Sidebar

Thứ Tư
01.05.2024

Chúa Nhật IV Mùa Vọng Năm C

  1. Sống Đức Tin Như Mẹ Maria
  2. Chúa Nhật IV Mùa Vọng C 
  3. Vội Vã Lên Đường 
  4. Ðược Diễm Phúc Vì Biết Cộng Tác Với Thiên Chúa 
  5. Dấn Thân 
  6. Chúa Nhật IV Mùa Vọng C 
  7. Cộng Tác Vào Chương Trình Của Thiên Chúa 
  8. Bước Theo Mẹ 
  9. Chúa Nhật IV Mùa Vọng
  10. Hòm Bia Giao Ươc Mới
  11. Thời Đại Hồng Ân
  12. Chia Vui Sẻ Buồn 
  13. Cho Thì Có Phúc Hơn Nhận
  14. Đem Bình An Đến Cho Mọi Người Chính Là Rước Chúa Vào Tâm Hồn
  15. Mẹ Maria
  16. Buông Súng
  17. Chúa Viếng Thăm
  18. Làm Gương
  19. Maria Đã Tin
  20. Cùng Mẹ Con Đi
  21. Phúc Cho Em Vì Đã Tin
  22. Maria Kẻ Đã Tin
  23. Chia Sẻ Niềm Vui
  24. Chân Dung Đức Maria
  25. Chúa Tỏ Mình Ra
  26. Tin Có Chúa Ơ Cùng
  27. Những Cuộc Thăm Viếng Xưa Và Nay
  28. Hãy Đón Nhận Chúa
  29. Chúa Nhật IV Mùa Vọng C


SỐNG ĐỨC TIN NHƯ MẸ MARIA
Lc 1: 39-45

Trong cuộc sống, ai trong chúng ta cũng đã hơn một lần thăm viếng người khác. Và cũng được người khác viếng thăm. Mỗi lần thăm viếng là một dịp để chúng ta chia sẻ với nhau về niềm vui hay nỗi buồn của cuộc sống. Như thế,  trong từng cuộc thăm viếng, chúng ta muốn thể hiện tình yêu và sự quan tâm dành cho nhau.

Phụng vụ hôm nay trình bày cho chúng ta sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người qua sự gặp gỡ hữu hình giữa Chúa Giêsu trong lòng Đức Trinh Nữ Maria và Gioan Tẩy Giả trong lòng bà Elisabeth. Thật vậy, nhận được tin người chị họ là Elizabeth, tuy đã già và mang tiếng là son sẻ, nhưng đã cưu mang được 6 tháng, Mẹ quyết định đi thăm gia đình người chị họ. Mẹ Maria đã vội vã lên đường. Mẹ sẵn sàng cho cuộc thăm viếng. Mẹ đã lên đường để chia sẻ niềm vui với gia đình bà chị họ, Mẹ chia sẻ niềm vui vì có Chúa ngự trong lòng mình. Đồng thời Mẹ cũng muốn san sẻ sự vất vả của người lớn tuổi đang cưu mang. Vì thế, sau khi được truyền tin, Mẹ vội vã lên đường thực hiện một cuộc hành trình dài theo các chuyên gia chú giải nói nó có thể lên đến 150 cây số. Một đoạn đường không mấy ít ỏi và đây  không là chuyến đi dễ dàng! Làm sao tránh khỏi những nguy hiểm, vất vả và mệt nhọc. Nhưng chính tình yêu đã thúc bách Mẹ lên đường. Tình yêu làm cho Mẹ quên mình, quên những hiểm nguy vất vả để chỉ quan tâm đến người khác. Sau đó, Mẹ đã ở lại nhà bà Elizabeth trong một thời gian ba tháng. Như thế, Mẹ Maria đã thể hiện một tình yêu cao độ: dâng hiến chính mình để Thiên Chúa tự do thực hiện chương trình cứu chuộc của Ngài:  "Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin hãy làm cho tôi như lời sứ thần truyền" (Lc 1, 38 ) và Mẹ đã viếng thăm gia đình người chị họ bằng trái tim đầy tình yêu thương bác ái, ra đi cách vội vã, nhanh chóng, không do dự, không tính toán so đo, cứ ra đi trong phó thác.  Do đó, Mẹ Maria luôn sẵn sàng đối với Chúa, Mẹ cũng luôn sẵn sàng đối với tha nhân. Mẹ đã ra đi để phục vụ bà chị họ của mình vì Mẹ thấy ý Chúa trong đó. Hơn nữa, Mẹ thấy đó là nhiệm vụ của mình. Là Mẹ Chúa Cứu Thế, Mẹ có nhiệm vụ phải đem Chúa cho kẻ khác. Lại nữa, Mẹ cảm nghiệm rằng, lòng mình khi được mang Chúa thì hạnh phúc biết bao, bình an biết mấy và phấn khởi dường nào. Mẹ đến, Mẹ đã làm cho cả gia đình Bà Elizabeth sung sướng. Bà Elizabeth phải thốt lên: "Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi. Vì này, tai tôi vừa nhge lời em chào, Hài Nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi" (Lc 1, 43 - 44). Đó chính là niềm vui và sự bình an đích thực mà Mẹ đã đem đến.

Tình yêu thể hiện qua cuộc thăm viếng bất ngờ hôm nay không chỉ dành riêng cho Đức Mẹ mà dành cho hết thảy mọi người. Qua Đức Maria, Thiên Chúa Tình Yêu đi vào trần gian, đem ơn cứu độ cho con người mà cuộc viếng thăm của Đức Maria dành cho bà Elizabeth là bước khởi đầu. Mẹ Maria thăm gia đình bà chị để chia sẻ niềm vui mà Thiên Chúa dành cho bà Elizabeth và gia đình Dacaria. Mẹ đến với bà chị họ cũng để chia sẻ ân huệ tình yêu lớn lao mà mình vừa nhận được và để thể hiện tình yêu của Mẹ dành cho gia đình bà chị họ.

Tình yêu đích thực đòi hỏi cần được biểu lộ ra bên ngoài chứ không giữ kín cho riêng mình. Cách thể hiện tình yêu đẹp nhất làm cho tình yêu sinh động là: quan tâm, chăm sóc, tìm cách gặp gỡ để tạo nên niềm vui, góp phần xây dựng hạnh phúc cho mình và cho tha nhân. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ, bắt chước tâm tình này của Mẹ, không đợi người khác yêu cầu mà hãy biết khiêm nhường quên mình để nhận ra nhu cầu và sẵn sàng đến với tha nhân.

Bên cạnh đó, thăm viếng không chỉ là cách biểu lộ tình người, tình thương, nói lên sự quan tâm mà còn là dịp chúng ta đem Chúa đến với tha nhân. Mang Chúa đến cho tha nhân không có nghĩa chúng ta nói thật nhiều, nói thật hay về Chúa cho họ nghe. Chính sự hiện diện của Mẹ là một lời chứng hoàn hảo về sự hiện diện của Chúa vì chính Mẹ mang chúa trong  lòng mình. Tương tự như vậy, để có thể đem Chúa đến với người khác chúng ta cần có Chúa trong mình. Muốn Chúa luôn hiện diện trong ta đòi hỏi chúng ta phải có một đời sống thân tình với Chúa. Qua kinh nguyện, Thánh lễ, hiệp lễ và qua cuộc sống thì sự hiện diện của chúng ta mới có thể giúp người khác nhận ra sự hiện diện của Chúa. Nên khi nhận ra Chúa, gặp được Chúa, tha nhân sẽ dễ dàng mở lòng để Chúa Thánh Thần thánh hoá và biến đổi họ nên tốt lành thánh thiện hơn.

Chúng ta hãy bắt chước Mẹ Maria. Trước hết chúng ta hãy thể hiện tình người với nhau bằng việc thăm viếng, quan tâm đến nhu cầu của tha nhân nhất là những người đang cần đến chúng ta. Hãy bắt chước Mẹ Maria quên mình và khiêm nhường phục vụ tha nhân. Hy sinh thời gian, đôi khi là vật chất để làm cho cuộc sống này thêm niềm vui, niềm hạnh phúc.

Hãy cưu mang Đức Giêsu trong tâm hồn để như Mẹ ta có thể mang một tâm hồn tràn ngập Chúa đến với tha nhân.  Hơn nữa, chúng ta hãy cố gắng dàn xếp tất cả những gì làm mình phiền muộn, khó chịu để có tâm hồn vui tươi, an bình mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Ngoài ra chúng ta sẽ cố gắng là niềm vui của tất cả mọi người nhất là niềm vui sâu xa nơi tâm hồn, chúng ta cố gắng chia sẻ thời giờ, sức lực với người khác, nhất là phục vụ người khác. Cố gắng chia sẻ nụ cười với người khác và cố gắng ủi an, nâng đỡ người khác.

Lạy Mẹ Maria, cám ơn Mẹ đã để lại cho chúng con một mẫu gương tuyệt vời về sự vâng phục thánh ý Chúa và một tinh thần bác ái quên mình vì tha nhân. Chính tình yêu đã thúc đẩy Mẹ làm được những việc cao cả đó, Xin Mẹ đoái thương giúp chúng con bắt chước Mẹ, sống đức tin là vâng theo thánh ý Chúa và sống đượm tình bác ái với tha nhân, quan tâm giúp đỡ họ, giúp họ thêm niềm vui, tìm gặp sự bình an và nhất là gặp gỡ được chính Chúa tình thương. Amen.

CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG C 
Lc 1: 39-45

"Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này" (Lc 1,43)

Đức Maria được Phúc Âm Chúa nhật IV Mùa vọng là một người đầy ơn phúc, Mẹ được chúc phúc và mang hạnh phúc đến cho người khác. Có phúc vì cưu mang Đấng Cưú Thế, có Chúa Kitô ngự trị trong tâm hồn của mình. Mẹ Maria thật sự được diễm phúc như lời chào của sứ thần Gapriel trong ngày truyền tin và hôm nay là lời khẳng định của bà Elisabeth. Cái phúc của Mẹ đã có ngay từ đầu công trình cứu chuộc của Thiên Chúa, Thiên Chúa đã gìn giữ và bao bọc Mẹ trong ân phúc của Ngài. Từ nguồn ân phúc đó Mẹ đã mang đến cho người khác. Trước tiên là cho người chị họ của mình, bà Elisabeth và đặc biệt là Gioan còn đang ở trong lòng bà Elisabeth, người mà Thiên Chúa đã chọn để dọn dường, Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế. Elisabeth và Gioan là những người hạnh phúc khi được đón nhận chính Đấng Cứu Thế qua Mẹ Maria.

Mọi người chúng ta trong ngày hôm thì sao? Chúng ta có như bà Elisabeth nhận ra và cảm nghiệm được ân phúc lớn lao mà Thiên Chúa ban cho chúng ta? Đấng Cứu Thế mà mọi người đợi trông ở gần kề bên chúng ta, Đức Giêsu Kitô đang hiện trong mỗi tâm hồn chúng ta, ở xung quanh và hoạt động trong thế giới này. Những con người sống động đã được ân phúc của Chúa như Mẹ Maria, Gioan và cụ thể là bà Elisabeth, họ thật sự hạnh phúc và niềm vui trong cuộc đời của mình, khi họ nhận Đức Giêsu Kitô đang đến và ở với họ.

Chúng ta có thể hiểu được niềm vui sướng của bà Elisabeth, niềm vui của bà liên tục và lớn lao. Từ một phụ nữ son sẻ nay lại được cưu mang vị Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế. Bà không thể ngờ mình có được niềm vui như vậy sao bao năm chờ đợi gần như tuyệt vọng nay lại được toại nguyện nhưng đây cũng chỉ là niềm vui cá nhân của bà. Niềm vui lớn lao hơn là bà được chính Mẹ Đấng Cứu Thế và Đấng Cứu Thế lại viếng thăm mình. Có lẻ suốt một đời cậy trông, tin tưởng và thờ phượng Thiên Chúa hôm nay hạnh phúc và niềm vui như vậy đã đủ cho bà.

Đời sống đạo của mỗi người chúng ta cũng vậy Chúa và Mẹ luôn đến với chúng ta từng giờ từng phút, chúng ta phải biết nhận ra điều đó, có như vậy hạnh phúc và niềm vui luôn có trong đời sống đạo của chúng ta.

VỘI VÃ LÊN ĐƯỜNG 
Lc 1: 39-45

Càng gần đến ngày lễ Giáng Sinh của Đức Giêsu, khuôn mặt của Đức Maria càng nổi bậc lên. Quả thật, vai trò của Mẹ Maria trong chường trình cứu chuộc nhân loại quả thật là quá lớn lao và quan trọng. Không ai có thể phủ nhận được điều này. Lời nói "xin vâng" của Mẹ đã mang lại cho nhân loại ánh sáng và niềm hy vọng vĩnh cửu là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

Tin mừng hôm nay thuật lại việc Mẹ Maria vội vã lên đường đi thăm bà chị họ Êlisabeth của mình. Tại sao Mẹ lại vỗi vã đi như thế ngay sao khi nghe thiên thần Gabriel báo tin? Có người cho rằng: "Mẹ đi để xác định thông tin xem thiên thần nói thế mà không biết sự thật ra sao?". Nói như thế là không đúng cho Đức Mẹ, vì Mẹ đã thưa "xin vâng" với tất cả những gì Sứ thần đã báo tin cho Mẹ. Mẹ trở thành người có phúc vì Mẹ tin những gì Chúa đã hứa cùng Mẹ: "Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng, lời Chúa hứa cùng Bà sẽ được thực hiện" (Lc1, 46). Cho nên, không có chuyện Đức Mẹ nghi ngờ lời Sứ thần Gabriel nói bao giờ. Có người lại cho rằng: "Mẹ đi thăm bà Elisabeth để khoe mình được diễm phúc làm Mẹ Thiên Chúa". Chắc cũng không phải thế đâu! Vì Mẹ là con người thích sống âm thầm, luôn xưng mình là "nữ tỳ của Chúa". Mẹ không thích mình được người ta tôn vinh bao giờ!

Vì thế, việc Mẹ vội vã đi thăm bà Êlisabeth chỉ là cuộc viếng thăm thông thường của con người trong cuộc sống mà thôi. Có đặc biệt chăng thì đây là cuộc gặp gỡ thân tình của hai người chị em có cùng niềm tin và cùng cưu mang niềm hy vọng. . . Đức Maria biết rằng: người chị của mình mang thai trong lúc tuổi già như thế rất cần được sự chia sẻ, giúp đỡ. . . Nhưng sự gặp gỡ ấy lại biến thành một cuộc hội ngộ của tình yêu, của bình an và hạnh phúc dành cho những người luôn biết sống tin tưởng vào Thiên Chúa. Bà Êlisabeth mừng rỡ vì được Mẹ Thiên Chúa viếng thăm, Gioan tẩy giả trong bụng bà cũng nhảy mừng vì nhận ra được ân sủng lớn lao là được gặp gỡ Đức Giêsu và Mẹ của Người. Mẹ Maria mang Chúa đến cho gia đình bà Êlisabeth để làm cho gia đình này được chan hoà niềm vui và ân phúc. Thật vậy, nơi đâu có Chúa ngự trị, nơi đó có bình an và hạnh phúc!

Câu chuyện Đức Maria đi thăm bà Êlisabeth nhắc ta nhớ đến một câu chuyện rất cảm động trong Cựu Ước. Khi Vua Đavit rước Hòm Bia Giao ước (nơi lưu giữ 10 Điều răn của Chúa) về thành Giêrusalem, thì ông mừng vui quá mức nên nhảy nhót trước Hòm Bia Chúa như một đứa trẻ con. Nhưng rồi Hòm Bia ấy chưa được đem về Giêrusalem ngay mà được chuyển đến nhà của ông Ôved-Êđom. Và trong thời gian ba tháng lưu lại nơi đây, gia đình của Eved-Êđom đã đón nhận không biết bao nhiêu là phúc lành của Thiên Chúa. Đức Maria cũng chính là Hòm Bia của Giao ước mới, vì Mẹ đã cưu mang chính Chúa Giêsu là nguồn gốc mọi ơn sủng nơi cung lòng Mẹ. Chính Mẹ đã đón nhận ân phúc bởi trời và Mẹ sẽ chuyển cầu lại cho chúng ta.

Ngày nay, chúng ta cũng được mời gọi tiếp tục làm công việc của Mẹ Maria là mang Chúa đến cho người khác. Mỗi khi Rước Chúa Giêsu Thánh Thể vào lòng, thì tâm hồn chúng ta cũng tràn ngập Chúa. Chúng ta cũng trở thành người "cưu mang" Chúa trong lòng mình. Vì thế, chúng ta cần phải sinh Chúa ra cho đời. Chúng ta có trách nhiệm phải giới thiệu Chúa cho người khác bằng chính cuộc sống của mình, một cuộc sống vui tươi, thân ái và đầy hy vọng. Đây là một sứ mạng nặng nề nhưng cũng thật cao quí mà Chúa và Giáo hội ưu ái dành cho chúng ta.

Noi gương Mẹ, ta hãy đến với người khác bằng tấm chân tình, muốn chia sẻ những gánh nặng cho nhau, muốn giúp nhau trong những chuyện cần thiết, muốn mang niềm vui và hạnh phúc người mình gặp gỡ. . .Cụ thể, trong Mùa Giáng Sinh này, chúng ta hãy tìm đến với với một hai gia đình túng nghèo nào đó; hãy tặng quà cho một hai đứa trẻ mồ côi, bệnh tật nào đó. . . để động viên, an ủi và chia sẻ phận người với họ. Có như thế, niềm vui mừng Chúa Giáng Sinh mới thật sự có ý nghĩa và trở thành ngày hồng ân cho chúng ta. Amen.

ÐƯỢC DIỄM PHÚC VÌ BIẾT CỘNG TÁC VỚI THIÊN CHÚA 
Lc 1: 39-45

Quan niệm thông thường ở đời, người có phúc là người có nhiều tiền, có nhiều của cải, được nhiều người thương mến và kính trọng...Dầu vậy, những điều phúc này có giới hạn và có thời gian của nó. Vì những điều phúc này chỉ với cái nhìn của con người.

Cùng với Giáo Hội chúng ta bước sang Chúa nhật cuối cùng của Mùa vọng năm nay. Lời Chúa trong Tin mừng hôm nay giới thiệu cho chúng ta một mẫu người có phúc theo cái nhìn của Thiên Chúa - cái nhìn của đức tin."Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em." (Lc 1, 45). Ðây là lời chào của Bà Isave với Ðức Maria. Chắc chắn, nhờ sự soi sáng của Chúa Thánh Thần nên Bà Isave mới thốt lên được lời chào đầy ý nghĩa đức tin này.

Ðức Maria là người giữ vai trò quan trọng không thể thiếu được trong lịch sử cứu độ. Bởi Mẹ đã hết lòng quảng đại trong tin tưởng để cộng tác với Thiên Chúa trong việc đem ơn cứu độ đến cho toàn thể nhân loại. Do đó, Mẹ quả thật là người diễm phúc không chỉ giữa những người phụ nữ và giữa hết mọi người.

Thiên Chúa có dư khả năng để cứu độ con người nhưng Người không bao giờ thực hiện một mình. Ngài luôn cần có sự cộng tác của con người. Dù rằng sự cộng tác ấy rất nhỏ nhoi chẳng mấy xứng đáng. Cho nên Thánh Augustino đã nói một câu bất hủ: "Ðể sinh ra con thì Chúa không cần hỏi ý kiến của con. Nhưng để cứu độ con Chúa cần phải hỏi ý kiến của con"

Không còn bao lâu nữa cùng với toàn thể Giáo Hội chúng ta mừng Ðại Lễ Giáng Sinh - tưởng niệm việc Con Thiên Chúa xuống thế làm người đem ơn cứu chuộc đến cho nhân loại. Nhờ sự cộng tác tích cực của Ðức Maria mà Con Thiên Chúa đã được sinh ra. Mỗi người chúng ta cũng được kêu mời cộng tác với Thiên Chúa để Hài Nhi Giêsu được sinh ra trong lòng mình cũng như trong gia đình và trong họ đạo chúng ta. Có Chúa Giêsu ở trong và ở với ta thì điều phúc ấy mới bền vững và chắc chắn.

DẤN THÂN 
Lc 1: 39-45

Chúa nhật III Mùa vọng, lời Chúa giới thiệu cho chúng ta chân dung Gioan Tiền Hô với lời mời gọi tha thiết hãy thay đổi. Hôm nay, Chúa Nhật IV , Giáo hội mời gọi chúng ta hướng về Mẹ Maria với sứ điệp phụng vụ: Hãy dấn thân.

Bước chân đời thường

Tôi quan sát một người nông dân ra đồng để thăm ruộng lúa. Tôi bắt gặp một người ra siêu thị mua thức ăn cho bửa cơm của gia đình. Tôi gặp anh công nhân đến xưởng hằng ngày. Tôi cũng thường thấy rất nhiều khuôn mặt thân quen hằng ngày đi qua con phố trước nhà; đó là các em học sinh dến trường để trao dồi tri thức. Tất cả đều đi trong vội vả, họ đi một cách vô ý thức vì bước chân đã trở thành quán tính. Họ đi để hoàn tất phận vụ của cuộc đời mình. Tôi hiểu, nhưng tôi tự hỏi lòng mình. Trong những bước chân vội vã ấy, có được bao nhiêu bước chân đang tiến về phía trước vì lòng nhân ái?

Bước chân tin Mừng.

