Sidebar

Thứ Tư
01.05.2024

Chúa Nhật III Thường Niên C

  1. Chúa Nhật 3 Thường Niên C
  2. Con Người Sống Trong Sự Giải Thoát Của Thiên Chúa
  3. Chúa Nhật III TN C
  4. Kinh Thánh, Một Bản Tình Ca
  5. Trọn Vẹn
  6. Người Nghèo Của Chúa
  7. Chúa Nhật III Thường Niên C
  8. Sứ Mệnh Được Sai Đi 
  9. Giải Thoát
  10. Hôm Nay
  11. Đón Nhận
  12. Góp Phần Thi Hành Sứ Vụ Thiên Sai 
  13. Mở Đầu Sứ Vụ Của Chúa Giêsu
  14. Lời Quyền Năng Là Thần Trí Và Sự Sống
  15. Sống Cho Người Nghèo
  16. Hồng Ân Cứu Độ
  17. Sứ Vụ Đầu Tiên Của Chúa Giêsu
  18. Đức tin hoàn hảo.
  19. Đức Giêsu - Tin Mừng Cho Mọi Người
  20. Sự Gần Gũi Hằng Ngày Của Thiên Chúa
  21. Hôm Nay Thiên Chúa Đã Viếng Thăm Dân Ngài
  22. Tôi Đi Loan Bao Tin Mừng
  23. Ra Đi Đến Với Người Nghèo Khó
  24. Giờ Cứu Rỗi Đã Đến Rồi
  25. Thi Hành Sứ Mạng
  26. Thánh Thần Chúa Ngự Trên Tôi
  27. "Thần Khí Chúa Ngự Trên Tôi Để Tôi Loan Báo Tin Mừng"

 

CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN C
Lc 1, 1 - 4; 4, 14 - 21 

Con người ngày nay tự hào về sự hiểu biết của mình, nhờ trí khôn ngoan, con người phát minh khoa học,...Thế nhưng đứng trước mầu nhiệm về Thiên Chúa, trí khôn con người không sao hiểu nổi và ngôn ngữ của con người làm sao có thể diễn tả hết được? Bởi vì con người mang bản tính giới hạn, bất toàn. Chỉ Thiên Chúa mới có thể giúp con người hiểu Lời Ngài cách xứng hợp.

Hôm nay chúng ta được nghe chính Đức Giêsu đọc lại lời tiên tri Isaia và giải thích: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên cáo lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, loan tin cho người mù biết họ sẽ được sáng mắt, trả lại tự do người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa" (Lc 4, 18 - 19). Đọc xong, Ngài ngồi xuống. Mọi người nhìn thẳng vào Ngài mà chờ đợi. Trong khung cảnh im lặng linh thiêng ấy, Chúa Giêsu bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe" (Lc 4, 20 - 21).

Phải, Đức Giêsu đã làm ứng nghiệm mọi lời tiên tri nói về Ngài từ hàng trăm năm trước. Đó là bằng chứng Đức Kitô là Đấng Thiên Chúa sai đến, Ngài thật là Con Thiên Chúa. Một bằng chứng khác nữa là những phép lạ Ngài làm đã có rất nhiều lời tiên tri trong Cựu Ước tiên báo. Hơn nữa, suốt thời gian Ngài sống và rao giảng, Ngài đã thực hiện lời tiên tri tiên báo: "Ngài công bố Tin Mừng cho người nghèo". Ngay lúc mới sinh ra, những mục đồng nghèo khó là những người đầu tiên được loan báo Tin Mừng. Sau này, khi các môn đệ của Gioan Tẩy Giả đến hỏi Ngài có phải là Đấng Cứu Thế không, Ngài đã bảo họ về kể lại cho ông Gioan biết những gì Ngài đã làm; người mù được thấy, người què được đi, người điếc được nghe, người câm được nói ...đúng như lời tiên tri Isaia đã tiên báo.

Hôm nay, trong hội đường ở Nagiarét, giữa người đồng hương của Ngài, Đức Giêsu đã tuyên bố: "Ngài đến thể thực hiện những lời tiên tri Isaia mà họ vừa nghe Ngài đọc". Ngài có sứ mạng đem ơn cứu độ đến cho những người nghèo đói, bệnh tật, kẻ bị tù đày, bị áp bức, qua lời giảng dạy và những phép lạ Ngài làm. Nói như thế có nghĩa là Đức Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến công bố năm hồng ân cho những người nghèo khổ. Ngài quan tâm đến những khổ đau của những con người đau khổ; Ngài giải thoát của họ và ban ơn cứu độ, trước mắt Ngài, là trái lập trật tự trong xã hội con người và trong thế giới, nơi đó, công lý, yêu thương và hòa bình phải ngự trị.

Đức Giêsu đã trao sứ mạng của Ngài cho Giáo Hội. Do đó, Giáo Hội luôn ý thức sứ mạng của mình trong thế giới. Suốt chiều dài lịch sử, Giáo Hội luôn nổ lực thực hiện sứ mạng của Đức Giêsu là đem Tin Mừng cho người nghèo khó...Những công việc từ thiện, bác ái, xã hội, văn hóa, Giáo Hội đã làm ngày nay vẫn còn giá trị. Và ngày nay sứ mạng của Giáo Hội có lẽ còn khẩn thiết hơn nữa, vì sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ ngày nay phải bao gồm cả những vấn đề hết sức quan trọng và cấp thiết nhất, liên quan đến công lý, phát triển và hòa bình.

Mỗi người trong phạm vi của mình, không được nản chí, đừng chê việc nhỏ, vì hành động của tình yêu không có gì là nhỏ, là không đáng kể. Còn biết bao người nghèo đói, khốn cùng chung quanh chúng ta. Đến bao giờ chúng ta mới có thể nói được như Chúa Giêsu: "Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh anh chị em vừa nghe". Mỗi người hãy tiếp nối công việc của Đức Giêsu chung quanh mình, bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, tẩy trừ sợ hãi, giải thoát người dốt nát, xoa dịu các oán nhờn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện tích cực của Chúa bằng hoạt động của mình.

Nếu chúng ta trung thành thực thi nhiệm vụ của người môn đệ Chúa Kitô như đoạn Phúc âm hôm nay, thì lời tiên tri Isaia hôm nay cũng được ứng nghiệm, năm hồng ân của Chúa hôm nay đã được công bố và Nước Thiên Chúa đã hiện diện giữa chúng ta ngay từ bây giờ.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con là những môn đệ của Chúa biết bắt chước theo gương Chúa, tiếp nối công việc của Chúa đem tình thương, công lý đến cho người khác. Amen.

CON NGƯỜI SỐNG TRONG SỰ GIẢI THOÁT CỦA THIÊN CHÚA
Lc 1, 1 - 4; 4, 14 - 21

Là con người chắc hẳn ai trong chúng ta cũng mong muốn được tự do và hạnh phúc. Xã hội phong kiến thời xưa đã làm cho người Việt nam sống trong sự nô lệ của những người giàu sang và có quyền thế. Sống trong tâm trạng như thế thật là thê thảm. Chính những người Do thái ngày xưa cũng đã hết sức cực khổ vì phải làm tôi mọi cho người Ai Cập. Nhờ Thiên Chúa mà họ đã được giải thoát để trở về sống an bình trong vùng đất Chúa hứa.

Hình ảnh ấy báo trước một sự giải thoát quý báu thiêng liêng hơn mà Thiên Chúa sẽ thực hiện nơi thời Tân Ước. Thiên Chúa thực hiện điều ấy nơi Chúa Giêsu, Con duy nhất của Ngài.


Hôm nay, Chúa Giêsu vào hội đường Nagiaret và người ta trao cho Người đoạn sách thánh. Ðây là việc làm mà Chúa Giêsu thường làm trong mỗi ngày Sabat. Ðoạn sách thánh hôm nay được trích từ sách tiên tri Isaia:
"Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa" (Lc 4, 28 - 19).

Có một sự lạ thường đối với Chúa Giêsu trong ngày hôm nay là đọc xong đoạn sách thánh này Người mạnh dạn tuyên bố: 
"Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." (Lc 4, 21b). Nghĩa là chính Chúa Giêsu sẽ làm những điều này cho toàn thể nhân loại. Người đem đến cho con người sự giải thoát. Giải thoát con người khỏi ách nô lệ của tội lỗi và sự chết đời đời.

Từ khi tổ tông phạm tội thì con người đã đánh mất sự tự do thiêng liêng Thiên Chúa ban. Mà hậu quả của tội lỗi là sự chết. Dầu rằng chính con người tự chọn lấy điều ấy cho mình, nhưng Thiên Chúa vẫn không nỡ lòng nào để cho các con cái của Người phải gánh chịu mãi những hậu quả ấy. Ðó là hậu quả hết sức đát. Thiên Chúa tìm mọi cách để giải thoát con người. Và chính Chúa Giêsu là Ðấng đến đem cho con người sự giải thoát thiêng liêng vô cùng cao quý.


Cả cuộc đời của Chúa Giêsu nơi trần thế này là bằng chứng hùng hồn nhất về sự giải thoát mà Thiên Chúa đem đến cho con người. Chúa Giêsu đi đến đâu là bao nhiêu bệnh hoạn tật nguyền và nhất là tội lỗi của con người được cứu chữa và tha thứ đến đó. Trước khi về trời Chúa Giêsu đã ban quyền lại cho các tông đồ và những người kế vị: 
"Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ." (Ga 20, 22b - 23)

Ðược nhận lãnh ơn tha thứ mỗi khi phạm tội là một ơn vô cùng cao quý. Ðặc biệt, cùng với Giáo hội chúng ta đang sống trong Năm thánh về linh mục và Năm thánh 2010. Ðây là một thời gian hết sức thuận tiện để chúng ta được lãnh nhận những ơn tha thứ của Chúa. Hãy biết tận dụng thời gian này cho thật sự có ích lợi.

CHÚA NHẬT III TN C
Lc 1, 1 - 4; 4, 14 - 21

"Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sabat, và đứng lên đọc Sách Thánh (Lc 4,16)

Những ngày đầu ra đi rao giảng tin Mừng, danh tiếng của Chúa Giêsu đã lan rộng, được mọi người tôn vinh khắp nơi trong đất nước của mình và một trong những nơi quan trọng Ngài muốn gởi sứ điệp đó là ở các hội trường. 

Hội đường đã gắn liền với đời sống tôn giáo của dân tộc Do Thái, một nơi biểu lộ nhu cầu tâm linh không thể thiếu của họ. Ở đây, họ được nghe và đọc Kinh Thánh, học hỏi Lề Luật, Giáo Lý và mục đích trên hết là học đến để tôn thờ Thiên Chúa. Chúa Giêsu luôn sống đúng với tinh thần quí báo của cha ông, của dân tộc mình. Có rất nhiều đoạn Phúc âm mô tả Chúa Giêsu là mẫu mực tuân giữ tinh thần này. Cũng như hôm nay: "Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sabat, và đứng lên đọc Sách Thánh (Lc 4,16).

Giờ đây ngoài tư cách là một công dân thông thường của đất nước mình, theo thói quen đến hội đường vào ngày Sabát để nghe Kinh Thánh, Ngài còn là người đại diện để công bố Lời Chúa và đặc biệt hơn cả chính Ngài lại là nhân vật mà Lời Chúa đề cập. Đoạn Kinh Thánh thật đẹp mô tả về một Đấng Cứu Thế với những đặc tính lý tưởng làm cho lòng người bình an và hạnh phúc khi vị này xuất hiện và bây giờ Chúa Giêsu đang ở ngay trước mặt mọi người.


Ngày hôm nay hằng tuần vào mỗi ngày Chúa nhật chúng ta tụ họp nhau để nghe Lời Chúa, học hỏi Lời Chúa và để thờ phượng Thiên Chúa. Đời sống đạo của chúng ta thật sự hạnh phúc và ý nghĩa khi cùng nhau một lòng một ý hướng lòng lên Chúa, yêu mến và thờ phượng Ngài. Chúng ta thử nghĩ xem nếu đời sống đạo thiếu vắng ngày Chúa nhật và những buổi tụ họp nhau để cử hành Phụng Vụ, cử hành Lời Chúa, cùng nhau chia sẻ bàn tiệc Thánh Thể sẽ như thế nào? Ngày Chúa nhật quí báu biết bao, bằng những lời kinh tiếng hát chúng ta cùng nhau thờ phượng để khi ra về lòng đầy hớn hở vui tươi. Đời sống đạo thật sự hạnh phúc, đầy đủ cũng từ những của ăn thiêng liêng nuôi dưỡng tâm hồn nó là động lực vững vàng để chúng ta bước vào cuộc sống thường ngày với những trăn trở, lo toan, mạnh dạn đối diện với cuộc sống bấp bênh, nhiều cám dỗ. Cuộc đời có Chúa, luôn có Lời Chúa dẫn dắt và hướng dẫn chúng ta. 


Nhìn vào gương Chúa Giêsu, chúng ta học nơi Ngài lòng trung thành với Lề Luật, không chỉ với lòng trung thành mà đó còn một bổn phận nhưng trên hết vẫn là lòng yêu mến Thiên Chúa, Đấng là Cha dựng nên và yêu thương chúng ta.


Với những tâm tình đó chúng ta cảm ơn Chúa vì những ơn lành Ngài ban cho chúng ta. Có Chúa cuộc sống chúng ta luôn có điểm tựa vững chắc và biểu hiện cụ thể của người con thảo, chúng ta trung thành giữ và yêu mến ngày Chúa nhật.

KINH THÁNH, MỘT BẢN TÌNH CA
Lc 1, 1 - 4; 4, 14 - 21

Từ thuở khai thiên lập địa, TC đã tạo dựng nên loài người và Ngài đã yêu thương con người cách rất đặc biệt. Ngài coi con người như con cái của Ngài, cho hưởng hạnh phúc trong khu vườn địa đàng. Từ khi con người phạm tội, xa cách Thiên Chúa, Thiên Chúa như người Cha già luôn mong nhớ đứa con đi hoang. Bởi không hiểu tình Cha mà con dại khờ nghe theo lời dụ dỗ của kẻ ác.

Ðể cứu giúp con mình trong cảnh lầm than, Cha đã sai biết bao sứ giả đến bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Dù loài người thế nào, dù con người phản bội, tội lỗi, Chúa vẫn một lòng yêu thương sẵn sàng đón nhận trở về. Tình yêu Thiên Chúa vơi con  người là tình yêu của một người Cha, và có thể ví như tình yêu khắng khít của tân lang với tân nương.


Khi dân Do Thái phản nghịch với Chúa, bỏ Chúa theo các thần khác, họ phải chịu cảnh lưu đày nơi đất nước mà các thần này được tôn thờ. Nhưng rồi khi họ có lòng hối cải, Chúa lại qui tụ họ lại như trong bài đọc II chúng ta thấy: Yavê Thiên Chúa thức tỉnh vua Kyrô để ông ban sắc chỉ cho dân Israel trở về nước tái thiết lại đền thờ Giêrusalem. Và khi dân chúng đã trở về định cư, chính tư tế Esdras đã quy tụ họ lại, giáo huấn họ bằng cách mang sách luật ra đọc cho toàn dân Israel nghe. Dân chúng hiểu được tình thương của Chúa đối với họ và nhận ra những sự xúc phạm của mình đối với tình thương của Ngài. Họ ăn năn khóc lóc khi nghe những lời trong sách luật và quyết tâm sống trung thành với Chúa, tuân giữ những lời Chúa dạy trong sách luật. 


Sách luật mà tư tế Esdras đọc đây không phải là bộ luật hình sự của một quốc gia thế gian toàn là những quy định cấm đoán và mức hình phạt. Sách luật này là bộ Ngũ kinh, là lời Chúa dạy. Đó là luật tình thương, bồi bổ tâm linh như bài đáp ca thánh vịnh 18. Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can, mệnh lệnh Chúa trong ngời sáng soi con mắt. Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh, phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy. Vì vậy, luật Chúa đem lại sự sống, đem lại sự giải phóng, đem lại hạnh phúc thật cho con người. 


Trong bài Phúc âm, chúng ta thấy chính Chúa Giêsu là Lời Thiên Chúa, Ngài đến làm ứng nghiệm tất cả những gì sách thánh Cựu Ước đã tiên báo. Ngài là Ðấng của lời hứa, Ngài là Ðấng Kitô của Thiên Chúa. Khi đọc đoạn sách tiên tri Isaia này, Ngài cảm nghiệm rất rõ sứ mạng của Ngài: Thiên Chúa xức dầu cho Ngài, sai đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho những kẻ bị giam cầm, cho người mù được thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng.


Chúa Giêsu là Ðấng cứu tinh của chúng ta. Chúng ta có nhận thức rõ tình thương của Ngài đối với chúng ta chưa? Ngài là Thiên Chúa đến không phải để lấy uy quyền trách phạt chúng ta nhưng để phục vụ bằng lời rao giảng, bằng sống hy sinh và nhất là bằng cái chết trên thập giá vì chúng ta. Chúng ta hãy đáp tình thương yêu ấy. Một tình yêu chung thủy vì loài người được đáp trả bằng sự thờ ơ của nhân loại. Một mối tình không nói được hết bằng lời nhưng bằng sự hy sinh đổ hết máu mình ra để chuộc lấy linh hồn chúng ta.


Chúng ta hãy yêu mến Chúa, hãy cảm nghiệm tình thương Chúa trong cầu nguyện, trong hy tế thánh lễ và đáp trả bằng những việc hy sinh cụ thể để có thể xứng đáng với tình thương hy sinh của Người.

TRỌN VẸN
"Người đến Nagiaret, nơi sinh trưởng..."

Lc 1, 1 - 4; 4, 14 - 21

Một trong những điều bắt buộc với nhà truyền giáo là học tiếng nói của người bản xứ. Điều này không đơn giản là chỉ học để giao tiếp thông thường mà phải trao dồi càng chuẩn xác bao nhiêu càng tốt. Đến khi nào mà ngay chính người sở tại cũng không nhận ra được đây là một giọng nói của người nước ngoài nói tiếng nước mình mà như người bản xứ thật sự thì mới được coi là đạt yêu cầu. Thực tế điều này rất khó, đòi hỏi nhiểu tời gian và lòng kiên nhẫn. Tuy vậy, điều thú vị là khi am tường được ngôn ngữ của một dân tộc thì gần như thấu hiểu được trọn vẹn nền văn hóa của họ. 

Ngược lại khi đến một xứ truyền giáo thì ít nhiều nhà truyền giáo cũng mang theo những nét văn hoá của xứ sở họ. Do đó, nếu biết khôn ngoan chắc lọc thì những xứ truyền giáo sẽ có nhiều cơ hội làm giàu thêm cho nền văn hoá vốn có của dân tộc mình. Được như vậy thật là điều đáng coi trọng.


Theo chân Đức Giêsu, hôm nay chúng ta trở về Nagiaret, nơi chôn nhau cắt rốn của Người, nơi đã in đầy những dấu chân của Người, cũng là nơi chứng kiến Ngài lớn lên trong suốt 30 năm ẩn dật. Từ ngày từ giã đất mẹ ra đi làm loan báo Tin Mừng cứu độ theo ý Cha đến nay, Đức Giêsu mới có dịp trở về thăm quê. Lần trở về quê này quả thật có nhiều điều để nói. Ngài trở về "trong quyền lực Thánh Thần" và trong cái "danh tiếng đang lan tràn khắp chung quanh". Có lẽ dân chúng đã chờ đợi ngày này lâu lắm rồi. Chờ đợi để được chiêm ngưỡng người con đã làm rạng danh xứ sở. Nhưng quan trọng hơn là chờ đợi để được nghe những "cung vàng thước ngọc" từ miệng Người thốt ra. Và họ đã được toại nguyện. Ngài vào hội đường. Vị cai quản hội đường  không ngần ngại trao cho Ngài Thánh Kinh, và ưu ái dành cho Ngài công việc giảng giải Lời Chúa.


Quả thật, Đức Giêsu hôm nay không như một Giêsu, con một người thợ mộc ngày xưa. Giêsu hôm nay là Con Một Thiên Chúa đã được chứng nhận rõ ràng. Hàng thật đã được đóng ấn và xức dầu.


