- Chúa Giêsu Là Vị Mục Tử Nhân Lành
- Mục Tử Nhân Lành
- Chúa Nhật IV Phục Sinh
- Ý Nghĩa Của Cuộc Sống
- Thái Độ Đối Với Công Việc
- Chúa Nhật IV Phục Sinh
- Chúa Nhật IV PS
- Đức Giêsu Mục Tử Nhân Lành
- Chúa Chiên Lành
- Mục Tử Nhân Lành
- Biết Chúa Khác Việc Biết Về Chúa
- Chúa Chiên Lành
- Mục Tử Thật - Mục Tử Giả
- Mục Tử Nhân Lành
- Mục Tử Với Đàn Chiên
- Chúa Nhật Chúa Chiên Lành
- Chúa Chiên Lành
- Mục Tử Và Đàn Chiên
- Mục Tử Tốt Lành
- Rao Giảng Đức Giêsu Đã Phục Sinh
- Mục Tử Tốt Lành
- Chúa Là Mục Tử Chăn Dắt Tôi
- Người Mục Tử Nhân Hậu
- Mục Tử Nhân Lành
CHÚA GIÊSU LÀ VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH
Ga 10, 11 - 18
Các Chúa Nhật đầu mùa Phục Sinh, Hội Thánh trình bày cho chúng ta suy niệm các trình thuật Phúc âm liên quan đến biến cố Chúa Phục Sinh. Nhưng Chúa Nhật này, cũng trong bối cảnh Mùa Phục Sinh, Hội Thánh lại trình bày cho chúng ta biết, Chúa Kitô là Đấng Chăn Chiên Nhân Lành. Hội Thánh muốn nhắc nhở rằng: Chúa Kitô vẫn là Mục Tử Nhân Lành cho đến đời đời. Chúa đã là Mục Tử Tốt Lành hiến dâng mạng sống để cứu lấy đoàn chiên. Và hôm nay khi đã Phục sinh, Chúa vẫn tiếp tục chăn dắt từng người chúng ta, bằng chính Thánh Thần của Người. Chính nhờ được chăn dắt bằng Thánh Thần, đoàn chiên lãnh nhận một Tình Yêu Phục Sinh, một sức sống mới tràn đầy. Vì thế, mãi mãi Chúa Kitô vẫn hiện diện giữa đoàn chiên, không ngừng hiện diện trong vũ trụ, Người vẫn là Mục Tử và không ngừng là Mục Tử. Vị Mục Tử nhân từ và yêu thương vẫn không ngừng nhân từ, không ngừng yêu thương.
Toàn bộ Lời Chúa hôm nay đều xoay quanh chủ đề Đấng Chăn Chiên nhân lành. Mục tử là người chăn chiên. Đây là hình ảnh rất quen thuộc đối với người Do Thái chuyên sống nghề du mục. Vì vậy, suốt thời Cựu ước, hình ảnh người chăn chiên trở thành một trong những hình ảnh biểu tượng phong phú và sống động nhất, được dùng để diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và dân Do Thái. Họ như một đoàn chiên riêng của Thiên Chúa, được Người chăm sóc đặc biệt. Và bây giờ, Chúa Giêsu áp dụng hình ảnh đó cho chính Ngài và đoàn chiên của Ngài là chính chúng ta.
Chúa Giêsu đã nói: "Ta là mục tử nhân lành, Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta" (Ga 10, 14), và Ngài còn quả quyết sự hiểu biết của Ngài đối với mỗi người cũng như sự hiểu biết giữa Ngài với Cha Ngài: "Chúa Cha biết Ta, và Ta biết Chúa Cha, và Ta hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên"(Ga 10, 15). Chúa Giêsu là chủ chăn tốt lành của chúng ta vì Ngài biết chúng ta. Một người chăn chiên chuyên nghiệp biết số chiên trong bầy có bao nhiêu con. Họ biết từng con một, về ngày sinh tháng đẻ, để có thể xén lông hay gây giống. Họ có tên gọi cho từng con, biết bệnh tật từng con để cứu chữa. Thực vậy, Chúa Giêsu là chủ chăn tốt lành, Ngài biết từng con chiên, Ngài biết chúng ta là những nhân vị, là những Kitô hữu. Ngài biết chúng ta hơn chúng ta biết mình. Ngài thấu suốt tư tưởng, ước mơ, lời nói, việc làm, dự định, khuynh hướng tốt xấu của chúng ta. Ngài biết rõ từng người: ai là con chiên tốt, trung thành, ngoan đạo; ai là con chiên khô khan, phản bội. Tóm lại, không ai có thể lẩn trốn khỏi mắt Chúa, bất cứ sự gì, dù thầm kín hay bí mật đến đâu, Chúa cũng biết hết.
Hơn nữa,Chúa Giêsu là chủ chăn tốt lành đích thực của chúng ta, vì Ngài ân cần chăm sóc chúng ta. Ngài đã phục sinh nên luôn ở bên chăm sóc từng người chúng ta, Ngài yêu thương chúng ta dù chúng ta không quan tâm đến. Quả thực, suốt cả một đời hy sinh, giảng dạy, ban ơn cứu độ cho con người và Chúa còn muốn thực hiện đặc tính sau cùng của một chủ chăn tốt lành là chết vì con chiên và cho con chiên, để minh chứng lời Ngài đã nói: "Không có tình yêu nào lớn hơn, cao quý hơn là chết cho người mình yêu".
Nói cách khác, Đức Giêsu chính là nhân vật mà ngôn sứ Ezekiel tiên báo. Giống như David người mục tử nhân lành, Ngài chăm sóc những con yếu đuối bơ vơ, chữa lành con nào bệnh hoạn, và đi tìm những con lạc đường mất lối. Đức Giêsu còn làm hơn thế nữa. Ngài tự hiến mạng sống cho đàn chiên của Ngài. Và Ngài lại còn làm hơn như thế. Ngài đã sống lại từ cõi chết và chia sẻ đời sống Phục sinh của riêng Ngài với đàn chiên.
Thánh Phêrô nhắc nhủ trong bài đọc thứ nhất ngày hôm nay, Ngài nói với dân chúng rằng chính nhờ quyền năng Đức Giêsu mà người tàn tật ấy được chữa lành. Ngài mời gọi dân chúng tin vào Chúa Giêsu để được chữa lành phần hồn giống như kẻ tật nguyền được chữa lành phần xác. Đây cũng là điều thánh Gioan nhắc nhớ trong bài đọc thứ hai hôm nay; nhờ Chúa Giêsu, Thiên Chúa Cha đã làm cho chúng ta trở nên con cái riêng của Ngài.
Chúng ta phải đáp lại tất cả những lời đó cách nào đây?
Trước hết, chúng ta hãy tỏ lòng biết ơn đối với Chúa Giêsu, vì nhờ sự chết và sống lại của Người mà chúng ta được cứu khỏi phải chết đời đời để được sống vĩnh viễn.
Đây là điều thánh Gioan nhắm nói đến trong bài đọc thứ hai: "hiện giờ chúng ta là con cái Chúa, nhưng vẫn chưa biết rõ chúng ta sẽ trở nên thế nào, tuy nhiên chúng ta biết rằng khi Đức Kitô hiện ra, chúng ta sẽ nên giống như Ngài. Bởi vì Ngài thế nào thì chúng ta sẽ nhìn thấy Ngài như vậy" (1Ga 3, 2).
Thứ đến chúng ta phải cởi mở tâm hồn mình với Đức Giêsu, vì Ngài đang ở với chúng ta ngay lúc này để tiếp tục công việc cứu rỗi của Ngài. Ngài vẫn tiếp tục chăm sóc kẻ yếu đuối, chữa lành người đau ốm, băng bó người bị thương tích, đem người lầm lạc trở về và tìm kiếm những người đã lạc mất.
Đức Giêsu quả là Mục tử nhân lành mà Thiên Chúa đã hứa ban cho chúng ta. Ngày nay, Ngài vẫn còn tiếp tục cư ngụ giữa chúng ta và thông ban sự sống phục sinh của Ngài cho chúng ta.
Là con cái của Chúa Giêsu, chúng ta hãy mau mắn bước theo Ngài, đó là cách đáp trả của lòng tin. Đồng thời, chúng ta hãy yêu mến và phó thác cuộc đời vào Ngài bởi vì Ngài chính là lẽ sống cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết sống tâm tình của người con thảo hiếu, cảm thấy hạnh phúc vì được sống trong Hội Thánh, trong sự che chở của Ngài. Lạy Chúa Giêsu, Ngài chính là vị Mục Tử Nhân Lành, xin hãy thương xót chúng con. Amen.
MỤC TỬ NHÂN LÀNH
Ga 10,11-18
1. LỜI CHÚa: "Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên" (Ga 10,11).
2. CÂU CHUYỆN: MẸ CHẾT THAY CON
Trên một tờ báo y học ở Ac-hen-ti-na, bác sĩ Giăng Coóc-tê (Jean Cortez) đã kể lại trường hợp đặc biệt mà chính ông đã chứng kiến. Ông đang điều trị cho một bé gái tên là Ăng-gien (Angel). Em bị ung thư bao tử, một bệnh rất hiếm gặp thấy nơi trẻ em. Sau khi giải phẫu và điều trị đủ cách, ông đành phải báo tin buồn cho bà mẹ của bé sự bất lực của ông trước căn bệnh hiểm nghèo này, và cho biết bé Ang-gien đã chết! Bà Ma-ri-a mẹ em bé gần như hóa điên khi nghe tin dữ ấy. Bà nhất quyết không cho ai đụng vào thi thể của con, và quỳ cầu nguyện nhiều giờ bên giường con. Bác sĩ Coóc-tê rất xúc động khi nghe bà cầu xin để bà được chết thay cho con. Ông cùng mọi người im lặng ra ngoài để bà một mình với đứa con đã chết.
Nửa tiếng đồng hồ sau, mọi người lại vào phòng và rất ngạc nhiên khi thấy bé Ăng-gien bây giờ đã khỏe lại. Gương mặt em rạng rỡ vui vẻ như không có bệnh tật gì. Em đang ngồi trên giường, còn mẹ em thì nằm gục bên cạnh giường và sắp chết. Bà thều thào nói với bác sĩ rằng: "Thưa bác sĩ, tôi rất mừng được Chúa thương nhậm lời cầu của tôi là cho tôi được chịu bệnh thay cho con tôi!". Bấy giờ bác sĩ Coóc-tê lập tức cho tái xét nghiệm và kết quả là bé Ăng-gien đã hoàn toàn bình phục, còn bà Ma-ri-a thì lại mắc chứng bệnh bao tử của em mà trước đó bà chưa hề mắc phải. Thân nhân xúm lại xung quanh bà Ma-ri-a để động viên an ủi bà và hứa sẽ nhận bé Ăng-gien làm con và sẽ chăm sóc nuôi dạy bé nên người tốt sau này. Vài giờ sau bà Ma-ri-a đã ra đi trong bình an. Bà được mọi người kính phục vì tình mẫu tử cao quý bà dành cho con. Bác sĩ Coóc-tê kết luận: "Tôi không thể giải thích tại sao lại có thể xảy ra như thế được! Vì rõ ràng trước đó cô bé Ăng-gien đã chết. Có thể đã có một tài năng siêu phàm nào đó tác động và hoán chuyển căn bệnh quái ác từ nơi đứa con sang cho bà mẹ!".
3. NỘI DUNG TIN MỪNG: Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã tự ví mình như vị Mục Tử nhân lành. Sự nhân lành của người Mục Tử được biểu lộ qua 3 hành động sau: Một là biết rõ từng con chiên và cũng được chiên nhận biết và đi theo. Hai là quan tâm đến cả đoàn chiên, nhất là những con chiên bị đau ốm, thương tích hay lạc đàn. Ba là sẵn sàng thí mạng đương đầu với sói rừng để bảo vệ đoàn chiên.
4. SUY NIỆM: NHỮNG KHÓ KHĂN CỦA LINH MỤC THỜI ĐẠI MỚI:
Linh mục là mục tử dẫn dắt dân Chúa về phần linh hồn.
- "LINH MỤC, NGƯỜI LÀ AI?": Văn hào Giu-ăng A-ri-a (Juan Arias) viết: "Lạy Chúa, Linh mục là ai? Đối với nhiều người: Ông ta là một người cô độc ích kỷ. Đối với nhiều người khác: Ông ta là thứ trai già vô tích sự, một nhân viên bàn giấy của tôn giáo". Người nghèo tỏ vẻ bực bội khi thấy Linh mục hay tiếp xúc với người giàu có và rủa Linh mục là "đồ tư bản chết tiệt!". Nếu linh mục hiến thân chuyên lo phục vụ cho người nghèo ít học, bệnh tật, cô đơn... thì người ta lại ganh ghét và gọi Linh mục là "Đồ tả khuynh bần tiện!".
Làm Linh mục thời đại ngày nay thật không đơn giản chút nào!
"MỘT NGƯỜI LUÔN LUÔN SAI LẦM" (He is always wrong): Đây là tựa đề của một bài báo nhỏ nói lên sự cảm thông của các tín hữu đối với các Linh mục chủ chăn như sau:
* Giảng ngắn dưới 10 phút: "Ông Linh mục này lười không chịu dọn kỹ bài giảng!".
* Giảng quá 20 phút: "Ông ta là người ưa nói dai và nói dài!"
* Nếu giảng hùng hồn: Ông ta la lối om sòm thật bất kính với Chúa đang ngự trong nhà chầu!
* Nếu giảng với giọng bình thường: "Ông ta có biệt tài dỗ ngủ cho người bệnh khó ngủ!"
* Nếu năng đến thăm các gia đình trong giáo xứ: "Ông ta chẳng có việc gì để làm, suốt ngày la cà hết nhà này sang nhà nọ để kiếm chác! chẳng mấy khi thấy ông ta có mặt ở nhà để tiếp xúc với các người cần gặp hay để đi kẻ liệt!".
* Nếu ít đi thăm: "Ông ta chẳng quan tâm để biết con chiên của mình sống chết ra sao!".
* Nếu linh mục còn trẻ: "Ông ta mới ra trường nên tay nghề còn non và chưa có kinh nghiệm mục vụ!".
* Nếu đã cao niên: "Một lão già lẩm cẩm hủ lậu! Ông ta nên sớm về hưu đi là vừa!"
Thật đúng như người đời thường nói: "Ở sao cho vừa lòng người: Ở rộng người cười ở hẹp người chê". Làm Linh mục thật không dễ chút nào!.
5. CẦU NGUYỆN
- LẠY CHÚA GIÊSU. Thật hạnh phúc biết bao khi con biết rằng con đang được Chúa nâng niu bảo vệ. Chúa là Mục Tử tốt lành hằng yêu thương con. Chúa đã hy sinh chịu chết để đền tội thay cho con và không ngừng bảo vệ con khỏi bị ma quỉ tấn công. Xa-tan muốn cướp con khỏi bàn tay Chúa và biến con trở thành tay sai của chúng. Có những cám dỗ ngọt ngào, có những thách thức khổ đau. Xatan muốn con lạc xa tình thương của Chúa. Nhưng con tin rằng Chúa luôn nâng đỡ phù giúp con. Vì Chúa đã hy sinh mạng sống chịu chết đền tội thay cho con. nhiều lúc con đã từ chối tình thương của Chúa để phạm tội. Có lần con đã chán nản không muốn theo Chúa nữa. Con đã chọn lối sống tự do buông thả để cuối cùng phải lãnh lấy bao đau khổ bất hạnh. Xin cho con can đảm từ bỏ tội lỗi và bước theo con đường hẹp và đầy chông gai như Chúa khi xưa. Xin cho con luôn tuân giữ các giới răn, nhất là giới răn yêu người như Chúa đã dạy. Xin cho con luôn tin tưởng vào lòng từ bi nhân hậu, cậy trông phó thác vào sự quan phòng đầy yêu thương của Chúa. Nhờ đó, con hy vọng sau này sẽ được hưởng hạnh phúc với Chúa muôn đời.- AMEN.
LM ĐAN VINH www.hiephoithanhmau.com
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH
Jn. 10 , 11 - 19 .
Anh chị em thân mến.
Người Việt Nam chúng ta thường thì ai cũng biết đến câu chuyện cổ tích : Cái Đực rựa. Câu chuyện nói lên đời sống của hai anh em được người cha rất thương yêu.
Chính vì thế ông đã chuẩn bị tất cả, không để cho con của mình phải thiếu thốn điều gì. Khi ông nhắm mắt lìa đời, ông đã để lại một tài sản xứng đáng cho hai người con của mình. Không chỉ để lại mà thôi, ông còn dạy bảo nhắc nhở: Anh em phải yêu thương lo lắng cho nhau. Nhưng rồi, những điều lo lắng, những điều chỉ dạy và lời trối sau cùng của người cha kính yêu, không được thực hiện chu đáo.
Người anh cả khôn ngoan hơn, lại thêm tính tham lam, nên cuối cùng, người em hiền từ đơn sơ chỉ còn nhận được Cái đực rựa. Người em phải rời khỏi nhà cùng với gia tài mình được chia, gia tài mà người cha đã để lại, giờ đây anh chỉ nhận được có thế. Anh đã bị chính người thân thuộc nhất của mình tước đoạt tất cả. Anh cũng không có quyền ở trong nhà cha của mình, vì chính người con của cha mình, người anh ruột của mình, người thân nhất của mình, lại là người loại trừ anh ra khỏi cuộc sống. Đoạn kết câu chuyện, mọi người chúng ta đều biết: Ở hiền gặp lành.
Qua câu chuyện, tôi suy nghĩ: người cha rất thương yêu con của mình, nên ông đã dạy dỗ, chuẩn bị tất cả. Đáng lẽ những người con của ông đều được sung sướng. Nhưng cũng vì con ông không biết thương nhau, nên có những người phải cơ cực. Mặc dù ông đã làm tròn bổn phận của mình, nhưng ông không khỏi phiền lòng khi nhìn thấy những đứa con của mình đối xử với nhau như thế. "Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi." Chúa Giêsu là chủ đàn chiên của Ngài. Ngài là Người Cha nhân hậu, Ngài đã chuẩn bị tất cả những gì cần thiết cho đàn chiên của Ngài được hạnh phúc, được sung sướng. Chính vì thương yêu đàn chiên nhỏ bé, còn bơ vơ chưa thể tự mình đạt tới hạnh phúc được, nên Ngài dám hy sinh mạng sống mình để bảo vệ đàn chiên. Ngài biết từng con chiên, lo lắng cho từng con một. Ngài chỉ có mong ước duy nhất là làm sao các chiên của Ngài đều nghe tiếng để bước đi theo Ngài.
