Sidebar

Thứ Tư
01.05.2024

Chúa Nhật IV Phục Sinh C - Chúa Chiên Lành

  1. Chúa Chiên Lành
  2. Chúa Nhật 4 Phục Sinh C
  3. Chúa Nhật Chúa Chiên Lành
  4. Nghe Và Bước Theo Mục Tử Giêsu
  5. Mục Tử Nhân Lành
  6. Chúa Chiên Lành.
  7. Cha Mẹ Trong Vai Trò Mục Tử
  8. Sống Tốt Ơn Gọi Ðược Lãnh Nhận
  9. Hạnh Phúc Là Đây  
  10. Chúa Nhật IV Phục Sinh C
  11. Chúa Nhật IV Phục Sinh
  12. Bắt Đầu Từ Tình Yêu
  13. Mục Tử Nhân Lành
  14. Mục Tử Tốt Lành
  15. Chúa Là Mục Tử
  16. Đâu Là Mục Tử Đích Thật ?
  17. Lắng Nghe Và Đáp Lại Lời Mục Tử Giêsu
  18. Tiếng Kêu Đứt Đoạn
  19. Người Chết Vì Yêu
  20. Chúa Nhật Chúa Chăn Chiên Lành
  21. Mục Tử Tốt Lành Hôm Nay
  22. Ơn Gọi
  23. Chúa GiêSu, Người Chăn Chiên Nhân Lành
  24. Đức Giêsu, Vị Mục Tử Sự Sống
  25. Bản Sắc Của Một Cộng Đoàn Kitô Giáo
  26. Nghe Biết Và Theo Chúa....
  27. Chúa Chiên Nhân Lành
  28. Chiên Tôi Thì Nghe, Biết Và Theo Tôi
  29. Chúa Nhật IV Phục Sinh
  30. Chiên Ta Thì Nghe Tiếng Ta
  31. Chúa Nhật 4 Phục Sinh
  32. Chúa Chiên Lành

 

CHÚA CHIÊN LÀNH
Ga 10, 27 - 30

Sự ồn hối hả, ồn ào, náo nhiệt... của thế giới ngày nay đã làm cho con người khó nhận ra tiếng nói của nhau. Người Kitô hữu chúng ta sẽ không dễ nhận ra tiếng Chúa nếu chúng ta cứ mãi chìm sâu trong vòng xoáy của cuộc đời. Vậy làm thế nào để chúng ta nhận ra tiếng Chúa nói với ta trong đời sống hằng ngày?

Nội dung Chúa nhật hôm nay, Giáo hội dành đặc biệt để cầu nguyện cho ơn Thiên triệu, cầu nguyện cho có nhiều bạn trẻ luôn biết mở rộng lòng mình để lắng nghe và đáp lại tiếng Chúa gọi sống đời dâng hiến. Đồng thời, chúng ta cũng không quên cầu nguyện cho các vị mục tử trong Giáo hội luôn sống thánh thiện và nhiệt thành với sứ vụ của mình.

Trong bài PÂ hôm nay, CG đã nói: "Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi...". Vâng! Chúng ta được gọi là Kitô hữu, là đoàn chiên của Chúa khi chúng ta đã được lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Nếu chúng ta xưng mình là Kitô hữu thì chúng ta phải lắng nghe lời dạy dỗ của CG là Vị Mục Tử Nhân Lành. Chúng ta sẽ được nghe tiếng Chúa qua:

+ Thánh lễ: Trong Thánh lễ với các bài đọc Kinh Thánh và lời giảng huấn của linh mục, chúng ta sẽ dễ dàng được nghe lời Chúa dạy.

+ Tha nhân: Chúa kêu gọi chúng ta sống bác ái khi Chúa gởi những người nghèo đói, bệnh tật... đến với chúng ta; Chúa kêu gọi chúng ta hãy tha thứ, hãy yêu thương những người thường chống đối, chỉ trích, ghen ghét chúng ta; Chúa kêu gọi chúng ta hãy an ủi, mang niềm vui đến những người đang buồn chán, thất vọng...

+ Lương tâm: Chúa kêu gọi chúng ta hãy sống theo lương tâm ngay thẳng: đừng vì lợi lộc cá nhân mà gian dối trong mọi công việc mình đang làm để rồi nhiều người khác phảin chịu đau đớn do những việc xấu chúng ta đã gây ra.

* Câu chuyện về 2 thanh niên thôn quê và thành thị...

Kết luận

Tóm lại, qua bài PÂ hôm nay, Chúa mời gọi mọi người chúng ta hãy lắng đọng tâm hồn hướng về Chúa vì khi hướng về Chúa thì chúng ta mới có thể nghe được tiếng Chúa được.

Đặc biệt, chúng ta hãy cầu nguyện nhiều cho con em chúng ta và những người trẻ trong Giáo hội luôn biết mở rộng lòng mình đáp lại lời mời gọi của Chúa, làm môn đệ của Chúa trong đời sống tu trì.

Chúng ta cũng đừng quên cầu nguyện cho Cha sở chúng ta luôn được khỏe mạnh để chăm lo cho họ đạo ngày một thăng tiến hơn. Amen

CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH C
Ga 10, 27 - 30

Thiên Chúa yêu thương dân Người. Bài phúc âm hôm nay cho thấy điều đó. Tình thương của Thiên Chúa được thể hiện cụ thể nơi Đức Giêsu. Ngài yêu thương và chăm sóc từng con người như hình ảnh người chủ chiên chăm sóc từng con chiên. Để đón nhận tình thương của Ngài, chúng ta hãy biết nghe và bước theo Vị Mục Tử Giêsu.

Những trang đầu tiên trong Thánh kinh cho thấy Thiên Chúa vì yêu thương nên đã dựng nên con người. Vậy mà Con người đầu tiên đã phản bội lại tình thương ấy. Họ đã đi theo con đường mình, đã quay lại với tiếng gọi yêu thương. Con người thất bại hoàn toàn trong cuộc sống ơn gọi làm người và làm con cái Chúa của mình, phải chết đời đời. Là thụ tạo phát sinh từ bàn tay tạo dựng của Thiên Chúa, con người được đặt định trở về với đôi bàn tay yêu thương ấy, nhưng con người đã phá đổ chương trình ấy khi phạm tội, khước từ Thiên Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Ngài yêu thương đến cùng, Ngài sửa chữa lại bằng cách cho Đức Giêsu Kitô xuống thế làm người và trao cho Đức Giêsu một sứ mạng, một chương trình cứu độ cần phải hiện thực qua cuộc sống, lời giảng dạy, sự chăm sóc ân cần và cuối cùng của tình yêu là chịu chết trên thập giá "thí mạng sống" mình vì đàn chiên.

Vì thế, Chúa Giêsu chính là vị mục tử tốt lành, yêu thương và tận tuỵ chăm sóc đàn chiên. Chính Ngài ban cho chúng ta sự sống đời đời (Ga 10, 28) và không ai có thể đánh cắp, giựt mất đàn chiên tín hữu khỏi bàn tay của Ngài. Do đó về phần mình, là những con chiên, là công dân của Chúa, chúng ta hãy "nghe tiếng Chúa" và "bước theo Chúa" vì "Chiên Ta thì nghe tiếng Ta". Chiên con phải biết lắng nghe chủ chiên Giêsu. Nghe tiếng Giêsu là tin nhận Lời của Ngài và bước theo Ngài, can đảm dấn thân sống Lời Chúa một cách tự do và chủ động, sống gắn bó thiết thân với Chúa, để cho Lời Chúa thấm sâu vào lòng mình và quyết định sống theo những gì Ngài muốn, thực hành giáo huấn của Chúa trong hoàn cảnh sống hằng ngày. Thái độ vâng nghe lời ấy được thể hiện trong sự cộng tác, đóng góp vào các sinh hoạt của họ đạo, làm cho họ đạo trở thành một môi trường đầy yêu thương bác ái, tương trợ lẫn nhau như trong cộng đoàn Kitô tiên khởi thời các thánh tông đồ. Như thế, tiếng Chúa đang vang dội từng ngày, từng giờ. Nó thúc bách chúng ta hăng hái, nhiệt tình, dấn thân theo Chúa trên mọi nẻo đường yêu thương, phục vụ, hy sinh. Yêu thương, phục vụ đến chỗ không còn tìm gì cho riêng mình, không giữ lấy gì cho riêng mà cho lợi ích người khác.

Do đó, làm con chiên nghe tiếng Chúa và bước theo Chúa là như thế. Làm người có đạo hôm nay dám sống đạo thật là như thế. Nghe tiếng Chúa và dám bước theo Chúa trong xã hội chúng ta hôm nay phải như thế, và như thế nhất định chúng ta sẽ được sống đời đời, không một sức lực nào có thể cướp giựt chúng ta khỏi tay Thiên Chúa.

Tuy nhiên, theo Chúa đòi người chúng ta phải gắn bó và ràng buộc cuộc đời mình vào Chúa. Điều này đòi chúng ta phải từ bỏ chính mình, phải có một con tim yêu thương và một mối quan hệ mật thiết với Chúa để chúng ta đừng đi lạc xa khỏi đoàn chiên và vị chủ chăn tốt lành. Đôi khi cuộc sống xô bồ và những lời ngọt ngào của thế gian dễ làm chúng ta rời bỏ đàn chiên. Chúng ta muốn đi xa khỏi tầm nhìn của Chúa đến độ Người không nhìn ra chúng ta. Không còn muốn nghe lời của chủ chiên. Vì không còn thấy Chúa lắng nghe, không còn chăm sóc chúng ta nên chúng ta dễ cất bước theo tiếng gọi ngọt ngào của thế gian. Thế nhưng, Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành vẫn yêu thương và tìm kiếm cũng như tha thứ cho chúng ta. Ngài biết rõ từng tên, từng nhu cầu của mỗi người chúng ta. Không chỉ biết, người còn cảm thông với từng hoàn cảnh của chúng ta. Người biết tận đáy lòng chúng ta, nên Người có thể chăm sóc, ủi an từng người chúng ta.

Hơn thế nữa, Người còn cho chúng ta một món quà quí giá là sự sống đời đời, sự sống của chính bản thân Người. Người đã dùng chính sự sống mình mà chuộc lấy và bảo vệ đàn chiên là chúng ta. Vì thế, chúng ta hãy sẵn sàng để cho Người chăm sóc, lo lắng cho chúng ta.

Chúa nhật IV Phục sinh hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta cầu nguyện cho các giáo sĩ và tu sĩ. Chúng ta cầu nguyện cho tất cả những người hiến đời mình để phục vụ Thiên Chúa và đoàn chiên Chúa, Giáo Hội. Và nhất là cầu nguyện xin Chúa ban ơn khuyến khích những người trẻ, biết đáp lại một cách ngay lành và quảng đại ơn gọi của Chúa để phục vụ những anh chị em khác, giúp mọi người nghe và hiểu được lời mời gọi của vị chủ chăn duy nhất trên con đường tiến đến sự sống đời đời. Giáo Hội đang thiếu các mục tử và nhất là các mục tử tốt lành, chúng ta hãy cầu xin cho giới trẻ biết lắng nghe tiếng gọi của Chúa và nhất là có đủ can đảm để bước theo tiếng gọi đó bằng cuộc sống dâng hiến trọn vẹn cho Chúa để phục vụ tha nhân... Sự hy sinh hầu như tuổi trẻ có thừa, nhưng cần rất nhiều yếu tố xã hội góp phần để tuổi trẻ thực hiện quyết định hy sinh, quảng đại của mình: cha mẹ, gia đình, và họ đạo có đóng góp phần đào tạo ơn gọi thì ơn gọi mới nảy nở và mới được đảm bảo. Trong sứ điệp ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết: "Tôi nói với bậc cha mẹ, dựa vào lòng tin, rằng họ có thể nếm hưởng niềm vui của ân sủng sẽ vào nhà họ, khi một con trai hay con gái của họ được Chúa gọi để phục vụ Ngài... Đặc biệt, tôi hướng về giới trẻ của ngày nay và tôi nói với họ: Hãy dể cho Đấng Vĩnh Cửu quyến rủ các bạn, và tôi lập lại lời ngôn sứ Giêrêmia (20,7): "Ngài đã làm cho tôi say mê, lạy Chúa...Ngài đã chinh phục tôi và Ngài đã mạnh hơn tôi"..."Hãy để Đức Kitô quyến rủ các bạn. Hãy để gương Ngài lôi cuốn các bạn. Hãy để tình yêu của Thánh Thần yêu mến các bạn...Hãy say mê Đức Kitô để sống cuộc đời của Ngài, hầu nhân loại có sự sống trong ánh sáng Tin Mừng...". Ngài còn nhấn mạnh: "Thời đại chúng ta sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu sự hiện diện của những cuộc đời dâng hiến cho tình yêu trở nên khan hiếm. Xã hội chúng ta sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu không được thúc đẩy để ngước nhìn lên nơi có những niềm vui chân thật! Giáo Hội chúng ta cũng sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu thiếu những gì biểu lộ một cách cụ thể và mạnh mẽ tính thời sự vĩnh cửu của việc dâng hiến cuộc đời vì Nước Trời". Cuối cùng, Ngài giao phó giới trẻ cho Đức Trinh Nữ Maria, đặc biệt các thanh thiếu niên đã được gọi bước theo Chúa Giêsu. Mẹ biết rõ tất cả những khó khăn, chiến đấu và trở ngại các bạn trẻ phải trải qua. Xin Mẹ giúp các bạn trẻ biết nói lên câu: "Xin Vâng" đáp trả tiếng gọi của Chúa, như mẹ đã thưa khi được Sứ thần truyền tin.

Còn phần chúng ta, mỗi người nhất là giáo dân chúng ta phải biết quảng đại, hy sinh phục vụ dân Chúa trong cộng đoàn họ đạo chúng ta bằng những lời xây dựng yêu thương, bằng những đóng góp kẻ công người của để phục vụ cộng đoàn của mình. Tóm lại, mỗi người phải luôn ý thức rằng mọi việc trong họ đạo không phải chỉ là việc của linh mục, mà là của tất cả mọi người. Chúng ta hãy lắng nghe và bước theo chân Chúa Giêsu Kitô Phục sinh, để tiến về cuộc sống vĩnh cửu trong sự tươi vui phấn khởi, sẵn sàng dấn thân hy sinh và chia sẻ những khó khăn cho anh chị em đồng loại.

Lạy Chúa Giêsu là Mục tử tối cao, cám ơn Chúa đã yêu thương, tận tình chăm sóc chu đáo cho chúng con là đàn chiên Chúa, tận tình đến nỗi đã hy sinh mạng sống mình chết cho đàn chiên để chúng con được sống và sống dồi dào. Xin cho nhiều người can đảm bước theo Chúa để được nhận làm tông đồ truyền bá tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Đồng thời, xin cho chúng con biết lắng nghe và bước theo Chúa một cách dứt khoát để không phụ tình Chúa đã yêu thương mà cứu chuộc chúng con. Amen.

CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH
Ga 10, 27 - 30

Các em vừa nghe đọc Tin Mừng của thánh Gioan, nhưng bây giờ, thầy chỉ chọn một câu để chia sẻ với các em thôi. Và để các em nhớ và thuộc câu này, thầy mời gọi các em cùng đọc với thầy: "Con chiên ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta".

1. Trong câu LC các em vừa đọc, thánh Gioan có nhắc đến tên một con vật, con đó là con gì? TL: Chiên. Các em biết, hôm nay là Chúa Nhật IV Phục sinh, còn có tên gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Chúa dùng hình ảnh quen thuộc của người Do Thái là con chiên và người chăn chiên để nói lên Chúa luôn yêu thương và quan tâm chăm sóc các em trong cuộc sống hằng ngày. Chúa thì thương lo cho mình, còn mình là thiếu nhi phải đáp lại thế nào đây?

Trong câu Lời Chúa các em vừa đọc, Chúa dạy mình đáp lại bằng cách nghe và theo Chúa, theo thầy, cụ thể qua việc đến nhà thờ học giáo lý mỗi Chúa Nhật.

2. Ở đây, các em học giáo lý lúc mấy giờ, thứ mấy? Học giáo lý chính là theo Chúa và nghe Chúa. Thế nhưng, đang lúc các em học giáo lý, có những bạn khác không nghe theo tiếng gọi của Chúa mà theo những tiếng khác để đi chơi game, đi đá banh, đi đám cưới với bố mẹ, đi siêu thị với người thân ... Còn cũng có những em tốt hơn chút, cũng đi học giáo lý, nhưng lúc dì hay giáo lý viên cắt nghĩa giáo lý, em đánh cờ carô với bạn, em thọt léc bạn bên cạnh, em ngồi ngủ, hoặc lo ra nghĩ chuyện đâu đâu đó. Đó là những hành động cho thấy em hỏng muốn nghe tiếng Chúa.

Các em thân mến! Lý do các em không muốn đi học giáo lý và chơi giỡn trong giờ giáo lý vì mình chưa thấy sự quan trọng của việc học giáo lý. Thầy nói cho em biết học giáo lý quan trọng thế nào qua bài cám ơn của một em rước lễ lần đầu ở họ đạo thầy: " Sau khi rước lễ lần đầu xong, một em thiếu nhi đứng giữa nhà thờ đọc bài cám ơn, rất đông người trong nhà thờ đang lắng nghe, sau khi cám ơn Cha sở, các giáo lý viên, em bắt đầu cám ơn cha mẹ em: Kính thưa cha mẹ, cha mẹ thương con nhiều, con không biết cha thương con đến mức nào nhưng con hiểu được tình thương bao la của mẹ qua những lần trời mưa to,mẹ vẫn mặc áo mưa, chạy xe đạp chở con đến nhà thờ để học giáo lý. Trong những bước đi đầu đời của con đến với Chúa, mẹ đã ân cần quan tâm đưa đón, thì con tin rằng mẹ sẽ là chỗ dựa đức tin vững chắc cho cuộc đời của con sau này". Và khi em đọc đến đó, người ta thấy nhiều giọt nước mắt đang lăn dài trên má của các bà mẹ tham dự lễ ngày hôm đó.

Các em thiếu nhi thân mến, không cần nói nhiều, trời mưa mà mẹ vẫn chở em đi học giáo lý cho thấy việc học giáo lý cần hơn, quan trọng hơn việc chơi game, đi đá banh, đi siêu thị, đi học thêm. Vì học giáo lý làø nghe tiếng Chúa, là đi theo Chúa mà.

Kính thưa OBACE! Trời mưa, một bà mẹ nhà quê chở con đi học giáo lý, OBACE thấy có dại dột quá không? Dại hay không thì chưa biết nhưng bà hiểu được đúng đắn rằng dù con là do mình sinh ra nhưng thực sự nó là con cái Thiên Chúa, nó phải cần được học giáo lý để biết cha nó là ai và học giáo lý để biết sống làm sao mai này về hưởng phước với cha nó. Đến giờ con học giáo lý, nó đòi đi học thêm, mình là cha là mẹ chiều nó, sợ nó học thua các bạn. Sau này, nó có thể thành tài đó, nhưng nó không biết cách làm con Chúa, không biết cách sống đạo cho tử tế, mất phần rỗi linh hồn, trách nhiệm nó, bậc làm cha làm mẹ phải trả lẽ trước mặt Chúa. Còn ngược lại, nếu mình biết quan tâm cho con cái đi học giáo lý đàng hoàng, nó học biết mến Chúa yêu người, nó biết hiếu thảo với cha mẹ, người được hưởng nhờ đầu tiên là OBACE. Do vậy, để đáp lại LC hôm nay giúp trẻ nghe và theo Chúa, Xin OBACE dù bận việc đến đâu cũng phải cố gắng sắp xếp đưa con mình đến nhà thờ học giáo lý. Rồi quan tâm xem nó có đi học hay trốn học đi chơi. Nó đi học về, hỏi xem nó học được những gì. Dặn nó học bài, kêu nó trả bài cho mình nghe. OBACE tưởng đâu chuyện mình lo cho con đầy đủ cái ăn, cái mặc, chuyện học ở trường là làm tròn bổn phận làm cha làm mẹ, chưa đâu, đó chỉ là làm cái chuyện phụ. Lo cho con cái học giáo lý biết Chúa, để nó sau này sống tốt mới là bổn phận chính yếu Chúa muốn các bậc cha mẹ cộng tác với Ngài.

Kính thưa OBACE! Hôm nay là ngày Giáo Hội dành đặc biệt cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, tu sĩ. OBACE mong ước cho con mình trở thành linh mục, tu sĩ thì xin từ bây giờ, lúc con còn nhỏ, hãy cầu nguyện cho nó. Và hãy cố ý dâng cho Chúa mơ ước này ngay lúc OBACE chở nó đi học giáo lý đó. Đang lúc chúng ta chở con đi học giáo lý cũng là lúc chúng ta đang ươm mầm ơn gọi cho con đó thưa OBACE. Amen.

NGHE VÀ BƯỚC THEO MỤC TỬ GIÊSU
Ga 10, 27 - 30

Bài TM hôm nay chỉ có 4 câu nhưng cũng đủ nói lên những đặc tính của vị Mục Tử GiêSu. Đồng thời cũng đề cập những bổn phận căn bản của we là đàn chiên của Người.

Chúa GiêSu ví mình là chủ chiên, Người là Mục Tử nhân lành - không những biết từng tên, mà còn biết từng nhu cầu của con chiên. Người thấu hiểu, cảm thông với từng hoàn cảnh vất vả, đau khổ của con người nên Người giúp đỡ kịp thời, ủi an, chăm sóc bằng tất cả con tim yêu thương, chan chứa tình người của người Mục Tử nhân lành. Người yêu thương mỗi và từng người bởi vì mỗi người we đều có 1 vị trí đặc biệt trong trái tim yêu thương của Người. Do đó, là chiên của Chúa thì chúng ta có bổn phận nghe Chúa, biết Chúa và theo Chúa.

Chúa GiêSu nói: "Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi".

Nghe Chúa chính là lắng nghe Lời Chúa qua Kinh Thánh, nơi giáo huấn của Giáo Hội, và những ơn soi sáng trong lương tâm mình.
Biết Chúa ko chỉ là học hỏi, suy niệm bằng trí mà còn là hiểu biết sâu xa, yêu mến tận tình bằng tim, tâm. Chính Tình yêu mới làm cho we nhận biết Chúa một cách đích thực đến nỗi đoán biết cả thánh ý Người.
Theo Chúa chính là một thái độ hoàn toàn tự do, tự nguyện dấn thân, và gắn bó cuộc đời mình vào Mục Tử GiêSu. Theo Chúa đòi hỏi chúng ta từ bỏ - con người cũ, nếp sống cũ, để sống con người mới, đi theo, làm theo ý Người.

Quả vậy, ngày nay, cuộc sống chúng ta quá nhiều tiếng ồn ào, đầy dẫy hấp dẫn lôi cuốn nhưng người Kitô hữu phải phân biệt đâu là tiếng Chúa để bước theo và làm theo ý Chúa.

Kinh nghiệm cho thấy: chúng ta nhận ra tiếng Chúa trong cuộc sống là một điều không dễ! không dễ vì Lời Chúa thì nhẹ nhàng và êm ái, Lời Chúa mời gọi chúng ta đi theo Chúa, vào con đường hẹp, con đường của từ bỏ, chông gai thập giá, của lời mời gọi Phục vụ và hy sinh....nhưng con đường này dẫn đến sự sống vì có Mục Tử GiêSu dẫn đường, nuôi dưỡng, bảo vệ.

Ngược lại, lời của trần gian, của ma quỉ thì ồn òa, náo nhiệt, hấp dẫn lôi cuốn lấn át lời nhẹ nhàng của Chúa và hơn thế nữa lời của trần gian, của ma quỉ còn mở ra một đại lộ thênh thang của tham vọng, hưởng thụ, ích kỷ, địa vị, vinh hoa phú quý, ...

Tiền tài, danh vọng, lạc thú thế gian là những mục tử giả sẽ dẫn chúng ta đến những cánh đồng hoang có nhiều thú dữ đó là cuộc sống buông thả, hưởng thụ, tội lỗi và cuối cùng dẫn đến chỗ chết.

Người Kitô hữu nghe Chúa, Biết Chúa và Theo Chúa để được những gì? Chúa GiêSu đã trả lời: "Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi" (Ga 10,28). Đàn chiên đi theo chủ chiên nhân lành thì được tới đồng cỏ xanh, dòng suối mát. Chúng ta theo Mục Tử GiêSu được bảo vệ, chăm sóc, nuôi dưỡng để lớn lên bằng Lời Chúa, ân sủng và các bí tích của Người. Mục Tử GiêSu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Người cứu chuộc chúng ta bằng giá máu của Người, ban cho chúng ta sự sống đời đời, Người bảo đảm hạnh phúc vĩnh cửu cho những ai một lòng theo Người. Giám mục, Linh mục là những người được tham dự vào chức vụ chăm sóc đàn chiên của Chúa.

Phần chúng ta, ai trong chúng ta cũng muốn vị chủ chăn của mình thánh thiện đạo đức, biết quan tâm yêu thương chăm sóc từng người trong họ đạo của mình. Ai trong chúng ta cũng muốn cha sở của mình biết từng hoàn cảnh từng con chiên trong họ đạo để cảm thông, nâng đỡ, chia sẻ; dốc hết sức lực để toàn tâm lo những nhu cầu tinh thần, bí tích cho cộng đoàn của mình...Vậy chúng ta hãy cầu nguyện cho các vị chủ chăn biết noi gương bắt chước Mục Tử GiêSu nhân lành, khôn ngoan, thánh thiện, cần mẫn và sẵn sàng hy sinh, phục vụ cho đàn chiên, họ đạo chúng ta...

Chúa nhật hôm nay là ngày Giáo Hội cầu nguyện cho ơn thiên triệu lm, tu sĩ. Theo thống kê năm 2010 cả nước có gần 4.000 linh mục và khoảng 12.500 tu sĩ, một con số khiêm tốn trong đất nước trên 80 triệu. Không cần nói nhiều, chúng ta ý thức nhu cầu cấp bách là Giáo Hội đang thiếu linh mục. Rất nhiều họ đạo không có linh mục. Ngày xưa Chúa GiêSu bảo các môn đệ: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt đến đồng lúa".

Chúng ta xin cho có nhiều người trẻ, trong đó những thiếu niên, thanh niên quảng đại dâng mình cho Chúa, đi tu làm lm, tu sĩ, thầy, dì phước,...để Phục vụ Thiên Chúa và các linh hồn. Còn quý Phụ huynh thuộc họ đạo Bình Minh quý mến! xin quý Cha mẹ, hãy quảng đại dâng con cho Chúa để nó đi tu giúp Chúa, giúp đời, giúp phần rỗi các linh hồn. Nếu thấy con mình muốn đi tu, xin quý Phụ huynh hãy bảo vệ ơn gọi đi tu, rồi dẫn nó đến gặp cha sở để cha tìm cách giúp nó đi tu. Chúng ta xác tín một điều: "Chúa không chịu thua lòng quảng đại của Phụ huynh hy sinh dâng con cho Chúa đâu."