Ấy vậy mà trong mắt dân chúng Ngài vẫn rất thân quen, gần gũi, dễ thương như ngày nào. Ngài cao vời hơn chính tầng mây nhưng cũng thật đơn sơ và thân thuộctrong vị trí của những ngưòi bà con họ hàng, trong cái tình làng nghĩa xóm chân chất nhưng dạt dào nghĩa nhân. Là bởi đức Giêsu không phủ nhận cái nhân tính của mình. Ngài vẫn không từ chối quê hương máu thịt trần gian. Hơn thế, Ngài đã dùng chính cái thiên tính, và sức mạnh Thánh Thần để thánh hóa, truyền cho cái trần gian ấy một sức sống thiêng liêng, làm cho nó nên trọn vẹn theo ý Ngài.


Không biết vô tình hay hữu ý mà nhiều người vẫn còn ngộ nhận rằng theo đạo Công giáo là theo tà đạo, là chối bỏ truyền thống dân tộc, là bất hiếu. Tôi không phủ nhận có sự hiểu lầm hoặc là trong chính nội dung giáo lý, hoặc là trong cách ứng xử của những người có đạo. Đây thật sự là điều đáng tiếc. Nhưng phải nói ngay rằng, không bao giờ có sự mâu thuẫn đó. Bằng chứng là khi các nhà truyền giáo Tây phương sang Việt Nam thì chưa bao giờ các ngài cố gắng để xóa bỏ những truyền thống của dân Việt. Nếu có sự sai lầm là bởi các ngài đã hiểu không đúng và do đó đã áp dụng không phù hợp.


Ơn siêu nhiên không làm mất ơn tự nhiên. Nhưng thánh hoá con người, bổ túc cho những bất toàn của con người và tăng thêm sức mạnh để giúp chúng ta sống trọn vẹn và tốt đẹp hơn trong cuộc sống tự nhiên. Sự mất thăng bằng hay nói cách khác tại sao chúng ta không mở rộng được tâm hồn, không hoà nhập được với vũ trụ vạn vật và con người. Tại sao ta không giúp được gì cho người khác mà ngược lại còn cản trở họ tiến triển cũng do ta thiếu ơn Chúa mà ra. Tại sao ta khắc khoải, đau khổ, chán chường, thất vọng... bởi vì ta không nhận ra được những may lành mà Chúa đã ban. Với lòng tin, phó thác, và sự trợ giúp của Chúa ta dễ dàng vượt qua những trở ngại và hân hoan tiến bước.


Ước gì, ơn Chúa không trở nên hư mất mà còn làm cho chúng ta thêm triển nở trọn vẹn hồn xác.

NGƯỜI NGHÈO CỦA CHÚA
Lc 1, 1 - 4; 4, 14 - 21

"Thánh Thần Chúa ngự xuống trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin mừng cho người nghèo khó" (Lc1, 18-19). Nhưng ai là người nghèo trước mặt Thiên Chúa?

Trang Website "Một Góc Trời" có mục "100 bức ảnh làm thay đổi thế giới". Có 2 bức ảnh làm tôi xúc động đến ngậm ngùi. Bức ảnh thứ nhất đăng hình một bàn tay bé nhỏ, gân gốc, đen đủi, xấu xí của một người Uganda (mà tôi đoán là bàn tay của một bà lão) đưa ra và đặt lên một bàn tay trắng trẻo, mập tròn của một nhân viên cứu trợ đến làm việc ở đất nước này. Một hình ảnh thật xúc động làm sao! Bức ảnh đó làm tôi suy nghĩ đến thân phận của con người trước Thiên Chúa. Thiên Chúa đã giơ tay ra nâng đỡ bàn tay đen đủi và khẳng khiu của con người. 


Bức ảnh thứ hai chụp hình một đức bé khoảng 5 tuổi ở, trần truồng, ốm yếu ở Xuđăng (chỉ còn da bọc xương), đang đói lả nhưng vẫn cố bò về phía trại phân phát lương thực của Liên Hợp Quốc, cách đó khoảng 1km. Phía sau em là một con chim Kên Kên đang chờ đứa trẻ bị chết để nó có thể ăn thịt. Bức ảnh đã làm cho cả thế giới bàng hoàng. Không ai biết điều gì xảy ra với em bé, kể cả nhà nhiếp ảnh Kevin Carter, người đã rời ngay khỏi hiện trường sau khi chụp. Người ta cũng nói rằng ba tháng sau, Kevin đã tự sát.


Hai hình ảnh vừa kể cho chúng ta thấy rõ thực tế rất đáng buồn trên thế giới ngày nay là tình trạng nghèo khổ của hơn 1 tỷ người không có thức ăn hàng ngày, đặc biệt là ở các nước Châu Phi, chiến tranh và thiên tai nặng nề. Cái nghèo đói về mặt thân xác đã làm cho con người ta khổ đau đến thế. Người nghèo được Chúa Giêsu giải thích còn là những kẻ bị giam cầm, người mù, người bị áp bức. . . họ đang mong được thoát khỏi tình trạng ấy. Cho nên, Tin mừng của Chúa Giêsu mang đến cho họ quả là tin vui và tin mừng trọng đại.


Nhưng nếu người nghèo chỉ là những người nghèo về cơm bánh, những người bị giam cầm, bị mù loà, bị áp bức mà thôi, thì có lẽ đa số chúng ta đang ngồi đây không thuộc về hạng người đó. Vậy thì việc Chúa nói "loan Tin Mừng cho người nghèo khó" xem ra không liên hệ gì đến chúng ta rồi! Nhưng tinh thần của Tin Mừng hôm nay còn vượt xa phạm vi ấy rất nhiều. Theo nghĩa đen, thì chúng ta có thể là những người không bị giam cần, không bị mù loà, không bị áp bức về thể xác. Nhưng xét cho cùng, ai trong chúng ta mà không khổ sở thiếu thốn về một thứ gì đó: hoặc là vật chất hoặc là tinh thần. Ai trong chúng ta mà không bị "giam cầm" bởi một thứ "tù ngục" nào đó. Trong thực tế, chúng ta thấy có những kiểu nhà tù không chấn song, nhưng đã giam hảm con người trong đó. Có người bị "giam cầm" bởi những đam mê về tình, tiền hay tửu (rượu). Trong thực tế, ai trong chúng ta lại không bị "mù" một cách nào đó trước những vấn đề của cuộc sống: "mù" về nhận thức (không nhìn thấy chân lý), "mù" trong những chọn lựa (nhất là tình yêu mù quáng), "mù" trong cách hành xử đối với nhau...Cách đây 3 ngày, có một chuyện gây náo động cả thành phố Huế. Đó là câu chuyện liên quan đến anh chàng tên Minh, đang là một quân nhân phục vụ trong sư đoàn 968 đóng quân tại Cam Lộ, Quảng trị. Vì nghĩ rằng bị gia đình người yêu (đã đính hôn) ở thành phố Huế khinh thường vì mình nghèo, nên đã lén lấy súng của đơn vị đi tìm người yêu để nói chuyện. Vì được báo trước nên người yêu kịp lánh mặt, nhưng không may cho một cô nữ sinh đang học lớp 10 tình cờ bị hắn bắt làm con tin và đem vào một Khách Sạn ở Huế. Sau gần một đêm không ngủ của người dân cả khu vực gần đó và một lực lượng cảnh sát chuyên nghiệp, cuối cùng anh chàng Minh ấy đã bị trúng hơi cay của cảnh sát nghiệp vụ (cả cô gái nữ sinh cũng bị) và đã bị bắt. Đó là một thứ "mù quáng" trong những chọn lựa và hành động của con người! Cũng vậy, ai trong chúng ta lại không bị "áp bức" bởi một thế lực gian tà nào đó trong thế gian này. Đến như thánh Phaolô mà còn phải nhìn nhận rằng: "điều tôi muốn làm thì tôi không làm, điều tôi không muốn làm thì tôi lại cứ làm". Đó lại không phải là mình đang bị "áp bức" bởi dục vọng thấp hèn đó sao?!. . . Vì thế, Tin Mừng mà Chúa Giêsu đem đến cho trần gian và rao giảng là Tin Mừng dành cho tất cả mọi người, trong đó có chúng ta. Tin mừng có sức mạnh giải thoát, cứu sống và ban niềm vui cũng như hạnh phúc đích thực cho con người. Tuy nhiên, Tin Mừng mà Chúa Giêsu loan báo chỉ có hiệu quả đối đích thực đối với những ai 
ý thức về thân phận của mình là người nghèo, những người cần được Thiên Chúa cứu giúp.

Vậy chúng ta hãy xét lại xem mình là người thế nào trước mặt Thiên Chúa. Nếu thấy mình là "người nghèo" của Thiên Chúa, thì chúng ta hãy nhanh chóng chạy đến với Chúa và mở lòng mình ra đón nhận Tin mừng cứu độ của Ngài, vui vẻ sống theo những gì mà Chúa chỉ dạy để chúng ta là những người hạnh phúc ngay ở trần gian này: "Phúc cho những ai biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa". Amen.

CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN C 
Lc 1, 1 - 4; 4, 14 - 21

Anh chị em thân mến.

Nhìn vào xã hội ngày hôm nay, đâu đâu anh chị em cũng thấy trường học, từ những trường cho các cháu bé đến những trường cao cấp, đủ mọi ngành nghề. Mọi người trong chúng ta, nếu có đủ điều kiện thì cũng lo đến trường học, để lo tương lai bản thân, gia đình. Khi có con cái cũng thế. Ai cũng cố gắng cho con mình đến trường, để học những điều hay, điều tốt, học để bảo đảm cho tương lai. Thật thế những người có học, thì tương lai không đến nỗi tệ, cho dù về mặt vật chất của cải không sung túc, nhưng ít ra họ cũng biết cách sống làm người. Cũng có những người có vốn học thức, nhưng không biết đem những gì mình đã học để áp dụng vào đời sống, thì cũng trở nên vô ích. Còn có những người không chịu đến trường, không nghe lời cha mẹ, cũng không chịu học một người nào để biết những điều tốt đẹp của cuộc sống, thử nghĩ xem, đời sống của những người đó sẽ như thế nào, khi họ chỉ biết cậy dựa vào bản thân, chỉ học hỏi nơi bản thân.

Chúa Giêsu là Thiên Chúa, mặc lấy thân phận con người, Ngài sống thật sự gương mẫu cho con người: " Theo thói quen, Người vào hội đường". Như vậy từ lâu,Ngài đã có thói quen như những người thời bấy giờ, đến hội đường để học hỏi những điều cần thiết cho cuộc sống. Trong đoạn Phúc Âm chúng ta vừa nghe, Ngài đến hội đường, mọi người cũng đến hội đường và chăm chú nghe. Mọi người thời bấy giờ nhận thấy: hội đường là một trường học, là một ngôi nhà mà Thiên Chúa là Cha còn tất cả mọi người là anh em. Gia đình hội đường là nơi họ sống và lớn lên, cho nên hội đường không thể thiếu được trong đời sống của họ. Nhờ hội đường mà đời sống về phần đạo cũng như đời thường, được nuôi dưỡng, bồi bổ mỗi ngày được lớn mạnh thêm.

Thiên Chúa ban cho mỗi người một hoàn cảnh sống, Ngài còn cho mỗi người có trí thông minh và sự tự do, để biết chọn lựa tốt xấu cho cuộc sống. Chúng ta những người đang ngồi trong nhà thờ này, ai cũng có điều kiện để học biết. Trước tiên là cha mẹ, trường học đầu tiên mà mỗi người đều được trải qua. Kẻ đến là những người thân thuộc chung quanh. Đó là những ngôi trường tự nhiên không thể thiếu được trong cuộc sống làm người. Đa số trong chúng ta đều được đến trường học, để trao dồi thêm kiến thức. Nhưng những gì mà mình đã học biết, những gì đã tích lũy bao nhiêu năm qua, có sinh lợi ích thật sự cho chúng ta không? Đặt biệt, chúng ta còn là người Công Giáo, từ nhỏ đến giờ, chúng ta đã đến nhà thờ, đã nghe, đã biết, đã học, đã nhận lãnh rất nhiều. Nhưng những điều đó có sinh ích lợi gì cho chúng ta không? Hay chúng ta giống như những người học mà không biết đem áp dụng những gì mình đã học, để sinh lợi cho cuộc sống, như thế thì phí đi những gì mình đã vất vả đầu tư. Nếu như thế, thì buồn thay cho Đấng đã từng hy vọng nơi chúng ta, khi cố công chỉ dạy. Đó là Thiên Chúa, Ngài từng thương yêu mỗi người, chăm sóc cách đặt biệt, tạo nên những phương tiện cần thiết để chúng ta được học biết. Thế mà chẳng đem lại kết quả gì sao? Như vậy, nhà thờ của ngày hôm, có phải là ngôi nhà hội họp, là hội đường, là nơi không thể thiếu được trong đời sống của chúng ta không? Chúng ta có thấy cần thiết để đến nhà thờ nhận lấy sự hiểu biết để mà sống, nhận lấy sự bồi bổ cho đức tin, nhận lấy những lẽ phải để sống xứng đáng là con Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Hay là chúng ta sợ nhà thờ, chúng ta không quen đến nhà thờ, chúng ta thấy không cần thiết để lắng nghe, để học biết. Nếu như thế thì chúng ta sẽ ra sao, khi không học, không biết gì hết? ? ?

Mỗi người nhìn vào chính mình, nhìn vào những ngày tháng đã qua. Có những lúc chúng ta chìm đắm trong cô đơn thất vọng, cuộc đời không lối thoát, đó là những lúc chúng ta không biết đến với Chúa, không biết lắng nghe, không biết đem ra áp dụng những gì Thiên Chúa đã chỉ dạy chúng ta phải sống. Cũng có những lúc chúng ta can đảm đứng vững vàng trước những sống gió của cuộc đời, chúng ta vượt qua được những khó khăn của cuộc sống mà hiên ngang bước đi. Đó là những lúc chúng ta luôn có Chúa bên cạnh, luôn biết chạy đến với Ngài, luôn biết học nơi Chúa. Đó cũng là những lúc chúng ta cảm nhận được rằng: Thiên Chúa không thể thiếu vắng trong đời sống của chúng ta được.

Xin chúa cho chúng ta biết siêng năng đến với Ngài.

SỨ MỆNH ĐƯỢC SAI ĐI 
Lc 1, 1 - 4; 4, 14 - 21

Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đến với trần gian. Ngài đã sống một cuộc đời của người được sai đi. Khoảng thời gian sống ẩn dật và những năm rao giảng Tin Mừng, Ngài luôn thực hiện trọn vẹn công việc của một ngôn sứ :"Rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó", sống chứng nhân tình yêu giữa đời.

Chúa Giêsu xuất hiện công khai giữa đời với những chuỗi ngày rao giảng không mệt mỏi. Khắp những nẻo đường xứ Galilê đều ghi dấu bước chân của Ngài. Danh tiếng Ngài được nhiều người biết đến với nhiều lời khen tặng. Chính nơi vùng đất Galilê này Ngài bắt đầu sứ mệnh với nhiều thành công. Nhiều người đã đón nhận và say sưa với sự hiện diện của Ngài. Giai đoạn này được gọi là Mùa Xuân của Galilê. Ngài đến như mang lại một luồng gió ấm áp từ nơi Thiên Chúa. Chưa có phe đối lập nào xuất hiện, lòng người đang còn khát khao lời hằng sống đem lại sự tươi mới cho cuộc đời. Bởi lẽ bản tính con người Galilê ưa chuộng những gì mới mẻ và thích đổi thay.

Hôm nay Chúa Giêsu vào hội đường như thói quen Người vẫn làm trong ngày Sabbat. Tại đây, trong bối cảnh trang nghiêm, Ngài chính thức công bố chương trình hoạt động của mình: Ngài được sai đi để loan báo Tin Mừng cho những người nghèo nàn, khốn khổ. Như thế, Ngài đến để thực hiện điều mà Thiên Chúa đã hứa từ xưa qua lời ngôn sứ Isaia.

Tin mừng Chúa Giêsu được rao giảng cho hết mọi người nhưng đối với những người không khổ sở thiếu thốn thì Lời Chúa như đang nói với ai đó, chẳng liên can gì đến họ. Cho nên đối với họ đó chẳng phải là Tin Mừng gì cả. Nhưng đối với những người nghèo là những kẻ đang ở trong tình cảnh khổ sở, bị giam cầm, bị áp bức, bệnh tật.. họ đang mong thoát khỏi cảnh ấy. Với những người như thế, họ thật sự cần đến Chúa Giêsu. Do đó, những lời công bố của Chúa Giêsu mới thật sự là Tin Mừng cho họ.

Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, mỗi người nhận lấy sứ mệnh là ngôn sứ của Chúa, là người được Thiên Chúa sai đi. Ngài sai ta làm tông đồ cho Ngài. Công việc tông đồ là gì? Chúa Giêsu đã cụ thể đó là loan Tin Mừng cho người nghèo khổ. Ngày nay có những hạng nghèo mà người tông đồ phải đến loan tin: nghèo vật chất, nghèo tình thương, nghèo ân sủng, nghèo đức tin.

Những người nghèo về vật chất : cuộc sống của họ thường vất vả, cơ cực. Ta có đủ tôn trọng và cư xử lễ độ với họ không? Ta có giúp đỡ họ hay tìm cách vận động để ngượi khác giúp đỡ không? Ta có những lời an ủi động viên để họ đừng vì cảnh nghèo mà phải xa Chúa không? Hãy đến cảm thông, chia sẻ và an ủi họ. Hãy cho họ biết rằng họ là những người Thiên Chúa đặc biệt yêu thương.

Những người nghèo tình thương: đó là những người cô đơn, không nhà cửa, những người đau bệnh ít người đến viếng thăm. Họ là những người bị bỏ rơi phải lang thang lề đường, phố chợ. Có thể họ là những người gần cạnh bên ta. Ta có đến thăm nom họ không? Ta có gieo chút bình an, chút tình thương nào không? Người được sai đi loan Tin Mừng phải cho người khác một hy vọng và tin tưởng rằng Thiên chúa vẫn đoái nhìn đến họ.

Những người nghèo ân sủng: đó là những người tội lỗi, bê trễ trong đời sống đạo. Ta có mạnh dạn nhắc nhở để họ trở về với tình thương của Chúa không?

Sau cùng, những người nghèo đức tin: hạng này rất đông. Những người này hiện nay gặp rất nhiều nơi sở làm, trong đám tiệc, xóm giềng...Đừng quên Chúa sai ta đến với họ để cũng rao giảng Tin Mừng cho họ. Nếu ta ngại ngùng không dám nói thẳng thì ít ra đời sống của ta phải tỏ ra mình là người tông đồ thật sự và luôn sống tốt với mọi người.

Sứ mệnh đến với người nghèo của Đức Giêsu luôn được tiếp tục trong Giáo hội và qua Giáo hội. Chúa Giêsu mong muốn là môn đệ Ngài tiếp tục sứ mạng ấy. Vì được nhận lãnh Tin mừng và hồng ân từ Thiên Chúa, ta cũng phải làm cho ơn ấy tiếp tục đến với nhiều người: gặp nhau trong niềm vui, nâng đỡ ai đau khổ, xoa dịu các oán hờn. Tình yêu Chúa sẽ đổ tràn cho những người biết rộng tay đón nhận và mạnh dạn dấn thân.

GIẢI THOÁT
Lc 1, 1 - 4; 4, 14 - 21

Ta đang sống trong một thế giới mà dường như người ta đang rất đề cao sự tự do. Tự do đi lại, tự do ăn uống, tự do mua sắm......Dường như càng ngày con người càng không muốn lệ thuộc vào bất cứ thứ gì hay bất cứ ai. Họ chỉ muốn tự mình giải quyết tất cả những vấn đề của cuộc sống. Thế nhưng, trớ trêu thay khi càng tự mình đi tìm tự do theo ý mình bao nhiêu thì người ta lại càng tự trói buộc mình bấy nhiêu. Như vậy, tự mình chúng ta không thể giải thoát được mình. Chúng ta phải cần nhờ đến Thiên Chúa.

