. Phúc cho những người đã không thấy mà tin"
( Ga 20, 29 ). Thực tế, chúng ta rất hạnh phúc vì chúng ta không được diễm phúc như các môn đệ nhìn thấy Chúa sống lại, nghe lời Chúa, cùng ăn cùng sinh hoạt với Chúa và ân cần ghi nhận những tâm sự, những nhắn nhủ của Chúa. Lời tuyên xưng của Tôma vẫn là gương mẫu cho mọi người có lòng tin:" Lạy Chúa của con. Lạy Thiên Chúa của con". Lời tuyên tín của Tôma củng cố đức tin cho mỗi người chúng ta vì chúng ta sống cách Chúa quá xa, nhưng chúng ta tin vào lời chứng của các môn đệ, của Tôma, của sách Thánh, của Giáo Hội. Tuy, mắt xác thịt chúng ta không thấy được Chúa, nhưng đức tin của chúng ta trở nên trọn vẹn, trở nên hoàn hảo như Tôma. Tôma hiểu chậm về Chúa, nhưng khi Ông đã hiểu, Ông tin một cách trọn vẹn. Và đây là tuyệt điểm của Tin Mừng Gioan. Sự phủ phục của Tôma trước sự kiện hiển nhiên Chúa đang hiện diện sau khi sống lại trước mặt ông là bằng chứng hùng hồn về lòng tin cao độ của Tôma. Đúng là Tôma không biết làm gì hơn là xác nhận lời tuyên xưng về Chúa Giêsu như Phêrô đã tuyên xưng:" Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống"( Mt 16, 16 ). Vâng, Giáo Hội của Chúa Kitô là một cuộc hành trình đức tin. Mỗi thành phần dân Chúa phải sống Lời Chúa, phải học hỏi Lời Chúa và một khi tin, người Kitô hữu phải làm chứng cho Chúa phục sinh như các môn đệ và các tông đồ khi xưa.
Lạy Chúa Giêsu, xin củng cố lòng tin cho chúng con để chúng con mạnh mẽ tuyên xưng Chúa và làm chứng cho Chúa như các môn đệ trung kiên của Chúa.
Lm Nguyễn Hưng Lợi DCCT
BÌNH AN CHO CÁC CON
Ga 20, 19-31
Năm 1899, hai nước Chile và Argentina đã đưa đến oán thù xuýt đưa đến cuộc chiến tranh ác liệt. Sự chuẩn bị kéo dài cho tới năm 1900, hai bên đã sẵn sàng giao tranh với nhau.
Trong Tuần thánh năm ấy, Đức Giám Mục Buenos Aires của Argentina tha thiết kêu gọi đôi thôi chiến tranh để tái lập nền hòa bình giữa hai nước. Sứ điệp của ngài lập tức được truyền sang nước Chile và các Đức Giám Mục của nước Chile cũng đồng tình hưởng ứng nhiệt liệt lời kêu gọi hòa bình. Thế rồi hai Giáo Hội của hai nước đã áp lực để hai chính phủ ngồi lại với nhau qua trung gian của vua Edward thứ 7 của Anh quốc.
Không mấy chốc, một hoà ước đã được ký kết. Để nói lên thiện chí xây dựng hòa bình, quân đội của hai nước đã gom góp chung một số vũ khí để đúc thành một bức tượng khổng lồ Chúa Giêsu hòa bình cao 48 thước. Với cánh tay phải mở rộng ban phép lành cho hai nước, còn tay trái cầm thánh giá phục sinh. Tượng được xe lửa chuyên chở đến chân núi để chính phủ hai nước trục lên đặt trên đỉnh núi Andres, nơi đã gây ra cuộc xung đột giữa hai quốc gia. Dưới chân tượng đề hàng chữ: Bình an cho các con, để chính Chúa chứng giám cho nền hòa bình miên viễn của họ. Trên mặt khác của tượng, ghi lời Thu của thành Ephêsô như sau :Chính Ngài là sự bình an của chúng ta. Ngài đã làm cho sự chia rẽ của đôi bên nên một.
Người trần gian mỗi khi đem được hòa bình trở lại thì người ta ca tụng và trao thưởng cho một giải thưởng Hoà Bình, như năm 1990, Tổng Thổng Gorbachow của Liên Sô được thế giới tự do ban tặng Giải thưởng Hòa Bình trong việc đạp đổ được bức tường Bá Linh. Mẹ Têrêsa cũng được Thế Giới tự do trao tặng giải thưởng Hòa bình, vì Mẹ đã có công trong việc xóa bỏ nạn đói trên thế giới, đã khiến những nước giầu có để ý đến người nghèo. Đức Giám Mục Buenos Aires của Argentina cũng đáng được lãnh giải thưởng Hòa Bình giữa hai nước hiềm khích. Và cả những người khác nữa đã đem vãn hồi được sự hòa bình trong tâm hồn của mỗi người chúng ta. Chúng ta chỉ thực sự có hòa bình khi những bức tường xấu xa, tội lỗi, căm thù...... được ngăn chặn lại.
