Sidebar

Thứ Sáu
25.04.2025

Chúa Nhật IV Phục Sinh A - Cầu Cho Ơn Thiên Triệu

  1. Chủ Chiên Nhân Lành
  2. Sống Dồi Dào
  3. Mục Tử Đàn Chiên
  4. Điểm Tựa Bình Yên
  5. Người Chăn Chiên
  6. Tìm Được Sự Sống Nơi Mục Tử Giêsu
  7. Đức Giêsu Là Cửa Chuồng Chiên
  8. Mục Tử
  9. Ta Là Mục Tử Tốt Lành
  10. Cửa Chuồng Ơ Đâu?
  11. Đức Giêsu, Người Chăn Chiên Tốt Lành
  12. Người Mục Đồng
  13. Chúa Chiên Của Tôi
  14. Chúa Giêsu Là Cửa Ràn Chiên
  15. Chủ Chăn Tốt Lành
  16. Chúa Chiên Lành
  17. Chúa Giêsu Là Cửa Sự Sống
  18. Chủ Chiên Và Con Chiên
  19. Mục Tử Chân Chính
  20. Xin Cho Những Mục Tử Nên Giống Chúa
  21. Những Mục Tử Đời Thường
  22. Mục Tử Tốt Lành
  23. Chúa Nhật Chúa Chiên Lành
  24. Mục Tử Tốt Lành
  25. Chọn Vào Cánh Cửa Giêsu

CHỦ CHIÊN NHÂN LÀNH
Ga 10, 1 - 10

Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào ...

Anh chị em thân mến,

Chúa nhật hôm nay được gọi là chúa nhật:Chúa chiên lành; chủ đề này dựa vào bài Phúc âm trong thánh lễ, nhất là dựa vào lời tự xưng của Chúa Giêsu: "Ta là Mục tử tốt lành...Ta biết các chiên Ta, và chiên Ta biết Ta". Có người nói: Chúa Giêsu nói như thế là quá lố, vì họ không tin Chúa...Thực ra, Chúa Giêsu là Chúa của Sự Thật, làm sao Người có thể nói thêm nói bớt, làm sao Người có thể dối gạt ta được? Con người do ảnh hưởng tội nguyên tổ, nên tánh còn xấu xa, con người mới dối gạt, lừa đảo nhau... Đây chính là chủ đề mà Hội Thánh muốn chúng ta suy niệm trong ngày chúa nhật hôm nay...

a/. Có một vài điều chúng ta cần lưu ý: Chúa Giêsu là mục tử tốt lành, nên Người:

Luôn hiện diện bên đàn chiên: Chúa Giêsu thực là vị mục tử tốt lành, vì chính Chúa nói: "Thầy sẽ luôn ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.." Sau khi Chúa về trời cho đến hôm nay, Hội thánh luôn cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa trong Hội Thánh, tuy là sự hiện diện không hữu hình như xưa khi Chúa đi giảng dạy bên các tông đồ; nhưng rõ ràng các thánh, cả các người tín hữu luôn thấy Chúa hiện diện ngay trong cuộc sống của mình....

Cha Phaolô Mừng, sau năm 1975, được về làm sở Cái Đôi, một họ đạo ven biển của tỉnh Trà Vinh, nay gọi là Huyện Duyên Hảị Trong một thời gian khá lâu, có đến 10 năm, Cha không bao giờ đi đâu cả, ngay cả khi cuối năm, phải đi tĩnh tâm hàng năm, chung với các Cha, Cha cũng không đi nữa... Có người hỏi Cha: Tại sao vậy Cha cười cười và trả lời: "nước đổ ra biển, có khi nào nước đổ trở lên nguồn?" Sau này, sau những năm 1990, có người mới hỏi lại Cha về chuyện cũ, Cha lúc đó mới trả lời rõ ràng: "đó là thời kỳ bao cấp, rất khó khăn, mình là chủ chăn mà, bỏ họ đạo mà đi coi chừng mất nhà thờ, mất họ đạo, ai thường cho mình. Thà là...cứ bám trụ, có chết cùng chết với họ đạo...." Rõ ràng đây là một tấm gương mục tử sáng chói luôn hiện diện vui buồn, sướng khổ với họ đạo....

Biết rõ từng con chiên: Chúa Giêsu, vị mục tử tốt lành, nên Người biết rõ từng con chiên: con nào đau ốm - con nào bị tật nguyền - con nào thiếu thốn... Không có bất cứ điều gì khác lạ nào nơi con chiên mà vị Mục tử Giêsu không biết; chính vì lẽ đó mà Chúa Giêsu đã nói, không hề có chút kiêu kỳ: "Ta biết con chiên của Ta, và chiên của Ta cũng biết Ta".

Trong đời cha Thánh Curé D'Ars, ngài có thói quen hầu như mỗi khi viếng Chúa hay nguyện gẫm, ngài thường đem theo quyển sổ các gia đình công giáo trong họ đạọ Người ta nói ngài lật từng trang, xem qua các gia đình và cầu nguyện cho họ. Cha Thánh họ Ars hầu như biết rõ từng con chiên trong họ đạo của cha....

Hy sinh tính mạng mình vì đàn chiên: Ai đã đọc qua thiên hồi ký ghi lại cuộc hành trình truyền giáo của các cha Thừa sai Paris, cho người Thượng (ngày hôm nay là địa phận Kontum và Buôn ma Thuột), sẽ thấy vô cùng cảm phục vì sự hy sinh, vì sự bỏ mình vì đàn chiên của các ngàị Sống giữa rừng thiêng nước độc, đủ mọi thứ hiểm nguy, ăn uống thiếu thốn, dã thú, bệnh tật kiết lỵ, rét rừng, triều đình rình rập bắt bớ, thái độ e dè của kẻ ngoại cuồng tín. Vậy mà các ngài vẫn không sợhãi, vẫn sẳn sàng chết cho Chúa Kitô và các linh hồn. Gương hy sinh liều mình như thế, thử hỏi ngày nay chúng ta có gì để so sánh bằng các ngài không? Rõ ràng các ngài muốn bắt chước gương cao cả của Thầy Chí Thánh mình .....

b/. Gợi ý sống và chia sẻ: Chúa Kitô thực sự là Mục tử tốt lành. Các thánh cũng là những mục tử tốt lành, theo gương Chúa Kitộ Còn phần chúng ta, chúng ta có muốn là những con chiên tốt lành của Chúa Kitô không?

SỐNG DỒI DÀO
Ga 10, 1 - 10

"Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào". Đây là những lời nói phát xuất từ tình yêu và tấm lòng của người mục tử sống hết mình vì đoàn chiên của mình. Nhưng đồng thời khi nghe những lời yêu thương này có người sẽ tự hỏi: thế nào là sống và sống dồi dào nghĩa là gì? Nơi những người chưa có niềm tin hoặc niềm tin còn non kém thì có lẽ sẽ tự hỏi rằng: Nếu Ngài không đến thì chúng tôi sẽ chết hết hay sao? Đâu là ý nghĩa của vấn đề mà Chúa Giêsu nói với chúng ta? Chúng ta hãy tìm hiểu vấn đề với ý nghĩa đích thực của nó.

1.Thế nào là sống?

Nếu hiểu chữ sống là "có sinh khí và hoạt động" thì có lẽ nhiều người sẽ nói rằng: tôi đâu có tin Chúa và cũng chẳng cần Chúa đâu mà tôi vẫn sống và sống mạnh khoẻ đây. Thật ra, đó là thái độ của con người còn mê lầm và chưa nhận ra sự thật. Sự thật là Chúa đã dựng nên con người và ban cho họ sự sống trong tình yêu quan phóng của Ngài dù con người có nhận ra điều đó hay không?

Nhưng ở đây, khi Chúa Giêsu nói: "Ta đến để cho chúng được sống" thì từ "sống" mang một ý nghĩa sâu xa hơn nhiều.Nó vượt lên trên ý nghĩa là "có sinh khí và hoạt động". Sự sống mà Chúa Giêsu mang đến cho những ai tiếp nhận Ngài chính là sự sống đích thực và vĩnh cửu vì Ngài là nguồn của sự sống. Chúa Giêsu đã nhiều lần khẳng định: "Ta là nước hằng sống, là Bánh trường sinh, là sự sống lại và là sự sống".

Dân Do thái ngày xưa đã sống trong sa mạc 40 năm trường và được ăn bánh mà họ gọi là bánh bởi trời là Manna để trải qua thời gian sa mạc đó. Nhưng đó không phải là bánh bởi trời đích thực vì bánh đó không phải là bánh của sự sống và không có khả năng ban sự sống cho con người.Chính Chúa Giêsu mới là : "Bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn và họ đã chết. Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời" (Ga 6, 58).

Đức Giêsu cũng tỏ ra cho người phụ nữ xứ Samaria rằng: chính Ngài là Nước hằng sống khi chị này đến lấy nước tại giếng mà họ tự hào là của tổ phụ Giacop để lại.. Chúa nói : "ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ còn khát nữa và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời" (Ga 4, 14).

Với phép lạ Chúa Giêsu phục sinh cho Lazarô, Ngài cũng tỏ cho chúng ta thấy Ngài chính là sự sống: "Ta là sự sống và là sự sống lại" (Ga 11,25).

Như vậy, Chúa Giêsu đến với con người trong tư cách là mục tử nhân lành, mục tử hiến mạng sống mình vì đoàn chiên là chúng ta, để qua Ngài là nước hằng sống, là bánh trường sinh, là sự sống . . . Chúng ta có được sự sống đích thực. Với sự chết và sự sống lại của Đức Giêsu, Ngài đã ban cho chúng ta tất cả những gì Ngài đã phán với chúng ta : Ta là Nước hằng sống, là Bánh trường sinh, là sự sống, là Sự sáng trần gian . . .

2. Sống dồi dào là thế nào?

Nếu chúng ta nghĩ rằng sống dồi dào là sống tiện nghi, dư ăn dư để . . . thì có lẽ chúng ta cũng không thấy cần Chúa Giêsu đến với chúng ta làm gì. Vì thực tế, có nhiều người không hề tin Chúa mà họ vẫn sống giàu sang, của cải dư đầy, không thấy thiếu một thứ gì cả.

Nhưng "sống dồi dào" theo ý của Chúa Giêsu là sống vui tươi, hạnh phúc và tự do dù có thể họ không giàu sang và thành đạt theo kiểu thế gian.

Sống dồi dào là sự sống của những con người tràn đầy Thần Khí của Thiên Chúa. Mà Thần Khí vốn là tự do "Gió muốn thổi đâu thì thổi". Vì thế, ai còn bị ràng buộc bởi bất cứ điều gì dù là tiền của, công việc, gia đình, luật lệ . . . thì họ quả là người đáng thương dù cho họ có đầy đủ mọi thứ của cải trần gian.

Tự do là phẩm giá cao trọng quí nhất của con người. Vậy chúng ta có thật là người tự do chưa? Hãy kiểm điểm xem điều gì còn làm cho chúng ta bận tâm hay đang trói buộc chúng ta, khiến chúng ta chưa có được sự sống dồi dào của Chúa. Hãy chạy đến với Đức Giêsu để chính Ngài sẽ ban lại cho chúng ta sự sống đích thực và được sống dồi dào.

Hôm nay cũng là ngày mà Giáo hội dành cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ. Chúng ta hãy cầu xin cho Hội thánh Chúa có nhiều người biết quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa để sống đời hiến dâng vì Chúa, vì Nước Trời và vì hạnh phúc của con người.

Chúng ta cũng hãy cầu xin Chúa cho các vị đang có trách nhiệm hướng dẫn và lãnh đạo dân Chúa biết noi gương Chúa Giêsu đến để làm cho chiên được sống và sống dồi dào qua đời sống hy sinh, dấn thân và phục vụ.

MỤC TỬ ĐÀN CHIÊN
Ga 10, 1 - 10

CHÚA NHẬT HÔM NAY ĐƯỢC GỌI LÀ CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH, là ngày dành cầu nguyện đặc biệt cho ơn gọi giáo sĩ và tu sĩ. Hình ảnh mục tử chăn dắt đàn chiên thường được dùng để diễn tả những người có trách nhiệm lãnh đạo Giáo hội, có nhiệm vụ chăm do đời sống giáo dân. Hình ảnh này được bắt nguồn từ trong Cựu Ước. Tiên tri Eâzêkiel đã dùng hình ảnh đàn chiên và chủ chiên để báo trước rằng Chúa sẽ đến dẫn dắt Israel như mục tử chăn dắt đàn chiên. Đến thời Tân Ước, Chúa Giêsu cũng tự xưng Thầy là mục tử tốt lành.

Hình ảnh mục tử có vẻ xa lạ đối với người Việt nam hôm nay. Nhưng đối với người Palestine thời ấy, đầy là hình ảnh rất đẹp. Nó diễn tả sự gần gũi, quan tâm chăm sóc hết mình trong liên hệ chủ chăn và đàn chiên. Sự hiện diện gắn bó của mục tử đối với đàn chiên là không thể thiếu.

Đời sống của mục tử tại Palestine rất vất vả. Không có bầy chiên nào dám ăn cỏ nếu không có người chăn chiên bên cạnh. Vì thế, người chăn chiên không hề được nghỉ ngơi. Những vùng cỏ ít, chiên phải đi dông dài, không hàng rào bảo vệ, người chăn phải luôn luôn dõi theo đàn không rời mắt. Công việc của người chăn chiên không chỉ có tính cách thường trực mà còn có khả ngăn gặp nhiều nguy hiểm nữa. Phải tìm cách chống trả với những bầy thú dữ như sói , hay những lần phải đối mặt với những tên trộm cướp đến bắt chiên. Có thể nói những đặc điểm nổi bật nhát của người chăn chiên là: thường xuyên canh thức theo dõi, can đảm không sợ hãi, khiên nhẫn yêu thương bầy chiên mình.

Vì những đặc điểm ấy, Chúa Giêsu đã lấy người chăn chiên để nói về chính bản thân Ngài. Ngài đến trần gian và hy sinh tất cả cho đàn chiên là những con người yếu hèn, tội lỗi. Chúa Giêsu là người chăn chiên tốt lành. Ngài sẵn sàng hy sinh mạng sống để tìm và cứu vớt những con chiên đi lạc xa đàn ( Mt 18,12; Lc 15,4). Ngài động lòng thương xót dân chúng vì họ như chiên không có người chăn dắt (Mt 9,36; Mc 6,34). Chúa Giêsu chính là vị mục tử trung thành của Thiên Chúa. Ngài đã tự nguyện đón nhận săn sóc bầy chiên chứ không phải làm cách miễn cưỡng, làm vị nhiệt tình chứ không vì ham lợi, không lạm dụng địa vị để đánh đập ức hiếp đàn chiên nhưng nều gương lành yêu thương trìu mến.

Người ta bảo, mối liên hệ giữa chiên và người chăn chiên ở Palestine rất khác ở Anh quốc. Ở Anh người ta nuôi chiên để giết lấy thịt. Còn ở Palestine thì không, nuôi chiên để lấy lông làm len. Vì thế mà chiên được sống nhiều năm hơn vớichủ nên có mối liên hệ thân tình. Thân tình đến độ chiên biết rõ tiếng chủ và chủ biết rõ đắc điểm của từng con chiên. Đối với chủ chăn Giêsu, Ngài không chỉ biết nhưng còn quan tâm, tích cực hơn nữa Ngài còn ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ diệt vong. Đây là một ân huệ lớn lao cho những chiên nào thuộc đàn của mục tử Giêsu.

Ngày nay, Giáo hội có những người tiếp tục công việc chăn dắt của Chúa Giêsu. Đó là những Giám mục, Linh mục, tu sĩ. Họ là người tự nguyện dấn thân bước theo vị mục tử Giêsu. Chúng ta cầu nguyện cho họ có nhiều nghị lực trung thành phục vụ Hội thánh Chúa. Giáo hội ngày nay rất cần những mục tử, nhất là những mục tử tốt lành: những mục tử sẵn sàng xả thân vì đàn chiên, những mục tử quan tâm chăm lo đàn chiên, những mục tử luôn thao thức phục vụ đàn chiên để "chiên được sống và sống dồi dào".

Thực tế, giới trẻ ngày nay dường như chẳng mấy quan tâm đến ơn gọi làm linh mục tu sĩ. Có nhiều lý do khiến các bạn trẻ chẳng màn gì đến ơn gọi: Chính từ nhận thức và hoàn cảnh sống làm cho họ ngại ngùng khi nói đến dấn thân hay từ bỏ. Trong gia đình ít con, con cái có học vị cao thì cha mẹ không dễ gì cho con cái đi tu. Vì sợ chúng phải khổ sở và không muốn chúng bị "xuống đời". Giới trẻ cũng quên nếp sống tự do, tự lập nhiều sáng tạo, sáng kiến. Chính vì thế, họ sợ gặp căng thẳng với nếp sống kỷ luật và hình thức tu trì hiện nay. Nhiều bạn trẻ cảm thấy tiến trình thành người linh mục, tu sĩ quá nhiêu khê, đòi hỏi phải từ bỏ nhiều thứ quá và họ sợ không thể làm nổi. Do đó, dù cho họ có tinh thần dấn thân phục vụ đi chăng nữa nhưng trước những khó khăn, thách đố cuộc sống dễ làm cho họ ngó lơ, miễn bàn khi nhắc đến đời sống tu trì dấn thân.

Chúa Giêsu luôn mời gọi mỗi người tiếp bước theo Ngài trong nhiệm vụ chăn dắt. Hình ảnh Mục tử nhân lành Giêsu sẽ không mờ nhạt đi nếu Giáo hội vẫn còn những con người dám xả thân phục vụ vì hạnh phúc con người, vì tương lai của Giáo hội và vì lý tưởng cao đẹp là mỗi ngày có thêm nhiều người nhận biết Thiên Chúa là tình yêu.

ĐIỂM TỰA BÌNH YÊN
Ga 10, 1 - 10

Trong khuôn viên Đại Chủng Viện Thánh Quý - Cần Thơ có một tiểu cảnh với chủ đề "nương tựa". Tiểu cảnh nầy 80% được tạo nên từ phế liệu: một khung bê-tông của tường rào hư bỏ ra, một ống cống không còn sử dụng được nữa, những đoạn dừa, những cây cao sâm banh chết... Tất cả chúng được sơn chút màu và được xếp tựa vào nhau thành những hình tam giác, hình mái nhà... Chúng cùng tựa vào nhau để tồn tại, để làm nên tiểu cảnh đẹp. Nếu thiếu một thứ trong chúng, người ta không thể hiểu được đó là gì. Tiểu cảnh này được các chủng sinh rất yêu thích vì nó nhắc nhớ tinh thần yêu thương nâng đỡ nhau mà mục tiêu đào tạo của chủng viện luôn đặt hàng đầu.

Vâng, con người mang xã hội tính, cần nương tựa vào nhau để tồn tại. Tuy nhiên, con người chưa phải là điểm tựa lý tưởng cho con người. Chỉ có Thiên Chúa mới là điểm tựa an toàn nhất, như một danh nhân đã nói: "Đừng dựa vào cây, cây sẽ đổ; đừng dựa vào người, người sẽ chết. Hãy dựa vào Thiên Chúa". Hay nói khác đi, Đức Kitô Phục Sinh là nơi tựa nương không hề ngã đổ, vì "Đức Kitô đã chết nhưng Người đã sống lại, cái chết không còn quyền chi đối với Người nữa" (Rm 6,9).

Phúc Âm hôm nay nêu lên cho chúng ta hình ảnh một người chủ chăn tốt lành. Người chủ chăn đó không ai khác hơn là Đức Kitô - Đấng "Thiên Chúa đã đặt lên làm Chúa và làm Đấng Kitô" (Cv 2,36), "Đấng chăm sóc linh hồn anh em" (1 Pr 2,25). Người đã tuyên bố: "Ta là cửa chuồng chiên... Ta đến cho chiên được sống và sống dồi dào" (Gn 10,10). Bạn có vui không khi có được một chỗ dựa an toàn như thế? Chỉ có chủ chăn tốt mới nhẫn nại chăm sóc chiên. Ngài quan tâm đoàn chiên đến nỗi biết tên từng con một. Ngài đi trước hướng dẫn đoàn chiên trong cuộc hành trình. Trong lúc chiên nghỉ ngơi thì Ngài là người canh cửa, bảo vệ đoàn chiên khỏi hiểm nguy của kẻ thù.

Trong cuộc sống đời thường, giữa những khó khăn thất bại, tôi cứ nghĩ rằng do mình bất tài, do mình thiếu cố gắng. Tôi cay cú và bực dọc, than thân trách phận. Thỉnh thoảng được thành công, tôi tự hào, tự mãn đó là sức lực của tôi, là phần tôi đáng được hưởng. Cuối cùng, dẫu được hay thua thì tôi vẫn là tôi với thân phận mỏng giòn, chỉ lanh quanh với những sự ảo huyền. Tôi đã không biết đặt hy vọng của mình nơi Chúa. Tôi cao ngạo nghĩ rằng tự sức mình làm được mọi sự. Ở bên Chúa ngọt ngào êm ái biết là đường nào mà tôi đâu biết.

"Hãy đến với Ta hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng nề, Ta sẽ bổ sức cho... Ách của Ta thì êm ái, gánh của Ta thì nhẹ nhàng" (Mt 11,28). Tựa vào Chúa, tôi đâu phải hụt hẫng, hoang mang. Ngài luôn bao bọc tôi, ôm ấp tôi trong bóng cánh của Ngài. Đôi lúc Ngài tập cho tôi bước đi trên chính đôi chân của mình, Ngài để tôi vấp ngã để tôi cứng cáp hơn, nhưng không bao giờ Ngài đẩy tôi vào chỗ hiểm nguy.

"Chúa là nơi con nương tựa, con còn sợ gì ai" (x. TV 22). Đức Phật cho rằng: "Đời là bể khổ". Điều này không sai. Tuy nhiên, chúng ta - các Kitô hữu - không lo âu, sợ hãi vì chúng ta có Chúa. Người luôn nâng đỡ chăm sóc cho chúng ta. Ước gì bạn không phải bận lòng với những thách đố của cuộc sống, vì Chúa luôn cùng đi và cùng làm với bạn.

"Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Ngài, Ngài sẽ ra tay" (Tv. 37)

NGƯỜI CHĂN CHIÊN
Ga 10, 1 - 10

Người mục tử nhân lành phải được thể hiện qua hành động với đoàn chiên, nghĩa là phải đi qua cửa mà vào, chiên nghe tiếng của anh ta; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra... anh đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng anh. Còn ngược lại, nếu ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm. Theo toàn thể văn mạch, Chúa Giêsu muốn nhắm đến các người biết phái và ký lục là những kẻ tự cho mình là lãnh đạo dân, hướng dẫn về đời sống thiêng liêng, nhưng thực ra họ chỉ là những kẻ háo danh và chỉ quan tâm đến thiện ích riêng tư của họ.

Thông thường chúng ta hay nghĩ mục tử là những người lãnh đạo, là những người hướng dẫn trong cộng đoàn họ đạo. Nhưng thực ra mục tử cũng có thể được hiểu rộng ra là các bậc cha mẹ trong gia đình. Chúa Chiên Lành hôm nay chính là mẫu gương cho các bậc cha mẹ noi theo. Ta cũng được Chúa trao cho những linh hồn để trông coi, dẫn dắt, là những người mục tử nhưng hành động của chúng ta có giống Chúa Giêsu Nhân Lành hay chúng ta vẫn còn đang hành động giống như kẻ trộm?

