- Tuyệt Đỉnh Yêu Thương
- Chuyện Tình Cao Cả
- Lương Thực Trường Tồn
- Thánh Thể Bí Tích Của Tình Yêu
- Sống Nhờ Chúa
- Yêu Là Được Ơ Lại Trong Nhau
- Thịt Ta Thật Là Của Ăn
- Sự Sống Đời Đời
- "Chóp Đỉnh Và Nguồn Mạch" Của Giáo Hội Là Bí Tích Thánh Thể
- Bánh Hằng Sống
- Kết Hợp Với Chúa Và Với Tha Nhân
- Lễ Mình Máu Thánh Chúa
- Mình Máu Thánh Chúa Kitô, Lương Thực Nuôi Sống Con Người
- Kẻ Phàm Nhân Được Ăn Bánh Thiên Thần
- Thánh Thể - Tình Yêu Vị Tha
- Ai Ăn Thịt Ta Và Uống Máu Ta
- Bí Tích Thánh Thể
- Bí Tích Tình Yêu
- Chúa Nhật Mình Và Máu Chúa
- Tấm Bánh Tình Yêu
- Để Thực Sự Là Sống
- Bí Tích Thánh Thể Là Nguồn Mạch Và Tột Đỉnh Của Đời Sống Kitô Hữu
- Đây Là Mình Ta, Đây Là Máu Ta
- Này Là Mình Thầy... Này Là Máu Thầy Hiến Tế Vì Anh Em
- "Ai Ăn Tôi Thì Sẽ Nhờ Tôi Mà Sống Như Vậy"
- Thần Lương
TUYỆT ĐỈNH YÊU THƯƠNG
Ga 6, 51 - 58
Thường thì khi yêu thương ai chúng ta muốn ở gần, kề cận bên người mình thương. Nhiều khi chỉ cần ở bên nhau, nhìn nhau là tâm hồn thấy đủ, chẳng cần phải nói nhiều lời. Có cách gần gũi như giữa bạn hữu thân tình với nhau. Có cách thân mật như giữa vợ chồng gần nhau. Tuy nhiên tất cả đều giới hạn ở chỗ tuy gần nhau, nhưng vẫn chỉ ở bên nhau, ở ngoài nhau mà thôi.
Bằng một sáng kiến tuyệt vời, sáng kiến của một Vị Thiên Chúa, vượt quá mọi suy nghĩ, mọi phương thế của người phàm, Chúa Giêsu bày tỏ tình yêu của người một cách tuyệt đỉnh khi lập Phép Thánh thể, để ở lại với chúng ta, trước khi về trời. Thật vậy, khi nói: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy" (Ga 6,56) Chúa Giêsu không chỉ muốn ở gần, mà còn ở trong những người thương mến, khi họ rước Chúa. Mỗi khi rước Mình và Máu Thánh Chúa, chúng ta không biến Chúa thành thịt máu chúng ta, theo cách thông thường chúng ta ăn uống lương thực làm của nuôi thân xác, nhưng Chúa Phục sinh sẽ biến đổi chúng ta một cách nào đó nên giống Chúa, Đấng ba lần thánh, Nguồn hạnh phúc viên mãn, Sự Sống đời đời. Như vậy, khi ban Phép Thánh Thể, Thiên Chúa muốn ban điều trọn hảo cho những người mà Chúa yêu thương. "Yêu nhau là muốn điều tốt cho người mình yêu", Thánh Tôma Aquinô đã nói như vậy.
Chúa ngự trong tâm hồn những ai rước Chúa với lòng tin tưởng, trông cậy và yêu mến, chẳng những để biến họ nên giống Chúa, mà còn để đem lại hạnh phúc cho họ là sự sống đời đời, vì Chúa chính là Nguồn Sự Sống. "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống" (Ga 6,51). Sống hoài, sống mãi, là nỗi khát khao của con người mọi thời. Muốn được sống đời đời thì phải sống với Chúa, sống trong Chúa, sống nhờ Chúa, qua việc rước Chúa. Chúa ở đâu, Chúa cũng muốn người được Chúa yêu thương ở đấy và sự sống đời đời là điều kiện cần thiết để những ai được Chúa yêu thương và yêu thương Chúa được sum họp muôn đời với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Phép Thánh Thể là sáng kiến của một tình yêu tuyệt đỉnh mà Chúa dành cho hết mọi người, nếu chúng ta biết tin vào Chúa (Ga 6,35-36) và ăn uống Mình Máu Thánh Chúa (Ga 6,51).
Xin cho chúng con biết đáp trả lòng yêu thương vô bờ của Chúa bằng việc siêng năng dự lễ, viếng Thánh Thể và năng rước lễ một cách sốt sắng. Amen
CHUYỆN TÌNH CAO CẢ
Ga 6, 51 - 58
Trong quyển "Sống Một Nghệ Thuật" có một chuyện tình được xếp vào hàng chuyện tình đẹp nhất Trung Quốc 2006: Một ông cụ 70 tuổi đã tự tay đẽo 6.000 bậc thang để giúp người vợ 80 tuổi của mình trèo lên núi, hay nói đúng hơn đó là cái hang mà họ đã sống 50 năm qua. 50 năm trước, chàng trai Liu Guojiang đem lòng yêu Xiu Chaoqing, một goá phụ đã có con. Quá mệt mỏi bởi những lời đàm tiếu, chống đối, ngăn trở của gia đình, bạn bè, họ đã bỏ nhà lên hang động này sống ẩn dật để được trọn vẹn yêu nhau. "Anh có chắc là không hối tiếc không?". Đó là câu hỏi Xiu thường hỏi chồng. "Chừng nào chúng mình còn làm việc cần cù, cuộc sống chắc chắn sẽ tốt lên" . Đó là câu trả lời của Liu.
Vâng, sức mạnh của tình yêu là thế đó. Không có điều gì có thể quật ngã được sức mạnh ấy. Tình yêu nơi nhân loại chính là hình bóng của tình yêu nơi Thiên Chúa. Và nơi Thiên Chúa, tình yêu cũng được cụ thể hoá bằng hành động. "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian... để nhờ Người Con nầy mà thế gian được cứu" (Ga 3,16-17). Tột đỉnh của tình yêu ấy là cái chết đau thương của Đức Giêsu trên thập giá, "Ngài đã tự hiến mình để trở nên của ăn của uống cho toàn dân".
Vâng, Con Một Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô đã nói: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống... Bánh Ta ban tặng chính là thịt Ta đây, để cho thế gian được sống" (Ga 6,51). Điều gì mà khó hiểu và man rợ như vậy? Ăn thịt người ư? Sao có thể như thế được? Chúng ta không thể hiểu đoạn văn một cách thô sơ và hết sức con người như thế. Nhưng nếu hiểu cách đó thì cũng không có gì đáng sợ lắm đâu! Chẳng phải nàng Thoại Khanh đã từng lóc thịt mình để nuôi mẹ chồng hay sao? Cái uyên thâm của câu chuyện này là lòng hiếu thảo tuyệt vời của nàng dâu. Cái cảm động trong câu chuyện tình của ông Liu là tình yêu mãnh liệt của hai ông bà. Vượt trên tất cả, cái đáng ca tụng ngàn đời trong hành động nuôi dân bằng chính Thịt Máu của Đức Kitô là tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại. Nó đẹp và cao quý hơn bất cứ thứ tình cảm nào khác là bởi vì bản thân là Thiên Chúa nhưng Ngài đã hạ mình, thí mạng cho đám tội nhân là chúng ta. Ngài đã cho ta được tái sinh và tham dự vào thiên tính của Ngài đang khi chúng ta còn trong cõi chết.
Đức Giêsu về trời không có nghĩa là chấm hết mọi hoạt động của Ngài nơi trần gian. Ngài vẫn ở với chúng ta, nơi Bí tích Thánh Thể. Qua tay vị Linh mục, Ngài từng ngày hiện diện trong tâm hồn con người, trở nên cao lương mỹ vị cho cuộc lữ hành về Nước Trời của con người. Bao lâu trên trái đất này còn con người thì Đức Giêsu vẫn nhẫn nại hiến tế chính mình cho họ, trong đó có bạn vào tôi.
Tôi không thể hiểu được điều huyền nhiệm trong những hành động của Thiên Chúa. Tôi cũng không cắt nghĩa được những lời nói trong Kinh Thánh một cách rõ ràng như các nhà thần học. Nhưng có một điều tôi không bao giờ sai lầm là Thiên Chúa đã - đang và sẽ yêu tôi, cho dù tôi bất xứng đến mức nào. Ngài yêu tôi trước khi tôi yêu và nhận ra Ngài. Ngài đến với tôi cả khi tôi từ chối Ngài. Ngài cứu vớt tôi ngay lúc tôi chẳng hy vọng. Ngài xem tôi là bạn hữu trong lúc tôi không đáng là tôi tớ. Ngài yêu tôi trọn vẹn trong tất cả những điểm tốt và hạn chế của tôi.
Một tình yêu như thế có được xem là tình yêu đẹp nhất không thưa bạn? Đức Giêsu "xẻ thịt" mình để lại cho nhân loại như để bổ túc thêm cho những hành động và lời mời gọi yêu thương của mình. "không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người thí mạng sống vì bạn hữu của mình" (Ga 15,13). Đức Giêsu đã thí mạng vì chúng ta. Vậy bạn có dám thí mạng vì Ngài và vì người khác không? Tình yêu này không chỉ đẹp mà còn cao cả nữa.
LƯƠNG THỰC TRƯỜNG TỒN
Ga 6, 51 - 58
Sau khi làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để nuôi năm ngàn người ăn. Nhân cơ hội này Đức Giêsu đã mặc khải cho dân chúng biết một thứ bánh trường sinh đó là: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta để cho thế gian được sống".
Chắc chắn khi nói lời này cùng với thái độ của Chúa làm cho mọi người Do Thái hiểu rằng Chúa không có ý nói bóng, mà Ngài đã quả quyết một sự thật "Thịt Ta" nên họ ngạc nhiên khó hiểu "làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?". Vì từ trước đến nay chưa thấy ai nói và làm điều này. Chúa biết tâm lý họ rất rõ, biết họ còn đang thắc mắc, nhưng Ngài không đính chính hay giải thích, mà tiếp tục quả quyết một cách mạnh mẽ hơn "Thật Ta bảo thật ác người: "Ai an thịt và uống máu Ta thì có sự sống đời đời".