Để kết luận, là con chiên của Mục Tử GiêSu, chúng ta biết Chúa GiêSu yêu thương chúng ta, hãy cảm tạ Chúa, nghe tiếng, bước theo và gắn bó cuộc đời của mình với Mục Tử GiêSu, để được Chúa chăm sóc, dưỡng nuôi & bảo vệ. Đồng thời, cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều Mục Tử giống Mục Tử GiêSu.

MỤC TỬ NHÂN LÀNH
Ga 10, 27 - 30

Ông bà, cô bác, anh chị em và toàn thể các bạn trẻ rất thân mến! Hôm nay là Chúa Nhật thứ IV Phục Sinh cũng gọi là Chúa Nhật Chúa chiên lành. Giáo Hội muốn trình bày cho chúng ta Chúa Giêsu là vị mục tử, vị chủ chăn tốt lành, vì Ngài luôn tận tình, tận tụy chăm sóc đoàn chiên Chúa.Chúa Giêsu luôn yêu thương, nâng đỡ mọi người đặc biệt là những người nghèo đói, bệnh tật,đau yếu,tội lỗi.

Nhân đây con xin nói vài chi tiết về nghề mục tử, nghề chủ chăn trong bối cảnh nước Do Thái thời đó. Đa phần người Do Thái sống bằng nghề chăn nuôi, du mục. Nghề chăn nuôi phải di chuyển theo đàn gia súc đến những đồng cỏ, những suối nước. Người chủ chăn tốt lành bảo vệnhững con chiên, con dê của mình trên các sườn đồi, sườn núi.Vì nhiều người chăn nuôi như vậy, nên các chủ chăn thường có một âm thanh đặc biệt, một tiếng gọi riêng để tựu tập chiên dê của mình. Chúng ta cũng có thể tưởng tượng hình ảnh của người chăn vịt ở quê hương chúng ta. Vì lẽ này,Chúa Giêsu muốn dùng hình ảnh cụ thể để cho mọi người dễ hiểu: "Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi". Chúng ta cũng biết đó, trong cảnh hoang sơ của núi rừng, người mục tử chăn giữ đàn chiên thường phải chống đuổi những thú dữ để bảo vệ đàn chiên của mình.Người mục tử nhân lành rất yêu thương đàn chiên, dám chịu cực khổ, tận tụy hy sinh vì đàn chiên, bảo vệ cho đàn chiên được vẹn toàn.

Chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, Ngài quả là vị chủ chăn, vị mục tử tốt lành, Ngài quả thật là Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Chúa Giêsu vốn dĩ là Ngôi Hai Thiên Chúa, mà đã yêu thương con người. Ngài xuống trần gian để thông phần sự đau khổ của con người, chuộc tội cho con người, chịu chết để cứu chuộc con người. Nhìn vào sự tận tụy, sự hy sinh của Chúa Giêsu, chúng ta thấy được Ngài đúng là vị Mục Tử Nhân Lành, dám hy sinh, dám chết cho đoàn chiên là con người tội lỗi của chúng ta.

Sau cuộc khổ nạn và Phục Sinh, Người còn muốn cho con người được thông phần với sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa trên nước thiên đàng. Chúng ta rất vui mừng và hạnh phúc vì biết rằng Thiên Chúa yêu thương ta như vậy. Chúng ta hãy là những con chiên ngoan hiền,bằng đời sống đức tin vững vàng, bằng đời sống tốt lành của chúng ta với những người trong gia đình, trong hàng xóm của chúng ta.

Hội Thánh mời gọi chúng ta ý thức vai trò và sứ vụ của người mục tử,người môn đệ của Chúa Kitô. Ngày hôm nay, chúng ta cũng nhận ra hình ảnh của vị mục tử đang dõi bước theo thầy Chí Thánh Giêsu qua các vị linh mục, vị tu sĩ hiền lành, đạo đức và biết tận tụy yêu thương và chăm sóc về tinh thần và vật chất cho mọi người chúng ta. Thiên Chúa muốn cho Hội Thánh luôn có nhiều vị mục tử tốt lành để tiếp tục công trình cứu chuộc của Chúa Giêsu. Thiên Chúa luôn kêu mời những bậc ông bà, cha mẹ biết hy sinh dâng con cháu của mình, nếu nhận ra chúng có ơn thiên triệu, để làm tu sĩ, làm linh mục cho Chúa. Các bạn trẻ cũng hãy cầu nguyện với Chúa, xem Chúa có gọi mình trong ơn gọi tu trì hay không? Bởi vì đời sống con người chỉ trọn hảo khi thực thi đúng thánh ý Chúa.Cụ thể hơn, nếu bạn nào sau khi cầu nguyện với Chúa, mà cảm nhận được tiếng gọi của Chúa thì hãy trình với quý Cha, quý Dì hướng dẫn ơn gọi mình để các bạn có thể bước theo Chúa Giêsu trong đời sống tận hiến,hầu thông phần với Chúa Giêsu là vị Mục Tử Nhân Lành. Amen.

CHÚA CHIÊN LÀNH.
Ga 10,27-30

Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi cho chúng sự sống đời đời.

(Lấy từ dụ ngôn : mỗi sáng người mục tử cất tiếng gọi, chiên nghe tiếng, biết tiếng chủ chăn mình và đi theo để được dẩn tới đồng cỏ xanh và suối nước mát, được ăn uống no nê và được sự sống dồi dào).

Còn Chúa Giêsu thì không có chiên cũng không hề chăn chiên. Người được Chúa Cha sai làm Đấng cứu độ của cả loài người như là chăm sóc đoàn chiên ( theo hình ảnh văn hoá do thái). Người đã phục vụ và hiến mạng sống để có ơn cứu dộ cho nhiều người. Người đã chịu chết để làm chứng cho sự thật, không thỏa hiệp với thế gian. Người đã nêu gương can trường không lui bước trước bất cứ đe dọa nào.

Chúa Giêsu là Mục Tử tốt. Cũng phải có đoàn chiên tốt. Và đây là một trong những giới hạn của ơn cứu độ phổ quát mà theo nhiều người là 'phổ quát' thì phải cứu được hết không một ai bị loại trừ. Chiên tôi thì :

1/ Nghe tiếng tôi : Biết và vâng theo. Phải học Lời Chúa mới biết tiếng Chúa Giêsu và biết chính Chúa Giêsu và còn phải vâng theo nữa. Có người có học biết giỏi lắm, có bằng tiếng sỉ Kinh Thánh mà không vâng theo giống như người do thái xưa.

2/ Tôi biết chúng : ám chỉ người do thái xưa. Chúa Giêsu biết họ không có thiện ý, không tin, đeo theo xin dấu lạ. Chúa Giêsu biết rỏ ai là tín hữu ai không. Không phải cứ xưng nầy nọ là được.

3/ Theo tôi : điều kiện rỏ ràng, theo hay không theo. Theo thì được bảo vệ ( không ai cướp chúng khỏi tay tôi vì tôi và Cha tôi là một mà Cha là lớn hơn hết.

4/ Theo thì 'tôi ban cho chúng sự sống đời đời' cũng có nghĩa là không theo thì không ban, không có, không được cứu độ.

Giáo Hội kêu gọi : dùng ngày hôm nay để đặt biệt quan tâm tới giáo sỉ và tu sỉ.

1/ Cầu nguyện : Trước hết cậy nhờ vào ơn Chúa. Nhưng có một số việc tích cực đang chờ đợi chúng ta để công việc của Chúa Chiên Lành được kết quả.

2/ Hợp tác với các Mục tử đang công tác nhất là với các vị gặp nhiều khó khăn trong công tác mục vụ của mình, đừng để các ngài bị cô đơn, giúp đở khi các ngài cần giúp đở, nếu chúng ta muốn có nhiều mục tử tốt như lòng Chúa Giêsu mong ước.

3/ Các cha mẹ biết hướng dẩn con mình và dám hy sinh cho con dù là con một dâng mình theo ơn Chúa gọi làm linh mục hay tu sỉ. Không phải Chúa ban ít ơn gọi mà là ít người chịu sẳn sàng hy sinh đáp lại ơn Chúa gọi và sự chờ mong của Chúa.

4/ Điều tích cực hơn hết là mọi người hãy ý thức mà ham học Lời Chúa vì đây là chìa khoá vạn năng giải quyết tất cả mọi vấn đề vì muốn biết tiếng Chúa để nghe và theo thì phải học. Không học thì không biết làm sao nghe và theo được.

Trào lưu thế tục hoá làm cho con người hiện tại chạy theo hưởng thụ những cái mà thế giới văn minh cung cắp cho họ, không còn nhiều người thích đi tu nữa, có đi tu thì cũng muốn đem tinh thần thế tục hưởng thụ vật chất vào nhà tu. Khủng hoảng cả về số và luợng tu sỉ và linh mục ngày càng trầm trọng. Chúng ta cầu nguyện nhưng cũng đừng quên tích cực góp phần của mỗi người chúng ta tùy thiện chí và khả năng của mỗi người thì mới hy vọng có thêm nhiều mục tử tốt như lòng Chúa Giêsu mong ước.

Chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta nhiều mục tử NHÂNDŨNG.

CHA MẸ TRONG VAI TRÒ MỤC TỬ
Ga 10, 27-30

Thánh Gioan đã trình bày cho chúng ta thấy hình ảnh người mục tử, một người mục tử biết từng con chiên của mình, sẵn sàng hy sinh cho đoàn chiên và làm cho chiên không bao giờ phải diệt vong nhưng được sống dồi dào.

Khi dùng hình ảnh người mục tử sẵn sàng hy sinh đời mình cho đoàn chiên, Chúa Giêsu muốn nói cho chúng ta biết chính Ngài là mục tử nhân lành, hiến trọn đời mình cho chúng ta là đoàn chiên của Ngài. Thông thường khi nghe nói tới hai chữ mục tử, chúng ta thường nghĩ đến nhiệm vụ của các Giám Mục và các Linh Mục. Nhưng hôm nay, tôi muốn nói cho moi người biết thêm một thành phần khác cũng được chia sẻ sứ vụ mục tử nữa, đó là những người chúng ta, là những bậc làm cha làm mẹ trong gia đình, phải là mục tử nhân lành, hết tình thương yêu lo lắng chăm sóc cho đoàn chiên là những đứa con của mình.

Ở VN và nhất là ở ĐBSCL hình ảnh người mục tử chăn chiên rất là xa lạ với chúng ta, nhưng có lẽ hình ảnh người chăn vịt lại gần gũi và quen thuộc với chúng ta hơn. Người chăn vịt thì lúc nào cũng tìm những nơi có mồi như là cá, tép, ốc, cua.... để đưa vịt tới đó. Chưa hết đâu, người chăn vịt còn phải giữ làm sao đừng để cho vịt bị cáo chồn hay kẻ trộm bắt, rồi còn phải giữ làm sao đừng để cho vịt đi phá lúa hay là phá những ao của người ta. Khi có con vịt nào lạc bầy thì phải đi tìm, khi con nào phạm mồi, ăn phải mồi độc thì phải biết cứu chữa, làm thuốc để giã chất độc mà cứu con vịt đó.

Người chăn vịt là thế, còn chúng ta là những người được Chúa trao phó cho một đàn chiên, hay là một bầy vịt, đó là những đứa con của chúng ta, chúng ta phải chăn giữ chúng như thế nào để chúng có được một cuộc sống tốt đẹp? Hay chúng ta cho chúng ăn những gì để chúng có được một cuộc sống có ý nghĩa?

Bây giờ câu "Trời sinh voi sinh cỏ" không còn thích hợp nữa mà người ta đã nhận ra rằng: sinh con thì dễ, nuôi con thì khó, và dạy con nên người lại càng khó hơn.

Khi sinh con ra, chắc chắn ai trong chúng ta cũng muốn cho con mình được ăn no mặc ấm, ai trong chúng ta lại không thao thức và lo lắng khi con mình bệnh hoạn, rồi khi chúng tới tuổi khôn, ai lại không muốn cho con mình đi học. Chính vì thế, khi sinh ra một đứa con, tôi tin chắc rằng mỗi người đã ý thức việc nuôi dưỡng chúng về phần xác, nhưng còn việc giáo dục thì sao? Trong tinh thần đó, tôi xin nêu lên hai điều cần thiết trong việc giáo dục con cái, và đó như là hai món ăn không thể thiếu trong việc chăn giữ đoàn chiên mà Chúa trao phó cho các bậc cha mẹ.

Món ăn thứ nhất là món ăn nhân bản: là những bậc Cha Mẹ, chúng ta phải giáo dục cho con mình có một số nhân đức căn bản của đạo làm người như: công bằng, trung thực, lịch sự, biết tôn trọng người lớn...

Ca Dao nói rằng: "dạy con từ thuở còn thơ, dạy vợ từ thuở bơ vơ mới ve"à. Vì tâm trí của những đứa trẻ giống như một tờ giấy trắng, nếu chúng ta vẽ vào đó hình ảnh nào thì hình ảnh đó sẽ tồn tại mãi trong cuộc đời của chúng, vì thế, nếu vẽ vào đó những đường thẳng, thì xã hội sẽ vẽ vào đó những đường cong, nếu chúng ta không vẽ vào đó những hình ảnh tốt đẹp, thì xã hội sẽ vẽ vào đó những hình ảnh xấu xa ghê sợ. Nếu không vẽ vào đó những đức tính của đạo làm người như lịch sự, công bằng, yêu thương, thành thực... thì xã hội và bạn bè sẽ vẽ vào đó những ích kỷ, những thói hư tật xấu. Vì thế, ngay lúc con mình còn nhỏ mà lưu ý dạy cho chúng những điều này, thì khi chúng lớn lên, chúng sẽ trở thành một con người thực sự, một con người biết yêu thương, biết tôn trọng người khác.

Nhưng làm sao giáo dục con mình có những đức tính nhân bản này, trong khi chúng ta lại không có, làm sao dạy chúng yêu thương người khác khi cha mẹ cứ cự cãi nhau hoài, làm sao dạy chúng trung thực khi cha mẹ lại là kẻ gian lận, làm sao dạy chúng đừng chơi cờ bạc khi cha mẹ lại cờ bạc... cho nên việc giáo dục con mình, đòi hỏi cha mẹ phải có một cuộc sống tốt để làm gương cho chúng.

Và món ăn thứ hai là món ăn đức tin: Khi nhìn thấy những cây kiểng với đủ dáng đủ kiểu, có cây cong bên này, có cây quẹo bên kia rất đẹp. Những cây đó không phải tự nhiên được như vậy, nó phải được cắt tỉa và uốn ngay lúc còn nhỏ. Khi mới đâm tược thì phải lấy dây chì uốn những tược đó theo những kiễu mà mình muốn, cho tới khi cái tược đó già đi thì mới mở dây chì ra, và lúc đó cái cây sẽ giữ nguyên cái dáng kiễu mà mình uốn nó.

Cũng vậy, khi sinh con ra, chúng ta phải định dạng cho chúng một cái dáng về đức tin, nghĩa là cha mẹ phải quyết định cho chúng ngã về bên nào, ngã về đức tin công giáo hay ngã theo chủ nghĩa vô thần, ngã theo đạo công giáo hay những đạo khác. Là những người cha người mẹ công giáo, chúng ta phải cho con mình ngã về đức tin công giáo, chứ không thể ngã theo chủ nghĩa vô thần hay một niềm tin nào khác được. Chính vì thế, khi sinh con ra, cha mẹ phải liệu làm sao cho con mình được rửa tội gia nhập vào đạo công giáo, để chúng có được một đức tin công giáo càng sớm càng tốt.

Như vậy, mỗi người chúng ta chính là người mục tử có bổn phận lo cho đoàn chiên là con cái mình. Có muốn cho những đứa con của mình trở thành những người tốt hay không? Chúng ta là những bậc cha mẹ hãy nhớ lại những lời hứa khi lãnh nhận bí tích hôn phối, khi đứng trước mặt Chúa và hội thánh, chúng ta đã hứa, là sẵn sàng yêu thương đón nhận con cái và giáo dục chúng theo luật Chúa Kitô và hội thánh, nhưng chúng ta có thực hiện lời hứa đó không? Thực hiện tới mức độ nào?

Ước gì tất cả chúng ta là những bậc làm cha mẹ, chúng ta biết ý thức bổn phận và trách nhiệm của mình đối với con cái, để từ đó giáo dục con em mình trở nên một người tốt và trở nên một kitô hữu tốt, nhờ đó, chúng được hạnh phúc ngay ở đời này và ngày sau được hưởng hạnh phúc trên thiên đàng. Amen.

SỐNG TỐT ƠN GỌI ÐƯỢC LÃNH NHẬN
Ga 10, 27 - 30

Cùng với Giáo hội hôm nay chúng ta bước vào Chúa nhật thứ 4 Phục sinh của năm Phụng vụ 2010. Như chúng ta đã biết, vào mỗi Chúa nhật thứ 4 Phục sinh hằng năm Giáo hội tôn vinh Chúa Giêsu với tên gọi: mục tử nhân lành. Chính Chúa Giêsu đã tự xưng mình là mục tử nhân lành - mục tử hiến mạng sống mình vì đoàn chiên. "Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời" (Ga 10, 27 - 28a).

Chúa Giêsu đến trần gian này để hoàn tất chương trình cứu độ con người. Ðó là ơn gọi đặc biệt mà Chúa Giêsu được đón nhận từ Thiên Chúa Cha. Và Người đã hoàn tất ơn gọi ấy thật tuyệt vời.

Chúa nhật hôm nay cũng là ngày mà cả Giáo hội cầu nguyện cho có nhiều bạn trẻ dám đáp lại ơn kêu gọi của Chúa để sống đời sống tu trì. Sống ơn gọi tu trì hầu tận hiến trọn vẹn cho Chúa và cho anh chị em mình.

Nói đến ơn gọi tu trì thì dường như ngày nay nhiều bạn trẻ Công giáo cảm thấy sợ. Có lẽ họ sợ là vì họ chưa dám sống tích cực ơn gọi chung. Ơn gọi chung ấy chính là ơn gọi làm người và ơn gọi làm người con Thiên Chúa. Khi ý thức để sống trọn vẹn được 2 ơn gọi căn bản này, các bạn trẻ sẽ dễ dàng đón nhận ơn gọi sống đời tu trì. Chính môi trường gia đình là những người đầu tiên gieo mầm sống ơn gọi này.

Ðời sống chứng tá khơi dậy các ơn gọi. Ðây là chủ đề của Sứ điệp ơn gọi năm nay của Ðức Thánh Cha Bênêđictô. Trong sứ điệp này ngài đề cập đến ba việc cần làm để trở thành chứng tá khơi dậy các ơn gọi nhất là ơn gọi tu trì.

Ðời sống cầu nguyện là chứng tá đầu tiên. Ðó là một gia đình thường xuyên nhắc nhở nhau đi dâng Thánh lễ nhất là Thánh lễ Chúa nhật. Cũng vậy, trong gia đình ấy mỗi người nhắc nhở nhau đọc kinh hôm kinh mai chung.

Một đời sống tin tưởng và phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa là khía cạnh thứ hai trong việc làm chứng tá khơi dậy các ơn gọi. Với tất cả biến cố vui buồn trong cuộc sống luôn biết tìm ra và đón nhận thánh ý Thiên Chúa một cách vui vẻ.

Khía cạnh thứ ba không kém phần quan trọng là biết sống hiệp thông với mọi người. Tự bản chất con người được dựng nên để sống chung, sống cùng, sống với và sống cho người khác. Cho nên, người nào muốn trở thành người thật sự cần sống tốt những điều này.

Mặc dầu, trên đây là những điều căn bản trong việc làm chứng tá khơi dậy các ơn gọi nhất là ơn gọi tu trì nhưng thiết nghĩ đây cũng là điều hết sức cần thiết cho mỗi người tín hữu. Bởi vì, cho dù có đi tu hay không mỗi người chúng ta đều được kêu mời sống trọn vẹn ơn gọi làm người và làm con Thiên Chúa.

HẠNH PHÚC LÀ ĐÂY  
Ga 10,27-30

"Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp chúng khỏi tay tôi".

Một em bé chín tuổi nhận định về bà ngoại của mình như sau:

Bà  ngoại là bà cụ không có em bé nên bà thích chăm sóc những em bé nhà hàng xóm. Bà ngoại già nên không chơi "hết ga" được, bà chỉ loanh quanh con ngựa gỗ, nhưng bà có nhiều xu lẽ lắm.

Bà  ngoại thường béo tròn, nhưng bà vẫn cột được giây giày cho trẻ con. Bà chẳng khôn lanh mấy...chỉ biết trả lời những câu hỏi như: Tại sao chó ghét mèo, hoặc tại sao khi Chúa đến thì không được làm đám cưới nữa. Bà ngoại nói rất sõi, không bị ngọng. Lúc đọc truyện cho tụi cháu, bà không bỏ chữ, và không đọc một câu truyện tới hai lần. Ai cũng nên cố gắng có một bà ngoại, nhất là những người không có TV. Bởi vì bà ngoại là người lớn duy nhất dành hết thời giờ cho con nít.

Bà  ngoại... tuyệt vời như  vậy thôi chứ con đòi gì nữa?

Chúa nhật IV phục sinh là Chúa nhật dành để cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Phụng vụ lời Chúa trong ngày này thường trình bày một Đức Giêsu như mục tử tận tình chăm sóc đoàn chiên của mình. Ngài tìm cho chiên những đồng có tốt, những suối nước trong. Ngài bão vệ chiên khỏi những nguy hiểm của kẻ thù. Lũ chiên con Ngài ẩm trong lòng. Bầy chiên mẹ thì tận tình chăn dắt. Con nào bệnh thì ngài băng bó. Con nào lạc thì tìm kiếm đưa về. Chiên của Ngài thì an toàn và không phải lo lắng vì đã có Ngài nâng đỡ và chăm lo mọi sự.

Hình ảnh con chiên được chăm sóc nơi trần gian cho chúng ta một hy cọng về  một đoàn chiên được hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng với chủ chăn của mình. Sách khải huyền đã minh xác nhận điều ấy. "Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì con Chiên ngự giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh" (Kh 7,16 -17). Đó là hình ảnh của một đoàn người đã chiến thắng, đã vượt qua đau khổ, đã giặt áo mình trong máu con chiên.

Đức Giêsu không chỉ như mục tử trần gian chăm sóc phần thể xác nhưng còn là mộ Đức Chúa coi sóc cả phần linh hồn. Một Chủ Chăn hoàn hảo đến mức khi chiên của mình không may rơi vào chỗ khó khăn. Ngài đã ra tay cứu chữa và con hơn thế nữa Ngài đã hiến thân mình làm giá đền thay cho lỗi lầm của đoàn chiên, là chúng ta. Đức Giêsu còn là Con Chiên. Chính Ngài đã trở nên của ăn cho chính đàn chiên của mình. Ngài đã chết để chúng ta khỏi chết, Ngài đã phục sinh để chúng được sống. Và Ngài đã để lại vị trí chăn dắt đoàn chiên đó cho các tông đồ, các giám mục và linh mục.

Người lớn không cần bà ngoại. Chiên trưởng thành không cần chủ chăn. Thiếu người chăn dắt thì chiên vẫn sống, không có bà ngoại thì người lớn cũng lớn. Đúng rồi. Bà ngoại đâu có thể làm gì khác hơn là chơi với con nít, nhưng nếu một ngày không còn bà ngoại nữa thì không chỉ có con nít buồn. Một ngày không có chủ chăn thì chiên sẽ bơ vơ và đối mặt với nguy hiềm nhiều hơn. Bà ngoại vẫn ở đó, chủ chăn vẫn âm làm cái công việc chăm nom của mình, còn bạn có cần những người ấy không thì chỉ có bạn biết mà thôi.

Lạy Chúa, giữa thế sự nhiều tiến triển như hôm nay chúng con vẫn cần những chủ chăn tốt để được  ngài cho nghỉ ngơi và bổ sức. Giữa cuộc trần đầy tội lỗi, khó khăn như hiện tại đây chúng con vẫn cần chững chủ chăn thánh thiện để làm chứng nhân cho tình yêu Chúa và để kéo trần gian trở lại hoà bình, yêu thương. Xin Chúa cho có thêm nhiều người trẻ sẵn sàng hiến dâng tuổi thanh xuân cho đoàn chiên Chúa bằng một tình yêu trong sáng, thánh thiện.

CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH C
Ga 10,27-30

Chúa nhật thứ IV Phục Sinh hôm nay được gọi là Chúa nhật Đấng Chăn Chiên nhân lành. Vì thế, Lời Chúa hôm nay đều xoay quanh chủ đề chính là mục tử và đoàn chiên. Mục tử, tức là người chăn chiên, là hình ảnh rất quen thuộc đối với người Do Thái. Vì vậy, suốt thời Cựu ước, hình ảnh người chăn chiên trở thành một biểu tượng phong phú và sống động nhất, được dùng để diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và dân Do Thái. Họ như một đoàn chiên riêng của Thiên Chúa, được Người nuôi nấng, chăn dắt, săn sóc một cách đặc biệt. Và bây giờ, Chúa Giêsu áp dụng hình ảnh đó cho chính Ngài và đoàn chiên của Ngài là chúng ta. Chúng ta thấy Chúa dùng hai hình ảnh: người chăn chiên mướn và người chăn chiên tốt lành, để so sánh và diễn tả cho mọi người biết Ngài là người chăn chiên thật, là một mục tử tốt lành.

Thế nào là một mục tử tốt lành? Chúng ta có thể tóm tắt trong hai điều: đó là người mục tử biết các con chiên của mình và ân cần săn sóc chúng. Chúa Giêsu là một chủ chăn tốt lành vì Ngài có đầy đủ hai yếu tố đó. Chúa Giêsu là chủ chăn tốt lành của chúng ta vì Ngài biết chúng ta. Một người chăn chiên chuyên nghiệp biết số chiên trong bầy có bao nhiêu con. Biết từng con một, biết ngày sinh tháng đẻ, biết con nào tới đợt xén lông hay gây giống. Họ có tên gọi cho từng con, biết bệnh tật từng con để chữa trị: con nào hay bị lạnh, con nào làm biếng ăn, con nào hay đi tách ra khỏi bầy, con nào khó tính,... hơn nữa, có khi họ còn chụp hình, còn ghi sổ từng con mỗi năm và cân ký hàng tháng để coi con nào lên ký, con nào xuống ký. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh đó áp dụng cho Ngài như Ngài đã tuyên bố : " Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi" ( Ga 10, 27). Thực vậy, Ngài biết từng con chiên, Ngài biết chúng ta là những con người, là những tín hữu, là những người có tính tình thế nào, tình trạng ra sao. Ngài biết chúng ta còn hơn chúng ta biết mình nữa. Ngài thấu suốt tư tưởng, ước mơ, lời nói, việc làm, dự định, khuynh hướng tốt xấu của chúng ta. Ngài biết rõ từng người: ai là con chiên tốt, trung thành, ngoan đạo, ai là con chiên ghẻ, lười biếng, khô khan, phản bội. Tóm lại, không ai có thể lẩn trốn khỏi mắt Chúa, bất cứ sự gì, dù thầm kín hay bí mật đến đâu, Chúa cũng biết hết. Để rồi từ đó, Chúa Giêsu trở nên một chủ chăn tốt lành đích thực của chúng ta, Ngài ân cần săn sóc cho chúng ta, Ngài hằng ở bên để săn sóc từng người chúng ta nữa, và Ngài còn basự sống đời đời cho chúng ta nữa.