Chúng ta là con cái Thiên Chúa, chúng ta thuộc về đàn chiên của Chúa Kitô. Mỗi người trong chúng ta được Ngài yêu thương, chăm sóc, giữ gìn, và mỗi người cũng được bảo vệ bằng chính mạng sống của Ngài. Những con chiên trong đàn có được một Người chủ chăn tuyệt vời, thế mà cũng vẫn còn có nhiều con chiên ăn không đủ no, nó cũng không thể nào chống chọi lại nỗi với những cơn giá rét luôn ập xuống trên mình. Đôi khi còn tệ hại hơn nữa, nó phải đành chấp nhận nỗi cô đơn mà tách khỏi đàn để đối mặt với bao nhiêu nguy hiểm đang chờ đón.
Nó đói không phải vì trong đàn chiên thiếu thức ăn, trái lại, thức ăn vẫn đầy đủ và phần của nó vẫn còn đó. Nó lạnh, nó cô đơn, nó gặp nguy hiểm, không phải vì chủ không quan tâm. Nhưng nó phải chịu tất cả những điều bất hạnh đó, vì nó không tìm được sự cảm thông của những con chiên đồng loại. Nó cũng không tìm thấy được một sự quảng đại, nó cũng chẵng nhận được những cử chỉ yêu thương chân thành, mà nó chỉ thấy trước mắt nó những điều làm nó đau lòng. Trước một thực tế như thế, cùng với sự hiểu biết nông cạn, nó không thể nào nhận ra được tình yêu của Người Chủ Chăn Tuyệt Vời qua những chú chiên bạn bên cạnh nó được.
Câu chuyện cổ tích ở trên, chúng ta ngở rằng nó đã cổ xưa, đã đi vào quá khứ, nhưng thực ra nó rất hiện đại và vẫn là một câu chuyện thời sự nóng bỏng của ngày hôm nay. Cũng vẫn những tham lam, vẫn những tranh giành, vẫn những thủ đoạn loại trừ nhau. Cho dù tiếng chủ chăn vẫn vang lên thống thiết, còn những con chiên thì vẫn cứ mặc tình, vẫn cứ ồn ào náo nhiệt, vẫn cứ tranh chấp nhau, nên không thể nào nghe được hết những gì chủ chăn muốn nói.
Tiếng vị Chủ Chăn tuyệt vời cũng vang bên tai mỗi người chúng ta. Chúng ta có phải là con chiên trong đàn của Chúa Kitô thật sự không ? chúng ta đã nghe tiếng Ngài, và bước đi theo Ngài như thế nào trong cách sống của mình ?
Xin Chúa ban ơn cho chúng ta biết lắng nghe Lời Chúa, lời của vị Chủ Chăn Tốt Lành, để chúng ta luôn là con chiên ngoan trong đàn của chủ chăn, và là một bạn chiên tốt của các chiên.
Ý NGHĨA CỦA CUỘC SỐNG
Ga 10, 11 - 18
Bài đọc I (Cv 4, 8-12): Thánh Phêrô tuyên bố trước những nhà lãnh đạo Do thái rằng: Chúa Giêsu Phục Sinh là Đấng Cứu Độ duy nhất. Ngài chính là chính là viên đá gốc tường của toà nhà mới mà người ta loại bỏ. Động lực nào đã làm cho thánh nhân can đảm lạ thường? Phải chăng ông đã cảm nhận được tình yêu mà Chúa Giêsu đối với ông, một người phản bội!
Bài đọc II (1Ga 3, 1-2): Vì yêu thương mà Thiên Chúa đã chọn gọi chúng ta làm con Chúa trong Chúa Giêsu. Để chúng ta được thông phần hạnh phúc với Chúa, đồng thời mời gọi chúng ta hãy vui mừng và biết chia sẻ niềm hạnh phúc lớn lao ấy cho nhân loại.Vì chưng, ơn gọi của người Kitô hữu là ơn gọi để yêu thương.
Bài Tin Mừng (Ga 10, 11-18): Cho thấy Chúa Giêsu là mục tử nhân lành, Ngài biết chiên của Ngài, và chúng cũng nhận ra Ngài. Không giống như người chăn thuê, Chúa Giêsu sẵn sàng hiến mạng sống của mình để bảo vệ đoàn chiên.
Ba bài đọc đã cho ta một cái nhìn mới về ý nghĩa của cuộc đời. Cuộc sống của chúng ta hôm nay phần lớn được bao bọc bởi công việc. Vì vậy chúng ta hãy xem công việc hiện nay của tôi đang làm có tầm quan trọng và có ý nghĩa như thế nào? Nếu công việc tôi đang làm thật sự có ý nghĩa cho xã hội, thì quả thật đây là một diễm phúc cho ta. Còn nếu nó không mang một ý nghĩa nào, hay có nhưng rất ít thì thật là vô phúc.
Người ta nói: vấn đề đầu tiên của chúng ta trong cuộc sống là hãy tìm một việc làm có ý nghĩa. Khi đó nó sẽ thay đổi cuộc đời chúng ta. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu lặp đi lặp lại hai danh từ đối lập: Chủ chăn và người chăn thuê. Vậy đâu là sự khác biệt giữa vị mục tử nhân lành và người chăn thuê? Đó chính là hai thái độ hoàn toàn trái ngược nhau trong sứ mạng chăn dắt đoàn chiên. Người chăn thuê làm công việc này vì đây là một sự bắt buộc, làm để lãnh lương. Đối với anh ta đây chỉ là cái nghề, vì thế anh ta không đặt con tim của mình vào trong công việc. Còn vị mục tử nhân lành làm công việc chăn dắt đoàn chiên vì anh ta yêu mến nó, đó chính là lý tưởng của anh. Vì vậy, anh ta làm với một con tim nhiệt thành và hoàn toàn tự nguyện.
Người ta yêu vị mục tử nhân lành vì cuộc sống của anh ta hoàn toàn vì lợi ích của đoàn chiên. Đối với vị chủ chăn nhân hậu, anh ta tìm thấy một cái gì quý giá thật sự khi được chăm sóc đoàn chiên. Đối với anh ta đây không chỉ là công việc mà còn là một ơn gọi, một lý tưởng của cuộc đời.
Vì vậy anh ta đặt tất cả mọi tâm quyết cho công việc và làm hết khả năng. Khi đó anh ta sẽ có đủ sáng kiến để thực hiện hoài bảo, nhờ đó mà tài năng bắt đầu được nở rộ. Dù cho công việc có nhiều khó khăn trắc trở nhưng nhờ có lý tưởng và có động lực là tình yêu nên mọi chuyện đều trở nên nhẹ nhàng và đơn giản không gì là nặng nhọc. Chúng ta không thể có được hạnh phúc từ cuộc sống dễ dãi. Trách nhiệm nặng nề trong việc tự nguyện phục vụ tha nhân sẽ làm cho cuộc sống yêu thương sẽ càng có giá trị.
Chúa Giêsu đã tìm thấy lý tưởng của Ngài Khi Ngài khẳng định: Ta là mục tử nhân lành của đoàn chiên mà Chúa Cha trao phó. Hai đặc tính nổi bật trong sự liên hệ giữa chủ chăn và đoàn chiên là: Ngài chăm sóc đoàn chiên tận tình, sẵn sàng hiến mạng sống để bảo vệ đoàn chiên. Và Ngài biết các chiên của Ngài và chúng cũng biết Ngài. Đây là sự gần gũi giữa chủ chăn và đoàn chiên. Thiếu điểm này thì sự lãnh đạo trở thành sự áp bức.
Mỗi người chúng ta cũng phải chọn cho mình một lý tưởng. Khi có lý tưởng chúng ta sống và làm việc với một thái độ hoàn toàn khác hẳn với người không có định hướng, không có lý tưởng. Khi chúng ta thực hiện một công việc hay một bổn phận với một con tim héo úa mà không có động lực yêu thương chắc chắn chúng ta sẽ thất bại. Và quả thật, đây là một nỗi bất hạnh lớn nhất trong cuộc sống. Vì chúng ta không tìm thấy niềm vui và hạnh phúc từ trong công việc, và khi đó cuộc sống quả là gánh nặng.
Nhưng để chọn cho mình một lý tưởng không phải là vấn đề đơn giản. Vì chọn lựa nào cũng phải từ bỏ, chọn lựa nào cũng làm cho chúng ta phải nuối tiếc và mang lại đau thương. Nhưng chúng ta phải can đảm chấp nhận vì hiểu rằng chúng ta chỉ có hạnh phúc thật sự khi đi đúng con đường, đúng lý tưởng.
Khi đó chúng ta mới yêu mến công việc của mình. Vì chưng thánh giá nào cũng nặng, nhưng điều quan trọng là thái độ của chúng ta đối với thánh giá cuộc đời. Nếu chúng ta nhìn công việc của mình như là quà tặng và phương tiện nên thánh thì mọi chuyện sẽ trở nên nhẹ nhàng. Chúa Giêsu là người sống có định hướng và lý tưởng hơn ai hết, khi Ngài đưa ra dụ ngôn mục tử nhân hậu và người chăn thuê. Người mục tử thì yêu mến công việc của mình, đảm nhận cônmg việc chăn dắt vì tình yêu. Đây không phải là điều dễ dàng. Nhưng cho dù gặp nhiều khó khăn gian khổ anh cũng dễ dàng vượt qua. Vì tình yêu đã cho anh sức mạnh.
Mỗi người chúng ta đều là mục tử trong địa vị và bổn phận của mình. Vì vậy chúng ta phải đối xử với nhau cách có trách nhiệm và hoàn toàn vì yêu thương. Tránh thái độ thờ ơ đối với nổi khổ của anh em, cũng như hành quyền trên người khác. Vì Chúa Giêsu đã chết và phục sinh cho tất cả chúng ta. Ngài là Thiên Chúa, là vị mục tử nhưng Ngài lãnh đạo dân Ngài bằng tình yêu chớ không bằng quyền lực.
Lạy Chúa là Đấng nhân hậu và hay thương xót. Xin cho chúng con vững tin vào tình yêu của Đức Kitô phục sinh, vị mục tử nhân hậu đã thí mạng vì chúng con. Xin cho chúng con tỏ lòng biết ơn Chúa qua việc đối xử tốt với anh em. Xin Chúa cũng ban thêm cho chúng con có nhiều vị mục tử biết quảng đại dấn thân hoàn toàn vì lòng yêu mến Chúa và các linh hồn. Amen.
THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI CÔNG VIỆC
Ga 10, 11 - 18
Tin Mừng Chúa Nhật IV phục sinh cho chúng ta hai cái nhìn của hai con người v ề cùng một công việc. Đó là chủ chăn là người chăn thuê.
Chúa Giêsu đưa ra hai tiêu chuẩn để phân biệt đâu là chủ chăn thật sự và người chăn thuê. Chủ chăn thật sự thì sẵn sàng hiến mạng sống mình để bảo vệ đàn chiên. Còn người chăn thuê thì không. Anh ta chỉ làm công. Và tiền lương là động lực duy nhất để lôi kéo anh ở lại với đàn chiên. Khi gặp nguy hiiểm, anh ta lập tức quay đi mặc tình cho đàn chiên phải đối diện với nguy hiểm.Cùng một công việc là chăn chiên. Nhưng hai người có hai thái độ hoàn toàn trái ngược nhau.
Vậy động lực nào đã làm cho người chủ chăn thật có thể quên mình vì đoàn chiên? Tôi thiết nghĩ, có lẽ vì anh ta yêu mến công việc của mình, và xem nó như là một hoài bảo, một phần của cuộc sống, một ơn gọi trong cuộc đời mà anh hằng tìm kiếm. Chăm sóc đoàn chiên đối với anh không phải là cái nghề, cũng không vì lương bổng nhưng tất cả chỉ vì lý tưởng.
Còn người chăn thuê thì không như vậy. Trong thâm tâm anh chỉ là người làm thuê. Nên hay xo đo, tính toán, ngại khó khại khổ...Nên công việc đối với anh luôn là gánh nặng.
Chúng ta thấy, cùng một công việc là chăn chiên nhưng hai người có hai cách nhìn hoàn toàn trái ngược nhau. Không phải công việc nặng nhọc nhưng nặng hay nhẹ là do tự mình cảm nhận. Người ta kể rằng: có anh chàng kia vác thập giá về thiên đàng. Cùng đi với anh là cả một đoàn người. Không ai bảo ai. Với cây thập tự trên vai. Mọi người cứ âm thầm tiến bước.
Nhưng anh chàng này thấy những người kia vác thập giá như mình sao họ lại đi cách nhanh nhẹn và vui vẻ. Nên anh cằn nhằn Chúa vì nghĩ rằng: Thiên Chúa thật bất công khi trao cho anh một thánh giá nặng hơn thánh giá của những người khác. Cứ thế, đi một quảng, anh dừng lại và tỏ thái độ không bằng lòng với Thiên Chúa. Cuối cùng Chúa hiện ra với anh và bảo: Không phải thánh giá của con nặng hơn của nhưng người kia đâu. Thánh giá của mọi người đều như nhau cả. Con hãy cố gắng lên.
Nhưng anh ta vẫn không chịu, nhất quyết cho là thánh giá của mình nặng hơn. Cuối cùng Chúa chìu anh ta nên Ngài nói: nếu con cảm thấy nặng thì con hãy cưa bớt đi. Vẻ mặt anh ta trở nên vui tươi hớn hở và anh nói: nếu Chúa cho phép con sẽ làm ngay. Ngay lập tức anh ta cưa bớt thánh giá của mình một khúc. Rồi anh vui vẻ lên đường.
Khi đến trước cổng thiên đàng mọi người đều dừng lại vì phía trước họ là một con sông. Muốn qua sông để vào thiên đàng thì mọi người phải lấy thánh giá của mình làm cầu để đi qua. tất cả đã qua sông và vào được thiên đàng. Sau cùng anh chàng này cũng đến. Anh dùng thánh giá định bắc qua sông để vào thiên đàng. Nhưng hỡi ôi! Vì bị cưa đi một khúc nên thánh giá của anh không thể nào chạm được bờ bên kia của thiên đàng nên anh đành đau khổ khi thấy những người khác vui vẻ ở bên kia.
Trong cuộc sống, nhiều lúc chúng ta giống như anh thanh niên trong câu chuyện trên. Chúng ta hay phiền trách Chúa tại sao để cho tôi đau khổ như thế này? Hay tại sao Chúa gởi thánh giá cho con nặng như vậy?
Lời Chúa hôm nay sẽ giúp cho chúng ta hiểu vấn đề này một cách thấu đáo. Vấn đề quan trọng không phải là thánh giá nặng hay nhẹ nhưng là ở thái độ của chúng ta đối với thánh giá. Nếu chúng ta đón nhận công việc với thái độ tự nguyện, vui tươi thì cho dù có nặng nề nhưng nhưng ta cũng cảm thấy nhẹ.
Vì hiểu rằng công việc làm tăng phẩm giá con người, làm cho con người trưởng thành hơn. Chính nhờ lao động mà con người phát huy hết tiềm năng mà Thiên Chúa đã ban.
Lạy Chúa! Xin cho chúng con hiểu rằng thánh giá là cái giá phải trả cho sự nên thánh. Xin cho con đón nhận tất cả nhưng gì Chúa gởi đế với tinh thần tự nguyện, chấp nhận tất cả với thái độ vui tươi, nhờ đó mà mỗi ngày chúng con được lớn lên.
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH
Ga 10, 11-18
Chăn chiên là một nghề rất thịnh hành ở Palestina từ thời Cựu Ước cho tới thời Tân Ước. Người ta nuôi chiên vì nó mang lại nhiều nguồn lợi như sữa, thịt, lông... nên người Mục tử là hình ảnh rất quen thuộc đối với dân Israel .
Trong chăn nuôi vai trò và nhiệm vụ của mục tử rất quan trọng và khó khăn: vì không phải chỉ nuôi vài ba con chiên mà cả đàn lên tới mấy trăm hoặc mấy ngàn con chiên, muốn nuôi tốt một đàn chiên đông đúc như thế không phải chỉ cần đi cắt một mớ cỏ đem về là đủ, mà phải đi tìm những đồng cỏ lớn, và phải tiên liệu khi đàn chiên ăn hết đồng cỏ này thì phải dẫn đến đồng cỏ khác ngay; phải chọn những chỗ vừa có cỏ xanh vừa có bóng mát vừa có nước uống, ngoài ra còn phải bảo vệ chiên khỏi những nguy hiểm thường xuyên đe doạ như trộm cướp và thú dữ.
Có khi phải chiến đấu đến bị thương hoặc chết để bảo vệ đàn chiên, phải vất vả đi tìm những con chiên lạc. Người mục tử gắng bó mật thiết với đàn chiên nên phát sinh những tình cảm giữa chủ chăn và đàn chiên: người chăn chiên biết rõ từng con chiên với những đặc tính của nó, các con chiên cũng biết ai là chủ chăn của mình. Các chủ chăn thường đặt tên cho những con chiên làm "trưởng", ông chỉ cần gọi tên những con này, khi chúng đi theo chủ thì các con chiên khác cũng đi theo.
Ban đêm các mục tử thường nhốt chiên lại chung với nhau trên một khoảng đất trống có rào xung quanh, đến sáng các mục tử vào gọi tên các con chiên "tổ trưởng", chúng đi ra các chiên khác cùng đàn sẽ đi theo. Khi đếm đủ số, mục tử đi đầu dẫn đoàn chiên của mình ra đồng cỏ. Những con chiên không bao giờ nghe tiếng người lạ, nhưng sẽ bỏ chạy tán loạn.
Kinh Thánh thường dùng hình ảnh Mục tử hay chủ chăn để áp dụng cho những nhân vật lãnh đạo quan trọng trong Israel như Môisen, các Vua, các thẩm phán, các ngôn sứ. Đặc biệt nhất chính Thiên Chúa tự mô tả mình là mục tử (Tv 23, 80) và sau cùng Đấng Messia cũng được mô tả là Mục tử.
Quả thật, Chúa Giêsu là mục tử nhân lành, mục tử tốt, mục tử chăm sóc từng con chiên một, nhất là những con chiên yếu kém. Chúa Giêsu nhiều lần đã rơi lệ xót thương dân Do thái, vì họ như đàn chiên bơ vơ không người chăn dắt. Chúa giảng dạy, chỉ cho họ đường đi để có được hạnh phúc thật sự. Chúa cho họ ăn uống no nê trong những lần hoá bánh ra nhiều và dân chúng đã muốn tôn Ngài lên làm vua.
Chúa yêu thương những con chiên tật nguyền và chữa cho họ được lành bệnh chỉ nhờ vào lòng tin của họ. Đó là người mù từ thuở mới sinh, những người bị bại liệt, bị phong hủi, người đàn bà bị băng huyết, tất cả đều được Chúa Giêsu là mục tử chăm sóc chữa lành.