Một điều thật dễ hiểu trong cuộc sống, nếu muốn tồn tại thì phải cần có lương thực, hay nói đúng hơn thức ăn không thể thiếu cho cơ thể, vì nó cung cấp năng lượng cho cơ thể sống và phát triển. Tương tự, linh hồn ta cũng cần có lương thực hằng ngày để "sống", thứ lương thực đã được Đức Giêsu đem đến hơn hai mươi thế kỷ. Qua Bí Tích Thánh Thể Ngài tiếp tục là của ăn để nuôi linh hồn ta.
Thật là một mầu nhiệm lạ lùng của tình yêu Thiên Chúa. Ta tin tưởng Chúa ở khắp nơi hằng gìn giữ lo lắng cho con người. Còn hơn thế nữa, Ngài ngự một cách đặc biệt qua hình bánh rượu và linh hồn để ta được sung mãn trong đời sống siêu nhiên, được nếm ngay từ đời này mùi vị thiên đàng. Chỉ có tình thương mà chúng ta được những hồng ân to lớn như thế, chứ nếu xét theo công trạng thì chúng ta có là gì so với Ngài, chúng ta có làm được gì để xứng đáng được hưởng một ơn như vậy. Thật ra trí khôn con người không thể hiểu được, chúng ta chỉ biết lấy lòng khiêm nhường mà ta ơn Chúa hết lòng hết sức mình.
Ngày xưa, trong xã hội phong kiến, thì các dân không bao giờ được nhìn vị vua của mình. Chúa còn cao cả quyền năng hơn tất cả các vị vua. Vì vậy, chỉ cần được chiêm ngắm từ xa đã là một điều mãn nguyện và hạnh phúc vô cùng. Nhưng để thể hiện tình yêu của mình vị Vua này lại dùng một phương thế thật lạ lùng, là ngự trong hình bánh rượu để chúng ta được cùng đến với Ngài, kết hợp với Ngài, và chính Mình máu Ngài nên lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng đời sống siêu nhiên của chúng ta.
Chúa đã lập ra Bí tích Thánh Thể để kết hiệp mật thiết với linh hồn chúng ta, vì chính Chúa đã khẳng định như một phần thưởng cho những kẻ tin: "Ai ăn thịt Ta và uống Máu Ta thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy". Chúa được ví như là thân nho chúng ta là ngành, vì thế chúng ta hãy biết mút lấy nhựa sống từ thân. Nếu chúng ta muốn được sống mãi mãi, muốn kết hợp với Chúa và với nhau, thì phải là "cành" chưa rời khỏi "Thân", là cành chưa khô héo bệnh tật. Tội lỗi là bệnh tật, tính hư nết xấu làm cho ta bị sâu, bị úa tàn, và hơn nữa nó có thể làm cho ta bị lìa khỏi cây. Vậy, chúng ta phải luôn "cắt tỉa, chăm sóc" bằng cách giữ gìn các giới răn và sống theo luật Chúa, ăn năn sám hối mỗi ngày để xứng đáng kết hợp với Chúa qua Bí Tích Thánh Thể. Như lời thánh Phaolô đã khuyên nhủ: "Ai chịu Mình Thánh máu Thánh cách bất xứng là ăn và uống hình phạt mình, vì đã phạm tới Mình Thánh, Máu Thánh".
Lạy Chúa, Phép Thánh Thể là của ăn thiêng liêng không thể thiếu trong linh hồn, vậy mà nhiều khi chúng con lại thờ ơ không biết quý trọng. Chúng con lại thật là xấu hổ khi lại cố gắng tìm kiếm, quý trọng những lợi lộc vất chất thế gian là của phù vân giả trá. Xin cho chúng con biết khát khao tìm kiếm những của ăn không bao giờ hư nát, đó là Mình và Máu Thánh Chúa, một dấu chứng của tình yêu vĩnh cửu . Amen
THÁNH THỂ BÍ TÍCH CỦA TÌNH YÊU
Ga 6, 51 - 58
Chương trình của Thiên Chúa từ đời đời là tạo dựng con người để con người thông hiệp với Ngài. Thuở ban đầu, Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh mình. Ngài thường xuyên đến nói chuyện với hai ông bà nguyên tổ của chúng ta trong tâm tình thân mật. Tuy nhiên ông bà nguyên tổ trong một lúc yếu lòng đã nghe theo lời ma quỷ mà từ khước tình yêu Thiên Chúa đối với mình. Vì muốn đưa con người trở lại tình trạng ơn nghĩa với Người, Người đã hứa ban Đấng Cứu Chuộc và đã ban Mình Máu Chúa Kitô ở lại trong hình Bánh Rượu cho chúng ta được thường xuyên gặp gỡ thân mật với Người.
Để thực hiện công cuộc cứu chuộc, Thiên Chúa đã chọn một dân riêng để chúc phúc và tỏ tình thương của người hầu cứu độ mọi người mọi thời. Đến thời đến buổi,Thiên Chúa đã sai con mình đến làm Emmanuel nghĩa là Thiên Chúa ở với loài người, cho chúng ta thông dự vào tình yêu Chúa Ba Ngôi, nên một với Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Chúa Giêsu đến trần gian để chúng ta được ở trong Ngài và trở nên con cái Chúa, cho chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha. Ngài đã tiếp tục ở với nhân loại bằng cách trở nên của ăn nuôi sống linh hồn trong Bí tích Thánh thể. Chính Mình Máu Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể là Bánh đem lại sự sống mới.
Thánh Thể là chóp đỉnh của mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa là Bí tích cao trọng nhất vì không chỉ trao ban ân sủng mà trao chính Tác giả của ân sủng, Đấng là Thiên Chúa muôn loài lại trao hiến bản thân phục vụ loài người. Điều này giống như sự điên dại vì yêu thương của người mẹ đối với đứa con lêu lổng: mẹ sẵn sàng cho đi tất cả bản thân miễn sao con mình nhận ra được lòng yêu thương của người mẹ mà cải hoá, sửa đổi nên người. Chúng ta chưa yêu mến Chúa là vì chúng chưa thấy Chúa yêu mình. Thật ra chúng ta chỉ nghe người khác nói Chúa yêu chứ chưa cảm nghiệm tình yêu Chúa trong cầu nguyện, trong cuộc sống hằng ngày nên chưa thực lòng đáp lại, chỉ làm vì nhiệm vụ cho an tâm, miễn không phải sa hoả ngục thôi!
Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể là một sáng kiến táo bạo như không còn phân biệt địa vị Thiên Chúa và thụ tạo thấp hèn. Ngài đã đến làm người nghèo và bị coi như tử tội nữa! Chính Phêrô còn không hiểu được: "Thầy mà lại rửa chân cho con sao ?"( Ga 13, 6) hay có lần Phê-rô trách Thầy: "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy." (Mt 16, 22). Lúc đó có lẽ các tông đồ còn chưa hiểu Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhưng chỉ coi là con người đặc biệt được Thiên Chúa sai đi làm nhiệm vụ Messia giải phóng dân Do thái. Thật quá ngỡ ngàng cho các tông đồ và chúng ta: một vị Thiên Chúa mà làm người chịu khổ hình bởi tay kẻ ác chết rên thánh giá và tiếp tục lấy thịt máu mình nuôi dưỡng cộng đoàn tín hữu.
Thánh thể đòi người tín hữu phải tham dự vào Hy Tế để có niềm vui Phục sinh, được tham dự vào chiến thắng của Ngài trên sự ác và hưởng hạnh phúc cùng với Ngài mai sau. Như vậy Thánh Thể cũng là câu trả lời cho những thắc mắc vì sao con người phải chịu đau khổ. Đau khổ của thánh giá đưa tới niềm vui lớn hơn là cùng được dự phần với Chúa Giêsu trong địa vị làm con Chúa. Khi chúng ta rước lễ, với tâm tình hiệp thông đó, cuộc sống chúng ta sẽ được biến đổi, sẵn sàng đón nhận thánh ý Chúa như Đức Kitô trên thánh giá và bảo đảm sẽ sống lại như Đức Kitô.
Thánh Gioan đã định nghĩa: "Thiên Chúa là tình yêu". Quả thật, Thiên Chúa luôn yêu thương con người và yêu họ đến cùng, dù cho con người có bất trung hay chưa nhận ra được tình yêu đó. Bí tích Thánh Thể là sáng kiến độc đáo và tuyệt vời của Thiên Chúa để Ngài có thể được sống bên những người mà Ngài yêu mến. Đức Giêsu Kitô đã hứa: "Này đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20). Bí tích Thánh Thể là biểu lộ tình yêu vô thuỷ vô chung và tuyệt vời ấy: yêu đến cùng.
Với Bí tích Thánh Thể, không những con người được hưởng nhờ Thần lương để nuôi sống linh hồn mình mà cả vật chất bất động cũng được nâng lên, cả công lao của con người cũng được thánh hiến. Vật chất trở thành biểu tượng cho sự hiện diện thần linh. Như thế, vật chất có chỗ trong thế giới của Thiên Chúa.
Ta hãy nhớ lại ý hướng và ước muốn lạ lùng của Đức Giêsu của Chúa Giêsu khi Ngài lập Bí tích Thánh Thể: "Trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng" (Ga 13,1).Như thế đã đủ cho chúng ta cảm nghiệm được tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta và giúp chúng ta nhận ra được chương trình của Ngài dành cho tạo vật. Thiên Chúa luôn nhất quán trong mọi hành động của Ngài. Thiên Chúa không làm việc nửa vời, không yêu nửa chừng, không làm việc tuỳ hứng, nhưng Ngài làm việc gì thì Ngài làm đến nơi đến chốn. Tình yêu thuộc về bản tính của Thiên Chúa. Tình yêu của Thiên Chúa là tình yêu toàn năng. Ngài làm mọi sự chỉ vì yêu.