Chúa Giêsu nói mình là Mục Tử tốt lành và Chúa đã hành động xứng đáng với tước vị đó, thì đoàn chiên cũng phải biết đối xử sao cho xứng đáng. Một con vật như con chiên không có lý trí còn biết bổn phận mình với chủ chăn, thì chúng ta, chúng ta có linh tính, thì chúng ta càng phải đền đáp sao cho xứng với tình ưu ái của Chúa chiên vô cùng nhân hậu ấy. Vậy bổn phận của chúng ta là gì ? Chúng ta phải suy tôn Chúa là chủ chăn chúng ta bằng lòng tin tưởng và yêu mến. Nhưng suy tôn không phải chỉ ngoài miệng mà phải suy tôn Chúa trong đời sống, trong công ăn việc làm, trong sự đối xử với người chung quanh, trong việc làm chứng nhân cho Chúa. Rồi chúng ta phải tín nhiệm vào Ngài, như con cái tín nhiệm cha mẹ, như bạn bè tin tưởng nhau, như người công nhân tín nhiệm vào nơi chổ mình lao động, thì chúng ta càng phải biết tín nhiệm vào Chúa nhiều hơn. Sau cùng, chúng ta phải biết lắng nghe Lời Chúa và sống theo Lời Chúa, đó là điều chắc chắn vị Chủ chiên sẽ hài lòng, bởi vì ai mà chẳng vui khi thấy người thuộc quyền mình biết vâng nghe theo lời của mình.

Tất cả những điều trên đây chúng ta đều biết cả, nhưng biết mà không đem ra thực hành thì thực là uổng công vô ích. Nhiều khi trong cuộc sống, chúng ta không chối Chúa, nhưng nhiều khi chúng ta hay quên Ngài. Giữ đạo Chúa, nhưng nhiều khi chúng ta quá lo lắng đến tiền bạc, đến vật chất, đến nỗi chúng ta xao lãng các bổn phận thiêng liêng: không đi lễ, làm biếng rước lễ, không chịu đọc kinh hôm kinh mai cầu nguyện với Chúa ; rồi cũng bao lần trong đời sống, do cách ăn ở, do cách cư xử của chúng ta thiếu công bình, thiếu bác ái, thiếu yêu thương, không làm chứng cho Chúa trước những người chung quanh.... Chúng ta xin Chúa cho chúng ta can đảm sửa chữa những khuyết điểm, đó là cốt yếu của Lời Chúa dạy hôm nay, là sống tốt trong đoàn chiên của Chúa, cầu xin Chúa cho chúng ta cũng trở nên những con chiên ngoan, biết lắng nghe, vâng phục và cộng tác với Hội Thánh mà cụ thể là những vị chủ chăn của mình một cách tích cực, đầy tình thân ái trong Chúa Kitô.

Mặt khác, năm nay là Năm Thánh cầu nguyện cho các linh mục, là con chiên, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các vị Mục Tử của Chúa, sống hết mình vì đoàn chiên, chu toàn trách nhiệm trong tình yêu và lòng thành tín của Chúa Giêsu; Ngoài ra, hôm nay cũng là ngày Hội Thánh dành để cầu nguyện cho ơn Thiên Triệu linh mục và tu sĩ. Ngày nay, có nhiều tâm hồn trẻ muốn dâng mình cho Chúa. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho Hội Thánh nhiều người trẻ quảng đại đáp trả lời mời gọi bước theo Chúa, dâng mình cho Chúa, hiến thân phụng sự Chúa và phục vụ dân thánh Chúa. Là Cha mẹ trong gia đình, chúng ta hãy quảng đại dâng con cho Chúa, khuyên bảo và nhắc nhở cho con cháu mạnh dạn đi tu để làm Tông Đồ, làm sáng danh Chúa... Xin Chúa cho chúng con có những vị Mục Tử như lòng Chúa mong muốn.

Lạy Chúa, xin làm cho chúng con trở nên những con chiên ngoan tốt lành của Chúa. Amen.

CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH
Ga 10, 27 - 30.

Anh chị em thân mến.

Nếu có dịp quang sát những trẻ nhỏ, chúng ta sẽ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Những trẻ của thời đại, dường như càng ngày chúng càng thông minh hơn những thế hệ trước. Từ việc học hành, cách ứng xử, và khả năng biến báo. Đó là những trẻ mà khả năng trí tuệ đã được phát triển. Còn những trẻ rất nhỏ thì sao?

Chúng ta sẽ càng ngạc nhiên hơn khi quang sát. Chúng chưa biết gì, chưa nhìn thấy được nhiều, cũng chưa phân biệt được rõ ràng về bất cứ điều gì. Thế mà khi chúng khó chịu và dùng vũ khí tối hậu của mình là tiếng khóc, thì không ai có thể ngăng được. Chỉ có người mẹ của chúng, khi bà xuất hiện, cho dù không lên tiếng, bà chỉ cần chạm đến, đứa bé sẽ có phản ứng khác ngay, cái phản ứng mà không ai có thể tạo ra cho nó được.

Đứa bé luôn nhận ra người mẹ của mình. Nó cảm nhận rằng: đây là nơi nó được an toàn, được thương yêu, được sống và được bảo vệ. Nó vui mừng khi được ở trong vòng tay của người mẹ. Nó vui mừng khi nhận ra mẹ. Nó cũng có phản ứng khi phải rời xa mẹ, nhất là khi xa vắng người mẹ lâu giờ, nó càng có phản ứng mạnh hơn. Đó là một tâm tình thiêng liêng không ai có thể giải thích được, cái tâm tình gắn liền với con người không thể tách rời được.

"Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng theo Tôi."

Chúa Giêsu dùng hình ảnh Chủ Chăn và đàn chiên để diển tả tâm tình của Ngài với con người. Ngài yêu thương và bảo vệ cho đàn chiên. Ngài chăm sóc, gìn giữ cho đàn chiên được an toàn. Ngài lo cho đàn chiên được sống, không những bằng của ăn mà còn cả tình yêu thương bao la. Ngài dùng cả mạng sống mình để bảo vệ cho đàn chiên. Ngài không ngần ngại bất cứ một việc gì khi thấy đàn chiên có lợi. Tình yêu thương của Ngài đối với đàn chiên không thể hiểu được. Ngài muốn những con chiên trong đàn nghe tiếng Ngài gọi để được sống. Ngài muốn những con chiên ở trong sự bảo vệ của Ngài để được an toàn.

Đàn chiên của ngài có những con chiên ngoan, luôn biết lắng nghe để được bảo vệ, thương yêu chăm sóc và có cuộc sống tốt đẹp. Nhưng cũng có những con chiên, đang ở trong đàn, đang được bảo vệ bằng tình yêu thương, đang được nuôi sống, nhưng nó không còn khả năng lắng nghe. Những con chiên đó đang muốn tìm một cuộc sống đặt biệt hơn những con chiên khác. Nó cũng đang lắng nghe, nhưng không phải tiếng của chủ mà tiếng nói tự nơi đâu. Nó đang sống trong đàn mà dường như không thể hòa hợp với đàn.

Nó gây phiền phức, chèn ép và đè bẹp những con chiên bên cạnh mà vẫn nghĩ rằng mình đang giúp đỡ. Vì nó không còn khả năng lắng nghe, nó chỉ biết làm, không phải theo ý chủ, nhưng theo một tiếng nói nào đó. Nó không còn vui mừng khi nhận ra chủ nữa, vì nó không còn nhận ra được tình yêu thương của chủ, nên nó không còn thấy được an toàn trong tay chủ. Nó tìm sự an toàn nơi một người nào khác, nơi một tiếng nói nào khác, ở ngoài người chủ đã từng thương yêu chăm sóc nó.

Mỗi người trong chúng ta là một con chiên trong đàn của Chúa. Chúng ta có là một con chiên ngoan, như đứa trẻ vui mừng khi nhận ra mẹ. Chúng ta có nhận ra và lắng nghe tiếng Chúa nói với chúng ta trong từng trường hợp của cuộc sống? Chúng ta có cảm thấy được an toàn trong lòng bàn tay Chúa? Hay giờ đây chúng ta đang đi tìm sự an toàn ở một nơi nào đó? Mỗi người để ra một phút suy tư để xem chúng ta đang là chiên ngoan biết lắng nghe, hay là chúng ta không còn khả năng lắng nghe tiếng Chúa mà chỉ lắng nghe một tiếng nói nào đó.

Trong đời sống hằng ngày, nếu có Chúa bên cạnh, chúng ta có dám nói những lời mà mình đã từng nói hay không? Chúng ta có dám làm những việc mà mình đã từng làm hay không? Chúng ta đang sống theo tiếng của Vị Chủ Chăn hay đang theo tiếng nói nào, tiếng nói của riêng mình hay của một ai khác? Trả lời được những câu trên chúng ta sẽ biết được mình là một con chiên như thế nào.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa, cho mỗi người luôn là một chiên ngoan trong đàn, để chúng ta xứng đáng là một người con được ấp ủ trong tay mẹ hiền.

BẮT ĐẦU TỪ TÌNH YÊU
Ga 10, 27 - 30.

"Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta" (Gn 21, 17)

Một buổi sáng đẹp trời, người ta bổng thấy một đàn cừu đang ăn cỏ phía công viên; rồi chúng tiến lại phía trại lính. Từ xa mấy trăm mét, anh lính gác đã phát hiện...Lát sau, Chỉ còn mấy chục mét nữa là tới bờ rào, bên trong là bãi mìn, nơi cấm xâm nhập. Anh quát lên lớn tiếng. Không ăn thua gì! Đàn cừu cứ ung dung tiến tới. Anh lấy đất đá chọi tới; không được...lại không thấy ai là người chăn đàn cừu cả. Anh đánh kẻng báo động. Sĩ quan trực lập tức chạy ra. Anh hỏi: có nên nổ súng để đe dọa? Ông này cũng phân vân, cuối cùng không đồng ý: vì sẽ có hại nhiều hơn... Làm sao đây? Mấy chục binh lính đã thành hàng phía trước đàn cừu. Chúng vẫn ung dung tiến tới, băng qua họ, đi theo con đầu đàn...15 phút, rồi 20 phút trôi qua! Bất thần có tiếng sáo nổi lên. Tự dưng con đầu đàn ngẩng lên nghe tiếng sáo và đi ngược về phía đó. Cả bầy cừu lập tức đổi hướng đi theo con đầu đàn, theo tiếng sáo... Thì ra chú bé chăn cừu vì mê chơi đã để bầy cừu đi lạc. Chỉ cần nghe tiếng sáo quen thuộc của chú, cả bầy đi theo ngay...Bầy cừu đã nghe tiếng chủ nó ...

a. * chiên: còn gọi là cừu, trừu, là loại gia súc hiền lành nhất và có lợi cho người nuôi nhất. Người ta nuôi chiên để xén lông, làm len dệt vải, lấy sữa, mỡ và thịt. Người Do thái không ngạc nhiên khi thấy Chúa dùng hình ảnh này, vì nghề chăn chiên là nghề chính, rất quen thuộc với họ.

* động từ biết: không chỉ đơn thuần là biết, phân biệt với người, với vật khác. Biết còn là tin, đặt niềm tin nơi người đó. Chiên biết chủ chăn, vì chiên tin nơi chủ của mình.

b. Dựa vào kinh nghiệm của mục tử ở Trung Đông, người ta thấy Chúa muốn trình bày mối tương quan đặc biệt giữa mục tử và đàn chiên như sau:

- Chiên luôn đi theo chủ chăn: Người chăn chiên luôn đi trước đàn chiên, vì chúng muốn được hướng dẫn và che chở. Việc chăn bò, hay con vật khác, người chăn đi đàng sau để lùa chúng đi tới.... Chúa Giêsu dùng hình ảnh: "mục tử chăn chiên" để chỉ về mình. Chúa là mục tử, là chủ chăn tốt lành, sẵn sàng hi sinh mạng sống mình để lo cho đàn chiên.

- Chiên nghe tiếng chủ chăn: Ngày hôm nay bên nước Do thái, người ta vẫn còn thấy hình ảnh đàn chiên như Chúa diễn tả. Vào lúc chiều xuống, khi đàn chiên chuẩn bị về chuồng, các chủ chăn đưa chiên đến uống nước ở một dòng suối nào đó. Nhiều bầy chiên khác nhau của nhiều chủ chăn, có thể trà trộn nhau tại nơi uống nước. Chủ chiên không sợ chiên lạc. Khi ra về, chỉ cần một hồi còi, một tiếng sáo...con chiên tự động biết đàn của mình mà tách ra theo đàn mình để về chuồng: Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta. (Gn 10, 27)

Chiên rất thân thiện với chủ chăn: người ta nói rằng khi chiên đang nằm ngủ trong đàn, chủ chăn có thể đi lại hoặc bước qua mình con chiên, chúng vẫn không thức giấc. Ngược lại một người lạ mặt mà làm như thế, con chiên sẽ hốt hoảng và gây kinh hoàng cho chúng. Điều này muốn nói, chủ chăn và đàn chiên phải rất gần gủi, thân thiện với nhau. Chủ chăn và đàn chiên của mình thân thiện đến mức có thể phân biệt và hiểu tiếng kêu của từng con chiên: vui mừng hoặc đau thương. Chủ chăn còn biết tên gọi và tính tình từng con chiên: Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta ban cho chúng sự sống đời đời... (Gn 10, 27-28)

c. Gợi ý sống và chia sẻ: là người Kitô hữu, là con chiên của Chúa Kitô, dĩ nhiên Thiên Chúa Người Mục Tử Nhân Lành biết chúng ta rất rõ. Còn chúng ta là con chiên thì chúng ta đã biết được Chủ Chăn mình như thế nào và đến mức độ nào? Hay là ta chưa biết gì cả?

MỤC TỬ NHÂN LÀNH
Ga 10, 27 - 30.

Đọc đoạn Tin Mừng hôm nay Ga10, 27-30 cùng với việc hôm nay mừng lễ Chúa Chiên Lành làm cho tôi nhớ lại hình ảnh Chúa Chiên Lành được các nhà tạc tượng dựng nên ở đây đó. Đó là một hình ảnh Đức Kitô mục tử, tay cầm gậy, tay nâng đỡ con chiên được Ngài vác trên vai. Một hình ảnh mục tử thật đẹp. Tay cầm gậy để bảo vệ đàn chiên khỏi lang sói, khỏi bị thú dữ tấn công cũng như có thể đưa đàn chiên của mình đi đến những đồng cỏ xanh tươi, đến những dòng nước mát trong lành cho dù xa xôi. Tay còn lại nâng đỡ con chiên, nâng đỡ chứ không kiềm chặt, đã đặt chiên trên vai lại còn nâng đỡ ưu ái yêu thương chiên của mình "Ta là mục tử nhân lành, mục tử nhân lành hy sinh mạng sống vì đoàn chiên" (Ga10, 11). Có thể con chiên được vác trên vai là con chiên lạc. Đáng lý theo thường tình thì con chiên lạc sẽ bị rượt đuổi, thúc ép để mau trở về đàn. Nhưng với mục tử Giêsu thì tìm gặp con chiên lạc thì ân cần vác chiên trên vai, nâng đỡ đưa về đàn. Không ép buộc nhưng nâng đỡ để chiên tự do cảm nhận được tình yêu mà trở về đàn.

Trở lại đoạn Tin Mừng hôm nay, chỉ trong một câu Chúa Giêsu đã làm nổi bật quan hệ của Ngài với chiên của Ngài "Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi". Chúa Giêsu chính là vị mục tử thật và chiên của Ngài chính là mỗi người chúng ta. Trong câu nói của Chúa Giêsu có ba động từ được đưa ra làm nổi bật mối liên hệ giữa mục tử và đàn chiên

Biết : theo Kinh Thánh chữ biết có ý nghĩa sâu xa rộng lớn. Biết có nghĩa là yêu mến, là thuộc trọn về đối tượng, là gắn bó nên một với đối tượng. Chúa Giêsu biết chiên của mình nghĩa là Ngài yêu thương, nên một với mọi Kitô hữu. Ngài trao hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho đoàn chiên.

Phía đoàn chiên thì nghe và đi theo. Nghe là biết chấp nhận, tin tưởng hoàn toàn và thật lòng yêu mến.

Đi theo: Là thái độ dứt khoát chọn lựa Thiên Chúa, dứt khoát là chiên của mục tử Giêsu, dứt khoát sống theo lời người. Mối tương quan của Chúa Giêsu mục tử và đoàn chiên hệ tại duy nhất trong tình yêu. Một tình yêu xuất phát từ chính Thiên Chúa. Nghe và đi theo là đòi hỏi của Chúa Giêsu dành cho những ai muốn là chiên của Ngài. Cái "biết?" của Chúa Giêsu đối với mỗi người chúng ta là cái biết cá vị, không phải biết cách chung chung hay biết như những con số, nhưng là một cái biết từng người một trong mối liên hệ với Ngài.

Ở Châu Phi, có một bộ lạc khá kỳ lạ. Họ không bao giờ đếm, không ai biết tí gì về toán học. Có một người hỏi người dân bản địa có bao nhiêu con cừu. Anh đáp không biết. Vậy nếu lỡ mất một hai con thì làm sao anh biết được? Câu trả lời rất ý nhị "Không phải tôi mất một con số mà là tôi mất một bộ mặt..."phải có tình yêu thương nồng nàn gắn bó lắm với đoàn chiên mới cảm nhận được từng khuôn mặt của từng con một. Chúa Giêsu mục tử Ngài không xem chúng ta như những con số nhưng là từng con người một.

Hôm nay mừng lễ Chúa Chiên Lành, chúng ta hãy cầu xin cho các vị mục tử là những người đại diện cho Chúa Giêsu mục tử biết nêu gương Thầy mình là vị Mục Tử Nhân Lành hy sinh cho đoàn chiên. Xin Chúa cho các ngài luôn để tâm học hỏi, suy niệm để luôn gắn bó, để múc được nguồn sống nơi Chúa Giêsu mục tử mà trao lại sự sống ấy cho đoàn chiên mà các ngài có nhiệm vụ dẫn dắt. Xin cho các Ngài cũng biết yêu thương đoàn chiên mà các ngài được trao phó để thể hiện được khuôn mặt Đức Giêsu mục tử nơi đoàn chiên mình.

Còn mọi người Kitô hữu chúng ta được mời gọi để trở nên con chiên của Chúa. Chúng ta cũng phải biết nghe và đi theo Ngài. Nghe và đi theo với một lòng tin tưởng sâu xa. Tin rằng Chúa luôn yêu thương và dẫn dắt chúng ta đến đồng cỏ xanh tươi mang lại sự sống đời đời. Hơn nữa mỗi người Kitô hữu chúng ta còn có nhiệm vụ cầu nguyện để cho có nhiều người dám chấp nhận từ bỏ, chấp nhận hy sinh để trở nên người đại diện cho Chúa Giêsu mục tử đích thực.

Hãy gắn bó với Chúa Giêsu mục tử qua Giáo hội của Ngài để mỗi ngày chúng ta càng trở nên những người Kitô hữu đích thực.

MỤC TỬ TỐT LÀNH
Ga 10, 27 - 30

Hình ảnh vị mục tử nhân lành được tiên tri Edêkiel mô tả trong Thánh Kinh như sau: "Ta sẽ tìm kiếm chiên của Ta và sẽ chăm nom đến chúng. Ta sẽ tìm kiếm con chiên lạc mất; băng bó vết thương cuả con chiên bị thương tích, săn sóc những con chiên đau yếu... Ta sẽ cho chỗi dậy một mục tử duy nhất. Đó là Đavít tôi tớ Ta. Chính Ngài sẽ chăn dắt chúng, sẽ là mục tử của chúng" (Ed 34, 2-23).

Những điều Edêkiel mô tả trên đây được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu, vị Mục Tử tối cao. Chúa Giêsu thuộc dòng dõi Vua Đavít, người xuất hiện để đem lại bình an hạnh phúc cho nhân loại, trong ngày Người sinh ra các thiên thần đã ca hát "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương"; khi sống lại và hiện ra với các môn đệ Chuá luôn ban "bình an" cho các ông. Trong những năm giảng dạy, Chúa Giêsu giới thiệu: "Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta".

Quả thực, Chúa không chỉ giảng dạy, kêu gọi người Do thái "công chính" mà còn đến với dân ngoại, đến với người tội lỗi. Chúa đến với người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp (Ga 4, 7-30) để hướng chị đến Nước Hằng Sống, uống vào sẽ không còn khát nữa. Người Do thái tỏ thái độ khinh bỉ và thù nghịch đối với người Samari, coi họ là một dân hỗn tạp về chủng tộc, rối đạo và ly giáo, còn Chúa Giêsu thì đến với họ để quy tụ họ lại trong đàn chiên của Chúa.

Chúa đến nhà dùng bữa và kêu gọi Matthêu (Mt 9, 10-13) và Giakêu (Lc 19, 1-10), người Do thái không tiếp xúc với người thu thuế tội lỗi như Matthêu và Giakêu, vì sợ mắc ô uế và bị giới lãnh đạo khiển trách. Chúa Giêsu đến với họ, vì Ngài đến để "tìm kiếm và cứu những gì đã mất". (Lc 19, 10)

Chúa Giêsu không chỉ chữa bệnh và cứu sống những người Do thái mà còn cho người ngoại nữa. Chúa Giêsu đã từng chữa bệnh và cứu sống người đầy tớ thân tín của viên đại đội trưởng người Rôma (Lc 7, 1-10), Chúa Giêsu còn chữa lành cho đứa con gái bị quỷ ám của người đàn bà ngoại giáo người Canaan (Mt 15, 21-28).

Là Mục Tử tốt lành Chúa Giêsu đã rảo qua mọi nẻo đường, để tìm kiếm con chiên đã mất, để băng bó và chữa lành những con chiên bị thương, đau yếu như lời mô tả của tiên tri Edêkiel. Tương quan giữa mục tử và con chiên là tương quan vô cùng thân thiết Ta biết chúng và chúng nghe tiếng Ta; tiếng nói, âm giọng của mỗi người mỗi khác, nhưng đối với những người thân quen, ta chỉ nghe tiếng nói thôi, không cần thấy ngươì, thì ta đã biết là ai rồi. Các bạn trẻ và những người yêu nhạc, chỉ cần nghe tiếng hát thôi, không cần thấy người, thì đã biết là ca sĩ nào hát rồi. Đó là do mối thân quen, hay một sự quan tâm đặc biệt, hoặc tiếp xúc thường xuyên mà ta có được, để dễ dàng nhận ra tiếng nói của họ.

Chúa Giêsu là mục tử tốt lành, không những có một tương quan vô cùng thân thiết với con chiên mà còn "thí mạng sống vì đoàn chiên", để bảo vệ đoàn chiên khỏi nguy hiểm. Mạng sống của người mục tử thì cao quý hơn mạng sống của con chiên, vậy mà người mục tử phải thí mạng sống quý giá của mình để đoàn chiên được an lành; chỉ có một tình yêu mạnh mẽ mới có thể làm được như thế, chỉ có một lòng yêu mến chân thành mới có thể làm được như thế! Lòng thương xót của Chúa quá bao la, Ngài không để hư mất những gì Ngài đã làm nên, cho dù nó nhỏ nhoi bé mọn thế nào. Điều đó được diễn tả trong câu chuyện mà Chúa Giêsu nói với người Do thái: "người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia lại ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất ? Tìm được rồi, người ấy mừng rở vác chiên lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: 'Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó" (Lc 15, 4-6). Hoặc "người đàn bà nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được ? Tìm được rồi bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: 'Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã mất". (Lc 15, 8-9)

Thật vô lý đối với chúng ta phải không ? bỏ chín mươi chín để tìm một, vất vả tìm được một đồng, sau đó lại tổ chức tiệc mừng, (chắc cũng phải mất mấy đồng !) Đúng là chẳng biết tính toán gì cả ? Nhưng nỗi lòng của Chúa là thế đó: Ngài luôn động lòng trắc ẩn, tiếc xót, Ngài không đành lòng để trượt mất một linh hồn nào cả, không hề tính toán thiệt hơn, miễn sao tìm lại được vì "giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối" (Lc 15, 10). Nỗi của Chúa là thế đó, Mục tử nhân lành là thế đó !

Chúa Giêsu là vị mục tử tối cao, Ngài cũng cho xuất hiện trong Hội Thánh nhiều vị mục tử để chăm sóc đoàn chiên của Chúa. Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám mục, các Linh mục được gọi là các mục tử có nhiệm vụ chăm sóc đoàn chiên được giao phó cho mình. Nhìn rộng hơn một chút những ai được trao phó cho một nhiệm vụ nào đó, để chăm sóc cho một nhóm người nào đó cũng được coi là mục tử. Như vậy mọi người chúng ta đều được tham gia vào sứ vụ mục tử của Chúa Giêsu. Người cha, người mẹ trong gia đình, những thầy cô giáo cũng có nhiệm vụ chăm sóc, dạy dỗ và trở nên mục tử cho những người mình có nhiệm vụ phục vụ.

Chúa Giêsu là Mục tử duy nhất tối cao và gương mẫu. Các mục tử khác chỉ là phụ tá, giúp chăn dắt đoàn chiên của Ngài. Những ai đã được trao nhiệm vụ hãy tận tâm, tận lực chu toàn theo gương vị mục tử tối cao, dám thí mạng sống để đoàn chiên được an lành và tăng trưởng mọi mặt. Ngày nay, Chúa Giêsu vẫn cần các bạn trẻ dấn thân để trở thành mục tử chăm sóc đoàn chiên trong Hội Thánh.

Chúng ta hãy cầu nguyện cho các mục tử trong Hội Thánh và cho tất cả những người làm cha mẹ trong gia đình, cho các thầy cô giáo, để mọi người chu toàn tốt nhiệm vụ của mình. Đồng thời chúng ta cũng cầu xin Chúa cho có thêm nhiều vị mục tử tốt lành, biết tận tụy chăm lo cho đoàn chiên của Chúa cách vô vị lợi theo gương Chúa Giêsu, vị mục tử tốt lành. Amen

CHÚA LÀ MỤC TỬ
Ga 10, 27 - 30

1. Đức Giêsu dùng hình ảnh rất quen thuộc đối với người Do thái thời đó - chủ chiên và đàn chiên - để nói lên mối tương quan mật thiết giữa Thiên Chúa, Đức Giêsu đối với dân Người. Chủ chiên đích thực luôn yêu thương, lo lắng cho chiên, nhưng từng con chiên cũng như đàn chiên muốn phát triển tốt thì phải lắng nghe và đáp lại sự hướng dẫn của chủ. Chiên cho dù có khôn như thế nào đi nữa, nhưng cũng chỉ là một loài vật, vậy mà còn biết nghe theo tiếng chủ, còn chúng ta là con chiên, đàn chiên của Chúa thì sao ?

2. Thiên Chúa vì yêu thương nên Ngài không những tạo dựng mà còn luôn yêu thương chăm sóc các loài mà Ngài đã dựng nên, đặc biệt là loài người.