Chúa Giêsu sau khi đã chiến thắng thần chết, Ngài không con bị kiềm chế trong xác thịt nữa, ngài đã hiện đến với nhiều người để loan báo sự vinh thắng và ban bình an cho nhiều người, để những ai đi theo đường chân lý và lời mời gọi của Ngài thì sẽ được bình an, được chiến thắng.
Phúc cho ai có thiện chí gây tạo hòa bình.
Lm.Thu Băng, CMC
KÍNH CHÚA TÌNH THƯƠNG
Ga 20, 19-31
Chúa Nhật thứ hai sau Lễ Phục Sinh được mệnh danh là Lễ Kính Chúa Tình Thương, vì theo nguồn mạc khải cho Thánh Nữ Faustina, thì Chúa đã hiện ra với Chị Thánh, bày tỏ lòng Chúa khát khao được lập Lễ Kính Tình Thương Chúa vào Chúa Nhật thứ hai trong Mùa Phục Sinh. Tuy lễ này chưa được Giáo Hội chính thức thành lập, nhưng có nhiều Hội Dòng và cộng đồng đã đáp lại lòng Chúa khát mong, dùng ngày Chúa Nhật này để dâng Thánh Lễ biệt kính Tình Thương Chúa.
I. Thiên Chúa là Tình yêu thương
Thánh Sử Gioan, một vị Tông Đồ được Chúa yêu thương, ngài đã được Chúa cho cảm nghiệm và xác tín Tình Yêu Thương của Chúa, nên Ngài đã quả quyết rất đúng khi nói với chúng ta rằng: " Thiên Chúa là Tình Yêu" (1 Jn 4:16). Vì thế, Thánh Nhân đã khuyên chúng ta: "Hỡi các con yêu dấu, nếu Thiên Chúa thương yêu chúng ta như vậy, thì chúng ta cũng phải thương yêu lẫn nhau. Chẳng ai đã được xem thấy Thiên Chúa, nhưng nếu chúng ta thương yêu nhau thì Thiên Chúa ở cùng chúng ta và tình yêu thương của Người được nên hoàn hảo nơi chúng ta" (1 Jn 4:11-12).
Tất cả cuộc đời Chúa Cứu Thế, từ khi nhập thể làm người trong lòng Mẹ, sinh ra trên trần gian và sống một cuộc sống như mọi người chúng ta, để cùng chia sẻ thân phận con người, cảm thông mọi yếu đuối, đồng chung lao lực vất vả của kiếp sống nhân sinh như chúng ta. Rồi trong ba năm công khai rao giảng Tin Mừng, Chúa đã chỉ biết thi thố tình yêu thương, ban ơn giáng phúc cho nhân loại với bao nhiêu phép lạ, để cứu chữa vô số bệnh nhân, an ủi những người sầu khổ, xoa dịu vết thương đau của muôn người; nhất là Chúa đã dùng lời giảng dạy để mạc khải giáo lý Tình Thương của Chúa, chỉ cho chúng ta con đường đưa tới Ơn Cứu Độ và hạnh phúc vĩnh cửu. Hơn nữa, Chúa còn bày tỏ tình Chúa yêu thương chúng ta bằng cách tự nguyện lãnh nhận cuộc khổ nạn và cái chết đẫm máu vì yêu chúng ta.
II. Những dụ ngôn tỏ bày tình thương
Trong ba năm công khai rao giảng Tin Mừng, Chúa đã dùng nhiều dụ ngôn để minh xác cho những kẻ kiêu căng luôn rình mò, bắt bẻ, hạch xách Chúa thấy rõ lập trường của Người; đồng thời, bày tỏ cho nhân loại biết tin tưởng vào tình thương yêu của Chúa dành cho họ: Khi thì Chúa nói tới dụ ngôn con chiên lạc, với thái độ yêu thương săn sóc và vui mừng tìm được, âu yếm vác lên vai đem về nhà. Lúc khác, Chúa lại nói tới niềm vui của người thiếu phụ tìm lại được đồng bạc kỷ niệm qúi giá đã bị mất. Lần khác nữa, Chúa lại đề cập đến dụ ngôn người con hoang đàng, sau khi phung phá hết gia tài, ăn chơi trụy lạc, hồi tỉnh trở về, đã được Cha Hiền thương yêu tha thứ, mở tiệc ăn mừng... Tất cả đều tỏ cho chúng ta thấy lòng Chúa yêu thương chúng ta. Dù chúng ta có tội lỗi, ngỗ nghịch, vô ơn bội nghĩa đến đâu, Chúa cũng vốn sẵn lòng yêu thương tha thứ, nếu chúng ta biết sám hối trở về Chúa.
Ai trong chúng ta dám tự hào chúng ta là những người trong sạch thánh thiện; mà trái lại, tất cả chúng ta đều phải thú nhận mình là tội nhân, đã bao lần sa ngã, yếu đuối; đã bao lần bội phản, vô ơn bất nghĩa với Chúa, nhưng Chúa vốn luôn yêu thương tha thứ. Chúng ta cần xác tín rằng: Chúng ta càng khốn nạn tội lỗi, Chúa càng có cơ hội để thi thố tình thương yêu tha thứ. Mục đích Chúa xuống trần gian cũng là để cứu chuộc chúng ta, để bày tỏ lòng nhân từ thương yêu chúng ta. Chính Chúa đã quả quyết: " Cha không đến để kêu gọi người công chính, nhưng để cứu vớt những tội nhân hối cải trở về" (Mt 9:13). Chúa còn phán với những người Pharisieu là những kẻ kiêu căng luôn chống đối Chúa lời này: "Các ông hãy đi học cho biết ý nghĩa lời này: Ta muốn lòng nhân từ chứ không muốn hy lễ" (Mt 9:13).