Một câu chuyện cảm động được kể lại từ chính một bà mẹ và đứa con 4 tuổi của bà được cứu sống sau một trận động đất ở Ac-mê-ni vào tháng 12 năm 1987. Người mẹ đó là bà Susanna. Bà nói: "Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết, nhưng tôi muốn cho con tôi được sống". Trong trận động đất kinh khủng ấy, hàng ngàn người bị vùi lấp dưới đống gạch trong đó có hai mẹ con bà Susanna nhưng bà và con bà được may mắn còn sống sót. Cô con gái 4 tuổi của bà đòi uống nước. Nhưng tìm đâu ra nước cho nó uống khi hai mẹ con không có lối ra? Tình mẫu tử đã gợi cho bà một ý nghĩ táo bạo. Bà đã rạch cho ngón tay của mình chảy máu để cho con mút. Đứa bé đã đỡ khát nhờ máu của người mẹ và nó đã sống cho đến khi hai mẹ con được cứu sống.
Câu chuyện cảm động trên giúp chúng ta hiểu được phần nào về Bí tích Thánh Thể. Đức Giêsu đã tự nguyện chịu chết để cho chúng ta được sống. Ngài chấp nhận chịu đổ máu qua cái chết Thập giá để cứu sống chúng ta. Ngài muốn Máu của Ngài trở nên thức uống cho chúng ta.
Bí tích Mình và Máu Thánh Chúa là một trong những Bí tích cao quí nhất của người Kitô hữu, nhưng cũng là Bí tích gây nhiều thắc mắc nhất cho con người ở mọi thời. Những người ngoài Kitô giáo không thể nào hiểu nổi và chắc cũng không thể nào tin nổi tấm bánh mỏng manh và không mùi vị đó lại là Mình Thánh Chúa Giêsu, và chén rượu ấy là Máu của Chúa. Đây là mầu nhiệm đức tin không dễ gì giải thích cho người ngoài. Còn chúng ta, những người đã tin vào Thiên Chúa là Đấng sáng tạo nên mọi sự, chúng ta hãy vững tin vào Chúa. Bởi lẽ, từ hư không mà Chúa còn làm ra mọi sự, thì huống chi là từ một tấm bánh, Chúa lại không thể dùng nó để hoá nên Thân Thể Ngài cho chúng ta được sao?
Thánh Phaxicô Assisi đã nói rằng: "Khi chúng ta rước lễ, thì không phải chúng ta rước lấy Chúa Giêsu mà chính là Chúa Thánh Thần trong chúng ta rước lấy Người". Xin Chúa Thánh Thần biến đổi lòng trí chúng ta để chúng ta hết lòng tin kính và mến yêu Chúa Giêsu Thánh Thể, để nhờ lòng tin yêu ấy, chúng ta sẽ được sống nhờ Chúa. Amen.
YÊU LÀ ĐƯỢC Ở LẠI TRONG NHAU
Ga 6, 51 - 58
Khi yêu thương ai, ta mong muốn mãi mãi được ở trong trái tim người ấy. Đồng thời, ta sẵn sàng dâng hiến tất cả những gì có thể cho người mình yêu. Để rồi cho dù có phải xa nhau ta vẫn cảm thấy gần nhau. Bởi lẽ, trái tim của ta và người ấy đã được ở lại trong nhau.
"Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy" (Ga 6, 56). Đây là lời Chúa Giêsu nói với từng người chúng ta trong lễ Mình Máu Chúa hôm nay. Thiên Chúa tự bản chất là Tình Yêu. Tình yêu ấy được thể hiện trọn hảo nơi Chúa Giêsu. Người đã lập nên 7 Bí tích để thông ban nguồn ân sủng cho chúng ta. Trong đó, Bí tích Thánh Thể là Bí tích quan trọng nhất. Vì qua Bí tích này chúng ta được đón nhận chính Thịt và Máu của Người. Còn gì cao quý và thiêng liêng hơn nữa.
Trong một gia đình kia, vào mỗi chiều thứ tư sau khi người mẹ đi vắng nhà một chút trở về thì đứa con trai được mẹ đem về cho một cái bánh. Đây là chuyện bình thường đối với em trong vài lần đầu. Nhưng qua nhiều lần như thế em lấy làm lạ. Em quyết định tìm hiểu. Chiều thứ tư nọ sau khi mẹ ra khỏi nhà, em liền lén đi theo sau. Thì ra mẹ đến Nhà thờ để họp mặt các bà mẹ Công giáo trong họ đạo. Quan sát qua khe cửa, em thấy đến giờ giải lao mỗi bà mẹ được phát cho một cái bánh và một chai nước. Các bà mẹ khác thì vô tư thưởng thức phần của mình. Chỉ riêng mẹ của em sau khi nhìn qua nhìn lại bà vội để cái bánh vào giỏ và chỉ ngồi uống nước.
Lúc ấy, em đã hiểu vì sao mình có được cái bánh vào mỗi chiều thứ tư. Em quay về nhà và cũng như bao ngày khác ngồi chờ mẹ về. Tuy nhiên, tâm trạng của em không còn như trước nữa. Càng nghĩ đến hình ảnh đã thấy về mẹ bao nhiêu thì em càng cảm thấy thương mẹ bấy nhiêu.
Và người mẹ cũng đã trở về. Em cũng vui vẻ nhận bánh như bao ngày thứ tư khác. Đưa bánh cho con, người mẹ vào nhà tiếp tục công việc của mình. Bà đâu hay biết chuyện gì đã xảy ra với con mình. Đang khi đó, em cầm cái bánh hết sức nâng niu và ra góc nhà đứng ăn trong nước mắt vì cảm thấy quá hạnh phúc.
Theo quy luật cuộc sống, em đã trở thành người lớn và người mẹ cũng đã đi theo ông bà. Mặc dù mẹ cậu không còn nữa, nhưng tình thương của người mẹ vẫn luôn tồn tại trong trái tim của cậu. Đó cũng là động lực để giúp cậu quyết tâm mỗi ngày sống tốt hơn.
Phải chăng hình ảnh người mẹ này phần nào giúp ta hiểu sâu hơn về tình thương mà Chúa Giêsu muốn dành cho chúng ta nơi Bí tích Thánh Thể. Qua Bí tích cao quý này, Người muốn ở lại với chúng ta một cách trọn vẹn và lâu bền hơn.
Xin cho mỗi người chúng ta nhờ lễ Mình Máu hôm nay biết quý trọng Bí tích Thánh Thể nhiều hơn. Quý trọng bằng việc siêng năng đến rước Chúa vào lòng để mãi mãi ta được ở lại trong tình thương của Người. Đây cũng chính là nguồn động lực thiêng liêng cao quý giúp chúng ta sống đạo vững vàng và chắc chắn hơn.
THỊT TA THẬT LÀ CỦA ĂN
Ga 6, 51 - 58
Thời cách mạng Pháp 1789, đạo Công giáo bị làm khó dễ và bị cấm không được truyền đạo. Một cha xứ nhà quê lén đem Mình Thánh Chúa cho kẻ liệt, theo sau có cậu giúp lễ tên là Benjamin. Bọn lính cách mạng phát hiện đuổi theo rất gấp. Cha xứ dúi vào tay cậu bé cái hộp đựng Mình Thánh Chúa và bỏ chạy. Lính bắt cha lại và giết cha. Cậu bé giúp lễ vừa chạy vừa mở hộp Mình Thánh Chúa ra và bỏ vào miệng nuốt đi. Lính bắt cậu và tra hỏi. Cậu nói: "Mình Thánh Chúa đang ở trong người tôi". Lính tức giận giết luôn cậu bé, rồi chôn xác cha xứ và cậu bé chung nhau dưới gốc cây sồi to...Sau đó cuộc cách mạng thất bại và qua đi. Một hôm một cơn lốc mạnh đã làm trốc gốc cây sồi, để lộ hai xác: cha xứ và cậu bé giúp lễ. Người ta phát hiện Mình Thánh Chúa vẫn còn trong người cậu bé và xác của cậu vẫn còn tươi dù đã nằm dưới đất khá lâu...
a/. Hội thánh Công giáo vẫn tin Đức Kitô hiện diện thật trong Bí tích Thánh Thể: Thánh lễ Misa ban cho chúng ta chính Thịt Máu Chúa, hiện diện cách đầy đủ trong tấm bánh và ly rượu. Đây là tín điều Hội thánh công giáo tuyên xưng từ thời các tông đồ và được xác nhận qua các Công Đồng chung. Ai là người công giáo mà không tin, sẽ bị vạ tuyệt thông. Bao nhiêu câu chuyện về phép lạ Mình Thánh Chúa qua 20 thế kỷ, đủ minh chứng cho chúng ta thấy Chúa Kitô thực sự hiện diện đầy yêu thương trong Bí tích này. Người luôn ở đó trong âm thầm khiêm tốn, chờ đợi con người đến lãnh muôn hồng ân cao cả, đến lãnh nhận chính sức sống của Thiên Chúa.
Tiến sĩ Bob Rice, một mục sư Tin lành đã trở lại đạo công giáo năm 1994, (hiện đang còn sống bên Mỹ) nói: người Tin lành được dạy từ nhỏ rằng bánh và rượu chỉ là biểu tượng cho Mình và Máu Chúa mà thôi. Một hôm, tôi được mời đi dự một buổi chầu Thánh Thể long trọng của người công giáo. Đang khi tôi quì chăm chú nhìn lên Thánh Thể, thình lình gương mặt Chúa xuất hiện giữa Bánh Thánh...Tôi vui sướng không tả được, và... tôi sẵn sàng dành cả đời mình để làm chứng về phép lạ Thánh Thể....
b/. Bí Tích Thánh Thể là mầu nhiệm yêu thương, hiệp thông, chia sẻ và hi sinh:
Cha Jean Nowen (trong quyển Đời sống người được yêu) nói: Tấm bánh (là Mình Chúa) là tấm bánh phải được bẻ ra, phân phát cho nhiều người, không phải chỉ một người... Câu nói của Cha J. Nowen rất chí lý: mầu nhiệm Thánh Thể chính là mầu nhiệm Tình yêu, hiệp thông, chia sẻ và hi sinh. Cả cuộc đời của Đức Kitô chính là mầu nhiệm yêu thương và hiệp thông này; vì yêu thương Chúa đành nên tấm bánh bị bẻ nhỏ ra và phân phát cho mọi người. Đây chính là hình ảnh sống động về sự hiệp thông, hi sinh và chia sẻ đó...
Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người, để ai tin vào Người Con ấy, sẽ không phải hư mất, nhưng được sống đời đời... (Gn 3, 16). Chúa Giêsu còn nói cách riêng về Bí Tích Thánh Thể: Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế... (Mt 28, 20).
Một Đức Viện Phụ nọ hỏi một thanh niên xin vào dòng: - Năm nay con bao nhiêu tuổi? - Dạ con 25 tuổi. - Con có quen cô gái nào không? Nghĩ rằng Đức Viện Phụ điều tra lý lịch mình, anh đáp: Dạ không. - Vậy con đã bao giờ yêu ai chưa? - Dạ chưa. Ngài nói: - này con, từ nhỏ đến giờ con có yêu ai không? Anh thanh niên trả lời: Thưa cha không. - Mà con cũng không yêu cô nào nữa sao? - Dạ không. Ngài nói: Con đến đây là để học yêu Chúa, yêu anh em; thế mà chữ yêu con không biết, thì làm sao ở đây được? Con hãy về học yêu đi đã...Đức Viện Phụ muốn nói: ngay cả đi tu cũng là để học yêu thương, học chia sẻ..
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Mình Thánh Chúa chính là mầu nhiệm hiệp thông và chia sẻ; là người Kitô hữu, ta có muốn hiệp thông và chia sẻ với mọi người xung quanh bằng tình yêu như Chúa Kitô không? Là người Kitô hữu, ta có muốn là tấm bánh hữu ích, được bẻ ra và chia cho mọi người không?
Trong tác phẩm Anh phải sống của cố tác giả Khái Hưng có viết một câu chuyện cảm động như sau:
Nơi một làng quê, có một gia đình nghèo, chỉ có một khu vườn nhỏ để trồng tỉa, nên hằng ngày nếu có giờ thì hai vợ chồng cùng lên thuyền để vớt những cành củi đang trôi nổi trên dòng sông, mang về bán kiếm thêm chút thu nhập cho gia đình. Một hôm hai người đang vớt củi như bao nhiêu ngày khác, bỗng bầu trời dường như tối lại, gió mạnh thổi đến, cơn mưa đổ xuống. Chiếc xuồng nhỏ không chịu nổi cơn sóng dữ, nó bị nhận chìm, hai người đang cố sức để bơi vào bờ, nhưng người vợ càng ngày càng kiệt sức, chồng mới cố gắng để cho vợ bám vào, vừa bơi vừa la to "cố lên". Trong lúc nguy hiểm như thế, người vợ bỗng nhớ đến đứa con thơ, cô tự nhủ "nếu cả hai cùng chết thì đứa con thơ của mình sẽ ra sao? Như vậy anh phải sống." Thế rồi cô từ từ rời xa chồng và trôi theo dòng nước đang chảy xiếc cách giận dữ. Người chồng không biết lý do gì mà mình dường như nhẹ hẳn lên, anh bơi nhanh vào bờ để thoát hiểm. Anh chỉ còn biết nghỉ ngơi, nhưng bất chợt anh không còn nhìn thấy vợ mình nữa. Nhìn dòng nước đang hung hãn và được tiếp sức bởi những tiếng thét gào của cơn gió mạnh, anh chỉ còn biết ôm đầu than khóc và quay trở về với đứa con thơ của mình. Đứa con được sống và lớn lên nhờ mạng sống của người mẹ, nhờ tình yêu cao cả, dám chết cho người mình yêu thương, nên đứa con đã được sống.
Sau nầy khi người con biết được sự hy sinh cao cả đó, nó sẽ sống như thế nào cho xứng đáng?
"Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì sẽ được sống đời đời".
Chúa Giêsu không chỉ chịu chết cho con người được sống, nhưng Ngài còn nhìn thấy, con người cần được nuôi dưỡng để kéo dài sự sống. Người đã để lại một phương tiện tuyệt vời cho con người được nuôi sống, đó là chính Thịt và Máu của Người. Ngài không để cho con người phải khổ cực đi tìm của ăn nuôi sống, nhưng Ngài ban cho con người thức ăn để con người được sống mà đến với Ngài trong tình yêu thương bao la tuyệt vời.
Nhưng những người đã được cứu sống và được nuôi dưỡng, có nhận ra được tình yêu bao la nầy chăng? Hay họ không hề hay biết gì về sự sống của mình bởi đâu mà có và tại sao mình được sống đến ngày hôm nay?
Mỗi người trong chúng ta để ra một ít phút suy nghĩ về con người và sự sống của chính mình: Biết bao người đã từ giã cõi đời, người ra đi trong hạnh phúc, người ra đi trong bất hạnh, người ra đi trong vui mừng, người ra đi trong ưu phiền sầu lo. Họ ra đi và đi về đâu? Đi đến sự sống hay đi tìm cái chết. Còn chúng ta vẫn còn hiện diện trên trần gian, chúng ta cũng sẽ ra đi như họ. Vậy chúng ta đi tìm sự sống hay đi tìm cái chết? "Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì sẽ sống đời đời và Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết". Lời Chúa Giêsu đã hướng dẫn chúng ta đến con đường sự sống. Biết bao người đã đi trên con đường sự sống vì họ biết dùng của ăn nuôi sống cho mình.
Chúng ta cũng nghe Lời nầy nhiều lần, chúng ta cũng biết đến của ăn nầy rất nhiều vì chúng ta cũng đã ăn rất nhiều, nhưng chúng ta có cảm nhận được sức mạnh từ của ăn mà chúng ta hưởng dùng không? Sức mạnh của Tình Yêu Thương, vì yêu thương mà Thiên Chúa dám chết để cho chúng ta được sống và cũng vì yêu thương mà Ngài đã ban của ăn nuôi sống là Chính Thịt và Máu Mình cho người mình Yêu được sống. Người mẹ đã cho đứa con mạng sống khi bà hy sinh mạng sống của mình, còn người cha thì nuôi dưỡng đứa con. Còn chúng ta, chúng ta được cho mạng sống và được nuôi dưỡng bởi Đấng yêu thương, nhưng chúng ta vẫn không cảm nhhận được để sống cho xứng với tình yêu được sao?
Nếu chúng ta biết yêu thương qua cử chỉ của hành động trong cuộc sống đời thường, nếu tất cả mọi việc làm của chúng ta biết làm vì yêu thương, thì những việc làm của chúng ta đang đưa chúng ta đến con đường sự sống. Nếu chúng ta biết siêng năng đến để ăn của ăn mà Đấng Yêu Thương đã ban thì chúng ta đang sống trong tình yêu, thì chúng ta đang đi trên con đường sự sống. Đó là chúng ta đang đáp lại Tình Yêu.
Xin cho chúng con biết siêng năng đến rước Chúa để chúng con được sống trong tình yêu thương và con đường sự sống.
"CHÓP ĐỈNH VÀ NGUỒN MẠCH" CỦA GIÁO HỘI LÀ BÍ TÍCH THÁNH THỂ
Ga 6, 51 - 58
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Nếu chiều thứ năm Tuần Thánh, Giáo Hội cử hành thánh lễ Tiệc Ly, kỷ niệm việc Chúa Giêsu thiết lập Bí Tích Thánh Thể để ở lại với loài người mọi ngày cho đến tận thế, thì hôm nay, Giáo Hội long trọng cử hành thánh lễ kính Mình và Máu Chúa Giêsu nơi Bí Tích Thánh Thể. Khi cử hành như thế, Giáo Hội cảm nghiệm và xác tín rằng: Bí tích Thánh Thể chính là trung tâm trong lịch sử của nhân loại, là "nguồn mạch" và "chóp đỉnh" của mọi sinh hoạt trong phụng vụ của Giáo Hội, bởi vì Thánh Thể là lương thực cần thiết cho sự sống và sứ mạng của Giáo Hội.
Thật là ý nghĩa và tốt đẹp biết bao khi các tín hữu trong ngày Lễ này, quy tụ với nhau chung quanh Thánh Thể, để tôn thờ Người hiện diện trong Bí tích cao trọng qua các hình thức đạo đức như chầu và rước kiệu Thánh Thể để diễn tả lòng đạo đức, sốt sắng tham dự Thánh lễ và rước Mình và Máu Thánh Chúa xách xứng đáng, để thể hiện niềm tin vào Chúa Giêsu hằng sống và nói lên niềm vui vì sự hiện diện của Ngài trong nhân loại và trên cuộc đời.
1. Sự cao trọng của Bí tích Thánh Thể
Trong Giáo Hội có bẩy Bí tích, nơi các Bí tích này đều có sự liên hệ mật thiết với nhau làm nên tính toàn thể trong mầu nhiệm cứu chuộc của Thiên Chúa. Tuy nhiên, Bí tích cao trọng nhất và vĩ đại nhất vẫn là Bí tích Thánh Thể. Vì thế, Bí tích này được gọi là: "Bí tích của các Bí tích": Thật vậy: "Tất cả các Bí tích khác đều quy hướng về Bí tích Thánh Thể như về cùng đích" (GLHTCG số 1211), và đời sống đức tin của chúng ta nơi Bí tích Thánh Thể như là cứu cánh của mình.
Vì thế, không có kinh nào, nghi thức nào và tổ chức nào cao trọng, quý mến cho bằng Thánh lễ, bởi vì trong Thánh lễ sẽ diễn ra một cuộc trao đổi kỳ diệu dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần, làm cho bánh và rượu trở nên Thịt và Máu Chúa Giêsu qua lời truyền phép của linh mục. Bí tích Thánh Thể nói lên sự hiện diện thực sự và trọn vẹn của Chúa Giêsu. Cũng qua Thánh lễ, cùng với của lễ tuyệt hảo là Chúa Giêsu trên Thánh giá, chúng ta nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài, dâng lên Thiên Chúa Cha lời chúc tụng, tạ ơn và cầu xin.
Nơi Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu diễn tả tình yêu trọn vẹn khi trao hiến Thịt và Máu của mình làm của ăn, của uống cho nhân loại. Qua Bí tích Cực Thánh này, Chúa Giêsu hiện diện dưới hình bánh, hình rượu để trở nên lương thực nuôi dưỡng chúng ta, làm cho đời sống tinh thần của chúng ta được lớn mạnh không ngừng.