Thời Cựu Ước, Thiên Chúa dùng các tổ phụ, các ngôn sứ để dạy bảo, dẫn dắt dân của Ngài. Chắc hẳn chúng ta còn nhớ hình ảnh Môsê, như một tiên biểu, thay Thiên Chúa hướng dẫn dân Do thái thoát khỏi cảnh nô lệ Ai Cập tiến về Đất Hứa. Hình ảnh của Môsê như một chủ chiên hướng dẫn một đàn chiên đi một quảng đường khá dài đến nơi an toàn. Thiên Chúa luôn đáp ứng nhu cầu chính đáng của dân Do thái, khi họ đói Ngài ban cho có manna, khát có nước uống... Vì thế Thánh Vịnh 23 thật là hữu lý khi cất lên

"Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu tốn gì, Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ..." (TV 23, 1-2)

Thời Tân Ước, Đức Giêsu quả thật là Mục tử nhân lành, cả cuộc đời của Người đã nhằm phục vụ cho đàn chiên: giảng dạy, chữa mọi bệnh tật xác-hồn. Cuối cùng đã hiến cả mạng sống mình cho đàn chiên (Ga 10,11-15), Người hy sinh tính mạng để cho đàn chiên được sống và sống dồi dào. Xưa, Môsê lãnh đạo dân riêng của Thiên Chúa tiến về Đất Hứa, nhưng đất nầy vẫn còn thuộc phương diện trần thế, còn Đức Giêsu, Môsê mới, dẫn đưa dân mới, là Hội Thánh, qua Hội Thánh, muôn dân nước được mời gọi tiến về quê hương đích thực là Nước Trời.

Vì Đức Giêsu biết mình phải trở về cùng Thiên Chúa Cha, nên Ngài đã uỷ thác sứ mạng của mình cho các tông đồ, các môn đệ và những người kế vị các ngài. Để việc chăn đắt đàn chiên Chúa được tiếp tục thực hiện cho đến tận thế (Lc 22,19). Như vậy, cũng như thời đã qua, hôm nay và mãi cho đến ngày tận thế Hội Thánh vẫn rất cần đến những người dấn thân trong ơn gọi linh mục, tu sĩ để phục vụ Chúa, Giáo hội và tha nhân. Vì thế, Chúa Nhật hôm nay, Giáo Hội dành đặc biệt để cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, tu sĩ.

3. "Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi". Chiên muốn được an toàn, được phát triển tốt thì không những phải lắng nghe tiếng chủ mà còn phải thực hiện theo sự hướng dẫn của chủ. Lời Chúa dạy là lời chân thật dẫn đưa từng người trong chúng ta, chiên của Chúa, đến hạnh phúc thật :"Phúc cho ai biết lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa" (Lc 11,28). Thế nhưng có khi chúng ta nghe nhưng không giữ lời Chúa, có khi nghe cách thụ động, có khi không muốn nghe... mà Chúa đã dùng "Dụ ngôn Người Gieo Giống" (x. Mt 13, 1-23 và song song) để nói lên điều đó. Chủ chiên đích thực nào cũng thương từng con chiên, cũng vậy Chúa không bao giờ muốn tách chúng ta ra khỏi tình thương của Người, thế nhưng khi chúng ta không lắng nghe và thực thi lời Chúa, tức là chúng ta tự tách mình ra khỏi đàn chiên của Người.

Có những kẻ xấu, giả điệu bộ, giọng nói rất khéo giống như chủ chiên để lôi kéo chiên đi theo không phải để chăm sóc mà hại chiên. Điều nầy làm cho chúng ta suy nghĩ đến những cạm bẫy mà người Kitô hữu dễ mắc phải trước những bã vinh hoa phú quý tạm bợ làm cho chúng ta mất sự sống đời đời. Rất có thể chính ta đang bước theo chủ chiên giả đó mà chúng ta không hay, đó là quyến rủ của thế gian, ma quỷ, xác thịt.

4. Làm sao biết được ý của chủ chiên thật là Thiên Chúa, Đức Giêsu để thực thi và tránh được những lời ngọt ngào, nhưng đem lại chết chóc, của những chủ chiên giả hiệu? Mặc dù chúng ta không được nghe cách trực tiếp tiếng nói của Thiên Chúa, của Đức Giêsu như dân Do thái hay các tông đồ, các môn đệ xưa. Nhưng vị Mục Tử nhân lành, vẫn không ngừng hướng dẫn để cho đàn chiên được sống và sống dồi dào. Tiếng Chúa vẫn được nói với chúng ta qua tiếng lương tâm ngay lành, qua Muời Điều Răn, qua Lời Chúa trong Tin Mừng, qua những vị có trách nhiệm trong Hội Thánh, qua lời nhắc nhở của anh chị em...

Mỗi người chúng ta không chỉ nghe tiếng Chúa suông, mà hãy quyết tâm tuân giữ, thực thi để trở thành con chiên ngoan của Chúa; gia đình chúng ta, tập thể chúng ta cố gắng là đàn chiên tốt của Chúa; có như vậy đàn chiên rộng lớn hơn của Chúa là Họ Đạo, là Giáo Hội mới có thể tốt được.

Chúng ta cũng đừng quên cầu nguyện ngày càng có nhiều linh mục, tu sĩ theo gương Đức Giêsu vị Mục Tử nhân lành, để góp phần phục vụ đàn chiên của Chúa. Amen.

ĐÂU LÀ MỤC TỬ ĐÍCH THẬT ?           
Ga 10, 27 - 30

1. LỜI CHÚA: "Tôi chính là Mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi" (Ga 10,14).

2. CÂU CHUYỆN: "GIAI ĐIỆU HẠNH PHÚC"

Trong một cuốn phim tựa đề là "Giai điệu hạnh phúc" (La mélodie du bonheur), cô ma-ry là một người đang đi tìm hiểu ơn gọi tại một tu viện nữ. Một hôm bà bề trên sai cô đi làm gia sư trong một gia đình quí tộc. Ông đại uý chủ nhà là người giàu có, góa vợ và luôn tỏ ra nghiêm khắc trong cách giáo dục con cái. Ông muốn chúng có tinh thần kỷ luật giống như một người lính trong quân đội. Khi mới đến nhận việc, cô Ma-ry đã bị bọn trẻ cố tình trêu chọc. Nhưng nhờ tình thương của một thầy giáo, kèm theo sự hiểu biết tâm lý và cách ứng xử mềm dẻo nhưng cương quyết, cùng những bài hát vui tươi và vũ điệu lôi cuốn của cô... Cuối cùng cô đã hòan tòan chinh phục được tình cảm của lũ trẻ, biến chúng trở nên những trẻ em ngoan ngoãn dễ dạy. Chúng luôn vâng lời cô giáo, không cần cô phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc theo kiểu cha của chúng. Cuối cùng cô còn chinh phục được tình cảm của chính ông đại uý chủ nhà. Câu chuyện kết thúc bằng việc cả gia đình ông đại úy đã khôn ngoan thoát khỏi sự ruồng bắt của chính quyền phát xít Đức lúc đó. Họ cùng nhau vượt qua biên giới an toàn để bước vào một cuộc sống mới đầy yêu thương và hạnh phúc.

3. SUY NIỆM:

1) ĐÂU LÀ MỤC TỬ THỰC SỰ ?

Mục tử thực sự là người chủ chiên, có tình yêu thương đòan chiên noi gương Chúa Giê-su Vị Mục Tử Tối Cao, thể hiện qua các hành động cụ thể như sau: 

-Hiểu biết và cảm thông: Đức Giê-su đã nói về tình thương của Người dành cho đàn chiên như sau: "Tôi biết chúng" (Ga 10,27), "gọi tên từng con" (10,3). Ngày nay các mục tử cũng chỉ có thể chứng tỏ tình yêu đối với đòan chiên qua việc đi thăm các gia đình trong giáo xứ, biết rõ hoàn cảnh và nhu cầu của từng người, từng gia đình. Người tín hữu sẽ cảm nhận được tình thương của vị mục tử khi thấy ngài hiểu rõ gia cảnh của mình, và ra tay giúp đỡ. 

-Sẵn sàng đáp ứng nhu cầu: Đức Gie-su phán: "Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào" (10,10), "Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi" (10,28). Các mục tử hôm nay cũng phải quan tâm đến hòan cảnh sống và sự an nguy của đàn chiên cả về đức tin lẫn công việc làm ăn, noi gương Đức Giê-su đã nói với các môn đệ rằng: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?" (Ga 6,5), hay Người đã dặn người nhà : "Bảo họ cho con bé ăn" (Mc 5,43). 

-Hiến thân phục vụ: Đức Giê-su phán: "Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên" (Ga 10,11); "Thiên Chúa yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3,16). Đối với mục tử, các tín hữu là những linh hồn quí giá, xứng đáng cho vị mục tử hy sinh mạng sống vì họ. Thái độ này khác xa thái độ của người làm thuê, hay mục tử giả hiệu : "Khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy (...) không thiết gì đến chiên" (Ga 10,12-13). 

2) ĐÂU LÀ MỤC TỬ GIẢ HIỆU ? 

- Thánh Kinh không những nói đến những mục tử tốt lành, mà còn đề cập đến những mục tử giả hiệu, mà sau này Đức Giê-su đã gọi họ là bọn chăn thuê. Họ là những người chỉ biết nghĩ đến bản thân, nghĩ đến sự an nguy, quyền lợi hay hạnh phúc của riêng mình, chỉ biết bòn rút lợi lộc từ đàn chiên, mà không quan tâm đến quyền lợi và hạnh phúc của đàn chiên được trao cho mình chăm sóc:

- Ngôn sứ GIÊ-RÊ-MI-A viết: "Khốn thay những mục tử làm cho đàn chiên Ta thất lạc và tan tác (...) các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm đến chúng" (Gr 23,1-2).

- Ngôn sứ Ê-DÊ-KI-EN thỉ viết: "Khốn cho các mục tử Ít-ra-en, những kẻ chỉ biết lo cho mình! (...) Sữa chiên thì các ngươi uống, len của chúng thì các ngươi mặc, con nào béo tốt thì các ngươi giết, và chẳng thèm lo chăn dắt đàn chiên. Chiên đau yếu các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương các ngươi không băng bó; chiên bị lạc các ngươi không đưa về; chiên bị mất các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc. Chiên của Ta tán loạn vì thiếu mục tử và biến thành mồi cho mọi dã thú, khiến chúng bị tán loạn. Chiên của Ta tản mác trên các ngọn núi, trên mọi đỉnh đồi, trên khắp mặt đất, thế mà chẳng ai chăm sóc, chẳng ai kiếm tìm" (Ed 34,2-6).

- Thiên Chúa đã dùng ngôn sứ Ê-DÊ-KI-EN để nguyền rủa loại mục tử bất xứng này như sau: "Bởi các mục tử chỉ biết lo cho mình mà không chăn dắt đàn chiên của Ta, nên hỡi các mục tử! Đây Ta chống lại các ngươi. Ta sẽ đòi lại chiên của Ta, Ta sẽ không để các ngươi chăn dắt chiên Ta nữa (...) để chiên của Ta sẽ không còn làm mồi cho chúng nữa" (Ed 34,8b-10). 

3) SỨ VỤ CỦA CÁC MỤC TỬ HÔM NAY:

- Mục tử là người được Chúa Giê-su chọn để cho thông phần vào sứ vụ mục tử của Người: Chúa Giê-su phán: "Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại..." (Ga. 15,16). Mục tử chỉ có thể làm tốt nhiệm vụ nuôi dưỡng chăn dắt đòan chiên nếu biết cộng tác với Mục Tử Giêsu bằng sự chuyên cần cầu nguyện: "Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được" (Ga 15,5). Cần phải có lòng yêu mến Thầy hơn ai hết, để được thanh luyện tội lỗi và được trao quyền chăn dắt đòan chiên Hội Thánh (x Ga 21,15-17).

- Hai là phải được chính Chúa Giê-su trao sứ vụ chăm sóc nuôi dưỡng đòan chiên: Như Đức Giê-su đã được Thiên Chúa xức dầu thiêng liêng tại sống Gio-đan để tấn phong làm Đấng Mê-si-a thi hành ba sứ vụ là ngôn sứ, tư tế và vương đế,  thì các mục tử hôm nay cũng nhận được tác vụ qua việc xức dầu và đặt tay của Giám Mục trong bí tích truyền chức thánh, cũng có bổn phận chu tòan sứ vụ chăn dắt nuôi dưỡng thánh hóa đoàn chiên Chúa trao bằng ba của ăn là Lời Chúa, Thánh Thể và Thánh Ý Thiên Chúa như lời Chúa Giê-su dạy: "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt 4,4); "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời" (Ga 6,51); "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy" (Ga 4,34).

- Ba là nhận được Thần Khí để chu tòan sứ vụ được sai đi: Tin mừng Gio-an thuật lại việc Chúa Phục Sinh trao ban Thần Khí và sứ vụ như sau: "Người lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em". Nói xong Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ" (Ga 20,21-23). Chúa Giê-su cũng trao sứ vụ cho các Tông đồ trước khi lên trời: "Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chua Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em" (Mt 28,19-20); "Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất" (Cv 1,8).

4) CHÚNG TÔI PHẢI LÀM GÌ?:

Chúa Nhật Chúa Chiên Lành nhắc nhở các tín hữu chúng ta ý thức con đường đức tin và Mục Tử dẫn đường là Đức Giê-su. Hôm nay Đức Giê-su vẫn "ở với Hội Thánh mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20b)  qua các mục tử được Chúa kêu gọi, huấn luyện và  và trao sứ vụ chăm sóc đòan chiên.

Hôm nay là dịp để các tín hữu ý thức cầu nguyện cho các mục tử của mình, cầu nguyện cho ơn gọi linh mục tu sĩ và quảng đại cộng tác với các mục tử cả về tinh thần lẫn vật chất. Đồng thời hôm nay cũng là dịp để các mục tử ý thức về ơn gọi và sứ vụ của mình để duyệt xét lại về ý ngay lành và về cung cách phục vụ khiêm tốn, về cách ứng xử bác ái đối với đòan chiên được Chúa trao cho mình chăm sóc.

Chúng ta cùng nhau cầu xin cho ơn gọi ngày càng phát triển, cho các thanh thiếu niên biết quảng đại đáp lại tiếng Chúa kêu gọi, và xin cho các mục tử đang phục vụ đòan chiên được ơn trung thành với sứ vụ mục tử đã lãnh nhận.

Ngày nay, Hội thánh rất cần có thêm nhiều mục tử nhân lành noi gương Mục Tử Giê-su. Đó là những vị mục tử có lòng yêu mến Chúa thực sự, luôn nêu gương sáng khiêm nhường bác ái và phục vụ tha nhân cách vô vụ lợi, nhất là phục vụ những người nghèo hèn, bệnh tật và bị bỏ rơi.

Hội thánh cũng cần những tu sĩ biết kết hợp giữa hai bổn phận chiêm niệm và họat động, cần những bàn tay nhân ái của các nữ tu để xoa dịu các vết thương thể xác cũng như tinh thần, và nhất là cần những trái tim yêu Chúa hết mình, dám hy sinh mọi sự để phục vụ, đặc biệt người đau khổ tội lỗi hoặc mang tâm trạng chán chường thất vọng. Hiện nay cả nước chúng ta mới có được khỏang2000 linh mục và 7000 tu sĩ nam nữ, một con số nhỏ bé so với nhu cầu của 82 triệu dân.

4. THẢO LUẬN:

1) Thế nào là ơn kêu gọi ? Bạn sẽ đáp trả thế nào khi dược Chúa kêu gọi dâng mình phục vụ Chúa trong bậc sống tu trì ?

2) Những ai đang sống bậc hôn nhân có thể đáp lại ơn gọi của Chúa thế nào ?

5. NGUYỆN CẦU

- LẠY CHA LÀ CHỦ RUỘNG. Đồng lúa đã tới lúc chín vàng cần được gặt hái. Xin Cha sai thêm những thợ gặt lành nghề đến thu họach đồng lúa của Cha. Xin Cha gieo vào lòng các bạn trẻ hôm nay những ước mơ và hoài bão lớn lao cùng những lý tưởng cao cả. Xin cho họ biết yêu thương tha nhân bằng một con tim rộng mở của Chúa Giê-su. Ước gì họ nghe được tiếng kêu của những người đang bị áp bức, cảm nghiệm được cơn đói Lời Chúa và khát tình thương của những kẻ bất hạnh, thấy được những nỗi khó khăn của biết bao người đang bị đau khổ tinh thần và đói cơm bánh vật chất.. để sẵn sàng phục vụ họ với hết khả năng của mình.

- LẠY CHA. Ngay từ hôm nay, xin cho mỗi chúng con biết đáp lại lời mời gọi của Cha, bằng cách chuẩn bị sẵn hành trang là những kiến thức vững chắc về giáo lý và Lời Chúa, là sự nhiệt tình chia sẻ Tin mừng cho tha nhân. Nhờ đó chúng con có thể chu tòan sứ vụ Cha trao phó, và tích cực góp phần làm cho Nước Cha mau trị đến.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

LM ĐAN VINH www.hiephoithanhmau.com

LẮNG NGHE VÀ ĐÁP LẠI LỜI MỤC TỬ GIÊSU
Ga 10, 27 - 30
Lm. Jude Siciliano, OP

Bài Tin mừng hôm nay là một trong những mâu thuẫn giữa Đức Giêsu và giới lãnh đạo tôn giáo. Đoạn Tin Mừng trước, Người tự nhận mình là Mục Tử Tốt (10,11-14). Người nói Người có thể hy sinh mạng sống vì đoàn chiên. Nhiều người nghe Đức Giêsu nói thế đã cho rằng Người bị "quỷ ám và điên khùng rồi" (Ga 10,20). Nhưng những người khác lại bảo "người bị quỷ ám đâu có nói được như vậy ! Chẳng lẽ quỷ có thể mở mắt cho người mù được sao?" (10,21).

Đôi khi người ta nói rằng "nếu tôi sống vào thời Đức Giêsu, xem và nghe thấy Người nói thì lòng tin của tôi đã vững mạnh hơn bây giờ nhiều." Nhưng lòng tin có vẻ như không phải là thái độ đáp trả tự động đối với những người đã thấy và đã nghe Đức Giêsu giảng. Thực ra, đối với nhiều người nghe Đức Giêsu, thì lời và hành động của Người lại gây lên sự chống đối.

Trong bối cảnh của nhiều cuộc xung đột khác, Đức Giêsu mạnh mẽ và can đảm nhận mình là Mục Tử Tốt. Nhưng những kẻ chống đối không nhận ra nơi Người sự mạc khải của Thiên Chúa. Tuy nhiên, một số đã nhận ra, và bài Tin Mừng hôm nay đã cho thấy rõ họ đã tin như thế nào - Thiên Chúa đã chọn họ và dẫn họ đến với Đức Giêsu ("Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi..."). Đây là một sứ điệp mạnh mẽ về hành động của ân sủng. Chính Thiên Chúa chọn chúng ta chứ chúng ta đã không chọn Ngài. Nhưng những ai được chọn thì có trách nhiệm, như chiên của người Mục Tử, lắng nghe và đáp lại những gì chúng ta nghe được nơi Người.

Bài Tin Mừng hôm nay trích từ chương 10, nói đến những việc xảy ra vào dịp lễ cung hiến Đền thờ, vào mùa đông. Đây là thời điểm khá gần với đại lễ của người Do Thái, cơ hội cho những người có lòng tin ăn mừng biến cố Macabê chiến thắng quân Syri vào khoảng năm 160 trước Chúa Giáng sinh. Dân Syri đã xúc phạm Đền Thờ nên Macabê đã nổi dậy giành lại và thánh hiến Đền Thờ. Vì thế, đại lễ này khơi dậy lòng yêu nước cũng như niềm hy vọng sẽ một lần nữa được tự do; lần này là thoát khỏi bàn tay cai trị hà khắc của người Rôma. Vào dịp lễ Cung Hiến Đền Thờ thì tinh thần của dân lại được khơi dậy một niềm hy vọng về Đấng Mêssia mà Thiên Chúa hứa gởi đến cho dân.

Trong Cựu Ước và Tân Ước, chúng ta có thể thấy nhiều lần đề cập đến chiên và mục tử. Chiên có giá trị kinh tế ở xứ Palestin, vì thế cả dân ở thôn quê lẫn thành thị đều có thể nuôi chiên, ít là như một nghề phụ. Mục đồng thường sống khá khổ cực và thường xuyên phải đi xa nhà để chăn dẫn đàn chiên. Họ cũng phải đối mặt với khó khăn nguy hiểm do thú dữ và cả những tên trộm. Mục đồng phải giữ đàn chiên ở chung với nhau, vì chúng thường dễ đi lạc, và còn phải dẫn chúng đến nguồn nước cho chúng uống và đến đồng cỏ cho chúng ăn.

Vì thế chúng ta thấy được tầm quan trọng của sứ điệp Đức Giêsu đã nói cho thính giả của Người trước đó, khi Người nói mình là Mục Tử Tốt. Trong bối cảnh Lễ Cung Hiến Đền Thờ, Đức Giêsu vẽ lên hình ảnh của người mục tử để mô tả Người như Đấng có thể dẫn dắt, bảo vệ và nuôi dưỡng dân của Người - những con chiên biết lắng nghe và đi theo tiếng gọi của Người. Trong Cựu Ước, Đức Chúa được mô tả như là Mục Tử (xc. Êdêkien 34 và Thánh vịnh 23) có thể chăm sóc đàn chiên, vì mục tử được chọn đã sa ngã trầm trọng. Vì thế, khi tự xưng mình là Mục Tử Tốt thì Đức Giêsu cũng đã tự xác nhận căn tính Thiên Chúa của Người, khi Người nói: "Tôi và Chúa Cha là một."

Những ai đón nhận Đức Giêsu và lời của Người thì cũng nhận được những gì Thiên Chúa ban qua Người ("Tôi sẽ ban cho chúng sự sống đời đời và muôn đời chúng sẽ không phải diệt vong."). Những kẻ chống đối Đức Giêsu hiểu rất rõ những gì Người muốn nói, vì trong đoạn tiếp theo, sau bài Tin Mừng hôm nay, có nói rằng: "Họ lấy đá để ném Đức Giêsu." (câu 31)

Đức Giêsu khiến dân chúng ngạc nhiên, Người không phải là đấng Mêssia như họ mong muốn. Người đã không tập hợp quân đội để lật đổ quân La Mã. Người cũng đã chẳng sống theo kiểu một người công chính mà những người chống lại Người đòi hỏi nơi một người được Thiên Chúa sai đến. Vậy thì điều gì chứng minh được những lời Người đã nói: "Tôi và Chúa Cha là một"? Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu đã không thực hiện dấu lạ chỉ để thuyết phục những kẻ thách thức uy quyền của Người. Dân chúng phải đặt niềm tin tưởng nơi Người và đón nhận sứ điệp của Người. Điều này thật khó thực hiện đối với những người đương thời của Người, những người mong chờ một đấng Mêssia kiểu khác.

Tin là một chủ đề quan trọng trong Tin Mừng Gioan, và đó không phải những gì người ta có thể bị lôi kéo bởi những chứng cứ hùng hồn hay dấu lạ vĩ đại. Đó là món quà Thiên Chúa phú bẩm trong chúng ta để có thể khơi lên một thái độ tin tưởng vào Đức Giêsu và khiến chúng ta rập khuôn cuộc đời mình theo những lời dạy của Người - dù lúc thuận lợi hay không thuận lợi. Chiên của Đức Giêsu thì nghe tiếng Người và đi theo Người dẫu chúng ta có phải bước đi trong "thung lũng âm u" (Tv23,4).

Vấn đề thời gian không thể khiến niềm tin vào Đức Giêsu dễ dàng hơn chút nào. Niềm tin của chúng ta chịu thử thách khi mọi thứ trở nên tồi tệ - trong cuộc sống riêng của chúng ta, trên thế giới, nhất là trong Hội thánh của chúng ta ngày nay. Như những người đương thời với Đức Giêsu, chúng ta cũng cần một dấu để tin. Đôi khi chúng ta không nhận được bất kỳ dấu chỉ nào, không một lời đáp trả cho những điều khấn xin, không một lối thoát nào khỏi một tình cảnh khó khăn. Nhưng chúng ta luôn được đòi hỏi phải tin tưởng vào lời Đức Giêsu - để chúng ta được an toàn trong "tay Chúa Cha".

Vì vẫn còn là mùa Phục sinh nên chúng ta vẫn mong sứ điệp Tin Mừng của những Chúa Nhật này có cảm giác vui tươi. Thế mà suốt mùa Phục sinh này Đức Giêsu lại nói với chúng ta giữa những mâu thuẫn và chống đối. Chúng ta sẽ nhìn lại những biến cố trong cuộc đời Đức Giêsu, và trong ánh sáng của niềm tin phục sinh của chúng ta, chúng ta đang thể hiện ý nghĩa lời của Người trong cuộc sống của chúng ta - cuộc sống mà vẫn còn đầy những mâu thuẫn và chống đối. Hôm nay, chúng ta nghe Người mời gọi chúng ta tin tưởng nơi Người, Mục Tử, ngay cả khi người khác hay những biến cố của cuộc sống đe dọa đức tin của chúng ta.

Có thể xem như bài Tin Mừng hôm nay đã được chọn trong mùa phục sinh này vì có nói đến sự sống đời đời. Đức Kitô Phục sinh ban cho chúng ta sự sống của Người ("Tôi ban cho chúng sự sống đời đời"). Thời Đức Giêsu, không phải tất cả mọi người Do Thái đều tin vào sự sống đời sau. Nhóm Sađốc không tin, còn nhóm Pharisêu, những người tin vào sự bất tử của linh hồn, thì lại tin (Cv 23,6-9).

Nhưng trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu không chỉ ban sự sống đời đời cho một số người nào đó trong tương lai, nhưng cho những ai, như Người nói, "ai nghe lời Tôi" (5,24) - và sự sống ấy có ngay lúc này. Như Đức Giêsu nói với người phụ nữ Samaria ở giếng nước rằng thứ nước Người ban sẽ mang đến sự sống đời đời (4,14). Người cũng nói: ai ăn bánh sự sống của Người cũng sẽ "có sự sống đời đời" (6,40.47). Sự sống Đức Giêsu ban thì đang hoạt động trong những người tin. Đó là sự sống mà Thiên Chúa muốn cho chúng ta (12,50). Vì thế, Đức Giêsu ban cho chúng ta thật "dồi dào" (10,10).

Ngày nay, chúng ta cũng được mời gọi khám phá sự sống mà chúng ta đã lãnh nhận trong Bí tích Rửa tội để tái sinh và dưỡng nuôi sự sống ấy trong chúng ta. Khi chúng ta tiếp tục lắng nghe Đức Giêsu và lời của Người, cũng như đón nhận Người trong Bí tích Thánh Thể, thì sự sống của Người lớn mạnh trong chúng ta. Cuộc sống của chúng ta trong "thế gian" (trong Tin Mừng Gioan "thế gian" là một phần thế giới chống lại đức Kitô) có thể làm chúng ta kiệt lực. Chúng ta không chống nổi những chọn lựa đe dọa đến sự sống của Đức Kitô trong chúng ta, nhưng Đức Giêsu ban cho những ai đón nhận lời của Người một sự sống mà thế gian không thể hủy diệt. Hỏi rằng ai hay sức mạnh nào có thể ban cho chúng ta sự sống như thế? Chúng ta đã chẳng đặt cược đời mình vào những lời hứa hão huyền và những thứ nhất thời để chỉ có thể khám phá ra rằng, tất cả sự sống chúng ta có được từ những thứ đó chỉ là quá tạm bợ đó sao?