Những con chiên bị chết được Chúa cứu sống cho lành mạnh: đứa con gái ông Gairô, đứa con trai bà góa thành Naim, anh chàng Lagiarô bạn của Chúa, Chúa cứu chữa và thương xót những con chiên bị bệnh tật tinh thần như người phụ nữ phạm tội ngoại tình bị bắt quả tan, Chúa đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.
Không những là chăm lo, cứu chữa mà Chúa còn hiến mạng sống vì đàn chiên của mình "không có tình yêu nào cao quý hơn là chết cho người mình yêu."
Ngày hôm nay, Chúa Giêsu vẫn là mục tử tốt đối với chúng ta. Chúa không ngừng ban ơn chăm sóc chúng ta qua các Bí tích. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa không ngừng bằng đời sống thờ phượng Chúa hết lòng và yêu thương anh chị em chung quanh như Lời Chúa dạy.
Chúa nhật thứ tư Phục sinh bao giờ cũng là Chúa nhật Chúa Chiên Lành.
Có bao giờ anh chị em và các bạn tự dặt cho mình câu hỏi này: Bạn là ai? Tôi là ai? Tôi từ đâu đến? Tôi sẽ đi về đâu? Cuộc sống này có ý nghĩa gì?.....Có lẽ khi đặt câu hỏi như thế, chúng ta sẽ cho rằng đấy là vấn đề xa lạ, trừu tượng, không ăn nhập gì đến cuộc sống hiện tại của tôi. Không xa lạ đâu. Có chăng là vì chúng ta quen sống thực dụng quá, cho nên chúng ta không để ý đến thôi. Nhưng đấy lại là một câu hỏi rất căn bản. Hay nói một cách khác Chúa Giêsu là ai đối với tôi?
Và Ngài đã trả lời chúng ta trong Chúa Nhật IV Phục sinh nầy: "Ta là Mục tử tốt lành. Ta biết các chiên ta " ( x.Yn 10,14). Nhưng cái biết của Chúa Giesu không phải chỉ là cái biết thuần tuý, mà là cái biết của con tim và bằng con tim. Khi Chúa Giêsu nói rằng: " Tôi biết chiên của tôi " , thì đấy không phải chỉ là cái biết thuần tuý của lý trí mà là cái biết của tình yêu. Cái biết của một người không ngại chung chạ, gần gũi với những kẻ tội lỗi và những kẻ bị loại trừ ra khỏi xã hội để cảm thông, chia sẻ và cứu chữa họ. Cái biết của một người cha đang đợi chờ dứa con đi hoang trở về. Cái biết của một người không cầm được nước mắt khi đứng trước cái chết của đứa con một bà goá thành Naim. Cái biết của một vì Thiên Chúa không ngại để quỳ xuống rửa chân cho đám học trò của mình như một tên đầy tớ vậy. Cái biết của một người chấp nhận hy sinh mạng sống mình vì người khác và cho người khác được sống ... Chính vì thế mà Ngài nói thêm: " Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào. " (Yn 10,10)
Chúa Giêsu là đấng duy nhất đem lại cho ta câu trả lời trọn vẹn nhất.
Như vậy, anh chị em và các bạn hỏi tôi, làm sao tôi có thể cảm nhận được chức năng Mục tử của Chúa Giêsu đây, khi mà cuộc sống tôi có biết bao nhiêu là khó khăn từ vật chất cho đến tinh thần? Làm sao chức năng mục tử của Chúa Giêsu được tiếp nối trong lịch sử nhân loại và trong mọi hoàn cảnh cửa cuộc sống con người. Chúa Giêsu đã nghĩ đến điều đó từ lâu. Cho nên Ngài đã để lại trong Hội Thánh những con người có khả năng chia sẻ và tiếp tục sứ mạng mục tử ấy.
Đó là các Giám mục, các Linh mục. Đúng như thế. Các Ngài là những người được mời gọi sống theo tinh thần của Vị Mục Tử nhân lành để dẫn dắt đàn chiên Chúa hôm nay.
Sống tinh thần của Vị Mục Tử nhân lành còn là tất cả những ai có trách nhiệm với cộng đoàn của mình: Cha mẹ không phải là mục tử cho con cái mình sao? Các giáo viên lại chẳng phải là những mục tử cho học trò của mình à? Và trong mối hiệp thông của Hội Thánh, của con người, chúng lại không có trách nhiệm với người bên cạnh mình hay sao. Nói cách khác, chúng ta lại chẳng phải là mục tử của họ hay sao? Một lời thăm hỏi, một lời dộng viên khích lệ, một ánh mắt cảm thông, một con tim biết rung động và thổn thức, một hành vi chia sẻ, một cử chỉ bái ái yêu thương... Tất cả chẳng là gì so với người khác , nhưng đấy lại là con tim , ánh mắt, việc làm cho một thế giới đang thiếu vắng tình yêu và một xã hội đang đói tình người
Thưa anh chị em và các bạn, Chúa nhật hôm nay được gọi là Chúa nhật Chúa Chiên nhân lành, nhân dịp xin anh chị em hãy chiêm ngắm lại chân dung của vị mục tử nhân lành Giêsu để chúng ta biến đổi cái nhìn và cách sống sao cho cuộc đời này được đẹp hơn cho mình và cho tha nhân.
ĐỨC GIÊSU MỤC TỬ NHÂN LÀNH
Ga 10, 1-10
1. Hình ảnh người chăn chiên và đoàn chiên là một hình ảnh rất quen thuộc đối với người Do Thái, vì chăn chiên là nghề truyền thống của họ. Có lẽ hơn ai hết, họ hiểu rất rõ tấm lòng của người chăn chiên đối với đoàn chiên, nhất là người chăn chiên đó không phải là người chăn thuê, mà là người chủ của đàn chiên. Đức Giêsu đã mượn hình ảnh thân quen ấy để diễn tả tấm lòng của Người đối với dân Người, của Thiên Chúa đối với nhân loại. Đức Giêsu thật là Mục tử nhân lành, cả cuộc đời của Người đã nhằm phục vụ cho đàn chiên: giảng dạy, chữa bệnh... rồi cuối cùng đã hiến cả mạng sống mình cho đàn chiên (Ga 10,11-15), Người hy sinh tính mạng để cho đàn chiên được sống và sống dồi dào.
2. Vì Người biết mình phải trở về cùng Cha, nên Người đã ủy thác sứ mạng của mình cho các Tông đồ, các môn đệ và những người kế vị các ngài tiếp tục được thực hiện trong Hội Thánh cho đến tận thế (Lc 22,19 ). Như vậy, cũng như thời đã qua, hôm nay và mãi cho đến ngày tận thế Hội Thánh vẫn cần đến những người dấn thân trong ơn gọi linh mục, tu sĩ để phục vụ Chúa, Giáo hội và tha nhân. Vì thế, Chúa Nhật hôm nay, Giáo Hội còn dành đặc biệt để cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, tu sĩ.
3. Có thể nói linh mục, tu sĩ là món quà hết sức đặc biệt mà Thiên Chúa ban cho loài người. Ai trong chúng ta cũng biết dù sống đời sống hôn nhân gia đình hay dâng mình cho Chúa trong đời tu đều quý. Bởi trước mặt Chúa phẩm giá mọi người đều như nhau, điều Chúa muốn chúng ta lưu tâm là phải cố gắng chu toàn trong bậc sống của mình. Nhưng dầu sao, có thể nói dâng mình cho Chúa trong ơn gọi tu trì đó là điều kiện thuận lợi để chúng ta phục vụ Chúa phục vụ Hội Thánh và tha nhân. Thiết nghĩ rằng những ai dấn thân vào đời sống tu trì, sẽ thấy cuộc đời không đơn điệu, mà dễ cảm nhận được cuộc sống đầy tràn ý nghĩa, thú vị. Dấn thân trong đời tu theo sát Đức Kitô không phải là một cách trốn chạy cuộc đời, mà là một sự dấn thân phục vụ theo gương của Người. Vì thế ai có thể đừng ngại dâng mình cho Chúa trong đời tu và hãy cầu nguyện càng ngày càng có nhiều người dấn thân trong ơn gọi này, bởi cánh đồng truyền giáo tại Việt Nam và trên thế giới còn bao la : "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít" (Mt 10,37).
4. Không phải chỉ các linh mục, tu sĩ là những người được mời gọi cách đặt biệt để tham gia vào sứ mạng của Đức Kitô, mục tử nhân lành, mà mọi người chúng ta qua Bí Tích Rửa Tội đều được mời gọi tham gia sứ mạng này.
Nhưng trước hết , chúng ta hãy lắng nghe theo tiếng vị Chủ Chăn đích thực của chúng ta là chính Đức Kitô, hãy nghe và giữ lời Người. Cũng đừng quên hãy nghe theo sự hướng dẫn của Hội Thánh là thân thể mầu nhiệm của Người. Chúng ta dễ thấy những con chiên không nghe theo hướng dẫn của người chủ chăn thì dễ gặp thú dữ, dễ bị lạc đường... bề ngoài xem ra nó được tự do, nhưng lại đi đến chỗ bị thiệt thân. Vậy chúng ta đừng để mình là những con chiên lạc.
Kế đến , các Kitô hữu dù không phải là linh mục, tu sĩ nhưng tất cả đều được mời gọi tham gia vào vai trò mục tử của Đức Kitô : khi giới thiệu Thiên Chúa cho người khác, khi nhắc nhau sống đẹp lòng Người. Vợ chồng hãy là mục tử của nhau, cha mẹ hãy là mục tử của con cái, anh chị hãy là mục tử của các người em, bạn bè hãy là mục tử của nhau... Chúng ta dễ thấy có rất nhiều người giáo dân đã ý thức thực hiện điều này rất tốt. Khi thực hiện như thế chính là họ tham gia vào vai trò mục tử của các linh mục sở tại, của Giám Mục Địa Phận mà tất cả đều xuất phát từ vai trò Mục Tử của Đức Kitô.
5. Mừng lễ Đức Giêsu mục tử nhân lành hôm nay, đây là dịp rất tốt để mỗi người chúng ta suy nghĩ:
- Chúng ta có nhận ra Đức Giêsu là vị Mục Tử nhân lành không ? Nếu ta tin nhận Người là vị Mục Tử nhân lành, hãy xem coi ta có vâng nghe theo lời Ngài dạy trong cuộc sống không ?
- Mỗi người trong chúng ta đã làm gì để tham gia vào sứ vụ của Đức Giêsu Mục Tử nhân lành ?
- Mỗi người cũng hãy xem lại, mình đã làm gì và sẽ làm gì để góp phần cho ơn gọi linh mục, tu sĩ ?
Ở Việt Nam người ta ít thấy các đàn chiên đi ăn cỏ nơi những cánh đồng bát ngát cỏ xanh. Tuy nhiên, ở Paléttin, mục tử và đàn chiên đi ăn cỏ trên cánh đồng cỏ non, xanh tươi và uống nước nơi những suối trong mát bóng là hình ảnh rất quen thuộc.Chúa Giêsu ví mình là mục tử tốt lành. Bởi vì, giữa mục tử và đàn chiên có một mối tương quan mật thiết. Do đó, hình ảnh Đức Giêsu đưa ra để giảng dạy cho các môn đệ và giảng dạy cho dân là hình ảnh gợi cảm và ấn tượng, thiết thực nhất khi Chúa tự nói về mình.
Tôi vẫn còn nhớ như in một tấm ảnh bằng giấy rất lớn vẽ chúa Giêsu vác con chiên trên vai và theo sau Ngài là vô số chiên. Tấm ảnh ấy lúc còn nhỏ tôi thấy trong phòng khách của Nhà xứ của tôi. Cha xứ lúc ấy đã gắn lên tường một khung hình to và gây rất nhiều ấn tượng cho những người xem. Quả thực, ảnh ấy cho chúng ta nhớ lại đoạn Kinh Thánh hôm nay nói về " Mục Tử Nhân Lành ". Thánh Gioan viết: " Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy " ( Ga 10, 11-12 ). Rõ ràng Chúa Giêsu dạy chúng ta; Mục tử nhân lành khác với người làm thuê. Mục tử tốt không bỏ chiên khi chiên bị chó sói tấn công bởi Mục tử nhân lành dám hy sinh mạng sống vì đàn chiên, cho từng con chiên của mình. Chúa Giêsu cho chúng ta hay giữa Ngài và Giáo Hội có một sự liên kết chặt chẽ: " Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi " ( Ga 10, 14 ). Ở đây, chúng ta phân biệt từ biết, biết không phải sơ sơ, hời hợt nhưng biết sâu xa. Biết hai chiều. Chúa biết từng con chiên và chiên quen thuộc tiếng của chủ nên nhận ra nhau dễ dàng, trân trọng nhau hết mình.
Chúa Giêsu là mục tử tốt lành, tối cao duy nhất và gương mẫu. Tất cả các Mục tử phải noi gương Chúa, bắt chước Chúa, giúp chăn dắt chiên của Chúa.Đã là Mục tử, các Mục tử phải họa lại hình ảnh của Chúa là Mục tử tốt lành, nhân hậu. Bởi vì, Mục tử nhân lành đến " để chiên được sống và sống dồi dào " ( Ga 10, 10 ). Chúa Giêsu Phục Sinh đã trao cho Phêrô và các tông đồ sứ mạng chăn dắt và củng cố đức tin của anh em, nghĩa là củng cố lòng tin của các chiên. Đặc biệt Phêrô, người thủ lãnh đầu tiên đã chối Chúa ba lần nhưng cũng yêu mến Chúa hết lòng. Ngài có thể chạy trốn những cuộc bắt bớ để bảo đảm tính mạng của mình, nhưng Ngài đã dám liều mang để củng cố đức tin của anh em mình. Chính cái chết của Phêrô đã có sức thuyết phục mạnh mẽ hơn bất cứ lời chứng, lời rao giảng nào. Cái chết của Phaolô và các tông đồ luôn có sức thu hút mạnh mẽ hơn bất cứ bằng chứng nào. Từ thời các tông đồ cho đến ngày nay đã có biết bao các Mục tử nằm xuống để củng cố đức tin của anh em mình.
Dụ ngôn người Mục tử tốt lành biểu lộ tình yêu cao vời, tuyệt mỹ của Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta đều có một chỗ đứng trong con tim của Chúa. Ngài yêu con người đặc biệt, Ngài không yêu cách chung chung nhưng yêu với tất cả tấm lòng của mình.
Chúa yêu thương nhân loại, yêu thương con người cách vô điều kiện ngay cả khi con người vô tâm bạc nghĩa.Chúa vui mừng khi tìm thấy con chiên lạc.
Giáo Hội dành Chúa nhật IV Mùa Phục Sinh để cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Công việc cứu độ của Chúa, Ngài không làm một mình nhưng Ngài cần rất nhiều người tiếp nối công việc của Ngài để lo cho các linh hồn trên toàn thế giới.
Giáo Hội cần rất nhiều bạn trẻ nam nữ quảng đại dấn thân cho phần rỗi các linh hồn. Các bạn trẻ lớn lên lấy vợ lấy chồng là điều đáng quí, nhưng nếu có nhiều bạn trẻ đáp lại tiếng Chúa mời gọi và quan tâm tới đám đông đang bơ vơ đói khát là điều thật giá trị và cao quí.
Chúa đã phán: " Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt ". Lời của Chúa là lời mời gọi tha thiết tới các bạn trẻ nam nữ hãy dấn thân, hãy quảng đại phục vụ Nước Chúa.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho có nhiều linh mục thánh thiện, nhiều tu sĩ nam nữ đạo đức để lo cho đàn chiên của Chúa trên khắp thế giới.
Lạy Chúa Giêsu, xin sai Thánh Thần đến biến đổi tâm hồn chúng con nên mới hầu chúng con luôn biết yêu thương người nghèo và quảng đại giúp các chủng sinh chuẩn bị dấn thân trong sứ vụ linh mục mà họ sẽ lãnh nhận. Amen.
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Dân Do thái là dân du mục. Cuộc đời họ gắn liền với đoàn vật và những đồng cỏ. Nên khi Chúa Giêsu đưa ra hình ảnh người mục tử và đoàn chiên, người Do thái hiểu ngay tức khắc. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc ấy để nói lên mối liên hệ của ta với Người và của Người với ta. Người là Mục tử nhân lành. Ta là đoàn chiên của Người. Người lãnh đạo đoàn chiên không phải bằng uy quyền áp chế, bằng kỷ luật khắc nghiệt, nhưng bằng tình yêu tha thiết. Tình yêu của Người được biểu lộ qua ba khía cạnh: hiểu biết, quan tâm chăm sóc và hi sinh cho đoàn chiên.
Tình yêu của Chúa Giêsu là tình yêu hiểu biết. Sự hiểu biết này không phát xuất từ lý trí, do học hỏi, nhưng phát xuất từ trái tim, do tình yêu. Khi yêu, trái tim trở nên vô cùng nhậy bén đến độ hiểu được hết những gì mà trí óc con người không hiểu thấu, nghe được hết những âm thanh của tâm hồn mà tai người thường không nghe thấy, nhìn thấy hết những gì ẩn kín trong tâm hồn mà mắt thường không nhìn thấy, cảm nhận được hết những chiều sâu thăm thẳm của tâm hồn mà không một nhà tâm lý học nào có thể cảm được. Khi Chúa Giêsu nói: "Ta biết chiên Ta" có nghĩa là Người hiểu biết từng người trong chúng ta. Người không chỉ hiểu rõ hoàn cảnh sinh sống của chúng ta, mà còn thấu rõ tâm tư tình cảm của ta. Người biết những gánh nặng mà ta đang phải gánh. Người thông cảm với những đau đớn mà ta đang phải chịu. Người đau những nỗi đau trong tâm hồn ta. Người khổ những nỗi khổ đang dày vò ta. Người nhức nhối trong vết thương của tâm hồn ta.
Tình yêu của Chúa Giêsu là tình yêu quan tâm chăm sóc. Sự hiểu biết sâu xa đến từ sự quan tâm chăm sóc. Sự quan tâm chăm sóc cũng phát xuất từ tình yêu. Có yêu mới quan tâm. Có quan tâm mới hiểu biết nhu cầu. Có hiểu biết nhu cầu mới biết đường chăm sóc. Chúa Giêsu yêu thương ta nên Người quan tâm đến ta. Người biết rõ những nhu cầu của ta. Người chăm sóc ta. Có những tình yêu muốn chiếm hữu. Đó là thứ tình yêu ích kỷ. Có những chăm sóc khiến ta trở nên ấu trĩ, yếu ớt, không lớn lên được. Đó là thứ chăm sóc độc đoán, ràng buộc. Chúa Giêsu chăm sóc không phải để ràng buộc ta nhưng để giúp ta sống trong tự do. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên ấu trĩ, nhưng là để giúp ta trưởng thành. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên yếu ớt nhút nhát, nhưng là để giúp ta mạnh mẽ, tự tin. Vì thế, Người cung cấp cho ta những lương thực lành mạnh. Người đưa ta đến những đồng cỏ non, đến những giòng suối trong. Lương thực Người mang đến, đó là Lời Chúa, là Mình Máu Thánh Chúa, là Thánh ý Chúa Cha. Những lương thực ấy sẽ cho ta được sống và sống dồi dào.