Chính vì thế, Bí tích Thánh Thể là "Nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống kitô hữu" (x. LG 11). "Hy lễ Thánh Thể, tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa, tiếp diễn mãi mãi Hy Lễ Thánh Giá, là tuyệt đỉnh và nguồn suối của tất cả phụng tự và đời sống Kitô giáo. Nhờ Hy Lễ Thánh Thể, sự hiệp nhất của dân Chúa được biểu lộ và thể hiện, việc xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô được hoàn tất. Bởi đấy, các Bí Tích khác và mọi hoạt động tông đồ của Giáo Hội đều quy hướng về và liên kết chặt chẽ với Bí Tích Thánh Thể" (Giáo Luật, số 897). Thật vậy, mỗi lần Hy tế Thập giá được cử hành trên bàn thờ, nhờ đó "Chúa Kitô, Chiên vượt qua của chúng ta chịu hiến tế (x. 1 Cr 5,7), thì công cuộc cứu chuộc chúng ta được thực hiện" (x. LG, số 3).
Như thế, tham dự và cử hành Bí tích Thánh Thể trong khuôn khổ Thánh lễ Tạ Ơn là việc vô cùng quan trọng trong đời sống của Giáo Hội và của mọi người tín hữu Chúa Kitô, vì đây chính là "nguồn mạch và chóp đỉnh của tất cả đời sống Kitô giáo" (x. LG, số 11) như Giáo Hội dạy.
Mỗi khi chúng ta cử hành Bí tích Thánh Thể hay tôn sùng Bí tích cao trọng này cách xứng đáng, ấy là lúc chúng ta tin nhận Bí tích Thánh Thể là "nguồn mạch và tột đỉnh" của đời sống kitô hữu. Nói cách khác, toàn thể đời sống tâm linh của kitô hữu cũng như mọi cử hành phụng vụ của Giáo Hội được bắt nguồn từ Bí Tích Thánh Thể.
Khi xác tín như thế, chúng ta cùng nhau hướng mục đích của cuộc đời mình về Chúa Giêsu như một sự quy chiếu đến cùng đích tối hậu của cuộc sống nơi mình. Đồng thời, mỗi khi cử hành và tôn sùng Bí tích Thánh Thể, Giáo Hội mời gọi con cái mình trở nên giống Chúa Giêsu ngày càng mật thiết hơn và sống mầu nhiệm Thánh Thể trong đời sống hằng ngày.
Như thế, đời sống tâm linh của chúng ta phải là con đường hai chiều. Con đường này khởi đi từ Bí tích Thánh Thể, rồi sau đó lại đưa dẫn chúng ta trở về với Thiên Chúa trong Bí tích này. Mối liên hệ trên được diễn ra trong tình yêu. Chính nhờ tình yêu, mà chúng ta cũng kết hợp với toàn thể Giáo Hội, là Nhiệm Thể Đức Kitô. Để rồi nhờ hồng ân Bí tích Thánh Thể, chúng ta thương yêu tha nhân như chính mình vì họ là hình ảnh của Thiên Chúa.
2. Sống mầu nhiệm Thánh Thể trong đời sống người kitô hữu
Đức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong Tông thư "Mane Nobiscum Domine - lạy Chúa, xin ở lại với chúng con" đã nhấn mạnh khi viết: "Mỗi lần ta dự phần vào Mình và Máu Người, chúng ta đã thực sự gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta không thể giữ lại cho riêng mình niềm hân hoan mình đã cảm nghiệm. Việc gặp gỡ riêng tư với Chúa Kitô cách thường xuyên được tăng triển và đào sâu trong Bí tích Thánh Thể khơi lên trong Giáo Hội và nơi mỗi tín hữu một lời mời gọi khẩn thiết cho việc làm chứng và rao giảng Tin Mừng" (Gioan Phaolô II, Mane Nobiscum Domine, số 24).
Người kitô hữu chúng ta không thể sống khác đi được. Nếu đi ngược lại, chúng ta đánh mất chính mình vì đã mâu thuẫn nội tại.
Vì thế, mỗi khi tham dự Thánh Lễ, nhất là rước Mình và Máu Chúa vào trong linh hồn chúng ta, hẳn là hơn bao giờ hết, chúng ta được mời gọi để trở nên thánh thiện, trong sạch hầu xứng đáng với Mầu Nhiệm ta đã lãnh nhận.
Thông hiệp vào Mầu Nhiệm Cực Thánh này, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi để đi vào tận sâu thẳm của tình yêu Thiên Chúa để cảm nghiệm được tình yêu tự hiến nơi Chúa Giêsu, Đấng đã "đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ", Ngài đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, để qua đó, mời gọi chúng ta noi gương Ngài, phục vụ anh chị em mình với sự khiêm nhường trong lòng mến.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin Chúa ban cho chúng con thêm lòng yêu mến Chúa và siêng năng tham dự Thánh lễ, rước Mình và Máu Chúa cách xứng đáng; đồng thời luôn xác tín Bí tích Thánh Thể chính là "nguồn mạch và chóp đỉnh" của đời sống Giáo Hội và nơi mỗi người chúng con. Amen.
BÁNH HẰNG SỐNG
Ga 6, 51 - 58
Lm. Bùi Quang Tuấn, CSsR
"Bánh hằng sống chính là Ta... Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời" (Gn 6, 51 - 58).
Theo sinh vật học, khi cơ thể con người thiếu đi những chất dinh dưỡng cần thiết, lúc bao tử không đủ cung cấp cho các tế bào những sinh tố căn bản thì tay chân run lên, tai ù đi, mắt mờ lại. Các hoạt động của mọi cơ phận khác cũng bị trì trệ. Lý trí dễ mất khả năng cảm nhận, suy xét và quyết định chính xác. Hậu quả là người ta mất dần những cảm quan và tương giao với tha nhân và với môi trường chung quanh. Khi bị cơn đói dày xéo, con người có thể trở nên tàn nhẫn với người khác hay bán đứng nhân phẩm của mình.
Trong Tân ước, hình ảnh của "người con hoang đàng" cũng đủ cho thấy cơn đói không những dễ khiến người ta đánh mất nhân quyền, nhưng còn nhân phẩm, và danh dự dân tộc. Vì đói anh ta chấp nhận đồng hàng với... heo.
Người Do thái coi heo là con vật ô uế bẩn thỉu. Lịch sử chứng nhận có người thà mất mạng sống còn hơn ăn thịt heo, như trường hợp "Cụ Già Elêaza" hay "Bà Mẹ Với Bảy Người Con" trong sách Macabêô. Truyền thống oai hùng xa lánh loài heo là thế. Vậy mà, vì đói người con hoang đàng chẳng màng chi nhân phẩm hay danh dự; anh chỉ mong ngốn cho đầy bụng đồ ăn của heo, một sản phẩm còn dơ nhớp hơn cả thịt heo. Thật là nhục nhã!
Người đói, kẻ nghèo không chỉ thuần tuý chịu đựng những hành hạ của thiếu thốn, nhưng lắm khi còn bị đồng loại khinh miệt và đối xử kém thua loài vật. Hình ảnh Lazarô và ông phú hộ trong Phúc âm Luca đã phác hoạ hố sâu ngăn cách giữa hai con người và hai cảnh sống. Lazarô thì nghèo quá và đói quá. Nhà phú hộ lại giàu quá và no đủ quá, cứ ngày ngày "yến tiệc linh đình". Khoảng cách giữa hai con người còn bị đào sâu bởi thái độ lạnh lùng thờ ơ của nhà phú hộ. Tâm hồn ông dường như không chút dao động trước con người sắp chết vì đói. Riêng Lazarô, không được dự phần bàn tiệc với người giàu đã đành, ngay như muốn dự phần với chó mà đợi hoài cũng chẳng thấy chi.
Đói nghèo đúng là kẻ thù của nhân phẩm, nhân quyền và sự sống. Thế nên, Giáo hội không thể ngồi yên khi phẩm giá con người bị đe doạ và tổn thương. Giáo hội Chúa Kitô không bao giờ chấp nhận vì giàu nghèo mà có cảnh con người bị đối xử như con thú.
Từ thuở khai sinh, Giáo hội không ngừng lên tiếng kêu gọi con cái mình đối xử công bằng và tôn trọng lẫn nhau, đừng khinh nghèo chuộng giàu, đừng thấy người ăn mặc bảnh bao mà xun xoe: "Mời ông an toạ nơi này", "mời ngài ngự tới nơi kia", còn người nghèo thì: "Hãy ngồi dưới bệ chân tôi" hay "anh hãy đứng đó" (Gc 2).
Nhưng do đâu có cảnh giàu nghèo? Phải chăng vì lòng ích kỷ, tham lam, và bất công của con người. Vì ích kỷ nên không muốn mất đi những gì đang có, sợ phải chia sẻ trao ban. Vì tham lam nên mạnh tay thu vét, bất chấp đúng sai, miễn sao có càng nhiều càng tốt.
Lòng ích kỷ, tính tham lam, sự bất công là những nguyên nhân trực tiếp tạo nên đói nghèo. Nhưng suy cho cùng, nguyên do chính yếu khiến cho con người trở nên hà tiện, gian dối, tàn ác, bất công là vì thiếu yêu thương.
Thiếu yêu thương nên khoá lòng khi gặp người đói khổ, không muốn san sẻ với kẻ chẳng may, đối xử với nhau mất hết tình người, và đánh mất nhân phẩm của mình cũng như đồng loại.
Vì thiếu yêu thương mà đói nghèo nảy sinh, không chỉ về thân xác vật chất, song con cả linh hồn thiêng liêng.
Đức Giêsu đã đến trong thế gian để rao giảng cho con người Tin Mừng Tình Yêu và cũng là Tin Mừng Sự Sống. Ngài mời gọi con người chia cho nhau những nén bạc hồng ân mà Thiên Chúa ban tặng, làm phong phú sự sống tha nhân trong tinh thần yêu thương sẻ chia.
Không chỉ mời gọi, Đức Giêsu còn là mẫu gương của thương yêu và trao ban tận cùng. Ngài trao ban chính mình để thế gian được sống và sống dồi dào (Gn 10:10). Ngài tự hiến toàn thân làm lương thực xoa dịu cơn đói khát của tâm hồn nhân thế.
