Mùa Vọng là mùa của sự chờ mong, mùa chuẩn bị tâm hồn cho việc đón Con Thiên Chúa đến. Đây không phải là một sự chờ đợi trong u buồn, sầu não, nhưng là một sự chờ đợi trong hân hoan. Thật vậy, Chúa Giêsu không chỉ đến trần gian một lần nơi Bêlem cách đây hơn 2000 năm, nhưng trong những ngày đầu mùa Vọng, phụng vụ Giáo Hội còn mời gọi chúng ta chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa đến lần thứ hai trong vinh hiển để ban thưởng cho những ai trung thành. Và hôm nay, trong Chúa nhật III của mùa Vọng, Giáo Hội còn mời gọi chúng ta tin tưởng và vui lên, vì Chúa vẫn đang đến và đồng hành với chúng ta mỗi ngày trong cuộc sống. Chính trong niềm hân hoan vui mừng đó, phụng vụ Giáo Hội cho phép chúng ta sử dụng lễ phục hồng ngay trong mùa Vọng này.
Trong cuộc sống của mình có lẽ chúng ta cũng đã từng có nhiều niềm vui: Niềm vui khi thành công trong công việc làm ăn của quý phụ huynh, hay niềm vui thi đậu của các em học sinh. Đó còn là niềm vui âm thầm, nhẹ nhàng khi bỗng nhiên nhận được một luồng gió mát ngay giữa trưa hè nóng bức, hay niềm vui khi gặp lại người bạn thân sau bao ngày xa cách... tất cả những niềm vui đó đến với chúng ta do một tác động từ bên ngoài và rồi cũng đã qua đi, và có khi chúng cũng chẳng làm thoả lòng của chúng ta nữa.
Thế nhưng, có cũng những lúc chúng ta cảm thấy tâm hồn rất thanh thản, bình an cho dù bên ngoài không có gì thay đổi. Đó là những lúc tâm hồn chúng ta đang thuộc trọn về Chúa, có Chúa ở cùng. Hay nói một cách khác, đó là niềm vui của những tâm hồn trong sạch. Ngôn sứ Isaia trong bài đọc một cũng đã lên tiếng diễn tả niềm vui của những người công chính: " Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, và lòng tôi hoan hỉ trong Chúa tôi, vì Người đã mặc cho tôi áo phần rỗi và choàng áo công chính cho tôi".
Còn Mẹ Maria sau ngày truyền tin, cho dù chưa biết tương lai cuộc đời mình sẽ ra sao, nhưng khi đến thăm bà Elisabeth, Mẹ cũng đã lớn tiếng ngợi ca: " Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ vui mừng trong Chúa, Đấng Cứu Chuộc tôi". Mẹ vui mừng vì Con Thiên Chúa đang ngự trong lòng Mẹ. Có Chúa ở cùng là có tất cả. Cùng với Chúa, Mẹ sẽ sẵn sàng đón nhận tất cả, vì Mẹ tin rằng: Thiên Chúa sẽ làm cho Mẹ mọi sự tốt nhất.
Có Chúa ở cùng phải là ước vọng và là niềm vui lớn nhất của mỗi người kitô hữu chúng ta. Thế nhưng, chúng ta phải làm sao để có thể cảm nghiệm và giữ vững được niềm vui này?
Con người chúng ta có xác và hồn. Với thân xác, niềm vui của chúng ta thường dựa vào những gì mà giác quan chúng ta cảm nhận được. Thế nhưng, những niềm vui đó không thật sự bền vững. Còn những niềm vui thiêng liêng thì lại không thể dễ dàng cảm nhận bởi các giác quan. Chính vì thế, trong bài đọc hai thánh Phaolô nhắc bảo chúng ta: " Đừng dập tắt Thánh Thần, đừng khinh khi các lời tiên tri, nhưng hãy nghiệm xét mọi sự, điều gì tốt hãy giữ lại". Vâng, chỉ có trong Thánh Thần và nhờ Thánh Thần, chúng ta mới có thể cảm nếm được niềm vui có Chúa trong mình.
Và để có thể đón nhận được Thánh Thần, thánh nhân còn khuyên bảo chúng ta: " Hãy tránh xa sự dữ dưới mọi hình thức". Tránh xa sự dữ dưới mọi hình thức, nghĩa là chúng ta phải tránh xa cả các dịp tội, kể cả tội nhẹ, đừng để ma quỉ thừa cơ lợi dụng những yếu đuối của chúng ta để lôi kéo chúng ta xa dần Thiên Chúa, vì chỉ những tâm hồn thật sự xa lánh tội lỗi, mới có thể cảm nghiệm được sự ngọt ngào của Thiên Chúa.