Vậy cha mẹ phải ăn ở thế nào cho đáng là chúa chiên lành của con cái mình.

Tự trong sâu thẳm đáy lòng với khuynh hướng tự nhiên cha mẹ dễ dàng chăm sóc hy sinh vì hạnh phúc của chính con mình. Trong thực tế có rất nhiều cha mẹ đã yêu thương con, chăm sóc cho con, lo cho con đầy đủ không để con cái thiếu thứ gì, như thế có thể gọi là mới làm tròn phận sự về phần xác. Còn về phần hồn thì sao? Ta đã quan tâm đủ đến con cái chưa? "gọi tên từng con" để chúng không bị lạc vào thế giới hiện đại của công nghệ thông tin, với những trò chơi và hình ảnh không thích hợp với tuổi của chúng. Ta có Ta có tránh cho chúng chơi với những bạn bè xấu, ta có cất bỏ những dịp đưa chúng đến sự xa hoa, truỵ lạc không? Nếu ta không làm như vậy thì ta không phải là chúa chiên lành, vì người mục tử nhân lành thì anh ta "đi trước và chiên đi theo sau" biết chỗ nào nguy hiểm để cho chiên tránh, biết chọn ngọn cỏ tốt cho chiên ăn, chỗ an toàn cho chiên nằm.

Hơn thề, ta có sẵn sàng hy sinh những tham vọng của ta, nếu Chúa gọi con cái chúng ta dâng mình cho Chúa hay không? Hay chúng ta chỉ ích kỷ muốn cho con cái chúng ta vâng theo những tính toán đời này của chúng ta, mà không cho chúng theo ơn Chúa kêu gọi. Nếu chúng ta làm như vậy, thì chúng ta không hành động như Chúa Chiên Lành, vì Chúa Chiên Lành sẵn sàng hy sinh vì con chiên chứ không cần lời lãi ở con chiên. Nếu làm như thế chúng ta có khác gì các Kinh sư và người Pharisêu. Chúng ta có biết từng con chiên của ta như Chúa không? Ngài có thể gọi "đích danh từng con" chứng tỏ Ngài rất hiểu và biết nằm lòng sự khác của các con để không bị nhầm lẫn con này với con kia. Trong đoàn chiên gia đình cũng thế, cha mẹ là những người chăn chiên cũng phải hiểu rõ tính nết từng đứa con mình, để mà sửa đổi những tính hư nết xấu, biết dẫn chúng đến những đồng cỏ nhân đức cho chúng ăn, có như vậy chúng mới có thể trở thành những con chiên mập, béo tốt và giúp ích cho tương lai được.

Trong một cộng đoàn, không chỉ có mục tử mới có bổn phận với con chiên, mà con chiên cũng có bổn phận với người mục tử. Nếu mục tử nhân lành biết chiên của mình, thì con chiên cũng phải "biết tiếng của anh". Ta là con chiên của Chúa, ta có thật sự biết Chúa và đi theo Chúa chưa? Hỡi ơi nhiều người Công Giáo thú nhận mình biết Chúa rất hời hợt. Có lẽ họ chỉ biết có Chúa. Còn những lời Người dạy qua các bài Giáp lý, Kinh Thánh đã được học từ nhỏ thì nay không còn nhớ gì hết. Không những thế, con chiên còn phải nghe lời và theo Người nữa. Khi nhìn lại mình chúng ta phải lấy làm xấu hổ vì đã không vâng lời Người bằng đoàn chiên vâng lời kẻ chăn. Trong khi Chúa hằng đi trước để chỉ lối cho ta. Vì thế nếu ta luôn "đi theo sau" chân Người, thì không bao giờ bị lạc đường sai lối. Nếu chúng ta có gặp nguy hiểm, hoạn nạn gian khổ, thì hãy nhớ rằng Chúa đã trải qua và chúng ta chỉ đi theo Người.

Lạy Chúa Giêsu là Mục Tử nhân lành, xin cho con được biết Chúa, nghe Chúa, theo Chúa và trở nên giống Chúa để cùng được đoàn tụ trên nước thiên đàng với Chúa. Amen

TÌM ĐƯỢC SỰ SỐNG NƠI MỤC TỬ GIÊSU
Ga 10, 1 - 10

Có thể nói ưu tư lớn nhất của con người là sự sống. Chính vì sự sống này mà ngày ngày con người phải tất bật lo toan để kiếm cho được chén cơm, manh áo. Vì sự sống ấy nên mỗi khi ra đường ngồi trên xe gắn máy hai bánh chúng ta buộc phải đội nón bảo hiểm. Cũng vì sự sống ấy mà nhiều lúc các bác sĩ gần như phải chiến đấu với thần chết từng giây phút cho bệnh nhân của mình. Vì thế, cái quý nhất của con người đó là sự sống.

Hơn nữa, người Công giáo chúng ta còn tin sự sống của mỗi người là quà tặng cao quý mà Thiên Chúa ban cho. Hay nói khác hơn sự sống của con người chúng ta phát xuất từ Thiên Chúa. Cho nên, muốn bảo đảm được sự sống của mình không cách nào khác là chúng ta phải cậy dựa vào Thiên Chúa. Hiểu được tâm trạng ấy nên hôm nay Chúa Giêsu nói với từng người chúng ta: "Ta đến để cho chiên đ ược sống và sống dồi dào " (Ga 10, 10). Chúa Giêsu đã tự ví mình như người mục tử nhân lành đem lại sự sống cho chúng ta là những con chiên của Người. Ðây là hình ảnh rất quen thuộc với người Do thái.

Thật vậy, chúng ta biết Chúa Giêsu được sai xuống trần gian này là để hoàn tất ý định yêu thương ngàn đời của Chúa Cha. Bởi lẽ, ý định yêu thương ngàn đời của Thiên Chúa là muốn con người được sống dồi dào và hạnh phúc. Ðáng tiếc là con người đã đánh mất. Dù vậy, Thiên Chúa vẫn không chịu thua. Thiên Chúa đã tìm mọi cách để giúp con người tìm lại sự sống trọn vẹn ấy.

Chúng ta đang sống trong Mùa Phục sinh. Mùa Phục sinh nhắc ta nhớ đến chính Chúa Giêsu đã chịu đau khổ và sự chết nhưng chính Người đã sống lại. Ðó là niềm tin căn bản của mỗi người chúng ta. Do đó, nếu chúng ta biết đi theo sự hướng dẫn của Người và nhất là biết sống như Người chắc chắn chúng ta sẽ tìm lại được sự sống thật.

Hôm nay cũng là ngày cầu cho ơn thiên triệu. Trước hết chúng ta hãy nhớ cầu nguyện cho những người được chia sẻ sứ mạng mục tử của Chúa Giêsu: các Linh mục của Chúa biết sống theo gương của Người. Ðó là biết tận tâm, tận lực để hiến trọn cuộc đời phục vụ những người được trao phó. Ðồng thời chúng ta cũng cầu nguyện cho ngày càng có nhiều bạn trẻ dám can đảm dấn thân vào đời sống tu trì

ĐỨC GIÊSU LÀ CỬA CHUỒNG CHIÊN
Ga 10, 1 - 10
Jos. Vinc. Ngọc Biển

Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta được hỏi hay chính mình đặt ra cho mình câu hỏi: "Đức Giêsu là ai?". Đây có thể là câu hỏi quan trọng nhất trong cuộc đời của con người nói chung và của những người tin Đức Giêsu nói riêng. Tuy nhiên, câu hỏi đó hôm nay chúng ta được chính Đức Giêsu mặc khải khi nói: "Ta là cửa chuồng chiên".

Tại sao lại là "cửa chuồng chiên?"

1.     Cửa chuồng chiên là gì?

Trước khi nói đến "cửa chuồng chiên", chúng ta nên nhắc lại hình ảnh người mục tử chăn chiên nơi đất nước Dothái:

Ở đất nước này, người ta thường hay có những đàn gia súc như chiên hoặc cừu. Mỗi đàn như thế thường có người chăn dắt. Bổn phận của các mục tử chăn chiên chính là lo sao tìm được cho chúng những đồng cỏ xanh tươi, những dòng suối mát trong lành. Bảo vệ chúng khỏi bị tấn công bởi những sói dữ, hùm beo... Khi chăm lo cho chúng như thế, người mục tử phải biết rõ từng con: con nào đau ốm; ghẻ lở; con nào đi hoang, lạc đàn... Biết để làm gì? Thưa để yêu thương, để chăm sóc... để có tương quan thân tình.

Khi đêm về, người mục tử có trách nhiệm dẫn chiên về dàn và cho chúng vào chuồng. Lúc này, họ lại được ví như "cửa chuồng chiên".

Hình ảnh "cửa chuồng chiên" là một hình ảnh được dùng để biểu đạt cho sự an toàn.

Thật vậy, khi nói đến cửa thì ai cũng hiểu là để đóng vào hoặc mở ra. Khi đóng vào thì như một sự bảo vệ để khỏi bị kẻ thù tấn công và trộm cắp. Đóng vào để tránh sương gió lùa vào. Đóng vào thì mọi người an tâm ngon giấc. 

Còn khi cánh cửa mở ra, thì như chào đón một luồng gió mới vào nhà, làm cho nhà khỏi bị ẩm mốc, hôi hám. Mở ra là để cho mọi người và súc vật trong nhà được tự do ra vào, lui tới...

2.     Đức Giêsu là Mục Tử và là Cửa Chuồng Chiên

Khi tự cho mình là Mục Tử và Cửa Chuồng Chiên, Đức Giêsu muốn sống những đặc tính của người mục tử và vai trò của cửa chuồng chiên trong khi thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng. Mặt khác, Ngài cũng muốn giới thiệu và trao cho các Tông đồ và môn đệ những đặc tính của người mục tử nhân lành và cửa chuồng chiên trong Giáo Hội.

Thật vậy, Đức Giêsu chính là Mục Tử Nhân Lành, Ngài đã biết rõ từng con chiên, Ngài đã yêu thương chúng và làm cho chúng được hạnh phúc. Ngài đã chữa lành mọi vết thương thân xác và tâm hồn để cho chiên được bình an, và Ngài đã hy sinh cả mạng sống để cho chiên được sống và sống dồi dào.

Khi mời gọi các Tông đồ, môn đệ và những ai dấn thân trên con đường loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu cũng mời gọi họ hãy đi trên con đường mà Ngài đã đi. Con đường đó là gì, nếu không phải là con đường của hiền lành, khiêm nhường, vâng lời và yêu thương. Con đường đó chính là con đường của hạt lúa mục nát, con đường của thánh giá...?

Trở nên như Ngài, tức là cũng phải trở nên như những cánh cửa của chuồng chiên. Như vậy, các ngài như là người lính canh chừng. Canh chừng cho khỏi kẻ thù tấn công là những thứ học thuyết vô bổ, tạm thời, chóng qua vô ích. Canh chừng để đàn chiên không bị kẻ thù gian dối, lọc lừa và tội lỗi lôi kéo. Canh chừng như một người cha, người mẹ canh giấc ngủ của con mình. Nếu cần, hình ảnh người Mục Tử hi sinh cả mạng sống của mình cho đoàn chiên cũng là lời mời gọi cho các mục tử ngày nay trong Giáo Hội.

3.     Mọi kitô hữu đều là mục tử nhân lành và cửa chuồng chiên

Khi nói đến ngày thế giới cầu nguyện cho ơn Thiên Triệu, nhiều người nghĩ đây là ngày dành riêng cho các linh mục và tu sĩ. Nghĩ như vậy không sai. Nhưng nếu hiểu theo nghĩa rộng, thì hôm nay cũng là ngày của mỗi chúng ta, những người đã lãnh nhận Phép Rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi để thi hành chức năng Tư tế, Ngôn sứ và Vương đế của Đức Giêsu Kitô.

Vì thế, khi kết hợp với Đức Giêsu là vị Mục Tử tối cao,  mỗi người đều có thể và như một trách nhiệm phải là mục tử cho mình và gia đình mình.

Mục tử cho mình và gia đình, tức là hãy tự lo cho chính mình. Lo cho chính mình là biết làm điều lành, tránh điều ác. Biết trở nên gương sáng, chứng nhân cho người khác. Những bậc làm cha mẹ khi thi hành sứ vụ mục tử này chính là sống sự chung thủy với nhau, trở thành những người mẫu mực, khôn ngoa, Luôn làm gương sáng, yêu thương các con mình. Biết lo cho các con mình được học hành, trao dồi đạo đức cho chúng, dạy cho chúng biết mến Chúa và yêu người... Biết cảnh giác và canh trừng trước những nguy hại của thời buổi kinh tế thị trường, công nghệ thông tin... Biết giáo dục con cái hướng thiện, làm ăn chân chính...

Với những người làm con, chúng ta nghĩ ngay đến bổn phận trước tiên phải có chính là sự hiếu kính với ông bà, cha mẹ, tổ tiên... biết làm những gì có lợi cho đời sống thiêng liêng trước rồi mới nghĩ đến các lợi vật chất sau.

Nói chung, mọi thành phần trong gia đình phải lo chu toàn bổn phận cách tốt đẹp trong sự yêu mến Chúa, kính trọng và yêu thương nhau, để xây dựng tình đoàn kết, hiệp nhất trong gia đình.

Làm được như thế, ấy là lúc chúng ta thể hiện vai trò mục tử phổ quát của mình cách rõ nét nhất.

Mong thay, trong năm "Tân Phúc Âm Hóa Gia Đình", mỗi người hãy trở nên mục tử của chính mình, gia đình và tha nhân... Lấy nền tảng Lời Chúa để hướng dẫn hành vi của chúng ta. Lấy tình thương làm căn cốt. Lấy tình huynh đệ làm động lực...

4.     Cầu nguyện cho ơn Thiên Triệu

Hôm nay, Giáo Hội cũng dành riêng Chúa Nhật này để cầu nguyện cho ơn Thiên Triệu; đồng thời Giáo Hội cũng muốn mọi thành phần trong Giáo Hội biết liên đới với nhau để cùng giúp nhau chu toàn sứ mạng đem Chúa đến cho muôn dân.

Vì thế, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các bạn trẻ, biết quảng đại đáp lại lời mời gọi đầy yêu thương của Chúa, sẵn sàng dấn thân trên con đường loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Xin cũng cầu nguyện cho các linh mục đang làm mục vụ khắp nơi trên thế giới, được trở nên mục tử đích thực của Chúa giữa trần gian. Gặp được nhiều điều thuận lợi trong khi thi hành sứ vụ. Xin cũng nhớ đến các linh mục đang gặp khó khăn trên hành trình ơn gọi cũng như sứ vụ loan báo Tin Mừng. 

Và mỗi người chúng ta cũng hãy đóng góp phần mình vào trong việc vun trồng ơn gọi bằng cách khuyến khích con em mình tiến bước trên hành trình dâng hiến; sẵn sàng hy sinh dâng con cho Chúa, đồng thời quảng đại giúp đỡ các Chủng Viện, Dòng Tu trong khả năng của mình, để góp phần vào việc đào tạo ơn gọi linh mục, tu sĩ cho Chúa và cho Giáo Hội.

Lạy Chúa, tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con những mục tử là các linh mục. Xin Chúa tiếp tục thánh hóa các ngài, để các ngài trở nên những mục tử như lòng Chúa ước mong. Xin Chúa cũng đón nhận sự chân thành, cộng tác của mỗi người chúng con trong việc bảo vệ, cổ võ và vun trồng ơn Thiên Triệu. Amen.

MỤC TỬ
Ga 10, 1 - 10
Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Chúa Kitô đã sống lại và khởi đầu một hành trình mới. Chúa Giêsu đã hoàn tất sứ mệnh xuống thế làm người, rao giảng Tin mừng cứu độ, chịu mọi sự khốn khó cho đến chết, chết trên thập giá và đã sống lại hiển vinh. Chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa tiếp tục ban phát ân sủng cho mọi người ở mọi thời. Thời gian chuẩn bị đã mãn và hồng ân cứu độ gần kề, mỗi người hãy mở rộng tâm hồn đón nhận ơn cứu độ bằng cách ăn năn sám hối và chịu phép rửa. Trong thơ thánh Phêrô đã loan tin: Anh em hãy ăn năn sám hối và mỗi người trong anh em hãy chịu phép rửa, nhân danh Đức Giêsu Kitô để được tha tội và anh em nhận lãnh ơn Thánh Thần ( Tđcv 2, 39). Suốt dọc lịch sử ơn cứu độ, dân Chúa luôn được các tiên tri, các ngôn sứ và các thầy dậy luôn nhắc nhở hãy sám hối, hãy trở về cùng Thiên Chúa và tránh xa đường gian tà tội lỗi. Khi Chúa Kitô khi bắt đầu ra rao giảng Tin Mừng cũng đã mời gọi mọi người hãy ăn năn sám hối vì Nước trời đã gần đến.

Nước trời đã đến và đang hiện diện giữa chúng ta. Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế đã đến. Cửa Nước trời đã mở. Ai muốn vào Nước trời thì phải đi qua cửa hẹp. Chúa Kitô là cửa và là Mục tử tốt lành. Chúa Giêsu nói: Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên (Ga 10, 2). Chúa Kitô là Đấng Trung Gian của vạn vật và là Đấng Cứu Chuộc loài người. Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta một lối ngõ vào Nước trời: Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân (Ga 10, 9). Ngài là nguồn mạch ban sự sống. Chúng ta không có Danh nào khác, ngoài danh Đức Kitô chịu đóng đinh. Nước trời được ví như kho tàng châu báu chôn giấu trong thửa ruộng, nước trời giống như người đi gieo hạt giống nơi cánh đồng và nước trời cũng giống như hạt cải bé tí đã trở thành cây lớn...Chúa Giêsu đã mở cửa Nước trời đón nhận mọi người có lòng thành muốn chung hưởng hạnh phúc muôn đời.

Chúng ta biết có rất nhiều con đường và nhiều cửa dẫn chúng ta vào Nước trời. Nhưng đâu là con đường chính thật? Chúa Giêsu phán: Ta là đường, là sự thật và là sự sống (Ga 14,6). Chúa là mục tử tốt lành. Qua Chúa Giêsu, chúng ta sẽ tìm được của nuôi thân và thỏa khát trong nguồn suối mát. Ngài biết nhu cầu tâm linh của từng con chiên. Chúng ta hãy chạy đến với lòng thương xót của Chúa. Chúa sẽ nâng đỡ bổ sức cho. Có rất nhiều người cũng đang nỗ lực tìm kiếm Chúa trong những hoàn cảnh và môi trường sống khác nhau. Có những người chưa bao giờ được nghe nói về Thiên Chúa hoặc chưa bao giờ được nghe Tin Mừng cứu độ. Có nhiều người vẫn cố gắng đi tìm chân lý sự sống nhưng chưa được giác ngộ. Trong thế giới hôm nay, chúng ta thấy xuất hiện rất nhiều các tôn giáo khác nhau. Chung qui tất cả các tôn giáo đều mong muốn đi tìm ý nghĩa của cuộc sống đời này và hạnh phúc viên mãn đời sau. Nói chung, tất cả các tôn giáo đều cố gắng giúp các tín đồ vào qua các cánh cửa hẹp giúp tu thân luyện tánh để nên tốt lành.

Thực tế cuộc sống cũng không thiếu những thành phần lạm dụng đội lốt chủ chiên dẫn dắt bầy chiên đi lạc đường. Họ chạy theo thị hiếu của con người và muốn mở một lối riêng tìm vào nước trời. Biết rằng chúng ta không thể đi tìm một tổ chức tôn giáo hoàn hảo tuyệt đối ở trần gian để đi theo. Vì các thành viên của các tôn giáo đều là những con người yếu đuối, tội lỗi và dễ lầm lạc. Trong đạo Kitô Giáo, chúng ta có Chúa Kitô là đầu nhiệm thể và tất cả chúng ta là chi thể mầu nhiệm Chúa Kitô nên được gọi là Hội Thánh. Giáo Hội lữ hành dưới thế bao gồm đủ mọi thành phần có những người thánh thiện và cũng có những người yếu đuối tội lỗi. Chúa Kitô mong muốn cứu chuộc mọi người, không phân biệt giai cấp, mầu da, chủng tộc, ngôn ngữ và cả niềm tin. Con đường cứu độ đã mở. Mỗi cá nhân có quyền tự do quyết định chấp nhận hay không. Thiên Chúa không ép buộc chúng ta phải vào Nước trời, nhưng cửa Nước Trời đang mở và Chúa sẵn sàng đón nhận.

Sau khi phục sinh từ cõi chết, Chúa Giêsu đã đích thân gặp gỡ từng môn đệ để qui tụ họ lại. Chúa đã sai họ ra đi làm nhân chứng cho những gì mắt thấy và tai nghe. Thánh Phêrô ý thức vai trò của người thủ lãnh, ngài đã không chùn bước nhưng luôn khuyên dạy và làm gương: Phêrô còn minh chứng bằng nhiều lời khác nữa và khuyên bảo họ mà rằng: Anh em hãy tự cứu mình khỏi dòng dõi gian tà này (Tđcv 2, 40). Mỗi người có trách nhiệm về chính đời sống mình. Chúa không cứu chuộc chung chung hay một khối đông mà là từng cá nhân. Chúa muốn từng tâm hồn cải đổi và trở về cùng Chúa. Chúng ta tự do trả lẽ về mình trước mặt Chúa. Về vấn đề đời sống tâm linh, chúng ta không thể sống dựa dẫm vào nhân đức hay sự thánh thiện của người khác. Chúa đến kêu gọi và cứu độ từng con người. Mỗi người có sự kết hợp mật thiết riêng tư với Chúa và không ai có thể thay thế.

Theo gương của Chúa Giêsu, mục tử nhân lành, mỗi vị chủ chăn nên học biết sự khao khát và nhu cầu của từng tín hữu. Gần gũi với từng cá nhân trong tình trạng tâm hồn và hoàn cảnh sống của họ. Chúng ta thường có khuynh hướng đối xử theo đàn, theo đoàn và theo nhóm, mà quên đi những nhu cầu thầm kín của mỗi tâm hồn. Khi xưa, Chúa chọn và gọi tên từng tông đồ vào làm vườn nho của Chúa. Ngày nay cũng thế, ơn Chúa ban cho mỗi người một khác, nhưng đều mưu cầu lợi ích chung cho toàn Giáo Hội. Mỗi cá nhân được mời gọi để thể hiện chức năng và khả năng riêng biệt để góp phần chung trong các sinh hoạt của Nhiệm Thể Chúa Kitô. Chúng ta chỉ có một vị thủ lãnh là Chúa Kitô Phục Sinh. Nhìn lên thập giá Chúa để cùng suy niệm và sống sứ mệnh đã được trao ban.