Đoạn Tin Mừng hôm nay, ai trong chúng ta cũng nhận ra bước chân của Đức Maria, bước chân của đức ái. Chúng ta cùng xem lại hành trình của Mẹ: Một hành trình dài của một người nữ có thể xem là chân yếu tay mềm, mà lại đang mang thai nữa. Mẹ phải đi trên con đường đồi núi, một quãng đường xa. Chắc chắn là rất khó nhọc, nhưng mẹ đi rất vội vàng, tình trạng xem ra cấp thiết. Thánh Luca muốn gửi cho cúng ta một thông điệp: Chúa đến, hãy đón nhận Chúa và cất bước lên đường vì nhu cầu của tha nhân. Chăm chú nhìn đôi chân của Mẹ, tôi đã thấy Mẹ bước ra khỏi Tin Mừng để đến với con người, phục vụ cho con người. Còn chúng ta, chúng ta đang sống giữa cuộc đời, chúng ta có dám lên đường vì ích lợi của người khác?

Bước chân của Kitô hữu.

Hôm nay, lúc này tôi đang tham dự thánh lễ chúa Nhật thứ IV Mùa Vọng. Như Đức Maria tôi được nhận một biến cố truyền tin quan trọng trong đời. Lời Chúa là sứ điệp truyền tin. Rước Chúa vào lòng là đón nhận Ngôi Lời nhập thể. Chúa đến với tôi, muốn tôi thực hiện một sứ vụ giống như Mẹ. Chúa không muốn tôi giữ Chúa cách kiên cố trong cõi lòng mình. Từ nơi tôi Chúa muốn đến với người mẹ già mà tôi bất kính, người phối ngẫu mà tôi không còn có thể yêu thương, người hàng xóm mà tôi vừa gây một mối bất hoà, người nghèo khổ mà tôi lạnh nhạt, hửng hờ. Chúa muốn tôi giống Mẹ Maria bước chân ra khỏi những trang sách Tin Mừng, ra khỏi nhà thờ sau khi tham dự thánh lễ Chúa Nhật để đến với tha nhân, dấn thân trong việc bác ái.

Thánh Luca cho ta hay sau lời chào của Bà Elizbeth, Mẹ Maria hân hoan trong lòng, cất lời Magnificat ca tụng Thiên Chúa. Hãy theo gương Mẹ, hãy làm một việc bác ái cụ thể nào đó một cách có ý thức. Tôi chắc rằng bạn cũng sẽ nhận được niềm vui thiêng liêng tuyệt vời.

Chúc bạn có được một màu Giáng Sinh với nhiều niềm vui: vui trong chúa và vui với tha nhân.  

CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG C 
Lc 1: 39-45

Trong Mùa Vọng, Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm những gương mẫu sống đức tin, đón chờ Chúa đến và sống niềm trông chờ đó, đó là Gioan Tiền Hô và Đức Maria,...Trong Chúa nhật thứ tư này, Giáo hội mời chúng ta chiêm ngắm và học hỏi sứ điệp sống yêu thương nơi Đức Mẹ

Sau biến cố truyền tin, được biết về chị họ Ysave son sẻ mà đang cưu mang Gioan Tiền Hô, Mẹ Maria mau mắn lên đường thăm chị họ. Mẹ không nghi ngờ lời sứ thần, cũng không phải để kiểm chứng lời sứ thần. Mẹ ra đi trong niềm vui, trong niềm tin tưởng, niềm phấn khởi lạc quan. Hơn nữa, Mẹ không ngại khó khăn đường xa đến thăm chị vì Mẹ muốn đến chung vui với chị họ, Vả lại Mẹ còn biết người chị họ cần sự giúp đỡ trong thời gian này. Thái độ mau mắn, không quản ngại đường xa của Mẹ Maria giúp chúng ta nhìn ra tâm hồn bác ái bén nhạy nơi Mẹ trước những nhu cầu của người khác. Mẹ đã thể hiện tình yêu bằng việc ra đi trong thái độ mau mắn. Sự hiện diện của Mẹ không chỉ hạn hẹp trong những giúp đỡ phần xác nhưng còn mang lại hoa trái thiêng liêng: Chị họ Isave ngập tràn niềm vui trong Thánh Thần. Còn trẻ Gioan thì nhảy mừng vui ngay trong lòng mẹ: Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm...Tâm hồn bác ái bao la của Mẹ, thật xứng đáng là ngai tòa cho Con Thiên Chúa ngự đến.

Khi nhìn lại mẫu gương quảng đại của Mẹ Maria, chúng ta rút ra cho mình những bài học.

Thứ nhật do chúng ta chưa yêu người đủ. Chưa yêu tha nhân thì không thể đến với tha nhân. Trong điều kiện ngày nay, chúng ta có thể đi được nhiều nơi, gặp gỡ được nhiều người, nhưng chúng ta còn ngại đến với tha nhân. Có biết bao nhiều người đang nghèo đói... chung quanh chúng ta. Vì chúng ta chưa chịu đến với họ do chúng ta chưa nhận ra sự nghèo khổ của cõi lòng mình nên không dám tiếp xúc, đến gần những người nghèo khổ chung quanh chúng ta, họ đói rách, thiếu ăn, thiếu mặc hay ngay cả những người đang đói khát niềm tin, chân lý, sự thiện,...để biết góp phần từng giải quyết những bế tắc của anh em và đem lại cho những người chúng ta gặp gỡ niềm tin tưởng và niềm hy vọng để vui sống.

Thứ hai chúng ta chưa yêu người cho đủ. Bởi vì yêu là liễu lĩnh, không tính toán, là quên mình phục vụ anh em để tình yêu được triển nở, được có cơ hội thăng tiến. Từ đó chúng ta có đủ can đảm để biết mạnh dạn yêu thương, sẳn sàng tha thứ và biết chấp nhận sự thiệt thòi vì mình muốn cho đi, mình muốn tha nhân được lợi ích của sự hy sinh và trao ban.

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta có biết bao cơ hội để đón nhận và trao ban. Khi chúng ta tra ban tình yêu,cử chỉ bác ái, yêu thương hay hành động giúp đỡ tha nhân, nghĩ tốt, nói tốt cho người khác là chúng ta đón nhận chính nó, đón nhận chính điều chúng ta trao ban. Thiên Chúa mãi mãi vẫn ở bên trên, xa lạ đối với chính mình bởi vì chính chúng ta chưa thể hiện tình yêu thương và như thế chúng ta cũng chẳng cảm nhận được sự yêu thương.

Lạy Chúa, đã bao mùa vọng đến và qua đi nhưng lòng chúng con vẫn thấy lạnh lẽo. Thực ra trong quỹ đạo yêu thương của Chúa không ai bị loại trừ vì Con Thiên Chúa đến làm người để chúng con được trở nên người hơn, nên con cái của Chúa trong sự yêu thương và biết hành động bác ái, biết quảng đại và can đảm dấn thân sống cho tình yêu để sống hạnh phúc.

Xin cho chúng con biết noi gương Đức Maria, đong đầy tâm hồn bằng sự thánh thiện, ân sủng, biết mở lòng đến với người khác như Mẹ. Chỉ như thế, con đường của tâm hồn chúng con mới xứng đáng cho Chúa ngự đến trong mùa Giáng Sinh này, đem cho chúng ta nguồn bình an, hạnh phúc thật sự.

CỘNG TÁC VÀO CHƯƠNG TRÌNH CỦA THIÊN CHÚA 
Lc 1: 39-45

Một linh mục được giáo dân mời dự tiệc tại nhà.

Trong suốt bữa tiệc, ngoài tiếng nói cười của khách, linh mục thắc mắc mãi vì có tiếng nước chảy róc rách trong nhà đâu đó. Vì là lần đầu đến nhà này, nên ngài không biết nước đó từ đâu chảy, hay là hồ nước trong nhà bị thủng. . .

Sau cùng, không thể giữ thắc mắc mãi, ngài hỏi người giúp bàn. Và người này lịch sự đáp: cách đây khoảng 40 năm, khi người ta đào móng xây nhà này, tình cờ họ khám phá mạch nước ngầm, và đó là tiếng nước chảy từ mạch nước.

Nghe nói thế, vị linh mục ngẫm nghĩ: chính nhờ mạch nước đó mà gia đình giáo dân này khá giả và ngoan đạo. (x. LMTV, Minh Họa Lời Chúa, Tập 1, tr. 63)

Nhờ mạch nước ngầm đó mà gia đình này giáo dân được sung túc. Ðiều đó làm chúng ta nghĩ ngay đến lời sứ thần chào Đức Maria khi truyền tin: kính chào Bà, Bà đầy ơn sủng, Thiên Chúa ở cùng Bà.

Mẹ Maria đón nhận đầy tràn ân sủng của Thiên Chúa, Mẹ là mạch suối bắt nguồn từ Thiên Chúa đem lại niềm vui và hạnh phúc cho những ai năng chạy đến với Mẹ để Mẹ dẫn đưa đến cùng Chúa. Vì hồng phúc, và niềm vui thánh thiện Chúa ban trong tâm hồn Mẹ mà Mẹ vui mừng, muốn được chia sẻ, muốn cao rao danh Chúa cho người khác. Vì lòng kính mến Chúa và yêu thương tha nhân tràn đầy mà Mẹ đã đến với bà Isave để giúp đỡ bà trong những ngày thai nghén.

Ðiều này cho thấy, những ai kính mến Chúa, biết mở lòng ra đón Chúa, biết cộng tác với chương trình yêu thương của Thiên Chúa thì cũng biết yêu thương tha nhân và sẵn sàng phục vụ cho lợi ích của tha nhân trong tâm tình yêu mến Chúa.

Rõ ràng, Ðức Mẹ đem Chúa đến thăm gia đình bà Isave là đem nguồn hạnh phúc đến cho gia đình Isave, khi đó, bà Isave được đầy tràn ơn Chúa Thánh Thần đã kêu lớn tiếng, ca khen Ðức Maria mà cũng là lời chúc tụng Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Nhờ Mẹ Maria đem Chúa đến gia đình Isave mà gia đình bà càng được chúc phúc hơn, thánh Gioan Tẩy Giả có lẽ được ơn đặc biệt ngay lúc đó nên biết nhảy mừng Ðấng Cứu Thế lúc còn trong dạ Mẹ. Chính Mẹ là mạch suối nước đem đến niềm vui thánh thiện cho gia đình Giacaria, để rồi khi nhận được hồng ân của Thiên Chúa ban qua Mẹ Maria, gia đình Giacaria biết hy sinh cho Chúa, sẵn sàng dâng đứa con duy nhất của mình cho chương trình của Thiên Chúa. Chính thánh Gioan Tẩy Giả khi lớn lên đã vào tu trong hoang địa, ăn châu chấu và uống mật ong rừng, để rồi khi đến thời Chúa định thì xuất thế, rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn, chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để chuẩn bị tâm hồn đón Chúa Giêsu Cứu Thế ngự đến.

Thánh Gioan Tẩy Giả đã biết đáp trả hồng ân Chúa ban cho mình và đã làm chứng cho Chúa tới cùng: chịu chết vì chân lý và nêu gương yêu kính Chúa cho mọi người.

Hôm nay, mỗi người chúng ta cũng được ban đầy hồng ân qua Bí Tích: Rửa Tội, Thêm Sức, Giải Tội... và được rước Chúa vào nhà thường xuyên, chúng ta có biết nhảy mừng đón Chúa như thánh Gioan Tẩy Giả, có biết đem Chúa đến cho mọi người xung quanh để họ cũng được niềm vui, cũng nhận được sự phục vụ của chúng ta. Nhờ vậy, họ nhận ra tình thương Chúa, được chia sẻ cùng một niềm tin với chúng ta và được phần phúc Chúa đã hứa ban cho tất cả những ai tin giữ lời Người.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết bắt chước Ðức Mẹ đem Chúa đến cho mọi người và biết phục vụ mọi người theo ơn soi dẫn của Chúa Thánh Thần. Amen

BƯỚC THEO MẸ 
Lc 1: 39-45

Người ta thường nói mùa vọng là mùa của Đức Trinh Nữ Maria điều đó thật chí lý. Nếu G.B và Isaia gương mẫu cho ta trong mùa vọng thì Đức Maria sẽ là gương mẫu tuyệt hảo hơn nữa. Mẹ không chỉ là người dọn đường mà còn là một nhân vật cần thiết cho việc nhập thể theo chương trình của Thiên Chúa an bài. Ta có thể nói được rằng, Giáo Hội tìm thấy nơi Đức Maria thái độ thiêng liêng để cử hành và sống các mầu nhiệm, đặc biệt là mầu nhiệm nhập thể. Vì Đức Maria là mẫu gương biết lắng nghe Lời Chúa và rao giảng lời Người.

1. Lắng nghe lời Chúa với niềm tin mãnh liệt

Có thể tóm lại cuộc đời Đức Mẹ với hai chữ "Fiat". Nhưng để đạt được hai chữ này cách trọn vẹn, đòi hỏi nơi Đức Maria niềm tin mãnh liệt. Tương tự thời Cựu Ước tổ phụ Áp-ra-ham muốn có một dân tộc đông như sao trên trời, như cát bãi biển, có miền đất hứa làm gia nghiệp thì cũng phải có niềm tin. Đức tin là điều kiện cần, vì nó vừa là khởi điểm vừa là con đường đưa Đức Maria tới địa vị làm Mẹ Thiên Chúa, bởi vì theo lời thánh Augustinô"Đấng mà Mẹ Maria sinh hạ trong đức tin, cũng là Đấng Ngài cưu mang trong đức tin nữa". Với một niềm tin sâu xa Mẹ đã đáp lại lời sứ thần Gabriel rằng "Đây tôi là nữ tỳ của Chúa xin làm cho tôi như lời sứ thần đã nói". Thế là từ đấy người nữ tỳ Maria hiển nhiên trở thành Mẹ Thiên Chúa. Nếu nhìn thân sâu hơn, ta thấy Đức Maria đã cưu mang Chúa bằng đức tin nơi tâm hồn trước khi cưu mang thân xác Ngài trong lòng dạ mình bởi quyền năng Chúa Thánh Thần. Chính vì đức tin đó mà Mẹ được gọi là diễm phúc "Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em". Như vậy nhờ đức tin, Maria đã đóng vai trò chủ động và chứng nhân trong cuộc nhập thể. Hơn nữa, Đức Maria còn ghi sâu những việc xảy ra để suy niệm trong lòng. Mùa vọng là mùa trông chờ Chúa đến, thì Đức Maria là gương mẫu tuyệt vời, Mẹ đã tiếp nhận Chúa, tin tưởng và phó thác. Ước gì mỗi người chúng ta cũng có tấm trạng như Đức Maria trong mùa vọng này, và tin nhận những lời Chúa hứa đã và đang thực hiện ngay trong đời của mình.

2. Con người truyền giáo

Việc Mẹ Maria lên đường thăm người chị họ là điều rất tự nhiên, và cũng muốn giúp đỡ người chị họ trong lúc sinh nở là điều bình thường. Nhưng đàng sau cái bình thường đó là cả một sự phi thường, một sáng kiến và quyết định cá nhân có sự hướng dẫn của Thánh Thần. Chỉ cần một lời tiên báo của Sứ Thần cộng với ơn thánh đã thúc đẩy Mẹ đem Chúa đến cho người khác. Đặc biệt bài phúc âm nói đến hai từ "vội vã" để nói lên một hành động cấp bách và dứt khoát. Một khi đã ưng thuận Thánh Ý Chúa, vâng theo tiếng gọi của Ngài, thì không được chậm trễ và nặng nề, nhưng vui vẻ và lạnh lẹ. Qua Bí Tích Rửa Tội mỗi người chúng ta cũng có trách nhiệm đem Chúa đến cho người khác. Con đường truyền giáo cần những con người nhiệt thành, với những bước chân nhanh nhẹn và một tinh thần cởi mở, dầu trên con đường có nhiều khó khăn.

Việc Mẹ là một thiếu nữ trẻ tự ý làm một cuộc hành trình dài 3 ngày đường, rồi còn ở lại đó mấy tháng trời xa nhà, hẳn phải là một cái gì đó gây kinh ngạc cho người Do Thái thời đó, và có thể bị coi là quá đáng. Nhưng Đức Maria đã bất chấp tất cả, những cái nhìn phàm trần đó một khi đã muốn thực hiện Thánh Ý Chúa. Ngày nay những cái nhìn khó chịu, những lời nói mỉa mai, những hành động khiu khích.... Cũng nhan nhãn nhằm chống đối những con người truyền giáo. Vì thế chúng ta hãy học theo mẫu gương Mẹ Maria chấp nhận tất cả, cũng như Mẹ ngày xưa cũng phải chịu rất nhiều đau khổ khi chấp nhận thi hành Thánh Ý Chúa. Vì khi bước theo Chúa chính là chấp nhận vác thánh giá với Người. Mỗi người đều được Chúa mời gọi và đều được Chúa ban cho Thánh Giá, tùy vào hoàn cảnh tùy vào khả năng. Nhưng điều quan trọng là phải biết thưa "Xin vâng" và thì hành với tinh thần "Vội vã" lên đường như Đức Maria hôm nay, để cùng đem Chúa đến cho người khác trong Mùa vọng này.

Lạy Chúa, ngày nay có rất nhiều người chỉ biết hưởng thụ, mà không biết phục vụ, chỉ nhận mà không biết cho. Xin cho mỗi người chúng con biết rằng mình đã nhận rất nhiều nơi Chúa. Đặc biệt là chính Chúa để chúng con cũng biết đem Chúa đến cho người khác . Amen

CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG
Lc 1: 39-45

Anh chị em thân mến.

Nước VN chúng ta nằm trong một vùng mà năm nào cũng chịu ảnh hưởng gió mùa hơi khắc nghiệt, chính vì thế nên năm nào cũng có những trận bão lụt, khiến cho người người phải vất vã khó khăn hơn. Như vừa qua, cơn bão đã ghé thăm miền trung của chúng ta, cơn bão bất ngờ gây thiệt hại rất nhiều về tài sản và người, khiến cho cả thế giới phải động lòng, tìm mọi phương cách để giúp đỡ những người đang trong hoàn cảnh khó khăn. Chúng ta thử suy nghĩ: Nếu người cho mà không có người nhận, thì việc làm của họ sẽ trở nên vô ích. Còn người cho, mà thấy người nhận thật sự cần thiết và đang trong tình trạng chờ đợi, thì việc làm đó mới là một việc làm có ích lợi thật sự, và mang đầy đủ ý nghĩa của nó. Việc làm này mang lại niềm vui cho cả hai bên, người cho lẫn kẻ nhận: vì người cho thấy mình đang thực hiện một việc làm có ý nghĩa và mang lại lợi ích cho bao nhiêu người đang cần thiết và chờ đợi. Còn người nhận thì vì tình trạng đang thiếu thốn, đang chờ đợi có người giúp đỡ, để vượt qua được tình trạng khó khăn hiện tại mà mình đang bất lực. Một việc làm mà đem lại niềm vui cho cả hai bên: người cho lẫn kẻ nhận.

Mẹ Maria đã nhận ra điều đó, nhận ra được niềm vui Thiên Chúa mang đến cho mình, đồng thời cũng nhận ra được nhu cầu của người khác đang cần đến niềm vui mà Mẹ đang tận hưởng, nên Mẹ không thể ngồi yên. Mẹ vội vã lên đường đáp ứng nhu cầu cho người khác đang cần đến. Việc phục vụ sẽ gặp nhiều trở ngại khó khăn về hoàn cảnh, địa hình. Nhưng Mẹ vượt qua tất cả, cho dù sức lực yếu đuối, Mẹ cũng vượt qua đồi núi, địa hình hiểm trở, để mang niềm vui cho người cần đến. Người cần cũng biết đón nhận, nên niềm vui được nhân đôi. Chúng ta thấy bà Elisabeth vui mừng vì nhận ra được niềm vui mà bà đang cần thiết và chờ đợi. Bà cũng không thể lặng thinh, bà đã cảm tạ Thiên Chúa, cảm tạ người mang niềm vui bất ngờ đến cho mình. Đó là cách bà biểu lộ niềm vui đón nhận hồng ân của Thiên Chúa.

Biết bao người đã từng lãnh nhận, không phải một lần, mà rất nhiều lần những ân huệ của Thiên Chúa, nhưng vẫn không có được niềm vui, vẫn không tỏ lộ một cử chỉ cảm tạ nào, vẫn không bằng lòng với những gì mình đã nhận được. Cũng có rất nhiều người không bao giờ biết bước chân ra đi, không bao giờ biết mang những gì mình có để tạo niềm vui cho mình và cho người khác. Chính vì thế họ luôn lo sợ, khó chịu và không bao giờ bằng lòng với cuộc sống, vì họ chỉ biết lo cho mình mà không bao giờ dám nhìn thấy nhu cầu của bao người chung quanh, chính vì thế không bao giờ họ có niềm vui. Không muốn cho người khác niềm vui, đó cũng chính là không biết chờ đợi và đón nhận niềm vui.

Còn chúng ta, những người đang ngồi đây, những người đang lắng nghe, những người đang nhìn thấy những diễn biến của thời đại. Nhưng không biết chúng ta có nghe và thấy được những gì cần thiết hay không? Chúng ta có thấy được nhu cầu của bao người chung quanh, chúng ta có thấy được sự chờ đợi mỏi mòn của những người đang thống khổ để đáp ứng không?

Họ đang chờ đợi chúng ta mở rộng lòng nhân ái để đến với họ và nói lên những lời yêu thương, những lời tha thứ . Họ đang chờ đợi ánh mắt dịu hiền hòa nhã, để họ có được niềm vui trong cuộc sống. Họ đang chờ đợi chúng ta mở rộng đôi tay để cho họ những gì cần thiết. Họ cũng đang chờ đợi những bước chân đi tới của chúng ta, để ban cho họ niềm vui, đồng thời chúng ta cũng nhận được niềm vui, vì thấy mình làm một việc có ý nghĩa. Nếu chúng ta thấy và đáp ứng được những nhu cầu như thế cho những người chung quanh. Đó là chúng ta đã học được bài học của Mẹ Maria là biết đem niềm vui đến cho người khác. Đồng thời chúng ta cũng học được bài học biết ơn, cảm tạ vì biết đón nhận Hồng Ân Thiên Chúa mà bà Elisabeth đã làm. Thiên Chúa đã đem Hồng Ân đến cho ta rất nhiều, nhưng chúng ta nhận ra được bao nhiêu lần, để biết nói lên lời cảm tạ tri ân. Những lần nhận được niềm vui bất ngờ, những lần may mắn, đời sống hằng ngày được nhiều điều tốt đẹp, những người chung quanh yêu mến giúp đỡ. Đó là những lần Chúa thăm viếng và mang niềm vui đến cho chúng ta.