Tình yêu của Chúa Giêsu là tình yêu hi sinh. Đây chính là dấu chỉ chắc chắn nhất của một tình yêu. Càng yêu nhiều càng sẵn sàng hi sinh nhiều. Yêu đến sẵn sàng hi sinh mạng sống là một tình yêu cao cả không có gì sánh được. Chúa Giêsu đã xác nhận điều ấy khi Người nói: "Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hi sinh mạng sống mình cho bạn hữu" (Ga 15, 13). Chính Người đã thực hiện điều ấy. Người là Mục tử nhân lành sẵn sàng liều mạng, một mình chống lại sói dữ để bảo vệ đoàn chiên. Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Người đã chấp nhận chết đi để ta được sống.
Hạnh phúc cho ta được là đoàn chiên của Người. Ta được an ủi vì Người hiểu ta. Ta an tâm vì Người hằng quan tâm chăm sóc ta. Ta sung sướng vì Người yêu thương đến nỗi chết vì ta.
Người muốn ta chia sẻ hạnh phúc ấy cho mọi người. Người muốn ta lớn mạnh để đến lượt ta, chính ta trở thành mục tử nhân lành theo gương Người. Cha mẹ là mục tử của con cái. Thày cô giáo là mục tử của học sinh. Giám đốc là mục tử của công nhân. Y bác sĩ là mục tử của bệnh nhân. Anh chị lớn là mục tử của các em nhỏ.
Nhưng đặc biệt hơn hết, Người muốn có những người tiếp tục công việc của Người, chăm sóc đời sống tâm linh nhân loại. Chính vì thế, Giáo hội dành ngày hôm nay để cầu nguyện cho ơn kêu gọi làm linh mục. Nhìn tình hình chung trên toàn thế giới, và riêng trong Giáo phận, ta thấy còn thiếu rất nhiều linh mục. Giáo dân cần linh mục như bệnh nhân cần bác sĩ. Giáo dân cần linh mục như học sinh cần thầy cô giáo. Giáo dân cần linh mục như một người bạn sẵn sàng cảm thông, chia sẻ vui buồn trong đời sống và như người bạn đồng hành giúp đỡ trong cuộc hành trình tiến về đời sau.
Hãy cầu nguyện cho có nhiều thanh niên sẵn sàng hiến thân làm linh mục. Hãy khuyến khích con cháu dâng mình cho Chúa, làm linh mục để phục vụ anh em. Nhất là hãy cầu nguyện cho các linh mục được trở nên những mục tử như Chúa Giêsu, vị Mục Tử nhân lành, biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, hiểu biết tâm tư tình cảm của từng người, quan tâm chăm sóc từng con chiên và sẵn sàng hi sinh bản thân vì lợi ích của đoàn chiên.
Lạy Chúa Giêsu, Mục Tử nhân lành, xin hãy ban cho chúng con nhiều mục tử tốt lành theo gương Chúa. Xin biến chúng con thành những mục tử tốt lành trong gia đình, trong khu phố, trong xã hội. Amen
Nguyên Huy/Người Việt
BIẾT CHÚA KHÁC VIỆC BIẾT VỀ CHÚA
Ga 10:11-18
Ðọc Thánh kinh người ta có thể nhận ra được rằng dân Do Thái cổ xưa là dân du mục. Vì thế văn chương của họ, nghĩa là Thánh kinh Cựu ước, cũng mang sắc thái đời sống chăn nuôi. Ðức Giêsu và các tông đồ cũng chịu ảnh hưởng của môi trường chăn nuôi.. Chúa dùng nhiều hình ảnh về đồng áng và chăn nuôi quen thuộc như lúa mì, cây nho, hạt giống, chiên cừu, chim chóc, hoa cỏ đồng nội để nói lên mối liên hệ giữa Thiên Chúa với loài người và dạy họ bài học về đạo giáo. Những hình ảnh như người mục tử thổi sáo, hoặc vác chiên trên vai còn được tìm thấy trên tường vách những hang toại đạo.
Trong Phúc âm hôm nay Chúa nói với ta: Ta biết chiên ta (Ga 10: 14). Cũng như người mục tử xưa kia biết đàn chiên của mình, biết con nào khoẻ mạnh, con nào đau yếu, con nào có đặc điểm gì, con nào bị thất lạc, Chúa cũng biết từng người. Chúa biết tư tưởng, ước muốn, cảm tình, hành động, tính nết - cả tính tốt và tính xấu - và nhu cầu của mỗi người. Ðó chính là điều Chúa nói với ta qua miệng ngôn sứ Giêrêmia: Trước khi tác thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi (Gr 1:5).
Ðể được thuộc về đàn chiên của Chúa, Chúa muốn ta biết Chúa như con chiên nhận biết tiếng người chăn và đi theo chủ chăn, mà không theo người lạ: Chiên Ta thì nhận biết Ta (Ga 10:14). Vậy biết Chúa có nghĩa là gì? Biết Chúa theo nghĩa Thánh kinh, không có nghĩa là chỉ nghe biết về Chúa qua việc đọc Thánh kinh. Biết Chúa theo ngôn ngữ Thánh kinh là mối liên hệ cá biệt giữa Thiên Chúa và dân Người do ơn thần linh khởi sự và việc ban tặng Lề luật và Thần trí khôn ngoan cho dân Người (Kn 7:7; 9) để họ có thể nhận biết được đường lối của Chúa. Biết Chúa là kinh nghiệm được những điều Chúa nói và những việc Chúa thực hiện trong thế giới và trong đời sống của họ. Ðến thời Tân ước thì việc biết Chúa được hiểu là sự hiệp thông (1Ga 1:3) với Thiên Chúa nhờ đức tin và Phép Rửa tội.
Biết khác với việc biết về hay biết đến. Ta biết về người khác là do được kể lại hay biết đến họ là do đọc tiểu sử của họ. Còn nếu đã biết một người thì không cần nghe ai nói hoặc viết về họ, nghĩa là không cần trung gian của người thứ ba. Vợ chồng biết nhau thì không cần ai nói về vợ hay chồng mình, vì mối liên hệ vợ chồng là một thứ liên hệ thân mật và gần gũi nhất trong các thứ liên hệ của loài người. Hai người bạn cùng ăn một mâm, cùng nằm một chiếu cũng không cần nghe ai giới thiệu về bạn, vì bạn thân thường đi guốc trong bụng của nhau: biết ưu điểm cũng như khuyết điểm, khả năng, giới hạn và tình trạng sức khoẻ của bạn. Việc Ðức Giêsu gọi ta là bạn hữu qua việc gọi các tông đồ là bạn, bao hàm việc Chúa muốn ta biết Chúa một cách gần gũi và thân mật, vì Người đã tỏ cho ta, qua các tông đồ, biết những điều Người đã nghe được nơi Chúa Cha (Ga 15:15).
Biết Chúa cũng khác với việc biết về Chúa. Người ta có thể biết nhiều về Thánh kinh và giáo lý của đạo Chúa qua việc học hỏi và đọc sách, nhưng không nhất thiết người ta đã biết Chúa và tin Chúa. Có những người là giáo sư hay học giả Thánh kinh, nhưng họ không phải là những người tin Chúa. Họ biết về Thánh kinh, biết về đạo Chúa, nhưng thực ra không biết Chúa.
Bước khởi đầu đưa đến việc biết Chúa là việc loại bỏ những chướng ngại vật trong tâm hồn. Chướng ngại vật trong tâm hồn là tội lỗi và các thứ tính mê nết xấu như kiêu căng, tự phụ, ham danh, ích kỷ, gian tham, xảo trá, nhục dục, bỏ vạ, cáo gian, bịa đặt, vu khống... Một tâm hồn đầy ắp những chướng ngại vật thì không có lối cho Chúa đi vào và không còn chỗ cho Chúa ở lại. Chướng ngại vật trong tâm hồn làm cản trở tác động của ơn thánh Chúa. Kết quả nội tại của việc loại bỏ những chướng ngại vật trong tâm hồn là lòng ăn năn sám hối tội lỗi và nhu cầu cần Chúa. Và đó là bước khởi đầu cho tiến trình của việc biết Chúa. Tham dự và dấn thân vào những phong trào hay hội đoàn canh tân đời sống thiêng liêng cũng giúp dễ dàng hoá cho tiến trình của sự nhận biết này.
Ta biết Chúa khi ta xác tín rằng cuộc tử nạn và phục sinh của Người trên thập giá đem lại cho cá nhân ơn tha thứ và cứu độ. Cũng vì xác tín như vậy nên thánh Phêrô mới có thể quả quyết: Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ (Cv 4:12). Ta nhận biết Chúa qua những công trình sáng tạo của Người trong vũ trụ, những kỳ công của tạo hoá, những vẻ đẹp của thiên nhiên. Ta biết Chúa khi ta tin trong lòng rằng Thiên Chúa Ba ngôi là Ðấng tạo dựng, cứu độ và thánh hoá và yêu thương ta như con thảo. Ðó là tình yêu của Thiên Chúa dành cho loài người mà thánh Gioan muốn người tín hữu cảm nghiệm được: Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho ta được gọi là con Thiên Chúa (1Ga 3:1). Ta nhận biết Chúa qua những biến cố xẩy ra trong đời sống cá nhân. Ta nhận biết Chúa khi ta cảm nhận được rằng Người biến đổi cuộc sống ta, cho ta được thoát khỏi tội lỗi, được tự do làm con cái Chúa. Ta nhận biết Chúa khi ta xác tín trong con tim rằng chính Người đã đưa dẫn ta qua những nẻo đường của cuộc sống, những hiểm nguy và những cạm bẫy của đời.
Biết Chúa là việc cảm nghiệm được rằng những đường đi nước bước của đời mình nằm trong chương trình quan phòng của Chúa. Trước khi đi tới giai đoạn biết Chúa, ta có thể trải qua những giai đoạn như khắc khoải, phàn nàn, bất mãn, than thân trách phận. Nếu như vậy, ta nguyện xin Chúa giải thoát mình khỏi thế này, thế nọ; hoặc xin Chúa cho mình được thế nọ, thế kia. Có khi Chúa dìm ta xuống bùn đen, vực thẳm để rồi lại cất nhắc ta lên, để dạy ta bài học khiêm tốn. Ðó là cách Chúa bảo ta: đừng có lên mặt huênh hoang, hách xì xằng, nhưng phải biết khiêm hạ, tuỳ thuộc vào Chúa.
Ðến thời điểm nào đó, ta sẽ thấy mình ngoan ngoãn đầu hàng, không muốn kháng cự nữa, nhưng dâng lên Chúa ngay cả những điều mà trước kia mình đã phấn đấu, khắc khoải, phàn nàn, bất mãn, than thân trách phận để cho Chúa làm chủ. Bây giờ thì ta dâng lên Chúa tất cả: thân xác, ngũ quan, tâm trí, linh hồn cùng với quan năng, khiếm khuyết, ngay cả những tự ti mặc cảm và tính nết khó chịu, để xin Chúa sửa sang và uốn nắn theo đường hướng của Người. Lúc này ta cảm nghiệm được rằng có bàn tay Chúa hướng dẫn đời mình từng bước và từng bước đường. Cảm nghiệm của việc biết Chúa giống như cảm nghiệm của hai người yêu, dù có cách mặt mà không xa lòng: vẫn nhớ nhung nhau, nhớ bóng dáng người yêu, ánh mắt người yêu, tiếng thì thầm của người yêu. Biết Chúa, yêu Chúa và cảm thấy được Chúa yêu, ta cũng cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa, bóng dáng của Chúa, tiếng thì thầm của Chúa, cùng với sự bao bọc, ấp ủ và che chở của Chúa.
Truyện kể lại, vào dịp lễ Giáng sinh, khi thánh Hiêrônimô đang cầu nguyện, suy gẫm về mầu nhiệm Nhập thể, Chúa hiện ra hỏi xem thánh nhân có gì làm quà dâng cho Chúa không? Thánh Hiêrônimô thưa: xin dâng lên Chúa trái tim của thánh nhân. Chúa hỏi: Còn gì nữa không? Hiêrônimô thưa là xin dâng lên Chúa bản dịch Thánh kinh từ nguyên văn Hi lạp sang La ngữ được gọi là bản phổ thông Vulgata. Chúa lại hỏi: còn gì nữa chứ? Thánh nhân thưa: đâu còn gì nữa. Chúa bảo còn tội lỗi của con thì sao? Thánh Hiêrônimô đáp: đâu dám dâng lên Chúa của xấu đó. Chúa bảo cứ dâng lên Chúa để xin được luyện lọc, thanh tẩy và tha thứ. Tội gì của thánh Hiêrônimô, thì ta không biết và không cần biết. Còn tội nóng tính của thánh Hiêrônimô thì giới học giả Thánh kinh và ai đọc lịch sử thánh nhân thì đều biết cả. Dễ nóng tính, thánh Hiêrônimô cũng dễ hối hận và mau mắn làm việc đền tội. Có vị giáo hoàng thời Phục hưng, khi thấy hình thánh Hiêrônimô cầm hòn đá đấm vào ngực ăn năn tội với nhận xét: Cầm hòn đá là việc làm tốt cho ông để tỏ lòng sám hối, nếu không, Giáo hội không bao giờ phong thánh cho ông đâu. (Farmer, D. H. The Oxford Dictionary of Saints, second Edition. Oxford, New York. Oxford University Press, 1987, p. 225.)
Biết về Chúa, về Thánh kinh hay về đạo Chúa, người ta vẫn có thể là người ngoại cuộc. Còn biết Chúa là khi nào ta mời Chúa đi vào đời ta, để ta được ở trong cuộc, nghĩa là ở trong nội cung và nội thất của nhà Chúa.
Lời cầu nguyện xin cho được ơn nhận biết Chúa:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa muốn cho người môn đệ Chúa
được nhận biết Chúa như con chiên biết chủ chăn.
Xin cho con biết loại bỏ những chướng ngại vật trong tâm hồn
và tìm sống theo thánh ý Chúa
để con nhận biết tiếng Chúa nói với con.
Xin cho con cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa,
cùng với tình yêu của Chúa,
trong đời sống con và xung quanh con. Amen.
Lm Trần Bình Trọng
Hình ảnh của những người Pharisêu quá quen thuộc với mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu vẫn thường lên án, chỉ trích thái độ của người Pharisiêu. Lẽ ra, người Pharisiêu có nhiệm vụ hướng dẫn anh mù nhưng họ lại khai trừ anh. Đức Giêsu khác những người Pharisiêu, Đức Giêsu đã hướng dẫn anh mù. Những người Pharisiêu chỉ là những người chăn thuê còn chính Đức Giêsu mới là mục tử gương mẫu. Người mục tử gương mẫu như Chúa Giêsu ấy đã giữ gìn cho chiên khỏi chết và hiệp nhất các chiên lại. Đặc tính của Chúa Giêsu là làm cho chiên được sống và được sống dồi dào và gìn giữ cho đoàn chiên được hiệp nhất.
Thánh lễ Chúa Chiên Lành ngày hôm nay rất ý nghĩa cho mỗi người chúng ta vì lẽ chúng ta, người ở vai trò con chiên, người ở vai trò mục tử.
Mục tử là một hình ảnh quen thuộc đối với dân Israel cả trong thời kỳ họ còn sống nghề du mục lẫn trong thời kỳ họ đã định cư: thời du mục thì họ chuyên chăn nuôi; đến thời định cư hẳn trong xừ Palestina thì tuy họ đã chuyển sang nghề nông nhưng vẫn còn giữ nghề chăn nuôi.
Trong chăn nuôi, vai trò và nhiệm vụ của mục tử rất quan trọng và khó khăn: a/ Không phải chỉ nuôi vài ba con chiên mà cả đàn lên tới mấy trăm hoặc mấy ngàn con; b/ Muốn nuôi sống một mớ chiên đông như thế, không phải chỉ cần đi cắt một mớ cỏ đem về là đủ, mà phải tìm những đồng cỏ lớn, phải tính sẵn trong đầu xem khi đoàn chiên ăn hết đồng cỏ này thì phải dẫn chúng tới đồng cỏ khác ngay; phải chọn những chỗ vừa có cỏ xanh vừa có bóng mát vừa có nước uống (x. St 13,1-9: đầy tớ của Loth và của Abraham dành nhau những đồng cỏ và giếng nước); c/ Ngoài ra còn phải bảo vệ chiên khỏi những nguy hiểm thường xuyên đe dọa như trộm cướp và thú dữ. Có khi phải chiến đấu đến bị thương hoặc bị chết.
Trong bối cảnh trên, hình ảnh mục tử rất đẹp: thân thiết, tận tụy, can trường, chu đáo v.v. Bởi đó Thánh Kinh thường dùng hình ảnh này để mô tả những nhân vật quan trọng như Môisê (Xh 3,1-2 15,22-27...), các nhà lãnh đạo dân như vua, tư tế, thẩm phán, ngôn sứ (Gr 10,21; 12,10; Ed 34; Is 36,11 Dcr 11,15-17...). Đặc biệt nhất chính Thiên Chúa tự mô tả mình là mục tử (Tv 23 80), dân Israel được coi là đoàn chiên của Ngài (Tv 80,2), cuộc Xuất hành là việc Thiên Chúa dẫn dắt đoàn chiên Israel ấy qua những nơi khó khăn để tới chốn an lành (Tv 78,52, 77; Is 63,11-14). Và sau cùng Đấng Messia cũng được mô tả là mục tử (Ed 34; Dcr 13,7-9...)
Mô tả Thiên Chúa và Đấng Messia bằng hình ảnh mục tử thì rất đẹp, nhưng mô tả dân Thiên Chúa như đoàn chiên thì không được đẹp lắm vì hình ảnh đoàn chiên gợi lên ý tưởng một đám đông trong đó những cá nhân không có cá tính mà chỉ như một con số bị mất hút trong đa số. Bởi thế trong đoạn Tin Mừng này Đức Giêsu cũng dùng hình ảnh đoàn chiên nhưng Ngài làm nổi bật tính cá nhân riêng biệt của từng con chiên: "Ta biết các chiên của ta và các chiên của Ta biết Ta" (c 14).
"Ta là mục tử": Trong Tin Mừng Ga nhiều lần Đức Giêsu dùng công thức "Ta là". Những lần như thế không phải chỉ là một lời tự xưng suông mà còn hàm chứa một mặc khải cho người ta hiểu thêm về bản thân Ngài. Hơn nữa công thức này mang âm hưởng lời Giavê tự mặc khải (St 3,13-14). Như vậy khi Đức Giêsu nói "Ta là mục tử" thì ý nghĩa là bản chất của Ngài chính là mục tử, vì thế Ngài đã, đang và sẽ mãi mãi là mục tử.