Truyện kể: Một nhà truyền giáo, lần đầu tiên đến Trung Hoa, giảng về Chúa Giêsu cho một nhóm dân bản địa. Khi ngài kết thúc, một người nói: Phải, chúng tôi đã biết ngài: Ngài đã sống ở đây. Nghe thế, nhà truyền giáo liền nói: Không, Đức Giêsu sống ở nước khác, cách đây gần 2000 năm rồi. Nhưng người đó vãn khăng khăng bảo: Chúng tôi đã thấy Chúa. Chúa đã sống trong làng này. Chúng tôi biết Ngài. Rồi ông dẫn nhà truyền giáo đến Nghĩa Trang và chỉ cho thấy ngôi mộ của một nhà truyền giáo khác, đã từng sống với họ, phục vụ họ và cuối cùng an giấc nơi cộng đoàn của họ.

Thánh Phêrô đã chứng kiến cuộc khổ nạn của Thầy Chí Thánh từ đầu cho tới khi kết thúc. Phêrô đã chia sẻ về thái độ của Chúa Giêsu đang khi bị hành xử: Bị phỉ báng, Người không phỉ báng lại; bị hành hạ, Người không ngăm đe, Người phó mình cho Đấng xét xử công minh (1Petr 2, 23). Chúa Kitô phó thác mọi sự trong tay Chúa Cha. Người chịu đựng mọi nhục hình mà không hề than van và kêu trách. Người đã đi qua tất cả mọi chặng đường khổ đau dưới thế, nếm đủ mọi khổ cực cay đắng và đã hiến thân trọn vẹn để chuộc lại sự sống cho loài người. Chúa tiếp tục hiện diện giữa loài người để mong cầu sinh ích cho mọi tâm hồn. Lời Tin Mừng của Chúa có thể bị chế diễu, bị tẩy chay và chống đối, nhưng Chúa Kitô vẫn kiên nhẫn chờ đợi sự thay lòng đổi dạ của mỗi tâm hồn. Quí giá biết bao khi có một tâm hồn tội lỗi biết quay trở về đường ngay nẻo chính.

Điều kiện tiên quyết để bước vào cửa Nước trời là lòng ăn năn sám hối và trở về. Chúng ta là tín hữu rất hạnh phúc vì có lời Tin Mừng, có Giáo Hội, có cộng đoàn và có Chúa Kitô là mục tử tốt lành. Chúng ta đừng sợ hãi. Hãy đứng dậy, hướng về phía trước và can đảm tuyên xưng niềm tin vào Chúa Kitô sống lại. Chúng ta không còn bị bơ vơ lạc lõng, nhưng cùng sống chung trong một đàn chiên theo một Chúa Chiên: Xưa kia, anh em như những chiên lạc, nhưng giờ đây, anh em đã trở về cùng vị mục tử và Đấng canh giữ linh hồn anh em (1Petr 2, 25). Giá máu châu báu của Chúa sẽ không trở thành vô ích nhưng mang lại sự sống và sự sống thật.

Lạy Chúa, Chúa la Mục Tử Nhân Lành, xin chữa lành và tẩy sạch mọi vết nhơ trong tâm hồn chúng con. Xin dẫn đưa chúng con vào nguồn sống đích thực để cùng được chung hưởng hạnh phúc trường sinh bất diệt.

TA LÀ MỤC TỬ TỐT LÀNH
Ga 10, 1 - 10
Lm Bùi Quang Tuấn, CSsR

"Ta đến để chúng được sống và sống dồi dào" (Gn 10,10)
Chúa nhật 4 Phục sinh thường được gọi là Chúa nhật kính Chúa Chiên lành. Các bài đọc nhấn mạnh đến Chúa Giêsu như người Mục Tử nhân ái hằng chăm sóc lo lắng cho đoàn chiên, đến độ dám thí mạng để chiên "được sống và sống dồi dào".

Chúa nhật hôm nay cũng được gọi là Chúa nhật Ơn Thiên Triệu. Giáo hội kêu mời mọi người Kitô hữu hãy để tâm nâng đỡ, khuyến khích, và cầu nguyện đặc biệt cho ơn gọi, hầu có nhiều người can đảm dâng hiến đời mình cho sự sống phong phú của Dân Chúa.

Khi Giáo hội kêu mời giáo dân cầu nguyện cho Ơn Thiên Triệu là hàm ẩn trong đó một nhu cầu khẩn thiết. Không phải các nơi đã có đủ linh mục cho đoàn chiên; nhiều chỗ còn đang thiếu hụt, thậm chí thiếu hụt trầm trọng. Không phải các linh mục đều đã là mục tử tốt lành dám thí mạng như Đức Giêsu mong muốn; có người khô khan, đào ngũ, thậm chí còn giống như "kẻ chăn thuê hay trộm cướp."

Thế nên cần lắm thay những lời cầu nguyện trợ lực liên lỉ để các linh mục tu sĩ được trung thành, chân thành, và nhiệt thành hơn trong sứ mạng chăn dắt đoàn chiên của mình.

Mặc dầu linh mục là những con người được tác thánh để thuộc về Thiên Chúa và làm công việc của Ngài, họ vẫn mang trên mình thân phận con người với bao cảm xúc và suy nghĩ rất người, họ vẫn phải chiến đấu gian nan với bao thách đố khó khăn để đáp trả đến cùng ơn gọi, họ vẫn phải nỗ lực mỗi ngày để nên giống Đức Kitô hơn trong đời sống mục tử nhân lành. Thế nên một tâm tình mến yêu và xây dựng của người tín hữu sẽ như bàn tay khai mở cho dòng ơn thánh chảy tuôn tràn hơn lên trong cuộc đời linh mục.

Ơn gọi dấn thân là ơn gọi tuyệt đẹp. Hạt giống thiên triện là hạt giống vô cùng cao quí. Nhưng hạt giống ấy lại rất cần thời gian để nảy mầm và phát triển. Hạt giống càng được gieo vào tâm hồn sớm bao nhiêu càng có hy vọng trổ sinh hoa trái đúng mùa bấy nhiêu. Biết bao Kitô hữu bước vào đời sống linh mục hay tu sĩ vì đã nhận được hạt giống ơn gọi từ thuở ấu thơ. Những hình ảnh tốt lành thánh thiện của các vị chủ chăn, những khuyến khích hướng dẫn chân thành của ông bà cha mẹ, những việc làm dấn thân phục vụ của bao Kitô hữu đã hun đúc tâm hồn và chuẩn bị con em mình thành các tông đồ tương lai cho Nước Trời.

Tất nhiên những gương xấu của người có trách nhiệm, thái độ ngại khổ sợ khó của kẻ chăn thuê, lời nói hành vi quá khích với hàng mục tử, đều làm thui chột biết bao hạt giống ơn gọi cao quí trong tâm hồn tha nhân.

Người mục tử tốt lành phải cương quyết ngăn ngừa sói dữ giết hại đàn chiên. Người mục tử ấy sẽ "đi trước" và "chiên theo sau." Ơn gọi của người mục tử bao giờ cũng là ơn gọi trở nên gương mẫu như người "đi trước" cho chiên bước theo. Đây là một thách đố gay go đòi hỏi nhiều từ bỏ hy sinh. Nhưng nếu không dám "thí mình" chấp nhận thách đố sẽ không bao giờ trở thành mục tử tốt lành.

Có thí mạng cho chiên chứng tỏ mục tử có lòng thương chiên. Tình thường mầu nhiệm và cao cả này chỉ phát xuất từ cung lòng Thiên Chúa. Thế nên gắn bó với Thiên Chúa để đón nhận "Tình Yêu Mục Tử" phải là hành trình thường xuyên của người chăn chiên. Khi ham mê công việc mà bỏ bê đời sống nguyện cầu, người mục tử khó lòng thương yêu cho đúng nghĩa, nếu không phải là dễ rũ áo ra đi.

Thường khi nói tới "mục tư", người ta hay liên tưởng đến các giám mục, linh mục. Điều đó rất đúng. Nhưng trong chiều kích "bí tích Rửa tội", tất cả mọi Kitô hữu đều mang chức vị mục tử, và trong chiều kích thực tế cuộc sống thì mọi người đều là mục tử: cha mẹ là mục tử của con cái; thầy cô là mục tử của học sinh; ông chủ là mục tử của công nhân...

Đặc tính của người mục tử tốt không thuần túy ở nơi cung cấp cơm ăn, áo mặc, kiến thức, công việc, nhưng còn phải thông chuyển tình thương như sức sống dồi dào cho đoàn chiên; không chỉ giúp tăng trưởng thân xác nhưng còn phải làm phong phú tâm hồn. Song nếu đời mục tử không ngay chính, tâm hồn đầy u mê thì chiên sẽ nhận được điều chi?

Không thể nào cho đi điều tôi không có. Không có yêu thương, bình an, niềm vui, tôi chỉ có thể mang lại hận thù, bất an và u sầu. Nhưng để có được yêu thương và sự sống, tôi phải biết lắng nghe sự hướng dẫn của chính Chúa, chứ không phải của thế gian; bước theo lời dạy bảo của Giáo hội chứ không phải của đam mê trần tục.

Lạy Chúa, xin ban cho Giáo hội hôm nay có nhiều mục tử tốt lành, nhưng trước hết, xin ban cho các gia đình là những Giáo hội thu nhỏ có được các mục tử nhân ái và kiên trung.

CỬA CHUỒNG Ở ĐÂU?
Ga 10, 1 - 10
Lm Mark Link SJ

Chủ đề: "Hình ảnh mục tử nhân lành làm nổi bật mối tương giao và sự hiến thân của Chúa Giêsu cho mỗi người chúng ta."
Vào thời Chúa Giêsu, khi màn đêm buông xuống, các mục tử lùa đàn chiên của họ vào chuồng. Nếu ở gần làng, họ sẽ lùa chúng vào cái chuồng công cộng, còn nếu ở xa làng, thì họ sẽ lùa chúng vào một cái chuồng ở ngoài đồng hoặc đôi khi trong một cái hang. Các mục tử làm thế là để che chở bầy chiên khỏi sương đêm lạnh lẽo và khỏi lũ thú rừng. Trong bài Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu ám chỉ đến cả hai loại chuồng trên.

Phần đầu bài Phúc âm, Ngài ám chỉ đến loại chuồng làng công cộng, đặc biệt nhắc đến lúc sáng sớm, khi người mục tử đến chuồng làng công cộng nhận bầy của mình để dẫn chúng đi ăn cỏ suốt ngày, Chúa Giêsu nói: "Người giữ cửa sẽ mở cửa cho anh ta; chiên anh sẽ nghe tiếng anh khi anh gọi tên từng con một và dẫn chúng ra. Khi mang chúng ra rồi, anh đi phía trước, lũ chiên đi theo anh vì chúng nhận biết giọng nói của anh"

Phần sau của bài Phúc âm, Chúa Giêsu ám chỉ đến loại chuồng ở ngoài đồng đặc biệt Ngài nói đến lối vào chật hẹp trong chồng mà bầy chiên phải đi qua. Chúa Giêsu nói: "Ta là cửa chuồng chiên...... Ai bước qua Ta mà vào thì sẽ được cứu: người ấy sẽ vào, và ra, rồi tìm được đồng cỏ" Trong cuốn sách nhan đề The Holy Land (vùng đất thánh). John Kellman mô tả một cái chuồng chiên ngoài đồng như sau: nó có một bức từơng bằng đá chung quanh cao khoảng bốn bộ (cỡ 1m4) và một lối vào. Kellman kể rằng ngày nọ một du khách Thánh Địa đã trông thấy một cái chuồng chiên ngòai đồng gần Hebron. Anh du khách hỏi người mục tử đang ngồi cạnh đó: "Cửa chuồng của anh ở đâu? Người mục tử liền đáp: "Tôi chính là cửa chuồng". Đoạn người mục tử kể cho du khách nghe anh ta nằm chặn ngang lối vào chật hẹp đó. không có chú chiên nào có thể bỏ chuồng đi ra, và cũng chẳng có con thú rừng nào có thể đi vào mà không bước qua mình anh ta.

Có hai điều nổi bật trong câu chuyện dễ thương này. Thứ nhất là tính cách duy nhất ngày càng tăng lên giữa người mục tử và bầy súc vật của anh. Phần lớn đàn chiên được nuôi để lấy len. Một mục tử phải hiện diện với bầy chiên của mình 365 ngày một năm, và thường là đủ 24 giờ một ngày. Người mục tử phải biết rõ chiên mình đến mức phải biết con nào có móng mềm, con nào đau vì ăn bậy, con nào hay bỏ bầy chạy rông... Thứ hai là sự hiến thân sâu sắc của người mục tử cho bầy chiên, thậm chí liều mạng sống cho chúng.

Chính trong bối cảnh này, chúng ta có thể hiểu rõ hơn điều Chúa Giêsu mường tượng trong tâm trí khi Ngài nói: "Ta là mục tử nhân lành" (Ga 10: 11). Chúa Giêsu muốn nói rằng, mối tương giao và sự hiến thân của Ngài cho chúng ta tương tự như mối tương giao và sự hiến thân của người mục tử cho bầy chiên mình. giống như người mục tử. Chúa Giêsu luôn hiện diện với chúng ta 365 ngày mỗi năm, 24 giờ mỗi ngày. Ngài đã từng nói với các môn đệ: "Ta sẽ luôn ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28: 20).

Giống như người mục tử, Chúa Giêsu cũng biết rõ mỗi người chúng ta một cách thân mật sâu xa. Ngài biết ai trong chúng ta yếu kém về đức tin, ai trong chúng ta thường dễ ngã lòng, ai trong chúng ta thường hay bỏ bầy đi rông. Chúa Giêsu không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Ngài luôn luôn ở đó để giúp đỡ chúng ta. Và nếu lỡ chúng ta bỏ bầy đi rông thì Ngài sẽ bỏ lại 99 con chiên để đi kiếm chúng ta. Điều Thiên Chúa nói với dân riêng Ngài qua miệng tiên tri Isaia, cũng chính là điều Chúa Giêsu đích thân nói với mỗi người chúng ta : "Đừng sợ, Ta gọi ngươi bằng tên... Người rất quí báu đối với Ta... Đừng sợ ! này đây Ta ở với ngươi" (Isaac newton 43: 1, 4-5).

Bài Phúc âm hôm nay đặc biệt thích hợp cho ngày các bà mẹ. Giống như người mục tử, giống như Chúa Giêsu, một bà mẹ luôn có mối tương giao gần gũi sâu sắc với bầy con hoặc gia đình mình. không có gì mà bà mẹ không làm để bảo vệ cho bầy con khỏi cơn nguy hiểm. Và bà sẵn sàng đi đến bất cứ nơi nào để tìm kiếm đứa con lầm đường lạc lối. Tình yêu của một bà mẹ dành cho gia đình vẫn hoạt động ngay cả khi tự thân bà không thể bảo vệ cho bầy con của bà nữa.

Có câu chuyện thật dễ thương trong cuốn tự thuật của Jimmy Cagney, nam diễn viên nổi tiếng ở HollyWood. Câu chuyện xảy ra vào thời tuổi trẻ của Cagney khi mẹ ông đang nằm trên giường chờ chết. Chung quanh giường có 4 cậu con trai đều mang tên Cagney và cô em gái duy nhất của họ là Jeannie. Vì bị nhồi máu cơ tim, bà Cagney không nói được nữa. Sau khi lần lượt bá cổ cả năm đứa con, bà liền giơ cánh tay phải, cánh tay duy nhất còn hoạt động đựơc lên. Jimmy mô tả những gì xảy ra sau đó:

"Mẹ tôi dùng ngón tay chỉ Harry rồi chỉ vào ngón trỏ của bàn tay vô dụng của bà, sau đó chỉ tôi rồi chỉ vào ngón giữa, rồi chỉ Eddie rồi chỉ vào ngón áp út, chỉ Bill rồi chỉ vào ngón út, chỉ Jeannien rồi chỉ vào ngón cái. Đoạn bà cầm ngón cái để vào giữa lòng bàn tay, rồi áp chặt ngón cái dưới bốn ngón kia tụm lại. Sau đó bà dùng bàn tay còn khỏe vỗ nhẹ lên nắm đấm bàn tay trái" (James Cagney).

Jimmy nói rằng cử chỉ của mẹ ông thật tuyệt vời. Mọi người đều biết ý nghĩa của cử chỉ ấy tức bốn anh em có bổn phận che chở cho bé Jeannie sau khi mẹ họ qua đời. đó là một cử chỉ đẹp và đầy ý nghĩa mà không lời nào có thể diễn tả hay hơn.

Tôi vui mừng vì chúng ta có ngày dành riêng cho các bà mẹ để nhắc nhở chúng ta về bản chất của người mẹ và để nhắc nhở các bà mẹ về sứ vụ mà Chúa kêu gọi họ.

Tôi vui mừng vì ngày các bà mẹ trùng hợp với Chúa nhật hôm nay với những lời Chúa Giêsu nói về người mục tử. Bởi vì sự thân mật và sự hiến thân trọn vẹn của một bà mẹ cho gia đình mình là một phản ảnh hoàn hảo sự thân mật và hiến thân trọn vẹn của người mục tử cho bầy súc vật của anh. Và hơn tất cả, tình thân và sự hiến thân cho gia đình của một bà mẹ phản ảnh hoàn hảo tình thân mà Chúa Giêsu dành cho chúng ta.

Vì thế, chúng ta hãy hân hoan vui mừng và cầu xin cho ngày hôm nay sẽ kéo các thành viên trong gia đình gần lại với nhau hơn, đồng thời quí chuộng lẫn nhau hơn, đặc biệt đối với bà mẹ của họ.

ĐỨC GIÊSU, NGƯỜI CHĂN CHIÊN TỐT LÀNH
Ga 10, 1 - 10
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT
Hình ảnh người chăn chiên đang dẫn đàn chiên đi ăn cỏ trên các cánh đồng cỏ xanh tươi, hay đưa đàn chiên tới các dòng suối nước trong lành làm cho ta gợi nhớ tới xã hội Do Thái khi xưa, nhớ tới khung cảnh Chúa Giêsu sống trong đất nước Do Thái cách đây 2002 năm. Chúa Giêsu đã sinh ra và lớn lên ở đất nước Do Thái, nên Ngài đã được thừa hưởng nền văn hoá và quan niệm tôn giáo Do Thái vì thế Ngài đã dùng những dụ ngôn, những ví dụ rút ra từ những hoàn cảnh cụ thể của người Do Thái để dậy dỗ, giáo huấn các môn đệ và nhân loại. Chúa Giêsu đã dùng chính ngôn ngữ của người Do Thái, đã dùng những hình ảnh quen thuộc nhưng rất ấn tượng để nói lên một sứ điệp, một lệnh truyền hay để giới thiệu về chính Ngài. Hình ảnh người chăn chiên tốt lành là hiện thân của Ngài. Qua hình ảnh sống động, gợi cảm và hết sức ấn tượng của người chăn chiên can đảm, nhiệt thành, nhân từ, chạnh lòng thương xót, Chúa Giêsu muốn nói lên sứ mạng cứu thế của Ngài.

I. CHÚA GIÊSU LÀ MỤC TỬ VÀ LÀ CỬA CHUỒNG CHIÊN :
Xuyên suốt lịch sử dân Do Thái, Thiên Chúa luôn tự giới thiệu mình như là vị mục tử của dân Người Hình ảnh Đavít mà sách 1 samuen đoạn 17, câu 34 tới 36 diễn tả là hình ảnh tiên trưng của Chúa Giêsu trong Tân ước.Đavít chăn dắt đàn chiên, yêu thương từng con chiên một, Người sẵn sàng chống lại thú dữ khi chúng tấn công bầy chiên. Sau này, Đavít đã chiến thắng Golíat bằng một chiếc ná cao su, nhắm bắn ngay vào trán Golíat hung hăng, kiêu ngạo. Hình ảnh của một Đavít nhỏ bé, với tóc hoe vàng đã trở nên dũng mãnh, cao trọng khi Thiên Chúa cất nhắc Đavít lên làm vua,xức dầu phong vương để Đavít làm vua lãnh đạo dân Thiên Chúa. Hình ảnh mục tử còn được diễn tả cách tỉ mỉ, gẫy gọn khi tiên tri Ezékiel nhân danh Chúa nói lên: "...Ta,vị Chủ tể tối cao,Ta tuyên bố rằng...Ta sẽ tách bầy chiên ra khỏi các ngươi...Ta sẽ giao chúng cho một vì vua giống như Đavít tôi tớ ta để làm mục tử của chúng và Người ấy sẽ lo lắng chăm sóc chúng " ( Ez 34, 23 ). Vâng, chính Thiên chúa sẽ chọn cho mình những tôi tớ, những môn đệ cũng gọi là "mục tử " để Ngài trao cho họ trách nhiệm chăn dắt dân theo ý của Người. Tuy nhiên, vì các mục tử đã bị băng hoại, họ chỉ lo cho lợi ích riêng, tìm lợi nhuận cho mình và cho thân nhân, gia đình của mình, họ trở nên bất xứng với sứ vụ đã lãnh nhận, nên Thiên chúa đã sai các ngôn sứ loan truyền sẽ tới thời chính Đấng Thiên sai là Chúa Giêsu sẽ đến để lãnh đạo dân Người.

Chúa Giêsu đã tuyên bố với dân Do Thái: "Ta là mục tử tốt lành" ( Ga 10, 11 ).Ngài là hiện thân của Thiên Chúa,Người được Chúa Cha sai đến để yêu thương, chăm sóc, qui tụ mọi con chiên. Người biết tên từng con chiên như Cha Ngài biết Ngài ( Ga 10, 14-15 ). Ngài gọi tên từng con chiên và dẫn đi ( Ga 10, 3 ). Điều hết sức quan trọng là Ngài sẵn sàng hy sinh mạng sống vì chiên :"Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu " ( Ga 15, 13 ) hoặc " Khi nào Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta ". Chúa Giêsu đã chứng tỏ Ngài là vị mục tử tốt lành, vị chủ chăn không bao giờ hèn nhát thấy sói tấn công chiên mà bỏ trốn, nhưng Ngài luôn cứu vớt, tập họp, chăn dắt ( Ga 10, 9 và 16 ).

Khi minh định Ngài là cửa chuồng chiên, Chúa Giêsu muốn khẳng định rằng bất cứ con chiên nào không qua Ngài không thể tới Chúa cha được. Dân Thiên Chúa phải đi qua cửa duy nhất là Đức Giêsu. Đi qua Ngài, dân Chúa mới có tự do và đạt được cuộc sống viên mãn. Bước qua ngưỡng cửa là Đức Giêsu, dân Chúa hay con người mới

nhận được ơn cứu độ, sự sống mới, sự sống sung mãn Chúa ban cho. Ngoài Chúa Giêsu, nghĩa là không bước qua cửa chuồng chiên, con người không có sự sống dồi dào. Như vậy, người chăn chiên đích thực nào cũng phải ngang qua Chúa Giêsu, vì Ngài là hàng rào bảo đảm sự an bình, an toàn cho chiên của Ngài. Kẻ nào không ngang qua Ngài, chiên sẽ không biết, không nghe và không theo kẻ đó vì họ là kẻ lường gạt, trộm cắp.