Mặt khác, ý thức được sự yếu đuối của chúng ta, thánh nhân cũng mời gọi chúng ta cầu xin sức mạnh của Chúa Thánh Thần đến trợ giúp chúng ta: " Xin chính Thiên Chúa bình an thánh hoá anh em toàn diện, để thần trí, linh hồn và thể xác anh em được gìn giữ toàn vẹn".
Như thế, Thánh Thần chính là Đấng giúp chúng ta đến với Thiên Chúa, đồng thời cũng nhờ Ngài chúng ta mới có thể thực sự cảm nhận được trọn vẹn niềm vui của người con Chúa.
Theo dõi các cuộc tranh tài ở Sea Games 23 tại Philíppin trong những ngày qua, chắc chúng ta thấy sau mỗi trận đấu cho dù có mệt mỏi, vất vả, thì các vận động viên dành chiến thắng cũng không dấu nổi vẻ vui mừng hiện rõ trên khuôn mặt. Họ cầm cờ chạy khắp vòng quanh sân như muốn chia sẻ niềm vui đang trào dâng trong lòng họ với tất cả những người đang hiện diện.
Tương tự như thế, Chúa Giêsu không những đã đến trần gian cách đây hơn 2000 năm, nhưng ngày hôm nay Ngài vẫn đang hiện diện bên cạnh từng người chúng ta trong mỗi phút giây của cuộc sống. Có Chúa ở cùng chính là niềm vui tuyệt vời và lớn lao nhất. Và với một niềm vui lớn như thế, chúng ta không thể dấu kín trong lòng mà không loan báo cho mọi người. Ngôn sứ Isaia trong bài đọc một đã tiên báo về bước chân hân hoan loan báo Tin mừng của Đấng Messia, người được xức dầu Thánh Thần: " Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương; báo tin ân xá cho những kẻ lưu đày, phóng thích cho những tù nhân; công bố năm hồng ân của Thiên Chúa". Lời tiên tri này của vị ngôn sứ quả thực đã được ứng nghiệm, hơn 600 năm sau, tại hội đường ở Nazareth, Chúa Giêsu đã nhận những lời loan báo của ngôn sứ trên đây cho chính bản thân mình, khi nói: "Hôm nay đã ứng nghiệm đoạn Sách này nơi tai các ngươi" (Lc 4, 21). Chúa Giêsu được đầy tràn hoan lạc trong Thánh Thần và Ngài đã lên đường rao giảng Tin mừng cho mọi người. Do đó, bản thân chúng ta một khi đã có được niềm vui có Chúa ở cùng, chúng ta cũng phải cất bước lên đường chia sẻ niềm vui đó cho anh chị em mình.
Chúng ta cần loan báo tin mừng cho anh chị em mình không chỉ bằng những lời nói, nhưng phải bằng những việc làm thật cụ thể. Thánh Giacôbê nói: " Ích gì, hỡi anh em, khi ai rêu rao mình có đức tin, mà việc làm lại không có? Hoạ chăng đức tin có thể cứu nó? Nếu có anh hay chị em mình trần thân trụi, và lương thực hằng ngày cũng thiếu, mà có người trong anh em nói với họ: "Chúc anh chị đi bình an, mặc cho ấm, ăn cho no", mà anh em lại không cho những gì cần thiết cho thân xác họ, thì có ích gì? Về đức tin cũng vậy, nếu không việc làm, thì đức tin ấy đã chết tiệt rồi!" (Gc 2, 14-17).
Chúng ta còn phải loan báoTin mừng bằng chính đời sống vui tươi của mình. Chúng ta không thể loan báo Tin mừng bằng một khuôn mặt buồn được. Do đó, ngay mở đầu bài đọc hai, thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: " Hãy vui mừng luôn".
Như thế, chính hành vi bác ái, tha thứ, chia sẻ và nhất là thái độ lạc quan, vui sống của mỗi người chúng ta chính là thước đo cho thấy mức độ chúng ta đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời của mình. Và cũng chẳng đâu xa, ít phút nữa đây, từng người chúng ta lại có cơ hội để đón Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể vào tâm hồn mình. Có Chúa ở trong mình, chúng ta không được phép u buồn, sầu não, nhưng phải vui lên, và rồi khi trở về nhà chúng ta hãy chia sẻ niềm vui có Chúa cho anh chị em mình để từng gia đình và cả cộng đoàn chúng ta luôn tràn ngập niềm vui có Chúa ở cùng. Amen
Lm Trần Thanh Sơn
ÔNG CÓ PHẢI LÀ ĐẤNG CỨU THẾ ?