"Ta là mục tử tốt": Tính từ hy lạp kalos vừa có nghĩa "tốt" (bon) vừa có nghĩa "đẹp" (beau). "Tốt" diễn tả tấm lòng, còn "đẹp" diễn tả một hình ảnh tuyệt vời, mẫu mực, lý tưởng. Vì thế ta cũng có thể dịch "Ta là mục tử đẹp".- - - "Mục tử đẹp thí mạng sống mình vì chiên": Nét đặc thù phân biệt ai là mục tử đẹp là nếu người đó dám thí mạng sống mình vì đàn chiên. Ý tưởng này được lặp lại tới 4 lần trong đoạn Tin Mừng ngắn này (cc 11.15.17.18). Chính khi thí mạng sống mình, mục tử đẹp chứng tỏ được tinh thần trách nhiệm và lòng vô vụ lợi tuyệt đối khi đón nhận và chăm sóc đàn chiên. Đán chiên này chính là "xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi", do đó bất cứ điều gì đụng tới đàn chiên đều đụng tới bản thân mục tử, bất cứ nguy hiểm nào đe dọa đàn chiên đều động viên toàn thể con người mục tử, vì người mục tử đẹp phục vụ đàn chiên, chứ không phải là kẻ chăn thuê.
Kẻ chăn thuê không phải là chủ đàn chiên nên khi gặp nguy hiểm thì lo bảo vệ thân mình chứ không bảo vệ đàn chiên, không dám thí mạng vì đàn chiên. Cũng như ở Êd 34, ở đây Đức Giêsu ám chỉ các nhà lãnh đạo dân Israel (tư tế, luật sĩ v.v.) Họ khư khư bám lấy quyền lãnh đạo dân chỉ vì tư lợi. Họ không phục vụ chiên trái lại bắt chiên phục vụ họ. Khi gặp nguy hiểm, họ không màng chi sự an toàn của chiên mà chỉ lo cho sự an toàn của họ, như lời thượng tế Caipha tuyên bố về Đức Giêsu "Nếu ta cứ để yên như thế thì thiên hạ sẽ tin vào ông ấy hết, rồi quân Rôma sẽ đến tiêu trừ cả nơi thánh của ta và dân ta nữa" (11,48).
Mục tử nhân lành (hoặc, đúng hơn phải nói là, gương mẫu) đi trước đàn chiên, hứng lấy mọi nguy hiểm, để cứu vớt đàn chiên, dù phải hy sinh mạng sống. Như vậy, Đa-vít là một mục tử gương mẫu: khi sư tử đến bắt một con chiên, ông đã rượt theo, đánh sư tử và giựt con chiên lại (1 Sm 17,34-35).
Hình ảnh "mục tử nhân lành" là một hình ảnh quen thuộc trong Thánh kinh. Trong Cựu Ước, hình ảnh ấy được áp dụng khi thì cho Thiên Chúa (Tv 23,1; Is 40,11). Khi thì cho vua Mêsia (2 Sm 7,8; Tv 78,70-72), khi lại cho những nhà chức trách trong dân Israel (Gr 2,8; 10,21; 23,1-8; Ed 34). Trong các sách nhất lãm, chúng ta cũng gặp những hình ảnh ấy (Mc 6,34; 14,27; Mt 9,36; 18,12-14; 25,32; 26,31; Lc 15,3-7).
Đức Giê-su thực hiện một cách hoàn hảo chức năng mục tử, vì Người là Con Người chia sẻ thân phận con người để dẫn đưa họ đến cuộc sống vĩnh cửu.
Chúa Giêsu chính là mẫu gương tuyệt vời cho các mục tử.
Cuộc sống muôn màu muôn vẻ, có những mục tử sống hết mình vì đàn chiên nhưng cũng có những mục tử chăn thuê.
Tạ ơn Chúa, cám ơn Đức Mẹ vì tôi đang được sống với một vị mục tử "chính hiệu con nai vàng" ở mảnh đất truyền giáo nghèo. Phải nói rằng Ngài không có cái tội gì ngoài cái tội thương người nghèo. Cuộc sống của Ngài đơn sơ đạm bạc, chỉ với chiếc xe cọc cạch là phương tiện tới lui. Nhiều lần nhiều lúc bảo Ngài đổi xe nhưng cứ khất lần khất lựa.
Lần nọ, đoàn cứu trợ từ thiện kia gửi 100 phần quà cho vùng truyền giáo nghèo. Xin thêm thì ngại mà thiếu thì người dân so bì, thế là Ngài đã cố gắng hết sức để tìm thêm 50 phần nữa để lo cho tạm gọi là nhu cầu của người nghèo tại chỗ.
Nhìn dáng hao gầy của cha đặc trách giáo điểm truyền giáo chắc có lẽ mọi người nhìn thấy được đó là kết qủa của một cuộc đời sống cho chiên và vì chiên.
Nói đến cha đặc trách mà không nói đến giáo dân quả là một điều thiếu sót lớn. Có thể nói cha đặc trách của tôi là một mục tử tuyệt vời nhưng đối lại, con chiên của Ngài ở đây làm sao ấy !
Ngài vốn dĩ hiền lành, chịu thương chịu khó và chịu đựng thế nhưng vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh - ngày Giáo Hội kỷ niệm việc Chúa Giêsu lập phép Thánh Thể và truyền sứ vụ linh mục - nhưng khi nhìn tới nhìn lui nhà thờ chỉ có 80 giáo dân (tổng số giáo dân là 600) Ngài mới buông miệng nói một câu là Ngài cảm thấy buồn ! Không buồn sao được khi mà cả cuộc đời của Ngài, Ngài đã gần như hiến mạng sống của mình ở vùng đất nghèo này mà giáo dân cư xử với Ngài như vậy. Những ngày Ngài đau yếu bệnh tật chẳng thấy ai ngó ngàng gì đến. Dường như con chiên chỉ đến để nhận tình thương từ mục tử và không có chiều ngược lại.
Đau đớn hơn là lần nọ, Cha đặc trách xây cái nhà mát ở, có vài mạng vào phụ Ngài để dựng cái nhà mát ấy. Ít lâu sau, cha đặc trách cũ cũng làm nhà mát và một mớ giáo dân hăng hái xuống để giúp cha xứ cũ dù hai giáo điểm cách nhau trên dưới 50 km. Nhìn cách hành xử của con chiên ở đây tôi thấy làm sao đấy, còn Ngài, Ngài bảo là "cổ võ cho họ đi để sống tinh thần truyền giáo !".
Vâng ! Một linh mục thánh thiện như Ngài thì có cái nhìn như thế nhưng thật sự đau đấy chứ ! Giáo điểm nhà thì không thấy vào giúp mà đi giúp giáo điểm bạn !
Không chỉ có như vậy, Tết Nguyên Đán vừa rồi, sau khi nhận quà, vừa bước ra khỏi cửa nhà thờ thì lời ra tiếng vào ngay. Nào là cha cho nhiều, cha cho ít. .. Nào là người này không xứng đáng để nhận, người kia mới đáng để nhận ... Có để đi cho cũng phức tạp chứ không phải cứ có là cho một cách vô tư.
Và không chỉ dừng lại ở chuyện hơn thua nhưng còn chuyện miệt thị người này siêng đi lễ, người kia bỏ nhà thờ cũng là điểm nổi bật ở vùng truyền giáo nghèo này. Những ai lỡ bận công chuyện bỏ nhà thờ chừng vài lần là sẽ nghe lời ra tiếng vào ngay.
Hình ảnh của con chiên xứ đạo này bỗng nhiên lại tô điểm thêm nét hiền lành và khiêm nhường của vị mục tử nhân lành. Không phải ca tụng cha đặc trách là thánh hay phong thánh cho Ngài nhưng thật sự khi nhìn vào đời sống của Ngài, Ngài quả là vị mục tử nhân lành như lòng Chúa mong muốn.
Hình ảnh của cha đặc trách đây có lẽ là một mẫu gương nho nhỏ cho những ai sống đời mục tử.
Hình ảnh của giáo dân giáo điểm này cũng là một bài học cho những con chiên.
Sống trên đời ai cũng cần vật chất cả, đành biết là vậy, nhất là với những người nghèo nhưng cùng đích cuộc đời này đâu phải là vật chất. Cuộc đời này người ta đâu chỉ "sống bằng cơm bánh" như Chúa Giêsu đã từng nói. Cuộc đời này còn đó đời sống của tâm linh, đời sống của tinh thần.
Chỉ vì yêu, Cha đặc trách giáo điểm mới sống xả thân hết mình như vậy. Thật ra thì Cha đặc trách cũng đâu có làm gì ra tiền, Cha đặc trách cũng chạy đầu này đầu kia để kiếm chút gì đó về cho con cái. Tất cả là vì yêu và vì yêu.
Ngược lại, với giáo dân nghèo, ta có thể nghèo vật chất nhưng không thể nào nghèo tinh thần, không thể nào nghèo tình yêu được. Một lời thăm hỏi, một nụ cười, một chút việc nho nhỏ trong nhà thờ cũng đủ để an ủi cho vị truyền giáo đơn sơ này. Thế nhưng làm gì có ! Cha đặc trách đau lưng, đau bao tử giáo dân nào có biết. Ngày mỗi ngày, Cha đặc trách vẫn âm thầm lặng lẽ làm công việc của một ông từ đi đóng cổng thờ, đi quét chuông ...
Cha đặc trách đã làm hết lòng mình, đã sống hết sức mình nhưng chưa bao giờ Ngài than thân trách phận. Tất cả cũng xuề xoà cho xong vì lòng thương dân nghèo.
Bài học chủ chăn nhân lành của vị truyền giáo ở giáo điểm truyền giáo này là một bài học hay của sự dấn thân, sự chịu đựng. Ngày mỗi ngày, Cha đặc trách sống như một "con chiên hiền lành bị đem đi làm thịt".
Nguyện xin Chúa Giêsu là vị Mục tử tối cao ban nhiều ơn lành để Giáo Hội ngày càng có thêm những vị mục tử sống hết mình vì con chiên như vị mục tử ở vùng truyền giáo nghèo này.
Và cũng nguyện xin Chúa Giêsu biến đổi lòng con chiên ở mảnh đất này để họ ngày mỗi ngày yêu thương đùm bọc lẫn nhau hơn và nhất là yêu thương vị chủ chăn hết lòng yêu thương họ hơn.
Anmai, CSsR
MỤC TỬ THẬT - MỤC TỬ GIẢ
Ga 10, 11-18
Xã hội hôm nay thật lắm chuyện thị phi! Cuộc đời cứ như: "Vàng thau lẫn lộn". Hàng thật hàng già đã khó phân biệt mà người tốt, người xấu càng khó phân biệt hơn.Có những mặt hàng giả mà như thật. Có người phải ngậm đắng nuốt cay khi bỏ tiền mua hàng thật nhưng lại phải lấy đồ giả. Có người vì cả tin nghe người nên bị lừa đến thân bại danh liệt. Kẻ bị lừa tình mà ôm hận suốt đời. Kẻ bị lừa tiền mà tan hoang cửa nhà. Có kẻ giả nhân giả nghĩa để đánh lừa đồng loại và vun quén cho bản thân. Kẻ thất đức lại sống trên nhung lụa. Người công chính phải tù tội lầm than vẫn cỏn đó trong kiếp người hôm nay. Đó là kết quả tất yếu của chủ nghĩa thực dụng. Đặt quyền lợi cá nhân lên trên lợi ích tập thể. Con người lấy mình làm trung tâm nên mọi sự đều quy về mình. Tìm hạnh phúc cho mình. Tìm vinh danh cho mình. Vì hạnh phúc của mình nên sẵn sàng bỏ rơi đồng loại, cho dù đó là cha, là mẹ, cho dù đó là vợ chồng hay con cái. Sự thật phũ phàng đó đang là căn bệnh trầm kha của xã hội hôm nay.
Có biết bao cha mẹ đã đang tâm giết các thai nhi vì sợ đứa con sinh ra sẽ thêm phần ăn, thêm gánh nặng cho gia đình. Có biết bao vợ chồng đã đứt gánh giữa đường chỉ vì một mối tình riêng, một quan hệ bất chính. Có biết bao người con đã bỏ rơi cha mẹ trong đói khổ, già yếu, bệnh tật vì còn phải lo cho chính bản thân mình.
Xem ra thế giới hôm nay đang thiếu dần hai chữ hy sinh. Không có hy sinh làm sao có ân nghĩa. Không có ân tình, ân nghĩa nên người ta đâu cần hy sinh và đối xử tốt với nhau. Câu chuyện "Anh phải sống" của Khái Hưng không còn là văn học phản ánh hiện thực xã hội hôm nay nữa! Nó chỉ còn là huyền thoại, một dĩ vãng đã qua.
Chuyện kể rằng: có hai vợ chồng trẻ đi đốn củi vào mùa nước lũ. Chiều tối, khi trở về họ đặt củi trên chiếc thuyền lan mong manh, nhỏ bé để xuôi theo dòng nước trở về. Thình lình một dòng lũ từ những sườn núi ồ ạt tuôn xuống dòng sông, tạo thành một dòng xoáy mỗi lúc một mạnh khiến chiếc thuyền lan nhỏ bé của họ bể vỡ tan tành. Người chồng cố níu kéo vợ khỏi bị nước lũ cuốn trôi. Nhưng dòng nước xoáy mỗi phút giây trôi qua lại ồ ạt và mạnh mẽ. Sức lực của chồng xem ra càng đuối dần khi phải gồng mình để thoát thân và cứu vợ. Người vợ thấy sức chịu đựng của chồng đã cạn kiệt, nên đành buông tay ra để mặc cho dỏng nước lũ cuốn trôi, chỉ kịp gào thét trong mưa giông và nước lũ: "anh phải sống để nuôi nấng đàn con".
Tác phẩm "Anh phải sống" đã một thời đi vào lòng người, vì nó phản ánh quá trung thực về tình yêu của những con người dám hy sinh cho gia đình, cho xóm ngõ, cho dân tộc. Nhưng xem ra, tác phẩm này không còn chỗ đứng trong xã hội hôm nay. Vì giá trị con người hôm qua được đo bằng tấm lòng biết xả thân vì đồng loại, biết quên mình vì gia đình, vì dân tộc, còn giá trị của con người hôm nay được cân nhắc bằng tiền bạc và địa vị. Người càng có lắm tiền nhiều của càng được kính trọng, nể vì. Người càng có địa vị cao càng có nhiều kẻ hầu người hạ. Có mấy ai dùng quyền để phục vụ vô vị lợi cho tha nhân? Có mấy ai dủng tiền để mua lấy tình bạn? Thế giới đã đổi thay! Cách sống cũng đổi thay. Con người chạy theo lợi nhuận. Mọi quan hệ, mọi việc làm đều được căn nhắc thiệt hơn. Vì quyền lợi của mình mà bỏ rơi đồng loại. Vì lợi ích của mình mà chà đạp lên danh dự, nhân phẩm người khác. Lòng đại nghĩa hy sinh đã bị chôn vùi khi đặt quyền lợi mình trên lợi ích của anh em.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta cái nhìn tương phản của hai loại mục tử. Mục tử thật và mục tử giả. Mục tử thật luôn hết mình vì đàn chiên. Mục tử giả chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử thật thì hy sinh cho đàn chiên. Mục tử giả chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử thật luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng cỏ xanh tươi cho đàn chiên no đầy. Mục tử giả chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân mình. Họ sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn của đàn chiên. Chúa Giê-su đưa ra khuôn mẫu mục tử nhân lành là chính Chúa. Cả cuộc đời không tìm an nhàn cho bản thân. Ngài dong duổi gió bụi để tìm từng con chiên lạc đưa về ràn. Vì sự sống của đàn chiên, Ngài sẵn sàng đối phó với sự dữ để bảo vệ đàn chiên. Ngài đã chấp nhận cái chết để đàn chiên được sống.
Đó cũng là mẫu gương cho mỗi người chúng ta. Mỗi người chúng ta đều là mục tử của Chúa khi chúng ta có nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ anh em mình. Mỗi người chúng ta đều phải có trách nhiệm trước sự an nguy của đồng loại. Mỗi người chúng ta đều có bổn phận đẩy lùi sự dữ đang hoành hành trong môi trường sống của chúng ta. Không ai được phép bàng quan trước sự dữ dang bủa vây gia đình, xóm làng của mình. Không ai được phép vô trách nhiệm trước bữa no bữa đói của cha mẹ, con cái hay hàng xóm láng giềng. Nếu mỗi người chúng ta đều biết sống có trách nhiệm với anh em thì giòng đời này sẽ bớt đi những trái ngang, sẽ vơi đi những giọt nước mắt buồn đau, tủi hờn. Nếu mỗi người chúng ta đều biết đưa vai gánh đỡ gánh nặng cho anh em, và biết dùng đôi vai làm điểm tựa nâng đỡ anh em, thì cuộc đời này sẽ là một thiên đàng mà con người đang hưởng nếm những giây phút ngọt ngào nhất của tình người, của hạnh phúc yêu thương.
Đây cũng là điều kiện để có được sự sống trường sinh. Vì "ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sống muôn đời.
Nguyện xin Chúa Giê-su mục tử luôn phù hộ nâng đỡ và giúp chúng ta biết sống hiến thân mạng sống vì anh em. Amen
Lm Jos Tạ Duy Tuyền
Mục tử nhân lành là một hình ảnh rất đẹp ở xứ Palestin. Danh xưng mục tử nhân lành không phải là tôn danh người ta gán cho Chúa Giêsu để ca tụng Ngài, nhưng đây chính là mạc khải của Chúa Giêsu cho biết Ngài là ai. Ngài là mục tử thứ thiệt, mục tử chính hiệu, mục tử nhân lành đúng nghĩa.
- Mục tử nhân lành là mục tử biết rõ đàn chiên:
Ngài biết rõ từng con chiên. Biết theo nghĩa Thánh kinh, tức là không phải chỉ biết trên lý thuyết, biết theo con số, nhưng là biết tường tận từng đặc điểm, từng tính cách của mỗi con chiên và Ngài có thể gọi tên từng con một, dẫu đàn chiên của Ngài là vô cùng đông đảo. Tương quan giữa Ngài và đàn chiên là rất gần gũi và mật thiết. Đàn chiên trở nên lẽ sống của Ngài.
Ngài gọi tên rồi đi trước dẫn đường cho đàn chiên theo sau. Ngài đi trước chứ không phải đi sau để "lùa". Chiên đi sau cũng có nghĩa là chúng được Ngài cho tự do để có thể theo hoặc không theo Ngài. Ngài đi trước bằng lời nói, bằng việc làm. Ngài đi trước bằng gương sáng phục vụ cách tận tuỵ.