Các thầy tư tế và Lêvi sau khi đọc sách luật đã giải thích cho dân chúng nghe. Họ bảo dân chúng hãy vui lên và đừng buồn nữa vì Thiên Chúa là thành trì bảo vệ. Đây là điều ta thấy được trong bài đọc 1.

Con Chúa Giêsu trong bài Tin mừng sau khi đọc đoạn sách ngôn sứ: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa"Người đã tuyên bố : "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe". Nghĩa là chính Chúa Giêsu đang đến và ngay hôm nay Người đang thực hiện những việc đó cho con người chúng ta.

Chắc chắn từ trước đến giờ và mãi mãi về sau không có ai dám tuyên bố như Chúa Giêsu hôm nay. Chỉ có Con Thiên Chúa mới dám khẳng định như vậy. Bởi lẽ, sứ mạng chính của Người khi đến trần gian là đem ơn cứu độ và ơn giải thoát cho muôn người.

Nhìn lại lịch sử cứu độ ta cũng sẽ thấy sau khi Tổ tông phạm tội, Thiên Chúa đã không vì thế mà bỏ rơi con người. Thiên Chúa tìm mọi cách để giải thoát họ. Thiên Chúa cứu gia đình ông Nôe khỏi lụt Đại hồng thuỷ. Thiên Chúa chọn Ông Abraham để thành lập dân riêng....Nổi bật nhất là qua Môsê, Thiên Chúa đã giải thoát dân Người khỏi ách nô lệ Ai Cập.

Còn với Chúa Giêsu thì chỉ trong 3 năm mà Người đã giải thoát cho không biết bao nhiêu người bị đủ các thứ bệnh hoạn tật nguyền. Người đã giải thoát cho nhiều người từ bị đui mù, què quặt đến bị quỷ ám. Bên cạnh đó, Người còn giải thoát cho nhiều người bị xã hội và lề luật chèn ép như người phụ nữ tội lỗi, ông Dakêu người thu thuế, người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình...

Ngày nay, Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục giải thoát ta. Những Lời Chúa dạy trong Kinh Thánh, những chỉ dẫn của Giáo hội, các Bí tích... là những phương thế Thiên Chúa dùng để giải thoát ta. Quan trọng nhất là qua đó Thiên Chúa sẽ giải thoát ta khỏi tội lỗi và sự chết.

Như thế, chỉ có đặt niềm tin và phó thác nơi Thiên Chúa thì ta mới mong được thoát khỏi tội lỗi và sự chết.

HÔM NAY
Lc 1, 1 - 4; 4, 14 - 21

Câu kết của bài hát "Bài ca cây lúa" được hát như thế này "Ngày mai đang bắt đầu từ ngày hôm nay". Trong ca dao, tục ngữ Việt Nam chúng ta cũng bắt gặp nhiều tư tưởng đề cao giá trị của thời phút hiện tại, cái "hôm nay" của cuộc sống. Đặc biệt trong các sách Tin Mừng Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần dùng "thì hiện tại" trong các cuộc đối thoại của Ngài "hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe", "Hôm nay nhà này được ơn cứu độ", "Hôm nay và ngày mai tôi trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, ngày thứ ba tôi hoàn tất... "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng."... Thế giá trị của cái hôm nay quan trọng như thế nào cho ơn cứu độ của chúng ta?

Hôm qua là lịch sử, ngày mai thì bí ẩn chỉ có hôm nay là quà tặng, quà tặng của cuộc sống. Cuộc sống người Kitô hữu của chúng ta cũng thế, Chúa vẫn hằng đến với chúng ta hằng ngày và đặc biệt trong ngày hôm nay của cuộc sống. Trong bài Phúc Âm Luca chúng ta được nghe hôm nay, sau khi Chúa Giêsu đọc đoạn sách Tiên Tri Isaia thì Ngài nói "Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe". Ứng nghiệm là ứng nghiệm cái gì? Thưa là ứng nghiệm lời tiên tri Isaia loan báo ngay chính lúc này, chính ngày hôm nay. Chúa Giêsu nhận mình là người mà Tiên Tri Isaia loan báo, là người được xức dầu, để loan báo Tin Mừng cho người nghèo hèn, công bố cho người bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa.

Đối với Thiên Chúa không có quá khứ cũng chẳng có tương lai mọi sự đối với Chúa chỉ toàn là hiện tại. Qua mỗi trang Tin Mừng ta dễ dàng thấy nếu ai biết nhận ra Chúa đến với họ và họ biết nhanh chóng đón Chúa thì họ như được tất cả do Thiên Chúa ban cho, còn ai ngập ngừng lần lựa thì Chúa kể như "đồ ngốc" và như họ bị vuột mất mọi thứ.

Đơn cử như trường hợp Dakêu, ông nghe biết Chúa Giêsu tiến vào thành Ghêrikhô thì ông đã phải vượt qua những rào cản hữu hình cũng như vô hình, từ những khiếm khuyết thể lý cho đến những khiếm khuyết luân lý. Ông vượt qua tất cả. Chúa Giêsu thấy sự nỗ lực của ông và Chúa đã đáp lại hơn cả sự mong đợi của ông. Chúa còn ban ơn cứu độ cho gia đình ông"Hôm nay nhà này. được ơn cứu độ ...".Về phía Dakêu sau khi đón nhận Chúa vào nhà mình, ông đã biến đổi : từ một con người coi tiền tài danh vọng là tất cả mọi sự thì nay ông nhận ra Chúa và ơn cứu rỗi của Người là cùng đích đời ông nên ông nói "Này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi cưỡng đoạt của ai cái gì, thì tôi xin đền gấp bốn". Rõ ràng khi Dakêu thấy Chúa Giêsu thì ông không chần chừ, lần lựa mà ông đón Chúa và nhà mình và ông nhận được ơn cứu rỗi.

Người giàu có trong dụ ngôn của Chúa Giêsu thì ngược lại. Sau khi thấy mình có đầy dư gạo thóc, ông định phá bỏ những kho lẫm cũ để xây dựng những kho lẫm mới lớn hơn và ông cho rằng lúc đó mình sẽ an tâm cho số phận của mình. Chúa bảo "Đồ ngốc vì đêm nay người ta sẽ đòi mạng ngươi". Người nhà giàu này chần chừ lần lựa, tự lo cho chính mình, đợi kế hoạch của mình hoàn thành đã thì mới tính tiếp. Chúa không coi đó là cách thức khôn ngoan vì đối với Chúa mọi sự phải là hiện tại.

Trở lại bài đọc I, Tiên Tri Nơkhemia và tư tế Et-ra sau khi giảng giải lề luật cho dân chúng thì các ông nói "Hôm nay là ngày thánh hiến cho Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, anh em đừng sầu thương khóc lóc..."và chính ngày hôm nay là ngày hồng phúc Thiên Chúa dành cho chúng ta, ngày Thiên Chúa mang Tin Mừng đến cho những người nghèo hèn .... ngày Thiên Chúa thi ân giáng phúc.

Mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy sống "ngày hôm nay" như là hồng ân của Chúa, Chúa đến với ta từng giây, từng phút trong cuộc đời, ta phải nhận ra Chúa qua từng biến cố, từng cảnh sống. Chính Chúa Giêsu cũng đã chấp nhận cuộc sống trần thế và Ngài đón nhận nó như là ân ban và Ngài đã thánh hoá đem lại ơn cứu độ cho những ai biết thánh hoá từng ngày sống của mình.

ĐÓN NHẬN
Lc 1, 1 - 4; 4, 14 - 21

Trong quyển sách mang tựa đề "Chuyện ở đời" , có một câu chuyện như thế này : Ông chủ điền nọ rất giàu có. Ông cho các tá điền mướn đất làm ăn canh tác. Nhưng rồi sau một thời gian làm ăn thất bại, các tá điền lâm vào cảnh túng th iếu nợ nần, nên không thể đóng thuế cho chủ theo đúng kỳ hạn được. Và dù biết rằng ông chủ mình rất tốt bụng, nhưng họ vẫn áy náy lo sợ vì không biết chủ sẽ hoãn nợ cho mình được bao lâu. Một ngày nọ, tất cả các tá điền được mời tới để ông chủ gặp mặt. Ai nấy đều hồi hộp sợ ông chủ thu hồi lại đất vì họ không còn khã năng để đóng thuế nữa. Khi mọi người có mặt đông đủ thì người quản lý của ông chủ bước ra và nói: "ông chủ biết chắc là ai trong các ngươi cũng không đủ khả năng để đóng thuế, cho nên ông chủ nhờ tôi nói cho các người hay " Nói tới đây, viên quản lý ngừng lại, và dường như tim của các tá điền cũng ngừng đập theo, và rối viên quản lý nói tiếp: "..hôm nay tôi mang đến cho các ngươi một tin mừng, đó là ông chủ quyết định tha hết nợ nần cho các ngươi. Từ nay các ngươi cứ an tâm làm ăn sinh sống ". Thế là mọi người sung sướng reo hò. Họ ôm nhau múa nhảy hát ca. Sau nhiều năm vất vã cực nhọc, hôm nay họ mới nhận thấy ánh sáng mặt trời là tươi đẹp, tiếng chim hót trên cành rất thanh thót, cây cỏ chung q uanh mình thật rực rỡ và đáng yêu.

Thưa quý ông bà và anh chị em ! Câu chuyện trên đây phần nào giúp chúng ta hiểu được điều mà Giáo hội muốn trình bày trong phần Phụng vụ Lời Chúa của Thánh lễ hôm nay: "Chúa Giêsu là niềm vui cứu độ". Niềm vui đó không phải là những lời loan báo suông với những hứa hẹn, mà là chính con người của Chúa Giêsu, cùng với những lời loan báo thật chính xác của tiên tri Isaia về Người: "Thánh Thần chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo tin mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, Công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng". Đây là một tin mừng mà Người Quản Lý của Thiên Chúa mang tên là Đức Giêsu Kitô đã đem đến cho tất cả mọi người. Quả thật, nếu đọc lại tất cả những gì đã được ghi chép trong phúc âm, chúng ta sẽ th ầy được rằng : Đức Giêsu đã thực hiện từng câu từng chữ một trong lời giới thiệu của tiên tri Isaia qua những lời dạy dỗ, các phép lạ, và qua cung cách ứng xử của Người. Chính vì thế mà hôm nay Người hoàn toàn có đầy đủ tư cách để tuyên bố trước mặt mọi người rằng: "Hôm nay đã ứng nghiệm đoạn Thánh Kinh mà tai các ngươi vừa nghe" . Nói khác đi là hôm nay, Đức Giêsu muốn nói cho mọi người biết rằng: Người chính là Đấng Cứu Thế, là người Tôi Tớ Giavê mà Isaia đã loan báo thủơ nào. Lời của tiên tri Isaia vi ết về sứ mạng của chúa Giêsu, cũng là lời viết cho sứ mạng của Giáo hội ở mọi nơi và mọi thời, nhất là trong thời đại này, sứ mạng ấy càng trở nên cấp bách và khẩn thiết hơn.

Đứng trong ngôi nhà Giáo hội, chúng ta cũng mang lấy chính vai trò của người mẹ mình, đó là tiếp tục sứ mạng của Chúa, là nối dài những công việc mà Người đã làm, là đem tinh thần của Người đến với tất cả các môi trường mà chúng ta đang sinh sống và làm việc. Sứ mạng này chúng ta đã nhận lấy trong ngày lãnh Bí tích Rữa tội khi Giáo hội tuyên bố: "Con đã trở nên ánh sáng Chúa Kitô. Con hãy dùng chính đời sống tốt lành của con để giúp những người chung quanh nhận biết được ánh sáng của Chúa" . Thế nhưng bây giờ thử hỏi rằng : Chúng ta đã đón nhận lời đó ra sao ? Chúng ta đã sống, chúng ta đã thực hiện lời đó trong mức độ nào ? Có bao giờ chúng ta đón nhận lời của Chúa giống như là dân Do Thái trong câu chuyện của bài đọc thứ nhất không ? Tác giả của bài đọc một thuật lại là : ngày hôm ấy, Thầy Tư Tế Esdras không phải là chỉ đọc vài ba phút như chúng ta ở đây, mà Thầy đã đọc từ sáng cho tới trưa. Vậy mà không ai càn nhằn trách móc, không ai bỏ ra về cả. Khi Thầy Tư Tế mở sách ra thì toàn dân đều đứng dậy, họ cúi mình, họ phủ phục sát đất để nghe lời của Chúa. Và tác giả cho biết thêm là mọi người đều khóc trong ngày hôm đó.

Họ khóc không phải mỏi chân hay dài dòng, cũng chẳng phải vì đó là những luật lệ mà họ phải gánh vác, mà họ khóc vì họ đã cảm nghiệm được tình thương của Chúa dành cho họ. Vì tình thương, vì muốm bảo vệ, vì muốn họ nên tốt hơn, mà Chúa đã ân cần ban lời của Chúa cho họ.

Thưa anh chị em ! Chúa chúng ta đã hứa rằng :

"Điều Ta dạy, con ơi giữ cho thật đúng 
Tuân cứ lệnh Ta, con sẽ sống một đời ".

Vâng ! quá rõ ràng, quá dứt khoát. Lắng nghe và sống Lời Chúa là con đường duy nhất dẫn chúng ta về "Trời mới đất mới" , nơi mà ánh sáng mặt trời luôn tươi đẹp, tiếng chim trên cành luôn thánh thót, cây cỏ luôn rực rỡ muôn màu. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho nhau, để khi bước qua năm mới dương lịch này, chúng ta cãm nhận được tình thương của Chúa trong cuộc sống của mình, thì chúng ta cũng sẵn lòng đón nhận lời dạy của Người như là một hướng dẫn tốt nhất cho con thuyền cuộc đời của mình. Đón nhận không phải là để cho riêng mình, nhưng là để chia sẻ lại những lời đó cho người khác bằng một đời sống chân thành đầy bác ái, để qua đó, mọi người khi nhìn thấy đời sống tốt lành của mình thì cũng thốt lên rằng: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Thánh Kinh mà chúng tôi vừa nghe".

GÓP PHẦN THI HÀNH SỨ VỤ THIÊN SAI 
Lc 1, 1 - 4; 4, 14 - 21

1. LỜI CHÚA: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan Tin mừng cho kẻ nghèo hèn" (Lc 4,18).

2. CÂU CHUYỆN: CHÚA NÓI VỚI CHÚNG TA BẰNG CÁCH NÀO?

Cách đây khá lâu, một vở kịch mang tựa đề là "Hoàng Gia đi săn mặt trời" kể lại cuộc chinh phục của người Tây ban nha đối với dân da đỏ ở Pê-ru. Trong đó có một màn kể lại câu chuyện về một người Tây ban nha tặng cho viên tù trưởng của bộ lạc da đỏ một cuốn Thánh Kinh và nói với viên tù trưởng rằng : "Đây là Lời Chúa. Ngài nói với chúng ta trong cuốn sách này". Viên tù trưởng cầm lấy cuốn Thánh Kinh, xem xét thật kỹ và sau đó áp cuốn sách vào một bên tai để nghe ngóng. Nhưng dù đã cố gắng hết sức mà cũng chẳng nghe thấy có tiếng nói nào từ cuốn sách phát ra. Cử chỉ ngây thơ của viên tù trưởng khiến những người Tây ban  nha có mặt cười ồ lên. Viên tù trưởng nghĩ mình bị mấy người ngoại quốc kia chơi khăm, liền nổi giận và ném mạnh cuốn Kinh Thánh xuống mặt bàn trước mặt !

3. SUY NIỆM:

1) Đức Giê-su công bố sứ vụ Thiên Sai: Sau một thời gian đi rao giảng Tin mừng và làm phép lạ khắp miền Ga-li-lê, danh tiếng Đức Giêsu đã lan truyền khắp nơi, Người trở về thăm quê hương Na-da-rét. Vào ngày sa-bat, Người đến hội đường cầu nguyện theo thông lệ, viên trưởng hội đường đưa cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở trúng ngay đọan nói về sứ vụ của Đấng Thiên Sai như sau: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa" (Lc 4,18-19). Sau đó gấp sách lại, Người ngồi xuống và tuyên bố: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe" (Lc 4,18-19).

2) Hội Thánh tiếp tục sứ vụ Thiên Sai: Ngày nay sứ vụ của Đức Giê-su được Hội Thánh tiếp tục thực hiện. Đức Giê-su đã đổ Thần Khí cho các Tông đồ để các ông đi công bố Năm hồng ân của Thiên Chúa, loan Tin mừng cho mọi người, giải phóng con người khỏi các hậu quả của tội lỗi là bệnh tật, đau khổ và sự chết: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân dnh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em" (Mt 28,19-20).

3) Các tín hữu thi hành sứ vụ bằng việc tông đồ: "Ơn gọi Kitô hữu tự bản chất cũng là ơn gọi làm tông đồ". Mọi hoạt động của Nhiệm Thể nhằm "làm cho Nước Đức Ki-tô rộng mở trên khắp hoàn cầu" đều được gọi là "việc tông đồ"» (GLCG, 863); Là ki-tô hữu, là cánh tay nối dài của Đức Giê-su, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi cộng tác với Chúa để làm bùng lên ngọn lửa yêu thương mà Đức Giê-su đã đem xuống trần gian, bằng việc thực thi giới luật yêu thương ngay trong gia đình rồi đến khu xóm, giáo xứ và ra ngòai xã hội. Đó cũng là con đường nên thánh, là chìa khoá để mở cửa thiên đàng cho chúng ta trước tòa phán xét sau này.

4) Làm tông đồ là sống đời chứng nhân cho Chúa: Đức Gio-an Phao-lô II đã nói: "Người thời nay thích nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có nghe những thầy dạy thì đó lànhững thầy dạy này là những chứng nhân". Thực vậy, lời giảng thường khó thuyết phục cho bằng gương sáng như người ta thường nói: "Trăm nghe không bằng một thấy". Lời giảng mà thiếu gương sáng sẽ vô ích và có khi còn phản tác dụng: làm cho người ta thù ghét đạo Chúa hơn. Các tín hữu cần thực hành theo lời khuyên trong lễ phong chức như sau: "Con hãy tin điều con đọc, dạy điều con tin và thi hành điều con dạy". Cần áp dụng lời Chúa khi suy nghĩ, ứng xử giữa đời thương. Cần sống hiệp nhật yêu thương noi gương các tín hữu thời Hội Thánh sơ khai đã được sách Công Vụ ghi lại như sau: "Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn sống hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng...Tất cả đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được tòan dân thương mến. Và Chúa cho cộng đòan mỗi ngày có thêm những người được cứu độ" (Cv 2,42-47).

4. THẢO LUẬN: Một ông chủ nhà kia muốn cho vợ con học sống Lời Chúa nên đã làm như sau: Ông găắn một tấm bảng trên bức tường trong phòng ăn. Mỗi tuần ông viết lên bảng một câu Lời Chúa chủ đề và một vài quyết tâm thực hành. Trước mỗi bữa ăn và trong giờ kinh tối gia đình, các thành viên sẽ cầu nguyện tự phát dựa theo câu Lời Chúa và những việc làm đề nghị. Vậy theo bạn, cách làm của ông gia trưởng trên có tác dụng thực sự hay không? Bạn quyết định sẽ làm gì để gia đình bạn trở thành một gia đình sống chứng nhân của Chúa?

5. NGUYỆN CẦU:

- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con nhận ra Thánh Thần Chúa vẫn đang ngự giữa thế giới và trong lòng mọi người. Thế giới hôm nay tuy còn nhiều tội lỗi, nhưng vẫn chan hòa ánh sáng tin yêu nơi các gia đình tín hữu, trong các xóm đạo, nơi các cộng đoàn quyết tâm học sống Lời Chúa. Ngày nay người ta đã biết ngồi lại với nhau để giải quyết các tranh chấp và tìm kiếm hòa bình; Các tổ chức quốc tế đều hợp tác chống lại sự kỳ thị chủng tộc, mầu da, tôn giáo, phái tính, bệnh tật; Các cơ quan đoàn thể hợp tác để chống tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác... Xin cho các tín hữu chúng con cũng biết hợp tác để góp phần làm cho ngôi nhà chung của nhân lọai là trái đất ngày một tốt đẹp hơn.