III. Nhiệm tích tình yêu thương
Sau khi cứu chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi và quyền thống trị hỏa ngục, phục hồi cho chúng ta quyền làm con cái Chúa, qua ơn chúng ta được khi lãnh nhận Nhiệm Tích Thánh Tẩy, nhờ công nghiệp Cuộc Tử Nạn và sự chết đẫm máu của Chúa trên Thập Giá.
Chúa quá biết bản tính nhân loại chúng ta yếu đuối hay sa đi ngã lại, không thể đứng vững mãi trong tình trạng ơn thánh, có nghĩa với Chúa, nên Tình Thương Chúa đã sáng nghĩ ra một phương thế thần diệu, đó là Nhiệm Tích Xá Giải. Mỗi khi chúng ta sa ngã phạm tội phản nghịch Chúa, nếu chúng ta biết hối lỗi ăn năn, trở về làm hòa với Chúa, Chúa sẵn sàng tha thứ và quên đi tất cả mọi lỗi lầm, dường như chúng ta chưa bao giờ xúc phạm đến Chúa. Mỗi khi chúng ta phạm tội trọng là chúng ta đã chết phần linh hồn, trở nên kẻ nô lệ tội lỗi và chịu quyền thống trị của quỉ dữ hỏa ngục, thì nhờ Nhiệm Tích Xá Giải linh hồn chúng ta được phục sinh trong ơn thánh Chúa, chúng ta lại được phục hồi ơn làm con cái Chúa.
Nhiệm Tích Xá Giải là Nhiệm Tích Tình Thương của Chúa. Chúa chờ đợi chúng ta nơi đây, đón tiếp chúng ta trở lại giao hòa với Chúa, để được hưởng tình yêu thương lòng nhân từ của Chúa. Nơi Tòa Xá Giải, Chúa ẩn thân nơi vị đại diện Ngài, để:
Như Người Cha Nhân Từ, hằng khát khao chờ đợi, sẵn lòng thương yêu tha thứ, đón nhận con cái hối lỗi trở về.
Như Vị Thần Y, chữa lành mọi bệnh tật linh hồn, chỉ dẫn phương thế ngăn ngừa tội lỗi, tăng cường sinh lực, củng cố bình an tâm hồn, để con cái biết sống ngoan thảo hơn.
Như Vị Thẩm Phán, phân định tội phúc, tha thứ hay cầm buộc, nhưng không theo đức công bằng mà là theo lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa.
Vậy, như lời đáp ca chúng ta vừa lặp đi lặp lại: " Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở!" Chúng ta hãy cảm tạ tình yêu thương hải hà của Chúa đã dành cho chúng ta, để chúng ta biết sống xứng đáng ơn Chúa ban.
IV. Chia sẻ lòng nhân từ của Chúa
Đứng trước một tin buồn: Jacques, cậu con trai yêu qúi vừa tử trận, nữ Bá Tước Littry vô cùng đau đớn và cảm thấy mất hết nghị lực, buồn nản đến tuyệt vọng; tuy nhiên chấn tĩnh lại, bà vẫn cố gắng tận tâm trong công việc phục vụ các bệnh nhân tại bệnh viện do chính bà sáng lập từ năm 1870, ở thung lũng Marne, xứ Epermy.
Ngày nọ, một thương binh người Đức được chở đến bệnh viện. Dù y thuộc thành phần quân đội thù nghịch, đã giết chết con trai của Bá Tước, nhưng bà vẫn tiếp nhận cách vui vẻ. Khi đến xem xét đồ đạc y phục người thương binh, bà bắt gặp chiếc ví và cái đồng hồ của cậu Jacques trong túi áo của tên lính Đức ấy. Vừa bàng hoàng vừa tức giận, bà Bá Tước chỉ biết thốt lên: " Đúng, đây là tên lính đã giết chết con trai tôi!" Nhưng rồi, một mảnh giấy trong chiếc ví của Jacques rơi xuống. Bà Littry vội cúi xuống nhặt lên đọc, một hàng chữ đã làm rung động trái tim bà: "Mẹ yêu qúi, con luôn nhớ đến mẹ và cầu nguyện cho mẹ. Nếu chẳng may con bị tử trận, xin mẹ đừng quá đau buồn, nhưng hãy can đảm, quảng đại chịu đựng đau khổ để cầu nguyện cho con..."
Sau một hồi xúc động, bà Littry cúi xuống tiếp tục săn sóc tên lính Đức cách tận tình. Trên mặt y những giọt nước mắt của bà Bá Tước rơi xuống, nóng hổi, lóng lánh như những hạt sương mai!