Làm no thoả cơn đói sâu thẳm nơi con người là mục tiêu căn bản trong hành trình rao giảng của Đức Giêsu. Qua tấm bánh vật chất, Ngài hướng nhân loại đến với tấm bánh thần linh: "Ta là Bánh Hằng Sống từ trời xuống... cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn Bánh này sẽ sống đời đời" (Gn 6:51-59).
Như thế, tấm bánh thần linh chính là Ngài. Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể sẽ xoa dịu cơn đói khát tận cùng nhất của con người là yêu và được yêu.
Khi yêu thương người ta muốn hoà chung sự sống trong nhau để không còn là hai nhưng là một. Phải chăng đó cũng là lý do nhiều người hôn nhau mà cứ như ăn nhau? Có những bà mẹ thương con, vừa hôn vừa nựng: "Mẹ muốn ăn con".
Phải chăng yêu thương cũng chính là động lực khiến Thiên Chúa hủy mình, trở nên tấm bánh đơn sơ để được ăn và nên một với con người. Bài Phúc âm trong Chúa nhật Mình Thánh Chúa tuần này không dài nhưng động từ "ăn" lại được lập đi lập lại đến 9 lần.
Thiên Chúa không ăn con người nhưng lại để con người ăn Thiên Chúa. Song khi ta ăn Chúa thì không thuần tuý là ta rước Chúa vào lòng, nhưng đúng hơn, Ngài rước ta vào cung lòng yêu thương bao la của Ngài.
Trong Bí tích Thánh Thể, bạn và tôi được mời gọi nên một với Thiên Chúa bằng tình yêu đón nhận, đồng thời nên một với tha nhân trong tinh thần chia sẻ trao ban, hầu tất cả cùng được sung túc trong tình Chúa và tình người.
KẾT HỢP VỚI CHÚA và VỚI THA NHÂN
Ga 6, 51 - 58
Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
Nếu đặt câu hỏi: "Tại sao ông bà (anh chị) tham dự thánh lễ?", chúng ta sẽ có nhiều câu trả lời khác nhau: nào là để gặp lại anh chị em Kitô hữu làm thành một cộng đoàn, hiệp nhất trong một niềm tin, nào là để cầu nguyện, để nuôi dưỡng đức tin, để lắng nghe Lời Chúa... Qua tất cả những câu trả lời này, chúng ta thấy rằng đi lễ đem lại rất nhiều lợi ích. Tốt! Nhưng chúng ta chưa đề cập đến điểm chính yếu của thánh lễ.
Thánh lễ là một bí tích, một hiện thực cứu độ trong đó Chúa Kitô tự hiến mình cho chúng ta qua nghi thức phụng vụ. Chúa Giêsu nói: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ai bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống". Khi Chúa Giêsu nói về thịt Người làm lương thực, đó không phải là xương, thịt, gân cốt hoặc một phần thân thể nào đó, mà là toàn diện bản thân Người. Khi Chúa Giêsu nói đến việc cho máu của Người làm thức uống, không phải Người nói đến thứ chất lỏng màu đỏ mà là sự sống làm cho con người được sống. Nói đến mình và máu Chúa Giêsu tức là nói đến chính bản thân và sự sống của Người.
Chính bởi thân thể và máu của mình, Chúa Giêsu đã đi vào lịch sử loài người. Thánh lễ là sự nhập thể luôn tiếp diễn. Thánh Tôma Aquinô có nói: "Thánh lễ là phép lạ lớn nhất của Chúa Giêsu".
Trong thánh lễ, chúng ta cử hành việc hiến mình của Chúa Kitô làm lễ dâng lên Chúa Cha, và cùng với Người, chúng ta dâng hiến bản thân của mình. Chúng ta dâng bánh và rượu, là hoa màu ruộng đất và cũng là thành quả lao động con người. Bánh và rượu là những thức ăn thuộc về con người. Do đó, khi dâng lên Chúa Cha bánh và rượu để trở thành mình và máu Chúa Kitô, chúng ta dâng lên Người những hoạt động chân tay và tinh thần, dâng lên Người đời sống của chúng ta với tất cả nỗi vui buồn. Kết hợp với hy lễ của Chúa Kitô, Chúa Cha làm cho của lễ này có tầm vóc thần linh và vĩnh cửu. Từ đó, bánh và rượu biểu tượng cho cuộc sống toàn diện của chúng ta. Tóm lại, bánh và rượu đại diện cho chính chúng ta. Trong đức tin, bánh và rượu này, tuy không thay đổi thành phần vật lý và hóa học, bấy giờ trở thành chính Chúa Kitô, bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Thánh lễ là sự chuẩn bị cho hiệp lễ (communion, kommunion), hay nói một cách chính xác hơn, toàn thánh lễ trở thành hiệp lễ. Thánh lễ phát triển tác động của Chúa Kitô làm cho chúng ta trở thành thân thể huyền nhiệm của Người, tức là Giáo Hội. Vậy là chúng ta đã hiểu hiệp lễ quan trọng như thế nào: hiệp lễ tóm lược toàn bộ thánh lễ.
Nhiều lúc chúng ta không dám lên rước lễ vì nghĩ rằng mình không xứng đáng. Thực ra, rước lễ không phải là một công trạng hay phần thưởng cho những ai sống gương mẫu, thánh thiện. Rước lễ là một lương thực. Chúng ta hãy nhớ lại câu mà cộng đoàn đọc trước khi rước lễ: "Lạy Chúa, con chẳng (xứng) đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh". Qua câu nói này, điểm chính yếu không phải là việc nêu lên phẩm giá của mình, mà ngược lại, ý thức được rằng rước lễ không phải là một quyền lợi, nhưng là một ân huệ. Hơn nữa, thánh lễ không phải là một ân huệ trong số những ân huệ khác. Thánh lễ là chính Chúa, Đấng ban ân huệ. Khoảng cách giữa sự thánh thiện của Chúa và của chúng ta lớn đến mức không thể nào nêu lên vấn đề chúng ta có xứng đáng hay không để rước Chúa Kitô vào lòng.
Lời nguyện trên lập lại lời của viên sĩ quan đã không dám tiếp đón Chúa Giêsu vào nhà mình: "nhưng xin Ngài phán một lời" (Lc 7,7). Trong Chúa Giêsu, Lời và bản thân Người chỉ là một. Để ý đến lời mời của Chúa Giêsu "Hãy cầm lấy mà ăn" quan trọng hơn là việc tìm kiếm phẩm cách của chúng ta.
Tuy nhiên, có một vài ngoại lệ. Ngoài vấn đề những người bị vạ tuyệt thông hoặc phạm tội nặng không được rước lễ, có thể vào lúc rước lễ, chúng ta cảm thấy thực sự chưa sẵn sàng trong tâm hồn để tiến lên đón nhận Mình thánh Chúa. Rước lễ là một cử chỉ biểu hiện đức tin cao độ, vì thế phải cố gắng làm sao tránh rước lễ một cách máy móc và nhàm chán.
Tuy nhiên, cử hành thánh lễ mà không thể rước lễ là một thái độ đáng tôn trọng. Đức Cha Jacques Jullien, trong tác phẩm "Demain la famille" (Gia đình ngày mai) đã viết: "Có một số người không thể rước Chúa một cách trọn vẹn, đó là nỗi khổ của họ. Nhưng họ có thể rước Lời Chúa, kết hiệp với Chúa, với nhiệm thể của Người là Giáo Hội và hoạt động theo ân huệ của họ".
Khi chia sẻ tấm bánh duy nhất, Chúa Kitô thực hiện ý muốn của Người là làm cho chúng ta thành một thân thể, thân thể của chính Người. Rồi Người sai chúng ta đến với anh chị em. Chúa cần và mong chờ chúng ta xây dựng một thế giới công bằng và bác ái.
Ước gì trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta luôn kết hiệp với Thiên Chúa và kết hiệp với nhau. Amen.
LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA
Ga 6, 51 - 58
John Nguyễn
1. "Bánh hằng sống từ trời xuống" ở đây nghĩa là gì?
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su tuyên bố: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống". Chúng ta cần phải hiểu câu nói đó theo nghĩa nào? Chắc chắn không thể hiểu theo nghĩa đen, nghĩa là nghĩa vật chất được.
Viết tới đây tôi nghĩ tới Đường Tam Tạng đi thỉnh kinh trong truyện Tây Du Ký: nhiều yêu tinh quyết bắt ông cho bằng được để ăn thịt, vì tin rằng cứ ăn thịt ông thì sẽ trường sinh hay trường thọ. Chắc hẳn chẳng ai trong chúng ta tin được rằng thịt của Đức Giê-su (hiểu theo nghĩa vật chất) là một thứ thuốc hễ ăn vào thì được sống đời đời theo kiểu các yêu tinh tin vào thịt của Đường Tam Tạng.
Cũng khó mà hiểu được một cách thuần túy rằng Thịt đem lại sự sống đời đời ở đây chỉ là bánh Thánh Thể mà người ta vẫn nhận lãnh khi rước lễ. Vì quả thật không thể tin được là tất cả những ai lên rước lễ dù là hằng ngày thì sẽ được sống đời đời mà không cần một thái độ nội tâm nào (xin nhấn mạnh những chữ viết nghiêng này). Nếu thế thì muốn được sống đời đời quả thật quá dễ dàng! Và nếu thế thì bánh Thánh Thể quả là một thứ phù phép hay bùa chú vượt trên mọi thứ phù phép trong mọi tôn giáo! Những phù phép trong các tôn giáo nhiều lắm thì hứa hẹn một cái gì tạm thời chóng qua, chứ không hứa hạn một quyền lợi vô cùng to lớn mang tính đời đời, mà người thụ hưởng chỉ bị đòi hỏi làm một việc mang tính vật lý quá đơn giản!
Theo tôi nghĩ, chính thái độ nội tâm của ta mới là yếu tố quyết định về phía ta để Thiên Chúa ban sự sống đời đời cho ta hay không. Vì thế, việc ăn thịt và uống máu Đức Giê-su là một thái độ hay hành vi nội tâm hơn là thể lý! Không có thái độ hay hành vi nội tâm ấy, thì có rước lễ hằng ngày suốt đời cũng chẳng thể có sự sống đời đời. Thật vậy, có ai dám bảo đảm rằng những người rước lễ hằng ngày thì chắc chắn có sự sống đời đời chăng? Riêng tôi, tôi tin tưởng chắc chắn 100% rằng những ai có thái độ nội tâm giống như Đức Giê-su thì tất nhiên sẽ được Ngài ban sự sống đời đời.