Như Đức Giêsu đã hứa và chính việc cử hành Thánh Thể này nhắc nhớ chúng ta, chúng ta hiện đang chia sẻ tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con - Chúng ta có sự sống đời đời.
Anh Em HV Đaminh chuyển ngữ

TIẾNG KÊU ĐỨT ĐOẠN
Ga 10, 27 - 30
Lm Vũ đình Tường

Đức Kitô vừa là Đấng tạo dựng vũ trụ vừa là Chúa Chiên Lành. Đấng tạo dựng có quyền trên tạo vật và quyền ban sự sống. Mục tử nhân lành lắng nghe, chăm sóc, yêu mến đàn chiên và sẵn sàng bảo vệ chiên. Không con nào bị ngược đãi hay bị hại.

Lắng nghe
Chúa Chiên Lành luôn lắng nghe tiếng chiên kêu cầu. Biết chúng bằng cách nhận biết tiếng chiên kêu. Nhờ lắng nghe mà rõ nhu cầu từng của chiên. Không phải một lần mà nghe đi nghe lại cho đến khi nhớ được giọng từng con. Chính Chúa Chiên Lành xác định với các tông đồ như thế.

Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi;
Tôi biết chúng và chúng theo Tôi.
Tôi ban cho chúng sự sống đời đời,
không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay Tôi. Gioan 10,27


Chúa Chiên lắng nghe tiếng chiên qua lời cầu của cộng đoàn dân Chúa, nghe rõ tiếng kêu cầu của từng chiên con. Nhận biết nhu cầu từng cá nhân. Chiên con dâng Chủ chiên lời tạ ơn lúc vui mạnh, thành công cũng như khi tràn trề hy vọng.

Chiên con phát tiếng kêu cứu nghẹn ngào. Dâng lời van nài đứt đoạn, nức nở nói không nên lời. Tiếng uất nghẹn, rên xiết khi đương đầu với hoạn nạn, buồn tủi, cô đơn. Lúc ngồi lặng câm mắt nhìn thập tự, hồi tưởng đau khổ Chúa chịu, liên tưởng đau khổ, bệnh tật đời mình, phó thác nỗi lòng, tâm sự, niềm đau người thân quen. Lời cầu dâng lên Chúa liên lỉ ngày đêm, hết ngày này đến tháng nọ, đời này qua thế hệ kia, liên tục. Chúa Nhân Lành là Đấng đêm ngày lắng nghe đoàn con kêu cứu, nài van.

Chúa chăn nuôi tôi
Chúng ta nghe tiếng Chúa nhiều ít, bao nhiêu, tự mình mình biết. Tự mình mình hay. Điều chắc chắn là tiếng chiên con gọi Chúa Chiên lắng nghe, đáp lại theo nhu cầu từng con. Chúa Chiên nghe biết, nhận ra tiếng kêu cứu. Không mệt mỏi nghe tiếng chiên kêu cầu và còn dậy cách cầu xin.

Khi cầu nguyện các con đừng nhiều lời Mat 6,5
Thần khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng chính thần khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả Roma 8,26.


Tiếng nấc
Gần đây màng lưới truyền thông khắp nơi lên tiếng dùm tiếng nấc nghẹn ngào của chiên con. Nạn nhân của chủ chiên chọn thái độ im lặng.
Kêu, chủ chiên không cứu.
Than, chủ chiên không nghe.
Gọi, chủ chiên không đáp.
Kêu oan, bảo ráng nhịn.
Nỉ non khóc than, bảo ích chi
Nhờ dóng tiếng, ngoảnh mặt làm ngơ.
Chủ chiên chọn thái độ im lặng mong yên thân.

Lầm tưởng
Vô số mục tử địa phương học từ Chúa Chiên trở thành những kẻ lắng nghe tuyệt vời, tận tình giúp đỡ, chăm sóc chiên con ốm đau, bệnh hoạn, vỗ về con cô đơn, cảm thông chiên sầu khổ. Các vị này noi gương các thánh tông đồ xưa, vui mừng được chịu đau khổ, tù đầy vì Đức Kitô Phục Sinh. Các ông nói với thủ lãnh Do Thái

Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm. Cv 5,29.
Mục tử lặng thinh, chọn thái độ im lặng được truyền thông ca tụng. Đừng quên truyền thông sống nhờ quần chúng. Hôm nay im lặng là khôn ngoan. Khi được tự do ăn nói, truyền thông sẵn sàng miệt thị thái độ câm nín. Không phải họ thay đổi lập trường. Nhiệm vụ chính của truyền thông là đưa tin. Quần chúng nguyền rủa im lặng. Báo đưa tin. Đa số chỉ trích, khích bác im lặng. TV loan tin. Đừng lầm tưởng chọn im lặng hưởng an bình. Đúng, hưởng bình an trong chốc lát. Tương lai về đâu chưa xác quyết. Cứ nhìn Giáo Hội hoàn vũ đủ biết. Thập niên 60 chọn im lặng. Thập niên 90 bắt đầu chống đỡ, tiếng sấm vang làm sống lại sự việc 30 năm trước. Vuốt mặt không kịp. Chủ chiên im lặng hôm nay, hãy chuẩn bị nhận hậu quả phê bình, chỉ trích, vác chiếu hầu toà trong tương lai. Người ta sẵn sàng kiện từ mồ mả kiện lên.

Nạn nhân
Hỡi những nạn nhân thống khổ vì tiếng kêu cứu bị lãng quên. Nên nhớ Chúa Chiên Lành không bao giờ quên ai. Ngài có quyền ban sự sống trường sinh. Ngài không nhẹ tay hay tha thứ cho kẻ làm hại, gây đau khổ hay ngược đãi chiên con. Chiên con van nài chủ chiên lên tiếng. Họ chọn thái độ lặng câm. Xin đừng quên cầu nguyện cho họ. Xin cho họ ơn can đảm, kiên trì vì Danh Chúa như các tông đồ xưa.

Lòng hân hoan bởi được coi là là xứng đáng chịu khổ nhục vì Danh Đức Giêsu. Cv. 5,41
Phaolô nhiều phen ra tù, vào khám, đòn vọt, đói khát, bị ném đá, đắm tầu, bị cướp, dân ngoại vu cáo và kẻ giả danh làm khốn. 2 cor 11,25


Đức Kitô Phục Sinh chiến thắng khải hoàn. Một ngày nào đó những câm nín hôm nay sẽ bùng phát.

Anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che dấu mà sẽ không được tỏ lộ. Không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng Mat 10,26-27

NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU
Ga 10, 27 - 30
Lm Jos Tạ Duy Tuyền

Trong thiệp báo tin Maria Cristina Cella Mocellin qua đời không mang màu đen tang chế nhưng được viền màu xanh hy vọng của cây cỏ tươi. Chính giữa nổi bật cánh hoa hồng, đọng những giọt sương mai lóng lánh. Bên trong là di ảnh của Cristina, tươi trẻ, duyên dáng và lộng lẫy trong chiếc áo ngày cưới. Bên dưới bức ảnh là lời nguyện trích từ nhật ký của Cristina lúc còn thiếu nữ: Lạy Cha, xin dâng Cha niềm vui của con như ca khúc chúc tụng Cha, trái tim con như căn nhà tiếp đón Cha và cuộc đời con để Cha thực hiện điều Cha muốn.

Và. . cuộc đời Cristina kết thúc vào năm 26 tuổi. Chiếc bướu ung thư ác tính nơi tử cung mắc phải năm 18 tuổi, tưởng đã chữa lành, nào ngờ tái xuất hiện. Nàng đã có hai con một trai một gái. Cristina đang đợi đứa con thứ ba. Khi vị bác sĩ báo hung tin: "Cristina, tôi rất tiếc phải cho bà biết chứng ung thư quái ác tái xuất hiện", Cristina im lặng một giây. Lấy lại bình tĩnh nàng nhìn thẳng vào mắt vị bác sĩ và nói:

- Tôi đang có thai. Tôi đang mang thai, bác sĩ ạ!
Vị bác sĩ hiểu ngay. Ông không dám đề nghị với nàng lối trị liệu hóa học, vì như thế có nghĩa là giết chết bào thai!

Maria Cristina sinh hạ Riccardo vào tháng 8 năm 1994. Ngay sau đó, nàng bắt đầu các phương pháp trị liệu hóa học, nhưng quá trễ, bướu ung thư đã ăn sâu nơi nội tạng. Người mẹ trẻ anh dũng êm ái trút hơi thở cuối cùng ngày 22-10-1995, để lại 3 con thơ.

Đây là một cái chết đẹp. Chết cho con được sống. Chết để gìn giữ một sinh linh bé bỏng đã được Thiên Chúa phú bẩm nơi cung lòng của người mẹ. Chắc chắn mai sau khi lớn lên, đứa bé đã được mẹ chết thay đó, sẽ hết lòng cảm ơn mẹ. Nhờ mẹ đã hy sinh tính mạng mình, mà người con được bước vào cuộc đời.

Có thể nói sự kiện người mẹ trẻ Cristina dám chết cho con được sống, đã hoạ lại hình ảnh rất đẹp của Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành. Người mục tử biết từng con chiên, lo lắng cho từng con chiên, chăm sóc cho từng con chiên, sẵn sàng chết cho đàn chiên. Chính Chúa đã từng nói: "Tôi là mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên tôi biết tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời. Không bao giờ chúng phải diệt vong". Thật là hạnh phúc cho cuộc đời chúng ta, vì Chúa biết từng người chúng ta. Chúa lưu tâm đến từng hoàn cảnh của chúng ta. Chúa còn bao bọc chở che chúng ta bằng biết bao ơn lành hồn xác. Sống dưới sự chăm sóc của Chúa, chúng ta không chỉ hạnh phúc ở đời này mà còn hạnh phúc cả đời sau, miễn là chúng ta biết nghe tiếng Chúa và bước đi trong đường lối của Chúa.

Tình thương của người mục tử không chỉ dừng lại ở việc chăm sóc dưỡng nuôi chúng ta, mà con dám thí mạng sống mình vì chúng ta. Cái chết trên thập tự giá là bằng chứng hùng hồn cho một tình yêu lớn lao đến nỗi dám chết để đổi lại sự sống cho chúng ta. Ngài còn đi đến đỉnh cao của sự dâng hiến trọn vẹn là trở nên lương thực nuôi dưỡng chúng ta. Với tấm bánh đơn sơ nhỏ bé, Chúa muốn hoà tan trong chúng ta để chúng ta được ở lại trong Chúa, và nên một trong Chúa. Qua đó, Chúa cũng muốn mượn lấy bản tính nhân loại của chúng ta, để Ngài lại có thể tiếp tục yêu thương và phục vụ cho đàn chiên được sống ấm no và hạnh phúc.

Thế giới hôm nay rất cần những tấm lòng dám hy sinh cho nhau, dám vì lợi ích của tha nhân mà quên mình phục vụ, mà quảng đại trao ban. Thế giới sẽ cằn cỗi và hoang tàn nếu không còn những con người dám hy sinh đời mình để phục vụ anh em. Nhưng rất mừng, vì cuộc đời vẫn còn đó biết bao tấm lòng luôn quên mình phục vụ một cách quảng đại và vô vị lợi như mẹ Têrêsa thành Calcutta. Cuộc đời vẫn còn đó, những con người biết tôn trọng sự sống của con cái mà quên đi tính mạng mình như người mẹ trẻ Cristina. Cuộc đời vẫn còn đó, những con người đã từ khước niềm vui trong bậc sống vợ chồng, để dâng hiến phục vụ cho tin mừng Nước Trời trong bậc sống linh mục, tu sĩ. Vâng, có lẽ cuộc đời hôm nay vẫn tươi đẹp vì biết bao người cha, người mẹ, chấp nhận một nắng hai sương, lặn lội nơi ruộng vườn và ngược xuôi nơi bến chợ để lo cho từng cuộc đời những người con. Và còn đó biết bao người, tuy không danh phận giữa đời, nhưng sẵn lòng làm bất cứ điều gì, miễn là đem lại niềm vui cho anh em. Và còn rất nhiều những cuộc đời rất âm thầm đang vẽ lại hình ảnh người mục tử nhân lành, khiêm tốn cúi mình băng bó những vết thương đau của đồng loại bằng tình thương và phục vụ một cách quảng đầy hy sinh.

Hôm nay, ngày dành riêng để cầu nguyện cho ơn gọi làm linh mục và tu sĩ, chúng ta hãy xin Chúa ban thêm nhiều vị mục tử tốt lành để chăm sóc đàn chiên của Chúa. Những mục tử biết hoạ lại khuôn mẫu của vị mục tử nhân lành luôn sống hết mình vì đàn chiên, luôn tận tuỵ chăm sóc đàn chiên của Chúa. Chúng ta cũng xin Chúa cho những bậc làm cha, làm mẹ biết giáo dục và hướng dẫn con cái sống tinh thần tin mừng để cống hiến cho Giáo hội những mần giống ơn gọi tốt lành.

Nguyện xin Chúa Giêsu, mục tử nhân lành chúc lành cho hết thảy những ai đang khao khát dâng hiến cuộc đời để phục vụ cho lợi ích tha nhân và Nước Trời. Amen

CHÚA NHẬT CHÚA CHĂN CHIÊN LÀNH
Ga 10, 27 - 30
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Chúa Giêsu sinh trưởng nơi đất nước Do thái, Ngài chịu ảnh hưởng văn hóa, quan niệm tôn giáo Do thái, nên Ngài đã dùng ngôn ngữ, hình ảnh, tập tục và cả những truyền thống, những khái niệm về tôn giáo của người Do thái để giới thiệu với nhân loại, với mọi người. Người chủ chăn đích thực và loan báo sứ điệp cứu độ loài người. Người chủ chăn đích thực Đức Kitô đề cập là ai và sứ điệp cứu độ đó như thế nào ?

"Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi " ( Ga, 27 ) và " Ta chính là chủ chiên tốt lành " ( Ga, 11 ). Bài Tin Mừng chúng ta đọc trong thánh lễ sáng nay của thánh Gioan chương 10, 27-30 nói lên ý nghĩa sâu xa và quan trọng nhất của toàn bộ chương 10: Chúa Giêsu mạc khải cho người Do thái Ngài là hiện thân của Thiên Chúa Cha, Ngài đến để chăn dắt đàn chiên mình và mọi người phải qua Ngài mới tới được với Cha của Ngài. Ngài chính là chủ chăn tốt lành và đích thực, sẵn sàng hy sinh cả mạng sống mình vì đàn chiên. Ngài không chỉ hy sinh cho người Do thái mà còn hiến mạng sống mình cho mọi người, cho toàn thể nhân loại ( Ga, 14-16 ). Chiên của Chúa thì biết Chúa, nghe Chúa và theo Chúa. Biết Chúa là kết hiệp cả thân xác và tâm hồn với Ngài. Nghe Chúa là có một mối thâm giao với Chúa và tin vào Chúa. Theo Chúa là một thái độ hoàn toàn tự do và tự nguyện dấn thân. Đức Kitô đã nói: " Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi " ( Ga 10, 28 ). Sứ điệp cứu rỗi này được thánh Gioan ghi chép, thánh Matthêu, Luca và Marcô cũng đã ghi chép và khẳng định nhiều lần.

Hình ảnh người chăn chiên dẫn đàn chiên đi ăn trên các đồi cỏ, hoặc các cánh đồng cỏ xanh, tới các dòng suối mát trong lành rất bình thường trong xã hội Do thái. Bởi vì,người Do thái thích chăn chiên, chăn cừu, nhiều chủ trại đã sống về nghề chăn chiên. Tại Việt Nam, tôi vẫn còn nhớ hình ảnh của một số người chăn cừu, chăn chiên ở Phan Rang. Họ dẫn từng bầy cừu, bầy chiên đi kiếm cỏ xanh và tìm các dòng suối cho đàn chiên, đàn cừu uống nước.Hình ảnh ấy làm tôi liên tưởng tới một bức tranh vẽ Chúa Giêsu đang vác con chiên trên vai và theo Ngài là cả một bầy chiên đông vô kể. Hình ảnh này nói lên tình thương của Chúa Giêsu đối với mọi người. Ngài thương hết mọi người. Mỗi người đều có một chỗ đứng trong trái tim của Ngài. Ngài không gọi ai cách không không. Tất cả đều được Ngài gọi tên một cách rất trìu mến. Bí Tích Thánh Thể Ngài để lại cho nhân loại là bằng chứng rõ ràng nhất nói lên tình thương vô bờ của Ngài. Khi chịu đóng đinh trên thập giá, Chúa Giêsu hoàn thành Giao ước cũ đã ký trên núi Sinai ( Xh 24, 4-8 ) và Ngài cũng thiết lập Giao ước mà các ngôn sứ đã tiên báo nay ứng nghiệm nơi chính Ngài ( Is 42, 6; 49; 6, 53,12... ).

Chúa là chủ chăn tốt lành luôn biết rất rõ tên từng con trong đàn chiên của mình. Ngài biết và hiểu rõ nhu cầu của từng con chiên. Chúa yêu mến từng con chiên, không bao giờ để chiên bị thất vọng. Và Ngài luôn đáp ứng những ước vọng của con người là sống và sống dồi dào. Đây là sứ điệp cứu độ mà Chúa Giêsu đã bầy tỏ: " Vì Thiên Chúa đã yêu thế gian quá đỗi, nên mới ban Con Một của mình, để ai tin vào Người sẽ khỏi hư đi, nhưng được sống đời đời. Vì Thiên Chúa không sai Con mình đến để lên án thế gian, nhưng là để thế gian được Người cứu độ " ( Ga 3, 16-17 ).

Hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục và tu sĩ. Trên thế giới còn thiếu nhiều mục tử để chăn dắt đàn chiên, nghĩa là các giáo sở, giáo xứ và ơn gọi tu sĩ nam nữ vẫn luôn cần thiết để góp phần xây dựng Giáo Hội của Chúa.Chúng ta cầu nguyện để cho có nhiều bạn trẻ nam và nữ quảng đại dấn thân đi theo Chúa để trở nên những mục tử, những tu sĩ như lòng Chúa mong ước. Ơn gọi Linh mục và ơn gọi tu sĩ luôn cần thiết trong mọi thời đại bởi vì có bao nhiêu chăng nữa, thế giới luôn luôn không đủ các Linh mục để lo lắng cho đàn chiên trong các giáo điểm, các giáo sở, giáo xứ. Năm nay đang là năm thánh Linh mục, chúng ta hãy cầu nguyện để các Linh mục trở nên những mục tử như lòng Chúa ước mong. Các Linh mục phải là những người sống và phục vụ, yêu thương như Thầy đã yêu ( Ga 13, 34 ).

Xin Chúa ban cho thế giới và đặc biệt trong đất nước Việt Nam luôn có nhiều tâm hồn quảng đại hy sinh, dấn thân phục vụ Chúa với tất cả tâm hồn, với tất cả lòng nhiệt thành, yêu thương của mình. Amen.

MỤC TỬ TỐT LÀNH HÔM NAY
Ga 10, 27 - 30
+TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Hình ảnh chiên cừu dễ gây ngộ nhận vì người ta cho rằng chiên cừu chẳng biết làm gì hơn là ngoan ngoãn vâng lời. Nhưng con chiên trong bài Tin mừng ta vừa nghe hoàn toàn không có tính cách thụ động như thế. Trái lại phải tích cực, chủ động. Sự tích cực chủ động của đoàn chiên được Chúa Giêsu diễn tả bằng những từ "nghe" và "theo": "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta. Ta biết chúng và chúng theo Ta".

1. Nghe.
Chúa Giêsu chính là Lời của Thiên Chúa, nên ta phải nghe Người. Nhưng nghe được Lời của Thiên Chúa không phải dễ.

Không dễ, vì Lời Thiên Chúa nhẹ nhàng như lời thì thầm của mây gió, sâu thẳm như tiếng nói của đáy đại dương, im lặng và bí hiểm như tiếng vỗ của một bàn tay. Trong khi đó lời của trần gian, của ma quỉ lại ồn ào như một ngày hội, gào thét như cuồng phong và điên loạn như chiến tranh.

Không dễ, vì Lời Thiên Chúa mời gọi người ta vào con đường chật hẹp của từ bỏ mình, dẫn ta lên ngọn đồi gai góc của thập giá hi sinh và thách thức ta phục vụ đến hi sinh cả mạng sống. Trong khi đó lời của trần gian, của ma quỉ mở ra đại lộ thênh thang của danh vọng, dẫn ta đến dìm mình trong đại dương hưởng thụ và hứa ban tặng cho ta tất cả vinh hoa phú quí trên đời.

Vì thế, để nghe được Lời Chúa, ta phải có một đôi tai thật bén nhạy, được hướng dẫn bởi trí phán đoán sáng suốt và một trái tim yêu mến nồng nàn. Nghe Lời Chúa với một thái độ như thế sẽ dẫn ta đến chỗ theo Chúa.

2. Theo.
Theo ai là quyến luyến, gắn bó và ràng buộc đời mình vào đời người đó. Như thế theo ai là từ bỏ chính mình, cuộc đời mình để chia sẻ cuộc sống với người khác.

Theo tâm lý học, trong tình yêu có ba mức độ. Mức độ thứ nhất: Thích nhìn, nghe người mình yêu. Mức độ thứ hai: Trong mọi chương trình, tính toán của đời mình đều có bóng dáng của người yêu. Mức độ cuối cùng: Chia sẻ tất cả những gì mình có, kể cả cuộc sống vì người yêu.

Như thế, theo tức là yêu thương ở cao độ. Con chiên đi theo Chúa như thế phải hoàn toàn chủ động và nhất là thiết lập một quan hệ mật thiết với Chúa là Chủ đoàn chiên. Hành động của Chúa chiên tốt lành được Đức Giêsu tóm gọn trong hai động từ: "biết" và "cho".

3. Biết.
Người chăn chiên tốt lành biết rõ từng con chiên. Ông biết tên từng con. Ông biết tình trạng sức khoẻ cũng như nhu cầu của từng con chiên. Tương tự như thế, Chúa Giêsu biết rõ mỗi người chúng ta. Người không chỉ biết mà còn thông cảm với mọi hoàn cảnh của ta.

Ta buồn vì bị người yêu phụ bạc ư? Người cũng đã biết thế nào là nỗi đau của người bị phản bội.
Ta cay đắng với kiếp nghèo đeo đẳng ư? Chúa Giêsu cũng đã sinh ra không nhà, sống ngoài đường và chết trần truồng trên thập giá.
Ta tuyệt vọng vì cuộc đời không lối thoát ư? Chúa Giêsu đã trải qua những giờ phút đen tối trong vườn Giết-si-ma-ni và trên thánh giá.
Ta cô đơn vì bị mọi người xa lánh ư? Chúa Giêsu cũng đã bị mọi người chối bỏ, và Người cảm thấy như Đức Chúa Cha cũng từ bỏ Người.
Ta bị sỉ nhục mất hết uy tín ư? Chúa Giêsu đã bị nhục nhã và mất hết uy tín khi phải chết như kẻ tội đồ nô lệ.
Chúa Giêsu là người chăn chiên tốt lành, hiểu biết mọi ngõ ngách u ẩn trong đáy lòng người, nên có thể chăm sóc an ủi từng người chúng ta.

4. Cho.
Chúa Giêsu là mục tử tốt lành vì đã tặng ban cho tất cả đoàn chiên món quà quí giá nhất là sự sống đời đời, sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa, sự sống của chính bản thân Người. Sống sự sống của Thiên Chúa rồi, đoàn chiên sẽ kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Không ai cướp được đoàn chiên khỏi tay Người, vì Người dùng chính mạng sống mình mà bảo vệ. Người ràng buộc đời mình vào sinh mạng của đoàn chiên. Từ nay đoàn chiên và chủ chiên trở thành một cộng đồng sinh mệnh, sống chết có nhau, kết hợp với nhau trong một tình yêu thương không có gì có thể tách lìa được.

Chúng ta đang sống trong một thời đại đầy thay đổi. Cuộc sống đang mở ra những chân trời mới đầy quyến rũ nhưng cũng đầy nguy hiểm cho đời sống tâm linh chúng ta. Những giá trị bị đảo lộn. Những con chiên đang bị lôi kéo rời xa đoàn chiên. Nhu cầu cuộc sống xô đẩy chúng ta ra khỏi cộng đoàn khiến nhiều người trở thành những con chiên bơ vơ không người chăn dắt.

Trong một hoàn cảnh mới mẻ như thế, chúng ta rất cần có những vị mục tử thực sự hiểu rõ nhu cầu của đoàn chiên và thực sự hiến mình phục vụ đoàn chiên. Chúng ta hãy cầu nguyện cho có nhiều người trẻ biết đáp lời Chúa mời gọi, hiến mình cho Chúa để phục vụ anh chị em trong nhiệm vụ mục tử. Chúng ta cầu nguyện cho các linh mục của chúng ta trở thành những mục tử tốt lành noi gương Vị Mục Tử duy nhất là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

Lạy Chúa là Mục Tử chăn giữ đời con, xin cho con biết lắng nghe tiếng Chúa và bước theo Chúa. Amen.

ƠN GỌI
Ga 10, 27 - 30
LM Phạm Thanh Liêm, SJ

Hôm nay Hội Thánh cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Xin cho nhiều người trẻ quảng đại đáp trả lời kêu mời của Thiên Chúa, để mang ơn cứu độ của Thiên Chúa cho con người thời đại.

Tôi ban cho chúng sự sống đời đời
"Con chiên tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, và chúng sẽ không hư mất".

Ơn gọi tu sĩ linh mục chính yếu là để "sống với Chúa, và để Ngài sai đi" (Mc.3, 14). Sống với Chúa, là lắng nghe tiếng Ngài trong từng giây phút sống, để nên một với Ngài trong gian nan và hạnh phúc. Để Ngài sai đi, là sẵn sàng đi theo con đường Ngài đã đi, thực thi sứ mạng Ngài trao bất chấp những gì xảy ra.

Thiên Chúa yêu thương con người, Ngài muốn tất cả được cứu độ (1Tm.2, 4). Ngài muốn ban sự sống đời đời cho tất cả mọi người. Sự sống đời đời khởi đầu ngay ở đời này. Nếu con người sống theo tiếng Chúa, theo lương tâm, thì người ấy được bình an. Bình an là điều kiện nền tảng để hạnh phúc.

Không ai có thể giựt chúng khỏi tay Cha tôi
"Không ai có thể giựt chúng khỏi tay tôi, vì Cha tôi đã ban chúng cho tôi, và Ngài lớn hơn tất cả, và không ai có thể giựt chúng khỏi tay Cha tôi. Cha tôi và tôi là một".