- Mục tử nhân lành là mục tử yêu thương đàn chiên:
Ngài không chăn dắt bằng quyền uy và bạo lực như những mục tử trong Cựu Ước. Ngài cũng không chăn dắt kiểu tắc trách, gặp chăng hay chớ như những kẻ chăn thuê. Ngài chăn dắt hoàn toàn bằng tình yêu và trách nhiệm. Tình yêu được thể hiện đặc biệt ở chổ: đối với những con chiên đau yếu, Ngài tận tuỵ chạy chữa; những con chiên thương tích, Ngài tận tình băng bó; những con chiên lạc đàn, Ngài tận lực kiếm tìm; những con chiên có nguy cơ làm mồi cho sói hùm, Ngài tận trung canh giữ... Ngài chưa thể an giấc, bao lâu còn những con chiên bị yếu đau, thương tích. Ngài chưa thể an phận, bao lâu còn những con chiên ngơ ngác lạc đàn. Ngài chưa thể an tâm, bao lâu còn những con chiên hoang đàng đùa giỡn trước nanh vuốt của ác thú. Mục tử nhân lành là thế, và nhất là Ngài còn sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên.
- Mục tử nhân lành là mục tử hiến mạng vì đàn chiên:
Thường tình thì chủ chiên bắt các con chiên hiến lông, hiến thịt, hiến sữa và cả hiến mạng cho mình. Hiếm có trường hợp ngược lại. Đây là điểm khác biệt rõ nét giữa mục tử nhân lành và người chăn thuê. Chỉ có mục tử chính hiệu Giêsu nhân lành mới sẵn sàng tự nguyện hiến mạng cho đàn chiên. Ngài hiến mạng để bảo vệ sự hiệp nhất cho đàn chiên. Ngài hiến mạng để cho đàn chiên được sống và sống dồi dào. Nói cách khác để đàn chiên có được sự hệp nhất và sự sống sung mãn, Chúa Giêsu đã phải trả bằng chính giá máu của mình. Đây là đỉnh cao của tình yêu mà Ngài dâng hiến cho đàn chiên.
Là những Kitô hữu, chúng ta được mời gọi trở nên những con chiên tốt lành của Chúa Kitô, Vị Mục Tử Nhân Lành, mục tử chính hiệu. Trở nên tốt lành qua hai tương quan tình yêu:
- Tương quan với người mục tử: biết - nghe - đi theo. Biết mục tử của mình là Đấng đã yêu thương và hiến mạng sống vì mình. Biết qua Lời của Chúa, qua Phụng vụ các Bí tích, qua cầu nguyện.... Nghe theo tiếng người mục tử, tiếng mang lại hạnh phúc đời đời, chứ không nghe tiếng người lạ. Đi theo mục tử của mình, chứ không đi theo người lạ, kẻ trộm hay sói dữ. Nếu chiên mà nghe và đi theo người lạ thì sẽ bị lạc; nghe và đi theo kẻ trộm sẽ bị bắt; nghe và đi theo sói dữ sẽ bị ăn thịt. Chỉ khi biết nghe và đi theo chủ mình thì mới có sự sống đích thực. Vì chỉ có chủ chiên mới đưa đàn chiên tới những nơi có đồng cỏ xanh tươi, có suối nước mát lành.
- Tương quan với các con chiên khác: hiệp nhất trong yêu thương, phục vụ trong quên mình. Biết, nghe và đi theo chủ chiên, con chiên cũng phải biết yêu thương hiệp nhất trong đàn chiên nữa. Chiên không thể cấu xé nhau, hay mạnh con nào con đó sống. Trái lại các con chiên khoẻ mạnh phải biết phục vụ nâng đỡ các con chiên ốm yếu theo gương của chủ mình. Sẽ không thể nào có một đàn chiên duy nhất, nếu các con chiên không hoà hợp với nhau, không yêu thương nâng đỡ nhau. Sẽ không thể nào trở nên gương sáng cho các con chiên khác không thuộc về đàn noi theo, nếu đàn chiên không biết hy sinh phục vụ lẫn nhau theo tinh thần của người mục tử nhân lành.
Hãy tạ ơn Chúa vì hồng ân được thuộc về đàn chiên của Chúa. Và hãy xin Người giúp chúng ta luôn biết trung thành nghe và đi theo vị mục tử tuyệt hảo là chính Chúa, qua các các vị chủ chăn đại diện cho Chúa ở trần gian. Xin Chúa cũng gởi thêm cho chúng ta nhiều mục tử nhân hậu biết noi gương Chúa hết lòng yêu thương và sẵn lòng hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên được Chúa trao phó. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
MỤC TỬ VỚI ĐÀN CHIÊN
Ga 10, 11-18
Hình ảnh mục tử sống giữa đàn chiên là hình ảnh rất thân quen đối với dân Do-Thái ngày xưa chuyên sống đời du mục. Hình ảnh nầy được Thánh Kinh Cựu Ước sử dụng nhiều lần để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân Người.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su dùng lại hình ảnh nầy như một biểu tượng cao đẹp để diễn tả tình thương cao vời Người dành cho nhân loại với những nét lớn sau đây:
1. Thiên Chúa muốn sống hoà mình thân mật với chúng ta
Thiên Chúa là Chúa Tể càn khôn, là Tạo Hoá quyền năng cao cả, còn loài người chỉ là tạo vật thấp hèn. Cách biệt giữa Thiên Chúa và loài người thật quá bao la.
Thế nhưng Thiên Chúa muốn vượt qua mọi cách biệt để sống chan hoà với con người. Người không muốn duy trì quan hệ đẳng cấp kiểu vua-tôi, chủ-tớ với con người nhưng muốn sống hài hoà thân mật với hết thảy chúng ta.
Để diễn tả tình thân nầy, Chúa Giê-su tự ví mình như mục tử nhân lành sống giữa đoàn chiên nhân loại.
Đẹp thay hình ảnh người chăn chiên hiền lành đang ngồi giữa bầy chiên đông đúc: có chiên thì được ẵm vào lòng; có chiên thì được khoác lên vai; còn những chiên khác thì quấn quýt chung quanh, hếch những chiếc mõm hồng hồng dễ thương và giương những cặp mắt ngây thơ nhìn người mục tử.
Qua biểu tượng mục tử với đàn chiên, Chúa Giê-su tỏ cho thấy Thiên Chúa muốn vui sống giữa loài người và tương quan giữa đôi bên hết sức thân mật không còn khoảng cách.
2. Thiên Chúa nuôi dưỡng chúng ta cách chu đáo
Thánh vịnh 23 phác hoạ chân dung Thiên Chúa như Vị Mục Tử nhân lành tận tình nuôi dưỡng đoàn chiên cách chu đáo, chẳng để chiên phải thiếu thốn điều gì.
"Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.
Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi" (Tv 23, 1-3)
Các mục tử trên đời nầy nuôi chiên nhằm khai thác chiên: xén lông, xẻ thịt hoặc bán chiên lấy tiền, còn Mục Tử Giê-su thay vì khai thác trục lợi đoàn chiên thì lại hiến thân mình làm lương thực để chiên được dồi dào sức sống: "Phần tôi, tôi đến để cho chiên tôi được sống và sống dồi dào" (Gioan 10, 10)
Người chấp nhận trao ban chính mình làm bánh nuôi sống nhân loại đang lầm than đói khát: "Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!" (Gioan 6, 35),
3. Chúa là Đấng chăm sóc chúng ta tận tình
Qua miệng ngôn sứ Ê-dê-ki-en, Thiên Chúa tỏ cho thấy Người chăm lo săn sóc từng người chúng ta rất ân cần: "Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta. Chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh" (Edekien 34, 15-16)
Qua dụ ngôn người mục tử bỏ 99 con chiên nơi hoang địa để đi tìm con chiên lạc, Chúa Giê-su tỏ cho thấy Thiên Chúa chăm sóc chi li từng người một, không muốn bất kỳ một ai phải hư vong. (Luca 15, 4-7)
4. Chúa là Đấng hy sinh mạng sống để bảo vệ chúng ta
Khác xa người chăn thuê cao chạy xa bay khi thấy đàn sói hung tàn xông tới vồ xé bầy chiên, Mục tử Giê-su chấp nhận hy sinh mạng sống mình để bảo vệ đến cùng: "Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên. Tôi chính là Mục Tử nhân lành... tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên." (Gioan 10, 11-15)
Lạy Chúa Giê-su, Chúa là Mục tử có một không hai trên đời:
Chúa sống hoà mình thân mật với chiên,
nuôi dưỡng chiên chu đáo,
chăm sóc chiên tận tình,
và sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ đoàn chiên.
Xin cho gương sống tuyệt vời nầy sẽ mãi mãi là lời mời gọi và là động cơ thúc đẩy chúng con trở nên mục tử nhân lành như Chúa.
Xin thương giúp cho các bậc cha mẹ trở thành mục tử tốt trong gia đình, các linh mục trở thành mục tử nhân lành trong giáo xứ, Thầy Cô trở thành mục tử cao quý ở trường học... để mỗi người chúng con tuỳ theo chức phận mình, biết tận tình nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ đoàn chiên Chúa trao cho chúng con theo gương người Mục Tử nhân lành là chính Chúa. Amen.
LM Inhaxiô Trần Ngà
CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH
Ga 10, 11-18
Chúa Nhật thứ IV Phục Sinh còn được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Chính Đức Kitô là Vị Mục Tử nhân lành đã hiến mạng sống mình vì đàn chiên (Ga10,11). Ngài đến trong thế gian với sứ mệnh quy tụ tất cả các con chiên về một mối: ngõ hầu chỉ có một Chủ chiên duy nhất và một đàn chiên duy nhất.
Qua thánh Phêrô Tông Đồ, Chúa Giêsu Phục Sinh đã trao phó nhiệm vụ chăn dắt đàn chiên của Người cho Giáo Hội (xem Ga 21,15-17). Theo gương Chúa Kitô Mục Tử, Giáo Hội không ngừng dấn thân trong việc chăm sóc đàn chiên. Vào mọi nơi mọi thời, không thiếu những tấm gương của những vị mục tử trong Giáo Hội đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời của mình để sống chết vì đàn chiên.
Ý thức được trách nhiệm cao cả của mình, Giáo Hội luôn luôn kêu mời các bạn trẻ nam nữ đáp lại lời mời gọi của Vị Mục Tử nhân lành biết quảng đại dấn thân trên con đường tận hiến để phục vụ Giáo Hội của Chúa Kitô và tha nhân. Vì vậy, Giáo Hội dành riêng Chúa Nhật thứ tư Phục Sinh hàng năm để cầu nguyện cho ơn gọi thánh hiến nói chung và ơn gọi linh mục nói riêng.
Việc Chúa chọn gọi luôn đồng nghĩa với việc Chúa trao phó một sứ mạng đi kèm. Ngay từ khi bắt đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã gọi các môn đệ để các ông đến ở với Người và được Người sai đi rao giảng (xem Mc 2,14). Được Chúa gọi luôn là một màu nhiệm vượt qua sự so đo tính toán của con người. Chúa gọi ai đó cộng tác với Người không phải vì họ tài giỏi. Người đã chọn các Tông Đồ vốn là những kẻ chài lưới tầm thường và ít học. Nơi họ vẫn còn mang nặng tính vụ lợi hơn thiệt (xem Mt 19,27), tranh cãi về địa vị thứ bậc (xem Mc 9,34), ham hố danh vọng (xem Mt 20,21), và thậm chí cũng có cả tội bất trung như Phêrô chối Chúa (xem Mc 14,71). Việc chọn và gọi luôn là sáng kiếng riêng của Chúa và cũng là cách thức để Chúa chia sẻ sứ mạng của Ngài với những người được yêu mến và được tuyển chọn.
Việc Chúa trao phó sứ mệnh cho ai đó luôn đi kèm theo lời hứa và phương tiện để thi hành (xem Mt 28, 19-20). Các Tông Đồ đã được Chúa Giêsu hứa sai phái Thánh Thần đến để thánh hóa, dạy dỗ, ban sức mạnh cũng như ơn khôn ngoan hiểu biết (xem Ga 16,13).
Điều này đã được kiểm chứng nơi bài đọc thứ nhất. Tác giả sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại việc thánh Phêrô và Gioan bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng. Hai ông bị kết án với tội danh vì đã chữa lành cho một người què từ khi lọt lòng mẹ ngay tại cửa Đền Thờ và vì đã lôi kéo được chừng năm ngàn người tin vào lời rao giảng của các ông. Chính nhờ tác động của Chúa Thánh Thần mà một Phêrô khiếp đảm ẩn mình trong gian phòng cửa đóng then cài thành một Phêrô can đảm xuất hiện trước dân chúng. Cũng nhờ Chúa Thánh Thần, từ một anh chàng chài lưới quê mùa năm xưa, Phêrô đã trở nên người người giảng giải hết sức lưu loát thu hút được rất nhiều người theo đạo. Chúa Thánh Thần cũng biến đổi một Phêrô chối Thầy thành một
Phêrô dõng dạc làm chứng về Đức Kitô bị đóng đinh và nay đã phục sinh để trở nên nguồn ơn cứu độ duy nhất cho nhân loại.
Thật kỳ diệu. Chúa Thánh Thần đã hoán chuyển vị trí của một Phêrô bị cáo trong phiên tòa người đời thành một Phêrô thẩm phán để vạch tội giết Đấng Công Chính của họ, để kêu gọi họ sám hối và đặt niềm tin vào Đấng mà chính họ đã đóng đinh vào thập giá.
Khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, chúng ta được sát nhập vào thân thể của Chúa Kitô Phục Sinh. Chúng ta được sinh ra trong Thánh Thần để tham gia vào sứ mệnh và các chức năng ngôn sứ, tư tế và vương đế của Chúa Kitô. Trung tâm điểm của đời sống Kitô hữu là được mời gọi để trở nên những chứng nhân cho một Đức Kitô đã bị kết án, bị đóng đinh trên thập giá, đã chết một cách bi thảm và đã Phục Sinh vinh hiển.
Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy ngự đến để sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Xin soi lòng mở trí chúng con để ánh sáng Phục Sinh xua tan mọi u mê tăm tối. Xin hãy canh tân bộ mặt trái đất. Lạy Ngôi Ba Thiên Chúa xin hãy ngự đến vì chúng con đang mong chờ Ngài.
Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng
Trong Chúa Nhật IV mùa Phục Sinh (năm B), bài Phúc Âm (Gioan 10, 11-18), Bài Đọc I (Cv. 4, 8-12), và Bài Đọc II (1 Gioan 3, 1-2) đều gợi lên trong tâm trí chúng ta hình ảnh Người Chăn Chiên Nhân Lành. Bài Phúc Âm và các Bài Đọc trong năm A và C cũng vậy; vì thế, Chúa Nhật IV mùa Phục Sinh thường được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Nhân Lành.
Chúa Giêsu Kitô chính là CHÚA CHIÊN NHÂN LÀNH. Ngài đã vâng lời Đức Chúa Cha, và xuống thế làm người, mặc lấy thân phận một người hèn mọn, sống khiêm nhường trong gia đình nghèo khó Nagiaret. Trong thời gian ra đi rao giảng, Ngài đã luôn tận tụy rao giảng Phúc Âm Tình Thương, chấp nhận mọi khó khăn, mệt nhọc, mọi phản ứng chống đối, và sẵn sàng chấp nhận cả cái chết nhục nhã trên Thánh Giá để cứu chuộc đoàn chiên: "Ngài đã vâng phục cho đến chết, và chết trên Thánh Giá..." (Phillip 2, 6-8).
Cuộc đời và những lời rao giảng của Chúa Giêsu phác họa cho chúng ta hình ảnh Người Chăn Chiên Nhân lành:
Người Chăn Chiên Nhận Lành hy sinh tận tụy rao giảng Phúc Âm Tình Thương của Chúa cho mọi người.
Người Chăn Chiên Nhân Lành săn sóc đoàn chiên với lòng yêu thương, nhân hậu; biết lưu ý đến từng con chiên một, tìm hiểu hoàn cảnh và nhu cầu của mỗi người, lắng nghe tiếng nói của mọi người, và yêu thương, khiêm tốn phục vụ mọi người trong những hoàn cảnh khác nhau. Với những con chiên xa lạc, Người Chăn Chiên Nhân Lành hy sinh đi tìm, và vui mừng khi tìm thấy, không giận dữ, không la mắng, nhưng âu yếm vác lên vai và mang trở về đoàn.
Người Chăn Chiên Nhân Lành cũng luôn là ngọn đèn cháy sáng để chiếu soi ánh sáng chân lý tình thương của Chúa cho mọi người.
Đời sống đạo đức sâu xa, âm thầm cầu nguyện và lòng nhiệt thành của vị Chủ Chăn luôn như muối men ướp cho đời sống Dân Chúa được mặn nồng sốt sáng.
Trong ngày Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, cũng như trong đời sống hằng ngày, chúng ta hãy cùng nhau dâng nhiều hy sinh, hãm mình để xin Chúa ban ơn thánh hóa Đức Giáo Hoàng và các vị Chủ Chăn trong toàn thể Giáo Hội, trong đó có các vị Chủ Chăn tại quê hương Việt Nam, nhất là các vị đang bị tù đày, các vị đang gặp nhiều khó khăn thử thách tại những nơi mà Giáo Hội đang bị bách hại dưới nhiều hình thức khác nhau.
Chúng ta cũng hãy cầu xin Chúa cho chúng ta luôn hăng hái nhiệt thành cộng tác với các Chủ Chăn trong công việc chăn dắt đoàn chiên Chúa. Các bậc làm cha mẹ cũng là 'các chủ chăn' của đoàn chiên trong các gia đình của mình, nên cũng cần cầu nguyện nhiều để xin Chúa giúp chúng ta biết sống làm gương sáng và dẫn dắt con cháu chúng ta trung thành giữ vững Đức Tin trong sự hòa hợp yêu thương phục vụ lẫn nhau.
Hôm nay cũng là ngày "Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi Linh Mục và Tu Sĩ." Chúng ta cũng hãy hy sinh, hãm mình, dâng lời cầu nguyện xin Chúa ban cho giới trẻ, con cháu chúng ta, được Chúa thương gọi và chọn để dâng hiến cuộc đời làm Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ phục vụ trên cánh đồng truyền giáo bao la và đa dạng trong thế giới ngày nay.
LM Anphong Trần Đức Phương
MỤC TỬ VÀ ĐÀN CHIÊN
Ga 10, 11-18
Ca dao Việt nam có những ca từ thật giản gị và gần gũi, để diễn tả mối quan hệ hai chiều giữa những thành viên trong xã hội với nhau như:
" Mình với ta tuy hai mà một
Ta với mình tuy một mà hai'
Hai mà một, một mà hai, thật như thế, tình yêu thương giữa các ngôi vị với nhau: Ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái...Cha ông ta cũng thường nói:"Bán bà con xa, mua láng giềng gần".