Xin Chúa cho chúng ta luôn sáng suốt, nhìn thấy nhu cầu của người chung quanh, để biết đáp ứng và đem niềm vui cho người khác, đồng thời cũng nhận ra được niềm vui mà Thiên Chúa ban cho.

HÒM BIA GIAO ỨƠC MỚI
Lc 1: 39-45

Bà Isave nói: "Em là người có phúc nhất trong giới phụ nữ, và con em đang cưu mang cũng thật hạnh phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa đến viếng thăm?" (Lc 3, 10)

Vua David khi chiếm được thành Giêrusalem, đã sai người đi rước Hòm Bia Giao Ước về trên một cổ xe do bò kéo. Khi tới sân lúa, bò trược chân, Hòm Bia bị nghiêng. Ông Utda vội đưa tay đỡ lấy, bị phạt chết vì ông không phải là tư tế. David nghe tin, sợ không dám đem Hòm Bia về Giêrusalem, mà phải gởi lại ở nhà Obed Êdom. Chúa đã chúc phúc cho ông và cả nhà. Hòm Bia đã ở lại đây ba tháng (2 Sam 6, 10). Câu chuyện bài Tin Mừng chúa nhật hôm nay, cũng là câu chuyện gần như song song với chuyện trên. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.

a. Hai câu chuyện này cho ta thấy có những nét song song khá rõ rệt:

1. Cả Hòm Bia Giao Ước và Mẹ Maria, đều tiến về Giêrusalem.

2. Hòm Bia đã lưu lại tại nhà ông Obed Êdom trong ba tháng. Mẹ Maria cũng ở lại nhà Bà Isave ba tháng để giúp đỡ gia đình này.

3. Ông Obed vả cả nhà được chúc phúc. Nhà Bà Isave cũng thế: ông Zacaria hết câm khi thánh Gioan sinh ra - thánh Gioan nhảy mừng trong bụng mẹ và được khỏi tội tổ tông khi nghe lời Mẹ Maria chào - Bà Isave được tràn đầy hạnh phúc. Rõ ràng, thánh Luca muốn so sánh Mẹ Maria như là Hòm Bia giao Ước mới.

b. Hòm Bia giao Ước mới: Thánh Luca muốn nói Mẹ Maria chính là Hòm Bia mới mang Chúa Giêsu đến trong nhà Bà Isave, vì thế cả nhà nầy được chúc phúc. Mẹ Maria nếu muốn mang Chúa đến cho gia đình Bà Isave, chính vì Mẹ có Chúa ở trong mình; điều này chính là điểm căn bản Hội thánh muôn nói cho chúng ta trong chúa nhật thứ IV Mùa Vọng, chúa nhật cận kề lễ Giáng Sinh. Nói một cách khác, kinh thánh muốn xác nhận cho chúng ta; Mẹ Maria chính là Hòm Bia Giao Ước mới, đã cưu mang Con Thiên Chúa trong mình, đã sinh ra Đấng Cứu thế, Mẹ chính là Mẹ Thiên Chúa, Đấng đồng công cứu chuộc trong công trình rổi nhân loại. Đồng thời, kinh thánh cũng muốn nói: Mẹ Maria khi đi thăm Bà Isave, đã đem Chúa đến cho gia đình này; mà Chúa Giêsu, Con Mẹ, chính là nguồn ơn phúc, nên hiển nhiên gia đình này được chúc phúc. Thực ra, khi Mẹ thưa lời: " Xin vâng", đó chính là Mẹ đã sẵn sàng mang Chúa Giêsu trong mình, đồng thời Mẹ cũng sẵn sàng mang Chúa đến không chỉ cho gia đình Bà Isave, mà còn cho cả nhân loại nữa...

c. Gợi ý sống và chia sẻ:

1. Qua câu chuyện hôm nay cho ta thấy, Mẹ Maria và Chúa Giêsu, mỗi khi đến đâu, đều cũng là đem hạnh phúc đến cho nơi đó. Mẹ đến thăm Bà Isave, đã đem đem lại hạnh phúc cho thánh Gioan, nhờ đó ông khỏi tội tổ tông ngay trong bụng mẹ. Chúa Giêsu và Mẹ Maria là thế, còn phần chúng ta thì sao? Mỗi lần ta đến với người khác, có phài là một lần ta đem Chúa đến với họ không?

2. Mẹ Maria ở lại với Bà Isave độ 3 tháng, để giúp đở. Chúa Giêsu cũng nói:"Ta đến là để phục vụ, chứ không phải để được phục vụ..." Mẹ Maria và Chúa Giêsu đã sống phục vụ như thế. Còn ta thì sao? Ta có đến là để phục vụ người khác không?

3. Chúa Giêsu đã có mặt trong lần Mẹ Maria đi thăm Bà Isave. Chúa cũng có mặt trong lễ giáng sinh năm nay. Ngài cũng có mặt trong các Bí tích mỗi khi ta lãnh nhận, khi ta rước lễ, khi ta mở tâm hồn mình ra đón Ngài. Thực ra, ta có gặp được Chúa trong cuộc sống của ta chưa?

THỜI ĐẠI HỒNG ÂN
Lc 1: 39-45

Sau khi nguyên tổ loài người phạm tội, Thiên Chúa hứa sẽ ban Đấng Cứu Độ để giải thoát con người. Trãi qua thời gian dài chuẩn bị nay đến thời viên mãn Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người qua lời sứ thần Gariel truyền tin cho Mẹ Maria. Cửa Thiên Đàng đóng lại do tội con người lỗi phạm nay Thiên Chúa mở ra để đến với con người, thời kỳ lần mò đi tìm Thiên Chúa nay Thiên Chúa đã tự tỏ lộ. Một thời đại mới, thời Tân Ước, thời của Đức Giêsu Kitô.

Lời Chúa trong Phúc Âm thánh Luca hôm nay ( Lc 1, 39 - 45 ) diễn tả lại việc Đức Mẹ Maria đi thăm bà Isave, sau lời chào của Đức Mẹ thì hài nhi trong lòng bà Isave nhảy lên vì vui sướng. Do đâu mà Mẹ Maria đi thăm bà Isave ? Do đâu Gioan nhảy mừng ? ..

Trở lại ngày truyền tin Đức Mẹ hay biết chị họ của mình đã mang thai được sáu tháng, lại mang thai trong lúc tuổi già và son sẻ nên rất cần sự giúp đỡ. Đức Mẹ lên đường thăm chị họ của mình không phải là để xác minh lời của sứ thần truyền tin là có thật hay không nhưng cốt ý của Đức Mẹ là giúp đỡ người chị em mình trong lúc thai kỳ, Mẹ đã tin lời Sứ thần truyền tin qua lời thưa đầy tin tưởng của Mẹ : "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Sứ thần nói.....". Đức Mẹ đã tự nguyện lên đường khi biết người chị em mình cần đến mình, Mẹ không đợi ai mời gọi hay nhờ vả, Mẹ đi bước trước (tiệc cưới Cana cũng thế). Sự lên đường của Mẹ ngoài sự gặp gỡ giúp đỡ giữa hai con người mà còn là sự gặp gỡ, giao thời giữa Cựu Ước và Tân Ước, giữa Thiên Chúa và con người. Đức Mẹ ra đi đem Chúa đến cho nhân loại qua gia đình bà Isave là đại diện, cùng với sự hân hoan của Gioan Tẩy Giả. Trong truyền thống của Giáo hội Đức Mẹ được sánh ví như hòm bia Giao Ước. Hòm bia Giao Ước xưa được cung nghinh long trọng , được thờ lạy vì sự hiện diện của Thiên Chúa, nay Đức Mẹ mang nơi mình chính Con Một Thiên Chúa. Hòm bia giao ước xưa đánh dấu sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Israel, hòm bia giao ước nay đánh dấu sự hiện diện mới, sự hiện diện bằng xương thịt của Thiên Chúa giữa nhân loại. Thiên Chúa nhờ Đức Mẹ đã phá đổ quan niệm xa xưa về một Thiên Chúa trong Cựu Ước nay Thiên Chúa ở giữa nhân loại.

Sau lời chào của Đức Mẹ Gioan nhảy lên vui sướng vì là người nhận ra Đấng Cứu Độ mà muôn dân đợi trông. Vua Đavit xưa nhảy múa như đứa trẻ khi đón hòm bia giao ước từ nhà ông Ôbed Êđom về Giêrusalem thì hôm nay Gioan cũng nhảy mừng. Gioan vừa là con người của Cựu Ước vừa là con người của Tân Ước. Thời đại mới của Thiên Chúa đã hé mở, thời đại hồng ân Thiên Chúa ban chính Con của Ngài cho nhân loại. Trong thư Do thái trong bài đọc 2: "này đây Con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Ngài bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới" (Dt 10, 5 - 10) mà lễ tế mới chính là Thân Thể Đức Giêsu Kitô được hiến tế một lần cho tất cả trên đồi Sọ.

Chúng ta là những người Kitô hữu đang sống trong niềm hy vọng chờ đợi Chúa đến trong vinh quang. Chúng ta mang trong mình hình ảnh Đức Kitô, chúng ta hãy noi gương Đức Mẹ tự nguyện đem Chúa đến với anh chị em chúng ta, những người đang cần đến sự giúp đỡ của chúng ta từ vật chất cho đến tinh thần và cả lời cầu nguyện nữa. Mẹ Maria đã chẳng ngại gian khó, xa xôi để đến với bà Isave, nay chúng ta hãy hy sinh để mang Chúa đến với người khác. Mặt khác, chúng ta cũng hãy cảm tạ Thiên Chúa đã cho chúng ta được làm người, làm con cái Chúa qua cái chết và sự phục sinh của Chúa, qua bí tích Thanh Tẩy. Hãy ý thức địa vị cao cả của mình là Con Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã nói: phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.... Biết như vậy để ta vui mừng vì Thiên Chúa luôn ở với ta nếu ta biết đón nhận Ngài. Hôm nay Chúa Nhật IV mùa Vọng, mỗi người chúng ta hãy chuẩn bị sẵn sàng đón Chúa, Chúa đã đến bên ta và chắc chắn Chúa sẽ đến với những ai có lòng trông cậy.

CHIA VUI SẺ BUỒN 
Lc 1: 39-45

Báo tuổi trẻ cuối tuần ra ngày 22/ 10/ 2006 có đăng bài của Vũ Bình với nhan đề "Người thích làm từ thiện". Bài này đề cập đến một người có tấm lòng nhân hậu cao cả. Đó là chị Ngụy Thị Phương Thảo. Từ một người chân lấm tay bùn, khốn khổ nhưng sau thời gian cần mẫn và gặp thời vận may vợ chồng chị đã trở nên khá giả. "Vợ chồng chị hiện đang sở hữu hàng chục miếng đất và nhà cho thuê cùng hàng chục chiếc taxi....".

Chị Thảo là người biết mở ra cho anh chị em đồng loại. Chị sẵn sàng bỏ ra hàng chục triệu đồng để giúp đỡ bất cứ ai đang gặp khốn khổ. Cách đặc biệt, sau vụ tai nạn thương tâm của một đoàn cán bộ đi cứu trợ, chị đã không ngần ngại tặng một căn nhà trị giá hơn nửa tỉ đồng cho vợ con anh Trần Thanh Liêm. Anh này là một trong những người đã chết trong vụ tai nạn đó. Quả thật chị Thảo là một mẫu gương đáng tuyên dương.

Như thế, là người có đức tin chắc hẳn qua mẫu gương này ít nhiều gì cũng để lại trong ta nhiều suy nghĩ. Từng giờ, từng phút và từng giây ta đã nhận biết bao ơn lành từ Chúa cũng như từ nhiều người khác. Thử hỏi ta có được tinh thần biết mở ra như chị Thảo chăng? Trong các kinh Giáo hội dạy có kinh "Thương người có mười bốn mối". Thử hỏi kinh ấy có được thấm nhuần trong ta chưa?

Tin mừng hôm nay Thánh Luca cho biết Thánh Gioan đã nhảy lên vui mừng khi được Đức Mẹ đến viếng thăm. Sự kiện đó cho thấy Đức Mẹ đã biết đem niềm vui đến cho gia đình Bà Elisabeth. Như ta biết đường đi ở xứ Do thái xưa kia không phải dễ đi mà nhiều núi non hiểm trở. Cho nên, chắc là Đức Mẹ đã phải hy sinh nhiều lắm. Thánh Luca còn cho biết: "Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà." (Lc 1, 56)

Khi có đức tin mạnh và trái tim nhạy cảm ta sẽ dễ dàng nhận ra được nhu cầu của anh chị em đang sống quanh ta. Có người đã nói: "Không ai giàu đến nỗi không cần đến sự giúp đỡ của người khác và không ai nghèo đến nỗi không có gì cho anh em mình." Hãy tha thiết nài xin Chúa ban cho ta có được đức tin mạnh và trái tim nhạy cảm biết mở ra.

Đồng thời, ta cũng hãy noi gương Đức Mẹ và chị Thảo để biết sống cho anh chị em theo khả năng của mình. Bởi lẽ, niềm vui được chia sẻ được nhân đôi và nỗi buồn chia sẻ vơi một nửa. Những việc làm ấy chắc chắn sẽ là những cọng rơm ấm áp mà chúa Hài Đồng đang chờ đợi ta.

CHO THÌ CÓ PHÚC HƠN NHẬN
Lc 1: 39-45

1. LỜI CHÚA: "Cho thì có phúc hơn là nhận" (Cv 20,35).

2. CÂU CHUYỆN:

Một hôm vào buổi chiều áp lễ Giáng Sinh, một sinh viên trẻ cùng đi với vị giáo sư đến thăm các trẻ em bất hạnh trong viện mồ côi ngòai thành. Vị giáo sư này thường được các sinh viên gọi thân mật bằng tên "người bạn của sinh viên" vì sự thân thiện và tốt bụng của ông. Trên đường đi, thầy trò đi ngang qua một nông trại, thấy một đôi giày cũ nằm bên vệ đường gần cổng một nông trại. Có lẽ đây là đôi giày của một bác nông dân nghèo làm việc tại đây. Anh sinh viên liền nói với vị giáo sư: "Bây giờ sắp đến giờ tan sở. Em sẽ giấu đôi giày của ông ta vào chỗ khuất rồi thày trò chúng ta sẽ núp quan sát xem thái độ của ông ta thế nào khi bị mất đôi giày. Chắc là sẽ vui lắm đây". Vị giáo sư liền khuyên can: "Này anh bạn trẻ. Chúng ta đừng bao giờ cười vui trên nỗi đau của người khác. Trái lại, theo thầy nghĩ: em được Chúa cho có dư tiền bạc. Chắc em sẽ tìm thấy một niềm vui lớn lao hơn nhiều qua việc chia sẻ với người nghèo này đấy. Vậy em hãy đặt vào đôi giày của ông ta hai đồng tiền và chờ xem phản ứng của ông ta khi bất ngờ nhận được món quà Giáng Sinh". Anh sinh viên làm theo lời dạy, rồi cả hai cùng đến núp sau gốc cây gần đó.

Chẳng mấy chốc đã thấy một người từ trong nông trại đi chân không đến nơi để giày. Ông ta xỏ chân vào một chiếc giày và phát hiện ra vật lạ. Ông dùng tay moi ra một đồng tiền năm đô-la. Với vẻ ngạc nhiên, ông chăm chú nhìn đồng tiền rồi lật qua lật lại như không tin vào mắt mình. Rồi ông nhìn chung quanh tìm xem ai đã làm điều này nhưng không thấy. Ông bỏ đồng tiền vào túi áo, và tiếp tục xỏ chân kia vào chiếc giày còn lại. Vẻ ngạc nhiên của ông tăng thêm gấp đôi khi phát hiện đồng tiền thứ hai bên trong chiếc giày kia. Với cảm xúc tràn ngập trong lòng, ông liền quì gối ngước mặt lên trời dâng một lời nguyện tạ ơn Thiên Chúa. Ông cám ơn bàn tay vô hình hào phóng nào đó đã mang lại món quà thiết thực ngay trước lễ Giáng Sinh, cứu gia đình ông qua cơn túng quẫn: vợ đang bị đau phải nằm liệt giường mấy ngày nay và ba đứa con nhỏ dại bụng đói đang chờ bố đi làm mang tiền về nhà.

Anh sinh viên lặng người đi vì xúc động. Hai dòng lệ tự nhiên chảy xuống hai bên má khiến anh vội đưa tay gạt đi. Vị giáo sư liền lên tiếng nói: "Bây giờ em có thấy vui hơn nhiều nếu như em mang ông ta ra làm trò cười hay không?" Chàng thanh niên trả lời: "Đúng. Cám ơn giáo sư. Giáo sư đã dạy cho em một bài học mà có lẽ em sẽ không bao giờ quên được. Bây giờ em mới hiểu ý nghĩa thực sự câu nói của Chúa Giê-su mà hồi nhỏ em đã học qua nhưng chưa hiểu: "Cho thì có phúc hơn là nhận" (Cv 20, 35).

3. SUY NIỆM:

Cuộc viếng thăm của Đức Ma-ri-a trong Tin Mừng hôm nay cho chúng ta nhiều bài học.

1) Bài học bác ái yêu thương:

Tình yêu thực sự đòi phải biểu lộ bằng hành động: Đức Ma-ri-a đã nêu gương bác ái yêu người bằng hành động đi bước trước đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét khi vừa nghe tin bà có thai trong lúc tuổi già. Cũng vậy, mỗi tín hữu chúng ta cũng cần phải biểu lộ tình bác ái yêu thương tha nhân bằng việc làm cụ thể: đến thăm những người đang gặp khó khăn như các bệnh nhân đau liệt giường, các cụ già neo đơn, những người chưa nhận biết Chúa, các đôi vợ chồng bất hoà hay đang sống hôn nhân bất hợp pháp... để chia sẻ, đáp ứng nhu cầu cả về thể xác lẫn tinh thần.

2) Bài học loan báo Tin Mừng:

- Đức Ma-ri-a đã mau mắn lên đường đến thăm bà chị họ để loan báo tin vui cứu độ cho gia đình bà. Cuộc viếng thăm này hợp với sấm ngôn của I-sai-a: "Đẹp thay trên đồi núi, bước chân người loan báo Tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ" (Is 52,7a).

- Đem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là phải nói nhiều về Chúa. Đức Ma-ri-a chỉ mang sự quan tâm phục vụ gia đình Gia-ca-ri-a. Khi mang hận thù ganh ghét đến cho tha nhân là chúng ta đã gây sự chia rẽ bất hoà và đau khổ đến cho họ. Ta chỉ có thể đem Chúa là tình thương đến khi ta giúp hòa giải các tranh chấp và chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho họ noi gương Đức Ma-ri-a. Vừa nghe lời chào của Ma-ri-a đang cưu mang Đấng Cứu Thế, thai nhi Gio-an liền nhảy mừng vì nhận được ơn cứu độ.

3) Bài học chia sẻ niềm vui và chân thành phục vụ: Khi thăm viếng, Ma-ri-a đã không trao tặng món quà vật chất nhưng mang sự phục vụ chân tình cho gia đình này. Rồi chính Mẹ cũng lại nhận được sự đỡ nâng tinh thần: thêm xác tín về lời sứ thần truyền tin khi tận mắt chứng kiến bà chị họ lớn tuổi hiếm muộn mà giờ đây đã có thai được sáu tháng. Mẹ cũng ngỡ ngàng khi nghe bà Ê-li-sa-bét được Thánh Thần soi sáng đã nhận ra vai trò Mẹ Đấng Thiên Sai của mình. Chính niềm vui và những lời chúc phúc của bà Ê-li-sa-bét đã khiến Đức Ma-ri-a cất lên lời kinh ngợi khen cảm tạ hồng ân Thiên Chúa.

4) Bài học cho và nhận: Bác sĩ Tom Dolly, người đã hy sinh cả cuộc đời đến ở giữa chốn rừng thiêng nước độc bên Lào vào đầu thế kỷ này, đã phát biểu rằng: "Không ai nghèo đến độ không có một thứ gì đó để trao tặng tha nhân". Thực vậy, một người ăn xin ư? Anh ta vẫn có thể cho chúng ta cơ hội để thể hiện sự chia sẻ quảng đại của chúng ta đối với anh. Một người tàn tật ốm đau cũng có thể mời gọi chúng ta bày tỏ cảm thông và nâng đỡ. Một kẻ thù cũng có thể cho chúng ta cơ hội tập sự nhẫn nhịn để chịu đựng xỉ nhục và lòng bao duntg quảng đại để tha thứ... Phải, bất cứ ai cũng có thể đem lại cho chúng ta một điều gì đó. Vấn đề là chúng ta có nhận ra và có mở lòng đón nhận những món quà đó hay không.         

5) Bài học về công tác thăm viếng Mùa Giáng Sinh: Trong những ngày này, mỗi người chúng ta nên tiết kiệm để dành tiền thăm viếng bác ái chia sẻ. Những phần quà cho các người nghèo dịp lễ Giáng Sinh mang nhiều ý nghĩa, diễn tả rõ nét về "Thiên Chúa là tình yêu" (1 Ga 4,8). Khi đi thăm viếng chia sẻ quà tặng cho người nghèo, là chúng ta đã đem Chúa là tình thương, mang sự bình an, niềm vui và hạnh phúc đến cho họ, giúp họ được ơn cứu độ noi gương Đức Ma-ri-a.