- LẠY CHÚA. Xin cho chúng con cũng được đầy Thánh Thần để sẵn sàng đi bước trước đến với tha nhân : nở nụ cười thân thiện với một người chưa quen, dấn thân phục vụ dân nghèo ở những vùng sâu vùng xa... Xin cho mọi người khắp nơi không còn đau khổ, nước mắt và thù hận, nhưng chỉ còn tình thương và biết quan tâm phục vụ cho nhau.

X. Hiệp cùng Mẹ Maria         
Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.

LM ĐAN VINH    www.hiephoithanhmau.com

MỞ ĐẦU SỨ VỤ CỦA CHÚA GIÊSU
Lc 1, 1 - 4; 4, 14 - 21

Thánh Luca tường thuật Tin Mừng của Ngài là để loan báo sứ điệp của Chúa, thông báo Lời Chúa. Bởi vì, thánh Luca không phải là sử gia để ghi chép cuộc đời của Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã nghe những người mục kích những việc Chúa làm, những Lời Chúa nói để tường thuật lại sứ điệp cốt yếu của Chúa Giêsu. Do đó, trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Luca đã trình bầy hai phần và phần nào cũng là phần mở đầu cả. Phần thứ nhất trích lời mở đầu của Tin Mừng thánh Luca và phần thứ hai là lời mở đầu sứ vụ của Ngài trong Hội Đường làng quê Nagiarét.

Bài đọc nhất tư tế Ê-dơ-ra đem sách Luật ra trước mặt cộng đồng, gồm đàn ông đàn bà, và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn...Ông đọc từ sáng sớm tới trưa, và toàn dân lắng tai nghe sách Luật. Đoạn sách này cho chúng ta hiểu rõ đáp ca: " Lạy Chúa, những lời Ngài phán dạy. Là thần khí và là sự sống của chúng con ". Do đó, thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi tín hữu Corintô 12, 12-30, có viết: " Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người thứ nhất là làm tông đồ, thứ hai là làm ngôn sứ, thứ ba là làm thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được tài quản trị, được nói những thứ tiếng lạ...". Rõ ràng, tất cả phải được chọn và được sai đi để nói Lời Chúa và công bố sứ điệp tình thương của Ngài như lời tung hô Tin Mừng viết: " Ha-lê-lui-a.Ha-lê-lui-a. Chúa đã sai tôi đi.Đem Tin mừng cho người nghèo khó.Công bố lệnh ân xá cho những kẻ bị giam cầm.Ha-lê-lui-a ". Thánh Luca không làm công việc của một nhà viết sử. Ngài chỉ muốn trình bầy và công bố Lời Chúa, và kể lại những việc Chúa đã làm. Ngài muốn dạy Giáo lý hơn là viết cuộc đời của Chúa theo kiểu sử gia. Nên, Ngài đã để sự kiện Chúa Giêsu giảng Lời Chúa, cắt nghĩa Lời Chúa tại Hội Đường Nagiarét ngay đầu Tin mừng của Ngài.


Ở đây, thánh Luca đã nhấn mạnh sự kiện Chúa Giêsu giảng Lời Chúa ngay tại Hội Đường quê hương của Ngài ngày sabát, là để cho thấy trước tiên Chúa giảng dạy cho dân Do Thái vì thánh Luca là dân ngoại mới trở lại đạo và rồi qua bước ngoặt lịch sử thông điệp của Chúa Giêsu dựa trên lời ngôn sứ Isaia: " Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo Tin Mừng cho kẻ nghẻo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên cáo lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, loan tin cho người mù biết sẽ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa ", sẽ được công bố cho cả dân ngoại.


Thực tế,lời công bố của Chúa qua lời tiên tri Isaia đã thực hiện nơi chính Ngài.Lời ngôn sứ ấy dù đã được loan báo cách đó rất lâu nhưng nó đang được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu ngay tại nơi Chúa sinh trưởng. Lời này cho thấy truyền thống không hề bị ngắt đoạn nơi Chúa.


Chúa Giêsu đã tóm tắt sứ điệp tình thương của Ngài: người nghèo được nghe giảng Tin Mừng, Chúa giải phóng người bị áp bức và công bố năm hồng ân. Những người Do Thái trong Hội Đường lúc ấy, năm ấy, giờ ấy đã rất ngạc nhiên vì Chúa làm đảo lộn hoàn toàn trật tự có sẵn. Họ thẳng thừng chối từ Ngài. Họ không thể tin được những lời nói ấy lại ám chỉ về Ngài. Họ không chấp nhận nguồn gốc, lai lịch của Ngài. Ngài là con bác thợ mộc Giuse và con bà nội trợ Maria. Họ không thể chấp nhận Đấng Cứu Tinh, Đấng Thiên Sai lại đi loan báo sự giải phóng cho những kẻ bị đàn áp, những kẻ thấp cổ bé họng, những người cùng khổ. Họ không thể tin giờ này lại là giờ của hồng ân và rồi họ đâm ra căm ghét Ngài, tìm cách khử trừ Ngài.


Vâng, ngôn sứ Isaia trong quyển thứ ba có loan báo rằng, Tin Mừng là những người xa quê hương, xứ sở sẽ được trở về nơi cũ. Tin Mừng Chúa Giêsu công bố hôm nay là Tin Mừng cho người nghèo, Tin Mừng của tình yêu, của cứu độ bởi vì họ sẽ được Thiên Chúa yêu thương.Họ sẽ được Thiên Chúa giải phóng khỏi tội lỗi, khỏi những điều ràng buộc của sự dự nhờ tình yêu và thần khí của Chúa.


Chúa loan báo Tin Mừng, công bố năm hồng ân để người người được chan hòa ân sủng, người áp bức, kẻ tù đầy được cứu thoát và rồi mọi người sẽ nhận được ơn cứu độ của Thiên Chúa.


Lạy Chúa Giêsu, Chúa yêu thương chúng con bằng một tình yêu cao vời khôn ví. Xin cho chúng luôn sống hiệp nhất yêu thương nhau để tất cả chúng con được nên một như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha. Amen.

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

LỜI QUYỀN NĂNG LÀ THẦN TRÍ VÀ SỰ SỐNG
Lc 1, 1 - 4; 4, 14 - 21

Mở cuốn Thánh Kinh, chúng ta thấy ngay sức mạnh của Lời, đó là tạo dựng nên vũ trụ vạn vật. "Thiên Chúa phán: "Phải có ánh sáng." Liền có ánh sáng..." ( x.St 1). Thánh Gioan khởi đầu Tin Mừng bằng những dòng tuyên tín về tính siêu việt, sự tiền hữu cũng như quyền năng của Ngôi Lời: " Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành" ( Ga 1,1-3 ).

Thành thật cám ơn anh em Tin Lành đã góp phần một cách nào đó để rồi trong Công Đồng Vatican II Giáo hội Công giáo mạnh mẽ khẳng định rằng Giáo hội luôn tôn kính Lời Chúa ngang hàng với Thánh Thể Chúa Kitô ( x. MK số 21 ). Với các bài Thánh Kinh trích đọc trong Chúa Nhật III TN C này, cách riêng bài đọc thứ nhất, Thánh vịnh đáp ca và bài Tin mừng, khiến chúng ta dễ nhận ra chủ đề là Lời Chúa và hiệu năng của Lời.


Khi khẳng định mình luôn tôn kính Lời Chúa như Thánh Thể Chúa Kitô, thì Giáo hội tuyên tín rằng Lời Chúa không chỉ là những gì được Chúa phán dạy mà còn chính là một Hữu thể, một Ngôi vị siêu việt, có từ đời đời và đầy quyền năng. Và Lời quyền năng ấy cũng là Lời Tình Yêu. Chính vì thế hiệu quả của Lời được tuyên ban luôn là những sự tốt đẹp cả về sự hiện hữu lẫn cách thế hiện hữu ( x. St 1 ). " Lạy Chúa, Lời Chúa là thần trí và là sự sống" ( Đáp ca ). Qua bài trích Tin Mừng thánh Luca của Chúa Nhật III TN C, chúng ta cùng xem xét một vài hiệu quả của Lời được tuyên ban vốn đã được Chúa Giêsu minh nhiên khẳng định "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe" ( Lc 1,21 ).


Lấy lại lời Ngôn sứ Isaia, Chúa Giêsu minh định rằng Thánh Thần ngự trên Người, xức dầu tấn phong cho Người để Người loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Và những hiệu quả của Lời Người loan báo đó là: "công bố cho kẻ bị giam cầm được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa" ( Lc 4,18-19 ).


Công bố năm hồng ân của Thiên Chúa: Đây là năm toàn xá đã được Thiên Chúa thiết lập trong Cựu Ước. Cuối một chu kỳ bảy năm là năm Sabat, thì phải để cho đất đai được nghỉ ngơi, không canh tác. Các nô lệ cũng được trả tự do ...( x. Xh 21,2; Lv 25,1-7 ). Cuối chu kỳ bảy lần bảy năm và bắt đầu ngày mồng mười tháng bảy năm thứ bốn mười chín thì khởi đầu một năm toàn xá ( x. Lv 25,8-54 ). Trong năm này đặc biệt cần phải thực thi ân tình cách khoáng đạt với người nô lệ, người nghèo, khách ngụ cư...như tha nợ, trả tự do, trả lại đồ cầm cố... Những quy định của năm toàn xá không nguyên chỉ để tái lập sự công bằng theo nghĩa công bằng phân phối, vì "ai giàu ba họ, ai lại khó ba đời !", mà còn nói lên lòng nhân hậu vô biên của Thiên Chúa, đặc biệt dành cho những người nghèo hèn, bé mọn, cô thân, yếu thế. Tự sức mình, những người này như bất lực để giải thoát mình khỏi cảnh bần hàn, túng khổ. Và chỉ có Thiên Chúa mới có thể giải thoát họ.


Khi công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, Chúa Giêsu muốn nói đến tình yêu vô điều kiện của Cha trên trời, Đấng đã yêu thế gian đến nỗi ban chính Con Một để cho thế gian được sống và sống dồi dào ( x. Ga 3,16 ). Sự kiện Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta là một hồng ân vô giá, vượt quá mọi công trạng của loài người. Đấng Siêu Việt mà xưa dân Chúa rất đổi kính sợ và cả kinh sợ, vì bất cứ ai thấy long nhan thảy đều phải chết, thì nay hiện diện giữa loài người và người ta có thể diện kiến, tiếp xúc, đụng chạm cách trực tiếp để được lãnh nhận ân phúc ( x.1Ga 1,1 ).


Cho người mù được sáng mắt: Quả thật Chúa Giêsu đã dùng lời quyền năng của Người cho một vài người mù trong dân Israel thời bấy giờ được nhìn thấy ánh sáng. Tuy nhiên chắc chắn vẫn còn đó nhiều người về thể lý lúc bấy giờ chưa được lãnh nhận ân phúc. Như thế việc công bố lời ở đây không nhắm đến sự mù hay sáng của đôi mắt thể lý. Chúa đến để công bố lời giúp nhân loại nhìn thấy chân lý. Chân lý ấy chính là Người, Giêsu Kitô, cuộc sống, các hoạt động và những lời giảng dạy của Người. "Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chúng cho sự thật" ( Ga 18,37 ).


Chân lý nền tảng mà Chúa Giêsu đã từng long trọng khẳng định lại lời Kinh Thánh đó là chỉ có một Thiên Chúa duy nhất là Đấng dựng nên mọi sự và là Cha chung của mọi người. Chúng ta phải tôn thờ, yêu mến Người hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực. Yêu mến Chúa thì phải thực thi lời người phán dạy. Vì thế chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính bản thân mình, dù họ thương ta hay ghét ta, dù họ làm ơn cho chúng ta hay bách hại chúng ta ( x.Mc 12,28-34; Mt 5,43-48 ). Chính khi bước đi trong ánh sáng chân lý thì chúng ta sẽ được tự do. Sự thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi cảnh tình nô lệ.


Giải thoát, trả tự do cho người bị áp bức, kẻ bị giam cầm: Chúng ta chớ quên rằng khi Chúa Giêsu công bố những lời này và khẳng định chúng đang ứng nghiệm thì người anh em họ của Chúa là Gioan Tẩy giả đang ở trong ngục tù. Khi sai các môn đồ đến hỏi Chúa Giêsu rằng Người có phải là Đấng phải đến chăng, thì có lẽ Gioan Tẩy giả đang băn khoăn và ít nhiều cũng đang ở trong đêm tối của đức tin ( x.Lc 7,18-23 ).


"Thật, tôi bảo thật các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội. Mà kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được ở luôn mãi. Vậy, nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là những người tự do"( Ga 8,34-36 ). Những lời khẳng định trên của Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu rõ sứ mạng của Người. Người đến thế gian là để giải phóng chúng ta khỏi cảnh nô lệ thần dữ, khỏi cảnh ngục tù của tội lỗi. Các bức tường gỗ đá của chốn lao tù vẫn không thể cướp đi sự tự do của tâm hồn. Chính tội lỗi mới làm cho chúng ta thành người nô lệ, mặc dù chân vẫn thong dong ngoài đời. Sau lời tuyên phán " Ta truyền cho anh: Hãy chỗi dậy, vác chõng mà về nhà" đôi chân của người bất toại được giải phóng. Nhưng rồi phải đến ngày đôi chân ấy lại bất động vì bệnh tật hay vì tuổi tác. Chính lời truyền phán: " Tội lỗi anh được tha" mới là lời giải thoát người bất toại khỏi cảnh nô lệ, giam cầm. ( x. Mc 2,1-12 )


Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa đã ban Ngôi Lời. Ngôi Lời là Ánh Sáng thế gian. Ánh sáng chân lý dẫn đưa con người thoát cảnh nô lệ tội lỗi đến cảnh đời tự do của phận người con được sống và sống mãi trong tình Cha trên trời. Hãy lắng nghe lời của Esdra: Đừng sầu thảm khóc lóc, nhưng hãy hân hoan vui mừng đón nhận Lời giải thoát, Lời yêu thương. Vậy hãy xét xem, bạn, tôi, chúng ta đã tham dự phần Phụng Vụ lời Chúa trong các Thánh Lễ, đặc biệt Thánh Lễ Chúa Nhật ra sao ? Cũng hy vọng rằng các thừa tác viên của Lời trên giảng đài chớ quên rằng những chia sẻ của mình là một phần của Phụng Vụ Lời Chúa. Mong sao những lời ấy cũng có "quyền năng" vì là thần trí và là sự sống.

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

SỐNG CHO NGƯỜI NGHÈO
Lc 1, 1 - 4; 4, 14 - 21

Mẹ Têrêsa Calcuta đã trở nên mẹ của người nghèo, mẹ của những con người cùng khổ, bất hạnh và bị bỏ rơi. Với cuộc đời luôn sống với người nghèo, cho người nghèo, mẹ càng trở nên cao trọng giữa muôn người trong thế kỷ thứ 20. Mẹ đã được cả thế giới gọi mẹ bằng một tên gọi đầy kính trọng Mẹ Têrêsa Calcutta. Và có lẽ chẳng mấy ai còn nhớ đến tên gọi của mẹ do hai cụ thân sinh đã đặt từ ấu thơ Agnes Gonxha Bojaxhiu.

Trong thánh lễ phong chân phước cho Mẹ, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đề cao mẹ như là một chứng nhân phục vụ theo gương Thầy Chí Thánh Giêsu. Ngài nói: "Mẹ Têrêsa không những đã chọn chỗ thấp nhất mà còn muốn đi phục vụ những người hèn mọn nhất của xã hội. Tựa như một người mẹ của những người nghèo. Người nghiêng mình xuống trên những người cùng khổ vì đủ mọi thứ nghèo khổ". Mẹ đã dấn thân đến với người nghèo hầu mong nâng cao phẩm giá họ lên giữa một xã hội còn đầy những kỳ thị chủng tộc, kỳ thị sang hèn, giai cấp. .. Chính Mẹ đã từng nói: "Cái nghèo khổ nhất trên đời này là bị xua đuổi, không còn được ai đoái hoài đến nữa". Mẹ còn muốn cho công việc của Mẹ được nhân rộng thêm lên, Mẹ đã thành lập hội dòng Thừa sai bác ái với ước nguyện: "Thiên Chúa vẫn mãi yêu thương thế gian và Người sai chị em chúng ta ra đi biểu lộ tình yêu và lòng thương cảm của Người đối với người nghèo".


Lời Chúa hôm nay có thể nói là tin vui cho những người nghèo khổ, những người bất hạnh và bị bỏ rơi. Chúa Giêsu đã chọn người nghèo để dấn thân, để phục vụ. Không phải là Chúa Giêsu khinh bỉ người giầu, người quyền thế mà có thể nói Ngài đến để giúp cho những con người thấp hèn kia được nâng cao, được tôn trọng như những con người giầu có, quyền quý. Chính Ngài đã chọn sinh ra trong thân phận một người nghèo. Chính Ngài đã sống một cuộc đời nghèo khó. Nghèo khó đến nối "không có nơi gối đầu". Mỗi bước chân của Ngài đều hướng đến những người khổ đau. Mỗi ánh mắt của Ngài đều hướng về những con người bất hạnh. Mỗi cái nhìn của Ngài đều chạnh lòng thương những ai đang đau khổ bơ vơ vì bị bỏ rơi, vì thiếu thốn tư bề. Ngài đã thực hiện trọn vẹn sứ vụ của Đấng Messia mà các tiên tri đã loan báo. "Khi Người đến mắt người mù sẽ được nhìn thấy. Tai người điếc sẽ được nghe. Người câm nói được và người què nhảy nhót như nai". Tất cả những điều đó hôm nay đã ứng nghiệm trong con người Đức Giêsu miền Nagiaret. Thiên Chúa đã nhập thể làm người để nâng con người nên làm con Thiên Chúa. Thiên Chúa đã trở nên Emmanuel ở lại luôn mãi với nhân trần. Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người để yêu thương và ban phát ơn lành. Đấng Thiên Sai đã chọn người nghèo, người cùng khổ để dấn thân phục vụ. Đấng Thiên Sai đã sống một kiếp người trong nghèo khó, thiếu thôn tư bề để cảm thông với những lắng lo của kiếp người truân chuyên.


Đó cũng là sứ điệp mà Lời Chúa muốn nhắn nhủ con người hôm nay. Giữa một xã hội quá chênh lệch giầu nghèo, địa vị. Giữa một xã hội quá phân biệt giai cấp và địa vị. Mức sống của từng giai cấp, địa vị đều khác nhau. Có những người ăn tiêu một bữa ăn bằng tiền lương cả một tháng lao động vất vả của một công nhân quèn. Ở Việt Nam hôm nay có những trường học phổ thông dành cho con nhà giầu, mỗi tháng thu lệ phí mỗi em cả hàng chục triệu đồng, trong khi đó nhiều gia đình phải chật vật để kiếm vài trăm ngàn cho con có cơ hội đến trường, đến lớp. Có những người ốm đau bệnh tật kéo dài cả cuộc đời vì không có tiền trang trải cho viện phí nên đành chấp nhận đau đớn mỗi khi trái gió trở trời, đang khi đó có biết bao người giầu có dư tiền dư của đến nỗi bỏ ra hàng triệu đồng để lột da cho tươi trẻ, và còn khoét thêm má lún đồng tiền để thêm phần duyên dáng thanh cao. Có những người cơm không đủ no, áo không đủ mặc đang khi đó có biết bao người áo chỉ mặc một lần và đồ ăn thức uống vất ngổn ngang quanh nhà.


Giữa một xã hội quá nhiều những thị phi như thế, Chúa đang cần chúng ta hãy tiếp tục công việc của Chúa. Hãy là những chứng nhân cho công việc phục vụ anh em. Hãy đem tình yêu Chúa trải rộng khắp mọi nẻo đường chúng ta đi. Hãy biết chạnh lòng thương với những ai đang khốn khổ lầm than. Hãy biết chia sẻ cơm bánh cho những anh em nghèo đói. Hãy cúi mình phục vụ những ai không có gì để đền đáp lại chúng ta.