Ga 1, 6-8.19-28
Gioan Tẩy Giả đã thu hút được đông đảo quần chúng Do Thái khi Ông rao giảng việc ăn năn sám hối ở bờ sông Giođan. Các tư tế, các thượng tế, Lêvi, Biệt phái đều tỏ ra thắc mắc về Gioan là ai ? Họ muốn biết Ông giữ vai trò gì trong lịch sử cứu rỗi của Thiên Chúa ? Ông có phải là Đức Kitô, Đấng được xức dầu và sẽ đến vào thời cứu rỗi? Là Elia ? là ngôn sứ hay là một nhân vật nào đó mà họ tin rằng sẽ trở lại nơi trần gian để rao giảng sự thống hối vào ngày sau hết của việc phán xét cuối cùng ? Lời rao giảng và những việc làm của Gioan Tẩy Giả quả làm chấn động xã hội thời Ông.
Bên giòng sông Giođan, Gioan Tẩy Giả đã rao giảng, đã làm phép rửa bằng nước, Ông đã gây chú ý cho biết bao nhiêu người đồng thời. Ông rao giảng:" Hãy từ bỏ tội lỗi mình...Hãy dọn đường cho Chúa đến: hãy làm một lối thật thẳng để Ngài đi ". Tin tức về những hoạt động của Ông chẳng mấy chốc lọt đến tai những vị lãnh đạo tôn giáo ở Giêrusalem. Do đó, họ sai một phái đoàn gồm Lêvi và Tư tế đến với Gioan Tẩy Giả để tìm hiểu sự thật.
Các Tư tế lưu tâm đến Gioan vì Cha của Gioan là Giacaria cũng là một Tư tế như họ. Điều kiện duy nhất để có thể làm tư tế là phải thuộc dòng dõi Tư tế hoặc dòng Aaron. Nên, các tư tế ở Giêrusalem hết sức bỡ ngỡ về thái độ và cung cách kỳ dị của Gioan Tẩy Giả. Khi phái đoàn đến họ đi thẳng vào vấn đề và hỏi Gioan ngay:" Ông là ai ?".
Gioan biết họ đang nghĩ gì về Ông, nên Ông trả lời tức khắc:" Tôi không phải là Đấng cứu thế ". Các Tư tế hỏi:" Nếu Ông không phải là Đấng cứu thế, vậy Ông là ai? Ông có phải là Elia không ?". Gioan nói thẳng Ông không phải là Elia mà các người Do Thái tin sẽ trở lại dương thế vì Elia đã được đưa về trời trên chiếc xe lửa trước đó mấy thế kỷ. Họ hỏi:" Vậy Ông có phải là một vị ngôn sứ không ? ". Gioan lại trả lời:" Không, tôi không phải là một ngôn sứ như Giêrêmia hay Êdêkiên ". Họ hỏi tiếp:" Vậy Ông là ai ?" Gioan trả lời bằng câu nói của ngôn sứ Isaia:" Tôi là tiếng kêu trong sa mạc: Hãy dọn đường cho ngay thẳng để Chúa đến". Để hiểu được tiếng tiền hô, ta phải trở về thời Gioan Tẩy Giả để hiểu: đường sá lúc đó hầu hết là đường đất, trũng, lầy lội khi mưa gió. Do đó, khi có vị quan hoặc vua tới thì vị tiền hô đi trước để mời gọi dân chúng lo đường cho tốt hầu vua hoặc quan đi qua cho tốt đẹp. Tiền hô cũng còn một nhiệm vụ nữa là dậy dân chúng nghi thức tiếp tân cho tốt đẹp để đón tiếp các Cấp trên. Gioan Tẩy Giả cũng lưu tâm dân chúng thái độ tiếp tân dân cần phải có để đón Chúa tới:" Hãy ăn năn hối cải tội lỗi mình và hãy lãnh nhận phép rửa"(Mc 1, 4 ).