4. THẢO LUẬN:

1) Trong những ngày áp lễ Giáng Sinh này, chúng ta có thể trao tặng cho người khác món quà gì đây: Một cánh thiệp No-en với những lời chúc mừng tốt đẹp nhất? Một cái bắt tay thân ái với một người mới quen? Một nụ cười vui vẻ, một ánh mắt cảm thông hay một sự lắng nghe đối với những người đang gặp tai ương hoạn nạn?...

2) Bạn quyết tâm sẽ tặng món quà gì cho những người thân và những kẻ bất hạnh trong mùa Giáng Sinh hồng phúc này.

5. NGUYỆN CẦU:

- Lạy Chúa Giê-su. Xin giữ gìn nơi con trái tim của trẻ thơ, tinh tuyền và trong ngần như dòng suối. Xin ban cho con trái tim đơn sơ, mau quên những nỗi buồn phiền do tha nhân đem lại. Một trái tim hào hiệp dám dấn thân và dễ cảm thông với tha nhân. Một trái tim trung thành và quảng đại, không quên ơn và không báo oán. Xin ban cho con trái tim hiền hậu và khiêm tốn: Yêu mà không mong được yêu lại, biết quên mình để Chúa được lớn lên trong anh em. Một trái tim luôn khắc khoải tìm làm vinh danh Chúa và chỉ yên nghỉ khi được chết trong ơn nghĩa Chúa.

- Lạy Chúa. Trong những ngày này, xin cho con biết mở rộng lòng để sẵn sàng trao tặng cho tha nhân những món quà vật chất hay tinh thần. Xin cho con biết nghĩ tới những bệnh nhân liệt giường lâu ngày không tiền thuốc thang chữa trị, những người già cả neo đơn và những trẻ em lang thang bụi đời vì không có một mái ấm gia đình để về... Xin cho chúng con biết đem tình thương và niềm vui của Chúa đến cho họ, để giúp họ cũng được chia sẻ niềm vui ơn cứu độ với chúng con.

X. Hiệp cùng Mẹ Maria

Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con. 

LM ĐAN VINH    www.hiephoithanhmau.com.


ĐEM BÌNH AN ĐẾN CHO MỌI NGƯỜI CHÍNH LÀ RƯỚC CHÚA VÀO TÂM HỒN

Lc 1: 39-45

Mikka làm ngôn sứ vào thế kỷ thứ 8 trước Kỷ Nguyên T.C. Thành Giêrusalem bị bao vây bởi quân Assur. Trong hoàn cảnh này ngôn sứ Mikka nói về hòa bình. Đây không phải chỉ là một thì vẫn mộng mơ đẹp để chứng tỏ sự mơ ước cho tương lai, mà là lời của Thiên Chúa hứa hòa bình qua miệng của một ngôn sứ mà những người nghe ông Mikka nghĩ như là không thể nào thành tựu được.

Hiện nay, cũng như thời ông Mikka, thế giới đang hỗn loạn. Vậy chúng ta có tin lời hứa của ngôn sứ hay không?: là sẽ có một vương đế an cư "cho đến tận cùng mặt đất". Mikka không phải là ngôn sứ độc nhất loan báo điều này. Các ngôn sứ khác đều nói đến ao ước hòa bình, một ao ước mà Thiên Chùa sẽ ban. Trong phúc âm hôm nay, bà Elizabet không chỉ nói với bà Maria, mà cả với chúng ta là những người đặt niềm tin vào Lời của Thiên Chúa. "Phúc thay cho Em là người đã tin vào lời Thiên Chúa, Ngài sẽ hoàng thành trên Em".


Lời Thiên Chúa hứa qua miệng ngôn sứ Mica đã được thực hiện "Chính Ngài là sự bình an". Đức tin của chúng ta vào Chúa Giêsu được biểu hiện qua quyết định hành động theo đức tin, mà chúng ta là đại sứ của sự bình an mà Đấng đã hứa sẽ đem đến. Lễ Giáng Sinh đã đến gần. Và đó là thời giờ ấm áp đã được loan báo. Và có lẽ đó là dành cho các em trẻ.


Nhưng, đối với chúng ta, những người lớn, chúng ta là đại sứ cho Đấng mà ngôn sứ Mica đã hứa: "Chính Ngài là sự bình an". Giờ đây đến lúc chúng ta mừng lễ Giáng Sinh với tinh thần người đem bình an đến, cũng như ông Mikka nói về Đấng sẽ sinh ra ở Bêlem. Hãy nhìn chung quanh, thử hỏi chúng ta làm sao thi hành đức tin được. Ở nơi nào và với ai để chúng ta nói lên lời tha thứ; chúng ta là người giúp giải hòa; Lời nói nhẹ nhàng cho những ai đang lớn tiếng; hành động chính trực cho những người bị áp bức và không nói lên được?


Trong bài sách của Mikka có chủ đề về người "bé nhỏ". Đó là chủ để được lặp đi lặp lại nhiều lần trong Kinh Thánh: như sự hiện diện của Đấng Tối Cao sẽ được cảm thấy như nhỏ bé "Hỡi Belam Ephrata nhỏ bé nhất trong hàng các bộ tộc Giuda. Chính từ nơi người sẽ xuất hiện cho Ta Vị thống lĩnh Israel". Dân Israel đời ông Mikka mơ ước bình an và chúng ta cũng vậy. Sự việc đem đến bình an khởi đầu bằng việc nhỏ bé ngay trong nơi chúng ta đang sinh sống.


Việc đó không có vẻ lớn lao gì trong phúc âm hôm nay. Một phụ nữ trẻ tuổi đang mang thai (có thể bị gọi là người mẹ không chồng) vội vả đi thăm để giúp đỡ một phụ nữ bà con lớn tuổi đang mang thai đã làm ngạc nhiên tất cả mọi người. Thật là một cảnh bình thường trong nước và rất phổ biến trong các gia đình. Trong xã hội có bao nhiêu phụ nữ đang mang thai hợp lại để giúp đỡ nhau. Đây là khung cảnh chúng ta nhận thấy nếu chúng ta không nghe câu chuyện Đi Thăm Viếng qua đức tin. Chúng ta nhìn lại tường thuật của thánh Luca kể về bà Elizabet và bà Maria gặp nhau có vẻ như là Tân Ước gặp Cựu Ước. Tất cả các lời hứa của các ngôn sự đã đến thời kỳ hiện thực.


Câu chuyện hai người phụ nữ đang mang thai gặp nhau là điều hợp với việc chúng ta sắp mừng Chúa Giesu sinh ra trong hai ngày nữa. Mặc dù chúng ta sắp gần lễ Giáng Sinh, câu chuyện này vẫn là câu chuyện của Mùa Vọng. Bà Maria là hình ảnh giúp chúng ta chiêm ngưỡng và học hỏi trong Mùa Vọng. Chúng ta học nơi bà Maria niềm tin vào Thiên Chúa trong khi chúng ta kiên nhẫn chờ đợi Ngôi Lời Nhập Thể trong đời sống chúng ta: đó là khi chúng ta trở nên dịu dàng hơn, tha thứ hơn, bớt nóng nảy, biết hòa giải hơn, và cảm thông hơn. Hôm nay bà Elizabet không chỉ nói với bà Maria, mà nói cả với chúng ta nữa. "Phúc cho Em đã tin vào Lời Thiên Chúa truyền, Ngài sẽ thực hiện trên em".


Thiên Chúa sẽ hiện diện với chúng ta dưới nhiều hình thức trong lúc chúng ta cố gắng đại diện cho hòa bình của Ngài: bắt đầu với những người trong gia đình, rồi đến những người thân cận chúng ta. Đây không phải là việc lớn, nhưng Ngài để ý đến những cố gắng của chúng ta và luôn ở với chúng ta, vì Thiên Chúa hoạt động trong chúng ta qua những hành vi nhỏ bé. Hôm nay chúng ta có hai câu chuyện trong Kinh Thánh nhắc nhở chúng ta điều này: là ngôn sứ Mikka nói việc nhỏ bé ở Bêlem là việc một Vị vua thuộc dòng vua David sẽ xuất hiện qua lời chào mừng của bà Elizabet lớn tuổi, với bà Maria, người phụ nữ trẻ tuổi.


Chúng ta đã thấy biết bao nhiêu tranh ảnh về sự gặp gỡ giữa hai người phụ nữ này. Thật là những bức tranh tuyệt đẹp và yên tĩnh. Đâu có bức tranh nào diễn tả sự lo sợ trong câu chuyện. Bà Elizabet, người phụ nữ lớn tuổi gọi là không thể có con, nghĩa là bà ta có thể bị láng giềng cười chê. Chồng bà có thể bị mất thể diện vì không được phúc có con nối dõi tông đường. Bởi thế, bà Elizabet có thể bị trách móc chứ không phải ông Zacaria bị cuời chê là bị Thiên Chúa phạt. Người nam gieo hạt giống, và đồng ruộng là người nữ bị chê trách là không làm cho hạt giống nảy mầm.


Bà Maria cũng có thể bị cười chê. Câu chuyện bà Maria bắt đầu với nỗi xấu hổ. Bà Maria đi thăm bà Elizabet lại càng thêm xấu hổ hơn nữa. Vì một phụ nữ không bao giờ ra đi mà không có người nam đi theo để che chở. Việc Maria tự động ra đi một mình có thể xem như là có điều gì xấu đang dấu.


Vậy bây giờ chúng ta cảm thấy gì trong câu chuyện này? Chúng ta đang ở cùng bà Elizabet và bà Maria: như người ngoài cuộc, như người không được xem là đạo đức tốt, như người bị giảm giá vì tuổi tác (hoặc già quá, hoặc trẻ quá), người bị hiểu lầm, hay người sống một đời không rõ ràng, người có hoàn cảnh, người bị thiên vị giới tính, người bị gia đình ruồng bỏ, người không vô giá trị trong mắt kẻ khác, hay người không đủ khả năng tự lo cho mình những điều tốt?


Câu chuyện bà Maria đi thăm bà Elizabet mời gọi chúng ta nghe và đặt niềm tin vào tín mừng là chúng ta được Thiên Chúa đón nhận. Vì Thiên Chúa Nhập Thế xuống trần gian bởi thân xác của một phụ nữ xem như người ngoài cuộc. Người con của một phụ nữ lớn tuổi gọi là không có con được, và không được hưởng phúc của Thiên Chúa, lại là người loan báo tin mừng của Vị Thiên Chúa Nhập Thế đó.


Lời Thiên Chúa ở trong chúng ta "là Lời sống động, hữu hiệu"(Dt 4:12). Một khi chúng ta đón nhận Lời đó sinh lại trong chúng ta trong mùa lễ này, chúng ta sẽ đem thể xác vào Lời đó bằng cách chống lại sự dữ, là che chở cho những người yếu hèn nhỏ bé như bà Elizabet và bà Maria trong xã hội chúng ta.


Để đáp lại bài phúc âm hôm nay chúng ta nhận bà Maria là người hướng dẫn chúng ta đi thăm bà Elizabet, là người sống bên lề lễ Giáng Sinh, là những người mẹ nuôi con một mình, là người di trú, là người bị gia đình ruồng bỏ, là người trong tần lớp thấp nhất của xã hội, hay nơi chúng ta làm việc v.v... Chúng ta hãy vội vã đi thăm viếng cùng với bà Maria.

Lm Jude Siciliano, OP

Chuyển ngữ: FX. Trọng yên, OP

MẸ MARIA
Lc 1: 39-45

Chúa nhật IV mùa vọng luôn đề cập đến vai trò của Mẹ Maria. Mà không nói về Mẹ làm sao được khi Mẹ được Thiên Chúa chọn lựa để làm Mẹ của Chúa Giêsu. Mẹ đã biểu lộ tinh thần Giáng Sinh một cách nổi bật. Đó là việc thăm viếng bà chị họ Êlisabeth.

Tin Mừng thuật lại Mẹ đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Điều mà con người xem ra không thể làm được. Tuy nhiên, đối với Thiên Chúa không việc gì mà Người không thể làm được. Để làm nổi bật sự kiện siêu vời này. Thiên Thần đã loan báo cho Mẹ Maria hay bà chị họ của Mẹ Maria là bà Êlisabeth cũng mới thụ thai con trong lúc tuổi già. Mặc dầu cả hai ông bà đều cao niên, tuổi tác đã già vv...Được Chúa Thánh Thần cho biết về bà chị họ của mình, Mẹ đã không chần chừ, Mẹ đã không nghĩ bản thân của mình, nhưng Mẹ đã nghĩ đến việc bà chị họ là Êlisabeth đang cần đến Mẹ trong khi bà thai nghén. Thánh sử Luca đã cho chúng ta hay Mẹ đã lên đường ngay, Mẹ đã vội vã đi đến nhà bà Êlisabeth, Mẹ mong mau đến nhà bà chị họ để giúp đỡ bà đang mang thai con trong lúc tuổi già. Mẹ biết rằng tuổi già yếu luôn cần có người ở bên cạnh để chia sẻ, cảm thông và giúp đỡ. Mẹ Maria đã cho mọi người thấy sự chân thành, tế nhị và tử tế, quảng đại của Mẹ đối với bà chị họ. Mẹ không khư khư ích kỷ chỉ lo cho mình Mẹ, nhưng Mẹ đã chứng tỏ tinh thần Giáng Sinh đối với con người, đối với mọi người. Mẹ đã chứng tỏ Mẹ luôn sẵn sàng, luôn mau mắn phục vụ trong tin yêu mọi người, đặc biệt là phục vụ bà chị họ của mình. Mẹ đã ở lại để giúp đỡ bà chị họ của mình ba tháng.


Vậy, những lý do nào đã khiến Mẹ Thiên Chúa vội vã lên đường thăm bà chị họ sau khi Mẹ đã nói lời Xin Vâng làm theo ý của Thiên Chúa. Chúng ta có thể nói lên hai lý do chính yếu sau đây: Đức Mẹ ra đi để chia sẻ niềm vui, một niềm hân hoan lớn lao bởi vì ân huệ cao quí nhất Thiên Chúa dành cho Đức Mẹ. Đây cũng là niềm vui vì Mẹ có dịp cùng bà Êlisabeth ca tụng, ngợi khen Thiên Chúa vì đặc ân quí giá Thiên Chúa tặng ban cho Đức Mẹ và người chị họ Êlisabeth. Đức Mẹ không giữ niềm vui cho riêng mình, nhưng đã chia sẻ niềm vui cứu độ cho những người khác. Đức Mẹ ra đi truyền giáo, đem Đấng Cứu Thế đến cho bà chị họ, gia đình ông Giacaria và đặc biệt cho Gioan Tẩy Giả. Chính vì thế mà Tin Mừng thuật lại Gioan Tẩy Giả đã nhảy mừng trong lòng của bà Êlisabeth. Đức Mẹ đã đem niềm vui cho cả gia đình ông bà Giacaria và một cách nào đó, Đức Mẹ cũng nhận được niềm vui nơi gia đình của ông bà Giacaria. Lý do khác nữa là lòng bác ái yêu thương đã thức đẩy Đức Mẹ đi thăm bà chị họ Êlisabeth. Bà Êlisabeth sống neo đơn vì hai ông bà Giacaria đã già nua cần có người giúp đỡ, đặc biệt trong khi thai nghén. Đức Mẹ đã đóng vai trò người giúp đỡ.


Do đó, chúng ta luôn phải noi gương bắt chước Mẹ Maria vì ở đâu, nơi đâu, lúc nào, người khác cũng muốn được an ủi, vỗ về, cảm thông có nghĩa là muốn nhận được niềm vui. Thánh Phaolô đã viết: " Hãy vui với người vui.Hãy khóc với người khóc ". Đem niềm vui cho người khác, cảm thông với người khác là chúng ta đã giới thiệu Chúa Giêsu cho họ và một cách nào đó, chúng ta đã làm việc truyền giáo. Chúng ta cũng noi gương bắt chước Mẹ trong việc thực thi bác ái, trong việc phục vụ mọi người. Vâng, sống trong xã hội là sống liên đới, sống với người khác, nên, gia đình chúng ta, cá nhân chúng ta phải mở rộng, hướng ra ngoài, đừng ích kỷ, đừng cục bộ, hãy thăm viếng, chia sẻ, và cảm thông với người khác, nhiều người đang cần chúng ta, nhiều người đang muốn được chúng ta nâng đỡ, an ủi, cảm thông giúp đỡ, đừng đóng lòng lại mà hãy mở tung cửa lòng để đón nhận, chia sẻ. Đó là việc truyền giáo. Đó là việc loan báo Tin Mừng. Chúng ta đừng làm ngơ giả điếc, đừng giả mù nhưng hãy mở lòng ra để giúp đỡ mọi người. Bác ái không phân biệt bất cứ ai, không phân biệt bất cứ người nào.


Mẹ Maria đã nêu gương cho mọi người chúng ta bằng thái độ phục vụ hết mình bà chị họ.


Việc thăm viếng của Mẹ đã mở ra một chân trời mới, một tương lai mới mẻ nhất vì nhờ Con Thiên Chúa làm người, Thiên Chúa đã gặp gỡ con người và con người lại được phúc gặp gỡ Thiên Chúa. Maranatha! Lạy Chúa Giêsu xin mau đến.


Lạy Chúa, Chúa đã dùng lời thiên sứ truyền tin mà cho chúng con biết thật Đức Kitô, Con Chúa, đã xuống thế làm người. Xin đổ ơn thánh đầy lòng chúng con, để nhờ công ơn Con Chúa chịu khổ hình thập giá, Chúa cũng cho chúng con được sống lại hiển vinh. Amen ( Lời nguyện nhập lễ Chúa nhật IV Mùa Vọng ).

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

BUÔNG SÚNG
Lc 1: 39-45

Hội bảo vệ quyền lợi người yêu súng và những người mê súng lí luận họ cần nó để phòng thân và bảo vệ mình. Lí luận nghe hợp lí và êm tai nhưng thực tế cho thấy khác xa những gì lí luận. Bởi vì không phải lúc nào con người cũng tự chủ được chính mình, nhất là khi nóng giận, quá buồn hay cô đơn. Đó là chưa kể đến những người đầu óc không bình thường hay sống trong tâm trạng thù hằn.

Vụ thảm hại trẻ em vô tội mới đây xảy ra tại Newtown, Connecticut, bên Hoa Kì cho thấy rõ những hiểm nguy của việc giữ vũ khí trong tay. Hai mươi bốn vụ thảm sát đẫm máu xảy ra trong vòng bảy năm qua. Điều nghịch lí là khi một số người tranh đấu cho quyền giữ và xử dụng vũ khí cá nhân được tôn trọng thì quyền lợi người khác bị xâm phạm, nhất là trẻ em. Không phải quyền lợi các em bị hại mà là sinh mạng, sự sống của con người.


Người lớn có nhiệm vụ bảo vệ trẻ nhỏ khỏi hiểm nguy, giúp chúng sống an toàn trong nhà cũng như ngoài đường. Luật cho phép cầm giữ và xử dụng vũ khí làm tổn thương đến nhiệm vụ bảo vệ các em. Để bảo vệ người vô tội khỏi bị chết oan, việc buông súng là cần thiết. Muốn buông súng việc đầu tiên cần làm là từ bỏ một phần tư lợi, í riêng, quyền lợi riêng của cá nhân, từ bỏ luận điệu có quyền hay được quyền làm điều đó. Từ bỏ ít tư lợi cá nhân để đại chúng được nhiều điều lợi là điều tốt lành, nên làm và đáng khuyến khích. Ích lợi này không mới lạ gì vì trong Kinh Thánh có nhiều tấm gương sáng chói, được đề cao, trở thành ngày lễ kính quan trọng trong Giáo Hội. Khi đám đông hỏi ông Gioan họ phải làm gì, ông kêu gọi họ đặt lợi ích chung trên tư lợi. Gioan không phải chỉ kêu gọi người khác làm điều đó mà bản thân ông thực hành trước lời kêu gọi kia. Ông vui lòng từ bỏ mọi sự để phục vụ dân Chúa.


Tôi là tiếng người hô trong hoang địa, hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi Gn 1,23

Đó là niềm vui của Thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn. Người phải nổi bật lên, còn Thầy phải lu mờ đi Gn 3,30


Mấy ai vui khi thấy kẻ đến sau nổi bật lên, còn mình từ từ chìm vào quên lãng. Đức Kitô cũng mang tâm tình ấy khi Ngài tuyên bố Ngài đến không phải để làm theo í riêng mà làm theo í Đấng sai Ngài đến


Vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo í tôi, nhưng để làm theo í Đấng đã sai tôi. Mà í của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết Gn 6,38


Đức trinh nữ Maria cũng từ bỏ í riêng để thực thi í Chúa khi thưa xin vâng cùng Thiên Thần.


Vâng tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói Lc 1,38


Đức Trinh Nữ được gọi là người có phước vì Ngài từ bỏ tự lợi để công lợi được thể hiện


Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, vì người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc Lc 1,42


Từ bỏ tư lợi cho công lợi được lợi hơn là điều tốt lành vì nó mang phúc lợi cho nhiều người. Thánh Gioan Tẩy Giả, Đức Trinh Nữ và Đức Kitô đều từ bỏ í riêng, tư lợi để í Chúa được thể hiện qua cuộc đời mỗi người và những từ bỏ này trở thành lịch sử ơn cứu độ. Đức Kitô từ bỏ í riêng để í Chúa Cha được thực hiện. Ngài chọn xuống thế, sinh trong chuồng bò vách tan, cửa trống và sống giữa những kẻ nghèo nhất trong số những kẻ nghèo. Chính việc từ bỏ í riêng này làm lên lịch sử của ngày lễ Kính trong mùa Giáng Sinh. Không có việc từ bỏ sẽ chẳng có Giáng Sinh.