Năm nay, Giáo hội Việt Nam hân hoan đón mừng năm thánh, là dịp để chúng ta nhìn vào cung cách sống phục vụ quên mình của các nhà truyền giáo đã không quản ngại vất vả, gian truân, đói khát, thiếu thốn để vun trồng tin mừng cho quê hương Việt Nam. Chính đời sống yêu thương phục vụ của các nhà truyền giáo và của các bậc cha ông chúng ta ngày xưa đã đánh động những người dân Thăng Long đến nỗi họ đã từng nói với nhau: "Kìa nhìn xem người ky-tô hữu họ yêu thương nhau biết bao". Đó cũng phải là cung cách sống của chúng ta, những con người thời đại hôm nay hãy biết sống quên mình, biết sống phục vụ vì lợi ích anh em để làm chứng cho Chúa. Ước gì với tinh thần sống đời kytô giáo yêu thương và phục vụ sẽ là dấu chỉ thật đẹp của người môn đệ Chúa Kytô giữa thế giới hôm nay. Amen

Lm Jos Tạ Duy Tuyền

HỒNG ÂN CỨU ĐỘ
Lc 1, 1 - 4; 4, 14 - 21

Trước khi nhậm chức, các nguyên thủ quốc gia thường công bố diễn văn thể hiện đường hướng hoạt động sẽ mang lại lợi ích cho đất nước.
Trong thực tế, "nhân vô thập toàn". Mọi cố gắng của con người luôn giới hạn nên tôn giáo mới chính là lời đáp cho con người tìm về lẽ sống.
Hôm nay, khai mạc sứ vụ loan báo Tin Mừng cứu độ, Đức Giê-su đã công bố lời ngôn sứ I-sai-i-a. Lời ấy không lý thuyết phô trương, nhưng ứng nghiệm nơi cuộc đời của Người.
Ngày Sa-bát, Người Do Thái vào hội đường để nghe công bố và giải thích lời Chúa. Họ đón nhận giáo huấn của Đức Chúa nhờ nghe và suy gẫm lời của Người.
Ngày nọ, trong hội đường Do Thái, một nhân vật đặc biệt xuất hiện giữa đám đông dân chúng. Sau khi công lời ngôn sứ I-sai-i-a, người ấy khẳng định những lời ông ta vừa công bố hôm nay đã ứng nghiệm (x. Lc 4, 20). Người ấy chính là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người mang tên Giê-su.
Bằng ngôn ngữ và văn hóa của nhân loại, Đức Giê-su đã công bố lời Thiên Chúa và quả quyết lời Thiên đã ứng nghiệm nơi sứ vụ cứu thế của Người. Một sứ vụ do Chúa Cha sai thực hiện trong sự thông hiệp của Chúa Thánh Thần: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn..." (Lc 4, 18).

Như vậy, đón nhận Chúa Giê-su và lời của Người là đón nhận giáo huấn của Thiên Chúa trong ân sủng của Chúa Thánh Thần. Nói cách khác, muốn đón nhận giáo huấn của Thiên Chúa người ta phải đón nhận ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần trong sự thần phục suy tôn Chúa Giê-su là Cứu Chúa. "Nơi Người ơn cứu độ chan chứa" (Tv 129, 7).

Ơn cứu độ nơi Chúa Giê-su không mơ hồ trừu tượng. Sự hiện diện của Người ở đâu đều mang lại ơn đổi mới đến đó:
- Được Đức Giê-su chữa lành, mẹ vợ ông Phê-rô đã trỗi dậy phục vụ (x. Mc 1, 31).
- Đón tiếp Đức Giê-su đến nhà, ông Gia-kêu đã được ơn hoán cải nên đã quyết tâm đền bù thiệt hại gấp bốn, và chia nửa gia tài cho người nghèo (x. Lc 19, 8).
- Nghe lời Đức Giê-su chỉ dạy, gười phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp đã nhận ra sự thật nên nhanh chóng trở về làng kêu gọi mọi người ra gặp Đức Giê-su (x. Ga 4, 28).
- Ánh mắt của Đức Giê-su đã giúp ông Phê-rô hoán cải (x. Lc 22, 61).
- Lời hứa của Đức Giê-su trên thập giá, đã bảo đảm cho người trộm lành được phúc thiên đàng (x. Lc 23, 43).
- Cuộc sống và sự chết của Đức Giê-su đã giúp cho viên sĩ quan chỉ huy nhận ra Người là Con Thiên Chúa (Mt 27, 54).
- Nghe lời Chúa Giê-su Phục Sinh cắt nghĩa Sách Thánh và tham dự Thánh Lễ do chính Đấng Phục sinh dâng hai môn đệ trên đường Em-mau, đã phục hồi tinh thần, ngay trong đêm trỗi dậy trở lại Giê-ru-sa-lem (x. Lc 23, 33).
- Tiếng Chúa Giê-su Phục Sinh gọi đã giúp bà Ma-ri-a Mác-đa-la nhận ra Chúa và hăng hái lên đường loan báo tin vui Chúa đã phục sinh (x. Ga 20, 16).
- Nghe lời Chúa Giê-su Phục sinh, các Tông Đồ đã vượt qua cơn mệt mỏi chán chường hầu vững vàng thả lưới bắt cá (x. Ga 21, 6) và hân hoan ra đi khắp nơi loan báo tin vui cứu độ có Chúa cùng hiện diện và dấu lạ kèm theo (x. Mc 16, 20).
Như vậy, Chúa Giê-su chính là Lời Chúa đã thành xác phàm. Lời ấy đã: phục sinh người chết, xua trừ quỉ mà, mang lại niềm hy vọng, chữa lành bệnh tật thân xác và tâm linh: người điếc nghe được, người mù xem thất, người câm nói được, người què đi được... công bố năm hồng ân cứu độ và vẫn đang được tiếp nối nơi những hoạt động của Hội Thánh Chúa.
Hoạt động cứu thế của Chúa Giê-su đã khởi đi từ việc công bố lời Thiên Chúa, thứ đến là những hoạt động cứu sống nhân mạng, chữa lành bệnh tật thân xác và tâm linh. Đỉnh cao của hoạt động cứu thế là: Công bố năm hồng ân với ơn giải thoát: "kẻ giam cầm biết họ được tha... trả tự do cho người bị áp bức" (Lc 4, 18).
Năm hồng ân chính là thời gian Thiên Chúa ban ơn đặc biệt cho con người. Trong Chúa Giê-su, Thiên Chúa đã thi ân cho nhân lọai. Chính việc Chúa Giê-su đến trong thế gian đã thực sự đem lại thời hồng phúc, thời cứu rỗi.
Trong Chúa Giê-su, phẩm giá con người được nâng cao. Họ không còn bị nô lệ cho bất cứ một thể chế nào hay hệ tư tưởng nào. Thiên Chúa đã giải thoát họ để họ hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và thờ phượng Người trong chân lý và sự thật.
Nối tiếp họat động cứu thế của Chúa Giê-su, Hội Thánh không ngừng loan báo tin vui cứu độ bằng lời, bằng tình yêu với những họat động trợ giúp cụ thể, nhất là bằng chính mạng sống của mình.
Ngày nay, theo định kỳ 25 năm và những dịp đặc biệt, Hội Thánh mở Năm Thánh hầu giúp dân Chúa ý thức sâu sắc thời gian thánh là thời gian hồng ân Thiên Chúa ban cho con người để họ thánh hóa cuộc sống, củng cố đức tin, sống tình hiệp nhất yêu thương và hiệp thông huynh đệ trong lòng Hội Thánh và thế giới, và nhất là tuyên xưng đức tin một cách chân thành và sống sống động nơi Chúa Giê-su Cứu Thế.
Hội Thánh đang đồng hành với nhân nhân loại đây đó vẫn còn nhiều vấn nạn về phận con người: Con người hiện diện trên đời để làm gì? Sau khi chết con người đi về đâu? Đâu là con đường giải thoát?...Tự sức con người, những câu hỏi này mãi mãi chỉ là vấn nạn. Do đó, Hội Thánh mang nơi mình sứ vụ làm chứng cho niềm tin, trở nên trung gian để muôn người tìm đến với Chúa Giê-su, đón nhận lời của Người hầu khám phá lẽ sống cho đời mình.
Tuyên ngôn của tân nguyên thủ quốc gia là những thiện chí giúp ích cho đất nước an bình thịnh vượng.
Tuy nhiên,giữa lý thuyết và thực tế luôn có khoảng cách.
Trong khi đồng hành với cuộc đời, người tín hữu chọn bước theo Chúa Giê-su, tin Người là con đường là sự thật và là sự sống, "Nơi Người ơn cứu độ chan chứa" (Tv 129, 7).

Lm Jb Nguyễn Minh Phương, C.Ss.R

SỨ VỤ ĐẦU TIÊN CỦA CHÚA GIÊSU
Lc 1, 1 - 4; 4, 14 - 21

Sống nơi gia đình ẩn dật 30 tại làng quê Nagiarét, Chúa bắt đầu thực hiện sứ mạng công khai của Ngài. Khởi đầu sứ vụ, Ngài đã kêu gọi một số môn đệ đi theo Ngài. Ngài mở đầu sứ vụ đầu tiên của Chúa, tại Hội Đường Nagiarét quê hương của Ngài, Chúa Giêsu đã đọc đoạn Kinh Thánh trích lời ngôn sứ Isaia: ''Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi sai đi báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên cáo lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, loan tin cho người mù biết sẽ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân của Chúa ".

Chúa nhật thứ III thường niên, năm C nhằm giới thiệu cho nhân loại, cho mọi người biết rõ con người của Chúa Giêsu, Người thực là Đấng Thiên Sai muôn dân hằng trông đợi, mong chờ. Tuy nhiên, cái trớ trêu và nghịch lý ở đây là tại quê nhà Nagiarét, dân chúng đã hững hờ, không nhận ra và không tiếp nhận Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai bởi vì họ chỉ nhìn Chúa Giêsu là người bình thường, dân dã, con bác thợ mộc Giuse và con bà Maria. Họ quay lưng lại với Chúa Giêsu. Sứ điệp của Chúa Giêsu là rao giảng Nước Thiên Chúa đã sắp tới, nên người ta phải sám hối và tin vào Tin Mừng. Công việc của thánh Luca trong đoạn Tin Mừng này và cốt lõi của Chúa nhật này là thông báo Lời Chúa, nói lên sứ điệp chính yếu của Chúa Giêsu. Luca muốn giảng dạy giáo lý. Thánh Luca, một người ngoại giáo trở lại muốn nhấn mạnh rằng thông điệp của Chúa Giêsu trước tiên là gửi cho người Do Thái và qua đó dần dần thông điệp ấy sẽ được thông báo cho dân ngoại, cho mọi người. Thánh Luca không có ý thuật lại cuộc đời của Chúa Giêsu vì Ngài không phải là nhà sử học nhưng Ngài chỉ là người thông đạt Lời Chúa, diễn tả lại giáo lý của Chúa Giêsu. Việc công bố Kinh Thánh, Lời Chúa qua ngôn sứ Isaia tại Hội Đường Nagiarét như tiên báo tất cả những sự việc sẽ xẩy ra sau đó. Chúa Giêsu đã dựa vào lời của ngôn sứ Isaia để đưa ra bản tóm lược về Nước Thiên Chúa và cho mọi người biết rằng việc trích dẫn Isaia nói lên nguồn cội và truyền thống không bao giờ bị cắt đứt. Sứ vụ đầu tiên của Chúa Giêsu, nói cách khác ba điểm then chốt của thông điệp Nagiarét là: "Những người nghèo, sự giải phóng và năm hồng ân". Ba điểm này làm đảo lộn những gì người Do Thái đã nghe, đã sẵn có. Mới đầu nhiều người thán phục Chúa. Rồi họ đâm ra nghi ngờ. Sau đó, những người Nagiarét chối từ Ngài cách thẳng thừng. Họ tự nghĩ làm sao Đấng Cứu Thế lại đi rao giảng sự cứu thoát cho những người nghèo khó, những người thấp cổ bé họng, những người sầu khổ ? Làm sao giờ phút này và bây giờ lại là thời điểm của năm hồng ân ?


Người Nagiarét đã vấp phạm vì Chúa. Họ đã quay phắt 180 độ và quyết tâm khước từ Chúa. Ngôn sứ Isaia đã loan báo rằng những người Israen bị lưu đầy ở Babylon sẽ được trở về nơi cố hương bản quốc. Tin Mừng của Chúa Giêsu hôm nay là Tin Mừng cho những người nghèo.Thiên Chúa yêu thương họ và mãi mãi yêu thương họ. Thiên Chúa cứu vớt họ khỏi mọi tội và quảng đại hy sinh mạng sống để cứu họ nhờ Tình yêu và Thần khí..


Chúa loan báo Nước Thiên Chúa là loan báo năm hồng ân: năm ân huệ chứa chan, tội lỗi được tha, người áp bức được giải cứu, kẻ nô lệ được giải phóng. Loan báo năm hồng ân là xây dựng trời mới đất mới trong đó công bình, tình thương và an bình được tái lập.


Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con biết nhận ra Chúa nơi mọi người và biết nhận ra những dấu chỉ tình thương của Chúa. Amen.

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

ĐỨC TIN HOÀN HẢO.
Lc 1, 1 - 4; 4, 14 - 21

1/ Trong những lời cuối cùng để kết thúc Tin Mừng thứ tư, tác giả Gioan Tông Đồ nói đến mục đích của cuốn sách mà mình biên soạn, nghĩa là nhằm giúp độc giả được đón nhận đức tin vào Đức Giêsu Kitô, nhờ đó mà họ sẽ được sống. Vì thế Thánh Gioan đã kết luận :" Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ Danh Người"(Ga 20,31). Như vậy theo nét nhìn của Thánh Gioan thì: Đức Giêsu Kitô là đối tượng của đức tin chúng ta; Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, là nguồn ơn cứu độ của chúng ta. Nhưng thực tế thì như thế nào?.

2/ Đó là một sự thật phũ phàng.


Gọi là phũ phàng vì qua trang Tin Mừng chúng ta vừa nghe, phần nào đã tỏ được thái độ của người làng quê Nazarét, đồng hương với Chúa Giêsu khi Chúa về thăm họ: Đó là thái độ phẫn nộ hơn là vui vẻ; thái độ xua đuổi hơn là đón tiếp. Thái độ căm phẫn còn thể hiện khi những người trong Hội đường muốn lôi Chúa Giêsu lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực thẳm nhằm làm nguy hại đến tính mạng Ngài (xLc4,30).

Hơn nữa, gọi là phũ phàng, vì đọc xuyên suốt Tin Mừng chúng ta luôn bắt gặp một Đức Kitô luôn bị từ khước, cho dẫu Ngài là Con Thiên Chúa; rồi một hình ảnh của Đấng đến nói lời Chúa Cha, nhưng thường bị mọi người hững hờ, vì có lúc họ đã nói:" lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi"( Ga6,60). Rồi chúng ta còn gặp hình ảnh của Đấng bị thất bại trong các phép lạ Ngài làm. Mặc dù phép lạ Chúa làm là do quyền năng Thánh Thần, nhưng lại bị người ta coi đó là sức mạnh của ma quỷ. Vì họ nói những phép lạ Chúa làm"là dựa thế quỷ vương Bêendêbun mà trừ quỳ"( Lc 11,15). Rồi cuối cùng chúng ta lại thấy sự thật phũ phàng đã bao trùm lên Đức Giêsu Kitô là Vua dân Do thái, khi vị Vua này đã bị chính người đồng hương của mình tước đọat hết phẩm giá của một con người, khi họ nhục mạ, chế giễu, khạc nhổ, đánh đập, đóng đinh, và cuối cùng chính họ đã giết Ngài trên thập giá với một thân hình trơ trọi.

3/ Nguyên nhân nào đã làm ra những sự thật phũ phàng đáng tiếc như thế ?


Đó cũng là vì thái độ thiếu khiêm nhường. Vì thiếu khiêm nhường nên đa số người Do thái luôn khẳng định những giáo lý, những truyền thống mà họ đã lãnh nhận từ cha ông của họ đó là tuyệt đối. Vì tuyệt đối nên họ không cúi mình xuống để nhận lấy lời dạy mới mẻ của Chúa Giêsu như "ách êm ái và gánh nhẹ nhàng"(Mt 11,30). Vì là tuyệt đối nên họ không cúi mình xuống để đón nhận lời giải thích của Chúa Giêsu về niềm tin của họ. Mục đích là Chúa giúp họ có một đức tin hoàn hảo. Đức tin hoàn hảo là đức tin phải được xây dựng trên lời nói và cách sống của Chúa. Rất tiếc cho những người đồng hương của Chúa Giêsu. Vì Chúa đến với mục đích để giúp cho người nhà của mình có một đức tin tuyệt đối, nhưng họ không muốn. Ngược lại vì sự hiện diện của Chúa Giêsu giữa dân tộc Do thái, đã bị mọi người coi như một cái gai trong mắt mình, nên họ đã đi đến một hành động tuyệt đối mù quáng, đó là khử trừ Chúa ra khỏi đức tin của họ, ra khỏi cộng đoàn mà họ đang sống.


4/ Sự thật chối bỏ Chúa cách đây hơn hai ngàn năm vẫn chưa chấm dứt. Sự thật này vẫn lan tràn nơi đây nơi đó, ngay cả trong cộng đoàn chúng ta, và trong cách sống chúng ta. Vì thực tế để đạt đến đức tin hoàn hảo nơi Chúa đó không phải là chuyện đơn giản. Vì tin Chúa thì Chúa luôn mong muốn chúng ta phải sống như Chúa: chịu hiểu lầm, chịu nhục mạ vì Tin Mừng, chịu đau khổ, chịu hy sinh, chịu mất đi những của cải mình có để đổi lấy yêu thương theo Tin Mừng. Nói chung để có đức tin hoàn hảo là chúng ta phải đi trên con đường hẹp, con đường thập giá. Đây chính là hành động của đức tin.


Khi đối diện với con đường thập giá, chúng ta cảm thấy mình bị thiệt thòi, thấy cuộc sống bị gò bó, trước mắt đó là những gian truân thử thách. Vì thế chúng thường rút lui, không muốn đi theo con đường hẹp của Chúa nữa, không muốn hành động vì đức tin nữa. Từ nguyên nhân đó chúng ta rất dễ rơi vào thái độ lệch lạc đức tin và dễ bị đánh mất đức tin trong cuộc sống, cũng vì muốn sống ích kỷ, không muốn sống theo đòi hỏi của Tin Mừng.


5/ Theo thống kê ngày 31-1-2006 của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng cho các dân tộc: Trong năm 2006 đã có 24 linh mục, tu sĩ và anh chị em giáo dân đã bỏ mình trên đường truyền giáo, khi phục vụ tại các miền truyền giáo hay giữa các thành phần kém may mắn trong xã hội. Sự hy sinh của những anh hùng truyền giáo này, đã làm cho dấu ấn đức tin không thể phai nhoà trong lịch sử Giáo Hội.


Vì muốn có một đức tin "hoàn tất", nên các ngài phải chấp nhận chịu ngược đãi. Vì muốn có một đức tin "hoàn chỉnh", nên các ngài phải chấp nhận bách hại. Vì muốn có một đức tin "hoàn hảo" nên các ngài rất vui lòng chấp nhận hy sinh. Đó là một đức tin tuyệt đối vô cùng.