II. CÁC MỤC TỬ PHẢI NOI THEO GƯƠNG VỊ MỤC TỬ DUY NHẤT LÀ ĐỨC KITÔ.
Chúa Giêsu phục sinh vẫn hiện diện với nhân loại, Người không còn có mặt bằng xương bằng thịt như trước nữa, nghĩa là không còn như lúc Người sống với các tông đồ, cùng ăn, cùng làm cùng chia sẻ những ưu tư, suy nghĩ. Nay, Chúa đã chịu chết, đã phục sinh, Người là Đấng vô hình dù rằng Chúa Giêsu vẫn còn mang dấu tích của cuộc thương khó. Đời sống cụ thể của nhân loại cần phải có sự dìu dắt, chăm sóc cách hữu hình. Sứ mạng ấy, chúa phục sinh đã trao cho Hội Thánh. Phêrô là vị tông đồ, Chúa trao làm nền tảng của Giáo Hội sau lời tuyên tín đầy sáng suốt của Phêrô mà Chúa nói là do Chúa Cha mạc khải ( Mt 16, 18 ). Thánh Gioan nhấn mạnh thêm khi Phêrô thưa ba lần với Chúa rằng Ong yêu mến Chúa, Chúa trao trách nhiệm chăm sóc đàn chiên, chăm sóc Giáo Hội của Chúa ở trần gian ( Ga 21, 15-17 ).Tuy nhiên khi trao sứ mạng nặng nề, cao quí cho Phêrô và các tông đồ, Chúa muốn các Ngài trở nên những kẻ hầu hạ,những người phục vụ ( Mc 10, 41-45 ). Chúa nhấn mạnh : "Hãy học cùng ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng ". Hiền lành và khiêm nhượng là đức tính căn bản, tối cần của các mục tử Chúa Kitô. " Người chăn chiên tốt chính là Ta "( Ga 10, 14 ).Các vị mục tử phải là những người gắn bó mật thiết với Chúa Kitô, nghe tiếng Người, giảng dậy, cắt nghĩa giáo lý, chân lý của Người. Hình ảnh người chăn chiên cầm tù và, thổi tụ họp đàn chiên, mệt lả vác chiên lạc trên vai khi tìm thấy, luôn phải là hình ảnh sống động của các mục tử Chúa, đang nối tiếp sứ vụ của Chúa phục sinh giữa trần gian này. Đức tính căn bản của người mục tử tốt lành là tình yêu tự hiến của Chúa Giêsu,một tình yêu luôn ước ao và chờ đợi con người đáp trả.

III. MỖI NGƯỜI CHÚNG TA ĐỀU CÓ MỘT ƠN GỌI PHẢI ĐÁP TRẢ VÀ ĐƯỢC KÊU MỜI TRỞ NÊN NGƯỜI CHĂN CHIÊN TỐT LÀNH :
Là người Kitô hữu,chúng ta có Đức Kitô là Vị Mục Tử duy nhất luôn muốn qui tụ tất cả về đoàn chiên duy nhất của Người, nghĩa là không phân biệt dân được tuyển chọn hay dân ở ngoài lề. Ngài muốn tụ họp tất cả vào Giáo Hội của Ngài, Ngài muốn ban ơn cứu rỗi cho mọi người dù họ là dân ngoại hay dân của chúa. Chúa Giêsu là hiện thân của Thiên chúa Cha luôn kéo mọi người về với Ngài, dẫn mọi người thành tâm thiện chí về đồng cỏ xanh để mọi người có thể nhận ra tiếng của Ngài.

Trong thánh lễ sáng nay, thánh lễ dành riêng cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, tu sĩ chúng ta ý thức rằng mỗi người chúng ta phải nhiệt thành cầu nguyện cho các mục tử Chúa luôn noi gương bắt chước Chúa là mục tử mẫu mực, lý tưởng. Vị mục tử can đảm,nhân hậu, đầy lòng trắc ẩn hay rộng tình thương xót, vị mục tử thánh thiện, hoàn hảo, chân thành, luôn kết hợp mật thiết với Thiên chúa cha và mọi người, vị mục tử đầy tình yêu, tình yêu bền bỉ, vững chắc, yêu cho đến cùng ( Ga 15, 13 ).Và như thế,chính chúng ta cũng được mời gọi đáp trả lại tình yêu vô biên của vị mục tử tốt lành, đồng thời ta cũng được kêu mời học hỏi và tập những đức tính cao đẹp, quí báu nhất của Đức Kitô nhân hậu và trở nên muôn người như một thành những vị mục tử tốt Như Chúa Giêsu.

Chúng ta có thể cùng với tác giả thánh vịnh 23 ca ngợi và hướng về trời cùng cất tiếng ca : "Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi. Trên đồng cỏ xanh rì,Ngài cho tôi nằm nghỉ ...Chúa là mục tử tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi". Đồng thời, chúng ta cảm nghiệm rằng sứ điệp cao cả, sứ điệp cứu độ Chúa Giêsu muốn loan báo cho nhân loại, cho mọi người : "Thiên Chúa yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy,Thiên Chúa sai con của Người đến thế gian,không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ". ( Ga 3, 16-17 ).

Vâng, sứ mạng chúa trao phó cho Giáo Hội là qui tụ, cứu vớt mọi người như chúa Giêsu Kitô đã làm. Sứ mạng ấy sẽ mang lại kết quả tốt đẹp nếu mỗi người chúng ta biết qui tụ, phục vụ như Chúa Giêsu là Đấng chăn chiên nhân hậu.

NGƯỜI MỤC ĐỒNG
Ga 10, 1 - 10
Lm Nguyễn Ngọc Long

Hình ảnh cậu bé chăn cừu, chăn trâu, chăn bò, canh bầy vịt ngoài đồng là hình ảnh quen thuộc trong xã hội, trong dân gian, đôi khi còn là hình ảnh thơ mộng trong thi ca, văn chương. Nhất là hình ảnh mục đồng chăn chiên, bò, lừa đóng vai trò quan trọng trong khung cảnh ngày lễ Thiên Chúa Giáng Sinh làm người (Lc 2,1-20).

Hình ảnh người chăm sóc đàn súc vật ngoài đồng là hình ảnh thật đẹp, phác họa tình liên đới giữa người và đàn vật, và cũng nói lên sự cần thiết hỗ tương giữa hai bên.

Mối tương quan giữa mục đồng và đàn súc vật có thể phân biệt làm hai: Một người chăm sóc chúng với chủ đích lấy lông, lấy da bán làm đồ quý giá đắt tiền; và một người với chủ tâm nuôi súc cho béo tốt, để bán thịt. Súc vật cần cho cuộc sống kinh tế. Và con người cũng đóng vai trò quan hệ trong việc làm cho súc vật có giá trị kinh tế.

Còn mối tương quan giữa con người với nhau thì sao? Không còn gì thất vọng buồn thảm, nhẫn tâm hơn nữa, nếu một người cảm thấy mình bị bỏ rơi, khi không còn mang lại lợi ích gì cho người khác nữa, hay đã bị lợi dụng vào mục đích tư lợi ích kỷ!

Ai là người cũng có khát vọng được kính trọng yêu mến, được nhìn nhận có giá trị, được trọng dụng. Nếu những khát vọng căn bản này không được đáp ứng, hay bị khinh miệt, con người sẽ rơi vào tình trạng bị khủng hoảng tinh thần, đến độ thành người bệnh hoạn cả tâm thần lẫn thể xác.

Chúa Giêsu ví mình là "mục đồng" chăm sóc đời sống con người. Ngài không làm việc này với chủ đích kinh tế, bán lông, bán thịt. Ngài là người "mục đồng" để ý đến đời sống của con người. Ngài chăm sóc đến những nhu cầu căn bản của đời sống: an vui, hạnh phúc trong tâm hồn, đời sống được no đủ, được bảo vệ: "Ta là mục đồng tốt lành, ta biết chiên của ta, và các chiên của ta biết ta... Ta hy sinh đời sống ta cho đoàn chiên." (Ga 10,14-15)

1. Đi dự tiệc cưới thành Kana, đang bữa ăn chủ nhà hết rượu đãi khách. Rượu là một yếu tố quan trọng cho ngày Vui, ngày cưới của đôi tân hôn. Biết như thế, Ngài thông cảm với họ lúc khó khăn, liền làm phép lạ biến nước thành rượu ngon, và tặng họ dư thừa. Ngài đã cứu danh dự cho đôi tân hôn và gia đình hai bên. Ngài đem đến cho họ sự sống và niềm Vui. (Gioan 2,1-12)

2. Trên đường truyền giáo rao giảng về nước Thiên Chúa, Ngài ra tay cứu độ chữa lành những người bị bệnh phong cùi (Mc 1,40-45), bị tàn tật không đi đứng được (Mc 2,1-12;10,46-52;Gioan 9,1-12), bị câm điếc (Mc 7,31-37;9,14-29). Ngài mang lại cho họ sức khỏe, niềm an vui. Phục hồi danh dự, nhân vị bị tàn héo vì do bệnh tật gây ra, và bị bỏ rơi khinh miệt.

3. Người phụ nữ phạm tội ngoại tình bị bắt, và theo luật xã hội bị kết án ném đá, nhưng người "mục đồng" Giêsu không lên án chị ta. Trái lại Ngài đối xử với chị với tấm lòng bao dung, nhân bản. Ngài ban ơn tha thứ những tội lỗi chị đã vấp phạm. Lời ban ơn tha thứ của Ngài mang lại cho chị niềm hy vọng, trả lại nhân vị sống làm người. Ngài đã cứu đời chị. (Gioan 7,53-8,11).

Chúa Giêsu tự nhận: "Ta là người mục đồng tốt lành" (Gioan 10,11). Lời xác quyết này muốn nói lên: "Tôi quan tâm đến đời sống tâm hồn con người. Nỗi băn khoăn lo âu đè nặng tâm hồn họ, là băn khoăn của tôi. Tôi muốn giúp họ thoát khỏi gánh nặng nầy." Và tên Giêsu có nghĩa: Thiên Chúa, Đấng chữa lành, Đấng cứu độ, Đấng làm mọi sự nên hoàn chỉnh.

Chúa Giêsu là Mục đồng chăm sóc đời sống con người. Ngài không nhắm đến lợi nhuận, nhưng quan tâm đến nhân vị của họ.

Những người Tin theo Ngài, là môn đệ của Ngài, cũng phải sống là nhân chúng cho lòng bao dung tha thứ. Mang bình an, niềm Vui, niềm Hy vọng đến cho đồng loại.

CHÚA CHIÊN CỦA TÔI
Ga 10, 1 - 10
Lm John Vũ Nghi, CMC

Mấy năm trước đây, một bé gái 5 tuổi được đưa vào viện mồ côi. Mấy ngày trước đó, bố mẹ của em đã cãi vã với nhau, rồi bố em đã bắn chết mẹ em, rồi quay súng lại mà tự vẫn. Tất cả xảy ra trước sự chứng kiến của em. Đến ngày Chúa Nhật sau đó, em được đưa đến Nhà thờ Công Giáo để tham dự thánh lễ và sau đó, dự lớp Giáo lý. Vì sợ cô giáo không hiểu hoàn cảnh của em, người coi sóc viện mồ côi đã phải căn dặn cô giáo: Bố mẹ của em là người vô thần, nên chắc chưa bao giờ bé được nghe về Thiên Chúa, vì vậy, xin cô giáo nhẫn nại với em. Trong buổi học đầu, cô giáo đã giơ cao một bức hình Chúa Giêsu và hỏi cả lớp: "Có em nào biết đây là ai không?" Cô bé giơ tay trả lời: "Em biết, đó là người đã ôm em vào lòng sau khi ba má em chết."

Câu chuyện của em bé trên đây chỉ là một trong ngàn vạn câu chuyện thương tâm khác đang xảy ra trong xã hội ngày nay. Chồng giết vợ, mẹ giết con, con giết bố mẹ, bạn bè thanh toán nhau, nhân công ám hại nhau, là những mẩu tin chúng ta thường đọc thấy trong báo hằng ngày. Trong những ngày tháng gần đây, nạn khủng bố đã gây tang tóc thương đau cho biết bao gia đình. Những lá thư hăm dọa đã khiến cho con người sống trong lo sợ. Quân khủng bố đã bất chấp thủ đoạn khi hành động. Tháng Giêng vừa qua tại Do Thái, lần đầu tiên một phụ nữ đã nổ bom tự sát để giết người. Sau đó, người ta tìm ra chị ta là một trong những nhân viên cứu thương của thành phố. Hôm trước cứu người; hôm sau giết người. Thật là khó hiểu. Hơn nữa, họ còn coi đây là thánh chiến. Lắm lúc nghĩ cũng thấy buồn. Ba tôn giáo lớn trên thế giới: Kitô giáo, Hồi giáo, Do thái giáo cùng tôn thờ một Thiên Chúa của tổ phụ Abraham, thế mà đã mười mấy thế kỷ chém giết nhau. Con cháu tổ phụ Abraham ngày nay đã đông như sao trên trời như cát dưới biển, đúng như Lời Chúa đã hứa, nhưng tiếc thay con cháu tổ phụ lại cắn xé nhau, để rồi gây tan tác cho đoàn chiên của Chúa.

Khi xưa, Chúa Giêsu sống trong một xã hội tuy không hận thù khủng bố, nhưng cũng mang đầy những thù ghét, chia rẽ, kỳ thị và bất công. Những người Samaritanô, tuy cũng mang giòng máu Do thái, nhưng lại bị người Do thái coi là dân ngoại; những người thu thuế bị coi là người tội lỗi, nên tuyệt đối bị những người "ngoan đạo" xa tránh; những người phong cùi bị đuổi ra sống bên ngoài xã hội. Đứng trước thảm trạng đó, Chúa Giêsu đã đến và đã ví mình như gà mẹ túc con dưới cánh để bảo vệ và vỗ về. Chúa đã tỏ tình thương và mối quan tâm đặc biệt đối với những người tội lỗi, nghèo khó, bệnh tật, những người sống bên lề của xã hội. Chúa cũng ví mình như một Chủ Chiên đến để qui tụ đoàn chiên đã bị chia ly phân tán, và để đem lại sức sống và niềm hy vọng cho đoàn chiên: "Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào."

Với hiện trạng của thế giới, Lời Chúa vẫn còn mang một ý nghĩa đặc biệt cho con người ngày nay. Thật vậy, Chúa Giêsu, Chúa Chiên của chúng ta, đã đến để chúng ta được sống, nhưng không phải sống trong chán chường tẻ lạnh, một cuộc sống vô nghĩa. Chúa đến là để chiên của Ngài được sống một cách dồi dào, nghĩa là một cuộc sống đầy yên vui, an bình, và yêu thương. Đó là điều Chúa đã hứa ban cho mỗi người chúng ta, và Ngài đã và đang thực hiện lời hứa của Ngài nơi những con chiên đáp lại lời mời gọi của Ngài và vâng theo sự hướng dẫn của Ngài.

Với tình thương bao la của người, Chúa đã đến kêu gọi mỗi người chúng ta hãy tiến bước theo Ngài, hãy nhập đoàn chiên của Ngài. Đây không phải là lời mời gọi một cách chung chung, nhưng là lời mời có tính cách cá nhân và trực tiếp. Cũng như ngày xưa Chúa đã đến gặp Nicôđêmô, Giakêu, Matthêu, người đàn bà Samaritanô bên bờ giếng Giacob, và người bất toại bên bờ Bếtsaiđa, thì ngày nay Chúa cũng vẫn còn đến để phù trợ, chữa lành, gặp gỡ, hướng dẫn, và chỉ bảo chúng ta trong cuộc sống. Ngài ban Thánh Thần của Ngài cho chúng ta để an ủi, nâng đỡ, giúp sức, và sự khôn ngoan, để chúng ta có đủ sức đối diện với mọi khó khăn trong cuộc đời. Qua Lời Chúa và các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, Ngài bảo vệ và ban ơn giúp chúng ta thoát khỏi nanh vuốt của thần dữ, như những kẻ trộm, đang bày trò hãm hại chúng ta. Và những khi chúng ta vấp ngã, qua Bí tích Xá giải, Ngài sẵn sàng ôm chúng ta vào lòng để tha thứ yêu thương, như người cha nhân lành đối xử với đức con phung phá.

Ước chi chúng ta hãy đáp lại lời mời của Ngài. Hãy luôn nhận Ngài là Chúa Chiên của mình và luôn tin tưởng vào sự hướng dẫn phù trợ của Ngài. Có Chúa ở cùng, cho dù bất cứ điều gì xảy ra, tâm hồn chúng ta vẫn tìm được sự bình an. Không phải là chúng ta sẽ hết phải đau khổ, nhưng vì chúng ta có Chúa là sức mạnh và là nguồn ủi an cho chúng ta, nên không gì lấy mất đi niềm hy vọng và sự bình an trong tâm hồn chúng ta được. "Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi. Dù bước đi trong thung lũng tối, tôi sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng tôi" (Tv 23)

CHÚA GIÊSU LÀ CỬA RÀN CHIÊN
Ga 10, 1 - 10
Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb
Ngay sau khi chữa cho anh mù từ thưở mới sinh được sáng, Chúa Giêsu liền giới thiệu Người chính là Cửa ràn chiên, là Mục tử nhân lành. Điều này không có gì lạ. Lý do là bởi vì, anh mù kia đã không được những người Pharisêu - vốn được xem là chủ, là lãnh đạo- chăm sóc; trái lại, còn hắt hủi, trục xuất anh ra khỏi cộng đoàn; thì nay, Chúa Giêsu đã đưa anh về, băng bó, chăm sóc và chữa chạy bệnh tật cho anh. Chính vì thế, cách gián tiếp, thánh sử Gioan không chỉ cho thấy Chúa Giêsu chính là Cửa ràn chiên, là Vị mục tử nhân lành mà còn cho biết ai là kẻ chăn thuê chăn mướn đoàn chiên.

Chúng ta biết miền Paletine là nơi dân chúng nuôi chiên rất nhiều. Mỗi một đàn chiên được chăm sóc bởi một hay vài chủ chiên tuỳ theo số lượng nhiều hay ít. Vì chiên là loài vật hiền lành, rất dễ bị thú dữ ăn thịt hoặc bị trộm cướp và do không thể làm chuồng trại kiên cố cho từng đàn chiên nên các chủ chiên ban ngày dẫn chiên đi ăn, đêm về thường gửi chúng vào trong một trại lớn được gọi là ràn, có tường bao bọc kiên cố và có người canh gác cho an toàn.

Chính vì cách bố trí này nên chúng ta thấy ràn chiên và cửa ràn chiên chiếm một vị trí rất quan trọng. Thật vậy, chỉ có một ràn chiên và chỉ có một cửa chiên, còn mục tử và đàn chiên thì nhiều. Lẽ dĩ nhiên sẽ không có gì phải bàn nếu như các mục tử cứ đường đường chính chính bước qua cửa mà vào để dẫn dắt đàn chiên mình. Nhưng vì có những mục tử giả, tức là những kẻ trộm kẻ cướp, muốn bắt chiên để thịt nên thực tế đã có nhiều kẻ trèo qua lối khác mà vào hòng lôi kéo chiên về với mình. Cũng may, chiên là loài vật rất nhậy cảm với tiếng chủ, nên ngoài đồng cỏ hoặc ở trong ràn, chúng có thể đi tứ tán để kiếm ăn hoặc nghỉ ngơi, nhưng khi nghe tiếng gọi của chủ, ngay lập tức chúng chạy về, ngoan ngoãn bước theo chủ.

Như thế, vị mục tử có một sứ mệnh rõ ràng, là chăn dắt đàn chiên, lo lắng và chăm sóc cho chiên, tự do ra vào cửa ràn chiên mà không sợ người canh giữ. Người mục tử đưa chiên qua cửa để chiên được nghỉ ngơi bồi dưỡng và đồng thời bước qua cửa đó để cùng đàn chiên đến đồng cỏ xanh tươi, đến suối mát trong lành. Cánh cửa đó như có phép mầu khiến cho tất cả mục tử và đàn chiên đều cảm thấy an bình thư thái, nhưng ngược lại, cũng khiến cho những kẻ không qua cửa đó đều trở nên đầu trộm đuôi cướp, không đáng để chiên bước theo. Chúa Giêsu tự ví mình là Cửa cho chiên ra vào- nơi mà ở đó, cả chủ chiên và chiên đều cảm nếm được nguồn bình an đích thực. Vâng, Chúa Giêsu chính là Cửa ràn chiên. Và Người hứa rằng, tất cả những ai bước qua cửa ấy đều được no đầy ân sủng, lương thực và sự sống đời đời.

Chúng ta thấy gì qua hình ảnh Chúa Giêsu là "Cửa ràn chiên cho chiên được ra vào"? Đây là hình ảnh thật tuyệt vời, là bài học quý giá cho tất cả chúng ta. Theo đó, bước qua Cửa ràn chiên, tức là kinh qua Lời giáo huấn của Chúa Giêsu đã dạy; bước qua Cửa ràn chiên là bước theo con đường Người đã đi trong tình yêu và vâng phục; bước qua Cửa ràn chiên cũng chính là bước qua Khổ nạn thập giá mà Người đã chấp nhận; cuối cùng, bước qua Cửa ràn chiên cũng chính là bước đến vinh quang- nơi Chúa Cha ban tặng triều thiên sự sống. Như thế đã rõ, những ai không đi qua Cửa ấy, tức là những người xa rời Thiên Chúa, đi ngược lại giáo huấn của Chúa Giêsu và sống bất chính sẽ được xem là những mục tử bất lương, trèo tường trộm cướp.

Chúa Giêsu là Cửa ràn chiên. Điều đó thật hiển nhiên. Chúng ta cầu nguyện cho Giáo hội, cầu nguyện cho các vị mục tử và cũng cầu nguyện cho chính chúng ta nữa được bước đi, bước qua và bước đến với Chúa Giêsu trong tình yêu dâng hiến, chấp nhận hy sinh và tận hưởng nguồn sung mãn vinh quang.

CHỦ CHĂN TỐT LÀNH
Ga 10, 1 - 10
Lm. Giacôbê Phạm văn Phượng, OP.

Hình ảnh chuồng chiên là một hình ảnh rất quen thuộc đối với người dân sinh sống tại vùng đất Pa-lét-tin thời Chúa Giêsu. Đó là những dải hàng rào chắc chắn được quây lại theo hình vuông hay hình chữ nhật với một cửa ra vào duy nhất. Cứ chiều đến, các chủ đoàn chiên lùa chiên vào chuồng qua cửa duy nhất này, rồi trao phó việc canh giữ chuồng chiên cho những người được thuê mướn làm công việc này. Sáng sớm hôm sau, các chủ đoàn chiên lại đến để đưa chiên ra khỏi chuồn đi ăn nơi những đồng cỏ. Chuồn chiên là nơi bảo vệ an toàn cho đoàn chiên.

Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc này khi so sánh Ngài với cửa chuồn chiên và với người chăn chiên tốt lành để mạc khải lòng yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa đối với con người nói chung, và nhất là sự chăm sóc bảo vệ của Ngài đối với những ai tin nhận Ngài nói riêng, vì Ngài là Mục tử tốt lành. Thế nào là một mục tử tốt lành ? Chính Chúa Giêsu đã phát họa bằng ba vẻ đẹp :

Ân cần chăm sóc các chiên của mình :Vẻ đẹp này đã được diễn tả bằng hình ảnh một người thanh niên đang chăn chiên trên một cánh đồng lớn, có những cỏ non xanh, có những giòng suối mát, và người thanh niên ấy vác trên vai một con chiên đau bệnh. Sự chăm sóc của Chúa Giêsu mục tử đó là một vẻ đẹp có sức hấp dẫn.