Gioan không phải là chính, sứ điệp của Ông ta có thể hiểu như sau:" Tôi không phải là Đấng cứu thế, nhưng tôi là người tiền hô cho Ngài". Hãy chuẩn bị vì Ngài sắp đến. Gioan đã chu toàn sứ mạng tôn giáo của mình. Ông không để nhân loại và đám đông chỉ chú ý tới Ông:" Ngài phải lớn lên, còn tôi thì nhỏ lại". Gioan hướng con người chú ý tới Chúa. Đây cũng là sứ điệp Mùa vọng mà Giáo Hội đang hướng chúng ta. Mùa vọng nói với chúng ta về việc Đức Kitô đến. Ngài đến trong lịch sử nhân loại và Ngài lại đến với thế giới vào ngày sau hết. Phụng vụ các bài đọc Chúa nhật hôm nay cho nhân loại hay:" Gioan không phải là Đấng Cứu Thế. Ông chỉ là tiếng hô trong sa mạc để dọn đường cho Chúa đến". Ông dậy chúng ta phải đón Chúa như thế nào và chúng ta chuẩn bị Chúa đến không như các người Do Thái xưa mà chờ đón Chúa đến để phán xét con người, phán xét chúng ta vào ngày tận thế. Nào chúng ta cùng ăn năn sám hối và cầu nguyện: Maranatha, Người ơi, xin mau tới...
Lm Giuse Maria Nguyễn Hưng Lợi DCCT
"Khi vui non nước cùng vui. Khi buồn sáo thổi kèn đôi cũng buồn", "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Cuộc đời giống như một tấm gương : mỉm cười với nó, nó sẽ mỉm cười lại; gắt gỏng với nó, nó sẽ hung bạo. Hãy thử đứng trước một cái gương xem, sẽ thấy : mỉm cười đáp lại mỉm cười, nhăn nhó đáp lại nhăn nhó. Trước cuộc đời cũng thế : tôi sống làm sao cuộc đời sẽ như vậy. Nếu tôi đón nhận những điều bất ngờ với một nụ cười, nó sẽ đáp lại tôi bằng một nụ cười. nếu tôi đến với nó với bộ mặt càu nhàu, nó sẽ đến cùng tôi với sát khí đằng đằng.
Ngày nay, người ta thường đề cập đến hai tiếng "bi quan" và "lạc quan". Người bi quan là người tỏ vẻ buồn rầu khi nhìn thấy ly rượu đã vơi mất một nửa. Trái lại, người lạc quan là người tỏ vẻ vui mừng hay bình thản khi nhìn thấy ly rượu vẫn còn một nửa. Vậy Kinh Thánh của chúng ta bi quan hay lạc quan ? Xét về một phương diện, Kinh Thánh rất bi quan, bởi vì Kinh Thánh có chứa đựng những lời lẽ thật đau xót về những nỗi khổ tâm mà con người đã gây nên cho nhau. Kinh Thánh đã nói rõ rằng : con người sống trong một thế giới đầy tội lỗi và đã gây nên biết bao điều ngang trái cho đồng loại. Nhưng nếu xét về một phương diện khác, thì Kinh Thánh lại rất lạc quan. Kinh Thánh đã từng đề cập đến một thời gian mà con người trông đợi, lúc mà mọi sự sẽ được điều chỉnh lại và được đổi mới hoàn toàn, lúc mà Thiên Chúa sẽ trở nên mọi sự cho mọi người.
Cụ thể như các đoạn Kinh Thánh của Chúa hôm nay : ngôn sứ I-sai-a đã loan báo về Đấng Cứu Thế và những công việc tràn đầy an ủi, phấn khởi. Thánh Phaolô đã khích lệ mọi người : Hãy vui lên. Trong bài Tin Mừng, thánh Gioan đã bảo đảm cho mọi người sẽ được hưởng niềm vui ấy. Vì thế, Chúa nhật hôm nay thường được gọi là Chúa nhật của niềm vui và khích lệ chúng ta hãy vui lên. Niềm vui đó là Chúa đã gần đến, sắp đến rồi, chúng ta hãy vui lên. Ngài sẽ đem đến cho chúng ta một niềm vui vĩ đại : biết Ngài là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa - được sống trong cộng đồng Giáo Hội - được hưởng các ân sủng, và nhất là được Chúa ban phúc bình an vĩnh viễn trong nước trời. Đó là niềm vui chính yếu, niềm vui thâm trầm của những người thấu hiểu ý nghĩa cuộc đời.
Chúa Giêsu là niềm vui; và những lời Ngài giảng dạy là những tin vui. Vì thế, đạo của chúng ta là đạo Tin Mừng. Hai chữ "Tin Mừng" ấy sẽ trở thánh trống rỗng và vô nghĩa nếu cuộc sống của người tín hữu không sống trong niềm vui và thể hiện Tin Mừng. Như thế, chúng ta cũng không thể loan báo hay chia sẻ Tin Mừng cho người khác.