6/ Hôm nay khi hướng ánh mắt nhìn lên ơn cứu độ, mỗi người chúng ta hãy can đảm chọn cho mình một con đường thật chắc chắn, thật bảo đảm để tiến bước về ơn cứu độ. Con đường chúng ta đi để được ơn cứu độ không gì khác hơn là con đường đức tin, con đường sống đức tin. Sống đức tin để chúng ta có một đức tin hoàn hảo. Nhưng để có một đức tin hoàn hảo đòi hỏi chúng ta phải gánh chịu những hy sinh thử thách, chính những hy sinh này sẽ dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời. Vì thánh Giacôbê đã quả quyết: "Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách, vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lãnh phần thưởng là sự sống Chúa đã hứa ban cho những ai yêu mến Người"(Gc 1,12)

LM Nguyễn Chánh

ĐỨC GIÊSU - TIN MỪNG CHO MỌI NGƯỜI
Lc 1, 1 - 4; 4, 14 - 21

Tin Mừng Luca cho thấy Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, Ngài trở về Galilê, và tiếng tăm Ngài được đồn ra khắp vùng. Ngài bắt đầu giảng dạy trong các hội đường của người Do Thái, cụ thể ở hội đường làng Nadarét.

Thánh Thần Chúa ngự trên tôi


Đức Giêsu luôn sống dưới tác động của Thánh Thần. Ngài làm tất cả dưới sự thúc đẩy của Thánh Thần, cụ thể Ngài đi chịu phép rửa tại sông Giordan, Ngài vào hoang địa ăn chay cầu nguyện, và hôm này Ngài ra đi rao giảng. Dưới tác động của Thánh Thần, Đức Giêsu là người mang tin mừng cho người có tinh thần nghèo, loan báo tự do cho kẻ bị tù đầy, cho người mù được sáng, cho người áp bức được giải thoát, và năm hồng ân của Thiên Chúa cho mọi người.


Thánh Thần ở trong Hội Thánh như hồn ở trong thân xác. Trong Hội Thánh có nhiều chức vụ, nhưng tất cả đều do Thánh Thần ban tặng và tác động: người làm đầu người làm mắt người làm chân tay. Tất cả đều thuộc về Hội Thánh, và không thể thiếu một chức vụ nào, cũng như một thân xác không thể thiếu một bộ phận nào. Không một bộ phận nào trong thân thể bị thiếu mà lại không ảnh hưởng đến bộ phận khác và toàn thân thể, cũng tương tự vậy những chức vụ trong Hội Thánh.


Ước gì mỗi người đều ý thức Thánh Thần luôn gần gũi, luôn ở với, và luôn hướng dẫn mình cùng Hội Thánh trong mọi hành động.


Đức Giêsu- Tin Mừng


Thiên Chúa chúc lành cho con người, làm tất cả cho con người qua Đức Giêsu.


Có ai hiểu được những người bị tù đầy mong được ngày ra khỏi tù như thế nào? "Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại": một ngày trong tù, lâu như thể ngàn năm ở ngoài. Ở đây người ta nói tới thời gian tâm lý, và qua đó diễn tả mong ước ngày được tự do đến độ nào! Đức Giêsu là người công bố ơn đại xá, được miễn án và ra khỏi tù. Nếu ai hiểu được người mù cực khổ như thế nào, và người mù mong được sáng đến độ nào, sẽ dễ dàng hiểu câu "Đức Giêsu là người làm cho người mù được sáng" có nghĩa gì với người mù. Những người bị áp bức hà hiếp, cực khổ như thế nào, mong được minh oan và được giải thoát đến độ nào! Đức Giêsu là người giải phóng họ.


Người ta có thể bị tù đày nô lệ trong không gian như bị giam cầm trong một nơi chốn nào đó, nhưng người ta cũng có thể bị giam hãm trong một cái nhìn nào đó, có thể bị nô lệ với một thành kiến mà người ta không biết. Đức Giêsu tới, cho người ta nhận ra giá trị chân thực, giúp con người biết tiêu chuẩn chân thực để phán đoán. "Chân lý" giải phóng con người khỏi nô lệ, làm người bị u mê nhận ra sự thật và nhờ đó được tự do.


Tin Mừng cho người nghèo


Tin Mừng Đức Giêsu, không phải mọi người đều nhận ra. Những người Do Thái không nhận ra, nên muốn giết Đức Giêsu. Để nhận ra Đức Giêsu là Tin Mừng, cần phải có con mắt của người nghèo, người thấy mình "còn thiếu", người thấy mình cần được soi sáng, người sẵn sàng và luôn ngóng chờ Thiên Chúa nói với mình.


Những người tự mãn, tự cho mình đã đủ không còn thiếu gì nữa, rất khó đón nhận Tin Mừng Đức Giêsu. Những người này có thể là những người cho rằng mình đã đạo đức đủ, không nhận ra mình yếu đuối tội lỗi cần Thiên Chúa thương xót và trợ giúp. Họ cũng có thể là những người cho mình có học, không sẵn sàng đón nhận mặc khải của Thiên Chúa qua Đức Giêsu với cuộc sống "bình thường". Cũng có thể họ là những người giầu, và Đức Giêsu không thêm gì cho họ: Ngài không làm cho họ giầu hơn hoặc danh tiếng hơn hoặc có địa vị cao hơn.


"Phúc cho người có tinh thần nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của họ" (Mt.5, 3). Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người, người giầu cũng như người nghèo. Người giầu có nhiều thứ và nhiều bận tâm, nên không còn chỗ và không sẵn sàng đón nhận Thiên Chúa, chứ không phải Thiên Chúa không yêu thương họ. "Nghèo" như thái độ, là mối phúc thật sự.

LM Phạm Thanh Liêm, SJ

SỰ GẦN GŨI HẰNG NGÀY CỦA THIÊN CHÚA
Lc 1, 1 - 4; 4, 14 - 21

Những người có mặt trong Hội Ðường Na-da-rét hôm đó thật vô cùng kinh ngạc khi nghe Ðức Giêsu tuyên bố : Những lời hứa về Ðấng Messia mà các vị đã nghe, nay đã được hiện thực nơi tôi ! Và chúng ta có thể dễ dàng hiểu được sự bất bình của những người Na-da-rét, vì trên thực tế tình hình nơi chính chúng ta cũng không khác lắm so với hoàn cảnh của họ. Vâng, chúng ta đã nghe biết sứ điệp của Giao Hội và sự đòi hỏi của nó là loan truyền ơn cứu rỗi của Thiên Chúa, nhưng ngay trong Giáo Hội, chúng ta lại cảm nghiệm được rất ít ơn cứu rỗi đó. Cách đây mấy năm, có một bạn thanh niên nói : « Giáo Hội muốn tìm cách giải thoát thế gian ra khỏi sự dữ, nhưng chính Giáo Hội lại là sự dữ ! » Có lẽ đây là một lời nói quá nặng của một người đang trong tâm trạng thiếu bình tĩnh ! Nhưng trong thực tế, lời nói đó đã bộc lộ điều mà nhiều người từng thầm che đậy trong lòng, khi họ cảm thấy đau khổ và thất vọng về Giáo Hội, về những tính cách nhân loại bất toàn trong Giáo Hội, như : Trước những yếu đuối, những lầm lỗi và những luật lệ khe khắt của Giáo Hội, v.v...Vì thế nhiều người đã tỏ ra dè dặt trước sứ điệp cứu rỗi mang tính cách thiên sai do Giáo Hội loan báo, cũng như đã đánh mất dần lòng tin tưởng vào sứ vụ và sự thánh thiện của Giáo Hội.

Vấn đề khó khăn đó của con người ngày nay, cũng chính là vấn đề của những người Do-thái ở Na-da-rét xưa kia. Họ biết Ðức Giêsu là ai, và họ cũng cho là mình biết rõ Ðấng Messia phải như thế nào. Theo họ, Ðức Giêsu, người đồng hương của họ và hình ảnh mà họ vẫn có được về một Ðấng Messia, hoàn toàn không trùng hợp với nhau. Nói cách khác, người anh em đồng bào Giêsu này của họ không thể là Ðấng Thiên Sai từng được toàn dân mong chờ từ hàng thế kỷ nay.


Thế mà ngày nay, tuy chúng ta nhận thức được rằng Thiên Chúa đã xuất hiện trong thế gian qua con người Ðức Giêsu Na-da-rét, một cách hoàn toàn bất ngờ và trái ngược với quan điểm và sự chờ đợi của những người Do-thái xưa kia, nhưng tương tự như hai môn đệ Em-mau xưa (x Lc 24,25), chúng ta vẫn không tránh được những khó khăn, một khi chúng được mời gọi : Phải rút tỉa ra từ sự nhận thức về sự kiện Thiên Chúa nhập thể trong con người Ðức Giêsu, những hiệu quả cụ thể cho cuộc sống của mình và đồng thời không còn đem những quan niệm nhân loại hẹp hòi của mình ra để đo lường và phê phán về Thiên Chúa và chương trình cứu rỗi của Người nữa. Thí dụ : Khi chúng ta khắt khe đòi hỏi Giáo Hội phải hoàn toàn tinh tuyền và hoàn hảo thế này thế kia, thì chúng ta đã quên đi là chính mình đang ngồi trên cùng « một hàng ghế » với những người Do-thái xưa kia ở trong Hội Ðường Na-da-rét, những người đã chờ đợi một Ðấng Messia xuất hiện uy hùng trong vinh quang Thiên Chúa, đến nỗi không một ai còn dám nghi ngờ được sứ vụ thiên sai của Người nữa ! Trong khi đó, Ðấng Messia, Ðấng Thiên Sai lại đã xuất hiện trong thế gian hoàn toàn khác hẳn : Người đã đến như một người bình thường, yếu đuối, chứ không có hào quang rực rỡ nào cả; nhưng lòng tin tưởng phó thác của Người vào sự cứu rỗi và sức mạnh của Thiên Chúa thì hoàn toàn tuyệt đối. Ðức Giêsu không cần đến quyền bính hay sự vinh quang rực rỡ bên ngoài. Người chỉ biết tuân phục và thực hiện thánh ý Thiên Chúa Cha, và Người hoàn toàn phó mặc cho Thiên Chúa hướng dẫn sứ mệnh của Người đến chỗ thành công, cũng vì thế Người đã khước từ tất cả mọi phẩm chất thần thiêng, để sống hòa mình vào cuộc sống hằng ngày của con người như một người trong họ. Thánh Phaolô viết trong Thư gửi Phi-líp-pê : « Ðức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như mọi người trần thế » (Pl 2,6-7).


Do đó, kể từ Ðức Giêsu cuộc sống hằng ngày của con người mang dấu ấn thần thiêng. Ðể tìm gặp Thiên Chúa, con người không cần phải rời bỏ thế gian, và con người cũng không cần phải chờ đợi một dấu hiệu đặc biệt về sự gần gủi của Thiên Chúa. Thay vào đó, con người cần phải tin vào sự gần gủi của Thiên Chúa trong chính cuộc sống hằng ngày của mình, và qua chính những kinh nghiệm về nghèo khổ, tật nguyền, mù lòa và đau ốm (x. Lc 4,18). Tuy nhiên, để đạt được điều ấy, trước tiên chính con người phải có những kinh nghiệm đó đã. Vâng, khi một người càng ý thức được sự nghèo nàn của mình, thì càng hiểu rõ được « Năm hồng ân của Thiên Chúa » có ý nghĩa gì; đó chính là : Dù cho vương vấn mọi lầm lẫn và tội lổi, con người vẫn không bị xua đuổi loại trừ và không phải lo âu bối rối. Niềm hy vọng và tương lai luôn mở rộng trước mắt con người. Giáo Hội luôn ý thức được điều đó, nên luôn tìm cách gần gủi với con người để giúp cho con người đạt tới được một cuộc sống sung mãn. Dĩ nhiên, Giáo Hội đã và sẽ không luôn luôn thành công trong công tác nâng đỡ con người như thế. Giáo Hội còn có thể làm nhiều hơn nữa, nhân bản hơn nữa, hành động đầy yêu thương hơn và bộc lộc được sức sống của mình một cách mãnh liệt hơn nữa, v.v... !


Thiên Chúa đã xuất hiện trong thế giới này qua con người Ðức Giêsu và chỉ cho chúng ta biết phải sống và phải cư xử thế nào : Ðó là phải bắt chước gương Ðức Giêsu mà biết thông cảm nỗi cơ cực của kẻ khác và tìm cách mang tới cho họ sức sống mà chính Thiên Chúa đã ban cho chúng ta và còn tiếp tục ban cho chúng ta.


Những con người biết ý thức và thực thi được điều đó, thì không còn khổ sở và khó chịu về những yếu đuối và lầm lỗi của kẻ khác nữa, trái lại tìm cách giúp đỡ họ điều họ đang cần, như : Một lời nói đầy thông cảm, một cử chỉ thân thiện, một cái mĩm cười thanh thản vui tươi, dành cho họ một chút thời giờ, v.v... Tất cả những điều đó hoàn toàn phản chiếu tinh thần Phúc Âm - và đều nằm trong tầm tay của chúng ta, bất cứ ai cũng đều làm được - vì thế chúng là dấu chỉ sự gần gủi của Thiên Chúa - cả hôm nay nữa -, là dấu chỉ tiên báo ơn cứu rỗi mà Ðức Giêsu đã công bố trong Hội Ðường Na-da-rét năm xưa, tức : « Giải phóng người bị cầm tù, mang lại ánh sáng cho người mù lòa, trả tự do người bị áp bức và loan báo Tin Mừng cho người nghèo khổ » (Lc 4,18). Amen

LM Nguyễn Hữu Thy

HÔM NAY THIÊN CHÚA ĐÃ VIẾNG THĂM DÂN NGÀI
Lc 1, 1 - 4; 4, 14 - 21

Mỗi buổi sáng chúng ta thường chào hỏi nhau. Chẳng phải vì xã giao mà thôi. Trong lòng chúng ta ước ao cho nhau một ngày tốt đẹp, tốt đẹp từ "khởi sự cho đến hoàn thành". Đây là một truyền thống đáng trân trọng, như thể khi thức dậy người ta bước vào một ngày mới, cuộc đời mới, mọi sự sẽ diễn biến như ý. Các nguyên thủ quốc gia khi đăng quang nhận chức đều đọc diễn văn hoạch định chương trình hành động cho nhiệm kỳ của ông, vì lợi ích quốc gia. Đối với mọi người, mỗi ngày đều là khởi sự mớii, vơí những quyết tâm, những chương trình cho ngày ấy. Nhung người tín hữu khởi sự mới là bí tích rửa tội. Bí tích này cống hiến chúng ta một quan điểm hoàn toàn khác về thế giới, chính mình, tha nhân và về Thiên Chúa, mà mỗi ngày chúng ta phải nhìn lại lối sống của mình như những kẻ liên kết với Chúa Giêsu. Chúng ta lãnh thánh tẩy để làm môn đệ Ngài. Nhưng bước đường theo Chúa còn dài. Mỗi ngày chúng ta phải học hỏi việc đón nhận Đức Kitô như Cứu Chúa của mình, gia đình và xã hội. V?y chúng ta phải phục vụ Ngài ra sao? Khi đồng hành với người khác trên con đường luôn thay đổi, nhiều khúc quặt của cuộc đời? Mỗi ngày đều mang tới những thách đố mà người môn đệ Chúa không thể khoe mình thực hiện cách hoàn hảo, như bài đọc 2 hôm nay chỉ rõ: "Giả như toàn thân chỉ là mắt thì lấy gì mà nghe? Giả như toàn thân chỉ là tai thì lấy gì mà ngửi?" Vậy theo quan điểm tôn giáo chúng ta chúc nhau "good morning" để hy vọng lần nữa nói "có" cho chức vụ làm môn đệ Chúa. Bí tích thanh tẩy không phải là kết thúc nhưng là khởi đầu của tiến trình theo Chúa.

Bài đọc 3, thánh Luca nói rằng ông viết Phúc Âm cho những tín hữu đang học đạo, nghĩa là chưa hoàn thành việc làm tôi Chúa. Bài đọc gồm 2 phần, trích từ chương 1 và 4. Phần thứ nhất dẫn nhập vào Phúc Âm và Công vụ các tông đồ. Ông nêu rõ lý do và nhân vật ông đề tặng: "
Thưa ngài Thêôphilô đáng kính, có nhiều người đã ra công soạn bản tường thuật những sự kiện đã được thực hiện giữa chúng ta... Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài..." Ông Thêôphilô có lẽ là một vị vọng nhà nước mới trở lại công giáo. Nhưng ý nghĩa của tên ông là "Kẻ Thiên Chúa yêu mến". Như vậy mỗi chúng ta được phép nhận mình như người tiếp đón Phúc Âm Luca. Chúng ta đều là tín hữu mới trở lại đạo, cần học hành và tìm hiểu những hậu quả của đức tin. Mỗi ngày đối diện với khởi sự mới thì điều chi có ý nghĩa cho chúng ta để trở nên kẻ "Thiên Chúa yêu mến"? Được Ngài kêu gọi để phục vụ Đức Kitô? Chúng ta môi miệng nhiều quá rồi, xin hãy đi vào nội dung thực tế!

Thánh Luca giúp chúng ta thi hành điều ấy khi viết: "
Mong ngài nhận ra rằng giáo huấn ngài học hỏi thật là vững chắc." Mục tiêu viết sách của thánh nhân là để chúng ta nhận ra giáo huấn mình học hỏi là vững chắc. Từ "nhận ra" trong tiếng Anh (realize) có nhiều nội dung. Thứ nhất, hiểu cách đầy đủ và chính xác. Đây là nội dung đầu tiên thánh Luca muốn giúp. Chúng ta quán triệt các sự thật Phúc Âm mà chúng ta lãnh nhận về Chúa Giêsu và qua Chúa Giêsu về Thượng Đế. Thứ 2, nhận ra còn có nghĩa làm trở nên thực tại hay thực tại hoá. Nội dung này đưa chúng ta đi xa hơn nhận biết, đến mức hành động. Những gì chúng ta hiểu biết thì thực hiện. Thứ 3, nhận ra còn có nghĩa thực tế (realistic) không mơ mộng hay lý thuyết suông. Liệu đức tin của chúng ta chỉ là một lý tưởng, một ý nghĩa tốt đẹp chứ không phải là "thực tế" mà chúng ta cần bày tỏ cho tha nhân, cho thế giới? Liệu lối sống của chúng ta thực tế, có thật chứ không phải viển vông? Lối sống "good to see, but not to live in" (coi đẹp đẽ lắm, nhưng không sống được), tức giả hình! Mong chúng ta hiểu được như vậy. Hy vọng rằng: mỗi ngày chúng ta cố gắng biến nếp sống mình thành thực tại Tin Mừng. Chúa Giêsu sẽ trợ giúp mỗi linh hồn quán triệt các hệ quả của Tin Mừng như Ngài tuyên bố trong hội đường Nazareth hôm nay. Tại đây Ngài hoạch định chương trình và sứ mệnh của mình, của những ai theo Ngài: loan báo Tin Mừng cho người nghèo khổ, chữa lành những tâm hồn tan vỡ...

Nhưng trước khi bước sang phần thứ hai của bài Phúc Âm, chúng ta nên nhìn lại bài đọc một để thấy rõ ý Lời Chúa Giêsu trong hội đường Nazareth hơn. Đoạn trích sách Nêhêmia kể lại việc canh tân giao ước giữa Đức Chúa và tuyển dân. Thời điểm là sau cuộc lưu đày Babylon, tuyển dân trở về quê hương xứ sở. Nhưng mọi sự đã bị tàn phá. Đền thờ không còn nữa, nhà cửa, ruộng vườn bỏ hoang. Bổn phận của tổng trấn Nehêmia là gây dựng lại xứ sở, đặc biệt thành Giêrusalem và đền thờ. Việc đó chẳng thể thực hiện được nếu không kèm theo việc canh tân tôn giáo. Tư tế Esdra lo nhiệm vụ này: "
Hôm ấy, ông Esdra cũng là tư tế, đem sách luật ra trước mặt cộng đồng gồm đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đứng ở quảng trường phía trước cửa Nước, đọc sách luật trước mặt đàn ông, đàn bà, và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đọc từ sáng sớm tới trưa và toàn dân lắng tai nghe sách luật". Cuộc canh tân tinh thần diễn ra như vậy, Esdra mở sách luật, chúc tụng Đức Chúa, toàn dân lắng tai nghe. Họ tỏ dấu sầu thương khóc lóc vì quá khứ phản bội nhưng cấp lãnh đạo can họ đừng làm vậy, vì hôm nay là lễ hội tiến dâng cho Đức Chúa, hãy về mở tiệc mừng, ăn thịt béo, uống rượu ngon... toàn dân đáp lại : Amen, Amen (đồng ý, đồng ý). Mối tương giao giữa Thiên Chúa và tuyển dân được nối lại. Giao ước được canh tân và tăng cường. Đức Chúa sẽ là Thiên Chúa của Israel và Israel là dân Ngài.