Sẵn sàng hy sinh, liều mạng cho đoàn chiên : vẻ đẹp này thường được diễn tả bằng hình ảnh con bồ nông mẹ, nhỏ từng hạt máu của mình vào miệng những đứa con non nớt để nuôi dưỡng chúng cho đến hạt máu cuối cùng rồi lăn ra chết. Mẹ chết để cứu đoàn con. Sự hy sinh của Chúa Giêsu mục tử là một vẻ đẹp có sức đánh động những trái tim khô cứng.

Hiểu biết từng con chiên mình : Vẻ đẹp này đã được diễn tả bằng hình ảnh một người cha ôm hôn đứa con ngỗ nghịch trở về. Bởi vì mắt cha nhân từ, hiểu biết sự yếu đuối dại khờ, nông nổi của đứa con, và hiểu thiện chí tối thiểu của đứa con mình. Đây là một vẻ đẹp phản ảnh tình yêu cứu độ của Chúa.

Ba vẻ đẹp trên đây đều nói lên vẻ đẹp duy nhất của Thiên Chúa, đó là tình thương xót. Tình thương xót là chân dung của Chúa, và dung mạo của Chúa, là khuôn mặt của Chúa.

Vì thế, khi so sánh mình với người mục tử tốt lành, Chúa Giêsu muốn cho mọi người hiểu rằng : Ngài chính là tiêu chuẩn, là mẫu mực để xác định sứ mạng đích thực của những người được gọi và tuyển chọn cộng tác với Ngài trong sứ mạng coi sóc đoàn chiên là cộng đoàn những kẻ tin Chúa. Những người được chọn cho sứ mạng chăn dắt đoàn chiên nếu không vào qua cửa là Chúa Giêsu thì không phải là những chủ chăn đích thực. Nói rõ hơn, những chủ chăn đích thực phải được chính Chúa tuyển chọn.

Điều này đã được thực hiện từ khi Chúa thiết lập Giáo Hội cho đến ngày nay, như Công Đồng Vaticanô II, trong hiến chế về Giáo Hội đã tuyên bố : "Chúa Giêsu đã chọn các tông đồ và Ngài muốn các người kế vị, tức là các giám mục, làm chủ chăn trong Giáo Hội cho đến tận thế". Nhưng để chức giám mục được duy nhất và không bị phân chia, Chúa đã đặt thánh Phêrô làm thủ lãnh các tông đồ khác. Vì thế các Đức Giáo Hoàng là những người kế vị thánh Phêrô là thủ lãnh hữu hình của toàn thể Giáo Hội. Như vậy, quyền bính trong Giáo Hội được Chúa trao phó cho Đức Giáo Hoàng, Đấng kế vị thánh Phêrô, và các giám mục kế vị các tông đồ. Tuy nhiên, gần gủi chúng ta hơn cả còn có các linh mục, là những cộng tác viên đã được các giám mục ủy quyền chăm sóc đoàn chiên.

Do đó, chúng ta thấy sự tương quan giữa chúng ta và hàng giáo phẩm, tức là giữa đoàn chiên và các vị chủ chăn : qua linh mục chính xứ, chúng ta liên hệ với giám mục giáo phận. Qua Đức Giám Mục, chúng ta liên hệ với Tòa Thánh, với Đức Giáo Hoàng. Như vậy, linh mục là người thi hành nhiệm vụ chủ chăn trực tiếp với chúng ta, là người sống gần gũi chúng ta, đáng cho chúng ta thông cảm, chia sẻ, cộng tác và cầu nguyện cho các ngài.

Hy vọng rằng sự liên lạc mật thiết giữa giáo dân và chủ chăn sẻ đem lại rất nhiều lợi ích cho Giáo Hội. Nhờ sự liên lạc đó giáo dân ý thức trách nhiệm của mình hơn, lòng hăng say được phát triển và góp sức dễ dàng hơn vào công việc của chủ chăn. Phần chủ chăn, nhờ giáo dân, có thể phán đoán minh bạch và đúng đắn hơn về những vấn đề thiên liêng cũng như trần thế. Như vậy, toàn Giáo Hội được vững mạnh và càng ngày càng tốt đẹp hơn.

CHÚA CHIÊN LÀNH
Ga 10, 1 - 10
Lm Trần Thanh Sơn

Dựa vào các bài đọc trong phụng vụ Lời Chúa, Chúa nhật IV Phục Sinh hôm nay được gọi là "Chúa nhật Chúa Chiên lành". Đấng Chăn Chiên Lành đó chính là Đức Kitô, một vị Mục Tử sẵn sàng hy sinh mạng sống cho đoàn chiên. Toàn bộ Lời Chúa hôm nay sẽ cho chúng ta thấy rõ khuôn mặt của Đức Kitô. Ngài là vị Mục tử nhân lành của tất cả chúng ta, của ông bà anh chị em và của tôi. Đồng thời, khi chiêm ngắm khuôn mặt của Đức Giêsu Mục tử, Giáo Hội cũng mời gọi chúng ta dành ngày Chúa Nhật hôm nay để cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục, tu sĩ, với ước mong, trong Giáo Hội ngày càng có nhiều "vị mục tử như lòng Chúa mong ước" (x. Pastores dabo vobis).

1. ĐỨC GIÊSU, VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH :
Trước hết, chúng ta cùng trở lại với các bài đọc để chiêm ngắm hình ảnh Đức Giêsu, Vị Mục tử nhân lành. Khi nhận mình là người mục tử được Thiên Chúa sai đến để dẫn dắt dân Người, Đức Giêsu đã dẫn đưa thính giả của Ngài đến một hình ảnh rất gần gũi và quen thuộc đối với dân Do-thái, vốn sống bằng nghề du mục. Đất nước Do-thái nằm trong một vùng đất bán sa mạc, nên các đồng cỏ không nhiều. Do đó, người mục tử thường phải cho chiên đi ăn ở những nơi rất xa, có khi hàng tuần lễ, hoặc cả mấy tháng trời mới về nhà. Trong thời gian cho chiên đi ăn, người chăn chiên coi như "cùng ăn, cùng ở" với chiên. Mối tương quan giữa họ và chiên thật thân thiết. Người mục tử chân chính biết rõ từng con chiên của mình và chiên cũng biết tiếng của họ. Họ gọi chiên của mình và chiên đi theo tiếng gọi của chủ. Có con nào bị lạc, họ liền đi tìm, con nào bị thương tích, họ hết lòng cứu chữa, và để giúp những con chiên nhỏ, yếu đuối đi kịp với cả đàn chiên, người mục tử cũng không ngần ngại vác chiên lên vai của mình.

Chính trong những tâm tình đó, Đức Giêsu đã tự ví mình là "cửa ràn chiên", là "mục tử tốt lành" được Chúa Cha sai đến để bảo vệ, gìn giữ và chăm sóc cho đàn chiên là toàn thể nhân loại. Ngài nói: "Ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên... và chiên nghe theo tiếng người ấy... Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra". Và quả thực, là người mục tử đích thực, Đức Giêsu biết rõ từng con chiên một. Ngài không chỉ biết con người bên ngoài, nhưng biết rõ tận cõi thâm sâu của từng người chúng ta. Ngài biết rõ từng nỗi ưu tư, từng nỗi băn khoăn lo lắng của chúng ta. Ngài cũng biết rõ lòng nhiệt thành cũng như những yếu đuối của chúng ta. Cảm nghiệm điều này, tác giả Thánh vịnh đã kêu lên: "Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả. Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết" (Tv 139, 1-4).

Không chỉ biết rõ, Người Mục tử nhân lành còn hết lòng chăm sóc để đàn chiên của mình không bị thiếu thốn, nhưng luôn được no thỏa, như lời Thánh vương Đavít trong bài đáp ca: "Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi, trên đồng cỏ xanh rì Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng".

Mặt khác, là người Mục tử tốt lành, Đức Giêsu còn sẵn sàng hy sinh mạng sống mình, để bảo vệ đàn chiên khỏi sự tấn công của kẻ thù. Ngài đã chấp nhận đi trọn con đường khổ giá trước, để chúng ta bước theo sau Ngài, đúng như lời Ngài đã nói trong bài Tin mừng: "Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau". Đức Giêsu đã đi trước và đi trọn vẹn con đường thập giá, để đem lại cho mỗi người chúng ta một sự sống mới, như lời thánh Phêrô trong bài đọc hai: "Đức Kitô đã chịu đau khổ cho chúng ta, ... Bị phỉ báng, Người không phỉ báng lại; bị hành hạ, Người không ngăm đe; Người phó mình cho Đấng xét xử công minh; chính Người đã gánh vác tội lỗi chúng ta nơi thân xác Người, trên cây khổ giá, để một khi đã chết cho tội lỗi, chúng ta sống cho sự công chính; nhờ vết thương của Người, anh em đã được chữa lành".

Như thế, với sự hiến thân mình làm hy lễ đền tội dâng lên Chúa Cha, Đức Giêsu đã thực sự chứng tỏ mình là Người Mục Tử nhân hậu, được Chúa Cha đã sai đến, để nhờ Ngài, mỗi người chúng ta "được sống và sống dồi dào".

2. LỜI MỜI GỌI GIA NHẬP VÀO ĐOÀN CHIÊN CỦA ĐẤNG PHỤC SINH :
Đức Giêsu chính là vị Mục Tử nhân hậu đến trong thế gian, chấp nhận hiến thân mình, để "thâu họp con cái Thiên Chúa tản mác về lại làm một" (Ga 11, 52). Xác tín điều đó, sau ngày lễ Ngũ Tuần, thánh Phêrô đã lớn tiếng kêu gọi: "Anh em hãy ăn năn sám hối, và mỗi người trong anh em hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để được tha tội". Còn trong bài đọc hai, thánh nhân đã so sánh chúng ta, là những kẻ tin vào Đức Kitô, như những con chiên lạc, giờ đây đã trở về lại với đàn chiên: "Xưa kia, anh em như những chiên lạc, nhưng giờ đây, anh em đã trở về cùng vị mục tử và Đấng canh giữ linh hồn anh em".

Trở về lại với vị Chủ chiên duy nhất và nhân hậu là Đức Kitô, mỗi người chúng ta không còn phải buồn sầu, thất vọng, cho dù cuộc sống vẫn còn đó những khó khăn, thử thách, như lời tâm sự của vua Đavít trong bài Đáp ca: "Dù bước đi trong thung lũng tối, tôi không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng tôi. Cây roi và cây gậy của Người, đó là điều an ủi lòng tôi". Vâng, có Chúa ở cùng, chúng ta không còn lo mắc nạn, không còn lo phải bước đi trong đêm tối của gian nan một cách cô đơn nữa.

3. CẦU NGUYỆN CHO ƠN THIÊN TRIỆU LINH MỤC, TU SĨ :
Nhận lãnh bí tích Rửa tội, được gia nhập vào Giáo Hội, mỗi người chúng ta được vinh dự trở nên một thành viên trong đoàn chiên của một mục tử duy nhất là Đức Giêsu Kitô, Đấng đã hết lòng yêu thương chúng ta. Do đó, chúng ta cần lắng nghe lời dạy của Đức Giêsu Mục tử qua các đại diện của Ngài nơi trần gian, cụ thể là các giáo huấn của Giáo Hội, trong các vấn đề về luân lý như phá thai, chống bất công, tham nhũng... Và để xứng đáng là một con chiên trong đàn chiên của Đức Giêsu, Mục Tử, chúng ta cũng cần loại bỏ khỏi bản thân mình những thói hư tật xấu như: tham lam, say sưa, bài bạc, nói hành, nói xấu, chửi thề, nói tục...

Đồng thời, trong ngày cầu nguyện cho ơn Thiên triệu, chúng ta cũng nhớ cầu nguyện cho những người dấn thân trong đời sống tu trì, bởi lẽ, họ cũng là những con người yếu đuối, đầy sai phạm lỗi lầm, thậm chí còn hơn cả chúng ta. Và cùng với lời cầu nguyện, chúng ta cần hỗ trợ bằng chính sự cộng tác, và thái độ góp ý chân thành, để xây dựng và củng cố cho cộng đoàn chúng ta ngày càng phát triển, trở nên một cộng đoàn hiệp nhất, yêu thương.

Đặc biệt, ngày mai 18/4/2005, là ngày Hồng Y đoàn bước vào Mật viện để bầu Tân Đức Giáo Hoàng, chúng ta hãy cùng hiệp ý cầu nguyện, xin Thiên Chúa tuôn đổ ơn Thánh Thần xuống trên các vị Hồng Y, để các ngài sáng suốt lựa chọn một Tân Giáo Hoàng theo đúng Thánh Ý của Thiên Chúa. Và dù chưa biết vị Tân Giáo Hoàng là ai, chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho Ngài luôn sống đúng là một vị "Mục Tử như lòng Chúa mong ước". Amen.

CHÚA GIÊSU LÀ CỬA SỰ SỐNG
Ga 10, 1 - 10
Sr.Mai an Linh OP
Hôm nay Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, Hội Thánh cho chúng ta đọc Tin Mừng của Thánh Gioan, nói về người Mục Tử. Hình ảnh người mục tử ở Israel, cũng như nơi nhiều các dân tộc thuộc địa bàn văn hóa du mục là hình ảnh cổ điển, quen thuộc. Vì thế, ngay trong Cựu Ước chúng ta sẽ thấy nhiều tác gỉa dùng hình ảnh mục tử để chỉ các thủ lãnh của họ như Moisen (x.Hs.12,14; Is.63,11), như Davit (x.2Sm.5,2; 24,17), nhất là chỉ Giavê trong lịch sử (x.Kn48,15; Tv.74,1) hoặc Messia trong tương lai (x.Ez.34,11-16), hay chỉ vị vua Messia (x.Jer.23,4-5).

Sang Tân Ước, Chúa Giêsu nhiều lần sử dụng hình ảnh Mục Tử này :
Để mô tả Israel vào thời của Người như là một đòan chiên bị bỏ rơi (x.Mt.9,36; Mc.6.34) hay chiên lạc (x.Mt.10,6; Lc.15,4-7).

Để chỉ thị nhóm môn đệ của Người như là một Israel mới (x.Mc.14,27; Lc.12,32).

Để diễn tả chính vai trò của Người trong tuần khổ nạn (x.Mc.14,27) hoặc Phục Sinh (x.Mc.14,28) và thẩm phán (x.Mt.25,31-46).

Đối với đòan chiên, mục tử biết tên, gọi tên từng con chiên, chiên biết tiếng mục tử. Mục Tử dẫn đường, chiên bước theo. Đây chính là đặc điểm của người chủ chăn tốt, và người Mục Tử này qua cửa mà vào, người canh cửa mở cho Mục Tử vào, còn kẻ trộm thì trèo qua lối khác mà vào. Ràn chiên nghĩa bóng là dân Do Thái, là các tín hữu, Người qua cửa là chủ thực sự, chăn dắt chiên hay người được Giavê trao phó sứ mạng. Người không qua cửa là người cướp lấy chiên. Chúa Giêsu có ý tố cáo những người lãnh đạo Do Thái, tỏ ra bất trung với sứ mạng của mình, bỏ bê đàn chiên, để đàn chiên lạc lõng và phân tán, chỉ lo uống sữa, xén lông chiên để cầu lợi cho mình.

Đó chính là những thủ lãnh chính trị của Israel, các ác vương thời xưa, các người gây chiến, họ coi quyền hành của họ như một phương tiện để thỏa mãn sở thích hiếu chiến, thỏa mãn tính kiêu căng và các tham vọng của họ. Đồng thời Chúa Giêsu cũng muốn ám chỉ đến các thủ lãnh tôn giáo Isarel đã gạt dân của họ xa con đường sống, các người Do Thái đã tàn sát các Ngôn Sứ, các tiến sĩ thời Người đã ngăn chặn không cho thế hệ của họ đáp lại lời mời gọi của Nước Trời, các người thuộc phe Quốc Gia mơ ước một cuộc nổi lọan chống lại Rôma. Còn Chúa Giêsu thi Người trao ban sự sống.

Vâng, Chúa Giêsu chính là Người Mục Tử hướng dẫn dân Người đến với ơn cứu độ, Người là Mục Tử tốt lành gọi tên từng con chiên, biết rõ từng con, săn sóc, thuốc thang. Gọi tên không phải để "dò xét" theo kiểu con người, mà là dò xét theo kiểu của người yêu " Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ.." (x.Tv.138).

Ðồng thời Chúa Giêsu cũng là cửa để chiên ra vào, để giữ cho chiên an tòan, bảo vệ chiên, ban sự sống dồi dào cho chiên, thí mạng vì chiên. Ngài không lọai trừ ai ra khỏi ơn cứu độ " Ngài đến để tất cả mọi người được có sự sống một cách dồi dào..."(x.Jn.10,10b). Ngài là cánh cửa duy nhất đưa con người vào ơn cứu độ. Mọi người thiết yếu phải đi qua Ngài, không ai được ưu tiên chuẩn miễn khỏi đi qua Ngài.

Và chính Ngài trao sứ mạng cho những Mục Tử khác, và họ phải là mục tử như Ngài. Phải để cho Ngài là Mục Tử đối với đàn chiên qua mình. Phải làm cho chiên nhận biết Đức Kitô là Mục Tử của họ. Việc dẫn lộ cũng phải làm sao cho họ hiểu rằng không phải tôi dẫn lộ mà Đức Kitô dẫn lộ, như Gioan Tẩy Gỉa " Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại" ( x.Jn.3,30).

Là chiên chúng ta phải lắng nghe để nhận ra tiếng của Chúa Giêsu và đáp lại tiếng ấy là đi theo Ngài, sống như Ngài sống. Đây là một giáo huấn khẩn thiết và quan trọng, chúng ta phải thực sự xác tín rằng không có một vị hướng dẫn nào khác, một vị thầy nào khác hay một con đường nào khác ngòai Đức Kitô. Mà muốn đi theo đường của Ngài thì phải yêu kẻ thù, tha thứ cho kẻ thù và chết cho người yêu...Muốn làm được điều này phải nhờ sự hướng dẫn và nhờ sức mạnh của Thần Khí.

Lạy Chúa, Chúa đã ưu ái kêu gọi đích danh và dẫn đưa từng người chúng con vào đời sống Ktiô hữu, xin cho chúng con luôn là những con chiên ngoan hiền biết lắng nghe tiếng Chúa và mau mắn tuân theo ý Chúa qua các vĩ Mục Tử trong Hội Thánh, để không bao giờ chúng con bị tách khỏi tình thương hải hà của Chúa.

CHỦ CHIÊN VÀ CON CHIÊN
Ga 10, 1 - 10
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Một trong những hình ảnh gây ấn tượng và mãi ghi khắc trong tâm hồn của tôi là hình ảnh Chúa Chiên Lành. Tôi đã thấy hình này trên một bức tranh khá lớn lúc tôi còn nhỏ bé. Tuy nhiên, bức tranh Chúa Chiên Tốt đã làm cho tôi xúc động, đáng yêu và giữ mãi trong tâm trí. Bây giờ lớn lên là linh mục tôi càng cảm thấy hình ảnh Chúa Chiên Lành thật đáng quí, đáng yêu biết bao.

CHÚA YÊU CHÚNG TA :
Chúa yêu thương nhân loại, yêu thương con người, yêu thương mỗi người chúng ta. Điều kỳ diệu vẫn là Chúa yêu thương chúng ta trước, Chúa đi bước trước đến với chúng ta trái ngược với ý nghĩ chúng ta tưởng mình yêu thương Chúa trước. Chúa yêu thương con người vô điều kiện, yêu thương vô bờ bến. Tình yêu của Ngài đối với chúng ta là tình yêu vô vị lợi, tình yêu tự hiến:" Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu mến"( Ga 15, 13 ). Chúa Giêsu là mục tử tốt lành, Người biết chiên của Người và chiên của Người biết Người ( Ga 10, 14 ). Người yêu thương đàn chiên và yêu thương từng con chiên một. Đọc Thánh Vịnh 22 ( 23 ), Thánh Vịnh " Chúa Chiên Lành ", chúng ta như được ấm áp lên vì Chúa yêu thương chiên của Người, dẫn chiên đến các cánh đồng cỏ xanh tươi và những dòng suối mát trong lành. Chúa hiểu biết đàn chiên và từng nhu cầu của mỗi con chiên. Người biết những gì con người cần cho linh hồn cũng như thể xác của họ. Do đó, con người không sợ sệt, không lo âu, không xao xuyến, con người phải tin tưởng nơi Người. Chúa muốn mỗi người, mọi người chỉ nghe tiếng gọi yêu thương duy nhất của Người, tiếng gọi cứu độ và ơn giải thoát của Người. Chúa luôn yêu cầu con người, mỗi người hãy đặt sinh mạng, cuộc đời của mình trong bàn tay nhân từ của Người, đừng nghe theo bất cứ tiếng gọi nào vì có thể đó là tiếng gọi của tiền tài, danh vọng, tình dục, thế gian và ma quỷ.Chúa nói:" Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào"( Ga 10, 10 ). Chúa muốn chiên của Người được sống tràn trề bên dòng suối Lời của Chúa và được Chúa nuôi dưỡng bằng chính Mình Máu Thánh của Người. Chúa là cửa ràn chiên, Chúa quả quyết Người là Đấng cứu thế đến cứu chuộc mọi người, ai muốn được cứu độ phải đến với Người, tin vào Người và sống theo lời Người dạy.

NGÀY CẦU NGUYỆN CHO ƠN GỌI :
Hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ nam nữ. Vâng, Chúa cũng đã đến trong một gia đình có cha có mẹ để dạy cho nhân loại hiểu rằng con người phải phát xuất từ một gia đình trân thế. Chúa đã đến từ trời, từ gia đình của Thiên Chúa ngang qua một gia đình được Thiên Chúa Cha tuyển chọn từ đời đời. Người đã lớn lên, rồi tới giờ Chúa Cha định, Người đã mời gọi các môn đệ, các tông đồ đi theo Người. Chính vì thế, công cuộc cứu chuộc của Người cần được nhiều người cộng tác. Chúa mời gọi có nhiều tâm hồn quảng đại, tự nguyện đi theo Người để góp tay vào công việc cứu thế của Người. Nhân loại và đặc biệt mỗi người chúng ta cần cầu nguyện để cho có nhiều thanh niên nam, nữ dấn thân vô điều kiện, vô vị lợi để phục vụ đàn chiên của Chúa, bởi vì chiên không thể nào thiếu chủ chiên được. Mọi Kitô hữu phải siêng năng cầu nguyện, cổ vũ ơn gọi linh mục và tu sĩ, khích lệ, động viên tinh thần và góp tài chánh để các Chủng Viện, các Đại Chủng Viện, các Nhà Dòng có thêm vật chất để nuôi dưỡng và đào tạo ơn gọi. Đặc biệt các giáo xứ, giáo họ phải nâng đỡ ơn gọi và góp phần vào công việc đào tạo linh mục và tu sĩ cho giáo phận, cho nhà dòng. Giáo xứ, giáo họ và từng gia đình cần gây nên bầu khí đạo đức, đặc biệt từng gia đình cần khơi lên lòng ước ao cho con mình biết dâng mình cho Chúa bằng chính đời sống gương mẫu của gia đình mình. Nhờ đời sống gương mẫu, nhờ sự khuyến khích động viên của từng gia đình, ơn gọi sẽ nẩy sinh từ những gia đình đạo đức và biết cổ vũ ơn gọi. Chúa là cửa Chuồng Chiên và Chuồng Chiên là Giáo Hội, cửa đi vào Hội Thánh là tin vào Chúa Giêsu. Chuồng Chiên cũng là Nước Trời mà cửa chính phải qua cũng là Chúa Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho có nhiều thanh niên nam nữ biết dấn thân làm linh mục và trở nên tu sĩ thánh thiện nhiệt thành để nhiều người được nhận biết Chúa là Mục Tử Tốt Lành, là Chuồng Chiên, là Nước Trời. Amen.