Lm Vũđình Tường

CHÚA VIẾNG THĂM
Lc 1: 39-45

Lễ Giáng Sinh đã đến gần, người đời như muốn làm cho biến cố hồng phúc cứu độ này thành một thứ lễ hội với đủ thứ trang trí và hoạt động náo nhiệt, rộn ràng...

Không như cách thức thế gian, người tín hữu háo hức chờ đợi và hướng đến đêm hồng phúc bằng thái độ đức tin được hướng dẫn bởi lời Chúa thuật lại cuộc viếng thăm của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a dành cho gia đình bà chị họ Ê-li-sa-bét.


Thoạt nghe thì đây là cuộc viếng thăm giữa hai chị em, giữa hai bà mẹ đang mang thai, nhưng sâu xa thì đây là cuộc Thiên Chúa viếng thăm dân của Người.


I.
CHÚA CHA

Số là bà Ê-li-sa-bét từng mang tiếng là hiếm hoi. Bà đã đến tuổi cao niên mà chẳng có được một mụn con. Thế nhưng trong lần vào đền thờ để lo việc tế tự theo phiên của nhóm mình, ông Gia-ca-ri-a, chồng của bà đã được sứ thần Gáp-ri-en báo tin sau thời gian phục vụ ở đền trở thờ về ông và bà sẽ có con; và hiện nay bà Ê-li-sa-bét đang cưu mang thánh Gio-an Tẩy Giả (x. Lc1, 5-25).


Phần Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, một thiếu nữ không hề biết đến chuyện vợ chồng, nhưng do quyền năng của Chúa Thánh Thần, Đức Trinh Nữ cũng đang cưu mang Người Con vĩ đại. Người là: Con Đấng Tối Cao, là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa, sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến vô cùng vô tận (x. Lc 1, 30-35).


Cả hai người phụ nữ đều nhận được sự can thiệp kỳ diệu của Thiên Chúa và đã bày tỏ lòng tin:


- Được cưu mang thánh Gio-an Tẩy Giả, bà Ê-li-sa-bét cảm nhận chính Thiên Chúa đã viếng tăm cuộc đời của bà, đã thương giải thoát bà khỏi nỗi hổ nhục bà phải chịu trước mặt mọi người (x. Lc 1, 25).


- Được cưu mang Con Thiên Chúa nhập thể làm người, Trinh Nữ Ma-ri-a đã thưa vâng và dâng lời chúc tụng Thiên Chúa đã làm Chúa Người những điều cao cả (x.Lc 1, 46-55).


Như vậy, cuộc gặp gỡ giữa hai bà mẹ đang mang thai là dấu chứng quyền năng Thiên Chúa viếng thăm và can thiệp trên con người "đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được" (Lc 1, 37).


II. CHÚA THÁNH THẦN


Hai người mẹ tràn đầy ân sủng và tìm đến nhau. Cùng với sự hiện diện của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a là sự hiện diện của Chúa Thánh Thần.


Chúa Thánh Thần đã ban niềm vui, sự hân hoan sốt sắng lạ thường cho gia đình bà Ê-li-sa-bét:


- ban tình yêu để bà vui vẻ đón tiếp Thân Mẫu Thiên Chúa.


- soi sáng cho bà nhận biết ân huệ của người em họ và hồng ân nơi Người Con của Đức Trinh Nữ "Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc" (Lc 1, 42),


- thúc đẩy để bà thốt lên lời chân thành "bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?" (Lc 1, 43).


- hướng dẫn để bà xác tín phẩm chức của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a là "Thân Mẫu Chúa" (Lc 1, 43).


- tràn ngập trên người con của bà tuy mới chỉ là một thai nhi nhưng đã "nhảy lên vui sướng" (Lc 1, 43)..


Chúa Thánh Thần đã dẫn dắt gia đình bà E-li-sa-bét nhận biết chương trình của Thiên Chúa " không ai biết được những gì nơi Thiên Chúa, nếu không phải Thần Khí của Thiên Chúa" (1 Cr 2, 11). Trong chương trình ấy, con người gặp gỡ Đấng Cứu Thế.


III. CHÚA GIÊ-SU


Thân mẫu Thiên Chúa đã viếng thăm người chị họ đang mang thai người con trai sẽ được đặt tên là Gio-an. Cùng đồng hành với Đức Trinh Nữ là người con đang được cưu mang trong dạ Ngài sẽ được đặt tên là Giê-su.


Gio-an nghĩa là được Thiên Chúa thương, được Thiên Chúa cứu.


Giê-su nghĩa là Đấng Cứu Thế.


Vậy, bên ngoài là cuộc gặp gỡ của hai người mẹ, nhưng sâu xa là cuộc gặp của hai người con. Đấng Cứu Thế gặp gỡ con người được Chúa thương. Đấng Cứu Thế hạ mình thẳm sâu nương nhờ trong lòng người mẹ nhân loại để con người được Chúa xót thương "nhảy lên vui sướng" (Lc 1, 43).


Thực thi thánh ý Chúa Cha (x. Dt 10, 7), Chúa Giê-su Cứu Thế đã viếng thăm dân của Chúa. Người sẽ dựa vào uy lực và uy danh Đức Chúa, đem lại hòa bình (x. Mk 5, 3- 4) giải thoát dân Người khỏi quyền lực của sự dữ, khỏi sự chết, khỏi mọi nỗi ô nhục mà đưa vào vương quốc vĩnh cửu vô biên, đầy tràn sự thật và sự sống, đầy tràn ân sủng và thánh thiện, đầy tràn tình thương công lý và bình an... hầu hưởng niềm vui hạnh phúc, niềm vui được cứu độ.


Lễ Giáng Sinh đã đến gần, người thế gian đang chờ đợi một lễ hội; người tín hữu xác tín về Thiên Chúa viếng thăm cứu độ dân của Người trong sự cộng tác của một nhân vật tuyệt vời: Đức Trinh Nữ Ma-ri-a.


Nhờ Mẹ, người tín hữu thấm sâu chương trình của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Cha quyền năng, với Người "không có gì là không thể làm được". Chúa Thánh Thần sẽ soi dẫn cho con người nhận biết Thiên Chúa. Trong hành trình ấy, con người gặp gỡ Chúa Giê-su Con Thiên Chúa làm người để cứu độ con người thoát khỏi tội lỗi và sự chết.


Nguyện xin ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng chúng ta.


Niềm vui giáng sinh là vậy!

Lm . Jb Nguyễn Minh Phương, C.Ss.R

LÀM GƯƠNG
Lc 1: 39-45
Có một câu chuyện kể rằng: tại Na Uy, một chiều đông, tuyết rơi nặng từng hạt. Một người đàn ông say rượu lảo đảo bước đi trên tuyết. Cậu con trai 10 tuổi của ông sau khi ngồi chờ cha mình ngoài quán rượu cũng lẽo đẽo theo cha về nhà. Cậu đặt bàn chân nhỏ bé của mình lên những dấu chân hằn sâu trên tuyết mà cha cậu để lại, những bước chân ngả nghiêng, chao đảo. Bất chợt người đàn ông quay lại, nhìn thấy con mình bước thấp bước cao, dáng vẻ như một người say rượu, ông gắt gỏng hỏi nó với giọng lè nhè:

Mày đi kiểu gì vậy?

Cậu bé trả lời:
Dạ, con đang đi theo bước chân của cha!

Quả thực. sự gương mẫu thật hệ trọng trong việc giáo dục. Có những bước chân vô tình tưởng chừng như chẳng liên hệ gì đến ai, nhưng vẫn để lại cho đời những dấu vết chẳng phai mờ. Có những bậc làm cha, làm mẹ đã thật ngạc nhiên qua cách ứng xử của con cái sao giống hệt như mình: giận dữ, hống hách, lười biếng giống như là bản sao của chính mình. Có những người đã từng quát lên trong cay đắng "sao con lại hành xử như vậy?". Và dường như nó cũng đang thầm nói lại rằng:"con đang bước theo bước chân của cha mẹ!"


Giống như con suối tưởng như vô tình, cứ uốn mình theo dòng chảy của thời gian. Vậy mà nó vẫn còn để lại dấu vết chẳng phai mờ trên mặt địa cầu bao la rộng lớn. Đời người cho dẫu chỉ là phù hoa, kiếp nhân sinh cho dẫu có vắn vỏi hay lặng lẽ trôi qua vẫn để lại những dấu vết chẳng phai mờ nơi trần gian. Vì vậy mà Nguyễn công Trữ mới bảo rằng:


"Người trồng cây hạnh người chơi

Ta trồng cây phúc để đời về sau"

Hôm nay, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm một bước chân thật đẹp của tình người. Một bước chân của yêu thương không phai mờ qua mọi thời gian. Một bước chân tràn ngập tình yêu thương để có thể băng đồi, lội suối, vượt qua mọi thác gềnh, chẳng sợ gian nan của Mẹ Maria. Một bước chân vồn vã bước đi trong bác ái yêu thương, trong dấn thân phục vụ. Một bước chân có sức mạnh phá tan mọi băng giá của con tim để sưởi ấm tình người. Một bước chân thăm viếng thắm đượm tình Chúa, tình người đến nỗi bà Elisebeth đã nghẹn lời thốt lên: "Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa tôi viếng thăm". Một bước chân nở hoa bác ái, yêu thương trên hành trình Mẹ đã đi qua.


Mẹ Maria đã chẳng để lại cho đời những giáo thuyết cao siêu, những lời hay ý đẹp. Mẹ chỉ để lại cho đời một tấm gương sáng ngời của bác ái, vị tha, của xin vâng và phó thác. Cuộc sống của Mẹ là trang sử thật đẹp để lại cho trần gian. Một cuộc sống tử bỏ ý riêng để phục vụ cho chương trình Thiên Chúa. Một cuộc sống chỉ lo chu toàn thánh ý Chúa. Cho dẫu lời xin vâng là chén đắng, là khổ đau nhưng Mẹ đã làm tất cả vì chỉ mong cho ý Chúa được thực hiên, cho nhân trần được hưởng nguồn ơn cứu độ.


Ước mong mỗi người chúng ta hãy sống một đời yêu thương để mang lại cho đời những dấu tích của hiệp nhất và bình an. Tình yêu sẽ giúp con người vượt qua những nhỏ nhen, ích kỷ để chiến thắng bản thân, để mang lại an bình, tươi vui và hạnh phúc cho người mình yêu. Không có tình yêu, cuộc sống giống như giòng suối khô cạn. Không sự sống. Không sinh khí và hiển nhiên cũng không còn nguồn sống cho nhau. Cuộc đời cần có tính yêu thì sự sống mới được chăm sóc, được bảo vệ. Cuộc đời cần có tình yêu thì sự sống mới sung mãn và ngập tràn niềm vui.


Ở đâu đó vẫn còn nạn phá thai, nạn bạo hành gia đình là vì thiếu tình yêu. Ở đâu đó vẫn còn tranh chấp, còn chiến tranh, còn hận thù là vì thiếu tình yêu giữa con người với nhau. Ở đâu đó vẫn còn nghi kỵ, kết án, hiểu lầm, ghen tương là vì giòng chảy tình yêu đã khô cạn.


Ước mong mùa giáng sinh cùng với những đèn sao lấp lánh nơi hang đá, mỗi người chúng ta hãy thắp lên cho giòng đời những cây nến sáng của yêu thương, của lòng trắc ẩn trước nỗi khổ của tha nhân, của dấn thân phục vụ để xoa dịu nỗi đau cho anh em. Nguyện xin Mẹ Maria cùng đồng hành với chúng ta trên những bước chân của yêu thương đang đi tới với anh em trong yêu thương và phục vụ. Amen

Lm Jos Tạ Duy Tuyến

MARIA ĐÃ TIN
Lc 1: 39-45
Chúa nhật 4 mùa vọng thương dành riêng để nói đến lòng tin của Đức Mẹ. Chúng ta có thể gọi Chúa nhật này là Chúa nhật của Đức Mẹ. Mà không là Chúa nhật của Đức Mẹ sao được khi đoạn Tin mừng của thánh Luca hôm nay đặc biệt nói về Đức Mẹ.Do đó, Chúa nhật 4 mùa vọng thực sự hướng chúng ta về Mẹ Maria, một người Mẹ tuyệt vời đã chấp nhận ý định của Chúa làm Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ của nhân loại.

Trình thuật của thánh Luca hôm nay kể lại việc Thiên Chúa sai sứ thần Gabrien đến với một trinh nữ tên là Maria, loan báo rằng Con Thiên sẽ đến thăm.Trước lời loan báo của sứ thần dù Maria chưa hiểu rõ, nhưng Mẹ đã dám tin, đã dám nói lời xin vâng, chấp nhận ý định cao sâu của Thiên Chúa. Chính vì thế, Mẹ đã được tràn đầy ơn phúc. Mẹ không giữ lấy niềm vui, niềm hạnh phúc cho riêng mình, Mẹ đã tức tốc lên đường chia sẻ niềm vui với bà chị họ là Êlisabét. Đây là cuộc lên núi xuống đồi để viếng thăm nhau. Bà Êlisabét đã có thai đươc 6 tháng trong lúc tuổi già. Hai chị em gặp nhau, mừng vui hớn hở. Bà Êlisabét nói: " Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em " ( Lc 1, 45 ). Cuộc gặp gỡ nhau giữa hai chị em họ đã làm cho Chúa Giêsu trong lòng trinh nữ Maria và thánh Gioan Tẩy Giả trong dạ bà Êlisabét cũng vui mừng. Thật đúng đây là Giao Ước cũ đã gặp được Giao Ước mới. Những bài đọc hôm nay cho chúng ta thấy tin là để chính Thiên Chúa dẫn đưa cuộc đời của mình. Tin là để Chúa thực hiện chương trình cứu độ của Ngài trong cuộc sống chúng ta. Tin là chấp nhận phiêu lưu để Chúa định đoạt cuộc đời của mỗi con người. Mẹ Maria đã hoàn toàn để Chúa thay đổi hướng đi đời sống của mình. Mẹ đã hoàn toàn tin yêu, phó thác và đã để Chúa hướng dẫn đời mình. Mẹ luôn để đời mình đi theo sự chỉ dẫn của Thiên Chúa. Suốt cuộc đời của Mẹ luôn là cuộc mạo hiểm. Mẹ đã sinh con tại hang đá khó nghèo, đã đem con trốn qua đất Ai Cập, đã lạc mất con, đã cùng con dự tiệc cưới Cana, đã gặp gỡ con trên đường rao giảng tại Capharnaum, đã gặp con dưới chân thập giá.Mẹ đã luôn lắng nghe Lời của Chúa và suy đi nghĩ lại trong lòng ( Lc 2, 19).


Mẹ Maria quả là người Mẹ thánh đức tuyệt vời bởi vì Mẹ đã dám tin lời hứa của Thiên Chúa, Mẹ đã dám phiêu lưu, đã dám để Thiên Chúa lèo lái cuộc đời của mình và Mẹ đã làm một cuộc thăm viếng, một cuộc gặp gỡ bà chị họ Êlisabét đã mở ra cho nhân loại một tương lai mới mẻ, một tương lai tuyệt đẹp, cao sâu. Nhờ lời xin vâng của Mẹ, Con Thiên Chúa làm người, Thiên Chúa đã gặp gỡ con người. Con người chúng ta là Kitô hữu, là con của Thiên Chúa, khi chúng ta gặp gỡ nhau, chúng ta cũng gặp gỡ Chúa. Chúa đã nói rõ với chúng ta trong đoạn Tin Mừng Mt 25 về ngày chung thẩm: " Khi chúng ta thăm viếng người bệnh hoạn, tật nguyền, thăm kẻ tù tội, kẻ nghèo hèn là chúng ta đã thăm chính Chúa ".


Chúa luôn yêu thương con người. Ngài luôn kêu mời chúng ta đáp trả lại tình thương của Chúa. Cuộc đời của mỗi người chúng ta là một cuộc hành trình đức tin. Cuộc hành trình ấy nếu được liên kết với lời xin vâng của Đức Mẹ, chắc chắn đời chúng ta sẽ vỡ òa niềm vui hạnh phúc vì Đấng toàn năng đã làm cho tôi muôn điều kỳ diệu.


Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết mau mắn chia sẻ niềm vui sống và mau mắn mang Chúa đến cho mọi người. Amen.

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

CÙNG MẸ CON ĐI
Lc 1: 39-45
Ngay sau khi được sứ thần truyền tin, Đức Maria vội vã lên đường thăm người chị họ là bà Elisabét. Chúng ta đang ở trong nhà của Dacaria và chứng kiến những gì sẽ xảy ra nơi ngôi nhà dân dã này. Bước chân vội vã lên đường của Đức Maria đến miền sơn cước Giêrusalem - có lẽ là miền Ain Carim hiện nay, cách

Giêrusalem khoảng 6 km về phía tây- thăm người chị họ không chỉ nhằm loan báo mầu nhiệm Nhập thể của Con Thiên Chúa hay chỉ hát lên bài ca cảm tạ tri ân Thiên Chúa -bài ca Magnificat, nhưng đó còn là hình ảnh gợi nhớ điều mà Ngôn sứ Isaia loan báo ngày xưa về Đấng Thiên Sai sẽ đến. Thật vậy, trong bối cảnh thời đại Isaia, lúc Batư tiến đánh Babylon, Ngôn sứ Isaia cũng như nhiều người Dothái lưu đày khác đang ở Babylon. Chính trong hoàn cảnh ấy, ông ước mơ làm sao có thể chạy về Giêrusalem để báo tin rằng Thiên Chúa sắp giải phóng dân Người. Ông đã nhảy lên vui sướng và reo vang:


"Đẹp thay trên đồi núi, bước chân người loan báo Tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ" (Is 52,7). Như thế, hình ảnh Đức Maria với sự hiện diện của Ngôi Hai Thiên Chúa mà Mẹ đang cưu mang, băng ngàn để loan báo tin vui cũng chính là hình ảnh mà khi xưa Isaia đã loan báo. Hơn thế nữa, đó còn là hình ảnh của Giáo hội "ra khơi" (Duc in altum) mang Chúa đến cho muôn dân.


Nhìn từ bên ngoài, chúng ta chỉ thấy được sự kiện hai bà mẹ gặp nhau, vui vẻ hàn huyên; thế nhưng, thực chất lại là sự gặp gỡ của hai hài nhi. Bằng chứng là với lời chào thăm của Đức Maria, hài nhi Gioan - mà đúng theo nguyên ngữ Hylạp- là đã "nhảy cẫng lên", "nhảy tung lên" vui sướng. Như thế, hài nhi Gioan ngay từ khi còn trong lòng mẹ đã tiên báo về Đấng Cứu thế - Đấng mà mình sẽ là tiền hô sau này. Có điều chúng ta thấy, điều tiên báo đó không thực hiện bằng lời nói mà bằng ngôn ngữ của thân xác.


Bà Êlisabét - qua Thánh Thần- đọc được ý nghĩa mà người con trong lòng bà "nhảy cẫng" lên cũng như ý nghĩa của cuộc gặp gỡ với Mẹ Thiên Chúa, bà đã thốt lên lời tụng ca ca ngợi Mẹ Maria như là người phụ nữ có phúc hơn hết mọi phụ nữ. Chúng ta thấy, lời tụng ca của bà Êlisabét trước hết chịu ảnh hưởng của ca vịnh Debora trong Cựu ước. Đây là ca vịnh dùng để tụng ca bà Giaên, vợ ông Kheve người Kêni. Chúng ta biết, khi thủ lãnh Canaan là Xixơra chạy trốn vì thua trận, ông chạy vào lều bà Giaên. Bà đã dùng cọc để đóng vào tai Xixơra giết chết kẻ thù. Nhờ đó, bà được ca ngợi là người phụ nữ trổi vượt hơn muôn ngàn phụ nữ (x. Tl 5, 24).


Mười thế kỷ sau, dân Thiên Chúa cũng hát bài ca đó để ca ngợi bà Giuđitha. Đứng trước tình cảnh bi đát mà dân Thiên Chúa sắp phải chịu là trao tất cả dân chúng và thành thánh vào tay quân Atsua, bà Giuđitha - một phụ nữ đạo đức và kính sợ Thiên Chúa- đã sẵn sàng ra đi vào hang ổ của kẻ thù. Với nhan sắc tuyệt mỹ, bà đã lọt vào doanh trại của quân Atsua và sau đó được gặp tướng Atsua là Hôlôphécnê để rồi dùng mưu chặt đầu tướng giặc mang vinh quang cho dân Israel. Bởi đó, Giuđitha cũng được ngơi ca là người phụ nữ được Thiên Chúa chúc phúc hơn mọi người phụ nữ (x. Gđt 8-13)


Như thế, khi bà Êlisabét ca ngợi Đức Maria là người "được chúc phúc hơn hết mọi người phụ nữ", thánh Luca muốn ám chỉ việc Thiên Chúa thực hiện công trình cứu chuộc của Người nơi Mẹ. Nơi Mẹ, không chỉ thay thế bà Giaên, bà Giuđitha mà Mẹ còn vượt xa họ về mọi phương diện, đặc biệt là vì dòng dõi Mẹ sẽ là dòng dõi "đạp nát đầu con rắn" vốn được xem là kẻ thù của dân Thiên Chúa (x. St 3,15).