Đến đây chúng ta hiểu ra ngụ ý của Phúc Âm tuần trước về tiệc cưới Cana. Nó dẫn vào Tin Mừng Luca như dẫn vào bàn tiệc Lời Chúa: thịt béo, rượu ngon cho linh hồn mỗi người. Chúng ta cần múc lấy hiệu quả thiêng liêng của bàn tiệc này. Nếu không Tin Mừng Luca trở nên vô ích. Tư tế Esdra hôm nay khuyên tuyển dân làm như vậy để canh tân tinh thần, hầu xây dựng lại xứ sở và đền thánh. Suốt năm nay mỗi khi nghe đọc Luca, chúng ta ăn năn sám hối về quá khứ bất trung rồi nghe Esdra khuyên: "
Anh em hãy ăn thịt béo, uống rượu ngon và gửi phần cho những người không sẵn của ăn. Vì hôm nay là ngày thánh hiến cho Đức Chúa chúng ta." Ước chi suốt năm tới, mỗi Chúa nhật nghe đọc Tin Mừng Luca là chúng ta dự tiệc ngon ngọt lời Chúa.

Thánh Luca kể lại việc Chúa trở về Galilêa "trong quyền năng Thánh Thần" : "Khi ấy, được quyền năng Thần Khí thúc đẩy Đức Giêsu trở về Galilêa, và tiếng tăm người đồn ra khắp vùng lân cận." Bài đọc nhấn mạnh đến vai trò của Thánh Linh trong sứ vụ Đức Kitô. Ngài thăm viếng những người cần được cứu chữa, canh tân, giống như tuyển dân thời Nehêmia và Esdra. Vị ngôn sứ Esdra nói với tuyển dân vừa trở về từ kiếp nô lệ: " Chúng ta đừng buồn bã vì niềm vui của Đức Chúa là thành luỹ bảo vệ anh em." Tương tự, Chúa Giêsu bắt đầu công khai giảng dạy cho những ai cần tăng cường giao ước với Thiên Chúa. Tuy nhiên, một khi việc canh tân khởi sự rồi, điều chi khiến tuyển dân và chúng ta lại bẻ gẫy giao ước? Và điều chi giúp chúng ta tránh được tình trạng đáng buồn ấy? Câu trả lời là Thánh Linh. Trước khi trở về Nazareth, Chúa Giêsu đã được tràn đầy Thần Khí ở bờ sông Giođan lúc chịu phép rửa Gioan. Cũng Thần Khí ấy dẫn Ngài vào sa mạc để chịu thử luyện và đã giúp Ngài thắng các cơn cám dỗ. Cũng Thánh Thần thúc đẩy Ngài hoàn thành sứ vụ. Và Luca còn tiếp tục kể ra ảnh hưởng mạnh mẽ của Thần Khí trong Công vụ tông đồ. Vậy Thánh Thần sẽ là sức mạnh của chúng ta trong việc trung thành với giao ước: "Chúa là sức mạnh tôi, tôi còn sợ chi ai? Chúa là thành trì che chở tôi, tôi khiếp gì ai nữa?" Có điều là chúng ta phải ngoan ngoãn để Thánh Thần dẫn dắt. Mê theo dục vọng, chịu sự lôi kéo của thế gian, chúng ta sẽ nhanh chóng rơi vào phản bội và đổ vỡ.


Trong hội đường, người ta đưa sách thánh cho Chúa Giêsu. Mở ra Ngài gặp ngay lời tiên tri Isaia: "Thánh Thần Chúa ngụ trên tôi, Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó..." Lời đó nói lên căn cước và sứ mệnh của Chúa. Phải chăng cũng là lời nói lên căn tính và sứ vụ của mỗi tín hữu, nhất là linh mục, tu sĩ? Tôi viết những dòng này trước khi tổng thống Hoa Kỳ, ông G.W.Bush đọc diễn văn trước khối đại đoàn kết quốc gia. Chúa Giêsu dùng hình ảnh của tiên tri Isaia để tiết lộ danh tánh và kế hoạch cho vương quốc của mình. Ngài cũng ám chỉ chúng ta đối với thế giới, nhất là trong tình hình hiện nay, đang cần đến bàn tay xây dựng của các tín hữu. Như Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI chỉ ra trong bài diễn văn đầu năm vừa qua. Xin lắng nghe và góp phần công sức của mình. Chẳng vậy, tiếng nói của Đức Thánh Cha vô ích mà thôi. Tôi hy vọng bài diễn văn của tổng thống hoa kỳ hoạch định chính sách đứng đắn cho quốc gia và thế giới. Tức đẩy xa chiến tranh, tẩy trừ nghèo khó, áp bức, bóc lột, bạo lực! Ông sẽ lèo lái chúng ta ra khỏi cá nhân chủ nghĩa đầy ích kỷ và đoàn kết toàn dân xây dựng hoà bình công lý. Đó là hy vọng sâu thẳm nhất của các công dân thiện tâm, dù là Cộng hoà, Dân chủ hay không đảng phái nào.


Thần khí đã ban quyền năng cho Đức Kitô để Ngài mặc xương thịt cho lời tiên báo của Isaia. Điều mà vị ngôn sứ đoan hứa cho dân tộc Dothái thì nay được ứng nghiệm nơi ông thợ mộc làng Nazareth, mà toàn thể nhân loại được hưởng nhờ. Thần khí ấy cũng ban khả năng và hướng dẫn chúng ta, khiến chúng ta thực tại hoá những điều Chúa Giêsu loan báo hôm nay: kẻ trần truồng được ăn mặc, kẻ đói khát được no nê, tù đày được thả, mù loà xem thấy, què đi được, điếc nghe được, bệnh tật được lành và nghèo khó được nghe Tin Mừng. Chúng ta không chỉ đơn giản chào hỏi nhau "good morning" mà còn làm cho cuộc sống có ý nghĩa.


Chúa Giêsu không nói về những chuyện xa xôi. Những chuyện xảy ra trong tương lai hay ở đời sau, nhưng ngay lúc này ở Nazareth. Thánh Luca nhiều lần nhắc đến từ "lúc này" khi nói về ứng nghiệm của tiên tri Isaia. Hôm nay Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài, ban cho họ được tự do... Sau cùng Chúa Giêsu trả sách cho người giúp việc rồi ngồi xuống giảng dạy một bài: "
Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." Nếu không có chi khác thì bài giảng của Chúa ngắn nhất mà những người rao giảng Phúc Âm từ xưa đến nay từng nói. Nhưng hiệu quả của nó sâu đậm vô bờ. Xin quý vị mở Phúc Âm đọc tiếp.

Tóm lại, bài Phúc Âm chúa nhật này cống hiến cho chúng ta sự hiện diện sung mãn của Thiên Chúa trong ngôn ngữ Đức Kitô. Ngài nói Chúa ban tự do cho chúng ta và điều ấy là sự thật, tự do thân xác, linh hồn và tinh thần. Chẳng thế lực nào áp bức chúng ta được nữa. Nhân loại được hưởng ân huệ đặc biệt của Thiên Chúa qua Đức Giêsu. Ánh sáng của Lời Chúa xua tan bóng đêm tội lỗi. Chúng ta tiếp tục được tự do. Nhưng còn nhiều linh hồn khác đang ngồi trong bóng tối sự dữ. Vậy điều chúng ta kinh nghiệm lúc này hãy chia sẻ với kẻ khác: Công bố năm hồng ân của Thiên Chúa. Amen.

Lm. Jude Siciliano, OP.

TÔI ĐI LOAN BÁO TIN MỪNG
Lc 1, 1 - 4; 4, 14 - 21

Bình thường chúng ta rất ngại ngùng khi phải loan báo tin buồn, vì không biết phải nói thế nào để người nghe không buồn, không khổ, không đau! Còn tin vui thì ai ai cũng thích đi loan báo. Tin vui làm cho lòng người phấn khởi, cả người loan báo lẫn người được loan báo. Nhất là tin vui ấy phát sinh sức mạnh, tin tưởng và giúp con người thoát vòng nô lệ của ác thần. Lời của Đức Kitô là lời cứu độ, lời rất phấn khởi " Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một..." Lời biểu lộ tình yêu hay nói đúng hơn lời mà Thiên Chúa " tỏ tình" với con người. Thế tại sao nhân loại lại không muốn nghe? Và cũng ngại đi loan báo?

Thật ra Lời Cứu Độ luôn luôn đi kèm hành động, bắt con người phải thực hiện, bắt con người phải cố gắng, phải hi sinh... nên người ta sợ, người ta ngại khó và nhất là ngại bỏ mình. Nhưng là người Kitô hữu, là người đã được xức dầu trong ngày Thánh Tẩy, chúng ta đã được trao ban sứ vụ: " đi loan báo Tin Mừng", mà đối tượng được loan báo Tin Mừng là những người nghèo:


Nghèo tinh thần : Đó là những người đang khổ sở vì thiếu tình thương, thiếu được tin tưởng và họ đang bị tội lỗi giam cầm, đang bị dục tình, tiền bạc, danh vọng đè bẹp, áp bức...họ cần được thoát ra khỏi tù ngục ấy. Nghèo thể xác : Đó là những người khổ sở vì thiếu ăn, thiếu mặc, đói rách cùng cực. lại bệnh tật hiểm nghèo...họ mong được thoát khỏi cảnh khốn khổ ấy.


Con người ngày nay khắc khoải trong âu lo sầu muộn, người loan báo Tin Mừng được sai đến với những con người ấy, nhất là những con người đang ngụp lặn trong bóng tối của tội lỗi, thì ánh sáng Lời Chúa phải được chiếu soi tới vùng u tối đó. Đồng thời loan báo sự tự do của con cái Chúa cho những người đang bị nô lệ bởi tham sân si.. . Nếu chúng ta, những người được sai đi loan báo tin vui mà lại làm ngơ trước những người nghèo hèn, những người bị áp bức, những người cô thế cô thân, những người dốt nát...thì chúng ta chưa làm tròn sứ mệnh khi được xức dầu Thánh Tẩy.


Thiên Chúa đã sai Đức Giêsu đi, giờ đây Chúa Giêsu lại sai chúng ta đi " như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Chúa đã sai chúng ta đi loan báo Tin Mừng, nếu chúng ta không thi hành thì chúng ta không là Kitô hữu. Chúng ta phải đem Tin mừng đến cho người nghèo, ưu tiên cho người nghèo thực sự, nghèo vật chất. Từ nghèo vật chất đến nghèo văn hóa, nghèo nếp sống dẫn đến tệ nạn xã hội. Đối diện với họ chúng ta phải tiếp rước, giúp đỡ hoặc vận động để có người cộng tác giúp đỡ. Dạy cho họ nhận ra rằng: Cái nghèo vật chất được nên giống Chúa Giêsu xưa, nên đừng vì cái nghèo mà xa Chúa. Đến với người nghèo tinh thần, bị bạo hành, đau khổ thể xác vì bệnh tật, chúng ta phải đến an ủi, nâng đỡ, đem niềm vui đến cho họ, khích lệ họ vượt qua đau khổ. Đến với những người tội lỗi và có thể vì tội lỗi mà người đời rẻ khinh, xa tránh. Chúng ta đến với họ, vực họ dậy. Giúp họ tìm ra lối thoát, đưa họ trở lại với Chúa. Chúng ta cũng còn phải đem Tin Mừng đến cho những người chưa tin Chúa, có thể không bằng lời nói nhưng bằng gương sáng, bắng chính lối sống để lôi kéo họ.


Loan báo Tin Mừng là nhiệm vụ của chúng ta. Đó vừa là một đặc ân vừa là một trách nhiệm. Nhưng đừng sợ vì Chúa Thánh Thần sẽ giúp đỡ hoạt động cách nào tốt nhất, chỉ cần chúng ta dám lên đường. Chúa Thánh Thần khi xưa đã đồng hành với Đức Kitô thì cũng sẽ đồng hành với chúng ta. Chúng ta không thể tìm ơn cứu độ một mình vì chúng ta đang sống trong lòng Giáo hội, mà Giáo Hội là Hội Thánh phổ quát được Chúa Giêsu thiết lập và ban tràn đầy Thánh Thần để chúng ta loan báo Tin Mừng. Vì thế, chúng ta hãy hăng hái ra đi loan báo Tin Mừng cho mọi người chúng ta gặp gỡ.


Lạy Chúa, xưa Chúa đã đi rao giảng không biết mệt mỏi trên đất nước Palestine. Xin giúp chúng con cũng biết loan báo Tin Mừng cho mọi người bằng thái độ tích cực cộng tác với Chúa Thánh Linh, cải thiện bản thân, xây dựng con người yêu thương, dám chấp nhận bị thua thiệt vì là anh em con Một Cha. Xin cho chúng con nhận được niềm vui khi ban phát tình thương.

Sr Mai An Linh OP

RA ĐI ĐẾN VỚI NGƯỜI NGHÈO KHÓ
Lc 1, 1 - 4; 4, 14 - 21

Với lời mở đầu theo văn phong Hylạp, thánh sử Luca cho chúng ta biết một cách xúc tích về cách thức biên soạn cũng như mục đích của sách Tin mừng. Theo đó, những gì thánh sử viết ra, ngài đã điều nghiên hết sức cẩn thận để gửi cho phần lớn là những dân ngoại mà đại diện là ông Thêôphilô nhằm khẳng định tính khả tín, tính chân thật của giáo huấn.

Sau khi chịu phép rửa và sau khi vào sa mạc 40 ngày để chịu cám dỗ, giờ đây Chúa Giêsu trở về Galilê để khai mở sứ vụ rao giảng. Ngài đến quê hương Nazarét, vào hội đường để giảng dạy. Tại đây, lời ngôn sứ Isaia loan báo về Người nay đã ứng nghiệm.


Chúng ta biết là trình tự phụng vụ nơi hội đường Dothái thường diễn ra theo thứ tự sau: trước hết là phần đọc Lời Chúa gồm hai phần : Lề luật (Ngũ thư) và Ngôn sứ. Sau phần đọc lề luật và giải thích lề luật, thì đến phần đọc và giải thích lời Ngôn sứ được giao cho những người Dothái trưởng thành, đặc biệt là những ai cai quản hội đường hay những người thông tuệ Thánh kinh. Ở đây Chúa Giêsu phụ trách phần đọc và diễn giải lời Ngôn sứ như Luca đã trình bày. Tiếp đến là phần hát thánh vịnh và cầu nguyện kết thúc.


Người Dothái luôn xem lời các Ngôn sứ như là niềm hy vọng hướng dẫn cuộc sống của họ. Vì vậy, với lời Ngôn sứ mà Chúa Giêsu đọc hôm nay, họ xem đây là lời loan báo về Đấng Mêsia- người sung mãn Thần Khí của Giavê Thiên Chúa; người đem Tin mừng; giải phóng dân tộc Israel và khai mở thời đại nước Thiên Chúa.


Có thể nói lời Ngôn sứ Isaia được Chúa Giêsu công bố trước dân chúng Dothái trong hội đường như là kim chỉ nam hướng dẫn cuộc đời và sứ vụ rao giảng của Ngài. Chúa Giêsu lãnh nhận Thánh Thần để ra đi rao giảng Tin mừng. Khởi đầu sứ vụ rao giảng, chúng ta thấy việc ưu tiên của Chúa Giêsu không phải cho những người giàu sang, đạo đức mà chính là cho người nghèo, người bị giam cầm, bệnh hoạn và áp bức.


Thật vậy, Chúa Kytô chính là Đấng Mêsia được sai đến. Con người và sứ điệp của Người chính là Tin mừng cho người nghèo. Trong suốt cuộc đời rao giảng, chúng ta thấy Chúa Giêsu luôn luôn đến với những con người hèn yếu nhất, tội lỗi nhất, sống và chia sẻ những khốn khó với họ nhằm cho họ biết rằng Thiên Chúa luôn yêu thương họ, Thiên Chúa luôn đồng hành với họ.


Thời đại của Người chính là thời đại của ân sủng, thời đại công bố năm hồng ân. Qua Người, Thiên Chúa đã thi ân giáng phúc để giải thoát muôn người. Qua Người, tất cả những ai tin tưởng chạy đến với Người đều được chữa lành, được thứ tha và bình an.


Theo gương Thầy Chí Thánh, mỗi người chúng ta - qua bí tích Thánh tẩy- cũng được mời gọi ra đi để rao giảng Tin mừng, đến với muôn dân, đặc biệt cho những người khốn khổ nghèo hèn. Nếu ngày xưa, Thiên Chúa qua Đức Kytô để thông ban Tình yêu của Người cho nhân loại thì ngày hôm nay, thiết tưởng Chúa Kytô cũng dùng chính mỗi người chúng ta để đến với những người bệnh hoạn, tật nguyền, nghèo đói nhằm rao giảng tình yêu của Thiên Chúa. Ước mong lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta hăng say ra đi loan báo tình yêu của Thiên Chúa cho thế giới này.

Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

GIỜ CỨU RỖI ĐÃ ĐẾN RỒI
Lc 1, 1 - 4; 4, 14 - 21

Trong cuộc sống gian trần, con người thường thích muốn biết tương lai, số phận, danh vọng, địa vị. Người ta cầu nguyện cũng có mà đi xem bói bài, bói toán, mê tín dị đoan cũng có. Ở Pháp người ta đề cập đến Nostradamus, ở Việt Nam có thời con người hay nói tới cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Dù nói gì thì nói, tất cả những lời tiên đoán, những dự tính, những vị tiên tri cũng chỉ có thể làm được việc này việc nọ, nói được câu này câu kia là do Thánh Thần Chúa tác động và do quyền năng của Chúa cho phép mà thôi.Hôm nay lời Kinh Thánh cũng nghiệm ngay vào con người của Chúa Giêsu.

Theo sách Nohémi thuật lại thì Esdras tụ tập dân chúng công bố lời Chúa và giải thích lề luật, cắt nghĩa lời Chúa. Dân chúng nghe lời Chúa, tung hô và phủ phục trướcmặt Chúa cầu nguyện. Đây là nghi thức phụng vụ lời Chúa thường được tổ chức trong các hội đường Do Thái ngày Sabbát. Nghi thức phụng vụ này là phần thứ nhất trong thánh lễ ngày nay. Thánh Luca trong Tin Mừng của Ngài hôm nay cho chúng ta thấy việc Chúa Giêsu trở về quê Nagiarét sau nhiều năm Ngài đã sống với Mẹ Maria, thánh cả Giuse và các bà con dân làng thành Nagiarét. Ngài bỏ cha mẹ, họ hàng, dân chúng để đi rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa. Thực tế, Chúa Giêsu đã sống ở làng Nagiarét 30 năm. Dân làng Nagiarét đã quá rõ về lý lịch của Ngài. Ngài là con bà Maria nội trợ, con thánh Giuse thợ mộc. Chính vì đã quá quen biết Chúa Giêsu, dân chúng mới tò mò tìm đến với Ngài để xem Ngài giờ đây ra sao. Ngài chỉ là con bác thợ mộc Giuse bây giờ lại trở thành một Rabbi. Tại Hội Đường Do Thái, người ta trao cho Ngài cuốn Thánh Kinh, Ngài giở ra và gặp thấy đoạn viết:" Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho những kẻ bị giam cầm, cho người mù được thấy, trả tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng". Đoạn sách này thuộc đoạn 61 của ngôn sứ Isaia. Đoạn này dân chúng đã được nghe nhiều lần và nhiều người đã thuộc nằm lòng. Điều ngạc nhiên đó là Chúa Giêsu gấp sách lại và dõng dạc tuyên bố:"
Hôm nay, lời Thánh Kinh mà các ông vừa nghe, đã thực hiện". Đây là một sự tuyên bố gây ngạc nhiên đến kinh ngạc đối với nhiều người vì chưa có một ngôn sứ nào dám xưng như thế. Tuy nhiên chỉ có một người hiểu được sự việc ấy là Mẹ Maria. Chúa tuyên bố Ngài là Đấng cứu độ. Ngài "hôm nay" để giải thoát nhân loại, để khai mở năm hồng ân cứu độ.