Kết Luận
Để đáp lại tình yêu thương của Chúa, chúng ta hãy mặc lấy, hãy thấm nhuần, hãy biến đổi con người chúng ta trở nên Hiện Thân của lòng nhân từ, yêu thương và tha thứ của Chúa đối với tha nhân... Trước hết, nơi anh em cùng lý tưởng trong Hội Dòng, các phần tử thân yêu trong gia đình, các người thuộc quyền chúng ta đang phục vụ, và mọi người chúng ta giao tiếp, để tất cả đều có thể nhận ra chúng ta đích thực là Hiện Thân Lòng Nhân Từ của Chúa Kitô, Đấng đã chết vì yêu thương chúng ta.
Xin Mẹ Maria, Mẹ đã đồng công với Chúa Kitô thể hiện tình yêu thương tha thứ đối với toàn thể nhân loại, xin Mẹ dạy chúng biết noi gương Mẹ, cộng tác với Chúa trong công cuộc cứu độ Chúa đã thực hiện.
Lm. Minh Vận, CMC
LIÊN HỆ CHIỀU NGANG CỦA ĐỨC TIN
Ga 20:19-31
Thường người ta tìm đến với nhau vì hai lý do. Một là cùng chung một đối tượng, một mục đích như cùng đi xuống đường để đòi hỏi một quyền lợi hay phản đối một điều gì. Hai là cùng chia sẻ một cảm tình như lo sợ, vui mừng.. chẳng hạn đi dự đám cưới để chia vui, dự đám tang để chia buồn. Chính do cái tâm trạng sợ hãi mà các tông đồ cũng đã tụ họp lại với nhau. Vì sợ người Do Thái trầm nã như Phúc Am hôm nay kể lại mà các tông đồ tụ họp lại trong phòng lầu tại Giêrusalem. Họ đóng cửa kín mít và chót then bên trong. Trong cái cảnh tang thương bi đát trước cuộc tử nạn của Thày mình, các tông đồ tụ họp nhau lại cầu nguyện để an ủi, nâng đỡ nhau. Rồi Chúa hiện ra trước mắt các ông để củng cố đức tin của các ông.
Cái khuyết điểm của Tô-ma là ông đã tách biệt ra khỏi các bạn đồng chí hướng. Do đó đức tin của ông đã bị dập tắt : Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi nhất định không tin (Ga 20:25). May phúc cho ông là chính Chúa đã đích thân hiện ra để phục hồi đức tin của ông : Lạy Chúa của con. Lạy Thiên Chúa của con (Ga 20:28). Cộng đồng Ki-tô giáo hay chặt chẽ hơn là cộng đồng Công giáo được gọi là cộng đồng đức tin, gồm những người cùng chia sẻ một niềm tin và cùng chí hướng. Nếu muốn giữ vững đức tin, người ta cần ở trong cộng đồng, thờ phượng và sinh hoạt với cộng đồng đức tin. Khi người ta liên kết với cộng đồng đức tin, thờ phượng với cộng đồng đức tin, đức tin của người ta sẽ được củng cố. Trái lại nếu đức tin của ta vững mạnh, ta có thể giúp làm tăng triển đức tin của người yếu đức tin.
Nếu tách biệt ra khỏi cộng đồng đức tin, đức tin của người tín hữu có thể bị lung lạc, khi bị gièm pha và tấn công bởi những người không cùng một đức tin. Đức tin của người công giáo dựa trên hai chiều : chiều dọc và chiều ngang. Theo chiều dọc thì Thiên Chúa ở trên mời gọi ta đến đời sống đức tin và ta đáp trả. Còn đức tin dựa theo chiều ngang có nghĩa là ta cần dựa vào nhau, vào cha mẹ, họ hàng bạn hữu để giúp ta duy trì và phát triển đức tin. Ta cần tìm đến những người có đức tin mạnh, những người có tâm hồn đạo hạnh, hay người đỡ đầu để hun đúc lại đức tin của mình. Ngoài ra đức tin cần phải được thực hành. Nếu không thì như Thánh Gia-cô-bê quả quyết : Đức tin không có việc làm, là đức tin chết (Gc 2:26). Vì thế những người chủ trương giữ đại tại tâm là lừa dối mình.
Để áp dụng thực hành, người ta cần biểu lộ đưc tin bằng những việc cầu nguyện, dự le, hi sinh, bác ái. Người ta cần biểu lộ đức tin bằng những cử chỉ đạo hạnh như qùi gối, chắp tay, cúi đầu.. để khơi dạy cái tâm tình đạo đức bên trong. Người ta cũng cần những biểu tượng bên ngoài để nuôi dưỡng và củng cố đức tin. Nói như vậy có nghĩa là ta cần có tượng ảnh đạo treo trong nhà, hay trong phòng để nhắc nhở cho mình về sự hiện diện của Chúa, Mẹ Maria và các thánh.