Ơn gọi rất mong manh, và tưởng chừng ai cũng có thể phá huỷ được; nhưng thực sự không như vậy. Không ai có thể huỷ ơn gọi của một người, nếu không phải chính người đó cố tình phá huỷ. Thiên Chúa luôn trung thành, Ngài gọi ai thì Ngài mãi mãi trung thành. Ngài không thay đổi, Ngài không chỉ gọi ai một thời gian rồi thôi không gọi nữa. Nếu Ngài gọi ai, Ngài mãi mãi trung thành. Ơn gọi cũng như tình yêu, như được nối kết ràng buộc bởi "tơ trời" có vẻ rất mong manh nhưng vô cùng chắc chắn.

Ơn gọi không khởi đầu do con người, nên cũng không thể tiếp tục nếu chỉ tự sức con người. Thiên Chúa luôn ở với người Ngài chọn và gọi, để nâng đỡ và bảo vệ người Ngài tuyển chọn. Cụ thể, Thiên Chúa vẫn hay dùng những phương tiện con người, để gọi và bảo vệ những người được Ngài kêu gọi.

Dụng cụ ban ơn cứu độ
Thánh Phao-lô và Barnabas được tuyển chọn để sai đi. Hai ngài đã trở thành phương tiện Thiên Chúa dùng để mang ơn cứu độ cho những người sẵn sàng mở lòng đón nhận Tin Mừng. Cuộc đời của Phaolô rất gian nan, nhưng Phaolô vẫn vui và hạnh phúc. Phaolô đã từng bị ném đá, bị đắm tàu tưởng chết, nhưng Phaolô vẫn kiên vững trong sứ mạng được trao.

Ơn cứu độ của con người, là chính Thiên Chúa. Được Thiên Chúa, nghĩa là, được Thiên Chúa ở cùng, được chia sẻ sự sống với Thiên Chúa, là được ơn cứu độ.

Mỗi người có thể là dụng cụ Thiên Chúa dùng để mang ơn cứu độ cho những người sống xung quanh mình. Xin cho mỗi người nhận ra ơn gọi của mình, để hạnh phúc và trở thành dụng cụ Thiên Chúa dùng để đến với con người hôm nay.

CHÚA GIÊ SU, NGƯỜI CHĂN CHIÊN NHÂN LÀNH
Ga 10, 27 - 30
Lm. Nguyễn ngọc Long

Hình ảnh Chúa Giêsu, người chăn chiên nhân lành, ăn rễ sâu trong đời sống đức tin đạo Công giáo từ thời Giáo Hội sơ khai thuở ban đầu.

Hình ảnh này là kim chỉ nam cùng là mẫu gương cho đời sống Giáo hội Chúa Giêsu ở trần gian từ xưa nay.

Hình ảnh này không chỉ là một hình ảnh đẹp thơ mộng, đầy văn chương thi vị, nhưng là hình ảnh sống động chứa chan tình yêu thương trong tương quan liên đới người chăn chiên lo cho đàn chiên.

Đức giáo hoàng Benedictô 16. trong tác phẩm " Giêsu thành Nadarét", mà ngài vừa mới viết xong, và cho xuất bản dịp mừng sinh nhật thứ tám mươi ngày 16.04.2007 vừa qua, đã diễn tả hình ảnh này vừa theo lối văn chương suy tư thần học, vừa tâm tình đức tin và vừa theo phương pháp phân tích khoa học.

„ Chúng ta trở lại chương 10. Phúc âm Thánh Gioan nói về người Chăn chiên: „ Thầy là người chăn chiên nhân lành". Bài tường thuật lịch sử này vẽ lên rõ nét hình ảnh người chăn chiên, cùng ẩn chứa bốn động lực căn bản.

- Chúa Giêsu, người chăn chiên nhân lành hứa ban: sự sống đầy đủ dồi dào. Sự sống đầy đủ dồi dào như mỗi người mong đợi. Nhưng điều đó là gì vậy? Đâu là nội dung của sự sống đó? Nơi nào ta có thể tìm kiếm được sự sống đó? Khi nào và như thế nào chúng ta có „ sự sống đầy đủ dồi dào"? Nếu chúng ta cứ sống như người con hoang đàng, chúng ta có bỏ lỡ món qùa tặng của Thiên Chúa không? Nếu chúng ta sống như kẻ ăn trộm, như kẻ cướp - tất cả chỉ cho mình, thì sao?

Chúa Giêsu hứa, Ngài sẽ chỉ dẫn lối cho các con chiên tìm tới„đồng cỏ ", nơi đó có thức ăn, có nguồn nước cho đời sống. Thánh Vịnh 23 nói với chúng ta: „Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.

Người đưa tôi tới dòng nước trong lành...Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc. ..

Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời," ( Tv 23, 2.5f)

Tiên tri Edêkien cũng diễn tả : „ Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao Ít-ra-en. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong đồng cỏ mầu mỡ trên núi non Ít-ra-en" ( Ez 34,14)

Nhưng tất cả những điều đó có ý nghĩa gì? Chúng ta biết, những con chiên sống bằng gì; con người sống bằng gì?

Các Tổ phụ cha ông ngày xưa đã dùng hình ảnh trong vùng cao nguyên núi đồi bên đất nước Israel có những cánh đồng cỏ ở nơi cao, nơi đó có bóng râm che rợp, có nước, làm hình ảnh của Lời Thiên Chúa cho sự sống trong Kinh Thánh. Và nếu hình ảnh đó không hợp với ý nghĩa lịch sử, như trong bài diễn tả, các ngài cũng đã nhìn đúng, nhất là Chúa Giêsu đã tự hiểu về mình đúng như thế. Con người sống bằng sự chân thật, bằng được yêu thương, bằng được yêu thương trong sự chân thật. Con người cần một Thiên Chúa gần gũi bên cạnh họ, một Thiên Chúa cho ý nghĩa đời sống, một Thiên Chúa hướng dẫn đường đời sống.

Tất nhiên, con người cần cơm bánh, cần của ăn thức uống cho thân xác. Nhưng họ cần điều gì thâm sâu hơn, nhất là Lời, tình yêu và chính Thiên Chúa. Ai trao cho người nào điều đó, người đó trao tặng „ sự sống dồi dào". Như thế mang đến sức mạnh, qua đó người làm cho đời sống trên mặt đất đầy đủ ý nghĩa.

- Động lực thứ hai của bài tường thuật về người chăn chiên nhân lành thể hiện qua biến chuyển mới: Người chăn chiên nhân lành hiến mạng sống mình cho đoàn chiên" (10,11). Thánh gía chiếm trung tâm điểm của đời sống người chăn chiên nhân lành không phải như hành động của sức mạnh ép buộc, nhưng là sự tự hy sinh hiến thân: „ Ta hiến mạng sống mình để lấy lại. Mạng sống của Ta không ai lấy đi được, nhưng chính ta tự ý hy sinh mạng sống."( 10,17)

Trong Bí tich Thánh Thể, Chúa Giêsu đã biến đổi hành động sức mạnh ép buộc bị đóng đinh trên thánh gía thành cử chỉ tự hiến thân hy sinh cho người khác.

- Động lực thứ ba của bài tường thuật về người chăn chiên nhân lành biểu hiện qua sự biết nhau giữa người chăn chiên và đàn chiên: „...người chăn chiên gọi các con chiên của mình, anh ta biết tên từng con chiên và dẫn chúng ra ngoài. Các con chiên theo anh ta, chúng quen biết tiếng của người chăn dắt chúng. ( 10,3).

Người chăn chiên biết các chiên mình thuộc về mình, và các con chiên biết mình thuộc về người chăn chiên. Người chăn chiên sở hữu các con chiên không phải như bất cứ đồ vật cần dùng nào. Chúng thuộc về anh ta vì anh ta biết chúng. Điều này biểu hiện mối liên quan mật thiết sâu thẳm hơn là sở hữu một món đồ vật.

Con cái không là vật sở hữu của cha mẹ; vợ chồng không là sở hữu của một người khác. Nhưng họ thuộc về nhau theo chiều tâm linh sâu thẳm hơn là sở hữu làm chủ một khúc gỗ, một miếng đất. Con cái thuộc về cha mẹ, nhưng dẫu vậy chúng vẫn là thụ tạo tự do của Thiên Chúa tạo dựng. Đời sống mỗi người con có một sứ mệnh riêng, có một điều mới riêng, có một bản vị riêng trước mặt Thiên Chúa.

Con cái cha mẹ thuộc về nhau không phải như vật sở hữu, nhưng có trách nhiệm với nhau. Họ thuộc về nhau trong tự do và trong tình yêu thương cho nhau.

- Động lực thứ tư của bài tường thuật về người chăn chiên nhân lành biểu hiện qua sự hiệp nhất nên một " Ta còn có những chiên khác không thuộc về đàn này. Ta cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng ta. Và sẽ chỉ có một đàn chiên và một mục tử. ( 10,16).

Chúa Giêsu, sau khi sống lại, sai các Tông đồ đi rao giảng không chỉ nghĩ đến những con chiên lạc đàn ở Israel, nhưng đến tất cả mọi người: „ Anh em là nhân chứng cho Thầy ở Giêrusalem, toàn miền Giudea, Samaria và tới tận cùng biên cương trái đất" ( Cv 1,8)

Lý do sâu thẳm của sứ mạng sai đi rao giảng tập trung ở điểm: Chỉ có một đàn chiên.. Ngôi Lời ( Logos) đã thành người qua Chúa Giêsu, là người chăn chiên của hết mọi người. Tất cả mọi người được tạo thành do Lời của Thiên Chúa. Cho dù họ có tản mát khắp nơi, nhưng vẫn là một phát xuất từ nơi Thiên Chúa và rồi lại quy tụ về nơi Ngài. Trong Ngôi Lời ( Logos) loài người có thể quy tụ trở nên một, đấng là người chăn chiên đích thực, đấng đã làm người hy sinh hiến mạng sống, và đã trao tặng sự sống dồi dào.

Hình ảnh người chăn chiên từ thời xa xưa, vào thế kỷ thứ 3 đã ăn sâu đậm nét vào đời sống Kitô giáo. Hình ảnh này thân thương quen thuộc trong đời sống ở thành thị lẫn thôn quê. Kitô giáo đã tìm thấy hình ảnh này nơi Thánh vịnh 23: Chúa là mục tử. Nơi Ngài tôi không còn thiếu gì. Người dẫn tôi ra đồng cỏ xanh tươi. Người dẫn tôi đi qua thung lũng tối tăm hiểm nguy...".

Nơi Chúa Giêsu Kitô họ nhận ra hình ảnh người chăn chiên nhân lành, người trong đời sống đã trải qua những thung lũng tối tăm. Người chăn chiên đó đã trải qua đêm đen tối sự chết, người chăn chiên biết đường đi qua đêm tối sự chết, không bỏ ai một mình đơn cô, nhưng dẫn đưa đến đồng cỏ sự sống xanh tươi, nơi có ánh sáng bình an..

Người tín hữu Chúa Giêsu Kitô cũng không quên dụ ngôn người chăn chiên đi tìm con chiên lạc. Khi tìm thấy, anh ta vác bế nó trên vai đưa trở về nhà. Với các Giáo phụ hai hình ảnh này đan bện vào nhau: người chăn chiên lên đường đi tìm con chiên lạc đàn là chính Ngôi Lời, và con chiên lạc bồng bế trên vai đưa về nhà là loài người, mà Ngài đón nhận.

Qua nhập thể làm người và qua cái chết trên thánh gía, Chúa Giêsu đã bồng ẵm con chiên lạc - là loài người, trở về nhà. Ngôi Lời đã thành người. Ngài là người chăn chiên và bồng bế con chiên, cùng là người theo sát cuộc sống con người trần gian qua mạo gai và sa mạc đời sống. Nhờ được Ngài chấp nhận bồng ẵm chúng ta trở về nhà. Ngài đã hy sinh mạng sống cho chúng ta. Ngài chính là sự sống." ( Joseph Ratzinger- Benedickt XVI., Jesus von Nazareth, I., 2007 Verlag Herder, Freiburg im Bresgau, 8. Kapitel - Der Hirte, S. 317 - 331)

ĐỨC GIÊSU, VỊ MỤC TỬ SỰ SỐNG
Ga 10, 27 - 30
Lm Jos Nguyễn Minh Chánh

Trong khuôn khổ trang Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, sẽ giúp chúng ta xác định rất rõ về sứ mạng của Đức Giêsu tại trần gian, trong tư cách là Mục Tử. Vâng Chúa ở cùng chúng ta không gì khác hơn là ban cho chúng ta sự sống đời đời ( x. Ga10,3-28).

Sự sống là lý do duy nhất để Đức Giêsu Mục Tử Nhân Lành đến với con người. Đọc xuyên suốt toàn bộ Tin Mừng, chúng ta rất dễ cảm nhận về vai trò Mục Tử của Đức Giêsu tại trần gian:

1/ Đức Giêsu, Vị Mục Tử phục vụ sự sống:

Chúng ta là đoàn chiên của Chúa, nên dù cuộc sống có lầm than vất vả, Chúa luôn nâng đỡ và chạnh lòng thương chúng ta, Ngài không bỏ chúng ta. Hai phép lạ Chúa hoá bánh ra nhiều đó là bằng chứng nói lên tình thương của Đức Giêsu Mục Tử đối với đoàn chiên của Ngài:

Lần thứ nhất, khi nhìn thấy đoàn người đông đảo theo mình, Đức Giêsu chạnh lòng thương họ. Và với năm cái bánh và hai con cá, Chúa Giêsu đã làm phép lạ hoá ra nhiều để nuôi hơn năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con ăn no nê và dư thừa mười hai giỏ đầy (x,Mt14,13-21).

Lần thứ hai, lại một đám đông người theo Chúa không có gì ăn. Chúa đã chạnh lòng thương, vì đã ba ngày họ sống trong cảnh đói khát cũng vì theo Chúa. Rồi từ bảy chiếc bánh và vài con cá nhỏ, Chúa Giêsu đã hoá ra nhiều để cung cấp cho khoảng bốn ngàn người ăn no nê và con dư thừa được bảy giỏ (x,Mc 8,1-10).

Như vậy, với hai phép lạ hoá bánh ra nhiều, thì đó cũng là lý do rất chính đáng để chúng ta cảm phục con tim yêu thương của Đức Giêsu Mục Tử Nhân Lành. Ngài đến để yêu thương chăm sóc từng con chiên, để phục vụ sự sống cho đoàn chiên. Nhờ vậy đoàn chiên của Chúa sẽ được sống và tăng trưởng. Thế nhưng Đức Giêsu còn là Vị Mục Tử phục hồi sự sống cho đoàn chiên của mình

2/ Đức Giêsu Vị Mục Tử phục hồi sự sống cho đoàn chiên:

Trong đoàn chiên của Chúa không phải ai cũng khoẻ mạnh, không phải ai cũng dồi dào sức sống. Ngược lại có những chiên đau yếu bệnh tật, Đức Giêsu Mục Tử rất cảm thông, nâng đỡ và quan tâm đối với những hoàn cảnh riêng biệt này, nhờ đó sự sống của những chiên này sẽ được phục hồi nguyên vẹn.

Trong thời gian công khai rao giảng Tin Mừng, thì cũng là thời gian Chúa Giêsu cứu chữa để phục hồi những chiên đau yếu: Ai câm điếc thì Chúa chữa cho nói và nghe được, ai mù loà thì Ngài cho sáng mắt, ai què quặt thì Chúa chữa để có những bước đi vững mạnh. Và bất cứ chứng bệnh gì, nếu ai gặp được Chúa với tất cả lòng tin, Ngài sẽ đặt tay chữa lành ngay tức khắc (x, Lc 4,40-41).

Đức Giêsu, Vị Mục Tử không những Ngài phục hồi sự sống nơi thân xác của từng con chiên, nhưng Ngài còn phục hồi sự sống tâm linh cho các chiên của mình: Đức Giêsu đã từng trục xuất ma quỷ ra khỏi những ai mà chúng đã ám hại. Ngài rất nhiều lần tha thứ tội lỗi cho những người mà cuộc sống quá khứ của họ đã bóp nghẹt sự tăng trưởng đời sống tâm linh, nhờ đó mà họ sẽ có đời sống mới trong Ngài. Kinh nghiệm từ lần đầu tiên gặp gỡ Đức Giêsu Mục Tử của Matthêu, Giakêu, hay người phụ nữ tội lỗi đã xức dầu thơm cho Chúa khi Ngài dùng bữa tại nhà một người thuộc nhóm Pharisêu..., thì đó cũng là thời gian in đậm dấu ấn lòng nhân từ của Đức Giêsu nơi những con người này. Dấu ấn nhân từ ấy đã thay đổi hoàn toàn cuộc sống quá khứ của họ, từ đây họ sẽ vươn lên một cuộc sống tương lai theo thánh ý Chúa, sau khi đã được Chúa phục hồi sự sống bằng ơn tha thứ.

Khởi đầu từ hình ảnh Vị Mục Tử phục vụ sự sống, rồi Vị Mục Tử ấy còn là người phục hồi sự sống cho đoàn chiên. Bao nhiêu việc làm ấy, người Mục Tử mang tên là Giêsu vẫn chưa hài lòng với sứ vụ yêu thương phục vụ trong thế gian. Vì đỉnh cao sứ vụ Mục Tử của Đức Giêsu là khi Ngài tự trao ban sự sống của mình cho đoàn chiên.

3/ Đức Giêsu, Vị Mục Tử trao ban sự sống :

Đức Giêsu đã nói:" Tôi chính là mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên" (Ga10,11). Như vậy, Đức Giêsu đến trần gian không phải tìm sự sống cho mình, nhưng Ngài tìm sự sống cho đoàn chiên. Sự sống Chúa Giêsu tìm cho đoàn chiên không phải là sự sống tầm thường hay tạm bợ, cũng không phải là sự sống giả tạo hay thiếu phẩm chất. Sự sống mà Chúa Giêsu tìm cho đoàn chiên đó là sự sống muôn đời. Đó chính là lý do mà Chúa đến với chúng ta.

Vì thế trong Bữa Tiệc Ly trước khi chịu chết, Đức Giêsu Mục Tử đã trao ban chính sự sống của Ngài cho chúng ta, dưới hình bánh và hình rượu. Khi Chúa cầm tấm bành và cầm chén rượu nho trên tay và nói: Này là mình Thầy ... Này là chén máu Thầy..., thì đó chính là giây phút Ngài trao ban cho chúng ta chính sự sống của Ngài, Ngài đặt sự sống của chúng ta trên bản thân Ngài, Ngài đã trở nên người tôi tớ để phục vụ sự sống cho chúng ta, nhờ đó chúng ta sẽ được sống dồi dào. Sống dồi dào đó là cuộc sống phải được nuôi dưỡng bằng chính Máu Thịt của chính Đức Giêsu Mục Tử hy sinh mạng sống vì đoàn chiên. Vì Chúa đã nói : "Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống laị vào ngày sau hết, vì thịt Tôi thật là của ăn và máu Tôi thật là của uống" (Ga 6,54-55).

Chiêm ngưỡng hình ảnh của Đức Giêsu Mục Tử, thì đó cũng là mời gọi chúng ta hãy sống những tâm tình như Ngài.

4/ Sống sứ vụ mục tử của Đức Giêsu:

Chúa Giêsu Mục Tử luôn đứng về sự sống, luôn bênh vực sự sống, luôn bảo vệ sự sống. Ngài mời gọi chúng ta là những người có Tôn giáo, những người có Đức tin cũng theo Ngài trên mọi nẻo đường để bênh vực sự sống. Vì Chúa không hề muốn đau khổ và sự chết, Chúa không bao giờ muốn gieo cái chết ở khắp mọi nơi: Như những ai lấy danh Thiên Chúa, danh Tôn giáo để khủng bố nổ bom tự sát làm chết 180 người vô tội, như tại Iraq vào trung tuần tháng tư vừa qua. Chúa cũng không bao giờ muốn vì sự kỳ thị Tôn giáo mà một số người Hồi giáo đã cắt cổ ba người làm việc ở một nhà in Kitô giáo tại Thổ Nhĩ Kỳ vào ngày 19/4/2007. hay tại Pakistan,hay quân Hồi giáo Hizbul đã chặt đầu anh Manzoor Ahmad Chad 33 tuổi, sau đó chúng đã để đầu anh trong một Đền thờ Hồi giáo vào ngày 14/4/2007 vừa qua...

Thiên Chúa là Tình Yêu. Chúa luôn mong ước con người hãy lấy tình yêu mà đối sử với nhau. Chúa luôn mong ước con người hãy noi gương Chúa gieo nền văn minh sự sống trên mọi nẻo đường của cuộc đời, Chúa luôn mong ước con người hãy sống sứ vụ mục tử của Ngài là bảo vệ sự sống cho nhau.

Như vậy, khi chúng ta biết hy sinh chính mình để chạnh lòng thương nâng đỡ những người đói khát, những người đau yếu, biết cảm thông với những yếu hèn của người khác. Thì đó chính là lúc chúng ta đang sống sứ vụ mục tử của Đức Giêsu.

Và khi chúng ta biết bảo vệ và bênh vực Giáo Huấn về sự sống của Giáo Hội, biết thực hành nghiêm túc và tránh xa những gì làm tổn thương và nguy hại đến Giáo Huấn ấy, thì đó cũng là lúc chúng ta đang trở thành chứng nhân biết bảo vệ sự sống cho nhau. Vì sự sống con người là do Chúa ban, chính Chúa làm chủ sự sống ấy. Con người không được phép dùng sự tự do của mình để huỷ diệt sự sống, để gieo rắc nền văn minh sự chết trong môi trường mình đang sống.

Lạy Đức Giêsu Mục Tử Nhân Lành, xin cho đời sống chúng con luôn chiếu toả hình ảnh Người Mục Tử của Chúa, luôn biết xây dựng và gieo rắc nền văn minh sự sống khởi sự từ chính cá nhân, trong gia đình và trong cộng đồng nhân loại chúng con. Amen

BẢN SẮC CỦA MỘT CỘNG ĐOÀN KITÔ GIÁO
Ga 10, 27 - 30
LM Nguyễn Hữu Thy

Mỗi thời đại và mỗi sắc dân có những hình ảnh tượng trưng riêng. Mỗi nhà văn hay mỗi vị giảng thuyết là đứa con của thời đại và của dân tộc mình đang sống, vì thế trong văn chương và trong ngôn từ của họ, họ xử dụng chính hình ảnh đó. Do đó, để hiểu được ngôn từ và các bản văn của họ, chúng ta cần phải tìm hiểu các hình ảnh tượng trưng đó : Các hình ảnh đó muốn nói lên ý nghĩa gì ? Những gì được dấu ẩn phía sau những hình ảnh đó ?

Bởi vậy, nếu trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu đã nói đến hình ảnh người mục tử và đoàn chiên, Người đã xử dụng chính những hình ảnh quen thuộc và thân thương đối với những khán thính giả của Người lúc bấy giờ ở các miền quê Pa-lét-ti-na, tương tự như cánh đồng lúa, con trâu hay chiếc cày đối với người Việt nam chúng ta. Ðây là những hình ảnh hoàn toàn tùy thuộc vào thời gian và không gian lúc bấy giờ. Nhưng nội dung các ý nghĩa mà Ðức Giêsu muốn trình bày qua các hình ảnh đó thì lại có giá trị vượt mọi biên giới của thời gian và không gian. Qua những hình ảnh đó thánh sử Gioan muốn nói lên bản sắc đích thực của cộng đoàn Kitô giao, tức sự hiệp nhất giữa Ðức Giêsu và cộng đoàn các tín hữu.

Thật vậy, trong khi đối chất với những người phê bình và những đối thủ của Người, Ðức Giêsu đã dùng tới hình ảnh người mục tử và đoàn vật, để nói lên tính chất gắn bó mật thiết giữa Người và các tín hữu, những « con chiên » thuộc về « đàn chiên » của Người và do Người chăn sóc. Một câu hỏi đã từng làm bận tâm vị thánh sử và cộng đoàn Kitô hữu là : Tại sao nhiều người Do-thái chối từ Ðức Giêsu và không tin nhận giáo lý của Người, mặc dù Người đã ngày đêm đi khắp mọi miền đất nước của họ để rao giảng Tin Mừng Cứu Ðộ cho họ, thương yêu và chữa lành mọi bệnh tật cho họ, cũng như Người đã không ngần ngại làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi sống họ ? Thánh sử Gioan chỉ tìm thấy một câu trả lời duy nhất, là : Bởi vì họ không muốn ! Bởi vì họ không chịu thoát ra khỏi cái bóng đen của chính mình và không chịu tin vào lời rao giảng và các việc làm của Người, những việc làm đã mặc khải cho họ biết Người là Ðấng nào.

Ðối với những người Do-thái đã từ chối không muốn tin nhận Người, Ðức Giêsu đã trình bày cho họ thấy được thái độ của các con chiên của Người : Chúng luôn biết nghe và đón nhận tiếng Người, nghĩa là chúng tin vào Người. Dĩ nhiên đức tin chân chính và sâu xa không dừng lại nơi sự tuyên xưng bằng môi miệng suông mà thôi, nhưng nó được chứng mình qua thái độ sống cụ thể : Luôn sẵn sàng cùng Ðức Kitô đồng hành trên con đường của Người !

Nhưng đức tin đó không hề là con đường một chiều thuộc về phía người tin, nhưng nó kiến tạo một tương quan hoàn toàn mới mẻ giữa Ðức Giêsu và các tín hữu của Người : Người lo lắng chăm sóc họ, Người biết rõ họ, Người tin tưởng họ và gắn bó mật thiết với họ. Người ban cho họ cuộc sống hạnh phúc trên nơi vĩnh cửu. Và những gì Người ban, Người cũng che chở bảo vệ như thể một kho báu vậy !

Ở đây, Ðức Giêsu hoàn toàn phó thác mọi sự nơi Cha Người, Ðấng ở trên Trời. Người và Chúa Cha là một ! Do đó, tất cả những gì Ðức Giêsu nói và hành động, Người đều nói và hành động với uy quyền của Thiên Chúa Cha ! Ðiều đó càng làm cho những lời rao giảng của Ðức Giêsu mang một giá trị tuyệt đối. Vì thế ai tin nhận Người, thì có thể chắc chắn được rằng mình cũng được chính Thiên Chúa công nhận và chấp nhận. Ngược lại, ai chối từ Ðức Giêsu, thì đương nhiên cũng « nói không » cùng chính Thiên Chúa. Như thế, vấn đề được đặt ra ở đây là sự cứu rỗi hay sự bất hạnh, sự sống hay sự tiêu diệt. Ðó là quan điểm của thánh sử Gioan về cộng đoàn Kitô giáo.

Vậy, ngày nay dựa theo quan điểm đó chúng ta có nhận thấy mình là cộng đoàn Kitô hữu nữa hay không ?

Ðức tin không phải là con đường một chiều. Ðức tin tạo nên sự thông hiệp với Ðức Kitô và với nhau. Phải chăng điều đó cũng là một thực tại trong cộng đoàn Ðức Kitô nơi chúng ta đang sống ? Phải chăng trong giáo xứ chúng ta thường đã mong đợi quá nhiều nơi những người khác, như nơi : Cha Quản Xứ, ban hành giáo xứ, các hội đoàn, các giáo lý viên, v.v..., nói tắt : nơi « những người có trách nhiệm » ? Còn đâu là sự đóng góp và sự dấn thân của mỗi người trong chúng ta cho cộng đoàn ? Chúng ta có sống đức tin của mình một cách đầy xác tín, hầu có thể trở nên nhân chứng cho Ðức Kitô giữa lòng đời hay không? Chúng ta có sống đức tin của mình sao cho người khác phải lưu ý và tìm hiểu tại sao chúng ta tin và chúng ta tin ai không ?