Việc bà Êlisabét được Thánh Thần soi sáng để nhận ra Đức Maria là "thân mẫu Thiên Chúa" không chỉ là nền tảng kinh thánh để đi đến tín điều Mẹ Thiên Chúa (Theolokos) vốn được công đồng Êphêxô tuyên tín vào ngày 22. 6. 431, mà theo Luca, đó còn là mối liên hệ giữa Đức Maria với Hòm bia Thiên Chúa. Thật vậy, nhìn vào trình thuật Truyền tin và Thăm viếng, chúng ta thấy có một sự tương đồng cách nào đó giữa Mẹ với Hòm bia Giao ước thời Vua Đavít. Nếu như trước kia,


Hòm bia Giao ước luôn được đám mây che phủ thì nay Đức Maria được "Thánh Thần rợp bóng" khi cưu mang Con Thiên Chúa; ngày xưa Vua Đavít nhảy mừng khi gặp Hòm bia thì nay, chính Gioan cũng nhảy lên vui sướng khi gặp Mẹ viếng thăm; Hòm bia Giao ước được rước lên Giêsusalem để muôn dân chiêm ngưỡng và thờ lạy thì nay Đức Maria cũng băng rừng vượt suối để lên miền núi Giêrusalem để gia đình Dacaria tán tụng Thiên Chúa; và cuối cùng, ngày xưa, Hòm bia Giáo ước đã ở lại nhà của ông Ôvết Êđôm 3 tháng thì nay, Đức Maria cũng đã ở lại nhà ông Dacaria 3 tháng để phục vụ người chị họ Êlisabét (x. 2Sm 6, 9-11).


Đức Maria là mẫu gương cho hết mọi người chúng ta. Khi nhận được tin vui cứu độ, Mẹ đã không giữ lại cho riêng mình; trái lại, Mẹ đã ra đi đem Chúa đến cho người khác. Phải chăng đó cũng chính là trách nhiệm của mỗi người Kytô? Chúng ta được Thiên Chúa mời gọi - qua bí tích Thánh tẩy- ra đi mang Chúa đến cho muôn dân. Hãy nhớ rằng, khi chúng ta lãnh nhận những ơn lành từ nơi Thiên Chúa, đừng chôn giấu ơn Chúa đi mà hãy hăng hái ra đi làm cho nhiều người được biết để có thể họ cũng được đón nhận ơn Thiên Chúa. "Cùng Mẹ con đi trên đường đầy bao gian nguy" để đem ơn Chúa đến cho muôn người.

Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

PHÚC CHO EM VÌ ĐÃ TIN
Lc 1: 39-45
Con người sống được là nhờ có niềm tin; vì thế khi mất niềm tin người ta dễ tử tự. Cũng vậy, người Kitô hữu lớn lên và phát triển cũng là nhờ có đức tin. Tuy nhiên đức tin không tự ta tìm kiếm mà có nhưng do Thiên Chúa ban và con người làm cho dức tin đó lớn lên. Đức tin là mấu chốt để được hạnh phúc, để được chúc lành, để phép lạ được thực hiện như chúng ta đã thấy nơi viên đội trưởng ngoại giáo (Mt.8,13), nơi người đàn bà băng huyết (Mt.9,22), nơi 1nh mù ( Ga.6), nơi người phụ nữ ngoại giáo Canaan ()....có rất nhiều trường hợp khác trong Tin Mừng. Và bài TinMừng hôm nay Phụng vụ Lời Chúa cho chúng ta thấy đức tin của Đức Maria đến nỗi bà Elizabeth phải kêu lên " phúc cho em vì đã tin".

Thật vậy, ngay từ khởi đầu cuộc đời nhập thể của Đức Giêsu, lúc thụ thai trong lòng Mẹ. Mẹ đã chứng tỏ đức tin của Mẹ bằng việc phó thác hoàn toàn vào tay Thiên Chúa. Mặc dù Mẹ chưa hiểu được chương trình của Thiên Chúa bao nhiêu nhưng Mẹ vẫn lên tiếng " này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin hãy thực hiện nơi tôi những gì lời Chúa phán". Và trong Thánh Kinh, nhân vật được coi là " cha của những kẻ tin" đó là Abraham. Ông chấp nhận bỏ thành Ur mà đi đến nơi Thiên Chúa chỉ, dù là chưa biết nơi ấy ở đâu. Ông bỏ nơi ở đã ổn định định để ra đi trong vô định và bấp bênh, có thể chết dọc đường. Thế nhưng ông có chết thì vẫn có những người thân cùng chết...Còn Đức Maria, khi thưa tiếng " xin vâng" là Mẹ đang chờ đợi một cái chết một mình, đang chờ những bàn tay cầm đá trong tay chuẩn bị ném lên người Mẹ, trong khi Mẹ không thể tự bào chữa, cũng không thể tự bộc bạch với thánh Giuse.


Như thế, đức tin của Đức Mẹ hơn hẳn Abraham: Mẹ tin rằng Thiên Chúa có cách của Thiên Chúa sẽ làm nơi Mẹ. Tin rằng Chúa đã thay đổi hướng đi của cuộc đời Mẹ và Mẹ đã chấp nhận thì Chúa cũng có cách để thực hiện và đưa cuộc đời Mẹ vào chương trình cứu độ của Người. Mẹ chấp nhận lên đường, làm một cuộc phưu lưu với Chúa, và Mẹ đã đi từ cuộc phưu lưu này đến cuộc phưu lưu khác. Từ việc sinh con Chúa trong cảnh cơ hàn đến việc mất con. Từ những hành động rất bình thường ở Nazareth cho tới khi đứng dưới chân Thập Giá. Tất cả những hành trình ấy thật khó hiểu trước con mắt loài người, nhưng Mẹ đã làm một cuộc phưu lưu với Chúa trong tin yêu và phó thác.


Mẹ xứng đang với danh hiệu " Mẹ có phúc vì đã tin" và xứng đáng với tước hiệu " Mẹ Thiên Chúa" khi cưu mang Đấng Cứu Thế. Cung lòng Mẹ đã trở nên mái ấm đầu tiên để con Thiên Chúa bước vào, và Đấng ấy đã thánh hóa Gioan Tẩy Giả trong cuộc viếng thăm linh thánh mà chúng ta vừa nghe bài Tin Mừng tường thuật. Trong cuộc hạnh ngộ ấy Thánh Thần linh ứng cho người chị họ nhận ra điều kỳ lạ nơi người em mà chúc vinh, để rồi Mẹ cảm nhận sâu xa hồng ân của Thiên Chúa ban tặng mà dâng lời ngợi ca Thiên Chúa. Vâng, chính cuộc sống lòng tin và phó thác của Mẹ đã đem lại ân phúc cho chúng ta.


Mẹ được chúc phúc vì đã tin và niềm tin của Mẹ được minh chứng bằng việc đem Đức Giêsu đến cho cho gia đình ông Giacaria cho Gioan Baotixita được khỏi tội nguyên tổ, và Mẹ ở lại để phục vụ bà Isave. Đồng thời niềm tin của Mẹ được thể hiện trong cách sống thường nhật và nên gương mẫu cho các bà mẹ, Mẹ luôn suy đi nghĩ lại những biến cố để tìm ra Thánh Ý Chúa, không to tiếng, không lo lắng sợ hãi, nhưng kiên cường cho tới đỉnh đồi Calve dưới chân Thập Giá. Cách sống Lời Chúa của Mẹ là như thế, còn chúng ta đã sống Lời Chúa thế nào ? Đã đem Chúa đến cho anh em mình chưa? Chúng ta đang sống trong năm " Sống đạo hôm nay", vậy chúng ta hãy nhìn gương mẫu sống đạo nơi đức Maria để thực hành.


Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết sống đạo thực hành như Đức Maria để chứng tỏ cho mọi người là đức tin của chúng con sống động và đang lớn lên.

Sr Mai An Linh OP

MARIA KẺ ĐÃ TIN
Lc 1: 39-45
Chúa nhật thứ 4 mùa vọng vẫn được gọi là Chúa nhật dành riêng để nói về Đức Trinh Nữ Maria. Và không nói đến Mẹ sao được khi Mẹ giữ một vai trò rất quan trọng trong lịch sử cứu rỗi. Quả thật, cả một chặng dài của Cựu Ước, Thiên Chúa đã chuẩn bị cho dân chờ đón Đấng Thiên Sai và trải qua ba Chúa Nhật mùa vọng, Giáo Hội đã thúc giục con người hãy tỉnh thức, cầu nguyện, ăn năn sám để dành cho Chúa một cơ hội. Thánh Gioan Tẩy Giả là vị ngôn sứ nối kết giữa Cựu Ước và Tân Ước, đã gióng lên tiếng hô trong sa mạc kêu gọi mọi người sẵn sàng đón chờ Chúa đến:" Đồi núi phải san cho bằng, hố sâu phải lấp cho đầy, chỗ quanh co phải uốn cho ngay thẳng...và rồi mọi người sẽ thấy Đấng Cứu Độ ". Đức Maria không những đã chuẩn bị tâm hồn thật sẵn sàng, nhưng Mẹ còn dám tin vào Lời Chúa hứa nên Mẹ đã được tràn đầy ơn phước...

Đức Trinh Nữ Maria lớn lên và cũng như mọi người thiếu nữ Do Thái hồi đó : Maria đã đính hôn với Giuse. Tuy nhiên, Maria đã có ý định dâng mình cho Chúa, Mẹ muốn thực hiện ước nguyện ấy một cách trọn vẹn, vì thế, Mẹ muốn khấn giữ mình đồng trinh. Chúa có con đường của Chúa và Chúa luôn hướng dẫn con người theo ý định của Ngài. Maria là người được Thiên Chúa yêu thương, sủng ái. Do đó, Thiên Chúa đã tuyển chọn Mẹ để thực hiện ý định cứu độ của Ngài. Chính vì thế, Thiên Chúa đã sai sứ thần Gabrien đến truyền tin cho Mẹ, sứ thần vào nhà trinh nữ và nói :" Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ơn sủng, Đức Chúa ở cùng bà ". Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì ( Lc 1, 28-29 ). Hiểu được ý Mẹ. Sứ thần liền nói :" Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu " ( Lc 1, 30-31 ). Maria thưa với sứ thần : " Việc ấy sẽ xẩy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng " ( Lc 1, 34 ). Sứ thần đáp :" Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa " ( Lc 1, 35 ). Mẹ Maria tuy hoang mang, bối rối, nhưng khi nghe lời sứ thần giải thích Mẹ dù chưa hiểu rõ ý Chúa nhưng Mẹ đã mau mắn, thưa cùng sứ thần :" Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói " ( Lc 1, 38 ). Mariađã có một thái độ tuyệt vời, lời xin vâng của Mẹ đã nói lên lòng tin thâm sâu của Mẹ. Mẹ đã nói lời xin vâng và chính lời xin vâng này đã đem lại sự an bình cho Mẹ. Maria đã sẵn sàng đón nhận sứ mạng cao cả Thiên Chúa trao ban cho Mẹ. Mẹ đã xác tín sâu thẳm vào lời xin vâng của Mẹ. Mẹ đã tin tưởng tuyệt đối vào công trình cứu độ mà Thiên Chúa đang làm cho nhân loại. Mẹ đã đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa với tất cả lòng tin sâu thẳm của mình.


Nói lời xin vâng, Maria đã không giữ niềm vui cho riêng Mẹ nhưng Mẹ đã hối hả đi lên triền núi để thăm người chị họ là Êlizabét cũng vừa mang thai được sáu tháng trong lúc tuổi già :" Kìa bà Êlizabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai : bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng" ( Lc 1, 36 ). Maria và bà chị họ đã gặp nhau. Hai bà Mẹ tương lai hớn hở vui mừng và hai người con trong bụng hai bà cũng hân hoan vui sướng. Tin Mừng thuật lại :" Bà Êlizabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên " Lc 1, 41 ). Được tràn đầy Chúa Thánh Thần, bà Êlizabét liền kêu lớn tiếng và nói rằng:" Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc " ( Lc 1, 42 ). Qua Chúa Giêsu và thánh Gioan Tẩy Giả tất cả còn đang ngự trong cung lòng của hai bà Mẹ. Giao Ước cũ đã gặp được Giao Ước mới. Cuộc viếng thăm của Mẹ Maria đã mở ra một chân trời mới. Nhờ Con Thiên Chúa làm người, Thiên Chúa đã gặp con người và con người lại được gặp gỡ Thiên Chúa. Tuy nhiên, cuộc gặp gỡ cuối cùng của con người mới là cuộc gặp gỡ quyết định cho số phận của mỗi người. Liệu con người có dám thưa với Chúa rằng mỗi lần chúng con viếng thăm nhau, mỗi lần chúng con gặp người nghèo, người đau khổ, người cô đơn, người rách đói, người bị cầm tù, người bị thử thách là chúng con gặp chính Chúa không ? Vâng, Mẹ Maria đã dám tin, đã tin và Mẹ đã dám phiêu lưu đi vào con đường cứu độ của Thiên Chúa. Mẹ đã nhận lời chúc mừng của bà chị họ Êlizabét đã khiến Mẹ cảm nghiệm thật sâu xa hồng ân tuyệt vời Thiên Chúa tặng ban cho Mẹ và Mẹ đã hân hoan, hạnh phúc, vỡ òa trong niềm vui sâu thẳm bằng lời kinh chúc tụng: " Magnificat "...Linh hồn tôi ngợi khen Chúa.


Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con biết dọn tâm hồn sẵn sàng chờ đón Chúa đến trong đêm Giáng Sinh và chờ ngày Chúa trở lại trong vinh quang vào ngày cùng tận cuộc đời của mỗi người chúng con. Amen.

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

CHIA SẺ NIỀM VUI
Lc 1: 39-45
Chúng ta đang sống trong Mùa Vọng, mùa chuẩn bị mừng lễ Chúa Giêsu giáng sinh. Trong Mùa Vọng, có ba nhân vật nổi bật luôn được nhắc đến, đó là ngôn sứ I-sai-a loan báo Đấng Thiên sai sẽ đến. Đó là thánh Gio-an Tiền Hô, người mở đường và dọn đường cho Đấng Thiên Sai đến. Nhân Vật quan trọng thứ ba là Đức Maria, qua Mẹ, Đấng Thiên sai đã đến trần gian, và nhờ Mẹ, ơn cứu rỗi bắt đầu được thực hiện. Vì thế, trong suốt Mùa Vọng, chúng ta được nghe đọc những lời loan báo của I-sai-a, được nhận biết cuộc đời và sứ mạng của Gio-an Tiền Hô, và hôm nay, bài Tin Mừng trình bày cho chúng ta chân dung Đức Mẹ qua việc Mẹ đi thăm viếng bà chị họ Ê-li-sa-bét, chúng ta quen gọi theo ảnh hưởng của các cố Tây Ban Nha là bà I-sa-ve.

Khi sứ thần Gáp-ri-en đến báo tin cho Đức Mẹ biết : Đức Mẹ rất có phúc vì đã được Thiên Chúa chọn làm mẹ Con Thiên Chúa. Và để bảo đảm cho lời truyền tin này, sứ thần đã đưa ra một bằng chứng về quyền năng của Thiên Chúa : "Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai : bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng, vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được". Khi được sứ thần cho biết như thế, sau đó ít ngày, Đức Mẹ đã đi thăm bà Ê-li-sa-bét và ở lại giúp đỡ ba tháng. Những lý do nào đã thúc đẩy Mẹ Maria đi thăm bà Ê-li-sa-bét ?


Lý do đơn giản trước nhất là Đức Mẹ đã coi những lời sứ thần báo tin về bà chị họ là một lời mời thăm viếng, hỏi thăm. Thứ hai, có thể Đức Mẹ đi để kiểm điểm, xem xét dấu chứng mà sứ thần đã đưa ra, đó là việc bà Ê-li-sa-bét có thai có đúng không ? Tuy nhiên, làm thế không có nghĩa là Đức Mẹ hồ nghi lời sứ thần truyền tin cho mình. Bởi vì Đức Mẹ đã thưa : "Xin vâng", tức là Đức Mẹ đã tin rồi. Thứ ba, có thể Đức Mẹ ra đi để chia sẻ niềm vui và có dịp cùng bà chị họ chúc tụng Thiên Chúa, vì cả hai đều được hưởng đặc ân Thiên Chúa. Lý do thứ tư, lý do chính, là lòng bác ái, yêu thương của Đức Mẹ. Lòng tốt, bác ái, giúp đỡ, chia sẻ... đã thúc bách Đức Mẹ lên đường. Bởi vì gia đình bà Ê-li-sa-bét neo đơn, cả hai ông bà đã già yếu, cần sự giúp đỡ trong những tháng cuối cùng thai nghén và trong thời gian sinh hạ.


Mẹ Maria đi thăm gia đình Da-ca-ri-a là để chia sẻ một niềm vui trong gia tộc, Mẹ đã quên mình ra đi đem niềm vui cho người khác. Vì thế, có thể nói Mẹ ra đi truyền giáo. Đức Mẹ đã là một nhà truyền giáo đầu tiên, là đem Đấng Cứu thế đến cho bà chị họ và riêng cho Gio-an Tiền Hô. Vì thế, thai nhi Gio-an nhảy mừng trong lòng mẹ. Tóm lại, Mẹ đã đem lại niềm vui cho gia đình bà chị họ và cũng tạo thêm cho Mẹ niềm vui.


Đức Mẹ đã quên mình ra đi, đem niềm vui cho người khác. Đó cũng là bổn phận của chúng ta. Chúng ta sống với nhau, chúng ta hãy là một ánh bình minh gieo vui nắng ấm tình thương, đức tin, hy vọng cho những người chung quanh, nhất là những người đang gặp u buồn tăm tối. Phải biết vui với người vui, khóc với người khóc. Xin Chúa cho chúng ta, bất cứ đi đâu, đến đâu, gặp ai, họ đều nhận được nơi chúng ta niềm vui.


Trong việc đi thăm và ở lại ba tháng giúp đỡ gia đình bà Ê-li-sa-bét, chúng ta thấy có năm đặc tính trong đức bác ái của Đức Mẹ : Thứ nhất, Mẹ để ý đến nhu cầu của người bà con, để ý đến hoàn cảnh gia đình bà Ê-li-sa-bét cần sự thăm hỏi, giúp đỡ. Thứ hai, dù là chỗ họ hàng, mà chỉ là họ hàng xa, không bó buộc theo phong tục thăm viếng, giúp đỡ, nhưng Mẹ đã nhận trách nhiệm ấy cho mình. Bởi vì bác ái thì không phân biệt xa hay gần, thân hay sơ. Thứ ba, Mẹ không quản ngại đường sá xa xôi, nguy hiểm và vất vả. "Đường đi khó không khó vì ngăn sống cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông". Đường đi có thể khó khăn, nguy hiểm, nhưng nếu vì bác ái, vì lòng người đã quyết thì khó khăn đến đâu cũng không quản ngại. Đức Mẹ là người đã có tấm lòng như thế. Thứ tư, Mẹ kiên tâm giúp đỡ suốt ba tháng trời. Đó là bác ái cụ thể nhất. Bởi vì yêu thương bằng lời nói thì có thể bị coi là đầu môi chót lưỡi. Bác ái yêu thương trong lòng thì thiêng liêng vô hình, không cảm nhận được. Nên giúp đỡ, chia sẻ cụ thể là bằng chứng lòng yêu thương rõ ràng nhất. Đức Mẹ đã làm như thế. Thứ năm, Mẹ mang Chúa đến cho gia đình bà Ê-li-sa-bét. Mẹ đã đem Đấng Cứu Thế đến cho bà chị họ, nhất là cho Gio-an Tiền Hô, nên Gio-an đã nhảy mừng trong lòng mẹ. Mẹ đã đem ơn Chúa đến cho người khác.


Đây cũng là bài học Đức Mẹ dạy chúng ta. Vì thế, khi suy niệm mầu nhiệm thăm viếng này, Giáo Hội bảo chúng ta hãy học gương yêu người của Đức Mẹ. Chung quanh chúng ta hay gia đình họ hàng chúng ta có rất nhiều dịp đòi chúng ta phải thăm viếng, giúp đỡ. Chúng ta đừng bao giờ giả điếc làm ngơ hay giả mù không thấy để rồi khép kín lòng chúng ta lại trước những người đang cần chúng ta thăm viếng, an ủi, giúp đỡ. Tóm lại, chúng ta hãy sống với nhau bằng tình người chứ đừng vì lý lẽ này hay lý do nọ, vì bác ái yêu thương thì không có giới hạn hay bất cứ một phân biệt nào.


Thiên Chúa rất hài lòng khi thấy chúng ta sống tình liên đới với nhau. Biết chia sẻ những hồng ân Ngài ban cho chúng ta. Ngài muốn chúng ta biết chia sẻ và thông cảm với nhau một cách tươi vui, với tâm hồn biết ơn, với ý định thành thật ngay chính, không hậu ý lợi dụng. Ngài không muốn chúng ta chia sẻ vì những hậu ý đen tối, chẳng hạn như để thỏa mãn cái tôi tự tôn hay tính khoe khoang, phô trương, kiêu ngạo của chúng ta. Thánh Phao-lô đã dạy : "Mỗi người trong anh em hãy cho đi, hãy chia sẻ với nhau tùy theo ý định tốt lành của lòng mình. Không cau có, không tính toán, không miễn cưỡng, vì khi chúng ta vui mừng trao ban thì Thiên Chúa mới nhận lời".


Chúng ta không có đủ khả năng hay điều kiện để đáp ứng mọi nhu cầu của anh chị em chung quanh. Nhưng gần bên chúng ta lúc nào cũng có những người cần đến những trợ giúp nho nhỏ của chúng ta : Những nụ cười cảm thông, những lời nói khuyến khích, những lời hỏi thăm chân tình...đó là những điều ở trong tầm tay của chúng ta. Có những người không cần chúng ta chia sẻ giúp đỡ về tiền bạc vật chất, chỉ cần chúng ta chia sẻ những niềm vui nho nhỏ trên đây.