Nhà thờ giáo xứ là biểu hiệu đức tin và là trung tâm điểm của đời sống đức tin. Sau khi sinh ra, ta được mang đến nhà thờ để chịu Phép Rửa tội. Ta Rước lễ lần đầu ở trong nhà thờ. Ta chịu Phép Thêm sức cũng ở trong nhà thờ xứ đạo Và ta lãnh nhận Bí Tích Hôn Phối cũng trong nhà thờ. Khi nằm xuống vĩnh viễn, thân xác ta còn được mang đến nhà thờ để được cử hành lễ an táng. Đến nhà thờ cầu nguyện và dâng thánh lễ là cách biểu lộ đức tin một cách cụ thể nhất. Như vậy cái đức tin của người công giáo được hỗ trợ một cách tối đa bằng việc bàu cử của Mẹ Maria và các thánh, bằng lời cầu nguyện và gương sáng của người tín hữu khác. Vậy không tìm đến sức hỗ trợ, tức là người ta tự cô lập hoá đức tin của mình.
Lm Trần Bình Trọng, USA
PHỤC SINH KHÔNG GIẾT CHẾT THẬP GIÁ
Ga 20,19-31
Có lần, một linh mục chia sẻ: Có một anh sinh viên gởi thư và nêu thắc mắc bao gồm một nỗi khổ rất lớn, liên quan dữ dội đến đức tin. Anh sinh viên hỏi rằng, "Thưa Cha, chỉ còn có ba tháng nữa, con sẽ tốt nghiệp đại học. Dù lúc này, ba con rất yếu, nhưng con cầu xin Chúa cho ba con được sống cho tới ngày con cầm được mảnh bằng tốt nghiệp về khoe với ba: "Thưa ba, đây là bằng tốt nghiệp của con". Cha có biết không, cái bằng tốt nghiệp đó, con đã phải chờ phải đợi biết là chừng nào. Ba con cũng thế, đêm ngày mong mỏi, cứ mong mỏi, cứ chờ đợi làm sao để nhìn thấy con tốt nghiệp đại học, y như là khi con đậu đại học là chính lúc ba con đậu đại học vậy. Cũng đúng thôi cha ạ. Vì mảnh bằng tốt nghiệp, nếu con đạt được thì đâu chỉ của riêng con mà là của cả hai cha con cộng lại. Đó là công lao nuôi dưỡng của ba con hai mươi mấy năm trời và công lao học tập miệt mài của con bao nhiêu năm mới có nó, vậy mà Chúa không nghe lời con xin. Cách nay một tuần, Chúa đã cất ba con. Ba con chết mà không nhìn thấy kết quả do mình tạo ra, và ngày đêm mong mỏi. Sao Chúa lại làm như vậy? Sao vậy cha?"
Và trong lá thư gởi theo địa chỉ mà anh sinh viên cho biết, vị linh mục trả lời:"Tôi cũng không biết nữa, không hiểu vì sao Thiên Chúa lại làm như vậy. Nhưng chắc Chúa có lý do của Ngài. Đọc thư anh, tôi thông cảm với anh, thông cảm nhiều lắm, vì tôi cũng đã từng gặp đau khổ tương tự như anh. Tôi cầu nguyện cho anh và dâng những đau khổ, dâng sự đồng cảm của hai chúng ta, để Chúa tìm cách bù cho anh trong kết quả thi tốt nghiệp sắp tới. Điều tôi quan tâm hơn hết, đó là anh còn tin Chúa nữa hay không?".
"Anh có còn tin Chúa nữa hay không?". Tôi nghĩ rằng, lời hỏi đó cũng rất cần thiết cho bạn và tôi. Có những lúc đau khổ tột cùng, những lúc tưởng như cuộc đời mình bế tắt
, chính những lúc như thế, chúng ta có còn tin Chúa nữa hay không?
Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay sẽ là câu trả lời quí giá về nỗi đau trong cuộc đời của bạn và của tôi. Vì hiểu được ý nghĩa của Tin Mừng hôm nay, sẽ giúp ta vững tin hơn. Chỉ với một bài Tin Mừng không dài lắm, nhưng thánh Gioan có đến hai lần kể lại việc Chúa Phục sinh hiện ra với các môn đệ. Có lẽ bạn sẽ thắc mắc: hôm nay Giáo Hội đang cử hành mầu nhiệm Phục sinh là mầu nhiệm của niềm vui, một niềm vui lớn. Đàng khác bài Tin Mừng kể lại việc Chúa Phục sinh hiện ra với các môn đệ, lại là một niềm vui không nhỏ. Vậy mà từ đầu tới giờ, tôi chỉ toàn nói đến đau khổ. Vì sao lại nói đến đau khổ giữa mùa Phục sinh? Là bởi vì Chúa không tự nhiên mà phục sinh. Nhưng Chúa phục sinh từ trong đau khổ. Chúa phục sinh từ trên thánh giá. Hôm nay, dù đã sống lại, đã chiến thắng khải hoàn, thân xác phục sinh chói ngời đã cùng quyền năng Thiên Chúa bước vào vô biên, bước vào vĩnh cửu
nhưng bây giờ hiện ra với các môn đệ, thân xác phục sinh rạng rỡ ấy vẫn còn y nguyên dấu của thập giá.