Vào khoảng thập niên 60, một số người chuyên nghiên cứu về tâm lý quần chúng tại Hoa Kỳ đã làm một cuộc thăm dò độc đáo. Đó là xem thử có bao nhiêu người nhặt được ví và đem trả lại. Nhóm người nghiên cứu đã chọn một khu phố để làm việc. Họ cho rải những chiếc ví dọc theo các đường phố. Chỉ vài ngày sau, họ nhận thấy hơn nửa số ví được mang trả lại. Nhưng tỉ lệ này chỉ kéo dài tới ngày bào huynh của cố tổng thống Ken-nơ-đy là Rô-bớc Ken-nơ-đy bị ám sát. Nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng trong ngày hôm đó, không một cái ví nào được đem trả lại. Họ đi đến kết luận : những tin buồn có ảnh hưởng sâu đậm đến con người và đời sống xã hội của con người.
Chúng ta không hoàn toàn nhất trí với kết luận đó, nhưng chúng ta có thể suy luận thêm : khi nghe một tin mừng, con người cảm thấy phấn khởi và mau mắn để thi hành điều thiện. Trái lại, khi nghe tin buồn, thì con người dễ bị cám dỗ chán nản, và từ đó trách nhiệm trong lãnh vực luân lý cũng bị giảm sút.
Chúng ta đang đứng trước một thách đố lớn. Cuộc sống xã hội chung quanh chúng ta là cả một hãng thông tấn chỉ tung ra những tin buồn. Qua các phương tiện truyền thông xã hội : báo chí, truyền thanh, truyền hình... đầy dẫy những tin buồn : tin buồn của dối trá lường gạt; tin buồn của phản bội xâu xé nhau; tin buồn của buông xuôi bỏ cuộc, tin buồn của không biết bao nhiêu đói khổ, chiến tranh, thiên tai, chết chóc...
Vì thế, chúng ta phải là những người loan báo Tin Mừng và đem lại niềm vui. Giữa một xã hội chỉ có tin buồn của thất vọng, chúng ta sẽ loan báo tin mừng của hân hoan, phó thác. Giữa một xã hội chỉ có tin buồn của dối trá, lường gạt, chúng ta phải loan báo tin mừng của lòng chân thật, vị tha. Giữa một xã hội chỉ loan báo tin buồn của ích kỷ, nhỏ nhen, chúng ta sẽ loan báo tin mừng của quảng đại, yêu thương, tha thứ và cảm thông. Nếu chúng ta biết sống theo tinh thần trên đây, chúng ta sẽ thấy đời mình có ý nghĩa và gieo rắc những hạt giống của niềm vui ra chung quanh trên mọi nẻo đường đời. Và cho dù hầu hết các hạt giống đó có mục nát đi, tôi vẫn tin rằng thế nào cũng có ít nhất một hạt nảy mầm lên cây, và nó sẽ đâm bông làm thơm tâm hồn chúng ta.
Chúng ta hãy nhớ một câu trong một bản nhạc rất hay của ông Bách, một nhạc sĩ nổi tiếng : " Lạy Chúa Giêsu, xin cho niềm vui của con luôn tồn tại, để niềm vui đó đem lại niềm vui cho những người khác".
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG B
Ga 1,6-8.19-28
Vọng là đợi chờ và đợi chờ giả thiết một cái gì còn thiếu vắng, mong được lắp đầy. Nếu có những nỗi đợi chờ đầy sợ hãi của một kẻ gian ác trước ngày ra tòa xét xử thì cũng có nỗi đợi chờ trong hân hoan của một em bé đợi mẹ về chợ, của người mong gặp người thân. Khi ấy nỗi đợi chờ trở thành hy vọng. Nỗi đợi thắm đượm niềm vui. Niềm vui đó là tâm tình của chúng ta, của Hội Thánh trong cuộc đợi chờ Chúa.
1. Chúa Giêsu: niềm vui được đợi chờ:
Niềm vui ấy là trực giác đức tin, nhưng cũng là chân lý được xây dựng suốt chiều dài lịch sử cứu độ. Lần giở trong lịch sử xa xưa, ngôn sứ Isaia từng hát lên niềm vui ấy cùng với tất cả say sưa, hưng phấn sau những năm tháng lưu đày dường như vô vọng. Đó là niềm vui cho những người nghèo khó, cho tấm lòng tan vỡ, cho thân phận tù đày và ly tán, những khuôn mặt đong đầy nước mắt của Sion trong bài đọc I (Is 61,1-2,10-1).