Chúa Giêsu đến khai mở năm hồng ân, năm toàn xá. Ngài được Thánh Thần tấn phong, xức dầu. Do đó, chúng ta cũng đã được xức dầu để trở nên ngôn sứ loan truyền ơn cứu độ cho Chúa. Chính Thánh Thần đã chi phối cả đời sống của Chúa Giêsu, chúng ta cũng để cho Thánh Thần Chúa hướng dẫn cuộc đời, lời nói, hành vi của chúng ta bằng việc chúng ta cộng tác vào ơn cứu rỗi của Chúa. Giờ cứu độ đã đến. Ơn cứu rỗi mỗi người chúng ta đều được lãnh nhận. Đoạn Kinh Thánh của ngôn sứ Isaia đã ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Lời đó cũng sẽ ứng nghiệm nơi mỗi người chúng ta. Được lãnh nhận bí tích rửa tội, tháp nhập vào thân thể Đức Kitô, mỗi người chúng ta là chi thể của Người, chúng ta phải sống sao để làm vinh danh và cả sáng cho con người của Chúa Giêsu. Do đó, chúng ta không được làm ngơ trước nỗi nhọc nhằn, đau khổ của những người khác vì ơn cứu độ không dành riêng cho ai nhưng cho tất cả mọi người. Giờ cứu độ là giờ Chúa Giêsu được tôn vinh. Giờ Chúa Giêsu được vinh hiển qua cái chết và phục sinh.


Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn là những sứ giả Tin Mừng, loan báo hồng ân cứu độ của Chúa và là chứng nhân cho Đức Kitô chết và sống lại. Amen.

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT

THI HÀNH SỨ MẠNG
Lc 1, 1 - 4; 4, 14 - 21

Sau khi kể lại những sự kiện thời thơ ấu của Chúa Giêsu, thánh Luca nói đến hoạt động của Chúa ở Ga-li-lê. tại đây, Chúa bắt đầu bằng một biến cố bất ngờ ở hội đường Na-da-rét. Vào ngày hưu lễ, người ta phải đến hội đường để nghe đọc Sách Thánh và hát thánh vịnh. Nhân dịp Chúa Giêsu trở về quê nhà, Ngài cũng vào hội đường với mọi người. Đây là lần đầu tiên Chúa về Na-da-rét trong quãng đời công khai.

Theo luật lệ Do Thái, bất cứ ai cũng có thể lên diễn đàn đọc và giải thích Kinh Thánh. Nhưng thường người có trách nhiệm coi sóc hội đường trao công việc đó cho những người am tường Kinh Thánh. Vì Chúa Giêsu đã giảng dạy ở nhiều nơi trước khi về Na-da-rét, nên việc người ta mời Ngài lên diễn đàn là chuyện bình thường. Theo thông lệ, vị diễn giảng đứng dậy đọc Sách Thánh, rồi ngồi xuống giải thích bài đọc đó. Hôm nay cũng vậy, người ta đưa cho Chúa cuốn Sách Thánh. Mở sách ra, Ngài gặp ngay đoạn ngôn sứ I-sai-a nói về Đấng Cứu Thế sẽ đến và những việc Người sẽ làm. Đọc xong, Chúa gấp sách lại và ngồi xuống. Mọi người đều chăm chú nhìn Ngài và chờ đợi những lời giải thích của Ngài.


Ngài dõng dạc tuyên bố : "
Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe". Tất cả bài giảng hôm ấy thế nào chúng ta không được biết, thánh Lu-ca chỉ ghi lại có một câu mở đầu ấy, nhưng thật đầy đủ ý nghĩa. Lịch sử cứu chuộc là quá trình giữa lời hứa của Thiên Chúa và sự thực hiện lời hứa ấy. Các vị ngôn sứ được sai đến để công bố lời hứa và loan báo sự thực hiện. I-sai-a công bố về một người tôi tớ của Thiên Chúa sẽ đem ơn lành của Thiên Chúa đến cho mọi người. Chúa muốn nói cho những người đang nghe Ngài biết : hôm nay họ đang được nghe chính người tôi tớ mà ngôn sứ I-sai-a đã loan báo. Người tôi tớ ấy chính là tôi, người đang nói với quý vị, tôi chính là Đấng Cứu Thế, và sứ mạng của tôi là thực hiện những điều I-sai-a đã nói.

Quả thực, suốt thời gian Chúa Giêsu sống và rao giảng, Ngài đã thực hiện từng chi tiết đoạn Sách Thánh này. Ngài đã rao giảng Tin Mừng cho mọi người, nhất là những người nghèo khổ. Ngài đã cảm thông, an ủi những tấm lòng sầu muộn. Ngài đã giải phóng những người bị tà ma ám ảnh, chữa lành tất cả những bệnh tât. Ngài đã khích lệ, tha thứ cho những người tội lỗi. Ngài đã hòa đồng với những người hèn hạ nghèo khó. Ngài không hề xua đuổi bất cứ ai. Ngài dạy phải quảng đại, bác ái, yêu thương đối với mọi người, kể cả kẻ thù, và không bao giờ được xét đoán bất công. Ngài muốn mọi giao tế giữa loài người với nhau phải được thể hiện trong yêu thương. Những dẫn chứng trên cho chúng ta thấy những lời ngôn sứ I-sai-a đã loan báo trước được ứng nghiệm đầy đủ nơi Chúa Giêsu, Ngài là Đấng Cứu Thế, Đấng Thiên Sai, đã thi hành trọn vẹn sứ mạng Thiên Chúa trao phó cho Ngài.


Sứ mạng của Chúa Giêsu, ngày hôm nay, vẫn được tiếp tục thực hiện qua Giáo Hội và trong Giáo Hội. Thực vậy, khi Chúa Giêsu hoàn thành thời gian sứ mạng của Ngài, Ngài gởi Thánh Thần đến cho các môn đệ để họ tiếp tục công bố Năm Toàn Xá của Thiên Chúa, loan Tin Mừng cho mọi người, rao giảng và thực hiện sự giải phóng toàn diện con người và xã hội. Nói rõ hơn, Giáo Hội được đầy Thánh Thần từ ngày lễ Ngũ Tuần phải tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu trong lịch sử. Như vậy, lời sách I-sai-a thâu tóm sứ mạng của Chúa Giêsu cũng là lời thâu tóm sứ mạng của Giáo Hội mọi thời đại. Hôm nay sứ mạng ấy càng trở nên khẩn trương hơn.


Từ Công đồng Va-ti-ca-nô II, Giáo Hội đã ý thức sâu xa hơn về sứ mạng của mình. Điều này không có nghĩa là trước đây Giáo Hội đã quên con người mà chỉ nghĩ đến "linh hồn". Thử hỏi : ai đã khai sinh ra các bệnh viện, các cô nhi viện, các trại phong, trại tế bần, trại dưỡng lão...Ai đã khai hóa cho thế giới "Mandi" của Âu Châu thời hậu đế quốc Rô-ma ? Chính là Giáo Hội. Cái mới của Va-ti-ca-nô II là quan niệm lại cho phù hợp với thời đại mà thôi.


Bài học cho chúng ta : Chúa Giêsu đã thực hiện đầy đủ, trọn vẹn những lời Kinh Thánh nói về Ngài. Chúng ta cũng vậy, chúng ta có bổn phận thực hiện những lời Chúa đã giảng dạy. Nghĩa là chúng ta phải sống những lời Chúa đã giảng dạy. Bởi vì đời sống của người tín hữu rất hệ trọng trong việc mời gọi mọi người đến với Chúa. Đời sống của chúng ta có thể hoặc xua đuổi hoặc giữ người khác lại cho Chúa Ki-tô.


Đối với óc thực nghiệm và đời sống thực dụng ngày nay, cái gì người ta cũng đòi phải có bằng chứng. Chúng ta là Ki-tô hữu, chúng ta đi lễ nhà thờ, chúng ta làm các việc đạo đức đầy đủ. Nhưng tâm hồn chúng ta có phải là tâm hồn Ki-tô đích thực không ? Đời sống của chúng ta có phải là một thể hiện những gì chúng ta tuyên xưng không ? Nhìn vào đời sống chúng ta, người ta có nhận ra chúng ta là người Ki-tô hữu không ? Vì vậy, để truyền giáo, để làm chứng cho Chúa, cho đạo, cách hay nhất là chúng ta hãy sống tốt trong gia đình, với xóm ngõ, trong họ đạo và với người chung quanh, bất cứ là lương hay giáo, mà sống tốt cụ thể nhất là hãy sống bác ái.


Xin Chúa cho chúng ta luôn ý thức mình là Ki-tô hữu, và xin cho chúng ta hiểu rằng làm Ki-tô hữu có nghĩa là sống trọn vẹn ơn gọi làm người bằng một cuộc sống quảng đại, yêu thương và đầy tình người.

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng,OP

THÁNH THẦN CHÚA NGỰ TRÊN TÔI
Lc 1, 1 - 4; 4, 14 - 21
"Thánh Thần Chúa ngự trên tôi... sai tôi đi rao giảng Tin Mừng"

Thông thường chúng ta nghĩ rằng Chúa Giêsu chỉ đi giảng dạy trên khắp bờ cõi xứ Giuđêa, mà quên rằng Ngài vẫn hành đạo như mọi người Do Thái thời đó, và theo thói quen, thì ngày nghỉ lễ, Ngài vào Hội Đường. Hôm đó Ngài được mời đọc sách, vừa mở ra Ngài gặp đoạn chép rằng:" Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó..." Sứ mệnh của Chúa Giêsu trong cuộc đời trần thế là: rao giảng Tin Mừng để làm chứng cho Tình Yêu Thiên Chúa đối với nhân loại. Là những người tin theo Ngài, sứ mệnh của chúng ta, qua lời nói và hành động, cần phải phản ảnh Tình thương Thiên Chúa đến biến đổi tất cả, như Chúa Giêsu đã đến để thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức...

Khi đề cập đến Tình Yêu, hẳn nhiên chúng ta không thể nào không biết đến nhiều phong trào hiện đại với chủ đề "yêu cuồng sống vội" hoặc những trào lưu tư tưởng chủ trương tự do luyến ái... do đó những từ ngữ "yêu-thương" được quá thông dụng đến độ không còn mang ý nghĩa đặc thù, và đôi khi giá trị của những chữ đó cũng bị giảm sút.


Và lúc còn nhỏ, khi được dạy bảo phải thương yêu nhau, qua những câu ca dao: anh em như thể tay chân... thương người như thể thương thân... bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy không cùng giống nhưng chung một giàn v.v... chúng ta nghĩ rằng thương yêu là ngoan ngoãn, vâng lời, không làm buồn lòng người trong gia đình hay bạn bè. Nhưng khi lớn khôn, ta lại hiểu thêm tình yêu không chỉ giới hạn một cách tiêu cực ở mức không làm hại kẻ khác, và nếu chúng ta là chứng tá của Đức Kitô thì mức độ Yêu Thương cần phải vượt xa hơn nữa. Yêu Thương là cổ động bênh vực lẽ phải chống lại những gì làm nguy hại đến đời sống con người, là đứng về phía bảo vệ quyền lợi những người bị bất công áp bức hoặc bị ruồng bỏ, là dấn thân đấu tranh cho công ích để mọi người đều có phần trong miếng cơm manh áo, được hưởng hạnh phúc trong công lý và bình đẳng. Đó chính là điều mà Chúa Giêsu nắm rõ từ lúc bắt đầu đi rao giảng Tin Mừng.


Cựu Ước, đối với Đức Kitô, là Lời của Thiên Chúa tác động trên "Đấng được xức dầu" sẽ phải đến (còn được gọi là: "Đấng thiên sai"), và gợi ra hai đường hướng có vẻ khác nhau: trong nhiều trường hợp, đấng thiên sai được coi như một tướng lãnh hùng mạnh dẫn đưa dân Ít-diên làm bá chủ thế giới và áp đặt lề luật Thiên Chúa ở khắp nơi. Nhiều nhà chú giải còn thêm rằng vị thiên sai đó sẽ xét đoán, lên án và tiêu diệt những ai không chấp nhận lề luật này. Ngược lại trong những đoạn khác, vị thiên sai được xem như là người của Thiên Chúa đến để liên kết Dân của Ngài trong một giao ước tình yêu và tha thứ, vì Thiên Chúa là Đấng ban tặng tình thương và ân sủng, ban phát một cách nhưng không, Ngài không áp đặt và hoàn toàn tôn trọng sự tự do của những ai ngỏ lời cùng Ngài. Vậy thì tràn đầy Thánh Thần, "đấng được xức dầu" (Đấng Thiên Sai) sẽ không đè bẹp ngọn lau bị dập nát, Ngài không dập tắt ngọn đèn lu mờ, nhưng sẽ nâng đỡ những người nghèo khổ, goá bụa và mồ côi, Ngài sẽ mang ánh sáng, sự giải thoát và hoà bình đến cho những ai tiếp nhận Ngài.


"Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe". Qua đoạn cuối Phúc Âm của Chúa Nhật này, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã quyết định, Ngài tuyên bố: Ngài là Đấng được xức dầu và được sai đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, chứ không phải là một tướng lãnh hùng mạnh. Và cách thức loan báo Tình Yêu Thiên Chúa không chỉ là vấn đề ngoan ngoãn lịch thiệp, nhưng là những hành động dũng cảm ưu đãi những kẻ bất hạnh, tội lỗi, bị đàn áp dưới đủ mọi hình thức. Như thế mới thật là Tin Mừng.


Riêng chúng ta, thế nào là thực hiện Tin Mừng cho những người khác? Cách thức nào chúng ta nối tiếp công việc rao giảng của Đức Kitô? Nếu viện lý không va chạm với ai để an tâm và an phận trong cuộc sống thì rất dễ, như vậy thì đời sống của chúng ta có phải là Tin Mừng cho trần gian này hay không? Sống đạo và hành đạo không chỉ là tham dự Thánh Lễ ngày Chúa Nhật hoặc các Lễ trọng trong năm, mà còn phải thực thi Yêu-Thương bằng hành động. Điển hình nhất (ví dụ): sẵn sàng đóng góp vào quỹ cứu trợ đồng bào bị nạn lụt, tùy theo khả năng... quyết tâm không làm tổn thương đến thanh danh của người khác, nhất là sống trong một Cộng Đoàn... gia nhập các Hội từ thiện hoặc các đoàn thể chống kỳ thị, chống vi phạm nhân quyền v.v... tuỳ mỗi người tự tìm những phương thức thực hiện Tình Yêu tha nhân, để cuộc sống của chúng ta trở nên ánh sáng và niềm vui cho kẻ khác.


Ước gì câu "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó" được áp dụng cho cuộc sống hôm nay và từng ngày của chúng ta.

Lm. Paul-Maurice Lâm-Thái Sơn

"THẦN KHÍ CHÚA NGỰ TRÊN TÔI ĐỂ TÔI LOAN BÁO TIN MỪNG"
Lc 1, 1 - 4; 4, 14 - 21

Một ông nọ đang cầu nguyện, nhưng bị chia trí bởi những người qua lại trước mặt. Ông trông thấy những người nghèo, những người vô gia cư, những người tàm tật, những người đau ốm và những nạn nhân của bạo hành - của tội ác. Trần trở với bể khổ cuộc đời đang diễn ra quanh mình, ông chân thành thưa với Chúa: "Lạy Chúa Đấng toàn năng, có lẽ nào Người là Vị Sáng Tạo đầy yêu thương, đầy khôn ngoan lại đành bất lực nhìn những thảm cảnh con cái Người đang chịu, và không ra tay được sao?" Trong thinh vắng cõi lòng, ông nghe tiếng Chúa nhẹ nhàng đáp trả: "Ta đã ra tay rồi đấy. Ta đã tạo thành con và con hiện hữu trong dòng đời."

Mầu nhiệm khổ đau luôn làm ray rứt bao cõi lòng. Tại sao sự ác tự do tung hoành! Tại sao con người phải chết! Tại sao tôi phải chịu cơ cực, phải mang cơn bệnh hiểm nghèo! Tại sao những người thân của tôi bị tai ương rủi ro giữa lúc họ rất tốt lành, hiền hòa, ngoan đạo...Và còn vô vàn câu hỏi "tại sao", khiến chúng ta hồ nghi về sự hiện diện của tình thương quan phòng của Thiên Chúa, cũng như quên đi vai trò trách nhiệm của mình đối với cuộc đời. Vâng, nếu một hạt cát bé nhỏ còn mang giá trị cần thiết tạo nên bãi cát trắng. Và một giọt nước vô danh giữa lòng đại dương mênh mông còn góp phần tạo vị mặn của biển cả, thì huống chi chúng ta, những con người sống động được Thiên Chúa tạo dựng và mời gọi vào sứ mạng chứng tá yêu thương, tại sao chúng ta không đặt ngược câu hỏi đó cho bản thân. Chúng ta không nên bán cái mọi việc cho Thiên Chúa. Người sẽ không làm phép lạ ngoạn mục như nhà ảo thuật lấy những trứng ra từ chiếc mũ bí mật của ông ta. Phép lạ của Thiên Chúa rất âm thầm nhưng cũng rất thực tiễn trong cuộc đời mỗi người chúng ta. Thật vậy, công trình cứu chuộc được xuyên suốt qua lịch sử của dân tộc Israel, và hoàn tất nơi cuộc đời một Đức Kitô có tên tuổi trong lịch sử nhân loại. Một Đức Kitô đã từng nếm trải những ngọt bùi đắng cay phận bần hèn, không mái nhà để chào đời, không hòn đá để gối đầu, không tấm vải che thân trên thập tự. Chính cùng sống với đồng bào Người càng thâh hiểu cơn khát lòng người và tự nguyện dâng hiến trọn mạng sống vì sứ mạng yêu thương:


"Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa."


Đoạn Isaiah do Đức Giêsu đọc, đã không còn nằm trên trang sách Kinh Thánh. Nó đã được tượng hình trên cuộc đời Đức Kitô, Ngài ra tay chữa lành mọi bệnh tật, mở mắt đức tin, đức cậy cho lớp người bị coi khinh tội lỗi: thu thuế, gái điếm. Ngài an ủi đỡ nâng người đàn bà bị kết án. Nơi Ngài đi qua bừng sáng sức sống mới "mọi người ca tụng Thiên Chúa và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng người."


Rập khuôn thầy Giêsu, điều đó chúng ta không làm nổi, nhưng với khả năng Chúa ban, chúng ta dư sức thực thi những việc tha nhân đang cần. Bởi lẽ giới hạn của tình yêu là vô giới hạn. Tình yêu chân thành luôn có những sáng tạo độc đáo để làm hài lòng người yêu. Vì thế Lời Chúa hôm nay rất thiết thực đối với mỗi người. Vậy:


Hãy là đôi chân cho người già yếu, giúp họ đến nhà thờ, đi thăm bà con.
Hãy là đôi tai cho những bạn trẻ đang mong bạn lắng nghe những nỗi lòng của họ.
Hãy là tin mừng cho người đang u sầu bằng những lời chia sẻ ủi an, khích lệ khôn ngoan.
Và hãy đem ánh sáng cho những ai đang lầm đường lạc lối, bằng sự hướng dẫn ân cần đầy thương yêu.


Thái độ sẵn sàng cho đi của bạn sẽ nối dài cánh tay yêu thương của Thiên Chúa và quanh bạn cuộc sống sẽ ươm đầy sức sống Thần Linh bởi những phép lạ đáng yêu. Riêng bạn sẽ hân hoan đáp lại lời Chúa: "Lạy Chúa, hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai con vừa nghe." Amen

Sr. Magdalene Oanh, MTGQN

Nguồn vietcatholic.org

3835    24-01-2013 09:59:24