Cả hai lần trong bài Tin Mừng đều chứng minh Chúa hiện ra chỉ có cùng một kiểu như thế. Lần thứ nhất, thánh Gioan ghi nhận, ngay khi hiện ra" Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người". Bạn có biết điều gì trên tay và trên cạnh sườn mà Chúa cho xem vậy? Vì nơi ấy, dấu thập giá không bị phai nhòa. Trên đôi cánh tay ấy và trên cạnh sườn ấy, còn nguyên dấu tích của những cây đinh, của lưỡi đòng đâm thấu qua. Chỉ sau khi xem tay và cạnh sườn bị thương tích như thế, các môn đệ mới hết nghi ngờ, mới cảm thấy "vui mừng vì xem thấy Chúa". Như vậy dấu của thập giá là bảo đảm cho đức tin của các môn đệ.
Nhưng lần ấy, khi Chúa hiện ra, thánh Tôma không có mặt, nên thánh Tôma nhất quyết không tin. Bởi đó tám ngày sau, Chúa lại hiện ra một lần nữa, có mặt thánh Tôma. Lần này thái độ của Chúa mạnh hơn lần trước, dứt khoát hơn lần trước. Ngài không chỉ đưa tay và cạnh sườn cho xem, nhưng Chúa Giêsu Phục sinh còn lên tiếng nói: " Tôma, hãy xỏ ngón tay của con vào lổ đinh trên tay Thầy đây, hãy thọc bàn tay của con vào cạnh sườn của Thầy. Con đừng cứng lòng tin nữa, mà hãy tin". Ví dụ có một ngày nào Chúa hiện ra và cũng nói với bạn những lời mà Chúa đã từng nói với thánh Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, hãy thọc bàn tay con vào đây", bạn có còn dám nhìn Chúa nữa không? Chẳng những không dám nhìn, càng không dám đưa ngón tay đưa bàn tay, mà có khi run rẫy chết khiếp, bạc vía kinh hồn. Thánh Tôma cũng không hề là trường hợp ngoại lệ. Mới hôm nào dõng dạc tuyên bố: "Nếu tôi chưa xỏ ngón tay tôi vào lổ đinh của Chúa, nếu tôi chưa thọc bàn tay tôi vào cạnh sườn Người, tôi không tin". Tuyên bố mạnh mẽ là thế, kiên quyết là thế, dứt khoát là thế, nhưng bây giờ trước dấu thập giá còn in sâu một cách hùng hồn trên thân thể của Đấng Phục sinh, thánh Tôma đã phải cúi đầu tuyên xưng: "Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi". Một lần nữa, thánh Gioan lại cho thấy, dấu thập giá là bảo đảm cho đức tin của chúng ta.
Mà dấu thập giá là bảo đảm cho đức tin, nên trong mùa phục sinh, ta lại bàn đến vấn đề đau khổ, đó cũng là điều hợp lý. Chúa Phục sinh đã không tự xóa bỏ dấu vết đau khổ trên thân thể của mình. Trái lại, dấu vết của đau khổ, của thập giá vẫn còn trên thân thể sáng láng của Đấng Phục sinh, lại làm cho các môn đệ, dễ nhận ra đức tin, vững tin và được củng cố đức tin.
Người ta nói: " Lửa thử vàng, gian nan thử sức". Và tôi thêm, đối với người có đạo, đau khổ rèn luyện đức tin của họ. Đối với anh sinh viên, tôi tin rằng, nếu anh đọc và suy nghĩ Lời Chúa, suy nghĩ về cuộc đời của Chúa Kitô, về sự chết và sống lại của Ngài, chắc chắn anh sẽ vượt qua nỗi buồn mất cha, dù anh rất yêu cha của anh. Tôi cũng tin y như thế về các bạn và chính bản thân tôi. Nếu chúng ta để cho Lời Chúa thấm trong cuộc đời của mình, thì có nỗi đau nào bạn và tôi không vượt qua!
Mỗi người đều có nỗi buồn: gia đình đang sum họp, bỗng dưng người vợ hay người chồng phản bội, rẽ sang hướng khác. Gia đình đang sung túc, bỗng dưng một người thân ra đi vĩnh viễn, mà người thân đó có khi là cột trụ của đời sống, của kinh tế gia đình. Mất mát thật to, nỗi buồn càng lớn. Hay con đường tương lai của mình, hay sự thành công đang ở trước mặt, bỗng dưng một biến cố đau thương xảy đến, làm mất hết tất cả. Hay hy vọng đang ngời ngời sáng phía trước mặt, bỗng dưng mất mát người thân yêu nhất đời mình như trường hợp anh sinh viên kia
những lúc bi đát đến cùng cực ấy, bạn và tôi hãy nhớ lại lời vị linh mục hỏi chàng sinh viên kia:" Tôi có còn tin Chúa nữa hay không?".
Chúng ta rất may mắn vì được tôn thờ một Thiên Chúa đã từng biết đến đau khổ, và hôm nay, sau khi phục sinh, Chúa của chúng ta vẫn còn mang trên thân thể những lỗ gai nhọn đâm vào đầu, những lỗ đinh xuyên thủng bàn tay, bàn chân, và dấu của cạnh sườn bị lưỡi đòng đâm thấu.
Sau hết tôi muốn mời bạn cùng tôi dâng lời cầu nguyện, chỉ một lời cầu nguyện thôi nhưng bằng tất cả tình yêu thẳm sâu tận hồn chúng ta: " Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn vững tin vào Chúa".
Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
CHÚA NHẬT II PHỤC SINH
Ga 20,19-31
1. Thái độ của Tôma: đòi hỏi bằng chứng mới chịu tin
Bài Tin Mừng hôm nay nói đến thái độ của tông đồ Tôma. Ông đòi buộc phải thấy dấu đinh trong tay Đức Giêsu, xỏ ngón tay vào lỗ đinh ấy rồi đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài, thì ông mới tin. Lý trí thiên về thực nghiệm và có chiều hướng khoa học của ông đòi buộc ông phải làm như thế, nếu không, ông không thể chấp nhận rằng Đức Giêsu đã sống lại, vì việc sống lại quả hết sức khó tin. Nhưng rất có thể là sau khi được thỏa mãn những đòi hỏi ấy, Tôma xác tín việc Chúa sống lại hơn nhiều tông đồ khác. Người ta vẫn nói: « đại nghi thì đại ngộ» (nghi ngờ lớn thì giác ngộ lớn)! Các tông đồ khác - với bản tính đơn sơ, dễ tin hơn - không cảm thấy phải có những bằng chứng rõ ràng như Tôma mới tin được. Các ông chỉ dựa vào một số những biến cố thấy được nơi Thầy mình trước đây, như cuộc hiển dung trên núi Tabo, khả năng làm phép lạ như hóa bánh ra nhiều, làm sóng gió ngoài biển phải im lặng, thậm chí làm được cho kẻ chết sống lại nhiều lần, v.v... là các ông đã đủ để tin rồi.
Đòi hỏi hay không đòi hỏi bằng chứng để tin không phải là chuyện quan trọng. Điều này tùy thuộc vào bản tính Trời cho của mỗi người. Điều quan trọng là phải làm sao để tin cho chắc, tin cho vững, tin tới mức có thể dám dấn thân hết mình cho niềm tin ấy. Có những người rất dễ tin, vì thế niềm tin ấy không được xây dựng trên cơ sở vững chắc để có thể giúp họ dấn thân hết mình cho điều mình tin, nên khi gặp những giông tố thử thách, nghe những lý thuyết ngược lại, thì đức tin đâm ra bị chao đảo. Vì thông thường là: nếu dễ tin trong trường hợp này thì cũng sẽ dễ tin trong những trường hợp khác! Hay dễ được thì cũng dễ mất! Cũng có những người đòi hỏi đầy đủ chứng cớ mới chịu tin. Có thể họ không tin nếu chưa đủ chứng cớ. Nhưng một khi đã có chứng cớ làm cơ sở để tin, thì họ lại tin rất vững chắc tới mức độ có thể dấn thân hết mình cho niềm tin ấy. Hạng người sau sẽ ích lợi cho Thiên Chúa, Giáo Hội và nhân loại hơn. Cũng có thể có những người tuy dễ tin, nhưng vẫn tin vững chắc và không thay đổi được. Điều này theo lý luận thì khá nghịch lý, nhưng vẫn có thể xảy ra, vì trong thực tế vẫn có những điều rất nghịch lý!
Trong Kitô giáo, đức tin là một yếu tố quan trọng hàng đầu. Tuy nhiên, tin hay không tin không quan trọng bằng chất lượng của đức tin. Người tin hời hợt cũng là tin, và người tin một cách xác tín cũng là tin. Nhưng giá trị của hai thứ đức tin ấy khác hẳn nhau.
2. Trong Kitô giáo, đức tin là yếu tố quan trọng hàng đầu
Người Kitô hữu coi việc rỗi linh hồn, tức hạnh phúc vĩnh cửu, là điều quan trọng nhất. Họ có thể hy sinh tất cả mọi thứ khác trên đời cho hạnh phúc vĩnh cửu ấy, và đó chính là sự khôn ngoan căn bản của họ. Vì như Đức Giêsu nói: « Được lời lãi cả thế gian mà mất sự sống đời đời thì ích lợi gì?» (Lc 9,25). Nhưng muốn được sự sống đời, thì phải tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu-Kitô, hay vào Tin Mừng của Ngài như một điều kiện không thể không có: «Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án» (Mc 16,16); «Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ» (Rm 10,9).
3.Nhưng điều quan trọng là chất lượng của đức tin
Nhưng thế nào là tin đúng với ý nghĩa của chữ « tin»? Nhiều người tưởng rằng mình tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu, nhưng thật ra họ chẳng tin hay chỉ tin rất ít! Chỉ cần Chúa gửi đến cho họ một vài thử thách là họ sẽ thấy ngay họ có tin hay không, hoặc tin ở mức độ nào.
Thật vậy, trong những điều kiện bình thường không có gì đe dọa, có biết bao người tuyên xưng đức tin rất mạnh mẽ, rao giảng đức tin hùng hồn không ai bằng. Thậm chí để bảo vệ đức tin, họ không ngần ngại lên tiếng kết án những kẻ xem ra yếu đức tin hoặc tin khác với mình. Nhưng khi có thử thách xảy tới, chẳng hạn khi tình thế đòi buộc phải lên tiếng bảo vệ đức tin, bảo vệ Giáo Hội, bảo vệ công lý, và việc lên tiếng bảo vệ này đòi hỏi phải trả một cái giá nào đấy, thì họ lại sẵn sàng im lặng bất động, bỏ mặc đức tin, Giáo Hội và công lý ra sao thì ra. Hay khi đức tin đòi hỏi phải dấn thân hy sinh, chịu thiệt thòi một cách cụ thể mà trước mắt không được bù đắp lại, lúc đó họ mới nhận ra đức tin của họ - mà họ vẫn tưởng rất mạnh mẽ - hóa ra là thứ đức tin chỉ tuyên xưng mạnh mẽ ngoài miệng mà thôi!