MỤC TỬ CHÂN CHÍNH
Ga 10, 1 - 10
LM Trần Xuân Lãm

Mục tử là thuật ngữ Cựu ước dùng để chỉ về Chúa. Trong Sáng thế ký, Gia-cóp tuyên xưng Chúa là Vị mục tử của ông từ lúc ông sinh ra. Trong thánh vịnh 23, David nói: "Chúa là mục tử của tôi, tôi chẳng còn thiếu thốn chi". Tiên tri Isaia nói Chúa sẽ dẫn đưa Do thái khỏi chốn lưu đầy, như mục tử vác chiên trên vai (40:11). Trong Cựu ước, đã có những mục tử chính danh làm đúng ý Chúa như David, Mô-sê. Nhưng cũng có những mục tử xấu không làm tròn bổn phận. Với hạng này, tiên tri E-zê-ki-en đã cảnh cáo: "Khốn cho những mục tử nhà Is-ra-en là những kẻ, thay vì chăm sóc đàn chiên, lại chỉ chăm sóc chính mình" (Ez 34:2)

Có nhiều hình ảnh và tính cách chỉ về mục tử, cần làm rõ nét:

1-Mục tử gọi đích danh chiên của mình:
Tại Palestine, người ta thường vây hàng rào cao để lùa chiên vào và canh giữ. Cửa được mở ra mỗi buổi sáng. Chiên xem ra sợ sệt lúc ra khỏi chuồng cũng như khi trở về buổi chiều. Chỉ khi chúng nghe tiếng mục tử, chúng bắt đầu tiến lên, và khi chúng nghe mục tử gọi tên, chúng bước ra. Chúa yêu chúng ta, Chúa gọi đích danh từng người, chúng ta theo Chúa và chúng ta sẽ được cứu thoát.

2- Mục tử bước đi trước chiên:
Nhiều nơi, như ở Australia, mục tử dùng gậy hoặc dùng chó để hướng dẫn chiên. Nhưng ở Palestine, mục tử đi trước, chiên bước theo sau. Hình ảnh này nói lên Chúa dẫn dắt ta, không phải Ngài lùa ta đi. Ngài đi trước ta, ta tin tưởng bước theo Ngài.

3-Cửa chuồng chiên:
Khi chiều buông, đàn chiên không kịp về chuồng trước nửa đêm, thì mục tử lùa chiên vào trong hang, rồi anh ta nằm chắn ngay lối vào. Chiên sẽ không lang thang đi ra ngoài. Và thú dữ cũng chẳng có thể vào hang bắt chiên. Mục tử tự làm cho mình thành cửa chuồng chiên. Không một ai ra hay vào mà không bước qua anh ta. Qua hình ảnh tuyệt đẹp này, Chúa Giê-su cho ta biết chẳng có ai đến được với Thiên Chúa mà không qua Ngài.Ta chỉ được cứu thoát vì tin và đi theo tiếng gọi của Chúa Giê-su, Đấng được Thiên Chúa sai đến.

4-Kẻ trộm và cướp bóc:

Những ai không qua cửa mà vào thì không phải mục tử mà là kẻ trộm và kẻ sát hại. Ai không qua Chúa Giê-su thì kẻ ấy kéo bày chiên xa rời Thiên Chúa. Thánh Gioan ám chỉ các lãnh đạo Do-thái. Bởi họ đã trục xuất Chúa Giê-su và các môn đệ của Ngài ra khỏi hội đường của họ. Gio-an ví họ những kẻ bỏ mặc đoàn chiên cho trộm cắp và sát thủ.

Quả thực Chúa là Mục tử: "Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi" (TV 23)

XIN CHO NHỮNG MỤC TỬ NÊN GIỐNG CHÚA
Ga 10, 1 - 10
Lm Thomas Túy OP

Thật khủng khiếp khi nghe một linh mục thuộc miền tây nam VN trả lời phỏng vấn một đài ngọai quốc. Ông giả làm khách "mua hoa" người Campuchia, hòan tòan không nói được tiếng Việt, để thâm nhập các ổ nhện "nhí" ở biên giới Việt - Campuchia. Các em tuổi từ 9 đến 16 bị bán sang nước bạn để làm dịch vụ tình dục cho các khách "mua hoa" người bản địa và quốc tế. Cuộc sống của các em rất bị hạn chế, gần như tù lỏng. Một ngày phải "đi" khách không dưới 15 lần, bằng cả hai phương tiện, miệng và cơ quan giới tính. Ăn uống thiếu thốn và ít khi được phép ra khỏi "động". Một hôm ông hối lộ chủ nhà để đưa các em đi chơi, khi ngang qua nhà thờ, ông đề nghị các em vô trong coi. Bất ngờ một em từ chối. Các em khác hỏi tại sao? Ngần ngừ một chút, em bảo mình là người Công giáo. Linh mục thấy đau nhói trong tim, nhưng không tỏ ra bề ngòai, vẫn giả vờ như không hiểu tiếng Việt.

Điểm xót xa là các em kể về việc đi khách của mình như một dịch vụ bình thường tuy ngôn ngữ bẩn thỉu nhưng như thể làm các việc hàng ngày cha mẹ sai bảo. Có em chỉ 9 tuổi, cha mẹ quá nghèo nên bán em đi lấy tiền nuôi các đứa nhỏ tuổi hơn.

Ông không có một giải pháp nào cả, các giúp đỡ từ những hội từ thiện quốc gia, quốc tế chỉ là hình thúc xoa dịu. Vấn đề cần bàn tay cương quyết của chính quyền, nhất là chính quyền địa phương. Nhưng việc này khó thực hiện vì đòi kinh phí. Mà kinh phí quốc gia chẳng có khỏan nào như vậy. Lại còn vấn đề luật pháp?

Khi nghe qua chuyện này, tôi lại nhớ đến cô dâu Việt nam tại Trung quốc, Đài loan, Nam hàn, Nhật bản. Số phận các cô xa xứ thật cô đơn, thảm thương. Một phụ nữ Mỹ mới đây báo động cho thế giới biết nạn nhân buôn bán phụ nữ, trẻ em ở Âu châu quá tệ hại. Bà coi đó là một hình thức nô lệ mới, nô lệ về tình dục và nhân phẩm: Riêng tại nứơc Mỹ, nhân dịp tháng chống lạm dụng tình dục trẻ em (April) người ta đưa ra bản thống kê, cứ 4 trẻ gái, thì một em bị lạm dụng. Tỷ lệ ở trẻ nam là 1/7 trươc khi các em được 18 tuổi. Tính tổng cộng tòan quốc là 60 triệu. (xem www.judeop.org=justice preaching).

Trước tình hình này, Phúc âm hôm nay quả là một nhức nhối. Chúa Giêsu tự nhận là "Chúa chiên lành", hơn nữa, lại còn là cửa chuồng chiên. Nhưng chiên của Ngài luôn tìm được của ăn áo mặc, đồng cỏ xanh tươi. Ngày nay thì các linh mục, hàng giáo phẩm thay thế Chúa chăn dắt đàn chiên Thiên Chúa. Chúng ta suy nghĩ làm sao đây? Chẳng lẽ giảng suông? hô hào rỗng tuếch? xưa nay đã như vậy rồi, thì có lẽ từ nay cũng "vũ như cẩn" thôi. Dao to búa lớn chỉ đánh bẹp một con tép riu. Người ta để bụng khinh chê cấp lãnh đạo Do thái là giả hình và sai lầm. Nhưng xét cho cùng thì đúng như câu ca dao VN:"Chuột chù chê khỉ rằng hôi, khỉ mới trả lời cả họ mày thơm". Chúng ta nên sống trung thực với Lời Chúa và ơn gọi của mình, không nên nói một đàng, sống nẻo khác.

Vì bất cứ những ai đọc bài tin Mừng hôm nay đều cảm nghiệm xúc động. Chúa Giêsu không giảng bằng lời nói suông mà chính yếu cuộc sống, cái chết và lên trời của mình vì phần rỗi nhân lọai. Ngài làm điều ấy hòan tòan tự nguyện. Chẳng ai có quyền phép ép buộc Ngài, nhưng chỉ vì tình yêu chúng ta. Ngài là Chúa chiên lành trong cả hai nghĩa đen và bóng và nghĩa nào cũng đến tận cùng thực tại. Các học giả có khuynh hướng cắt nghĩa bóng mà họ gọi là "ẩn dụ" (allegory) nhưng như vậy người ta "hạn hẹp" ý nghĩa bản văn cho một số chức vụ. Thực ra bản văn nói về hết mọi tín hữu, từng người và từng thời đại của Giáo Hội. Một khuynh hướng khác, khá phổ thông hôm nay là không ưa "ẩn dụ" nữa mà cố gắng tìm xem "đàn chiên, kẻ trộm, kẻ làm thuê, cửa chuồng chiên" là gì trong thực tế và văn hóa Hy lạp - Do thái? Họ cố gắng tránh né nhưng hệ luận khó chịu nẩy sinh từ các hình ảnh Chúa Giêsu đã sử dụng.

Tính xác thịt lòai người, luôn ngại đối mặt với thực tế không am hợp với sở thích chóng qua. Chúng ta nên học hỏi các thánh tiến sĩ, hiểu thật, hiểu rõ và áp dụng lời Chúa nghiêm ngặt, dầu có phải chấp nhân hy sinh và cái chết. Theo thánh Gioan Kim Khẩu, cửa ở đây là Lời Chúa. Cửa ấy cho phép chúng ta vào Nứơc Trời, tức các đường lối Chúa muốn chúng ta đi. Các kẻ trộm, người làm thuê là các thày rao giảng giả hình gian dối, chỉ biết lừa đảo thiên hạ. Cửa sẽ lọai trừ tất cả ra ngòai, không cho xâm nhập đàn chiên. Nếu như chúng ta rời xa Kinh Thánh, mà trèo vào lối khác, lúc ấy đàn chiên sẽ bị cứơp bóc lương thực hằng sống. Thánh Gioan đưa ra ý tưởng này từ thế kỷ thứ 5, khi ngài làm Giám mục hành Antiokia. Nhưng vẫn đúng với tình hình rao giảng hôm nay. Nhất là sau Công đồng Vat.II, người ta tự tiện áp dụng lời Chúa theo ý riêng, rồi đả kích Giáo hội là cổ hủ, lỗi thời, hiểu sai lời Chúa. Các tín hữu thực sự bị tước đọat ý nghĩa linh thiêng để chạy theo thế tục. Phụng vụ và đời sống thiêng liêng bị bóp méo theo sở thích cá nhân của mấy thày gỉa hiệu. Liệu khó nghèo Phúc Âm còn ý nghĩa gì không giữa tráo lưu vật chất hiện thời? Liệu người ta còn đọc và cầu nguyện Lời Chúa, hay lời của tiền tài? Liệu lời rao giảng của chúng ta phản ánh nội dung sách thánh hay phản ánh tư tưởng trần tục? Nếu như thánh Gioan Kim Khẩu sống lại lúc này, ngài sẽ có nhận xét thế nào về việc chúng ta tìm vào Nứơc Trời qua cánh cửa Lời Chúa? Ông cũng sẽ giúp tín hữu phân biệt đâu là Chúa chiên thật, đâu giả hiệu, đâu là lợi dụng chức thánh?

Có lẽ nên biết chút ít tập quán chăn chiên thời Chúa Giêsu để rõ hơn dụ ngôn. Chuồng chiên có khi được thiết lập giữa cánh đồng với các bụi cây thấp và cành khô, có thể chứa chung vài đòan chiên cừu. Hay có thể là một lán rộng dựa lưng vào tường, mặt khác là rào che tạm thời. Các chủ chăn nhỏ có hể dùng chung một chuồng cho các đòan vật của mình, để bảo đảm an ninh ban đêm. Một ai đó có nhiệm vụ canh gác lối vào. Lối vào lán nhỏ và đơn sơ, người canh gác có thể đơn giản nằm chắn ngang như một "cánh cửa". Phúc âm hôm nay gợi ý các chủ chăn đến sớm và anh gác cửa cho phép vào. Mỗi người gọi riêng đòan chiên của mình và khi nghe tiếng chủ, các con chiên chạy theo anh ta. Anh ta đi trước các con chiên theo sau. Lời Phúc âm phải hiểu theo nghĩa đen như vậy.

Cho nên thánh Gioan tông đồ dùng hình ảnh để mô tả liên hệ chặt chẽ giữa Chúa Giêsu và các kẻ theo Ngài. Đồng thời gợi ý cánh cửa "Người" ngăn cản các chủ chăn giả đến quấy phá dân Thiên Chúa. Họ là những "kẻ trộm, kẻ cướp" đối lập với chúa Giêsu và các tín hữu Thiên chúa. Họ vô tình dẫn đàn chiên đi lạc, đôi khi nổi lọan vô lý khiến quân đội Rôma giết hàng lọat dân đen vô tội. Ngày nay chúng ta có thể tưởng tượng những tiếng nói giả dối như sau:

Kẻ hô hào cực đoan giải quyết mới cũ bằng chiến tranh, sát hại chứ không bằng thương lượng hòa bình.
Lao động kiệt sức vì lợi lộc riêng tư, bè phái.
Dẫn dắt thiên hạ thỏa mãn nhu cầu vật chất làm cạn kiệt thiên nhiên.
Cô lập chúng ta khỏi những nhu cầu khẩn thiết đòi hỏi dấn thân để xây dựng hai chữ "bình an" giả tạo và ích kỷ..
Lợi dụng nhiệt thành, lòng tốt của thanh niên thiếu nữ cho danh thơm tiếng tốt, ngay cả lợi lộc cho bản thân.
Gây chán nản trong đòan thể, cộng đồng vì tư thù để đục nước béo cò..v.v...

Hậu quả là chúng ta mất đòan kết, không còn là cộng đòan duy nhất của Hội Thánh mà là đủ mọi thứ phe phái đi theo những chủ chăn khác nhau, những khuynh hướng ích kỷ, hẹp hòi. Tệ hơn nữa, vào những đồng cỏ xa lạ với những con đường nguy hiểm cho phần rỗi. Chẳng mấy tín hữu không gặp những lý thuyết này? Họ nhan nản khắp các báo chí, các ý thức hệ tiên tiến.

Vậy thì không lạ chi, Chúa nhật Phục sinh này chúng ta được nghe bài đọc Chúa chiên nhân lành và giáo thuyết của Ngài. Trong bài đọc 1 Phêrô đã vạch rõ đâu là Thiên sai thật, đâu là lừa dối đi lạc. Ông thẳng thắng tuyên bố:" Anh em hãy tránh xa thế hệ gian tà này". Bài đọc 2 khuyên nhủ:"Thật vậy, Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người". Đức Kitô Phục sinh đang hiện giữa các tín hữu, Người cũng làm những chi mô tả trong Phúc âm. Cuộc sống và phương hứơng của chúng ta được Hội Thánh Ngài bảo vệ và chăm sóc chống lại những kẻ chỉ biết trộm cứơp và giết hại. Điều này khiến chúng ta được yên ủi và an tâm. Đức Giêsu biết trứơc thế giới mà các môn đệ Ngài đi rao gỉang nên đã hứa ở với chúng ta luôn mãi như một mục tử nhân lành.

Mục tử nhân lành không chỉ là ngừơi lãnh đạo đòan chiên trên danh nghĩa, nhưng biết rõ từng con chiên một:" Ngài gọi tên từng con và dẫn chúng ra". Phúc âm không nói chung chung, mà chi tiết nhu cầu từng con. Có những thời gian, mục tử phải biết tên từng con chiên một, vì đó là bổn phận cốt yếu của ông. Ngôn ngữ Kinh thánh, biết tên là biết ngôi vị ngừơi đó. Chẳng phải vô tình mà Chúa nhật 4 Phục sinh được dành riêng cầu nguyện cho ơn gọi linh mục. Không những để Giáo Hội thêm nhiều ơn gọi mới mà chủ yếu nhắc nhở bổn phận của các cha xứ, linh mục, chủng sinh. Ngày nay Giáo Hội cần nhiều mục tử thánh thiện biết bao.

Chúng ta phải biết lắng nghe bài Phúc âm và nhớ đến Đấng Phục sinh giữa Giáo Hội. Xin Ngài hướng dẫn và kiên cường đức tin cho mình. Vì Ngài chính là "cửa" mà thánh Gioan Kim Khẩu giải thích. Có những lúc chúng ta cảm thấy mệt mỏi, chán nản vì công việc, vì tuổi già sức yếu, vì chống đối hiểu lầm. Chúng ta cần nhìn lên Chúa, để nhận ra Ngài đã thi hành nhiệm vụ mục tử ra sao, ngõ hầu được khả năng bỏ đi những cám dỗ hưởng thụ, an nhàn. Chúng ta biết mình đang ở trong đường lối và phương hứơng tốt, tại sao không cố gắng. Câu truyện đầu bài suy gẫm hôm nay không cho phép chúng ta lơ là chức vụ.

Cho nên phải biết tên từng con chiên và nhu cầu của nó. Nghĩa là từng ngôi vị một. Không phải chỉ những quen biết qua đường hoặc vì lợi lộc. Chúng ta nên dành thời gian, sức lực, tiền bạc để đến với đàn chiên. Không có nghĩa cần thêm nhiều bạn hữu nhưng là vì bổn phận phải chu tòan. Nếu như đức tin dạy rằng Đức Giêsu biết rõ tên chiên của Ngài từng con một thì chúng ta, những mục tử, phải chu tòan bổn phận ra sao. Xin cho các mục tử suy gẫm lại vai trò của mình và giáo dân nên cầu nguyện nhiều cho họ. Amen.

NHỮNG MỤC TỬ ĐỜI THƯỜNG
Ga 10, 1 - 10
LM Đaminh Đặng Văn Cầu

Cách đây vài tuần, một bạn trẻ Công giáo đến nói với tôi : Thưa Cha, khi con hát bài "Chúa là Mục tử Người dẫn lối chỉ đường cho con đi...", có mấy bạn không công giáo ở cùng phòng với con thắc mắc : Chúa là Mục Tử nhân lành ở chỗ nào? Đâu là đồng cỏ, là suối mát cho bạn được an nghỉ thảnh thơi? Nhiều người Công giáo, "con chiên" của Chúa, vẫn đói, vẫn nghèo, vẫn rách, "chạy bữa sáng mất bữa tối", họ đâu có được sung sướng no thỏa? Hay như chính bản thân bạn, cơm áo gạo tiền của bạn là do cha mẹ bạn cung cấp chứ có do Chúa chiếc gì ban cho đâu?

Đúng là thời @, thời di động, thời thực dụng, thời giá cả leo thang có khác, người ta chỉ nghĩ tới cơm-áo-gạo-tiền mà ít nghĩ đến những yếu tố cao hơn, quý hơn, cần hơn, có thể đem lại hạnh phúc hơn những thứ đó.

Tôi trả lời bằng cách kể cho bạn đó nghe một câu chuyện tại thành phố quê tôi :

Có hai vợ chồng nọ là cán bộ về hưu, cả hai là người Công giáo đã đóng góp tuổi thanh xuân của mình nơi chiến trường rồi sau đó về làm cán bộ tại địa phương : Chồng làm kế toán, vợ làm cán bộ phụ nữ phường. Lấy nhau muộn nhưng họ cũng có được một hoàng tử và một công chúa (Họ vẫn gọi chúng như thế). Họ được phân một căn phòng tại một căn hộ tập thể. Gia cảnh nghèo với những bữa cơm đạm bạc nhưng trong nhà không thiếu những tiếng cười của cả trẻ con lẫn người lớn. Đến bữa cơm, những người bên cạnh thường nghe chị vợ mời anh chồng : "Anh ăn miếng đùi gà này đi" hoặc "các con ăn miếng cá thu này nhé". Anh chồng mời lại : "Thì em cũng phải ăn đi cho nóng chứ". Những người hàng xóm bảo nhau : Nhà ấy nghèo mà ăn sang thật, ngày nào cũng thịt với cá.

Một hôm những đứa con của họ sang hàng xóm chơi, họ hỏi chúng : Hôm nay nhà cháu ăn cơm với gì? Chúng đáp : Nhà cháu ăn cơm với rau muống, tương bần và cá khô. Họ lại hỏi chúng : Các bác vừa thấy bố mẹ các cháu và các cháu mời nhau ăn thịt, ăn cá cơ mà? Chúng đáp : Đó là bố mẹ cháu và chúng cháu muốn động viên nhau ăn cho ngon miệng nên đã nghĩ ra trò chơi đó. Mẹ cháu gắp một miếng rau hay miếng cá khô cho bố cháu và nghĩ ra một món ăn nào đó thật ngon để mời bố cháu hay chúng cháu. Thế là mọi người cứ ăn miếng rau đó và tưởng tượng ra những thức ăn khác nên rất ngon miệng.Họ mới vỡ lẽ : À ra thế. Chả bù cho nhà các bác, thức ăn ngon mà cứ mạnh ai người nấy ăn chứ chẳng ai mời ai bao giờ.

Vừa lúc đó có một vật gì bay qua chỗ hai đứa bé và rơi ra hành lang. Thì ra đó là chiếc bánh Chô-cô-pie của mấy đứa trẻ nhà giàu. Sau khi đã ăn chán chê, chúng cãi nhau rồi dùng những chiếc bánh đó để ném nhau. Một lúc sau, hai đứa bé xin phép ra về. Ra tới hành lang, đứa anh thò tay ra ngoài ban công, cố gắng với lấy cái bánh của những đúa con nhà giàu vừa vứt đi. Nó lau sạch rồi đưa cho em nó. Đứa em không chịu : Công anh nhặt lên, anh phải ăn chứ. Đứa anh đáp : Em ăn đi, anh ăn rồi, thỉnh thoảng đi học bọn bạn anh vẫn cho anh mà. Đứa em vẫn không chịu : Vậy thì anh phải ăn với em một nữa. Nói rồi nó bẻ chiếc bánh làm đôi đưa cho anh nó một nửa và hai đứa cùng ăn trong tiếng cười vui vẻ.

Nhìn thấy cảnh này, mấy người hàng xóm rất cảm động. Một người trong bọn họ nói : Tôi sẵn sàng đổi cả cái nhà ba tầng cùng với tiền tỷ để có được hai đứa con như hai đứa trẻ này.

Tôi nói với bạn trẻ : Bạn thấy đấy, tiền bạc bạn có thể làm ra nhưng có những cái bạn không thể làm ra và cũng không thể dùng tiền bạc để mua hay đánh đổi được.