Hình ảnh kinh thánh quen dùng để diễn tả cho chúng ta thấy, một tương quan sâu đậm, khắng khít, một sống một còn, giữa Thiên Chúa và con người, giữa các vị chủ chăn và các Tín hữu là "Mục tử" và " Chiên'. Những kiểu nói này không xa lạ gì đối với những anh chị em sống ở vùng Trung đông, ở đất nước Do thái. Người mục tử tận tụy, hy sinh từng bữa ăn giấc ngủ để lo cho đàn chiên, còn chiên thì lắng nghe tiếng vị mục tử của mình. Đức Giêsu khẳng định rằng:" Tôi biết các chiên tôi, và các chiên tôi biết tôi"(Ga 10, 14 ). Không biết có một vị Quân vương nào trên trần gian này, dám khẳng định mình biết hết thần dân của mình không? Thiên Chúa biết con người từ khi chưa thành hình trong dạ Mẫu thân:" Trước khi Ta nắn ra ngươi trong lòng Mẹ, Ta đã biết ngươi; và trước khi lọt dạ mẹ, ta đã tác thánh ngươi" (Gr 1,5). Mục tử Giêsu chẳng những biết mà còn biết rõ từng con người:" Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến thầy"( Ga 21, 17). Còn thánh Phaolô, thì xác tín một cách mạnh mẽ, về cái "biết" của chúa Giêsu: biết con khi ngồi, khi đứng, khi nghĩ suy. Mục tử là như vậy, phải biết rõ từng con chiên của mình, phải đi tìm những con chiên lạc, băng bó cho những con chiên bị bệnh họan. Nếu mục tử cần thiết cho đàn chiên như vậy thì ngược lại chiên cũng cần biết bao cho các vị mục tử. Không có Mục tử nào mà chăn không có chiên, vì như thế chẳng khác nào người nghệ sỹ chơi đàn mà không có dây, chẳng mang lại ích lợi gì cho những khán thính giả. Có chiên mới cần mục tử, mục tử sống cần "sữa", cần "thịt" từ những con chiên, có thể nói mối hổ tương như là "Ôxy" để thở, như là " cá với nước". Chiên của tôi thì biết tôi( Ga 10,14), lời khẳng định này càng làm gia tăng tình yêu thương thắm thiết trong quan hệ song phương giữa các vị chủ chăn và những anh chị em giáo dân trong các họ đạo. Lối so sánh cụ thể ở các cụm từ" Mục tử" và " Chiên" không hề hạ thấp hay đề cao tương quan quý giá của những vị mục tử lãnh đạo trong các cộng đòan với những anh chị em giáo dân, những cộng sự viên đắc lực đang phục vụ cho vị Mục tử tối cao và nhân từ là Đức Giêsu Kitô. Trái lại nó còn làm tăng thêm giá trị hiến tế của mỗi người được trở nên của lễ tinh tuyền và thánh thiện, đẹp lòng thiên Chúa.
"UT SINT UNUM", Chúa Giêsu vẫn thường cầu nguyện cho sự hiệp nhất nên một, trong các cộng đòan Kitô hữu. Thánh lễ hằng ngày vẫn nhắc nhở sự hiệp nhất giữa đòan chiên và vị chủ chăn. Vẫn phải trau dồi và cố gắng để mỗi ngày trỏ nên những mục tử giàu lòng nhân ái, giàu nghĩa tín trung cho đòan chiên của Chúa hưởng nhờ.
Lm Giacôbê Tạ Chúc
Mỗi năm cứ vào ngày Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, tôi luôn hồi tưởng tới một bức ảnh mầu rất ấn tượng mà hồi còn nhỏ tôi đã được thấy nơi phòng sinh hoạt của giáo xứ của tôi, nhưng ngày nay sau mấy chục năm dài đằng đẵng không hiểu bước ảnh đẹp và ý nghĩa ấy đã trôi dạt nơi đâu ? Bức ảnh vẽ hình Chúa Giêsu đang vác một con chiên trên vai, gần Ngài là bầy chiên gồm nhiều con lớn con bé, xa xa là cánh đồng cỏ xanh rì và dòng suối mát trong xanh. Hình ảnh Chúa Giêsu mục tử tốt lành luôn thôi thúc tôi tìm hiểu Ngài và đến với Ngài.
Thực tế, dân Pa-lét-tin rất quen thuộc với người mục tử và đàn chiên trên các đồng cỏ xanh tươi. Giữa người chăn chiên và con chiên có một mối giây rất thân tình. Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng này ví mình như người mục tử. Mục tử nhân lành luôn luôn khác với người chăn thuê, bởi vì mục tử tốt dám hy sinh cả mạng sống vì con chiên khi chiên của họ bị thú dữ tấn công. Điều này trái nghịch với kẻ làm thuê làm mướn vì người làm mướn thì lơ là, bỏ chạy thoát thân khi sói dữ đến tấn công bầy chiên. Giáo Hội ví như bầy chiên của Chúa Giêsu. Giữa Đức Kitô và chiên có mối giây liên kết gắn bó cách mật thiết." Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi, như Cha biết tôi và tôi biết Cha " ( Ga 10, 14-15 ).Đây không phải cái biết hời hợt nhưng là cái biết sâu xa và có đi có lại. Chiên là hình ảnh của một ngôi vị hoàn toàn tự do. Người chăn chiên tốt lành gọi tên từng con chiên bằng một giọng thật quen thuộc, thật gần gũi. Chiên nghe tiếng người chăn và đi theo. Do đó, giữa người chăn và đoàn chiên hiểu biết nhau, nhận ra nhau thật dễ dàng, trân trọng và quý mến nhau. Sau khi Chúa Giêsu sống lại, Ngài đã giao cho thánh Phêrô quyền cai quản Hội Thánh và chăn dắt đàn chiên:" Hãy chăn dắt chiên con chiên mẹ của Ta ". Sứ mạng này phát xuất tự lòng mến của Thiên Chúa. Yêu mến Chúa dẫn đến việc yêu mến đoàn chiên.
Mình Đức Kitô là mục tử duy nhất, tối cao và gương mẫu. Mọi mục tử đều chỉ là phụ tá cho mục tử duy nhất là Đức Kitô. Chính vì thế, mọi mục tử đều phải noi gương, bắt chước Ngài, dám chết cho đoàn chiên được sống như Đức Kitô đã sống: " Ta đến cho đoàn chiên được sống và sống dồi dào " ( Ga 10, 10). Phêrô, nối tiếp sứ mạng chăn dắt đoàn chiên. Phêrô có thể trốn tránh tù tội, bắt bớ, giết chết. Nhưng khi Ngài nằm xuống, Phêrô mới củng cố lòng tin của Hội Thánh và đàn chiên. Phêrô trở lại vào thành để chịu chết vì Chúa, chính lúc đó Phêrô đã trở nên mẫu gương ngời sáng, không hề phai mờ của người mục tử tốt lành: " Thầy làm vững đức tin của con.Rồi đến lươt con, con sẽ làm vững đức tin của anh em con ". Nhiều mục tử trên khắp mặt đất đã nối gót Phêrô cũng đã nằm xuống để trở nên nhân chứng, và củng cố niềm tin cho anh em. Quả thật, chỉ có Đức Kitô là mục tử nhân hậu mới dám hy sinh cả mạng sống mình cho từng con chiên của mình: " Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu " ( Ga 15, 13 ).
Công việc loan báo Nước Trời và công việc cứu độ, Chúa không làm một mình, nhưng Ngài kêu mời nhiều người góp tay vào công việc mở mang Nước Thiên Chúa. Bởi vì Chúa luôn cần những người tiếp nối công việc của Ngài, để Nước Thiên Chúa được mở rộng.Do đó, cần có nhiều người trẻ dấn thân sống đời độc thân loan báo Tin Mừng và cầu nguyện cho thế giới. Việc khước từ không lập gia đình để rảnh rang hơn cho việc phục vụ Chúa, Hội Thánh và tha nhân luôn là điều khẩn thiết, Giáo Hội đang mời gọi. Hội Thánh theo gương Chúa mời gọi các môn đệ:" Hãy cho họ ăn ". Vâng, cả một thế giới với một số lớn còn chưa nhận biết Chúa, vấn đề nhân loại đang khao khát Lời Chúa lại là điều thật thúc bách nhiều người dấn thân làm môn đệ phục vụ Lời và phân phát Lời Chúa.Chúng ta thử xem thế giới hiện giờ đã có gần 8 tỷ người, nhưng người tin Chúa chỉ có hơn 1 tỷ người. Như vậy, việc truyền giáo còn rất cần thiết và cánh đồng truyền giáo còn rất bao la, mênh mông. Hội Thánh cho thấy việc khao khát Lời Chúa, những người nghèo, những kẻ bơ vơ vất vưởng, những người bệnh hoạn tật nguyền những người neo đơn, bị áp bức, bị bỏ rơi còn la liệt trên khắp cánh đồng truyền giáo. Cả một đám đông bơ vơ. Chính vì thế, các bạn trẻ hãy nhìn đám đông, thấy đám đông bằng con tim và để cho con tim mình đáp trả. Hội Thánh đã có biết bao dòng tu nam nữ, biết bao tu hội nam nữ, biết bao tu hội đời vv...Hội Thánh đã có biết bao tâm hồn quảng đại dấn thân phục vụ trong chức vụ Giám Mục, Linh Mục, Tu sĩ nam nữ, nhưng cánh đồng lúa vẫn chín vàng mà còn thiếu nhiều thợ gặt.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con mọi người biết luôn nhiệt thành mở mang Nước Trời bằng tất cả khả năng và mức độ có thể. Xin ban cho nhân loại nhiều Linh mục, nhiều Tu sĩ nam nữ thánh thiện để Nước Chúa được mở rộng khắp nơi và Tin mừng cứu rỗi được vang lên khắp cùng bờ cõi trái đất. Amen.
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
RAO GIẢNG ĐỨC GIÊSU ĐÃ PHỤC SINH
Ga 10: 11-18
Các tông đồ là những người đã được thấy và đụng chạm vào Đức Giêsu Phục Sinh. Vì thế, sứ mạng của các tông đồ là làm chứng điều mắt các ngài đã thấy và tai các ngài đã nghe: Đức Giêsu đã phục sinh. Chỉ nhờ Đức Giêsu phục sinh mà tất cả con người được cứu độ.
1. Thiên Chúa đã phục sinh Đức Giêsu từ cõi chết
Hôm nay, qua dịp chữa lành người tàn tật và rồi bị tra hỏi, Phêrô có dịp rao giảng tin mừng Đức Giêsu phục sinh trước mặt những người lãnh đạo dân Do Thái. Phêrô nói: "Xin tất cả quý vị và toàn dân Israel biết cho rằng: nhân danh Đức Giêsu Kitô, người Nazaret, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị" (Cv.4, 10). Phêrô không chủ ý kết tội những người đóng đinh Đức Giêsu, nhưng ngài xác định rõ Đức Giêsu là Đấng chính các vị lãnh đạo dân đã đóng đinh Ngài.
Phêrô còn rao giảng: "ngoài Ngài ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để nhờ danh đó mà tất cả chúng ta được cứu độ" (Cv.4, 12). Theo lời rao giảng của Phêrô, Đức Giêsu là người của Thiên Chúa; và Thiên Chúa đã dùng Ngài là phương tiện duy nhất cứu độ con người. Từ ngữ "phương tiện cứu độ duy nhất" ở đây có thể được hiểu theo nghĩa, nếu có một phương tiện cứu độ nào đó, thì vẫn nhờ và qua Đức Giêsu Kitô.
Đức Giêsu là Đấng cứu độ duy nhất, phải chăng chỉ vì Thiên Chúa muốn vậy? Phải chăng Đức Giêsu cũng chỉ là một người như bao người khác, như bao trung gian khác, hay nơi Đức Giêsu còn có điều gì khác? Thiên Chúa muốn Đức Giêsu là trung gian cứu độ duy nhất, vì Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa.
2. Đức Giêsu là mục tử tốt lành
Đức Giêsu yêu thương con người. Ngài dùng hình ảnh quen thuộc đối với người Do Thái để diễn tả tình yêu và sự quan tâm của Ngài đối với con người. Ngài như một mục tử chăn chiên, Ngài muốn con người sống an lành và triển nở, như một mục tử tốt lành bảo vệ chiên khỏi nguy hiểm và chăn dắt để chiên được no đủ. Đức Giêsu đã dùng nhiều hình ảnh và nhiều cách để diễn tả tình yêu của Ngài đối với con người. Hình ảnh cây nho cành nho cũng là một hình ảnh rất thân thương được dùng để diễn tả tương quan giữa Đức Giêsu và con người.
Người chăn chiên tốt, là người dám hy sinh mạng sống vì đoàn chiên (Ga.10, 11); Đức Giêsu là người đã hiến mạng sống vì bạn hữu (Ga.15, 13). Bí tích Thánh Thể diễn tả cách thật đặc biệt tình yêu của Đức Giêsu đối với con người. Đức Giêsu yêu con người đến độ dám chết cho con người, dám hy sinh tất cả để con người được sống. Đức Giêsu là biểu tượng tình yêu của Thiên Chúa cho con người.
Thiên Chúa yêu thương con người một cách đặc biệt qua Đức Giêsu. Ngày nay Thiên Chúa vẫn dùng nhiều người như dấu chỉ Ngài hiện diện và yêu thương con người hiện tại. Trong Chúa Nhật thứ tư Phục Sinh, Giáo Hội cho tín hữu nghe bài phúc âm về Chúa Chiên Lành; và Giáo Hội cầu nguyện đặc biệt cho ơn thiên triệu tu sĩ và linh mục. Xin Chúa tiếp tục khơi dậy và đánh động, để ngày nay có nhiều người quảng đại dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa qua việc phục vụ anh em mình.
3. Chúng ta là con Thiên Chúa
Mỗi người đều được Thiên Chúa tạo dựng và sinh ra qua cha mẹ mình. Một khi người cha người mẹ sinh ra con, cho dù người con đó chấp nhận hay phủ nhận, kính trọng hay khinh thường, thì cha mẹ người đó vẫn là cha mẹ người đó; vì thế, Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người, cho dù người đó có biết hay không, có chấp nhận hay không, Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người, của Kitô hữu và của cả những người đang theo bất kỳ một tôn giáo nào.
Nếu vậy, Đức Giêsu Phục Sinh thêm gì cho hiểu biết và tương quan giữa con người và Thiên Chúa? Một khi người ta nhận ra chân tướng của Đức Giêsu, người ta sẽ nhận ra tương quan rất đặc biệt của Thiên Chúa đối với con người. Nếu Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa, hẳn Thiên Chúa phải yêu thương con người vô cùng nên Ngài mới cho Con Ngài nhập thể làm người. Con người không phải là tạo vật tầm thường, nhưng con người là một giá trị tuyệt vời đối với Thiên Chúa, chính vì thế Lời Thiên Chúa mới nhập thể làm người. Cái chết ô nhục của Đức Giêsu trên thập giá, làm người ta còn hiểu hơn tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Con người là gì, mà Thiên Chúa đã cam chịu để con người hành hạ Con của Ngài như vậy!
Chính Đức Giêsu, theo tin mừng Yoan, cũng khẳng định Thiên Chúa yêu thương con người như yêu chính Ngài (Ga.17, 23.20). Và chính Đức Giêsu cũng khẳng định Ngài yêu thương con người như Thiên Chúa yêu thương Ngài (Ga.15, 9). Một người có thể là con nhưng không được yêu thương, chẳng hạn có những người cha người mẹ bỏ con mình. Qua và nhờ Đức Giêsu, con người nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Thiên Chúa yêu thương con người như yêu thương Đức Giêsu, Con Một Yêu Dấu của Ngài. Đức Giêsu là Đấng mặc khải Thiên Chúa.
LM Phạm Thanh Liêm, SJ
Chúa Nhật 4 Phục Sinh hôm nay Hội Thánh muốn các Kitô hữu ý thức về tình yêu Thiên Chúa nên chọn ngày này là lễ Chúa Chiên Lành, vì Người là Mục Tử tốt lành. Thật vậy, Chúa Giêsu đã đưa ra tiêu chuẩn về người mục tử như sau : « Biết chiên từng con một...hiến mạng sống vì đoàn chiên » khác hẳn với người chăn thuê, khi thấy sói thì bỏ chiên mà chạy.. Tình yêu hiến mạng của Ngừơi là tình yêu tột đỉnh « yêu đến cùng ». Cho nên cái chết của Người không bất ngờ mà là tự hiến để diễn tả tình yêu, tình yêu này đã tạo nên mối dây gắn bó giữa chủ chiên và từng con chiên chứ không chung chung, biết tường tận và làm cho chiên no thỏa bên đồng cỏ xanh tươi và suối nước mát.
Tin Mừng Thánh Gioan giúp chúng ta nhận ra Chúa Giêsu đã là người Mục Tử tốt lành thực sự, Người tự nguyện đứng mũi chịu xào để dẫn đưa đoàn chiên, bảo vệ và hiến mạng sống cho đoàn chiên khỏi nguy tử. Ngay từ đầu đời công khai Chúa Giêsu đã được Gioan Tẩy Giả giới thiệu « Đây chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian »(Jn.1,29), rồi trong tiệc cưới Canna, Chúa Giêsu cũng ý thức sứ mạng của mình « giờ tôi chưa đến »(Jn.2,4), và khi vào đền thờ Người cũng nghĩ đến cái chết tự hiến « hãy phá đền thờ này đi... »(Jn.2,19-22). Cả trong cuộc dạ đàm với Nicôdêmô, Người đã nói cho ông hay về cái chết, cách Người chết và mục đích của đời Người »(Jn.3,14-15), và với người phụ nữ Samari cũng thế, Chúa Giêsu nói đến nước mà Người sẽ ban từ cạnh sườn Người bị đâm thâu(Jn.4,14-15).
Khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều Người lại nói tới bánh Hằng Sống và việc ăn thịt, uống máu Người(Jn.6,51-54) và lời tiên tri của Caipha « thà một người chết thay cho toàn dân »(Jn.11,50-53). Tất cả những lời nói trên Chúa Giêsu đều muốn nói đến cái chết tự nguyện. Và cuối đời Đức Giêsu càng nói nhiều hơn về cái chết tự hiến đó, trong dịp xức dầu ở Bêtania(Jn.12,7), khi vào thành Jêrusalem long trọng (Jn.12,27-33), lúc rửa chân vào bữa ăn cuối cùng(Jn13-17), đặc biệt là lúc Chúa Giêsu bị bắt(Jn.18,1-12). Cái chết tự hiến đã báo trước chứ không bất ngờ, không phải ép buộc...