4. Tin thật trong lòng quan trọng hơn tuyên xưng ngoài miệng
Phải nói rằng chúng ta chú tâm vào việc tuyên xưng đức tin hơn là sống đức tin, chúng ta quan tâm chứng tỏ đức tin bằng miệng, bằng lời nói nhiều hơn bằng hành động. Chúng ta có khuynh hướng chọn cái dễ hơn, cái « rẻ tiền» hơn để thực hiện, chứ không chọn cái thật sự cần thiết dù là «đắt giá», vì thế, đời sống đức tin và việc truyền giáo của chúng ta không đi đến kết quả mong muốn. Theo thánh Phaolô thì «có tin thật trong lòng mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng mới được ơn cứu độ» (Rm 10,10). Chúng ta có vẻ coi việc xưng ra ngoài miệng quan trọng hơn việc tin thật trong lòng. Có phải chúng ta coi việc «được ơn cứu độ» quan trọng hơn việc «được nên công chính»? Nhưng cần xét lại xem: có ai không trở nên công chính mà được ơn cứu độ nhờ «xưng ra ngoài miệng» không? Lời ấy của thánh Phaolô đòi hỏi chúng ta phải làm cả hai, và điều trước (tin thật trong lòng) thì quan trọng và cần thiết hơn điều sau (xưng ra ngoài miệng)! Điều sau chỉ là hiệu quả chứng tỏ điều trước mà thôi. Vì theo tự nhiên thì «lòng có đầy, miệng mới nói ra» (Mt 12,34; Lc 6,45). Lòng không đầy mà ngoài miệng lại nói ra thật hùng hồn mạnh mẽ thì rất có thể đã có phần nào giả dối trong đó!
Thật vậy, thứ đức tin chỉ được tuyên xưng ngoài miệng chứ không được chứng tỏ bằng hành động chỉ là đức tin giả dối, hay « đức tin chết»: «Đức tin không có hành động là đức tin chết» (Gc 2,17.26). Liệu người ta có thể được cứu rỗi với thứ «đức tin chết» ấy không?
5.«Phúc thay những người không thấy mà tin!»
Quả thật, nếu thấy rồi thì đâu còn là tin nữa, mà là thấy, biết! Như vậy, tin khác với thấy, biết. Tin chỉ có ý nghĩa khi đối tượng tin còn mù mờ, chưa sáng tỏ, nó vừa đòi hỏi lý trí nắm được một số chứng cứ để tin, vừa đòi hỏi ý chí chấp nhận một kết luận vượt khỏi giới hạn mà những chứng cứ ấy chứng tỏ. Chẳng hạn bố mẹ tôi nói với tôi rằng lúc nhỏ tôi bị một chứng bệnh rất nguy hiểm mà tôi đã thoát được. Tôi tin điều ấy, chứ không phải tôi biết hay thấy điều ấy. Để tin điều ấy, trong tôi có tác động của lý trí và ý chí. Lý trí tôi dựa trên những chứng cứ xác thực này:
- bố mẹ tôi sinh ra tôi và nuôi tôi nên biết rõ điều đó.
- bố mẹ tôi là một người chân thật, không hay nói dối
- tôi thấy bố mẹ tôi không có lợi gì khi dối gạt tôi điều này.
Những chứng cứ ấy chưa đủ để tôi có thể kết luận chắc chắn điều ấy. Nhưng dựa trên những chứng cứ xác đáng ấy, tôi xác định rằng điều bố mẹ nói về chứng bệnh lúc tôi còn nhỏ ấy là sự thật. Xác định điều ấy khi chưa hoàn toàn sáng tỏ là việc làm của ý chí tự do.
Lời của Đức Giêsu: « Phúc thay những người không thấy mà tin!» đặc biệt áp dụng cho chúng ta hơn là cho các tông đồ. Tất cả chúng ta chẳng ai thấy Đức Giêsu, chẳng ai thấy Ngài sống lại. Nhưng chúng ta tin điều ấy. Niềm tin ấy được xây dựng trên những lời chứng phải trả giá bằng máu, bằng mạng sống của các tông đồ, là những người đã sống với Đức Giêsu và đã chứng kiến Ngài sống lại: «Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng» (Cv 2,32; x. 3,15; 4,33; 10,39.42; 13,31). Không ai lại sẵn sàng chết để làm chứng một điều gian dối chẳng đem lại lợi lộc gì cho mình.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin củng cố đức tin cho con, đồng thời giúp con luôn thành thật với niềm tin của mình. Đừng để cho con trở nên giả dối: tin thì không mạnh, nhưng tuyên xưng ngoài miệng thì rất là mạnh.
John Nguyễn (Nguồn vietcatholic.org)