Chúa không trực tiếp đưa cho bạn cơm áo gạo tiền nhưng Chúa ban cho chúng ta cả vũ trụ này với nhứng tài nguyên phong phú, tiền rừng bạc bể. Nhìn vào vũ trụ này bạn có thể thấy Chúa quả là vị Mục Tử nhân lành, tài tình và chu đáo.

Cái bạn có thể làm được, sản xuất ra được như cơm áo gạo tiền thì Chúa không làm thay bạn nhưng Chúa trợ giúp bạn vì bạn là con người có lý trí và tự do chứ không phải là con vật. Nhưng có những cái bạn không thể sản xuất ra được, thí dụ "không khí", thì Chúa cho bạn và bạn có thể thở thoái mái mà không mất tiền.

Chúa ban cho bạn có cha mẹ, anh em, bạn bè để bạn yêu và được yêu. Ngài thông ban cho bạn và cho mọi người tình yêu của Ngài nên trong mỗi người luôn có khát vọng yêu và được yêu.

Chúa qua cha mẹ và những người thân của bạn để hướng dẫn săn sóc bạn.
Nếu Chúa trực tiếp ban cho bạn tất cả mọi thứ mà không qua cha mẹ và người thân của bạn thì thử hỏi mối quan hệ của bạn với họ sẽ ra sao?

Nhưng trên những thứ đó, Chúa còn ban cho bạn, tôi và mọi người một vị Mục Tử Nhân Lành, Đấng dầy An Sủng và Chân Lý, Đấng hy sinh chính mạng sống để tôi, bạn và cho mọi người được sống dồi dào phong phú trong An Sủng và Lời của Ngài. Đó cũng chính là điều mà tác giả Thánh Vịnh 22, TV mà bạn vẫn hát, đã cảm nghiệm và tiên báo.

Đồng cỏ xanh và suối mát là Tình Yêu, Ơn Thánh và Lời Chúa
Đồng cỏ xanh tươi và dòng suối mát ở ngay trong tâm hồn bạn, nơi gia đình, bố mẹ và bạn bè của bạn.
Đồng cỏ xanh và dòng suối mát ở ngay chunh quanh bạn, trong thiên nhiên, trong môi trường mà bạn tiếp xúc.

Gia đình hạnh phúc mà tôi kể trên đây đã nhận ra điều đó. Họ biết họ không thể sống mà không có Tình Yêu, không có Chúa ở với họ và trong họ.

Họ chiêm ngưỡng và cảm nghiệm tình yêu của Vị Mục Tử Nhân Lành để đến lượt họ, họ cũng hy sinh cho người khác giống như Ngài.

Đấng Mục Tử nhân lành "biết" các chiên của mình và các chiên cũng "biết" mục tử của mình thì họ cũng vậy, họ biết nhau, biết Chúa hiện diện trong nhau, biết nhu cầu của nhau, biết những điểm mạnh điểm yếu của nhau để chia sẻ và giúp nhau thăng tiến.

Mỗi ngày Chúa Nhật, mỗi buổi tối, họ đến kín múc Tình Yêu và sức sống nơi Ngài qua việc cầu nguyện và lắng nghe Lời Ngài để trải rộng Tình Yêu và sức sống đó cho nhau, để tắm mát trong dòng sông Yêu Thương, để nuôi dưỡng nhau bằng chính Tình Yêu của Chúa Giêsu Thánh Thể và như vậy họ chính là NHỮNG MỤC TỬ ĐỜI THƯỜNG, hình ảnh của Đấng Mục Tử Nhân Lành.

Tôi và bạn, chúng ta đều được mời gọi trở nên những người mục tử đó để rồi từ cái căn bản, cái môi trường yêu thương đó sẽ có những người dấn thân mạnh hơn, sâu hơn, xa hơn trong ơn gọi tận hiến.

MỤC TỬ TỐT LÀNH
Ga 10, 1 - 10
Pm. Cao Huy Hoàng

Chúa Giêsu nói "Ta là mục tử tốt lành" (Ga 10,11a)
Sau những thăng trầm ly loạn kể từ 1975, năm 2000 tôi gặp lại người bạn chí thân của tôi thời trung học Chủng viện Truyền Giáo Lâm Bích do Đức Hồng Y PX. Nguyễn Văn Thuận sáng lập, nay đã làm Linh mục: Lm Phanxico Xavie Trịnh Hữu Hưởng, tôi hỏi Cha: "Cuộc đời Linh Mục có vất vả lắm không ?" Cha trả lời: "Có, thật vất vả, nếu nghĩ tới mấy từ "mục tử tốt lành". Chỉ có Chúa Giêsu mới nói được câu ấy. Mình không hề dám nói như vậy đâu, nhưng đó là lý tưởng mà cả đời mình nhắm tới"

Tôi về khoe với anh em tôi - những anh em đã làm linh mục cũng như đã lập gia đình trong gia đình Lâm Bích - câu nói của Cha Hưởng. Và anh em tôi có dịp chia sẻ cho nhau một chút hãnh diện về những linh mục xuất thân từ Chủng Viện Truyền Giáo Lâm Bích, hãnh diện về tôn chỉ mục đích của Đức Hồng Y PX đề ra, hãnh diện về đường hướng đào tạo của ban Giám Đốc Chủng Viện, hãnh diện về đời sống linh mục của anh em Lâm Bích... vì chỉ có 200 chủng sinh được đào tạo trong thời gian 1970-1975, mà đã hơn 50 chủng sinh lãnh nhận tác vụ Linh Mục, và đang làm việc khắp năm châu bốn biển. Ấy vậy mới có câu hát: "Anh em con đi, đi khắp năm châu, với tinh thần Lâm Bích". Vâng, tinh thần Lâm Bích là ở bất cứ nơi đâu, anh em tôi cũng dẹp bỏ mọi mặc cảm về danh xưng "tu muộn", về thời gian đào tạo, về trình độ học vấn, về những sự thua kém khác dưới cái nhìn của những anh em Linh Mục chính qui từ tiểu chủng viện, và nhắm tới ý hướng "mục tử tốt lành" để việc truyền giáo mang lại kết quả.

Chúa Giêsu nên mẫu gương "mục tử tốt lành" cho các linh mục, và để nên mẫu gương ấy, Ngài là Thiên Chúa Ngôi con làm người mà cũng đã vất vả biết chừng nào, huống chi là những con người được trao tác vụ Linh Mục. Không tự dưng mà một con người có thể "tốt", và có thể "lành" trong cuộc đời, vì ai cũng được mẹ "mang thai trong tội" từ cái tội bẩm sinh của tổ tông, còn Chúa Giêsu thì hoàn toàn như chúng ta "ngoại trừ tội lỗi". Cái tốt, cái lành của Thiên Chúa đã là bản chất nội tại nơi Chúa Giêsu; còn cái tốt lành của một linh mục là phải liên lỉ loại trừ những nghiêng chiều mang tính bản chất của con người ra khỏi cuộc sống mình -làm sao không vất vả được. Một cuộc đấu tranh liên lỉ nếu có ý hướng nên mục tử tốt lành. Mà phải đấu tranh liên lỉ, vì phải nên mục tử tốt lành. Là giáo dân, nếu hiểu được điều trăn trở nơi các linh mục là nên giống Chúa Giêsu Mục Tử Tốt Lành, chắc chắn phải rất thông cảm, yêu mến các linh mục của mình, và luôn cầu nguyện cho các Ngài để các Ngài có đủ lòng yêu mến sứ vụ thánh thiêng, và đủ sức chiến đấu trước mọi lôi cuốn nghiêng chiều về một đời sống tha hóa. Điều đáng tiếc trong Giáo dân là việc cầu nguyện cho các Linh Mục thì ít, mà đòi các linh mục cầu nguyện cho mình thì nhiều; lo cho các linh mục đầy đủ phần vật chất để tranh thủ sự ưu ái cho mình thì nhiều, mà giúp các Ngài nên thánh thiện, nên tốt lành thì ít. Quả thật, đời sống các linh mục thật đáng thương vì họ phải là người nên "tốt lành trước tiên" bằng một đời sống kết hiệp cả đời với sự thương khó Chúa Giêsu, thầy dạy các mục tử, thầy chí thánh. Vì thế việc cầu nguyện cho các linh mục trở nên khẩn thiết biết bao, nhất là vào thời điểm nầy, xã hội này- thời điểm xã hội mà người ta biết rõ "đánh kẻ chăn thì đoàn chiên tan tác". Và nếu không cảnh giác, thì vô tình chúng ta lại tiếp tay cho những kẻ muốn "mục tử không còn tốt lành nữa" để không còn giá trị mục tử nữa và không có kết quả mà Chúa Giêsu mục tử tốt lành mong muốn.

"Mục tử tốt lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên" (Ga 10,11b). Người mục tử tốt lành yêu thương đàn chiên vì phần lợi cho đàn chiên, không yêu thương đàn chiên vì phần lợi cho mình. Phải nói thế, vì giữa cái trào lưu vật chất nầy, sự cuốn hút của hưởng thụ không loại trừ bất cứ một ai. Không vin vào lý do cần có điều kiện phương tiện để làm việc và phục vụ để rồi lệ thuộc điều kiện đến nỗi khi không có đủ điều kiện thì không thể phục vụ tốt. Điều kiện và phương tiện của mục tử tốt lành là lòng yêu mến đàn chiên-yêu mến đến say mê như một nghệ sĩ. Ai làm công tác nghệ thuật đều có thể có cái kinh nghiệm quí giá nầy là: lắng nghe tiếng lòng thổn thức trước khi thực hiện một tác phẩm, và nhìn tận mắt tiếng lòng ấy trải ra trên tác phẩm của mình. Nghệ thuật phát xuất từ tấm lòng và tấm lòng làm nên nghệ thuật. Tôi vẫn luôn xác tín rằng Chúa Giêsu là một nghệ sĩ vĩ đại trong cuộc đời mục tử của Ngài, một nghệ sĩ nên vĩ đại vì trong Ngài và thể hiện nơi Ngài những căn tính đặc biệt mà các nghệ sĩ khát có khi cả đời không đạt được. Căn tính ấy chính là Tình Yêu không chút vụ lợi. Một tình yêu cho đi không màng danh tiếng cho mình, nhưng cho danh Cha trên trời cả sáng, không màng đáp trả cho mình, nhưng màng đến việc đáp trả cho Thiên Chúa, thu hồi về cho Chúa Cha những linh hồn quí giá. Càng yêu thương đàn chiên, và càng mất đi chính mình vì đàn chiên, giá trị siêu nhiên của một mục tử càng tăng dần theo năm tháng, cho đến mãn đời, và cho đến muôn đời. Những suy tư này không còn là mục thần học phải học của các linh mục nữa, mà hiện thời, đang là những khát khao rất thời sự của đàn chiên, của giáo dân ở khắp nơi, mà nhất là nơi các giáo xứ vùng quê Việt nam. Có lần tôi đến thăm một giáo xứ miền núi nghèo lắm, GX. Triệu Phong ở Phan rang- Cha sở là một linh mục chủng viện Lâm Bích đã từng lăn lộn giữa đời nhiều năm trong nhiều cảnh sống trước khi làm linh mục- và được mấy ông già cho biết "Cha Vianey thương giáo dân lắm, cái gì cũng lo cho giáo xứ, giáo dân, còn Cha chẳng có gì cả. Cứ nhìn cái nhà của Cha thì biết". Còn mấy Bà Mẹ Công giáo thì nói: "Cha nhân đức lắm, đơn sơ, nghèo hèn, khiêm tốn". Các Huynh trưởng thiếu nhi dành phần hơn: "Cha thương thiếu nhi nhất". Vào nhà xứ, một tấm ảnh Cha Thánh Vianey thật lớn đập vào mắt tôi. Ngài nói với tôi "Mẫu gương của Chúa Giêsu Linh mục cho mình đó, Hoàng à". Vâng, vì lợi ích cho các linh hồn, còn có biết bao linh mục đã trải lòng yêu thương của mình ra để giáo dân được sống, được bình an, và mối dây tình thân của mục tử tốt lành với đàn chiên ngoan ngày càng thêm bền chặt. Linh mục trở thành cửa công chính cho giáo dân tiến vào bên trong sự công chính của Thiên Chúa, trở thành cửa chuồng chiên, để qua các Ngài, giáo dân tiến vào bên trong sự hiệp nhất thánh thiện với nhau và với Thiên Chúa.

"Tôi là cửa cho chiên ra vào" (Ga 10,7). Chúa Giêsu mục tử tốt lành vì yêu thương các linh hồn Ngài là Cửa chuồng chiên để qua Ngài chúng ta tiến thẳng vào tình yêu Thiên Chúa như Ngài đã nói: "Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". Đây là sứ vụ của Chúa Giêsu Mục tử. Thiết tưởng đây không phải là niềm kiêu hãnh vô bổ của các linh mục, nhưng là một vinh dự của thiên chức gắn liền với trách nhiệm vô cùng lớn lao là trở nên một alter Christus, trở nên một cửa chuồng chiên mới thật an tâm cho giáo dân tiến vào với Thiên Chúa. Các ngài không chỉ tiếp nối vai trò trung gian cứu thế của Chúa Giêsu trên trần gian nầy, mà có thể nói, các ngài là trung gian thật của muôn ơn cứu chuộc khi chúng ta nhìn nhận Chúa Giêsu đang thật sự hoạt động trong các Ngài. Điều quan trọng và phải khấn xin là xin cho các ngài đồng ý để cho Chúa Giêsu sống và làm việc trong các ngài bằng sự khiêm tốn từ bỏ hoàn toàn bản chất con người và mặc lấy thần tính của Chúa Giêsu trong cuộc đời. Thật đáng quí và cũng thật khó khăn vất vả, nếu không tiếp nhận nguồn ơn nhiệm mầu của Chúa.

Chúng ta vui mừng tạ ơn Chúa, tạ ơn Giáo Hội đã dành thánh lễ Chúa Nhật 4 Phục sinh để cầu nguyện cho ơn Thiên Triệu Linh mục, cầu nguyện cho các linh mục, nhắc nhớ cho các linh mục sứ vụ cao cả của mình và bổn phận trở nên giống Chúa Giêsu Mục tử tốt lành, nhắc nhớ cho giáo dân bổn phận yêu mến các linh mục đúng cách là phải cảm thông với cuộc chiến đấu liên lỉ của các Ngài, phải thực sự hy sinh cầu nguyện cho các Ngài nên thánh, phải cộng tác với các Ngài cách tích cực, vô vụ lợi, và nhất là phải có trách nhiệm bảo vệ gìn giữ các Ngài thoát khỏi những mưu toan thế gian làm tục hóa thiên chức cao quí thánh thiện của Chúa Giêsu Mục Tử Tốt Lành đã trao ban như quà tặng đặc biệt chỉ riêng cho những người Chúa muốn.

Nguyện xin Chúa Giêsu Linh Mục ban muôn hồng ân cho các linh mục của Chúa và của chúng con, để các Ngài trở nên hiện thân sống động của Chúa Giêsu Mục Tử Tốt Lành, không chỉ khi cử hành hiến lễ tạ ơn mà cả trong đời sống thường ngày, mọi lúc và mọi nơi, và để qua các Ngài, chúng con tiến vào bên trong sự hiệp nhất thánh thiện với nhau và với Thiên Chúa. A men.

CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH
Ga 10, 1 - 10
Lm Anphong Trần Ðức Phương

Chúa Nhật IV Mùa Phục Sinh, thường được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Câu xướng trước Phúc Âm cuả các năm A, B và C đều trích trong Phúc Âm Thánh Gioan (10,14): "Ta là Mục tử nhân lành, Ta biết chiên của Ta, và chiên của Ta biết Ta!" Các bài Phúc Âm năm A, B và C đều trích trong Phúc Âm của Thánh Gioan:10, 1-10 (Năm A); 10,11-18 (Năm B); 10, 27-30 (Năm C).

Trong các bài Tin Mừng trên đây, Chúa Giêsu xác định Ngừoi chính là cửa của đoàn chiên, và cũng chính là người chăn chiên nhân lành. Chỉ những chủ chiên nào đi theo cửa của Ngừơi (theo đường lối của Người) mới là chủ chiên thật (Gioan 10,2).

Suy nghĩ về Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, Cha M. D. Phillippe, O.P. viết những lời suy niệm sau đây:

"Mọi công việc trong cuộc đời truyền giáo của Chúa Kitô, vị Chủ Chăn Nhân Lành, đều đơn giản là những công việc của tình thương xót đối với đoàn chiên, đối với mọi người. Tuy nhiên, chính nơi cơn "hấp hối" tại vườn "Cây Dầu" và trên Thánh Giá mà chúng ta cảm nghiệm được trọn vẹn Lòng Thương Xót của Chúa.

"Mọi khổ đau của những người tội lỗi, mọi hậu quả của tội lỗi, Chúa Kitô đều vui lòng mang lấy vào mình. Không một khổ đau nào của nhân loại xa lạ với Chúa Kitô. Người thấu suốt tất cả và mang lấy tất cả vào trong thâm sâu của trái tim Người. Người đã sống những giây phút thật căng thẳng mà không ai có thể cảm nghiệm được. Người mang lấy tất cả vì tình yêu vô biên đối với mọi người chúng ta. Tình thương xót của Chúa thật huyền diệu và đi đến tuyệt đỉnh!

"Là vị Mục Tử nhân lành, Chúa Kitô biết những điều Người phải làm. Người biết từng con chiên với những yếu đuối và những nhu cầu của từng con chiên. Người biết rằng để trở nên một Mục Tử nhân lành theo đúng ý nghĩa, người chủ chăn phải yêu mạng sống của con chiên hơn mạng sống của mình; phải muốn đặt mình vào hạng những người tội lỗi, vào hạng những người bị ruồng bỏ để có thể cứu vớt mọi người; phải dám 'tự hủy ra không' để có thể chấp nhận mọi bất hạnh, khinh chê, và bị coi như tầm thường hơn hết mọi người!

Khổ hình Thập Giá với ý nghĩa đặc biệt trọn vẹn của khổ đau để cứu chuộc, đã tỏ cho chúng ta thấy rõ tình thương xót vô biên của Chúa. Không từ chối gì cả, Người đã chấp nhận mọi khổ đau, mọi nhục nhã, mọi gánh nặng tới mức không còn có thể chịu đựng hơn được nữa. Như vậy, lòng Thương Xót của Chúa không phải chỉ ở chỗ tìm đến để giúp đỡ những người yếu đuối, mà còn ở chỗ, như một người mẹ, cúi mình xuống tận những kẻ đã sa ngã và cúi xuống sâu hơn họ để cứu vớt họ và nâng họ lên (chứ không phải kéo họ lên; Người đã vác con chiên lạc lên vai và đưa về đoàn, đưa về lại cuộc sống).

Tự hạ mình xuống sâu thẳm, Chúa Kitô đã muốn bị coi như kẻ đáng tội hơn cả Babara (Mat-theu 27,16...), như một kẻ tội phạm công khai, như một kẻ nói phạm thượng, như một kẻ thù của lề luật Moise, kẻ không chịu giữ ngày Sabat, một kẻ nguy hiểm quấy phá dân chúng. Hơn nữa, Chúa Kitô còn muốn trở nên như một đồ vật mà người ta che mắt không dám nhìn, đến nỗi khi đã chết rồi còn bị người ta đâm vào cạnh sườn thấu tới trái tim.

"Như vậy, Tình thương xót của Chúa là một thực thể bao quát tất cả con người, không một chi thể nào trong thân thể của Người không bị thương tích, và linh hồn Người cảm thấy buồn sầu đến chết đi trong cơn hấp hối (Mat-thêu 26,38).

Hy lễ thập giá thật là một sự tôn thờ tuyệt đỉnh và cũng biểu lộ tình Chúa thương xót đến tuyệt đỉnh. Nơi trái tim của Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá vừa mang sự Thờ Phượng (Chúa Cha), vừa mang tình thương xót nhân loại như anh em để giúp đỡ họ, an ủi họ, chuộc lấy mọi tội lỗi của họ và đem lại cho họ nguồn sống mới." (Dịch theo bản tiếng Anh, trong Magnificat, April 2005, Fourth Sunday of Easter; những chữ ở ngoặc đơn là chú thích của người dịch).

Ðọc những dòng trên đây, chúng ta càng hiểu biết sâu xa hơn tình thương xót cuả Chúa Giêsu, Ðấng Chăn chiên nhân lành, đối với đoàn chiên như thế nào, đến nỗi đã chấp nhận mọi khổ đau đến cùng cực và đổ đến giọt máu cuối cùng cho đoàn chiên của Chúa! Và khi không còn sống ở trần gian nữa, Người vẫn tiếp tục "nuôi sống đoàn con" bằng chính Mình và Máu Thánh Người hiện diện thật sự trong Hình Bánh và Hình Rượu (Bí tích Thánh Thể), và thánh hóa đoàn chiên bằng các "phép Bí tích nhiệm mầu."

Thực sự, qua hoạt động của Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu vẫn ở với Giáo Hội " mọi ngày cho đến tận thế!"( Mattheu 28,20) Chúa Giêsu vẫn là vị Chủ Chăn chính điều hành Giáo Hội và qua các thời đại Chúa luôn luôn dẫn dắt đoàn chiên Chúa nhờ sự lãnh đạo của các vị chủ chăn Chúa chọn. Chúa đã chọn Thánh Phêrô và các Thánh Tông đồ và thành lập Giáo Hội Chúa kể từ ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Ngài và thánh hóa các Ngài. Từ đó, qua từng thế kỷ, Chúa vẫn tiếp tục gọi và chọn một số người để làm Chủ chiên chăn dắt Ðoàn chiên Chúa.

Chúa chọn ai?
"Chúa chọn những người mà Chúa muốn (Matco 3,13 ) và trao cho những nhiệm vụ theo Thánh ý Chúa: Người thì làm Tông đồ, người thì làm Ngôn sứ, người thì chuyên rao giảng Tin mừng, người chuyên lo việc quản trị và giảng dạy... (Thơ Epheso 4,11). Không ai có quyền đặt mình vào địa vị trong Giáo Hội, nhưng tất cả đều do Chúa chọn và cắt đặt.

"Nhưng tại sao Chúa chọn con?"
Vào những ngày sắp chịu chức Linh Mục, theo sự hướng dẫn của Cha Linh hướng và Cha Giảng Phòng (giảng tĩnh tâm để chuẩn bị chịu chức Linh mục) tôi thường cầu nguyện và nói thầm với Chúa: "Tại sao Chúa chọn con?"... Rồi vào ngày Lễ Truyền Chức cũng như dịp Lễ "Mở Tay" (Lễ Tạ Ơn) tôi thật cảm động khi nghe ca đoàn hát: "Không phải vì con Chúa chọn con! Nhưng vì bí nhiệm tình yêu Chúa!.