Qua Phép Rửa và nhờ đức tin tất cả chúng ta thuộc về một đại gia đình, gia đình Ðức Kitô. Nhưng gia đình này chỉ có thể tồn tại được nhờ vào sự cùng đồng trách nhiệm, sự tha thứ và lòng yêu thương trọn vẹn. Vì như Chúa đã phán : « qua đó thế gian sẽ nhận biết rằng, các con là môn đệ của Thầy » (Ga 13,35). Amen

NGHE BIẾT VÀ THEO CHÚA....
Ga 10, 27 - 30
Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

Hôm nay, Giáo hội mời gọi con cái mình chiêm ngắm Chúa Giêsu trong vai trò Người Mục tử chăn dắt đoàn chiên. Người Dothái vẫn luôn thắc mắc về "gốc gác" của Chúa. Chính vì thế, nhân lễ Cung hiến Đền thờ - một nghi lễ tẩy uế Đền thờ và khánh thành bàn thờ mới có từ thời Giuđa Macabê- họ đến gặp Người để chất vấn : "Ong còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Kytô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết". Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp câu hỏi của họ, trái lại, Người nhấn mạnh đến vai trò của người chăn chiên- một hình ảnh truyền thống về Đấng Mêsia của dòng dõi Đavít- đồng thời nhấn mạnh đến những con chiên được Chúa Cha giao cho Người.

"Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi". Những ai sống trong nghề mới hiểu được thế nào là sự gắn bó mật thiết giữa chủ chiên và đoàn chiên. Chúa Giêsu không chỉ đúc kết một kinh nghiệm gắn bó giữa người mục tử với đàn chiên, Người còn cho chúng ta thấy chính Thiên Chúa là Mục tử nhân lành và tất cả chúng ta là những con chiên được chở che, được yêu thương dưới cánh tay Người. Thiên Chúa là Đấng chăn chiên đích thực. Người đã dành cho đoàn chiên của mình bằng một tình yêu siêu vời, trong đó tất cả chúng ta dù tội lỗi xấu xa, dù tàn tật đui mù, dù đau khổ bệnh hoạn, dù nghèo nàn lạc hậu hay giàu sang phú quý,... tất cả đều chiếm một vị trí ưu tuyển trong trái tim Người.

"Chiên tôi thì nghe tiếng tôi". Nghe ở đây có nghĩa là gì? Trong thực tế, chúng ta thấy chiên là một loài động vật rất "nhạy" với tiếng của chủ. Nơi đồng cỏ, chúng có thể đi tứ tán khắp nơi, xen lẫn với các con chiên khác thuộc những chủ khác nhau để ăn uống, nhưng khi chiều về, chúng luôn nghe theo tiếng nói của chủ chăn để đi theo anh về chuồng mà không lạc sang bầy đàn khác. Cũng vậy, mỗi người chúng ta dù không cùng một giai cấp, màu da, ngôn ngữ, môi trường sống,... nhưng chúng ta đều có chung một tình yêu, một niềm tin vào Thiên Chúa. Chính vì thế, nghe tiếng Chúa là gì nếu không phải là lắng nghe tiếng nói của Người qua Lời Chúa hằng ngày; lắng nghe lời giáo huấn của Giáo hội qua các vị mục tử; lắng nghe tiếng nói của Chúa trong tận sâu thẳm tâm hồn mình,...

Một khi chúng ta lắng nghe tiếng của Chúa, hiểu thấu được thánh ý Người, hiệu quả tiếp theo sẽ là việc chúng ta được Chúa nhận biết. Được Thiên Chúa nhận biết nghĩa là chúng ta sẽ được kết hiệp cách mật thiết với Người. Điều này rất quan trọng. Lý do là vì tự sức mình, con người không thể nào kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa được nếu trước đó không biết lắng nghe và tuân giữ thánh ý Người. Thiên Chúa cho chúng ta được gắn bó cách mật thiết với Người qua người con Chí Ai là Đức Kytô - Đấng đã đến thế gian mặc lấy xác phàm nhân loại và vì yêu thương nhân loại, Ngài đã tự hiến chính mình, trở nên của lễ không chỉ dâng lên cho Chúa Cha mà còn trở nên Mình và Máu nuôi sống nhân trần. Như thế, cách thức mà Thiên Chúa nhận biết chúng ta chính là Người cho chúng ta được gắn kết với Người trong sự hiệp nhất trường tồn và huyền nhiệm.

Lắng nghe tiếng Chúa, được Người nhận biết và chúng ta đi theo Người. Có thể nói được rằng quá trình Nghe - Biết và Đi theo Chúa Kytô, chính là hành trình ơn gọi của mọi Kytô hữu. Thật vậy, chúng ta bước theo Chúa Kytô không chỉ bằng lời giáo huấn mà còn bằng cả cuộc đời hoạt động của Người nữa. Cùng đích của đời sống Chúa Kytô chính là tình yêu và thập giá và Người muốn mỗi người chúng ta bước theo Người trong chính hành trình ấy. Những ai bước đi trong hành trình ấy sẽ thấy rằng đó đây trên con đường đó vẫn còn nhiều chông gai thử thách, có cả máu và nước mắt. Nhưng đó lại là điều làm chúng ta an vui và tin tưởng bởi chính Chúa Kytô - vị Mục tử nhân lành, đã hứa ban cho chúng ta "sự sống đời đời" làm gia nghiệp.

Chúng ta tạ ơn Chúa vì Người đã ân ban cho chúng ta được gia nhập vào đoàn chiên của Chúa. Chúng ta tự hào vì mình thuộc về đoàn chiên mà Người Mục tử nhân lành không ai khác chính là Chúa Kytô. Xin cho mỗi người chúng ta luôn hân hoan bước theo Người trong mọi nơi, mọi lúc trên hành trình lữ thứ này để làm chứng cho tình yêu của Người.

CHÚA CHIÊN NHÂN LÀNH
Ga 10, 27 - 30
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT

Hình ảnh người chăn chiên, dẫn đàn chiên đi từ đồi này tới đồi nọ, tìm những cánh đồng cỏ xanh tươi bên những suối mát luôn thôi thúc con người hướng về một Vị Mục Tử nhân hiền:" Đức Kitô ". Ở Việt Nam, chúng ta ít thấy những đàn chiên, đàn cừu được người chăn đưa tới những cánh đồng cỏ, những hồ nước trong lành để chiên cừu ăn cỏ và uống nước thỏa thê. Tuy nhiên, qua nhiều bức tranh, chúng ta thấy hình ảnh người mục tử nhân lành vác chiên trên vai hoặc đang chăn, đang dẫn đàn chiên tới những cáh đồng cỏ xanh tươi, vượt đồi, vượt núi, gây nhiều ấn tượng khó phai cho những người chiêm ngắm tranh ảnh đó. Chúa nhật thứ IV phục sinh gợi lên rõ nét vai trò của vị mục tử nhân hiền là Đức Kitô:" Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi"( Ga 10, 27 ).

CHIÊN CỦA TÔI THÌ NGHE TIẾNG TÔI :
Một lần đi Nha Trang, xe tôi dừng ở Phan Rang, trên một cánh đồng, tôi thấy có một bầy chiên đang kíếm ăn trên một cánh đồng, đàng trước bầy chiên, một người chăn đang cầm một cây gậy để hướng chúng. Tôi ngắm nghía bầy chiên và lấy máy chụp hình ghi lại vài bức ảnh lưu niệm. Sau này, lâu lâu, tôi lật giở Album và nhìn ngắm những bức hình ấy. Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay thuật lại Thiên Chúa là chủ chiên nhân lành, Người biết rõ từng con chiên và con chiên cũng biết rõ Người. Thực ra, Thiên Chúa yêu thương từng con chiên nghĩa là từng người chúng ta bằng một tình yêu riêng biệt, Người không yêu chúng ta bằng một tình yêu chung chung, nhưng Người thương yêu mỗi người bằng con tim, bằng tình yêu vô biên của Người:" Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống cho người mình thương mến"( Ga 15, 13 ). Mỗi người, mỗi con người đều có một chỗ đứng trong trái tim của Người. Như đàn chiên đi ăn cỏ, uống nước luôn lắng nghe tiếng của chủ chiên dẫn dắt, hướng dẫn. Những con chiền cuối đàn và giữa đàn luôn chăm chú đi theo con đầu đàn. Chúng ta là chiên của Chúa, chúng ta nghe tiếng Chúa, biết Chúa và theo Chúa. Nghe Chúa là nghe lời Chúa nói trong Kinh Thánh, qua Giáo Lý, qua các lời giáo huấn của Hội Thánh và tiếng nói thiêng liêng tự tận cõi lòng của con người. Nghe Chúa là tạo nên mối giây thân tình mật thiết với Chúa, và tin vào Người. Biết Chúa không có nghĩa là biết qua loa, sơ sơ, bên ngòai nhưng là đi vào cõi lòng, đi vào mối thâm sâu tình yêu của Người. Theo Chúa là bước đi con đường của Người, là từ bỏ con người cũ, mặc lấy Đức Kitô.

NGHE CHÚA, BIẾT CHÚA VÀ THEO CHÚA ĐỂ ĐƯỢC NHỮNG GÌ ?:
Như bầy chiên đi trên những đồi núi đến những cánh đồng cỏ xanh tươi, đến những suối nước mát trong lành để ăn cỏ, uống nước và nghỉ ngơi. Tất cả những con chiên trong đàn đều lắng nghe tiếng chủ chăn dắt, biết rõ lệnh của chủ và đi theo sự hướng dẫn của chủ. Thiên Chúa là vị mục tử duy nhất, nhân hậu đã trả lời cho những ai muốn đi theo Người:" Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi"( Ga 10, 28 ). Vâng, đòan chiên đi theo chủ chiên, chắc chắn những đồng cỏ xanh và những dòng suối mát trong lành sẽ là đích điểm để chiên đi tới, vì vị mục tử Giêsu, chủ chiên duy nhất đã tự giới thiệu:"Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống". Chúa Giêsu ban cho nhân lọai, ban cho con người, ban cho mỗi người sự sống vĩnh hằng, nhưng còn bảo đảm sự sống ấy không ai có thể giựt mất được.

Chúa Con là Chúa Giêsu ban cho ta sự sống đời nhưng cả Chúa Cha cũng bảo đảm, giữ gìn chúng ta trong bàn tay và con tim yêu thương của Người:" Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một"( Ga 10, 29-30 ).Chúa Cha và Chúa Con luôn bảo vệ, giữ gìn và che chở chúng ta.

MỖI NGƯỜI CHÚNG TA ĐƯỢC MỜI GỌI YÊU MẾN CHỦ CHIÊN:
Thiên Chúa là Cha tình thương đã trao cho Con của Ngài là Đức Giêsu đòan chiên yêu quý. Chúa Giêsu đã yêu thương đòan chiên của mình như Chúa Cha đã yêu thương từng con chiên. Bổn phận của mỗi người chúng ta là phải yêu mến, tôn kính và hiếu thảo với Chúa Cha và Chúa Con. Đức Giáo Hòang, các Giám Mục, các Linh Mục là những vị lãnh đạo tôn giáo Chúa trao ban sứ mạng coi sóc đòan chiên của Chúa dưới trần gian này. Chúng ta phải hết lòng tôn kính, mến yêu và cầu nguyện cho các Ngài. Đặc biệt các Cha Sở và Cha phó là những vị mục tử trực tiếp coi sóc đòan chiên của Giáo Xứ. Các Ngài luôn muốn đòan chiên và từng con chiên của mình được ăn uống no nê để có sức phục vụ và sống tốt đẹp làm tôi Chúa. Chúng ta phải hết lòng yêu mến, hiếu thảo, giúp đỡ các Ngài và cầu nguyện cho các Ngài.

Hình ảnh Chúa chiên nhân từ vác con chiên lạc trên vai đang khi những con chiên khác ngoan ngõan bước theo chân Người, luôn là mẫu gương sống động giúp ta tiến trên đường đức tin, dẫn ta tới những đồng cỏ xanh rì và những dòng suối mát trong lành là Quê Trời mai sau. Chúng ta sốt sắng cầu nguyện xin Chúa ban cho có nhiều thanh niên, nam nữ quảng đại dấn thân tận hiến cho Chúa trong sư mạng mục tử coi sóc đàn chiên và sứ mạng làm chứng cho Chúa trong đời sống tu dòng. Amen.

CHIÊN TÔI THÌ NGHE, BIẾT VÀ THEO TÔI
Ga 10, 27 - 30
Lm Phêrô Phan Văn Lợi

Chúa nhật thứ tư Phục sinh mỗi năm trở lại như là ngày của Mục tử và của ơn gọi, đặc biệt ơn gọi linh mục và tu sĩ. Trong cả ba năm, sách bài đọc Tin Mừng luôn công bố một đoạn lấy từ chương 10 thánh Gioan. Trong đoạn ngắn được phụng vụ hôm nay cắt từ chương đó, tương quan giữa Mục tử Giêsu và đoàn chiên Giáo Hội được xác định dựa trên một loạt động từ và kiểu nói đặc trưng: nghe, biết, theo, ban sự sống đời đời, không diệt vong, không cướp được.

1. Lắng nghe Mục tử và Cha Người

Qua chùm từ ngữ này, được liên kết với nhau bởi một sợi chỉ thiêng liêng sáng ngời, có thể xây dựng câu chuyện toàn bộ về ơn gọi kitô hữu. Ơn gọi này xuất phát từ một tiếng nói vang lên bên ngoài chúng ta: "Những kẻ không tìm Ta, lại được gặp Ta; những kẻ không hỏi Ta, Ta đã xuất hiện cho chúng thấy" (Rm 10,20). Ơn Thiên Chúa đi trước mọi toan tính cá nhân và phá vỡ sự im lặng của tâm thức, y như lời sáng tạo của Người đã phá vỡ sự im lặng của hư vô vậy. Do đó con người phải "lắng nghe"; và chúng ta biết rằng trong ngôn ngữ Kinh Thánh, động từ này chất chứa nhiều âm vang cũng như bao hàm việc gắn bó, vâng phục, chọn lựa sự sống.

Nhưng trước khi lắng nghe Đức Kitô, cần phải nhắm mắt một chút. Như vừa thấy, một giọng nói muốn thấu đến chúng ta. Không những từ bên trên những tiếng động của cuộc đời mà cả từ bên trên những xì xào phù phiếm hay xấu xa của con tim chúng ta.

Ngay trước lời khẳng định đầy âu yếm của mình, "chiên của tôi thì nghe tiếng tôi", Đức Giêsu đã có với người Do thái một cuộc trao đổi gay gắt: "Nếu ông là Đấng Kitô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết! - Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin". Người đã không nói với những từ mà trong bầu khí đầy xúc cảm của một cuộc tranh luận, rất có thể bị giải thích sai lạc, song đã nói qua mọi hành vi của mình: "Những việc tôi làm làm chứng cho tôi".

Giờ đây Đức Giêsu nói với chúng ta qua các chữ của Tin Mừng, nhưng cũng tiếp tục nói qua các hành vi và qua chính bản chất Con Thiên Chúa của Người nữa. Chỉ cần mở một cuốn Tin Mừng ra, ai nấy đều có thể thấy và nghe Người, tuy nhiên lắm kẻ vẫn mù quáng và điếc đặc.

Vì có một khó khăn trong vấn đề nghe. Thánh Gioan bảo ta rằng chẳng phải những "dấu chỉ" (các phép lạ) hay các từ ngữ làm chúng ta gắn bó sâu xa với Đức Giêsu. Phải có một kiểu trong sáng của con mắt và lỗ tai, tự do của trí óc, sẵn sàng của quả tim. Đến cùng Người với nhiều ý tưởng làm sẵn, với lắm tâm tình tiêu cực, sẽ có nguy cơ biến độc giả Tin Mừng thành một kẻ nhìn mù quáng và kẻ nghe điếc lác. Chỉ duy những kẻ rất sẵn sàng mới nhận được tác động của con người ấy, mới thật sự nghe được tiếng nói ấy.

Vậy là phải tin để tin? Phải được chinh phục trước? Chúng ta đã suy ngắm mầu nhiệm này bao lần rồi. Chúng ta biết phải chú ý đến độ nào tới ơn lôi kéo đến cùng Đức Kitô và phải tích cực đến độ nào để khai thác ơn ấy. Công việc nội tâm kép này biến ta thành "một con chiên nghe tiếng Người". Lúc ấy, các dấu chỉ trở nên rõ ràng, và lời Người mở lòng ta đón nhận đức tin. Chúng ta biết nghe Người vì chúng ta "theo Người".

Khi nghe tiếng Người, chúng ta nghe một tiếng khác, tiếng của Chúa Cha: "Chúa Cha và tôi là một". Vốn sắp làm cho người Do thái giận dữ ("Họ lấy đá để ném Đức Giêsu", c.31), khẳng định này đẩy chúng ta vào trong một thái độ lắng nghe đầy kinh ngạc thán phục: khi Đức Giêsu nói, thì chính tiếng nói của Chúa Cha thấu đến chúng ta! Có lẽ chính trong thánh lễ Giáng Sinh mà ta đọc được bản văn đẹp nhất về vấn đề này: "Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử mà Người đã nhờ để dựng nên vũ trụ" (mở đầu thư Do thái).

Chớ bao giờ quên điều rất chắc chắn này: trong các lời của Đức Giêsu rung lên sự thật của Thiên Chúa và lòng âu yếm của Thiên Chúa. Nhưng Người cũng có nhiều đòi hỏi đấy chứ? Đúng! song chúng ta có tin Thiên Chúa là tình yêu chăng? Nếu tin thì, vì Đức Giêsu là tiếng nói của tình yêu ấy, ta có thể đón nhận các đòi hỏi ấy như thành phần của cùng sứ điệp tình yêu.

2. Hiểu biết và bước theo

Bấy giờ mới thiết lập một mối hiệp thông thân mật và sâu xa giữa Đức Kitô và môn đệ; mối hiệp thông này được xác định bởi một từ Kinh Thánh quan trọng: "biết". Sự hiểu biết này bao gồm trí tuệ, trái tim, hành động và ở sâu bên trong con người đến độ trở thành trên miệng Đức Giêsu của Gioan chính định nghĩa về sự sống đời đời: "Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai là Giêsu Kitô" (17,3). Con người đã nghe, làm cho mình được Thiên Chúa nhận biết và đã nhận biết Thiên Chúa thì "theo" Đức Kitô như Mục tử độc nhất của mình. Việc bước theo này phải là thường nhật và liên tục, kể cả khi ở chân trời thấp thoáng bóng chó sói sẵn sàng cấu xé thịt ta và dày vò hồn ta. Trong giây phút đó xuất hiện trong tâm trí chúng ta hai động từ khác của đoạn về Mục tử: chúng ta sẽ không bao giờ "diệt vong" và chẳng ai có thể "cướp" chúng ta khỏi bàn tay chắc chắn và toàn năng của Đức Kitô được.

Sự an toàn này dựa trên thần tính của Đức Kitô, Đấng vốn "làm một với Chúa Cha": thật thế, ngay từ trong Cựu Ước đã có tuyên bố về Thiên Chúa rằng "không ai có thể giật cái gì khỏi bàn tay của Người được" (x. Is 43,13). Sự an toàn này được diễn tả rõ ràng bởi Phaolô trong một thánh thi đặt vào cuối thư Rôma chương 8: "Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta" (8,38-39). Niềm thanh thản này cũng được xác nhận bởi một con người mới thoạt nhìn xem ra như bị nuốt chửng trong miệng sự dữ. Đó là Rosanna Benzi, một phụ nữ bị giam mình ngay từ tuổi trẻ trong buồng phổi thép. Từ nơi đó cô đã làm báo, viết sách, an ủi nhiều người và đã nói lên câu này: "Tôi bằng lòng, tôi hãnh diện vì đã không để mình bị đánh bại. Tôi chẳng có gì tiếc nuối. Tôi lặp lại rằng tôi hạnh phúc vì đã sống 20 năm nay và sẵn sàng sống những năm tháng còn lại cách bình thản. Bình thản và vui tươi!"

Mục tiêu ơn gọi kitô hữu, thật thế, không tối tăm hay bất định nhưng nằm trong câu cuối cùng được Mục tử Giêsu thốt lên: "Tôi ban cho chúng sự sống đời đời". Trong ngôn ngữ Gioan, "sự sống đời đời" không ám chỉ một khoảng thời gian vô tận, một sự bất tử của linh hồn như lời dạy của các triết gia Hy lạp, nhưng trái lại là chính sự sống thần linh, là mối hiệp thông cuộc sống, bình an, hữu thể với chính Thiên Chúa. Lắng nghe Thiên Chúa nơi Đức Giêsu chắc chắn là dấn thân trên những con đường khó khăn nhưng dẫn đến sự sống: "Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; chúng theo tôi và tôi ban cho chúng sự sống đời đời".

Việc mô tả cách biểu tượng kinh nghiệm này được thấy trong bài đọc hai hôm nay (Kh 7,9.14-17), bài đọc làm sáng lên trong trí chúng ta một bức tranh hoành tráng. Trong bức tranh đó, đoàn lũ đông đảo các môn đệ thuộc mọi miền, mọi thời và mọi nền văn hóa của hành tinh chúng ta không còn đói khát, không còn bị tổn thương bởi các biến động của thiên nhiên và lịch sử, không còn nếm biết vị đắng của nước mắt, không còn phải uống thuốc độc của thần chết, vì Thiên Chúa đã ban cho mọi tín hữu của Người "nguồn nước trường sinh".

Đó là lúc hiệp thông trọn hảo với Thiên Chúa, bỏ lại sau mình thời gian trong đó họ đã phải đắm chìm trong máu của thử thách, của đau khổ và của gian truân vì tham dự vào cuộc khổ nạn của Đức Kitô. Giờ đây họ khoác lên y phục sáng chói như của thiên thần trong ngày Chúa sống lại (x. Lc 24,4). Từ đây họ ở trong niềm vui và trên họ căng ra chiếc lều đầy sao của bầu trời, hình ảnh Đền thờ thiên quốc hoàn hảo trong đó Thiên Chúa sẽ hiện diện, hiện diện không như một phản ảnh cần chiêm ngắm trong một tấm gương, nhưng tỏ tường, diện đối diện (x. 1Cr 13,12).

CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH
Ga 10, 27 - 30
Lm Augustine, S.J

Một hôm có người bố đến dự cuộc hội thảo dành riêng cho các bậc làm cha và các giáo viên tại một trường trung học ở thành phố Chicago của Hoa Kỳ. Khi nói chuyện với một giáo viên từng dạy con trai ông, người bố bỗng rưng rưng hai hàng lệ. Sau khi lấy lại bình tĩnh, ông ngỏ lời xin lỗi và nói: "Con trai tôi hiện không còn chung sống với tôi nữa, nhưng tôi vẫn yêu quí nó và muốn biết nó hiện học hành ra sao."

Tại sao bị vợ con bỏ.

Ông bố cắt nghĩa lý do tại sao vợ ông và bốn đứa con đã lìa bỏ ông. Ông là một nhà thầu lo việc xây dựng. Có thời gian ông bận rộn làm việc tới 16 tiếng đồng hồ một ngày. Trong hoàn cảnh đó ông ít khi có giờ gặp gỡ vợ con. Và ông buồn bã nói tiếp:

"Tôi rất ao ước sắm sửa cho vợ con mọi thứ mà tôi từng mơ ước trao tặng cho họ. Nhưng vì mải mê công việc làm ăn, tôi không quan tâm tới điều mà các con tôi lấy làm cần thiết hơn cả: đó là chúng cần một người cha thường xuyên gần gũi để yêu thương và nâng đỡ chúng."

Người bố trong câu chuyện nói trên đã rưng rưng hai hàng lệ vì chính ông nêu vấn đề đụng chạm tới bề sâu nơi con người ông. Tình yêu đã là động lực khiến ông chọn kết hôn với một người bạn gái. Hai người đã chung sống đời vợ chồng và đã sinh được bốn người con. Nhưng chỉ vì mải mê công việc làm ăn nên ông đã không dành đủ phần quan tâm cần thiết cho vợ con. Kết quả là vợ ông và bốn đứa con đã lìa bỏ ông. Họ không còn ở trong tầm tay ông nữa. Ông đau khổ trước sự mất mát quá lớn. Bởi lẽ những con người ruột thịt của ông mà nay không còn thuộc về ông nữa.

Bài Tin Mừng hôm nay cũng đề cập tới vấn đề nơi bề sâu của con người Đức Giêsu. Người không những cho biết những ai thuộc về Người mà còn cho biết chính Người thuộc về ai?

Khởi sự tác giả Gioan đặt ta vào bối cảnh lễ Cung Hiến Đền Thờ của người Do Thái, trong đó Đức Giêsu cho thấy chính Người là Vị Cứu Tinh Mêsia (Ga 10, 22-31) và là Con Thiên Chúa (cc. 32-39).

Lễ cung hiến Đền Thờ là dịp để người Do Thái mừng chiến thắng vẻ vang do anh em dòng họ Macabê mang lại. Đó là cuộc chiến thắng để rửa nhục cho Israel. Suốt ba năm (167-164 trước CN) quân Syria đã xâm chiếm lãnh thổ dân Thiên Chúa. Họ đã làm cho Đền Thờ ra ô uế bằng cách dựng tượng thần Ba-an ngay trên bàn thờ nơi dân Israel thường dâng của lễ toàn thiêu cho Giavê Thiên Chúa (1Mcb 1, 54; 2Mcb 6, 1-7). Đầy lòng căm phẫn, tướng Giuđa Macabê đã nổi dậy đánh đuổi quân Syria và thiết lập một bàn thờ mới. Bàn thờ này cùng với Đền Thờ đã được tái cung hiến (1Mcb 4, 41-61) với lễ kỷ niệm được cử hành mỗi năm.

Hiến dâng bản thân làm bàn thờ

Điều mà tác giả Gioan ám chỉ là: chính Đức Giêsu hiến dâng bản thân Người làm bàn thờ. Điều đó Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo dạy rất rõ khi nói: Bàn thờ là nơi mà Giáo Hội được quy tụ lại; đó chính là "biểu tượng về Đức Kitô hiện diện giữa cuộc tập họp của những ai tin theo Người: Đức Kitô vừa là lễ vật hy sinh được dâng để ta được giao hoà, đồng thời Người còn là của ăn từ trời cao tự hiến để nuôi ta." (số 1383).

Riêng đoạn Tin Mừng Ga 10, 22-29 cho thấy tột đỉnh của những cuộc tranh cãi giữa Đức Giêsu và người Do Thái. Đây là cuộc tranh cãi chót khiến giới hữu trách Do Thái quyết tâm bắt Đức Giêsu. Màn Tin Mừng này chia làm hai; ở giữa là biến cố người Do Thái toan tính ném đá Đức Giêsu.