Nhưng thế giới hôm nay có cần đến niềm vui ấy chăng? Khi mà cuộc đời vẫn còn những con người sống trong cảnh cùng cực về vật chất lẫn tinh thần. Là nạn nhân của bao bất công, bạo lực, chiến tranh, là nạn nhân của chính mình khi xây đắp ngục tù giam hãm mình trong bao ích kỷ, thù hận đam mê, mù quáng trong thành kiến.Vâng, thế giới hôm nay đang cần niềm vui, đang cần ơn giải thoát. Chính Đức Kitô là tin vui của chúng ta, của nhân loại mà trong bài Tin Mừng hôm nay, Gioan Tẩy Giả giới thiệu và minh chứng. Người được gọi là ánh sáng:
- Ngài là ánh sáng tỏa rạng niềm vui khi giải thoát chúng ta khỏi tăm tối cuộc đời, để trong Ngài chúng ta có thể tìm ra sự thật về mình trong tương quan với Thiên Chúa, với tha nhân. Trong Ngài chúng ta tìm gặp được những giải đáp về cuộc sống để biết mình từ đâu đến, sống để làm gì và chết sẽ đi về đâu: một sự thật cần cho cuộc đời chúng ta để gặp được niềm an vui chân thật.
- Ngài là ánh sáng cứu độ, là sức mạnh giải thoát chúng ta khỏi mọi nô lệ của tội ác, ích kỷ, thù hận.
- Ngài còn là ánh sáng ban sự sống. Sự sống đó là tình yêu nhằm nuôi dưỡng và làm phong phú cuộc đời chúng ta, là cho chúng ta được dự phần vào niềm hạnh phúc của chính Ngài hôm nay và mãi mãi.
Tất cả niềm vui của Thiên Chúa mang đến đã được kết tụ trong chính Đức Kitô. Hơn nữa Ngài chính là niềm vui giải thoát của Thiên Chúa hiện thân giữa loài người như Thánh Gioan minh chứng. Chính Ngài- Đức Kitô mà chúng ta đang đón đợi, vọng chờ trong tất cả hy vọng và niềm vui là vậy.
2.Tìm gặp niềm vui để trở thành người trao tặng niềm vui:
Tìm gặp chính Chúa là niềm vui: đó là thái độ tiên quyết của chúng ta hôm nay. Biết bao người trong chúng ta hôm nay chưa cảm nhận được niềm vui vì chưa gặp Đấng kiến tạo niềm vui, chưa gặp được chính Đức Kitô là niềm vui. Vậy chúng ta có thể làm gì?
Hãy mở rộng lòng đón Đức Kitô: Đón nhận Ngài bằng cách đón nhận cái nhìn của Ngài, cách đánh giá của Ngài về con người, về cuộc sống, đón nhận Ngài khi can đảm sống theo những giá trị của Tin Mừng, đón gặp Ngài khi chúng ta dám bước theo Ngài trên những nẻo đường loan báo tin vui cứu độ, để khi dám sống như Ngài, chúng ta tìm gặp được Ngài và nhận được niềm vui thực sự.
Để khi gặp được niềm vui, chúng ta hãy trở thành người trao tặng niềm vui . Vì niềm vui càng chia sẻ càng được nhân rộng, càng trao ban càng nên cao cả.
Xin Chúa cho chúng ta gặp được Ngài là chính niềm vui, để biến chúng ta thành nhũng người trao tặng niềm vui cho mọi người. Để được như vậy, hẳn không gì cần thiết hơn là chúng ta mặc sâu tâm tình tạ ơn và liên lỉ cầu xin như Thánh Phaolô khuyên nhủ trong bài đọc II (Tx 5,16-24) để được giữ gìn vẹn toàn hồn xác trong lúc chờ đợi ngày Chúa quang lâm.
Sr. Thùy Trâm
HÃY SỬA ĐƯỜNG...
Ga 1,6-8.19-28
"Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi". Thánh Gioan Tẩy giả tự trả lời về mình như thế cho những người Do thái chất vấn ông. "Tiếng kêu trong hoang địa". Nói đến hoang địa là nói đến một môi trường chưa được sử dụng, chưa được khai phá. Môi trường đó còn âm u, đầy dẫy nguy hiểm. "Tiếng kêu trong hoang địa" là tiếng kêu giữa mênh mông, giữa những âm u nguy hiểm đó.