Trong suốt cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu đều cho thấy Người tự hiến mình, vì vậy Chúa Giêsu là chủ chăn « điên rồ » có một không hai. Tất cả những điều Người nói và làm là muốn cho chúng ta nhận ra Thiên Chúa yêu ta. Khi ý thức Thiên Chúa yêu chúng ta và ban nhiều thứ thì chúng ta càng hạnh phúc bấy nhiêu. Nếu một khi chúng ta còn cảm thấy khổ là lúc đó chúng ta chưa cảm nghiệm được tình Chúa yêu ta. Thánh Phaolô còn mạnh mẽ xác tín rằng : Thiên Chúa yêu ta khi ta còn là tội nhân, là thù địch với Người(Rm.6,7), chúng ta không đáng Chúa yêu, nhưng vì Chúa đã yêu chúng ta nên Người làm cho chúng ta đáng yêu, Người yêu thương ta bằng tình yêu vui mừng chứ không rầy la khiển trách khi ta sa ngã, như người mục tử khi tìm thấy chiên lạc đã âu yếm vác nó lên vai.
Hôm nay Đức Giêsu vẫn cần những vị mục tử tốt lành cho đoàn chiên của Người, Người mời gọi chúng ta hãy nhìn bằng trái tim yêu thương, để thấy những cơn đói Lời Chúa, đói tình thương, đói ăn, đói ý nghĩa cuộc sống. Người tha thiết xin chúng ta hãy cầu xin Cha cho nhiều mục tử tận tụy hơn, thánh thiện hơn, thanh khiết hơn, vô vị lợi hơn và nhất là nên giống Chúa hơn : Người mục tử nhân hậu và bao dung, vị tha và vô vị lợi, hiền lành và khiêm tốn, biết sẵn sàng âm thầm chết từng ngày cho đoàn chiên.
Lạy Chúa, xin cho giới trẻ hôm nay biết nhận ra Chúa Giêsu là người tình tuyệt vời, là thần tượng duy nhất của họ, để họ sẵn sàng can đảm hi sinh tất cả mà đón nhận lời mời gọi yêu thương của Chúa, trở nên những người phục vụ và tiếp nối công trình cứu độ của Chúa qua ơn gọi linh mục và tu sĩ.
Sr. Mai An Linh, OP.
CHÚA LÀ MỤC TỬ CHĂN DẮT TÔI
Ga 10, 11-18
"Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi" (Tv 23, 2-3). Tâm tình của thánh vương Đavít diễn tả qua thánh vịnh trên thật thích hợp cho Lời Chúa hôm nay- ngày mà Giáo hội muốn con cái mình chiêm ngắm Chúa Kytô dưới tước hiệu vị mục tử nhân lành như thánh vương Đavít đã từng chiêm ngắm và cất tiếng ngợi ca. Vị mục tử đó yêu thương, ân cần chăm sóc từng con chiên và cuối cùng hy sinh tính mạng vì đoàn chiên.
Hình ảnh con chiên, con cừu có vẻ ít quen thuộc với chúng ta nhưng với người Do thái - vốn là dân du mục chuyên chăn chiên, thì không hề xa lạ. Sống trong môi trường đó, cách tốt nhất mà Chúa Giêsu đã làm, là lấy lại hình ảnh này để nói với người Pharisêu về vai trò đích thực của người chăn chiên.
Chúng ta thấy người chăn chiên đích thực khác xa với kẻ chăn chiên thuê. Người chăn chiên xét theo tính chất của nghề này phải là một con người lực lưỡng, khoẻ mạnh, có tài điều khiển cả đàn chiên; bên cạnh đó người chăn chiên cần phải có lòng yêu thương chiên, nâng niu và bảo vệ, liều mình chiến đấu với thú dữ mỗi khi chiên bị tấn công, săn sóc chúng mỗi khi chúng bị thương; người chăn chiên còn là một người bạn của chiên nữa để có thể hướng dẫn chiên theo những hiệu lệnh riêng.
Sở dĩ phải như thế bởi chiên là một loài vật rất đặc biệt. Chúng hiền lành và sống theo chủ chăn của mình. Và vì thế, mỗi một con chiên đều thân thuộc với chủ chăn để quen với những "tín hiệu" riêng của chủ. Điều này rất quan trọng. Vì dân du mục ngày xưa họ không có chuồng trại riêng cho mỗi gia đình mà tất cả đàn chiên bất kể của ai tối đến đều tụ về trong một trang trại lớn mà người ta gọi là ràn chiên. Trong ràn chiên có nhiều đàn chiên. Mỗi đàn chiên thuộc một chủ chiên. Thế nên sáng ra, tất cả các chiên trong một đàn sẽ nghe theo tín hiệu riêng của chủ và lần lượt đi theo mà không sợ lạc mất (đi lộn qua đàn khác hoặc chủ khác). "Chiên ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta" là vì vậy. Còn kẻ chăn chiên thuê thì sao? Dĩ nhiên họ không quan tâm tới chiên, không yêu thương bảo vệ và săn sóc chiên, gặp thú dữ thì bỏ chạy mặc cho chiên muốn ra sao thì ra. Vì là kẻ chăn thuê, nên cái họ cần là công nhật, là tiền công của chủ chứ không phải vì những con chiên đáng ghét kia.
Thế nên, Chúa Giêsu đã sánh ví mình như Vị Mục tử nhân lành, vị mục tử đích thực vì sự an toàn và tính mạng của đàn chiên. Khuôn mẫu của vị mục tử đó là gì? Người mục tử nhân lành trước hết phải là người Mục tử hội đủ những điều kiện của người chăn chiên đích thực chứ không phải kẻ chăn chiên thuê. Từ hình ảnh của một người chăn chiên tốt lành - một hình ảnh đã được Cựu ước dùng để chỉ Thiên Chúa như Ngôn sứ Isaia đã từng ví Thiên Chúa là người chăn chiên tốt lành, bồng ẵm chiên, ấp ủ vào lòng, vác trên vai và dẫn chiên tới nơi nghỉ ngơi (x. Is 40,11). Chúa Giêsu dùng lại hình ảnh đó như là thước đo để nhận ra đâu là người mục tử nhân lành.
Đích thực thôi chưa đủ. Người mục tử đó cần phải yêu thương chiên đến cùng. Chúa Giêsu đối chiếu người mục tử chăn chiên với đàn chiên cũng giống như Chúa Cha với Chúa Con thông qua động từ "biết" : "Tôi biết chiên của Tôi và chiên Tôi biết Tôi cũng như Chúa Cha biết Tôi và Tôi biết Chúa Cha". Biết ở đây có nghĩa là gì? Biết chính là yêu mến, thương yêu bằng tình yêu hết sức thâm sâu. Chúa Giêsu đã yêu mến Chúa Cha vô cùng thì Người cũng yêu đàn chiên của Người hết sức đến nỗi Người săn sàng hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên.
Cuối cùng, người mục tử nhân lành phải là người hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Vì yêu mến đàn chiên, Chúa Giêsu đã tự nguyện hy sinh chính mạng sống mình khi chấp nhận vâng theo Thánh ý Chúa Cha, chịu khổ hình, chịu chết để rồi Phục sinh hầu đem đến ơn cứu thoát cho muôn người.
Chúng ta tự hỏi nếu một vị mục tử hội đủ những điều kiện mà Chúa Giêsu đưa ra - đích thực, yêu mến và hy sinh- vậy có thể nói vị mục tử đó đã hoàn thành xuất sắc công việc của mình hay còn thiếu một chút gì đó chưa thật hoàn mỹ? Thật ra nếu nghĩ như vậy, chúng ta sẽ thấy vị mục tử đó dễ bị "ru ngủ" trong ánh hào quang và tự mãn. Chúa Giêsu không muốn các vị mục tử chỉ dừng lại ở đó. Chúng ta thấy Chúa Giêsu tuy chăm lo cho đàn chiên này nhưng vẫn không quên hướng đến những đàn chiên khác.
"Tôi còn những chiên khác chưa thuộc ràn này". Đây chính là dung mạo đích thực của Giáo hội, của những vị mục tử đích thực. Chúng ta biết, bản chất của Giáo hội là truyền giáo, chính vì thế, hơn bao giờ hết chúng ta hãy nói về ơn gọi truyền giáo của Giáo hội. Ơn gọi là một cuộc chuyển hoán, một cuộc đổi đời cách quyết liệt của tất cả mọi người khi nhận lãnh bí tích Thánh tẩy. Với ơn gọi này, chúng ta không được phép cho mình là người có quyền hưởng thụ, có quyền đòi hỏi Giáo hội phải làm cái này làm cái khác cho mình; trái lại chúng ta phải trở nên một "Kytô khác", phải trở nên hình bóng của Chúa Kytô để mỗi người trở nên những mục tử nhân lành, thánh thiện cho thế giới hôm nay. Yêu mến Giáo hội cũng chính là yêu mến Chúa Kytô. Trăn trở và thao thức với những khó khăn của Giáo hội cũng chính là lúc chúng ta cùng trăn trở và thao thức với Chúa Kytô, để rồi cuối cùng, tất cả chúng ta cùng thốt lên như Thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu : "Trong trái tim Giáo hội, con sẽ là Tình yêu".
Tạ ơn Chúa vì Người thương ban cho chúng ta được sống trong một đoàn chiên duy nhất là Giáo hội với Vị Mục tự nhân lành là chính Đức Kytô. Xin cho mỗi người Kytô hân hoan bước theo Vị Mục tử nhân lành đó để không ngừng loan báo tình yêu vô bến bờ mà Vị Mục tử Giêsu đã hy sinh chính mạng sống mình vì đàn chiên.
Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb
NGƯỜI MỤC TỬ NHÂN HẬU
Ga 10, 11-18
Ðối với những người sống ở các miền quê có chăn nuôi những đàn súc vật lớn, như : Bò, chiên, cừu, v.v... thì hình ảnh « người mục đồng và đoàn vật » hay nói theo danh từ Kinh Thánh thường dùng : « Người mục tử và đoàn chiên », « chủ chăn và đoàn chiên », là một hình ảnh hoàn toàn quen thuộc, gắn liền với cuộc sống hằng ngày của họ. Cách đây chưa lâu, có một bạn thanh niên đã phát biểu trong giờ chia sẻ Kinh Thánh ở hội đường giáo xứ nọ như sau : « Theo thiển ý, tôi nhận thấy bài Phúc Âm nói về chủ chăn và đoàn chiên là không đúng. Vì trong đó tôi, một người giáo dân, được coi như là một chú chiên. Thành thực mà nói, tôi không bao giờ chấp nhận được điều đó ! »
Người bạn trẻ của chúng ta đã có cảm nghĩ như vậy, và có lẽ trong chúng ta cũng có người nghĩ như vậy, bởi vì một hình ảnh quá đẹp và thân thương như thế trải qua bao thế kỷ đã bị làm lệch lạc méo mó đi, do người ta chỉ trinh bày và đề cập tới một vài khía cạnh nào đó của nó. Và sự hiểu làm thật tai hại : Những người giáo dân bị hạ thấp xuống thành đoàn chiên gia súc, còn các cha xứ lại được đề cao là mục tử, là chủ chăn ! Theo cách đơn giản hóa như thế, người ta có thể nêu ra một câu hỏi châm biếm : Tại sao Ðức Giêsu được gọi là « mục tử », còn các Ðức Giám Mục trong các Giáo phận lại được gọi là « mục tử thượng cấp» ?
Dĩ nhiên, không một vị Linh mục Quản xứ nào, không một vị Giám mục hay một vị Giáo Hoàng nào còn nghi ngờ về sự thật : chỉ một mình Ðức Giêsu mới là người « Mục Tử Nhân Lành », Ðấng vượt trên mọi « mục tử thượng cấp » cũng như mọi « mục tử hạ cấp », và là mẫu mực cho mọi mục tử khác phải noi theo, phải học hỏi !
Hình ảnh « Người chủ chăn » hay « Người chăn chiên » là một hình ảnh kỳ cựu, đã có từ lâu đời như chính nền văn hóa nhân loại vậy. Trước khi con người biết sống định cư, biết cày cấy và biết họp thành làng mạc, con người đã sống đời du mục nay đây mai đó với đoàn vật, như bò, chiên, cừu. Bổn phận chính của người chăn đoàn vật là phải tìm kiếm bãi cỏ xanh và suối nước cho đoàn vật của mình. Anh phải biết thật rõ các miền có bãi cỏ xanh tốt và phải luôn luôn tiếp tục tìm kiếm và khám phá ra các bãi cỏ như thế mãi, chứ không được giam hãm đoàn vật lại trong một bãi cỏ quá lâu được. Ðiều đó thường khiến người chăn chiên phải đi vào những vùng đất xa lạ hẻo lánh và nguy hiểm. Dĩ nhiên, tất cả chỉ vì lo tìm kiếm thức ăn cho đoàn vật mà thôi !
Nhưng ở trong một vùng đất hẻo lánh như thế, những người chăn chiên cần phải luôn tĩnh thức để canh giữ đoàn vật, đặc biệt vào ban đêm. Ðoàn vật dù đang ở trong chuồng chỉ cảm thấy được an thân yên ổn, khi biết chắc chằn rằng người chăn chúng luôn tĩnh thức canh phòng chống lại tất cả những kẻ trộm cướp hay các thú dữ. Chính trong đêm tối mới chứng minh được sự trung thành của người chăn chiên với đoàn vật của anh. Nếu chính người chăn đoàn vật lại nhát đảm yếu nhược thì đoàn vật cũng luôn trong tình trạng bất an sợ hãi. Một bổn phận thứ ba của người chăn trong thời kỳ du mục là đi tìm kiếm những con chiên bị thất lạc và những con chiên đang gặp khó khăn hoạn nạn.
Trong Tân Ước hình ảnh « Người chăn chiên nhân hậu » ám chỉ Ðức Giêsu. Vì trong thực tế, chính Người là Ðấng đã hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên, cho loài người chúng ta. Ðức Giêsu là « Ðấng Chăn Chiên », vì Người là hiện thân của sự săn sóc và thương yêu của Chủ Chăn đích thực là Chúa Cha đối với nhân loại.
Ðồng thời Ðức Giêsu muốn rằng tâm tình Người Mục Tử Nhân Hậu của Người phải được tiếp tục chuyển ban từ người này đến người kia trong suốt dòng lịch sử. Do đó Người đã trao ban sứ mệnh Mục Tử cho thánh Phêrô và các thánh Tông Ðồ khác. Nhưng điều quan trọng ở đây là đoàn chiên phải nhận biết được tiếng của Ðức Giêsu. Tiếp đến, một điều quan trọng khác nữa là đoàn chiên phải cảm nhận được là người chăn của mình luôn đi tìm cho mình đồng cỏ xanh tốt, bảo vệ mình trước mọi nguy hiểm và luôn đi tìm kiếm những con chiên bị thất lạc.
Nói tóm lại, theo gương sáng của người chăn chiên nhân hậu của Chúa Cứu Thế, Giáo Hội và con người hôm nay cần đến những vị Linh mục, các Thầy Phó tế, các Nam Nữ Tu Sĩ và các cộng tác viên đắc lực trong công tác Mục Vụ cho nhân loại. Cũng vì thế, hằng năm Giáo Hội đã tổ chức các khánh nhật cầu nguyện cho ơn gọi, xin Thiên Chúa đánh động và chọn lựa các thanh thiếu niên biết hy sinh hiến thân cho việc mở rộng Nước Trời trong các tâm hồn.
LM Nguyễn Hữu Thy
Sr. Marcela người Tây Ban Nha Dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ- FMA đã kể lại một kinh nghiệm giáo dục đơn sơ và đầy hiệu quả như sau:
Sr. Marcela được gửi đến dạy một lớp học bị tai tiếng là " khủng khiếp". Ngày đầu tiên vào lớp, các học sinh cứ tiếp tục la lối inh ỏi không chịu nổi nhưng Sr. đã vẫn giữ được sự bình thản viết trên bảng một câu nói của Cha Bosco: "Chỉ cần các con là giới trẻ cũng đủ để Cha yêu mến các con". Khi thấy câu viết trên bảng, các học sinh bắt đầu lặng hơn để tò mò đọc, suy tư một chút rồi xin Sr. giải thích nhưng Sr. Marcela không muốn. Và tiếp tục Sr. Marcela hỏi thăm các em xem chúng ước muốn điều gì? Từ đó, Sr. chủ nhiệm lớp học sinh ngỗ nghịch này cho đến cuối năm. Với thời gian, các học sinh đã cảm nghiệm tình thương mến đầy mẫu tử và sâu xa của Sr. Marcela, luôn sẵn sàng lắng nghe những khó khăn của chúng, luôn hướng dẫn, sửa dạy với tình yêu thương chân thành là luôn muốn tốt, muốn điều tốt và muốn cho chúng tốt.
Tin Mừng hôm nay nói đến " Chúa Chiên Lành" hay" Mục Tử Nhân Lành" đầy yêu thương, gắn bó đến mức sống chết vì đàn chiên.
Hình ảnh quá quen thuộc này muốn khăng định Chúa Giê-su là Mục tử " thật sự và tốt lành" không chỉ bằng lời nói nhưng với hành động "hy sinh mạng sống vì đàn chiên".
Chính Chúa Giê-su đã nói: " Tôi biết chiên của tôi" (Ga 10,14), Ngài biết những công việc bé nhỏ, hy sinh âm thầm của chúng ta; Ngài biết những nỗi thao thức, lo toan, giới hạn, không thoát khỏi sự yếu đuối, tội lỗi của chúng ta; Ngài cũng biết thế giới hôm nay còn chìm trong bất công, nghèo đói, hận thù, bạo lực và chiến tranh.
Nhưng ai có thể giải thoát và dẫn chúng ta đến đồng cỏ non tươi mát của cuộc sống? Đức Ki-tô, Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng ta, Ngài mời gọi ta theo vết chân của Ngài, bước đi với Ngài, tin tưởng tuyệt đối nơi Ngài, vì Ngài là "Mục Tử Nhân Lành" bảo vệ đàn chiên khỏi mọi hiểm nguy, hướng dẫn ta biết nhận định và biết lựa chọn giũa biết bao những đề nghị, mời mọc luôn phơi bày ra trước mắt ta trong xã hội hôm nay.
Và đồng cỏ tươi chính là Lời Chúa và giới răn yêu thương của Ngài để giúp ta nhận ta " tiếng" của vị "Mục Tử Nhân Lành", Ngài sẽ khơi lên trong ta một chân trời không giới hạn và chan chứa niềm hy vọng.
Lạy Chúa Giêsu, giàu sang, danh vọng, khoái lạc là những điều hấp dẫn chúng con. Chúng trói buộc chúng con và không cho chúng con tự do ngước lên cao để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn. Xin giải thoát chúng con và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng trước những lời mời gọi của Chúa, không bao giờ ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương của Chúa dành cho từng người trong chúng con . Amen.
Sr. Maria Vũ Thị Ngọc Bích
Nguồn vietcatholic.org