Vâng, "không phải vì con Chúa chọn con" nhưng Chúa chọn "những ai mà Chúa muốn" (Matcô 3,13), sau khi Chúa đã lên núi một mình để cầu nguyện suốt đêm ( Luca 6,12 ). Ðó thật là một sự kỳ diệu của Ơn Gọi theo Thánh Ý Chúa. Chúa gọi Phêrô dù Ông đã "chối Chúa tới ba lần dù Chúa đã cảnh cáo Ông trước!" và lại còn đặt Ông làm Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội. Chúa đã chọn Phaolô ngay trên con đường Ông đi tìm bắt và bách hại đoàn chiên non trẻ của Chúa! Và suốt đời Ông vẫn phải mang những "yếu đuối" của mình 'Ai yếu đuối mà tôi không yếu đuối!'... (2 Cor. 11,29 ) Mọi người được Chúa gọi và chọn đều cảm thấy mình bất xứng và thật lo lắng trước trách nhiệm được trao phó" như Ðức Ðương Kim Giáo Hoàng Benedicto XVI, khi được bầu chọn lên ngôi Giáo Hoàng, trong "Lời Tâm Tình Ðầu Tiên của Ngài" cũng chia sẻ kinh nghiệm đó: "Tôi cảm thấy bất xứng và... thật lo lắng trước trách nhiệm được trao phó..." nhưng "Ơn Chúa đủ cho tôi!" (2Cor. 12,9...); nên Ðức Giáo Hoàng cũng nói tiếp: "Tôi cảm thấy như bàn tay quyền năng của Thiên Chúa nắm chặt lấy tay tôi. Tôi như nhìn thấy ánh mắt tươi cười của Chúa và lắng nghe Chúa nói với tôi đặc biệt vào lúc này: "Con đừng sợ!". Với tâm tình đó, những người được chọn đều khiêm tốn như Mẹ Maria để thưa lời "Xin Vâng!".

Như vậy, chúng ta mới hiểu tại sao Chúa Giêsu đã "lên núi thức suốt đêm để cầu nguyện" (Luca 6,12) trước khi chọn các Tông đồ. Hơn nữa trong đêm trước khi tự trao mình để chịu cuộc khổ nạn để cứu chuộc nhân loại, trong Bữa Tiệc Ly, Chúa đã cúi mình xuống để rửa chân cho các Tông đồ để dạy cho các Ông bài hoc phục vụ trong khiêm tốn và Chúa đã tâm tình và căn dặn các tông đồ nhiều điều mà Phúc Âm theo Thánh Gioan đã ghi lại suốt các đoạn 13, 14, 15; còn toàn đoạn 17 ghi lại những lời Chúa Giêsu cầu nguyện thiết tha với Ðức Chúa Cha cho các Tông đồ đang hiện diện, cũng như cho các Chủ chăn qua mọi thời đại; đặc biệt trong câu "Con không xin Cha cất họ ra khỏi thế gian; nhưng xin gìn giữ họ khỏi mọi sự dữ!" (Gioan, 17,15).

Trong thời gian giúp các giáo xứ Hoa Kỳ, khi gặp gỡ Giáo dân, thường có những người sau khi chào hỏi đã nói với tôi một cách thân tình "Thank you Father for being a priest!" (Cám ơn Cha đã là một Linh Mục!". Chúng ta thường có lòng yêu mến và hằng cầu nguyện cho các chủ chăn trong Giáo hội; nhưng đặc biệt trong ngày Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, chúng ta hãy dâng nhiều hy sinh và lời cầu nguyện cho Ðức Giáo Hoàng cũng như cho các chủ chăn trong toàn thể Giáo Hội, cách riêng các chủ chăn Chúa sai đến làm việc giữa chúng ta.

Chúa Nhật IV Mùa Phục Sinh cũng là Ngày Thế Giới đặc biệt cầu nguyện cho Ơn Gọi (World Day of Prayer for Vocations): Trong Thánh lễ cũng như trong các kinh nguyện, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện cho có nhiều người được Chúa gọi và chọn để trở nên các nhà Truyền giáo và Chủ Chăn để rao giảng và chăn dắt Ðoàn chiên Chúa.Chúng ta cũng cầu xin với Mẹ Maria, Mẹ Hàng Gíao Sĩ, chuyển cầu cho chúng ta.

MỤC TỬ TỐT LÀNH
Ga 10, 1 - 10
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Một trong những bức ảnh ấn tượng nhất đối với tôi vẫn là bức tranh ảnh vẽ Chúa Giêsu đang vác con chiên trên vai và xung quanh Ngài là cả một bầy chiên. Hình ảnh này vẫn theo tôi mãi và giờ đây tôi đang phục vụ anh chị em Dân tộc Kơho, thì hình ảnh những đàn dê, những đàn cừu vẫn là những gì rất thiết thân, gần gũi tôi.Dù rằng cừu dê lúc này ít thấy nơi những cánh đồng, nơi những gia đình người Dân tộc, nhưng dẫu sao hình ảnh Chúa Giêsu vác chiên trên vai vẫn gây xúc động thật nhiều nơi tôi. Hôm nay, Giáo Hội mừng lễ Chúa chiên lành, nhìn vào Chúa đang vác chiên, quả thực ai cũng có những cảm nghĩ thật cảm động. Hình ảnh ấy là lời mời gọi thúc bách đến những người nam, người nữ hãy quảng đại, dấn thân tận hiến cuộc đời mình để phục vụ Nước Chúa trong sứ vụ linh mục và ơn gọi làm tu sĩ nam nữ...

Đức Giêsu là mục tử tốt lành. Người yêu thương từng con chiên và yêu thương cả đàn chiên. Thánh vịnh 22 ( 23 ) nói về " Chúa chiên lành ". Mọi người chúng ta đều nghĩ về Chúa Giêsu, nhưng thực tế Thánh Vịnh nói về Chúa Cha. Tuy nhiên, trong mầu nhiệm Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần là một. Do đó, nói về Cha cũng đồng thời nói về Con và Thánh Thần. Chúa Giêsu đã đến trong thế gian mang theo tình yêu của gia đình, tức là Thiên Chúa Ba Ngôi. Nơi gia đình, Thiên Chúa Ba Ngôi, tình yêu luôn tràn đầy. Chúa Giêsu đã nói: " Tôi biết chiên của tôi ". Biết ở đây có nghĩa hiểu rõ ràng những nhu cầu, những điều cần thiết cho thể xác và linh hồn. Chính vì thế, mọi người hãy tin tưởng nơi Người. Khi Chúa nói: " Chiên tôi thì nghe tiếng tôi ", có nghĩa các chiên chỉ nghe tiếng một mình Người, đừng nghe bất cứ tiếng người nào khác, chỉ có Người là mục tử duy nhất chân thật. Chúa cũng đã nói: " Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào " ( Ga 10, 10 ). Chúa muốn nói Người dẫn chiên trên những đồng cỏ xanh tươi và bên những dòng suối nước mát. Người nuôi dưỡng nhân loại bằng chính lương thực vô giá là Mình Máu của Người.

Để tiếp nối sứ mạng của Người nơi trần gian này, Chúa Giêsu đã chọn nhiều môn đệ, nhiều tông đồ làm cánh tay nối dài của Người để rao giảng Tin Mừng và để dẫn dắt giáo dân. Chúa Giêsu đã sai các mục tử đến hướng dẫn giáo dân và tiếp nối công việc của Chúa ở trần gian này. Ngày Chúa nhật IV Phục sinh, Đức Thánh Cha đã dành ngày này để cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và ơn gọi tu sĩ nam nữ. Chắc chắn Hội Thánh luôn cần đến những mục tử tốt lành để phục vụ Giáo Hội và con chiên. Chúng ta hãy cầu nguyện cho có nhiều linh mục, tức các mục tử tốt lành để tiếp nối công việc cứu độ của Chúa. Xin cho có nhiều linh mục đạo đức, thánh thiện như lòng Chúa mong ước. Chúng ta phải cầu nguyện nhiều và chính chúng ta phải trở thành đàn chiên tốt.

Chúa Giêsu đã từ trời xuống trong lòng Thiên Chúa Ba Ngôi có từ đời đời và tuyệt đối thánh thiện, ba lần thánh. Còn các linh mục là những người xuất thân và đến từ những gia đình trần gian. Chúng ta cầu nguyện cho các Ngài luôn là những mục tử tốt lành, đạo đức, thánh thiện biết nuôi dưỡng giáo dân như Chúa Giêsu, nghĩa là luôn biết yêu thương giáo dân, sẵn sàng hy sinh vì giáo dân và sốt sắng dọn bài giảng tốt, mang lại những hoa trái tốt đẹp cho giáo dân.

Chúng ta phải luôn nâng đỡ các linh mục và cầu nguyện cho các linh mục để các Ngài sống như Chúa Giêsu đã sống, đã làm: " Yêu như Thầy yêu " và " Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu " ( Ga 15, 13 ).

Lạy Chúa Giêsu, Mục tử tốt lành xin tiếp tục ban cho thế giới, cho nhân loại các Mục tử như lòng Chúa mong ước. Amen.

CHỌN VÀO CÁNH CỬA GIÊSU
Ga 10, 1 - 10
LM Giuse Trương Đình Hiền

Chúa Nhật "Chúa Chiên Lành" lại trở về trong nhịp sống Phụng vụ của Dân Chúa. Mầu nhiệm Đức Kitô, Vị Mục Tử nhân lành và là "cửa chuồng chiên" lại được Phụng vụ một lần nữa khơi gợi để cộng đoàn chúng ta cùng suy tư, chiêm ngưỡng và cầu nguyện. Chúa Nhật Chúa Chiên lành năm nay lại trở về trong bối cảnh Hội Thánh tại Việt nam đang nỗ lực với định hướng mục vụ giáo dục Kitô giáo mà đối tượng chính yếu là các gia đình. Chính vì thế, trong ngày "Quốc tế thiên triệu linh mục và tu sĩ" nầy, chúng ta sốt sắng cầu nguyện cho các gia đình công giáo ý thức hơn vẽ đẹp và sự cao quý của chức linh mục và đời sống tu trì, đồng thời góp phần tích cực hơn trong việc cỗ võ và đào tạo ơn gọi thánh hiến từ trong các gia đình. Giờ đây, để xứng đáng cử hành Thánh lễ, xứng đáng sống trọn vẹn ơn gọi của Bí Tích Thánh Tẩy, là nhiệm tích đưa chúng ta vào đời sống siêu nhiên do chính Đức Kitô Vị Mục Tử Nhân Lành dẫn đưa và chăm sóc, chúng ta hãy (đón nhận Nước Thánh với tâm hồn sám hối).

Giảng Lời Chúa :
Từ xa xưa trong cựu ước, danh xưng "Mục tử" đã thấp thoáng trong ngôn ngữ Thánh kinh: Tổ phụ Giacóp đã chúc phúc cho các con trong một bài ca kinh thật dài, mà danh xưng Mục Tử được qui hướng cho Gia-vê Thiên Chúa toàn năng :

"Những cây cung của nó vẫn vững vàng,
Và những cánh tay của nó vẫn lanh lẹ,
Nhờ tay Đấng Vạn năng của Gia-cóp,
Nhờ danh Vị mục Tử, tảng Đá của Ít-ra-en." (St 49, 24)

Nhưng các nhà Kinh Thánh học vẫn cho rằng : Danh xưng và hình ảnh Thiên Chúa - Mục tử được khắc họa rõ nét nhất qua những lời cầu nguyện nơi các thánh vịnh, đặc biệt với hai thánh vịnh 22 và 79 :

"Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì" (Tv 22,1)
"Lạy Mục Tử nhà Ít-ra-en,
Ngài là Đấng chăn giữ nhà Giu-se,
Như chăn giữ chiên cừu, xin hãy lắng tai nghe !" (Tv 79,2)

Và chắc chắn danh xưng nầy, hình ảnh nầy đã được các sứ ngôn như Ê-dê-ki-en, Giê-rê-mi-a, I-sa-ia-a...tiếp tục sử dụng cách tự nhiên và triển khai thêm những ý nghĩa phong phú:

"Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, thì Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt..." (Ez 34, 11-12)

Như Mục Tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa,
Tập trung cả đoàn dưới cánh tay.
Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng,
Bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt" (Is 40,11)

Và rồi, trên từng cây số của hành trình lịch sử cứu độ, Thiên Chúa, Vị Mục Tử nhân lành đó, lại sai nhiều "vị chăn chiên nhân loại" thay mặt Người chăn dẫn đoàn chiên, để cho "Dân Người không bao giờ vắng bóng mục tử" (Ds 27,15-20), như Mô-sê, Gio-suê, Đa-vít...

Và cũng từ khi xuất hiện các mục tử nhân loại đó, Thiên Chúa, qua miệng các ngôn sứ, không ngừng giáo dục, đào tạo, cảnh báo để làm sao Dân Chúa vẫn có được "những mục tử như lòng Chúa mong ước" (Gr 3,15; 23,3) và loại bỏ những mục tử xấu, phản bội Thiên Chúa và lý tưởng và sứ mệnh của mình (Gr 50,6; Ez 341-10...).

Và khi thời gian tới múc mãn kỳ, Thiên Chúa đã "sai Người Con Một", "Mục Tử của mọi mục tử", "Đấng Chăn Chiên Lành" phản ảnh trọn vẹn ảnh hình của Chúa Cha, Vị Mục Tử mà Dân Chúa bao ngàn năm mong ước ngóng chờ, đến giữa cánh đồng nhân loại để thi hành trọn vẹn sứ mệnh cứu độ và chăn dắt "Đoàn chiên mới của Thiên Chúa", đoàn chiên được chính Ngài hy sinh và cứu chuộc bằng giá máu, như chính Ngài đã dõng dạc tuyên bố :

"Tôi chính là Mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên" (Ga 10,11)... "Ta đến để cho chiên được sống và sống phong phú" (Ga 10,10). Những ngày Phục sinh vừa qua và trong những ngày nầy, phải chăng cộng đoàn Hội Thánh đang sống lại những biến cố, sự kiện và kỷ niệm liên quan mật thiết đến "Vị Mục Tử Nhân Lành" và công trình cứu độ của Ngài, một công trình mà "kỳ công thắng lợi" chính là một đoàn chiên đông đảo qui tụ muôn tiếng nói, mọi màu da, một Hội Thánh duy nhât, thánh thiện, công giáo và tông truyền.

Nhưng sứ điệp mà chúng ta dừng lại hôm nay lại chính là "Cánh cửa chuồng chiên", hay tạm gọi bằng một tên khác "Cánh cửa Giêsu", như đã được chính Đức Kitô phán dạy qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay : "Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu".

1. Cánh cửa Giêsu mở ra chiều thứ Sáu !

"Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu" (Ga 10,9). Đức Kitô nói những lời nầy hình như vào thời điểm khi cuộc hành trình dưới thế trong tư cách một "phàm nhân" của Ngài sắp sửa kết thúc, khi Người thấy trước "hầu hết các môn đồ" sắp sửa "sẻ đàn tan nghé" vì đối diện với thập giá, khi trong lòng của Giuđa đang trỗi dậy một mưu đồ bội phản để khước từ "lời chân lý của thầy Giêsu và quyết chọn những đồng bạc của mấy ông tư tế...".

Và như thế, cho dù không phải là một dự báo tiêu cực, thì chắc chắn, trong cái nhìn xuyên suốt thời gian và không gian của một Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự sống, Đức Kitô phải thấy có quá nhiều người sẽ không thèm chọn "cánh cửa Giêsu", cũng như Ađam, Eva thay vì chọn Lời Thiên Chúa đã "vươn tay chọn trái cấm ngon lành" !

Mà có sai đâu ! Khi buổi chiều thê lương trên đồi Sọ gần tắt nắng, khi những ồn ào của âm thanh sĩ nhục và cuồng nộ vẫn còn vang vọng lưng đồi, khi các người tử tội đang quằn quoại chiến đấu với tử thần trong những phút giây hiếm hoi sau hết...thì chỉ duy có một người duy nhất đã chọn "cánh cửa Giêsu" : "Ông Giêsu ơi ! Khi Ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi" (Lc 23,32)...

Nếu "cánh cửa Giêsu" mà cử mở riết theo đúng cái "qui trình" như buổi chiều Thứ Sáu Can-Vê, và sau đó thì tuyệt nhiên không có gì xảy ra, không còn gì để nói... thì e rằng, kể từ sau buổi chiều thê lương "thứ Sáu can Vê", chắc chẳng có con ma nào lại đi theo cái nẻo của "người trộm bên tay hữu", cái nẻo dẫn về một "Nước Chúa" mông lung và đâu đó vời vợi xa xôi.

2. Có nhiều đấy !
Nhưng, Ngày Thứ Nhất trong tuần đã đổi thay tất cả. Con đường dẫn cô gái làng chơi hoàn lương Maria Mađalêna về "Mộ trống" đã dần dần dẫn đưa Phêrô, Gioan, Tôma, hai môn đệ Emmau...đi tới cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh từ trong cõi chết; và rồi dẫn dắt bao la bạt ngàn nhân loại muôn tiếng nói, mọi màu da lũ lượt cùng nhau ngang qua "cánh cửa Giêsu" để tiến về quê hương hằng sống.

Mà cũng thật lạ lùng ! Nhút nhát, bốc đồng như Phêrô, đã từng khiếp nhược chối Thầy trước một con đàn bà đầy tớ. Thế mà, chỉ 50 ngày sau "Biến cố Phục Sinh", một nghị lực thần linh đã chỗi dậy trong ông, đến độ, chỉ trong một "bài làm chứng" súc tích, vắn gọn, ông đã chinh phục được một lần một "mẽ cá với 3.000 người rửa tội". (BĐ 1 : Cv 2, 41). Và rồi cũng chính với nghị lực thần linh ấy, "thay vì vâng phục loài người" để được an thân thoải mái, ông đã chọn "cánh cửa Giêsu" để phải một đời lao đao lận đận với cuộc bách hại dữ dội của Nêrô và cuối cùng chết thảm với hình khổ đóng đinh ngược đầu xuống đất.

Chính Phêrô đã cảm nghiệm sâu sắc chân lý nầy, nên Ngài đã sẻ chia như một lời di chúc mà chúng ta nghe công bố trong bài đọc 2 hôm nay :

Anh em thân mến, nếu làm việc lành và phải khổ mà anh em vẫn kiên tâm chịu đựng, thì đó là ơn Thiên Chúa ban. Anh em được Thiên Chúa gọi để sống như thế...

Mà có phải chỉ mình Phêrô đâu ! Suốt hai ngàn năm nay đã có hàng hàng lớp những con người quyết chọn "cánh cửa Giêsu" cho dù phải trả giá, nhẹ nhất thì cũng bằng một cuộc đời "nghèo khó với hành trang Tám Mối phúc Thật", như cuộc đời của bao nhiêu linh mục, tu sĩ nam nữ, những anh chị em tông đồ giáo dân, những người thiện nguyện...và cao nhất là bằng chính mạng sống như Anrê Phú Yên và 117 Thánh Tử đạo Việt nam, như bao chứng nhân anh hùng tử đạo hữu danh hay vô danh trên khắp cùng trái đất.

3. Ngày nay, có còn không những người chọn "cánh cửa Giêsu ?"
Sau hai ngàn năm, xem ra "Cánh cửa Giêsu" vẫn chưa phải là "đồ cỗ" để phải bị vất vào sọt rác của thời gian ! Bằng chứng là mới đây, khi vừa thôi chức vụ thủ tướng vương quốc Anh, Ngài Tony Blair đã quyết chọn "cánh cử Giêsu" để đi hết những ngày còn lại với người bạn đời. Trong khi đó, cự tổng thống Liên bang Sô Viết, Gorbacheb mới vừa "mặc khải cuộc hành trình niềm tin Kitô của chính mình".

Nhưng phải công nhận rằng : thế giới hôm nay có quá nhiều cánh cửa hấp dẫn và bắt mắt lạ kỳ đang mở toang để cám dỗ, chào mời, khiến sự chọn lựa của bao người luôn bị đặt trước một thử thách không nhỏ. Mà tâm lý nhân loại hôm nay lại thích "fastfood - mì ăn liền - mốt thời thượng". Chính vì thế, những giá trị đạo đức truyền thống của Á Đông như "Tam cương, Ngũ thường, nhân, nghĩa, lễ, trí, tin, công dung, ngôn, hạnh, cần kiệm, liêm, chính...hay của nền tu đức Kitô giáo như : Tin, Cậy, Mến, hảm mình, ăn chay, làm phúc, khó nghèo, trong sạch, vâng phục, bác ái, vị tha, phục vụ...gần như đang "lạc lõng giữa phố chợ đông người". mà một khi gia đình, xã hội không còn "đeo bám" các giá trị nhân bản và luân lý, đạo đức nền tảng nầy một cách anh hùng và sinh động, thì sẽ có nhiều người xa dần "cánh cửa Giêsu" để ào ạt chọn vào "cánh cửa của Satan", được khéo ngụy trang dưới bao nhiêu hình thức dễ thương bắt mắt.

Dù sao, ở giữa lòng Hội Thánh, thời nào Chúa cũng cho mọc lên những vì sao lấp lánh. Cuối thế kỷ 20, ngôi sao "Têrêsa Calcutta" rực sáng giữa bầu trời thế giới để chiếu dọi muôn người tìm đến "Cánh cửa Giêsu" qua con đường khiêm tốn, khó nghèo để phục vụ những người dưới đáy cùng xã hội. Đầu thế kỷ 21, Đức Gioan-Phaolô II, rồi mới đây chị Chiara Lubich, người khai sinh "Phong trào Folcolare - Tổ ấm", đã qua đời, nhưng đã để lại những di sản tinh thần quý giá giúp cho bao nhiêu con người tìm thấy "cánh cửa Giêsu" và mạnh mẽ can đảm chọn vào cánh cửa khó khăn nầy.

Mà không phải chỉ có những người mang niềm tin Kitô mới độc quyền chọn "cánh cửa Giêsu" đâu nhé. Tất cả những ai chấp nhận sống yêu thương, phục vụ, sẵn sàng xã thân vì chính nghĩa của tự do, công bình, bác ái, sẵn sàng đứng về phía của người cùng khổ để yêu thương và binh vực họ, để đồng cảm và sẻ chia như Lê thị Công Nhân, Nguyễn văn Đài, Trần Khải Thanh Thủy, cố giáo sư Hoàng Minh Chính...tất cả những người ấy, cho dù là tín đồ Phật giáo hay Cao đài, người lương, Tin Lành hay Hồi giáo...họ đang "chọn vào cánh cửa Giêsu đó nhé." Đúng như bài thơ của một ai đó với những câu thơ viếng nhà thơ hoạn nạn Nhân văn-Giai phẩm Trần Dần mất hơn chục năm trước (1997):

Những con người
chọn những đường đi hẹp
sẽ dẫn tới bao la ...
Về bên Chúa
có nhiều điều để nói ...
Những lời ấy
âm vang dội lại ...
Cho thế gian
bừng nở hoa hồng.


Chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau và cho những ai đang dấn thân sống trong chức linh mục và đời thánh hiến mãi mãi trung thành chọn "cánh cửa nhỏ - con đường hẹp" của Chúa Giêsu, của Tin Mừng" để cho dù có phải mất mát thiệt thòi hay lao đao lận đận một cách nào đó, thì luôn hãy nhớ rằng : cánh cửa nhỏ đó, con đường hẹp đó sẽ "dẫn tới bao la...về bên Chúa...và sẽ "cho thế gian bừng nỡ hoa hồng".

Nguồn vietcatholic.org

5558    08-05-2014 19:30:06