Nhưng dù nói là kêu trong hoang địa, và bản thân thánh Gioan đã từng sống trong hoang địa, nhưng ngài đã không hô to một lời nào trong suốt những năm tháng sống một mình ở nơi ấy. Ngược lại, bây giờ, để thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình, thánh Gioan đã rời hoang địa, đi vào làng mạc và cất tiếng rao giảng kêu gọi lòng sám hối ăn năn. Hóa ra hoang địa nhưng không là hoang địa thiên nhiên, không là một môi trường nào đó mà thánh Gioan đã từng sống. Bởi thế, khi áp dụng hình ảnh tiếng kêu trong hoang địa của tiên tri Isia đã loan báo trong Cựu ước để nói về chính mình, điều mà thánh Gioan nhắm đến chính là tâm hồn con người. Nếu hoang địa là mênh mông, là âm u, nguy hiểm, thì hoang địa tâm hồn còn đáng sợ, và nguy hiểm hơn.
Cách đây vài năm, một lần kênh truyền hình HTV7 chiếu bộ phim " Hòn đá lăn tròn" do Mêhycô sản xuất. Có thể nói nhân vật chính trong phim, luật sư Prado, là đại diện của một thứ hoang địa tâm hồn. Đúng là hòn đá lăn tròn. Địa vị, tiền bạc đã làm cho luật sư lăn theo nó quay tít như một hòn đá tuột dốc. Ông là kẻ kiêu căng, ích kỷ, tính toán và đầy tham vọng. Tất cả những tính xấu đó lớn trong ông đến nỗi biến ông thành một kẻ thủ đoạn không thể tả. Ông bất chấp tất cả dù người đó là vợ ông, con ông, quảng gia của ông, hoặc những người cùng làm việc với ông, miễn sao đạt được quyền cao chức trọn, đem lại danh vọng cho ông. Có những lần ông nhắc tới Chúa. Nhưng Chúa không còn ở trong tâm hồn ông nữa. Có nhắc tới Chúa chẳng qua chỉ là để ông gây lòng tin cho ai đó, để rồi biến Chúa trở thành phương tiện phục vụ chính ông, phục vụ con người đầy thủ đoạn của ông... Cám dỗ của địa vị, tiền bạc đã làm cho mảnh đất tâm hồn trở thành hoang địa. Một thứ hoang địa mà ở phần cuối bộ phim, đã biến một luật sư như luật sư Prado uy quyền là thế, tiếng tăm là thế, đã từng được mọi người nể phục, vậy mà cuối cùng ông đã phải cô đơn đến mức tuyệt vọng. Ông đã muốn lấp đầy cho nỗi cô đơn, cho sự tuyệt vọng của mình bằng những tiếng hét, tiếng rú kinh hồn. Càng cố rú lên bao nhiêu, thì không chỉ tiếng rú, mà là cả con người ông, cả mạng sống của ông càng rơi vào mênh mông bao la bấy nhiêu.
Bạn có thấy, hoang địa tâm hồn thật nguy hiểm bởi nó chỉ toàn là hận thù, là thủ đoạn. Đã là hoang địa cho nên rất cần những " tiếng kêu trong hoang địa" giúp ta "sửa lại cho ngay đường Chúa đi", nghĩa là chỉnh đốn tâm hồn mình. Sửa lại tâm hồn mình để ta trở thành người ngay chính, đừng như nhân vật Prado trong phim Hòn đá lăn tròn, cứ mải miết chạy theo "cơm áo gạo tiền". Tệ hại hơn, mãi chạy theo thủ đoạn để tìm danh vọng, tìm của cải, để thăng quan tiến chức, để làm giàu... mà quyên đi hay cố tình quên đi các bổn phận đạo đức, bổn phận xưng tội, rước lễ, nghe Lời Chúa...
Trên tất cả, bạn và tôi hãy khắc ghi lời thánh Gioan Tẩy giả: " Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi".
Đó là lời kêu gọi của một thời đã xa.
Nhưng cũng là lời mà hôm nay thánh Gioan mời gọi "Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi", sửa cho ngay tâm hồn của bạn và cả tôi.
Lm JB. Nguyễn Minh Hùng
CHỨNG NHÂN CHO CHÚA
Ga 1,6-8.19-28
Gioan Tiền Hô sửa đường đón Đấng Cứu Thế ra sao?