C. 22 đặt ta vào bối cảnh của lễ Cung Hiến Đền Thờ vào trung tuần tháng 12, kéo dài 8 ngày.

C. 23 định vị cuộc tranh luận gay cấn diễn ra nơi hàng hiên hình thang khổng lồ bao quanh Đền Thờ Giêrusalem. Hàng hiên này ở phía thung lũng Khê-ron quen gọi là hàng hiên Salomon, có lẽ vì cổ kính nhất nên được kể như do chính vua Salomon xây dựng.

C. 24 nối lại việc Đức Giêsu đã từng khẳng định rằng Người là Đức Kitô và là Con Người. Những người như chị phụ nữ người Samari (Ga 4, 25-26) hay như anh mù từ thuở mới sinh (Ga 9, 36-37), đều là những cá nhân sẵn sàng đón nhận Đức Giêsu là vị Thiên Sai. Còn ở đây, ngược lại, Đức Giêsu bị bao vây và bị thách đố do những con người đến với ý đồ để bắt bớ Người mà thôi.

C. 25 Đức Giêsu vạch cho người Do Thái thấy nguồn gốc của mọi sự là CHA. Do đó Người đòi hỏi ai nấy phải bày tỏ một niềm tin tuyệt đối bằng cách thuộc về Người để có thể qui về Cha là nguồn gốc của họ.

C. 26 Khi Đức Giêsu của sách Tin Mừng Gioan nói với người Do Thái rằng "các ông không tin tôi vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi," Người ám chỉ về một cộng đoàn hết sức cụ thể, đó là cộng đoàn Kitô hữu dưới sự chăm sóc của Gioan. Cộng đoàn ấy gắn bó mật thiết với Đức Giêsu và được tách biệt khỏi những người không thuộc về Đức Giêsu. Cộng đoàn ấy biết mình sống dưới sự che chở của Đức Giêsu và của CHA Người, cho nên mọi người trong cộng đoàn đều được an tâm vững dạ.

Thuộc về ai

CC. 27-28 đối chiếu cách ăn ở trung tín của các chiên dưới sự lãnh đạo của Đức Giêsu Mục Tử, ngược hẳn lại với thái độ cứng tin của người Do Thái. Ở đây Đức Giêsu nhắc lại "tính cách thuộc về" của các chiên đối với Người: chúng nghe tiếng Người (Ga 10, 3-16); chính Người biết rõ các chiên của Người (cc. 3, 14); chúng theo Người (cc. 10,4) và Người ban cho chúng sự sống đời đời (10, 9-10).

CC. 29-30 cho thấy các chiên được an toàn dưới sự chăm sóc của Đức Giêsu là vị mục tử nhân hậu như Người đã thưa với Cha "Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất" (Ga 17, 12). Cha là Đấng đã ban chúng cho Người. Vì Người và Chúa Cha là một nên không ai cướp được chúng khỏi Người, bởi lẽ Chúa Cha thì lớn hơn tất cả, nên không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha.

C. 31-39 cho thấy giữa bối cảnh thù địch của người Do Thái, Đức Giêsu vẫn tiếp tục tự mạc khải và tự hiến mình cho họ và cho mọi người:

- Chính Chúa Cha thánh hiến Người và sai Người đến thế gian (c.36). Thân Thể Đức Kitô phục sinh chính là nơi Thiên Chúa hiện diện và tỏ mình cho loài người (Ga 1, 14). Đó là nơi loài người có thể thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và trong Sự Thật (Ga 4,23-24). Cho nên Đức Kitô mới thực sự là Đền Thờ được cung hiến cho Thiên Chúa một cách hoàn hảo và trọn vẹn.

- Đức Kitô đòi mọi người tin vào các việc Người làm (c.38). Các việc ấy bao gồm toàn bộ công trình cứu độ do Người thực hiện: Người đến là để mạc khải cho nhân loại biết Chúa Cha; nơi Người chính Chúa Cha cũng tự mạc khải (c. 38).

Tất cả được nên một

Vậy bài Tin Mừng hôm nay tuy chỉ là một đoạn văn ngắn nhưng đã là một bước chuẩn bị cho lời cầu xin nơi bữa Tiệc Ly, khi Đức Giêsu thưa với Chúa Cha: "Con xin thánh hiến chính mình con cho họ, để nhờ sự thật họ cũng được thánh hiến" (Ga 17, 19). Và trong bữa Tiệc Ly ấy, Đức Giêsu còn cho biết Người không chỉ cầu xin cho Mười Hai tông đồ mà thôi "nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào Con, để tất cả nên một, như, lạy CHA, Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta." (c. 20-21).

Trở lại với người bố rưng rưng hai hàng lệ trong câu chuyện nói trên. Người bố ấy đau khổ vì vợ ông và bốn con ông là những người ruột thịt của ông mà nay không còn thuộc về ông nữa! Bài Tin Mừng hôm nay cũng nói tới mối tương quan thâm sâu là mối tương quan khiến cho người này cảm thấy mình thuộc về người kia, nhưng với Đức Giêsu mối tương quan ấy có cơ sở thực là vững vàng:

- Trong Cựu Ước, ngôn sứ Êdêkien đã từng mô tả Giavê Thiên Chúa là vị Mục Tử lý tưởng: "Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta... Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ bồi dưỡng; con nào mập béo, con nào khỏe mạnh, Ta sẽ canh chừng." (Ed 34, 15-16). Trong Tin Mừng của Gioan, chính Đức Giêsu tự mô tả mình là vị Mục Tử lý tưởng đó với điều đặc sắc là: Người biết các chiên của Người để chăm sóc và yêu thương chúng vì chúng thuộc về Người; chính Người ban cho chiên của Người sự sống đời đời (c. 28). Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.

Mối tương quan giữa Đức Kitô và các chiên của Người thực sự vững vàng đến nỗi Người khẳng định rằng "không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi" (c. 28). Lý do "vì Tôi và Chúa Cha là một" (c. 30) mà Chúa Cha "lớn hơn tất cả" thì còn có ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha đâu!

CHIÊN TA THÌ NGHE TIẾNG TA
Ga 10, 27 - 30
Lm Nguyễn Hùng

Tại Ấn Độ người ta bắt khỉ bằng cách làm một hộp gỗ chắc chắn, cắt một lỗ nhỏ vừa đủ cho con khỉ thò tay vào, nhưng nếu nó nắm trong tay hột "nut" đựng trong hộp, nó không thể lấy tay ra được. Do đó con khỉ có thể chọn một trong hai việc: nó có thể buông hạt "nut" ra và ra đi tự do, hoặc chịu bị bắt. Nhưng con khỉ thường nắm chặt lấy hạt "nut". Khả năng lựa chọn nói lên quyền tự do, tuy nhiên con khỉ không có trí khôn nên không hiểu biết và quí trọng tự do.

Trong tình yêu thương Thiên Chúa đã lựa chọn con người để cho họ được chia sẻ sự sống đời đời. Bối cảnh của đoạn Phúc âm ngắn hôm nay là Chúa đang nói chuyện với người Do Thái trong khi đi dạo tại đền thờ Giêrusalem. Họ trách Chúa Giêsu sao lại để họ nghi nan, thắc mắc Chúa có phải là Đấng Thiên Sai không. Chúa không trả lời trực tiếp cho họ, nhưng nói rằng: "Chiên của ta thì nghe tiếng ta" ta biết chúng và chúng theo ta. Ta ban cho chúng sự sống đời đời" không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay ta. Cha ta, Đấng đã ban chúng cho ta, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Ta và Chúa Cha là một."

Chúa Giêsu muốn nói cho người Do Thái biết đức tin vào Ngài là dấu hiệu của người được Chúa tuyển chọn, là chiên của Ngài. Đức tin ban cho con người khả năng nhận ra tiếng Chúa để bước theo. Loài chiên có đôi mắt rất kém, cận thị nặng, nếu có kính chắc phải dày hơn đế chai. Vì thế nó phải theo nhau thành đoàn, và lắng nghe tiếng người chăn chiên mà theo, không theo tiếng người lạ. Ngày nay đức tin nơi nhiều người Kitô hữu đang bị phai nhạt, giảm sút. Sống trong xã hội hưởng thụ vật chất, ưa tìm an nhàn, vui sướng, người ta muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống để thoải mái chạy theo những ước muốn bất chính tự nhiên của con người. Người ta dùng nhiều lý do để bào chữa cho tội lỗi mình, để khỏi phải thống hối và dứt bỏ cảm giác thoải mái do cuộc sống bất chính đem lại. Con người đang dùng tự do của mình để chối bỏ Thiên Chúa, không muốn lắng nghe tiếng Ngài là Đấng Chăn Chiên tốt lành.

Hậu quả của việc chối bỏ Thiên Chúa dẫn đưa con người đến đâu? Nhìn vào xã hội ngày nay, con người ai cũng tham sống, muốn sống lâu, sống bảo đảm về vật chất, về tinh thần. Thế nhưng cái chết vẫn có thể chụp bắt bất cứ ai, từ em bé sơ sinh, nàng thiếu nữ, chàng thanh niên tuổi xuân phơi phới, cho đến cụ già râu tóc bạc phơ. Biết bao nhiêu thay đổi biến chuyển trong cuộc đời khiến con người điên đảo, hụt hẫng, thất vọng đến lao đầu vào cái chết" chỉ trong một lúc, người giầu có với vợ đẹp con khôn có thể mất đi tất cả những điều đó. Khi chối bỏ Thiên Chúa con người chỉ đi đến chỗ diệt vong, vì chỉ một mình Ngài có đủ bản lãnh ban cho chúng ta cuộc sống đời đời, cuộc sống bảo đảm không bị ai cướp đi mất.

Mùa Phục Sinh là thời gian đón mừng sự sống thần linh, vĩnh cửu mà Chúa Kitô đã đem lại cho con người. Sự sống đó chỉ dành cho những ai lựa chọn nghe theo tiếng Chúa, sống theo sự hướng dẫn của Tin Mừng, của Chúa Kitô chịu tử giá và phục sinh. Tiếng Chúa đang kêu mời chúng ta bỏ đi lối sống gian dối, lừa đảo để được mối lợi vật chất, bỏ đi mối tình ngang trái, vụng trộm chỉ đưa đến bất hạnh, tan nát gia đình, bỏ đi gói thuốc, chai rượu, những đêm thâu bên canh bạc, bỏ đi hận thù, ganh ghét, nói xấu, chửi bới, đánh đập nhau... và còn biết bao điều bất hạnh khác mà chúng ta có thể đang mắc phải. Bỏ đi được những điều đó chúng ta mới có thể bước theo Chúa Kitô và tìm thấy cuộc sống đời đời và bảo đảm không bị mất.

CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH
Ga 10, 27 - 30
Lm JK

1. Người mục tử phải thật sự yêu thương đàn chiên

Đọc bài Tin Mừng, ta thấy ngay sự quan hệ tốt đẹp, đầy yêu thương, và gắn bó đến mức sống chết với nhau giữa mục tử và đàn chiên. Quan hệ ấy quả là gương mẫu tuyệt vời cho mọi quan hệ ở trần gian này giữa các vị mục tử và những giáo hữu mà các ngài có trách nhiệm chăm sóc. Quan hệ giữa mục tử và giáo hữu có tốt đẹp hay không tùy thuộc vào cả hai phía, nhưng bình thường thì chủ yếu và tiên khởi vẫn thuộc về phía mục tử.

Đức Giê-su nói: «Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong, và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi». Tại sao chiên lại nghe và theo người mục tử, mà không nghe và theo người lạ hay kẻ trộm? Chính vì đàn chiên đã cảm nhận được tình yêu thương đậm đà mà người mục tử dành cho chúng. Để là mục tử đúng nghĩa, điều quan trọng là phải có tình yêu đối với những người mà Thiên Chúa trao trách nhiệm cho mình chăm sóc. Điều này đòi hỏi người mục tử phải yêu mến Thiên Chúa hay Đức Giê-su thật sự và nồng nàn.

Chắc chắn không phải là không có ý nghĩa việc Đức Giê-su, trước khi giao cho Phê-rô trách nhiệm coi sóc đàn chiên của Ngài, đã phải hỏi ông tới ba lần: «Này anh Si-mon, con ông Gio-an, anh có mến Thày hơn các anh em này không?». Thật vậy, có yêu Thiên Chúa là nguồn mạch tình yêu, có yêu Đức Giê-su nồng nàn thì mới có đủ tình yêu cần thiết để hy sinh cho đàn chiên như nhu cầu thực tế của đàn chiên đòi buộc. Người mục tử có thật sự yêu thương đàn chiên, thì đàn chiên mới cảm nhận được tình yêu người mục tử dành cho họ, để dựa vào đó họ tin tưởng và nghe theo người mục tử. Người mục tử sẽ chẳng làm được gì ích lợi cho đàn chiên nếu đàn chiên không tin tưởng và không vâng nghe lời người mục tử.

Tóm lại, muốn đàn chiên tin tưởng và nghe theo mình, người mục tử phải thật sự yêu thương đàn chiên.

2. Tình yêu của người mục tử phải được biểu lộ bằng hành động.

Làm sao bổn đạo có thể cảm nhận được tình yêu của mục tử đối với mình, nếu người mục tử không có những hành động cụ thể biểu lộ tình yêu ấy? Đức Giê-su đã đưa ra những hành động cụ thể của Ngài, với tư cách là Mục Tử tốt lành như sau:

- Trước hết là «tôi biết chúng» (Ga 10,27), và có thể «gọi tên từng con» (10,3). Nếu người mục tử yêu thương chiên của mình thật sự, thì sẽ phải chú ý đến nhu cầu của từng con chiên một, để chăm sóc chúng, để đáp ứng đúng nhu cầu của từng con. Tôi biết có những linh mục thường xuyên đi thăm các gia đình trong họ đạo, và biết rõ tên của từng người trong từng gia đình, cùng với hoàn cảnh và nhu cầu của từng người, từng gia đình một. Người bổn đạo sẽ cảm nhận được tình thương của người mục tử ngay khi thấy ông gọi trúng tên mình, biết rõ hoàn cảnh của mình, và đáp ứng kịp thời đúng nhu cầu của mình.

- «Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào» (10,10), «Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi» (10,28). Người mục tử tốt lành luôn quan tâm đến sự sống, hạnh phúc và sự an nguy của đàn chiên, nhất là đời sống tâm linh. Nhưng ông không chỉ quan tâm đến đời sống tâm linh, mà còn quan tâm đến cả đời sống thực tế của đàn chiên. Đức Giê-su luôn luôn quan tâm đến nhu cầu vật chất của dân chúng: chẳng hạn trong phép lạ hóa bánh ra nhiều: «Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?» (Ga 6,5), hay sau khi làm cho đứa con gái ông Gia-ia (trưởng hội đường) chết sống lại, thì Ngài «bảo họ cho con bé ăn» (Mc 5,43).

- «Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên» (Ga 10,11). Không người mục tử nào ngu dại đến nỗi coi sự sống của đàn chiên quí hơn mạng sống mình, trừ trường hợp đàn chiên ở đây không phải là thú vật, mà là những con người, là hình ảnh Thiên Chúa hay con cái Thiên Chúa, hay nói cách khác là hiện thân của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa cũng đã yêu thương con người đến nỗi đã sẵn sàng hy sinh Con Độc Nhất của mình cho con người (x. Ga 3,16). Người bổn đạo đối với người mục tử không phải chỉ là những con chiên mà là những linh hồn hết sức quí giá, đáng cho người mục tử hy sinh mạng sống mình vì họ. Thái độ này khác hẳn với thái độ của người làm thuê, hay mục tử giải được biểu lộ bằng hành động hiệu, là «khi thấy sói đến thì bỏ chiên mà chạy (...) không thiết gì đến chiên» (Ga 10,12-13).

3. Những mục tử xấu, giả hiệu

Thánh Kinh không chỉ nói đến những mục tử tốt lành, nhưng còn nói đến những mục tử giả hiệu - mà Đức Giê-su ví như bọn chăn chiên thuê - chỉ biết nghĩ đến mình, nghĩ đến sự an nguy, quyền lợi hay hạnh phúc của mình, chỉ biết rút ra những lợi lộc từ đàn chiên, mà không nghĩ gì đến quyền lợi hay hạnh phúc của đàn chiên. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a viết: «Khốn thay những mục tử làm cho đàn chiên Ta thất lạc và tan tác (...) các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm đến chúng» (Gr 23,1-2). Ngôn sứ Ê-dê-ki-en viết: «Khốn cho các mục tử Ít-ra-en, những kẻ chỉ biết lo cho mình! (...) Sữa chiên thì các ngươi uống, len của chúng thì các ngươi mặc, con nào béo tốt thì các ngươi giết, và chẳng thèm lo chăn dắt đàn chiên. Chiên đau yếu các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương các ngươi không băng bó; chiên bị lạc các ngươi không đưa về; chiên bị mất các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc. Chiên của Ta tán loạn vì thiếu mục tử và biến thành mồi cho mọi dã thú, khiến chúng bị tán loạn. Chiên của Ta tản mác trên các ngọn núi, trên mọi đỉnh đồi, trên khắp mặt đất, thế mà chẳng ai chăm sóc, chẳng ai kiếm tìm» (Ed 34,2-6). Thiên Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Ê-dê-ki-en để nguyền rủa loại mục tử này: «Bởi các mục tử chỉ biết lo cho mình mà không chăn dắt đàn chiên của Ta, nên hỡi các mục tử! Đây Ta chống lại các ngươi. Ta sẽ đòi lại chiên của Ta, Ta sẽ không để các ngươi chăn dắt chiên Ta nữa (...) để chiên của Ta không còn làm mồi cho chúng nữa» (Ed 34,8b-10).

Thời nào cũng có những mục tử nhân lành, vị tha, nhưng chẳng có thời nào lại vắng bóng những mục tử xấu, ích kỷ. Điều đáng tiếc là trong một số giáo hội địa phương, đời sống thoải mái với vật chất đầy đủ và mặc nhiên được trọng vọng của các linh mục, giáo sĩ đã khiến cho khá nhiều người phấn đấu để trở nên linh mục, giáo sĩ vì những động cơ thấp kém. Vì thế, trong những giáo hội ấy, những mục tử nhân lành dám sống chết vì đàn chiên, dám hy sinh cho đàn chiên không nhiều như trong những giáo hội mà người ta được thúc đẩy làm linh mục và giáo sĩ vì những động cơ siêu nhiên hơn. Do đó, những linh mục và giáo sĩ tương lai cần phải luôn luôn quan tâm thanh lọc động cơ thúc đẩy mình theo đuổi đời sống tu trì. Động cơ tốt nhất phải là tình yêu đích thực và nồng nàn đối với Thiên Chúa và tha nhân, muốn cho tất cả mọi người đều được hạnh phúc cả đời này lẫn đời sau.

Cầu nguyện

Lạy Chúa, trong Giáo Hội của chúng con, chắc chắn không thiếu những mục tử thánh thiện, luôn yêu thương và sẵn sàng hy sinh tất cả cho đàn chiên. Nhưng chắc chắn cũng có những mục tử chưa yêu thương và hy sinh cho đàn chiên như lòng Chúa mong ước, như nhu cầu của đàn chiên đòi hỏi. Chúa là Mục Tử Gương Mẫu, xin hãy gia tăng số mục tử nhân lành lên, xin hãy làm cho ngọn lửa yêu thương bùng cháy lên trong tâm hồn các mục tử, để Giáo Hội càng ngày càng trở nên tốt đẹp, có khả năng biến cải thế giới và xã hội thành nhân bản hơn, chan hòa tình Chúa tình người hơn. A-men.

CHÚA CHIÊN LÀNH
Ga 10, 27 - 30
Lm Bùi Quang Tuấn, CSsR.

"Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta" (Ga 10:27).
Bao biến cố quan trọng đã liên tiếp diễn ra trong lòng Giáo hội suốt cả Đại Năm Thánh 2000 vừa qua. Từ việc phong chân phước cho Thầy giảng Anrê Phú Yên, vị tử đạo tiên khởi của Việt Nam, đến phong hiển thánh cho 120 anh hùng tử đạo Trung hoa; từ sự kiện Đức Thánh Cha công khai sám hối những lỗi lầm của con cái Giáo hội trong quá khứ đến việc ngài đi hành hương thánh địa Palestine; từ Đại hội Giới trẻ, qui tụ trên 2 triệu thanh niên thiếu nữ từ khắp nơi về Rôma, đến việc tiết lộ bí mật thứ ba Fatima... Trong số những biến cố đáng ghi nhận trong Năm Thánh là việc Đức Thánh Cha chuẩn y bản tuyên ngôn Dominus Iesus (Chúa Giêsu) vào ngày 16.06.2000, và sau đó được Toà Thánh công bố vào ngày 05.09.2000.

Bản Tuyên ngôn Dominus Iesus là lời xác tín "Không có ơn cứu độ ngoài Chúa Giêsu." Đây cũng là lời khẳng định tầm mức quan trọng của Giáo hội Công giáo trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

Bản tuyên ngôn cảnh giác người tín hữu trước những tư tưởng muốn tương đối hoá tôn giáo, cho rằng mọi tôn giáo đều có giá trị ngang nhau, đều chứa đựng một số yếu tố cứu độ nào đó dù không tôn giáo nào mạc khải trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa cho con người.

Bản tuyên ngôn phủ nhận có sự đối kháng giữa "não trạng thiên về luận lý của phương tây" và "não trạng thiên về biểu tượng của phương đông." Bởi vì hệ luận tất yếu của nó là sự khước từ Công giáo như con đường cứu độ tốt nhất cho dân tộc châu Á.

Đang khi đó, Giáo hội tự khẳng định là "cần thiết cho ơn cứu rỗi của nhân loại." Điều này không có hàm ý "người không có đạo sẽ không được cứu độ." Đúng hơn, ơn cứu độ của Chúa Giêsu, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, đã liên kết cách nhiệm mầu những người ngoài Công giáo với Giáo hội của Ngài.

Sau khi bản Tuyên ngôn được chính thức công bố, một số phản ứng tiêu cực đã xuất hiện. Có người cho rằng lời lẽ của Dominus Iesus quá trịch thượng khi cho rằng "chỉ nơi Đức Giêsu mới có ơn cứu độ." Có người cho rằng bản Tuyên ngôn như thế sẽ làm cản trở con đường đại kết. Thậm chí có người dám nghĩ Đức Thánh Cha đã không sáng suốt nhận định tình hình trước khi công bố Dominus Iesus. Đây chẳng khác chi thái độ của một số người Do thái sau khi Chúa Giêsu nói về vai trò chủ chiên của mình. Họ tuyên bố: "Hắn bị quỉ ám, và ra điên sảng. Tại sao các ngươi cứ nghe hắn?" (Ga 10:20)

Nhưng rồi, trong ngày tôn phong hiển thánh các anh hùng tử đạo Trung Hoa, Đức Thánh Cha đã tái khẳng định tính chất độc nhất và ơn cứu độ phổ quát của Chúa Giêsu và Giáo hội qua bài giảng như sau:

"Bằng việc công bố Tuyên ngôn 'Chúa Giêsu' mà Ta đã đặc biệt chuẩn y vào thời cao điểm của Năm Thánh, Ta muốn mời gọi tất cả các Kitô hữu hãy cùng canh tân sự tín trung của mình vào Chúa Giêsu trong niềm hân hoan của lòng tin, đồng thời cùng nhau làm nhân chứng cho Đấng, hôm nay cũng như hôm qua, 'là đường, là sự thật, và là sự sống' (Ga 14:6).

"Lời tuyên xưng Đức Kitô là Con duy nhất của Thiên Chúa, Đấng đã tỏ cho chúng ta thấy nhan Cha (x. Ga 14:8) không phải là một sự trịch thượng đối với các tôn giáo khác, nhưng là niềm cảm mến tri ân vì Đức Kitô đã tỏ mình cho chúng ta, dù không phải vì công trạng của chúng ta. Nhưng đồng thời Ngài cũng đòi buộc chúng ta tiếp tục trao tặng những gì đã nhận lãnh và thông truyền cho người khác những gì được tặng ban. Trong ý nghĩa đó, Chân Lý và Tình Yêu chính là Thiên Chúa đã được ban tặng cho mọi người và thuộc về mọi người.

"Cùng với Thánh Tong đồ Phêrô, chúng ta tuyên xưng "Không có ơn cứu độ nơi một người nào khác"(Cvtđ 4:12). Bản Tuyên ngôn Chúa Giêsu, dưới sự hướng dẫn của Công đồng Vaticanô II, nhận định rằng sự tuyên xưng này không có ý loại trừ ơn cứu độ khỏi những ai không phải Kitô hữu, nhưng là chỉ ra cội nguồn ơn ấy nơi Đức Kitô, trong Ngài, con người và Thiên Chúa được hiệp nhất. Thiên Chúa soi sáng cho người ta theo cách thế phù hợp với tình trạng tâm linh và thể chất của họ, giải cứu họ bằng những đường lối mà chỉ có Ngài biết."

"Bản tuyên ngôn phân định rõ ràng những điểm quan yếu của Kitô giáo. Điều này không cản trở sự đối thoại [đại kết] nhưng chỉ ra nền tảng của nó. Bởi vì đối thoại mà không có nền tảng căn bản thì sẽ thoái hoá thành những ngôn từ trống rỗng...

"Nguyện xin Mẹ Maria, Đấng mà Chúa Giêsu trên Thánh giá đã ký thác làm Mẹ nhân loại, trợ giúp chúng ta cùng nhau lớn lên trong niềm tin vào Đức Kitô, Đấng Cứu Chuộc loài người, trong niềm hy vọng tất cả sẽ nhận được ơn cứu độ nơi Ngài, và trong tình yêu thương như dấu chỉ của con cái Thiên Chúa."

Hôm nay xem lại một vài văn kiện và những biến cố xảy ra trong Năm Thánh, tôi cảm thấy thấm thía lời nói của Đức Giêsu: "Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta. Ta biết chúng và chúng theo Ta. Và Ta ban cho chúng sự sống đời đời" (Ga 10:27-28).

Có những con chiên không quen nghe tiếng chủ mình. Không tha thiết tìm hiểu, học hỏi và suy tư. Nó khó chịu khi phải theo chủ. Thích phóng khoáng và tương đối hoá mọi sự. Cứ tưởng không cần theo Chúa, chỉ "ăn ngay ở lành" là tự giải thoát được mình. Nhưng có ăn ngay ở lành nào mà không do tình yêu và lẽ phải tác động. Thế nên, nói cho cùng thì cũng chính nhờ Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu và Chân Lý soi chiếu, mà người ta tìm thấy được "sự sống đời đời."

Hiệp cùng với Đức Thánh Cha, vị mục tử đại diện Chúa Giêsu ở trần gian, xin dâng lên Thiên Chúa lời cầu xin tha thiết cho bao con chiên đang lầm đường lạc lối, không biết lắng nghe và không chịu bước theo tiếng nói của Giáo hội. Xin cầu cho bao con chiên khác chưa thuộc cùng một ràn, được nên chung một đàn, với một chủ chiên duy nhất là Đức Kitô (Ga 10:16). Xin cho Tin mừng Tình yêu Cứu độ của Ngài được mọi dân nước tin nhận. Để nhờ đó hoa quả hạnh phúc thiên đàng sẽ nở tươi ngay trên trần gian.

Nguồn vietcatholic.org

4590    20-04-2013 15:51:11