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng OP

CHÂN DUNG ĐỨC MARIA
Lc 1: 39-45
Dịp lễ Giáng sinh, một nữ sinh nội trú kia xin mẹ cô một chiếc gương lớn và đẹp. Bà mẹ gởi đến cho cô một bức ảnh tuyệt xinh của Đức Trinh Nữ. Bức ảnh được đóng khung kỹ càng và có ghi dòng chữ như sau: "Đây sẽ là tấm gương soi của con mỗi ngày!" Món quà này gây ấn tượng mạnh lên thiếu nữ. Và từ đó, cứ mỗi buổi tối, cô quỳ xuống trước bức ảnh Đức Mẹ và hỏi: "Má ơi, hôm nay con có làm vui lòng Má không? Con đã noi gương Má ở điểm nào?"

Câu chuyện Tin Mừng hôm nay, cũng ở ngưỡng cửa ngày Giáng sinh, phác họa cho chúng ta chân dung của Đức Maria cũng để chúng ta soi vào. Khuôn mặt của Thân Mẫu Chúa hiện lên trên nền của một ngôi làng vô danh thuộc "miền núi Giuđa", được truyền thống Kitô giáo đồng hóa với làng Ain Karim (suối nước của vườn nho), cách Giêrusalem vài kilômét. Và người vẽ khuôn mặt đó chính là bà Elisabét. Qua những lời ca của bà, đã hiện lên chân dung có thể nói là chính xác và sống động nhất về Mẹ. Chúng ta sẽ dừng lại trên những lời này. Rồi cũng tại đây, chúng ta sẽ thấy tâm hồn Mẹ qua bài ca tuyệt diệu của Mẹ, bài ca ngợi khen vị Thiên Chúa của những kẻ nghèo khó, rốt cùng, hèn mọn, bị áp bức.


1. Hạnh phúc vì được chúc lành


Những lời của Elisabét nói cho đúng chẳng phải là một bài ca, tuy nhiên vẫn chứa đựng một đoạn thánh thi xây dựng trên một lời chúc tụng và một mối phúc: "Em được chúc tụng hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng đáng chúc tụng... Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em!". Đây là một thánh thi mini, rất mạnh mẽ sống động; đàng khác, nó còn mang tính "tiên tri": Luca đã nhấn mạnh rằng khi thốt lên nó, Elisabét "được đầy Thánh Thần", Đấng từng tác động các ngôn sứ trong lời loan báo của họ.


Bài ca khai mở với lời "chúc tụng" mà sau đó đã được đưa vào kinh Kính mừng. Lấy lại một kiểu nói dùng trong Cựu Ước cho những phụ nữ vĩ đại như Đêbôra và Giuđitha, Êlisabét biểu dương chức làm mẹ thần linh của Maria như dấu chỉ cao nhất của việc Thiên Chúa "chúc lành", nghĩa là hiện diện và hành động giữa chúng ta cũng như bên trong lịch sử chúng ta. Đối với Thánh Kinh, phúc lành được bày tỏ đặc biệt trong sự sống và sức sinh sản; nơi Đức Maria đã xuất hiện Sự Sống tuyệt hảo xóa bỏ sự cằn cỗi và chết chóc. Mẹ quả là một phúc lành của trời cao!


Bài ca của Elisabét tiếp tục với một chuyển động thứ hai, cũng là chúc tụng, nhưng dưới dạng câu hỏi, một câu hỏi long trọng, có lối ám chỉ rất mãnh liệt đối với người hiểu biết Cựu Ước: "Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?" Tư tưởng này gợi nhớ một đoạn Kinh Thánh thời danh liên quan đến việc việc chuyển hòm bia giao ước về Giêrusalem, thủ đô mới của Đavít: "Hòm bia Đức Chúa đến với tôi thế nào được?" (2Sm 6,9). Vậy việc Đức Maria viếng thăm được trình bày như hòm bia mới của Đức Chúa đến. Và như hòm bia ở nhà ông Ôvết Êđôm đã mang lại phúc lành cho nhà ông (x. 2Sm 6,11-12), Đức Maria cũng là phúc lành mang đến cho ngôi nhà nhân loại và cho ai đón nhận Mẹ vào nhà mình.


Tước hiệu Đức Maria nhận từ Êlisabét -"Thân Mẫu Chúa"- rõ ràng là tước hiệu cao nhất và đúng nhất, như sẽ được tuyên bố trong Công đồng Êphêsô năm 431. Thánh Ambrôsiô đã viết: "Đức Maria không phải là Thiên Chúa trong đền thờ nhưng là đền thờ của Thiên Chúa". Chính vì thế truyền thống Kitô giáo sẽ biểu dương Mẹ như là "Sion mới" và "Hòm bia Giao ước mới" ("Đức Bà như Hòm bia Thiên Chúa vậy". Kinh cầu).


2. Hạnh phúc vì được tin Chúa


Cuối cùng, bài ca của bà Êlisabét nói lên một "mối phúc", mối phúc đầu tiên của Tin Mừng: "Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em!". Đây là tiếng kêu sẽ trở thành dây dẫn (sợi chỉ đỏ) của cả một thông điệp về Đức Maria của Đức Gioan-Phaolô II: Mẹ Đấng Cứu Thế. Quả thế, trong thông điệp này, Đức Thánh Cha có viết: "Trong câu Em thật có phúc vì đã tin được bà Êlisabét thốt lên, chúng ta gần như có thể tìm thấy một chìa khóa mở cho chúng ta thấy thực tại thâm sâu của Đức Trinh Nữ".


Đức Maria là tín hữu tuyệt hảo, khác với ông Dacaria cứng lòng, cha của vị Tẩy giả. Việc mang thai Hài nhi là do tác động của Thánh Thần, bởi đó vượt quá các quy luật sinh lý đơn giản của máu thịt và phải được hiểu cùng đón nhận trong đức tin, kể cả từ phía Đức Maria. Quả thế, đối với Luca, Mẹ sẽ trở thành biểu tượng của đức tin vì "hằng ghi nhớ mọi sự ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng". Đức Maria kết hợp nơi mình hai mối phúc mà thoạt nhìn có vẻ tách biệt nhau, hai mối phúc mà một ngày kia sẽ lại vang dội trong đời Đức Giêsu. Lúc ấy, một phụ nữ trong đám đông đã kêu lên: "Phúc thay bà mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!". Và Đức Giêsu đã đáp lại: "Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa" (Lc 11,27-28). Trong Đức Maria cả hai mối phúc này đan vào nhau vì Mẹ sinh Đức Kitô cách thể lý, sau khi mang trong dạ, nhưng cũng đón nhận Người trong đức tin như là sự hiện diện của Thiên Chúa và là Lời thiện hảo của Thiên Chúa.


Đức tin vào những chuyện phi thường vừa xảy ra (Mẹ mang thai cách mầu nhiệm, bà chị họ mang thai cách lạ lùng) khiến một niềm vui to lớn tràn ngập Mẹ, thúc đẩy Mẹ, niềm vui được tin, niềm vui được đi vào thời cứu độ và được làm người khai mở thời này: "Tôi là nữ tỳ của Chúa".


Như đã bừng sáng niềm vui được chúc phúc, cuộc Thăm viếng cũng bừng sáng niềm vui được tin. Bà Êlisabét tới tấp thốt lên những tiếng hân hoan vui mừng như đã thấy. Rồi Đức Maria sẽ dùng kinh Magnificat, bài ca hân hoan của mình để đáp lại.


Niềm vui rất đặc biệt ấy của đức tin, Luca cho thấy bắt nguồn từ đâu: Thần Khí. Thần Khí đã đến trên Đức Maria, ngập tràn bà Êlisabét, và vào dịp Hiện xuống, sẽ đổ đầy các Tông đồ. Người ngập tràn chúng ta khi chúng ta tin và công bố Đức Giêsu là Chúa, nghĩa là Đấng Mêsia, Đấng Cứu Thế, nhưng là Đấng Mêsia mà chẳng có người Do thái nào đã có thể tưởng tượng: Con Thiên Chúa, được Người ban tặng cho chúng ta.


Đức tin và niềm vui của chúng ta tùy thuộc sức mạnh của xác tín này. Chúng ta sa lầy trong nhiều chuyện phụ thuộc, chúng ta tranh luận giữa kitô hữu với nhau vì những chi tiết thay vì cảm nghiệm tới cùng và lan truyền điều chủ yếu, mạc khải kỳ diệu: Hài nhi sắp sinh bởi Đức Maria là Con Thiên Chúa. Một bài ca khác sẽ bật lên sau bài Magnificat: đó là bài Benedictus: "Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Israen, đã viếng thăm cứu chuộc dân Người" (Lc 1,68).


Thiên Chúa thân hành viếng thăm chúng ta! Có lắm điều phải tin: cuộc Phục sinh của Đức Giêsu, sự hiện diện của Người trong Thánh Thể, việc tha thứ tội lỗi, chiến thắng cuối cùng của sự sống trên đau khổ và sự chết... Nhưng chúng ta sẽ tin dễ dàng và vững chắc vào tất cả những điều đó nếu bám rễ trong điều khó nhất: tin Thiên Chúa đã đến trên con đường chúng ta: "Chúng tôi đã thấy các bước chân của Thiên Chúa bắt gặp các bước chân của loài người".


Để Người đến bắt chuyện với chúng ta, phải có Đức Maria đã. Không gì có thể khiến chúng ta sùng kính Mẹ hơn là thấy Mẹ hạnh phúc vì được tin và được ban tặng Hài nhi, một hạnh phúc lớn tới độ đã khiến bao niềm vui bùng vỡ. Quả vậy, nói về Đức Maria, Công đồng Vatican II đã có thành ngữ tuyệt vời này: "Mẹ đã đem Sự Sống đến cho thế gian" (Hc Giáo Hội 53). Chính cái đó đã khiến đứa con của bà Êlisabét nhảy mừng, và chính cái đó cũng khiến chúng ta nhảy mừng trước Đức Maria: Mẹ là sự Viếng thăm của Thiên Chúa, Mẹ đem đến cho chúng ta Sự Sống, vốn đã trở nên cho chúng ta sự sống của một con người.


Nếu việc tin vào điều đó khiến chúng ta hân hoan, thì chớ che khuất nỗi hân hoan này. Chớ gì trong những lần thăm viếng, khi mà sự tiếp xúc có thể thực hiện với một mức độ sâu xa nào đó, ai đó sẽ nhảy mừng khi nghe chúng ta, hay có lẽ chỉ khi nhìn chúng ta: "Lúc bạn giã từ ai sau một lần thăm viếng, làm sao để lại một cái gì đó của Thiên Chúa trong lòng họ" (Mẹ Têrêxa). Một cái gì đó của Thiên Chúa vì chúng ta thực sự sống theo tinh thần của Người chứ không phải tinh thần thế gian.

Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

CHÚA TỎ MÌNH RA
Lc 1: 39-45
Cuộc viếng thăm của Đức Maria hôm nay không phải là một cuộc thăm viếng bình thường giữa chị em với nhau, vì cuộc viếng thăm nầy có một tầm quan trọng đặc biệt.

Bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần.


ChúaThánh Thần soi sáng cho Isave nhận ra Con Thiên Chúa và Mẹ Người nơi Đức Maria đang mang thai. Như thế trong lịch sử cứu độ, đây là lần đầu tiên Chúa tỏ mình ra cho loài người qua Isave cũng như con bà là Gioan Tẩy giả mà bà đang mang thai : "Bà có phúc hơn mọi người phụ nữ và con lòng bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi ! Vì nầy tai tôi vừa nghe lời bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi".


Vai trò của Chúa Thánh Thần trong việc Chúa tỏ mình ra với loài người là rất quan trọng. Nếu Isave không đầy Chúa Thánh Thần thì cuộc viếng thăm lần nầy cũng chỉ là một cuộc viếng thăm tầm thường, vì tình nghĩa giữa hai người chị em họ với nhau mà thôi. Nhưng đây là một cuộc viếng thăm của Ngôi Hai đã xuống thế làm người và của Mẹ Người.


Luca muốn cho thấy việc Ngôi Hai xuống thế là công việc của cả Thiên Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha sai Con, Ngôi Con xuống thế và Chuá Thánh Thần soi sáng cho loài người biết sự hiện diện của Ngôi Hai.


Sau nầy, trong công trình cứu chuộc của Chúa Giêsu, Chúa Thánh Thần có một chỗ đứng rất quan trọng :

· -Thần Khí Chúa xuất hiện khi Đức Kitô chịu phép rửa(Lc..3)
· -Thần khí dẫn Đức Giê-su vào hoang địa(Lc.4,1);
· -Thần khí Chúa ngự trên tôi(Lc.4)...

Ngày nay cũng thế, chúng ta chỉ có thể nhận ra sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Giáo Hội, trong kẻ khác trong người nghèo, trong các biến cố..., nhờ sự soi sáng của Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu hứa với các Tông Đồ: "Chúa Thánh Thần sẽ cho chúng con biết mọi sự".


Phúc cho bà là kẻ đã tin...


Lời tung hô của Isave hôm nay làm ta liên tưởng đến lời Chúa Giêsu nói về Đức Maria mẹ Người sau nầy, khi có người ngợi khen: "Phúc cho vú đã cho Thầy bú", Chúa trả lời: "Kẻ nghe và giữ lời Thiên Chúa thì có phúc hơn".Nhưng ai là kẻ đã nghe và giữ lời Thiên Chúa hơn Đức Maria ? Đức tin của Đức Mẹ là cơ sở để cho Thiên Chúa chọn Mẹ làm Mẹ của Con Thiên Chúa. Đức Mẹ luôn tin và trông cậy vào lời của Chúa. Đức Mẹ đã cưu mang Chúa trong đức tin trước khi cưu mang Chúa trong lòng Mẹ.


Nếu nhờ đức tin của Đức Mẹ mà Con Thiên Chúa đên trong lòng Ngài cũng như đến với con người, thì hôm nay, muốn cho Chúa đến trong chúng ta, chúng ta cũng phải có một niềm tin như Đức Mẹ. Sống Mùa vọng là sống niềm tin vào lời Chúa. Và nếu Đức Mẹ được chúc phúc vì có Chúa Giêsu trong lòng thì, chúng ta hôm nay cũng thế, chúng ta chỉ có thể được Thiên Chuá chúc phúc khi chúng ta cưu mang Chúa bằng đức tin trong lòng chúng ta, và rước lấy Chúa trong Bí Tích Thánh Thể.


Đức Mẹ là gương mẫu của tinh thần Mùa Vọng trong Giáo Hội cũng như nơi mỗi người chúng ta.


Niềm vui


Thấy một linh mục lớn tuổi mà luôn luôn sống vui vẻ, có người ngạc nhiên hỏi:

-Sao cha lại có thể luôn sống vui vẻ được như thế ?
Người linh mục già trả lời:
-Tôi luôn vui vẻ là bởi vì tôi nghĩ rằng, trong muôn vật muôn loài Chúa đã dựng nên, thì loài người là quí nhất, thế mà tôi lại được làm người. Đó la niềm vui thứ nhất. Người ta sinh ra đời, có nhiều người đui què, tàn tật, chết non, mà tôi đến gần 70 tuổi mà vẫn lành lặn mạnh khỏe. Đó là điều vui thứ hai. Nhiều người hiện nay phải đói khát rách rưới, thế mà tôi chưa phải nhịn đói ngày nào. Đó là niềm vui thứ ba. Bao nhiêu người thất học, dốt nát, mà tôi lại được học hành, tuy không thông thái giỏi dang gì. Đó là niềm vui thứ tư. Ơn gọi linh mục là một ơn Chúa ban cho ai tùy ý Người, không phải muốn là được, thế mà tôi lại được làm linh mục của Chúa. Đó là niềm vui thứ năm...Và nếu chịu khó suy nghĩ thì còn biết bao nhiêu niềm vui khác nữa. Làm sao mà tôi không vui được. Niềm vui lớn nhất là tôi tin Chúa thương tôi.

Lm. Damien OFM

TIN CÓ CHÚA Ở CÙNG
Lc 1: 39-45
Trại tù Humaita ở Ba Tây là một trại tù hơi khác thường. Công việc cai quản gần bốn trăm tù nhân thay vì được trao cho các nhân viên chính phủ, thì lại do một số Kitô hữu đã tình nguyện lãnh nhận công tác phục vụ những tù nhân này. Ngoài ra, còn một điều khác thường thứ hai và đáng kể hơn. Mỗi trại tù thường có phòng biệt giam để giam giữ những tội phạm ngang bướng. Tại trại Humaita, phòng biệt giam này ngày nay chỉ có một "tội phạm." Sau cánh cửa sắt, là một bàn thờ, với hoa tươi, một tượng Thập Giá, và một biểu ngữ: "Estamos juntos" (chúng ta cùng có nhau).

Người "tội phạm" biệt giam đây chính là Chúa Giêsu, và cây thánh giá của Người là một nhắc nhở hùng hồn cho mọi tù nhân rằng Chúa Giêsu đã chịu án tù cho mọi người và Người vẫn luôn ở đó với họ. Vì nhận ra tình Chúa yêu thương họ mà các tội phạm tại Humaita đã chấp nhận được cảnh tù đầy của họ.


Hai ngàn năm trước đây, khi Mẹ Maria đến thăm bà chị họ Isave, bà này đã chúc khen Đức Mẹ vì Đức Mẹ đã tin rằng những điều Chúa hứa sẽ được thực hiện. Đọc trong Thánh Kinh, Đức Mẹ biết Thiên Chúa hứa sẽ ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại. Khi Tổng thần Gabrien đem tin mừng đến cho Đức Mẹ, với niềm tin vững vàng vào lời Chúa, Mẹ đã thưa lên lời xin vâng: "Này tôi là tớ nữ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền" (Lk 1:38). Với niềm tin này của Mẹ Maria, Chúa đã nhập thể làm người để cứu nhân loại thoát khỏi gánh nặng của tội lỗi. Chúng ta đang gần kề giây phút mừng kỷ niệm ngày Chúa đến trong Đại Năm Thánh Cứu Độ. Nhưng trong khi cùng với toàn thể nhân loại hân hoan mừng ngày rất thánh này, chúng ta cần dừng lại để tự hỏi mình xem Chúa Kitô đã đến ngự trị trong lòng tôi chưa?


Đêm Giáng Sinh thường được gọi là đêm an bình. Chúa Giêsu, Vua Bình An, đã đến để ban lại cho nhân loại sự bình an hạnh phúc mà nguyên tổ đã đánh mất. Nhưng tôi đã được hưởng sự bình an đó chưa? Hay là lương tâm vẫn còn bị đè nặng bởi tội lỗi, bởi những bất công, hận thù, chia rẽ... Nếu vậy, thì ích gì cho tôi, nếu Chúa đến trần gian để ở với con người, để cứu độ con người, và để ban bình an cho mọi người, nhưng riêng tôi lại không được dự phần?


Khi có Chúa ở cùng, có thể là Chúa sẽ không cất đi mọi đau khổ chúng ta đang gặp phải trong cuộc sống. Điều Chúa hứa là Người sẽ ban cho chúng ta được sự bình an trong tâm hồn, sẽ chúc phúc, và sẽ ở bên chúng ta để phù trì chúng ta trong mọi giây phút của cuộc đời. Khi sinh ra trong cảnh bần cùng, sinh trưởng trong một gia đình nghèo khó, và sau cùng chết khổ nhục trên thập tự giá, phải chăng là Chúa muốn nói trong bất cứ cảnh huống nào của cuộc đời, Chúa luôn ở bên để chia sẻ kiếp sống làm người với chúng ta. Điều quan hệ là chúng ta có dám tin là Chúa đang hiện diện trong cuộc đời của mình không? Có dám tin là Chúa có đủ quyền năng để cứu chuộc chúng ta, và sẽ giải thoát chúng ta khỏi mọi cảnh cùng quẫn mà chúng ta đang gặp phải hay không? Nếu có được niềm tin đó, thì cũng như những tù nhân tại Humaita, cho dù chúng ta vẫn còn bị giam hãm bởi những bất công trong xã hội, những hận thù ghen ghét, chúng ta vẫn tìm được sự bình an trong tâm hồn.


Vậy trong những giây phút còn lại trước giờ phút hồng phúc của đêm nay, chúng ta hãy xin Đức Mẹ ban cho chúng ta lòng tin của Đức Mẹ. Chúng ta hãy xin Đức Mẹ chuẩn bị tâm hồn chúng ta để đón tiếp Chúa đến với tâm hồn mình. Mẹ Maria có phúc vì đã tin lời Chúa hứa ban Đấng Cứu Thế sẽ được thực hiện, và như lời Tổng thần Gabrien, Mẹ có phúc vì Mẹ có Chúa ở cùng Mẹ. Xin Mẹ ban cho chúng ta cũng có được niềm tin đó, để chúng ta cũng được tiếp rước Chúa đến với tâm hồn chúng ta. Có vậy, chúng ta mới cảm nghiệm được đêm Giáng Sinh thực sự là Đêm Bình An.

Lm. Gioan M. Cao Vũ Nghi, CM

NHỮNG CUỘC THĂM VIẾNG XƯA và NAY
Lc 1: 39-45
Bà Lely Lemieux là một Kitô hữu Canada. Từ 8 năm nay, bà là hội trưởng hội "Ngọn Lửa Cháy" của giáo phận thành phố Mông-rê-an. Hội có mục đích dẫn đường và cùng đi với các người trẻ trong cuộc hành trình nhắm tới tương lai. Ngoài ra, bà Mỹ còn năng thăm viếng các tù nhân, mang lại cho họ niềm hy vọng và sự cảm thông. Vậy do đâu mà bà Mỹ có được tinh thần nhiệt thành đối với người trẻ và với người tù tội? Hãy nghe lời bà Mỹ tâm sự:

Đời sống của tôi thật giản dị và đâm rễ sâu trong tình thương của Chúa. Giờ đây ở tuổi trưởng thành, tôi càng thấy rõ tôi hết lòng tin vào sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa trong đời tôi. Tôi vô cùng cảm tạ Chúa về hồng ân đức tin đó. Tôi còn hưởng một hồng ân khác nữa là được sinh ra trong một gia đình trên thuận dưới hoà. Cha mẹ tôi rất quan tâm săn sóc con cái. Tình thương, sự chăm sóc tế nhị và lòng trìu mến của cha mẹ đối với tôi, là một món quà tôi không bao giờ quên, cũng không bao giờ giữ riêng lấy cho tôi.