Thiết tưởng, câu nói của Đức Giê-su đang được bàn tới cần hiểu theo nghĩa tâm linh, huyền nhiệm hơn là nghĩa đen. Vì nói chung, trong bất kỳ tôn giáo nào, những câu Kinh Thánh có ý nghĩa quan trọng thường được hiểu theo nghĩa huyền nhiệm hơn theo nghĩa đen. Vả lại, chính Đức Giê-su đã từng dùng từ "lương thực" hay "thức ăn" theo nghĩa tâm linh: ""Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết". Các môn đệ mới hỏi nhau : "Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?" Đức Giê-su nói với các ông: "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người"" (Ga 32-34). Thiết tưởng chữ "bánh", "của ăn", "của uống" trong bài Tin Mừng hôm nay cũng nên hiểu theo nghĩa ấy.
2. Cuộc đời và bản thân Đức Giê-su là một "chiếc bánh bị ăn"
Một trong những đặc tính căn bản nhất của đồ ăn là nó không hiện hữu vì ích lợi của nó, mà hoàn toàn vì ích lợi của người ăn nó. Nói cách khác, đặc tính căn bản của đồ ăn là hoàn toàn vị tha, không vương một chút vị kỷ nào. Đức Giê-su cũng hiện hữu và sống hoàn toàn vì Chúa Cha và vì loài người, không hề vì bản thân mình chút nào. Ngài từng nói: "Tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi" (Ga 6,38); "Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào" (Ga 10,10).
Cả cuộc đời Đức Giê-su, dù xét một cách toàn thể hay theo từng chi tiết, từng hành động, ta thấy Ngài hoàn toàn vị tha, nghĩa là sống vì Chúa Cha và vì nhân loại. Không một hành vi nào chứng tỏ Ngài vị kỷ cả. Cụ thể và hùng hồn nhất là cuộc tử nạn hết sức thê thảm của Ngài: đau khổ đến tận cùng và chết thê thảm không vì ích lợi gì cho mình, mà hoàn toàn vì yêu thương Chúa Cha và nhân loại.
Hãy nghe Ngài cầu nguyện hai lần với Chúa Cha trước khi chịu tử nạn: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha" (Mt 26,39; x. 26,42). Sự vị tha ấy đã có từ nguyên thủy khi Ngôi Hai xuống thế: "Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự" (Pl 2,6-8).
Như vậy, cả cuộc đời Ngài là một cái "bánh bị ăn", nhờ thế Thiên Chúa được vinh danh. Con người cũng nhờ thế mà "được sống và sống dồi dào" (Ga 10,10), được phục hồi lại sự sống đời đời đã bị mất vì tội nguyên tổ.
3. "Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời"
Đức Giê-su nói: "Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống". Điều ấy chắc chắn là sự that, nhưng phải hiểu theo nghĩa huyền nhiệm hơn là nghĩa đen. Vấn đề còn lại là "ăn thịt và uống máu" Đức Giê-su để "được sống muôn đời" là gì? Muốn "ăn thịt và uống máu" Đức Giê-su thì phải làm gì?
Khi tôi ăn hay uống một thức gì, thì thức ấy được tiêu hóa để trở thành thịt và máu tôi, thành các tế bào của tôi. Thức ấy mà bổ dưỡng hoặc có tính chữa bệnh thì tôi trở nên mạnh khỏe, và bệnh tôi được chữa lành. Nếu tôi ăn hay uống những thức độc hại, thì chất độc ấy cũng trở nên những tế bào độc hại trong thân thể tôi và làm cơ thể tôi suy yếu. Chắc chắn rằng tất cả các tế bào hiện nay của tôi sau mấy chục năm sống ở đời đều hoàn toàn được cấu tạo từ những thức tôi ăn hay uống vào từ bên ngoài. Chính nhờ thức ăn và thức uống mà tôi sống được. Nhưng tôi sống mạnh khỏe hay bệnh tật tùy thuộc vào thức ăn thức uống tôi đưa vào cớ thể, và cũng tùy thuộc cách thức tôi ăn uống nữa. Thức ăn hay thức uống tôi ăn vào từ từ thay thế những tế bào cũ bằng những tế bào mới trong thân thể tôi. Vì thế, nhiều thầy thuốc hay nhà sinh vật học chủ trương người ta có thể cải tạo lại sức khỏe bằng cách thay đổi đồ ăn thức uống và cả cách ăn uống nữa.
Từ thực tế trên, ta có thể hiểu được cách thức "ăn thịt và uống máu" Đức Giê-su. Đức Giê-su là Ngôi Lời, nên bản chất của Ngài là "Lời". Lời của Ngài cũng chính là của ăn thức uống. Đời sống và bản thân của Ngài cũng là của ăn thức uống như đã nói ở phần trên.
Ăn uống Ngài chính là dùng lời của Ngài, dùng gương mẫu đời sống Ngài, để suy niệm, thực hành, bắt chước hầu thay thế dần dần "chất của ta" bằng "chất của Ngài", nghĩa là ta càng ngày càng trở nên "có chất Giê-su" hơn trong quan niệm, tư tưởng, lời nói, và hành động của ta.
Nếu mỗi ngày ta thay thế 1% hay 1‰ "chất tôi" thành "chất Ngài" - ít hay nhiều tùy sự cố gắng hay quyết định của ta - thì chỉ một thời gian sau "chất tôi" đầy ích kỷ, tham lam, ghen ghét sẽ giảm đi, và "chất Ngài" đầy vị tha, đầy tình yêu sẽ tăng lên. Và tới một lúc nào đó, "chất Ngài" ở trong tôi trở thành viên mãn, nghĩa là đạt tới mức 100% (Đương nhiên thực tế không đơn sơ như vậy).
Lúc ấy tôi có thể nói như Phao-lô: "Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi" (Gl 10,20). Lúc ấy, một cách nào đấy, tôi không còn là tôi mà là Đức Ki-tô. Điều đó không có nghĩa là tôi bị vong thân, mà tôi trở nên một cái tôi hoàn hảo nhất, đúng với ước muốn sâu xa nhất của tôi là nên một con người hoàn hảo. Chính lúc ấy tôi mới tìm lại được bản thân tôi một cách trọn vẹn nhất. Đấy là cách "ăn thịt uống máu" Ngài - mà tôi nghĩ theo thiển ý mình - là hợp lý và ý nghĩa nhất. Và đó cũng là cách bảo đảm nhất để có sự sống đời đời.
Vậy thiết tưởng, mỗi khi dâng thánh lễ và lãnh nhận Thánh Thể, tức là "ăn thịt uống máu" Ngài một cách bí tích, ta cần có một thái độ hay hành vi nội tâm tương xứng là "ăn thịt uống máu" Ngài một cách huyền nhiệm hay tâm linh như đã nói trên. Có sự phối hợp bên trong lẫn bên ngoài như thế, việc lãnh nhận Thánh Thể sẽ đem lại cho ta sự sống và sức mạnh tâm linh bội phần.
4. Hãy trở nên "chiếc bánh bị ăn" như Đức Giê-su
Như vậy, "ăn thịt và uống máu" Đức Giê-su chính là suy niệm Lời và đời sống của Ngài để dần dần thay thế "chất tôi" thành "chất Ngài", biến "tôi" thành "Ngài". Nói cách khác, đó là trở nên giống Đức Giê-su hoàn toàn. Giống Đức Giê-su là giống Thiên Chúa, mà "Thiên Chúa là Tình Yêu" (1Ga 4,8.16). Tình yêu ở đây là thứ tình yêu hoàn toàn vị tha, không một chút vị kỷ. Vì thế, giống Đức Giê-su là biết yêu thương mọi người bằng một tình yêu vị tha, nghĩa là sẵn sàng trở nên "chiếc bánh bị ăn" như Đức Giê-su (theo cách nói của cha Antoine Chevrier, tu hội Prado). "Bị ăn" bởi những người chung quanh ta, nhất là những người gần gũi ta nhất (vợ chồng, con cái, cha mẹ, anh chị em, bạn bè ta). Sống như thế, hay ít nhất là cố gắng hết sức để sống như thế, chính là "ăn thịt và uống máu" Đức Giê-su, và như thế thì chắc chắn ta sẽ được sự sống đời đời.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con muốn "ăn thịt và uống máu" Đức Giê-su bằng cách mỗi ngày nhìn vào đời sống của Ngài để biến một phần rất nhỏ "chất tôi" trong con thành "chất Giê-su". Nếu mỗi ngày con chỉ biến 1‰ (một phần ngàn) "chất tôi" thành "chất Giê-su" một cách thật nghiêm túc và thành công, thì trên nguyên tắc chỉ 1.000 ngày sau - tức khoảng 3 năm - con đã được biến đổi hoàn toàn nên giống Đức Giê-su. Đó là tính theo kiểu toán học, thực tế không đơn sơ, dễ dàng và nhanh chóng như vậy. Xin cho con biết "ăn thịt và uống máu" Ngài theo kiểu ấy, để nhờ đó con có sự sống đời đời.
MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ, LƯƠNG THỰC NUÔI SỐNG CON NGƯỜI
Ga 6, 51 - 58
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Giáo Hội hôm nay trên toàn thế giới, hân hoan mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô.Trong niềm vui được làm con cái Chúa, toàn thể dân Chúa quì gối, phủ phục trước một bí tích vô cùng cao cả: BÍ TÍCH MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ. Đây là bí tích lớn lao đã làm cho tất cả mọi người phải suy phục, tôn kính vì chính Đức Kitô đã hiến thân chịu chết để cho con người được sống và sống dồi dào. Đi vào thánh lễ giờ đây là mục đích chính của chúng ta.
I. ĐỨC GIÊSU KITÔ ĐÃ LẬP BÍ TÍCH THÁNH THỂ :
Chúa Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể vào chiều thứ NămTuần thánh. Biến cố chết của Chúa không chỉ có ý nghĩa cứu chuộc một lần rồi hết, nhưng ngang qua biến cố tử nạn của Ngài, Đức Giêsu Kitô đã để lại cho các môn đệ và toàn nhân loại một bí tích cao cả, quí hóa hơn hết mọi sự: Chính Ngài đã cho nhân loại ăn thịt và uống máu của Ngài.