Vào cái thời mà tại đất Do Thái, người ta đã chán ngấy cái tình trạng xã hội suy đồi. Những nhà lãnh đạo tôn giáo cũng như dân sự đều xuống dốc. Còn trên bình diện chính trị thì đất nước của họ bị đế quốc La Mã cai trị, nên họ mong đợi Đấng Cứu Thế đến hơn bao giờ hết. Và theo quan niệm của dân chúng, thì đấng Cứu thế đến sẽ giải thoát họ khỏi ách nô lệ người ngoại bang, khiến cho đất nước của họ trở nên giàu mạnh, và đưa dân tộc họ lên hàng bá chủ hoàn cầu. Vì thế cái sứ điệp rao giảng sám hối của Gio-an Tiền hô để dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến đã làm khơi dậy niềm vui phấn khởi của dân Do Thái. Sở dĩ có như vậy là vì qua bao nhiêu thế hệ, họ đã bị quyền lực ngoại bang đô hộ: dưới ách thống trị của đế quốc Ba Tư, dưới ách nô lệ của dân Ai Cập, dân Syria và đế quốc La Mã.
Như vậy, nếu theo quan niệm của dân chúng về Đấng Cứu thế, thì ông Gioan Tiền hô cũng có thể mạo nhận cho mình là Đấng Cứu thế, nhất là cái sứ điệp rao giảng của ông có sức lôi cuốn mãnh liệt. Tuy nhiên khi dân chúng hỏi xem ông là ai, thì được Gio-an trả lời: Tôi không phải là Đấng Kitô (Ga 1,20).Vậy ông có phải là Elia không? Tôi không phải là Elia (Ga 1,21). Vậy ông có phải là một tiên tri nào không? Tôi cũng không phải (Ga 1,21). Và ông nói :Tôi chỉ là tiếng kêu trong hoang địa, sửa đường cho Đấng Cứu thế đến như tiên tri Isaia đã loan báo (Ga 1,23).
Rồi mấy người Pharisêu trong nhóm lại hỏi tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô. Gioan trả lời: Tôi chỉ làm phép rửa trong nước... Nhưng còn có Đấng sẽ đến sau tôi, và tôi không đáng cởi quai dép cho Người (Ga 1,26-27).
Giả sử Gioan Tiền hô qui công về cho mình, cũng khoe khoang, mạo nhận mình là Đấng Cứu thế, thì ông đã mất hết công phúc trước mặt Thiên Chúa. Theo Thánh kinh ghi lại thì Gioan Tiền hô đã nhận chân được cái vị thế của mình trước mặt Đấng Cứu thế. Ông chủ trương Đấng Kitô phải nổi bật lên, còn ông phải lu mờ đi (Ga 3,30), nghĩa là Đấng Kitô phải được vinh danh, còn ông phải lui vào bóng tối.
Cái bài học mà Gioan Tiền hô dạy ta sửa soạn đón mừng Đấng Cứu thế đến là biết chấp nhận : chấp nhận cái sự thật về mình, chấp nhận cái vị thế, cái thế đứng và cái giới hạn của mình, không giả tạo, không qui công về cho mình cái mà mình không có, điều mà mình không làm.
Là người công giáo, ta phải học với Gioan Tiền hô để biết mình, biết chấp nhận bản thân và hoàn cảnh, tránh thái độ tự cao tự đại. Nếu không, người ta có thể trở thành những người đòi hỏi và bất mãn. Và khi ta bằng lòng chấp nhận cái vị thế, cái chỗ đứng, cái giới hạn của mình, ta sẽ có được tâm hồn an vui đón mừng Chúa đến.
Hôm nay Giáo Hội dùng những Bài Thánh Kinh chứa đựng những lời lẽ khích lệ, bảo ta hãy vui lên, vì ngày giờ cứu rỗi đã gần. Còn Gioan Tiền hô hôm nay dạy ta làm sao để tạo cho mình niềm vui chấp nhận để dọn đường đón mừng Đấng Cứu thế.
Là người Công giáo, ta phải học hỏi với Gioan Tiền hô để nhận biết mình, chấp nhận bản thân và hoàn cảnh. Nếu không người ta có thể trở thành những người bất mãn. Cái thái độ bất mãn sẽ làm cản trở cho việc Chúa đến trong tâm hồn. Vậy chỉ khi ta bằng lòng chấp nhận cái vị thế, cái chỗ đứng, cái giới hạn của mình, ta sẽ có được tâm hồn an vui, không bận tâm về mình, để có thể mở rộng tâm hồn đón mừng Đấng Cứu Thế.
Lm Trần Bình Trọng, USA (Nguồn vietcatholic.org)