Ngay ở tuổi 14, tôi đã dành giờ rảnh ngày thứ bảy đi giúp tắm rửa các em bé tại nhà thương Từ Bi. Kế đến tôi gia nhập hội Hướng Đạo. Các sinh hoạt Hướng Đạo đã cho tôi cơ hội sống với người trẻ.


Từ tám năm nay, tôi được giáo phận giao cho việc điều khiển hội đoàn "Ngọn Lửa Cháy". Đây là cộng đoàn dành riêng cho người trẻ từ 18-25. Cứ vào cuối tuần, chiều thứ 6 đến chiều Chúa Nhật, họ họp lại để suy tư về những đề tài xoay quanh "Bản thân, tha nhân, gia đình và Chúa Kitô". Mỗi chiều Chúa Nhật, tôi được an ủi rất nhiều khi thấy những người trẻ ra về với gương mặt vui tươi. Đó là những người trẻ đã từng trải qua những kinh nghiệm đau thương, như nghiện rượu, nghiện ma tuý, thất tình, cô đơn, không kiếm được việc làm, thiếu tự tin. Nhờ được chung sống và chia sẻ với nhau những ngày cuối tuần mà họ tìm lại được hơi ấm của tình người, nhất là có được hy vọng và lòng tự tin.


Ngoài ra, tôi còn thường xuyên thăm viếng các tù nhân. Những người này chiếm một chỗ đứng quan trọng trong đời tôi và mang lại cho tôi rất nhiều kinh nghiệm quý báu. Thật ra việc tiếp xúc với họ không phải là chuyện dễ dàng và đơn giản. Tôi không bao giờ biết trước được ai là người tôi sẽ gặp nơi nhà tù, và khi gặp họ tôi phải nói gì. Tôi hoàn toàn phó thác nơi Chúa Thánh Linh qua mỗi cuộc gặp gỡ. Chính Chúa Thánh Linh cho tôi biết phải nói gì. Tôi thường ra về lòng tràn đầy ơn bình an nhờ tham dự vào lòng thương xót của chính Chúa Giêsu.


Tôi có một niềm tin vững chắc nơi Chúa. Với tôi, Thiên Chúa là một người CHA tuyệt diệu, trên hết mọi người cha. Nơi Chúa, tôi đặt trọn niềm tin và tình cảm, nhờ đó tôi được an tâm trước mọi thử thách.


Bất Cứ Ai Đón Nhận Sự Hiện Diện Ưu Ai Của Thiên Chúa...


Buổi sáng khi thức dậy, tôi dâng ngày cho Chúa, rồi tôi khiêm tốn xin Chúa cho tôi trở nên người phản ảnh tình thương của Chúa cho tha nhân.


Với ai đó than phiền vì chỉ gặp toàn khó khăn xui xẻo, tôi liền hỏi người đó: "Đâu là chỗ đứng trong đời của bạn?" Quả thật, đối với tôi, Thiên Chúa chính là gia nghiệp đời tôi. Tôi tìm nơi Người sức mạnh, niềm hy vọng, tình thương và ánh sáng chiếu soi bước đường hàng ngày của tôi.


Riêng với Mẹ Maria, bà Lely Lemieux kể ra một câu chuyện nhỏ: "Trước kia, tôi có tật hút thuốc lá mỗi ngày hai gói! Tôi đã cố gắng bỏ tật xấu đó một số lần nhưng lần nào cũng thất bại. Ngày kia, một người bạn nói với tôi: "Bạn biết không? Đức Mẹ đã giúp mình bỏ thuốc đó." Nghe vậy, tôi tự nhủ: "Chắc Đưc Mẹ cũng sẵn sàng giúp tôi bỏ thuốc." Thế là tôi mang gói thuốc đặt dưới chân tượng Đức Mẹ. "Xin Mẹ giúp con bỏ thuốc từ này trở đi" và quả thật, từ hồi đó, Đức Mẹ đã giúp tôi bỏ hẳn tật hút thuốc.


Lời tâm sự của bà Lely Lemieux gợi ý cho thấy biến cố Đức Maria đi thăm viếng bà Isave thường được lặp đi lặp lại nhiều lần nhiều cách trong đời người Kitô hữu. Có thể nói chính việc lặp đi lặp lại này làm nên đời người Kitô. Quả thật không riêng gì bà Lely Lemieux, bất cứ ai đón nhận sự hiện diện ưu ái của Thiên Chúa đều được mời tham dự mầu nhiệm đi viếng của Đức Maria, Mẹ Chúa Cứu Thế.


Xuất Xứ Của Mầu Nhiệm Đi Viếng


Hãy coi xuất xứ của mầu nhiệm đi viếng này bắt rễ từ biến cố Truyền Tin. Một cô gái thôn quê làng Na-da-rét, mới 13-14 hoặc 15 tuổi, đã kết hôn và được Sứ Thần của Thiên Chúa đến loan tin động trời. Cô đã được ban cho đầy ơn sủng và được Thiên Chúa ở cùng (Lc 1,28), bây giờ cô còn được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Con Thiên Chúa làm người do quyền năng của Chúa Thánh Thần (c.31.35) vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được, nên Đức Trinh Nữ đã đặt mình hoàn toàn để Thiên Chúa sử dụng khi thưa: "Xin cứ làm cho tôi như Sứ Thần nói" (c.38). Đó chính là xuất xứ của mầu nhiệm của mọi việc viếng thăm có ý nghĩa Kitô giáo, khởi sự với cuộc thăm viếng bà Isave được kể trong bài Tin Mừng hôm nay.


Điều kiện tiên quyết cho giá trị của mọi cuộc thăm viếng Kitô giáo là Thiên Chúa ở cùng ta. Dọc theo mọi ơn gọi trong Kinh Thánh, như với nhà lãnh tụ Mô-sê (Xh 3,12), với ngôn sứ Giê-rê-mi (1,8.19; 15,20), với tổ phụ Áp-ra-ham (St 26,24; 28,15) cũng như với Đức Trinh Nữ Maria, khởi sự phải là việc Thiên Chúa chiếu cố đến thân phận yếu hèn (Lc1, 48) của con người mà Người muốn ban ơn. Ơn Người ban bao giờ cũng vậy, phải phát xuất do lòng tốt lành của Người. Tuỳ ở mức sẵn sàng đón nhận mà con người được tràn đầy ân sủng của Thiên Chúa. Nơi Đức Maria sẽ không có rào cản đối với ơn Chúa hiện diện và hành động, nên Mẹ được nhìn nhận là "Đấng đầy ân sủng" (Lc 1,28). Loài người càng thoát ách tội lỗi (dù chỉ là thoát khỏi một đam mê nhỏ như thói quen hút thuốc), ơn Chúa càng tự do hoạt động. Nhưng khởi sự bao giờ cũng là chính Chúa hiện diện và hoạt động như lời bà Lely Lemieux nói "ngay từ nhỏ tôi đã cảm nhận tình thương của Chúa. Giờ đây ở tuổi trưởng thành, tôi càng thấy rõ tôi đã hết lòng tin vào sự hiện diện và hành động của Thiên Chúa trong đời tôi".


Thiên Chúa mặc xác phàm nơi lòng Đức Maria do quyền năng tác động của Chúa Thánh Thần: đó là cội nguồn của sự hiện diện và hành động hoàn toàn mới của Thiên Chúa ở giữa loài người. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Maria sẵn sàng (c.39) như thế nào để Chúa sử dụng Mẹ trong vai trò hòm bia Giao Ước mới của Thiên Chúa. Rõ ràng cuộc gặp gỡ của hai người mẹ là cơ hội để hai người con gặp nhau. Có thể nói ông Gioan Tẩy Giả bắt đầu thi hành sứ mạng tiền hô bằng động tác nhảy lên trong bụng mẹ (c.41) để giới thiệu vị Thiên Sai Giêsu cũng còn trong dạ mẹ. Hẳn bà Lely Lemieux có lý khi khám phá ra nguồn suối của ơn nhiệt thành tông đồ ngang qua cha mẹ mình khi nói: "Cha mẹ tôi rất quan tâm săn sóc con cái. Tình thương, sự chăm sóc tế nhị và lòng trìu mến của cha mẹ đối với tôi, là món quà tôi không bao giờ quên, cũng không hề giữ riêng lấy cho tôi".


Nhưng mãnh liệt nhất trong nhiệm cục mới của ơn cứu độ là sự hiện diện và hành động của Chúa Thánh Linh. Với biến cố Đức Giêsu được Mẹ Người cưu mang do quyền năng của Chúa Thánh Linh (c.35), Thần Khí của Thiên Chúa sẽ hành động mạnh mẽ nơi các nhân vật khác nữa như bà Isave (c.41), ông Da-ca-ria (c.67) cũng như cụ già Si-mê-on (Lc 2,27). Hiện tượng đó báo hiệu việc Đức Giêsu sau này được tôn vinh. Đó là lúc Thiên Chúa ra tay uy quyền nâng Người lên, trao Người Thánh Thần đã hứa để Người đổ xuống: "Đó là điều anh em đang thấy đang nghe" (Cv 2,33), đó cũng chính là hiện tượng mà bà Lely Lemieux nghiệm thấy khi thăm viếng các tù nhân như chính bà tâm sự: "Tôi không bao giờ biết trước được ai là người tôi sẽ gặp. Tôi hoàn toàn phó thác cho Chúa Thánh Linh qua mỗi cuộc gặp gỡ".

Lm. Augustine, S.J

HÃY ĐÓN NHẬN CHÚA
Lc 1: 39-45

Mầu nhiệm Nhập thể là là mầu nhiệm Ngôi Lời được cưu mang. Khi chấp nhận làm người, Con Thiên Chúa cần một người mẹ.Và Ngài được thụ thai cách nhiệm mầu trong lòng trinh nữ. Nói một cádch khác: Để chương trình cứu độ được thành công, Thiên Chúa cần sự cộng tác của con người. Mặc dù khi dựng nên con người, Thiên Chúa không cần hỏi ý kiến, nhưng để cứu chuộc, Thiên Chúa cần con người cộng tác bằng hành động cụ thể đó là đón tiếp Ngài. Tin Mừng hôm nay ghi nhận Đức Maria như một mẫu gương đã đón nhận Thiên Chúa.

Thật vậy, Đức Maria đã đón nhận Thiên Chúa bằng lời xin vâng. Nhờ đó mà Đấng thi hành thánh ý của Thiên Chúa mới ngự xuống trong cung lòng Mẹ. Lời xin vâng này của Đức Mẹ, không phải chỉ là một ưng thuận bên ngoài, nhưng xuất phát từ một người có niềm tin vững chắc vào Lời Chúa: "Phúc cho bà là kẻ đã tin rằng Lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện" (Lc 1,45). Nói một cách khác, hai tiếng xin vâng của Đức Mẹ, phát xuất từ một nếp sống, đã có những nhân đức và tư cách khả dĩ lôi kéo được sự chú ý đặc biệt của Thiên Chúa, đã khiến Thiên Chúa tuyển chọn Mẹ hơn bất cứ phụ nữ nào khác.


Và Đức Maria là người có diễm phúc không phải chỉ trong hay giữa các phụ nữ mà còn hơn hết mọi phụ nữ. Bởi vì Con Mẹ đang cưu mang trong lòng chính là nguồn hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc của Mẹ lệ thuộc vào hạnh phúc của Con và do Con mà có, vì Con trong lòng Mẹ là Đấng Thánh, là Con Đấng Tối Cao, là Con Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa; cũng chính do nguồn hạnh phúc đó mà bà Elisabeth được tham dự vào hạnh phúc vì được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm; hơn nữa hài nhi mới được 6 tháng trong lòng bà cũng cảm nhận được hạnh phúc tràn đầy nên cũng nhảy mừng khi mẹ mình vừa nghe lời Đức Maria chào.


Đức Maria như một đại diện nhân loại đã đón nhận Thiên Chúa một cách hoàn hảo. Mẹ là gương mẫu cho tất cả những người muốn đón nhận Chúa. Vấn đề đặt ra hôm nay là : chúng ta đã chuẩn bị đón nhận Chúa như thế nào trong lần kỷ niệm ngày giáng sinh này? Có phải chỉ là những chuẩn bị quà bánh, đèn sao, máng cỏ,...mà thôi? Bởi vì Đức Maria đã đem Chúa Giêsu đến cho chúng ta thì chúng ta cũng phải đón nhận bằng chính cuộc sống mình.

Lm. Anthony Việt Toàn

CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG C
Lc 1: 39-45

1. Viếng thăm là một hành động biểu lộ tình thương

Vừa nghe sứ thần truyền tin cho biết bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, Maria liền vội vã lên đường đến thăm bà. Bà Ê-li-sa-bét sống ở miền núi, chắc chắn cuộc hành trình của Maria lên miền núi để thăm người bà con không tránh được mệt nhọc, vất vả.


Chắc chắn việc Đức Maria đến thăm bà Ê-li-sa-bét là do sự thúc đẩy của yêu thương. Ngài không đến thăm thì bà Ê-li-sa-bét chẳng trách Ngài được, lý do là bà ấy đâu biết rằng Ngài biết bà mang thai. Vả lại chính Ngài cũng đang mang thai, mà đường xá lại xa xôi. Chính tình thương đã thúc đẩy Ngài đi, vì Ngài rất giàu tình thương. Và cũng chính vì giàu tình thương mà Ngài xứng đáng làm Mẹ của Đức Giêsu, là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa.


Tình yêu đòi hỏi phải biểu lộ ra, chứ không giữ kín bên trong. Một tình yêu giữ kín, không được biểu lộ thành hành động, không phải là một tình yêu đích thực. Tương tự như lời thánh Giacôbê: «Đức tin không có việc làm là đức tin chết» (Gc 2, 26). Cũng vậy, tình yêu không việc làm, không được biểu lộ là tình yêu chết. Tình yêu phải được biểu lộ ra thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ người thân, làm cho người thân trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn. Câu tục ngữ «Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, cửu thập đèo cũng qua» có nghĩa như thế!


Tình yêu đích thực đòi hỏi phải năng gặp nhau, nhất là những lúc người mình yêu có chuyện vui hoặc buồn. Đức Phật nói: «Yêu mà không được ở gần nhau thì sẽ đau khổ». Tục ngữ có câu: «Nhất nhật bất kiến như tam thu hề!». Vì thế, đi thăm viếng nhau là đòi hỏi của tình yêu đích thực, là biểu lộ sự quan tâm đến nhau. Vì thế, chúng ta hãy năng thăm viếng những người chúng ta yêu mến. Mà đã là người Kitô hữu, tất nhiên chúng ta có rất nhiều người mình phải yêu mến, nhất là những người lâm cảnh đau khổ, túng thiếu, những người lâm vào thế kẹt, những người cần chúng ta tới thăm viếng hơn cả. Trong gia đình tự nhiên cũng như trong Gia đình Khôi Bình, đến thăm nhau là một cách tuyệt vời để biểu lộ tính gia đình, tình huynh đệ, tình yêu thương của Kitô giáo.


2. Đến thăm để đem Chúa đến cho người mình thương


Khi Đức Maria đến thăm bà Ê-li-sa-bét, thì Ngài cũng đem Chúa đến cho bà ấy. Nhờ Đức Maria mang Chúa đến, nên không chỉ bà Ê-li-sa-bét vui mừng, mà hài nhi trong bụng bà cũng vui theo, đến nỗi phải «nhảy lên» trong bụng mẹ. Và chắc chắn cũng chính vì Đức Maria mang Chúa đến, mà niềm vui của bà Ê-li-sa-bét và hài nhi mới tăng lên một cách lạ thường như thế. Sự hiện diện của Đức Maria cùng với bào thai Giêsu còn biến đổi hai mẹ con bà Ê-li-sa-bét, khiến hai người được tràn đầy Thánh Thần, và nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Maria, đồng thời tin vào Thiên Chúa vững mạnh hơn.


Đến thăm không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến, mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần nhờ sự hiện diện của Chúa do ta mang đến. Chính Thánh Thần của Chúa trong ta sẽ thánh hóa, biến đổi họ nên tốt lành, thánh thiện, chứ không phải ta.


Đem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình nói thật nhiều thật hay về Chúa cho họ nghe. Rất nhiều người nói về Chúa rất nhiều rất hay, nhưng thật sự không mang Chúa trong mình. Chúa là tình thương, mình chỉ mang Chúa đến cho họ, khi chính mình yêu thương họ thật sự, bằng một tình yêu chân thực. Đức Maria có nói gì về Chúa với bà Ê-li-sa-bét đâu! Mình chỉ mang Chúa đến cho họ, khi mình đến với họ với ý muốn làm hiện thân của Chúa.


3. Hãy là hiện thân của Chúa khi đi thăm viếng


Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại vô cùng, nên Ngài đã đến với con người trong lịch sử, cách đây 2000 năm, để cứu độ và đem hạnh phúc đến cho mọi người, cho từng người. Khi còn tại thế, Ngài đã đến thăm nhiều người, săn sóc nhiều người, cải hóa nhiều người, biểu lộ tình yêu thương cho nhiều người. Nhưng vì nhập thể làm người, Ngài bị giới hạn trong không gian và thời gian, Ngài chỉ sống tại thế có 33 năm, chỉ quanh quẩn trong đất nước Do Thái, và chỉ có thể tiếp xúc được với một số rất ít người. Nhưng tình yêu vô biên phổ quát của Ngài khiến Ngài muốn tiếp xúc với tất cả mọi người trên trần gian, để phục vụ, săn sóc họ, từng người một. Ngài không thể làm điều đó bằng chính thân xác của Ngài. Vì thế, Ngài muốn nhờ chính chúng ta làm điều ấy. Ngài muốn trở thành chính bản thân chúng ta để làm những công việc ấy, và chúng ta có thể giúp Ngài được toại nguyện ý đó.


Ngài muốn dùng chính bản thân chúng ta để thăm viếng những người chúng ta quen biết, yêu thương. Ngài muốn an ủi, vỗ về, khuyến khích, khuyên lơn, cảnh tỉnh họ bằng miệng lưỡi của ta. Ngài muốn săn sóc, làm việc phục vụ họ bằng chính bàn tay của ta. Ngài muốn yêu thương họ bằng chính trái tim của ta. Ngài muốn quan tâm tới họ bằng chính tâm trí của ta. Qua ta, Ngài muốn biểu lộ tình thương vô biên của Ngài cho họ. Muốn thế, Ngài mong muốn ta trở thành hiện thân của yêu thương, thứ yêu thương bằng hành động chứ không phải chỉ bằng lời nói. Ta có là hiện thân của tình thương, thì ta mới trở nên hiện thân của Ngài. Và chính lúc ấy, ý muốn của Ngài là yêu thương phục vụ họ mới được thỏa mãn hoàn toàn.


Vấn đề là ta có muốn trở nên hiện thân của Ngài hay không. Ngài không bao giờ muốn ép buộc ta, thúc bách ta, nhưng luôn luôn mời gọi ta. Ta có nghe thấy tiếng Ngài mời gọi không? Nếu có, hãy đáp lại lời mời ấy một cách quảng đại. Đó là cách chứng tỏ cụ thể nhất rằng ta yêu mến Ngài. Yêu mến Ngài thì phải yêu thương giống như Ngài, chứ không phải yêu Ngài bằng cách dâng lên Ngài thật nhiều thánh lễ, đọc thật nhiều kinh kệ, và quỳ hàng giờ trước nhà tạm. Nếu ta yêu Ngài thật sự, thì hãy yêu Ngài, phục vụ Ngài trong những người anh chị em gần gũi ta.


Ngài đã chẳng từng nói: «Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! Lạy Chúa!" là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi!» (Mt 7,21). Mà ý muốn của Thiên Chúa là: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,34). Về việc dâng quá nhiều lễ tế, đọc kinh kệ quá nhiều mà thiếu lòng yêu thương nhau, Thiên Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Isaia để nói lên sự chán ngấy của Ngài: «Ngần ấy hy lễ của các ngươi, đối với Ta nào nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bò mập, Ta đã ngấy (...) Thôi đừng đem những lễ vật vô ích ấy đến nữa. Ta ghê tởm khói hương, ta chịu không nổi những ngày đầu tháng, những ngày sabát, ngày đại lễ, không chịu nổi những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạc linh đình (...) Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn, vì tay các ngươi đầy những máu...» (Is 1,11-15; xem bài đọc 2 được nêu ở trên). Chỉ có tình yêu đích thực mới làm Chúa hài lòng!


Cầu Nguyện:


Lạy Chúa, xin giúp con trở thành hiện thân của Chúa để giúp Chúa phục vụ mọi người qua chính bản thân của con. Xin cho con biết quan tâm đến niềm vui, nỗi khổ, và nhu cầu của từng người sống chung quanh con. Xin giúp con biết hy sinh thì giờ cho dù rất quí báu của con để năng đến gặp gỡ họ, thăm viếng họ, hầu nhờ đó thông cảm được những nỗi vui buồn và nhu cầu của họ. Xin giúp con biết sẵn sàng chia vui sẻ buồn và tìm mọi cách để thỏa mãn những nhu cầu chính đáng của họ. Amen.

John Nguyễn

Nguồn vietcatholic.org

4903    22-12-2012 09:00:07