Soi chiếu lại biến cố ấy, bài Thứ Luật hôm nay gợi lại cảnh tượng trong sa mạc mà sách Xuất Hành đã đề cập tới: Dân Do Thái đi trong sa mạc tiến về đất hứa, kêu trách Môsê đưa họ đi, bỏ họ chết đói, chết khát. Môsê đã kêu cầu Chúa, Chúa đã tiếp cứu dân bằng cách nhậm lời Môsê kêu xin. Chúa cho Manna rơi từ trời xuống nhiều vô kể trước sự ngỡ ngàng, sửng sốt của dân, họ kêu lên "Manhu"có nghĩa là cái gì vậy ? Môsê đã cắt nghĩa cho dân, đây là bánh Manna Chúa cho từ trời rơi xuống để nuôi sống dân và Ngài đã truyền cho Môsê giơ cao cây gậy, đập vào đá tảng, nước vọt chảy ra để cho dân có nước mà uống. Dân chúng đã ăn uống no nê ròng rã nhiều năm đi trong sa mạc.
Gợi lại hình ảnh ấy,sách Thứ Luật mượn lời của Môsê nói với dân, mặc dầu Thiên Chúa đã nuôi dân bằng chính lương thực Manna, chim cút và nước, nhưng điều chính yếu không sống nguyên bởi bánh mà còn bởi lời Thiên Chúa. Thiên chúa đòi hỏi nơi con người sự tín thác, lòng cậy trông bền chặt. Hình ảnh Mannna, chim cút và nước uống là tiên trưng cho phép bí tích Chúa Giêsu sẽ lập sau này trong thời Tân Ước.
Chúa Giêsu đã lập nên bí tích tình yêu, bí tích lớn lao, cao quí khiến nó có sức mạnh nuôi sống con người về mặt linh thiêng và cả về phần xác nữa. Chúa Giêsu, ngày thứ Năm Tuần thánh đã tụ họp các môn đệ lại và trong khi dùng bữa với họ, Ngài đã lập bí tích thánh thể cho con người muôn thời được hưởng nhờ. Công bố bữa tiệc ly cuối cùng, Chúa Giêsu đã để lại bí tích thánh thể: Đang lúc họ ăn, thì Đức Giêsu cầm lấy bánh và chúc tụng, rồi bẻ ra,ban cho họ, ngài nói :" Hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Ta. ( cũng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối ), Ngài cầm lấy chén và tạ ơn, Ngài ban cho họ và nói rằng:" Hãy uống chén này hết thảy. Vì này là máu Ta, máu giao ước đổ ra vì nhiều người để nên ơn tha tội. Hãy làm việc này mà nhớ đến Ta " ( Mt 26, 26-29; Mc 14, 22-25; Lc 22, 19-22).Chúa Giêsu đã để lại cho nhân loại một bí tích lớn lao khiến mọi người được thừa hưởng chính Mình và Máu thánh Chúa. Đó là hồng ân, là niềm tin mà mọi người Kitô hữu đều phải tuyên xưng.
Thánh Phaolô cũng minh chứng về bí tích Chúa Giêsu đã lập ra, Ngài nói: " Chúa Giêsu trong đêm Ngài bị nộp, Ngài đã cầm lấy bánh và tạ ơn xong, Ngài đã bẻ ra và nói :Này là Mình Ta vì các ngươi,hãy làm sự này mà nhớ đến Ta. Cũng vậy về chén, sau khi đã dùng bữa ăn tối xong, Ngài nói :chén này là Giao Ước mới trong máu Ta, các ngươi hãy làm sự này mỗi khi uống, mà nhớ đến Ta. Vì mỗi lần anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan báo sự chết của Chúa, cho tới lúc Ngài đến "( 1co 11, 23-26 ). Thánh Phaolô gọi là sự hiệp thông, vì mọi người đều thông hiệp vào một bánh và một chén rượu là máu Đức Giêsu Kitô.
II. PHÉP MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ ĐỐI VỚI CHÚNG TA:
Là con cái Thiên Chúa, chúng ta cùng hiệp thông vào một bánh và một chén máu Chúa. Đó là sự thông hiệp kỳ diệu trong tình thương của Chúa. Bí tích Chúa lập ra là bí tích tình thương, vì tình thương con người được liên kết trong một thân thể của Chúa. Niềm tin mà con người được thông hiệp và được liên kết là niềm tin vào chính Đức Giêsu Kitô chịu chết và phục sinh. Mầu nhiệm chết và sống lại của Chúa có ý nghĩa làm cho con người được hòa hợp, liên kết trong tình yêu của Chúa.
Đức Giêsu Kitô đã nối kết mọi người trong một thân thể của Chúa.Ngài là đầu và mọi người đều là chi thể của Ngài. Ngài ước nguyện cho mọi người nên một như Cha ở trong Ngài và Ngài ở trong Cha. Trong niềm tin vì có Chúa là Cha, có chúa nuôi dưỡng con người bằng chính thân xác và máu của ngài, chúng ta được sống trong hạnh phúc vì có chúa nuôi dưỡng ta :" Chúa là Mục Tử, có Chúa chăn nuôi ta, ta chẳng còn thiếu thốn chi " ( Tv 23 ). Lời của Chúa quả là xác đáng và an ủi con người biết bao ! Chính vì thế, hiến lễ tạ ơn Chúa để lại cho ta trong bữa tiệc thánh làm cho ta cảm thấy được hạnh phúc hân hoan. Là Chúa, Chúa đã chẳng ở trên cao xa vời, nhưng Chúa hằng hiện diện trong bí tích thánh thể, trong bữa tiệc thánh hằng ngày khi linh mục diễn lại hiến lễ tạ ơn. Ta được thông dự vào tiệc thánh là thông phần vào chính sự sống của Chúa Giêsu, vào chính con người đầy tình yêu của Ngài.
Ta hãy sống xứng đáng để mỗi lần khi tham dự thánh lễ, là ta được dự phần vào bữa tiệc thánh đầy hân hoan và đầy sự sống của Chúa. Trong niềm tin vào Chúa Giêsu, Đấng yêu thương và Đấng luôn bênh vực chở che ta, ta hãy vững bước hiên ngang và tin tưởng vào Thiên Chúa.
Ước gì Mình Máu Thánh Chúa Giêsu Kitô sẽ là nguồn lương thực linh thiêng cho mọi người chúng ta hằng ngày và nhất là suốt cả cuộc sống của đời chúng ta. Amen.
KẺ PHÀM NHÂN ĐƯỢC ĂN BÁNH THIÊN THẦN
Ga 6, 51 - 58
Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb
Khi Chúa Giêsu bôn ba đó đây rao giảng Tin mừng, chúng ta thấy dân chúng đi theo Người rất đông nhưng không hẳn vì họ thán phục giáo lý hay những phép lạ Người đã làm; họ đến với Chúa Giêsu chỉ để giải quyết vấn đề "bao tử" vốn đang cồn cào trong họ (x. Ga 6, 26). Chính vì thế, tại hội đường Caphácnaum, Chúa Giêsu hướng họ đến một thứ lương thực trường cửu khi Người đề cập đến chính Thịt và Máu Người làm của ăn Thần linh dưỡng nuôi họ.
Nói đến bánh từ trời xuống, không ai trong dân Dothái lại không hiểu tường tận câu chuyện của hơn 1250 năm trước trong sa mạc khi Giavê Thiên Chúa đã dùng Manna và chim cút nuôi dưỡng cha ông họ (x.Xh 16). Ngày đó, trên hành trình về đất Hứa, dân Dothái phải trải qua nhiều khó nhọc, gian khổ trăm bề. Những gian khổ đó có đáng là gì so với thời họ còn là nô lệ bên Aicập. Thế nhưng họ quên mất điều đó. Họ chỉ biết có mỗi một điều là trước đây họ được ăn no tuy bị kìm kẹp trong vòng nô lệ. Còn bây giờ, tuy được tự do nhưng lại phải đói khát. Vì thế họ kêu trách Môsê và lẩm bẩm than trách Giavê Thiên Chúa. Ngày đó, Giavê Thiên Chúa đã cho "kẻ phàm nhân được ăn bánh thiên thần/Chúa gửi đến cho họ dồi dào lương thực" (Tv 77, 25). Manna chính là hình ảnh tiên trưng, chuẩn bị cho việc mạc khải bánh đích thực từ trời là chính Đức Kytô hiến mình làm của lễ dâng lên Chúa Cha qua cuộc khổ nạn của Người.
Những dấu lạ hoá bánh ra nhiều của Chúa Giêsu cũng không gì khác hơn là muốn hướng họ đến một thứ lương thực trường tồn. Thế nhưng dân chúng vẫn không hiểu được ý nghĩa ấy. Họ chỉ biết rằng theo ông Giêsu thì được ăn bánh no nê và chỉ dừng lại ở đó. Điều Chúa Giêsu muốn là họ cần phải tìm một thứ lương thực nuôi sống không chỉ cho thân xác vốn mỏng giòn chóng qua mà còn để nuôi sống linh hồn họ nữa. Chúa Giêsu nhắc đến thân mình Người chính là của ăn quý giá ấy. "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây"(c.51).
Rõ ràng điều Chúa Giêsu muốn là loài người được hưởng sự sống dồi dào từ chính máu thịt của Người. Lẽ dĩ nhiên máu và thịt ở đây không phải là máu thịt bình thường như người Dothái vẫn xầm xì : "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ấy được"(c.52), mà là Máu Thịt chính Chúa Giêsu sẽ hiến dâng làm của lễ dâng lên Chúa Cha khi Người bị treo trên thập giá. Như thế, chúng ta thấy, lương thực thần linh từ trời ban xuống cho nhân loại không chỉ dừng lại ở việc tin vào Con Thiên Chúa xuống thế làm người mà còn là việc lãnh nhận chính Mình và Máu của Người. Khi chúng ta ăn Thịt và uống Máu thánh Chúa Kytô là chúng ta được kết hiệp mật thiết với Người, được ở lại trong Người và nhờ đó, chúng ta có được sự sống từ chính nơi Chúa Cha. "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy" (c.56).
Hiệu Quả của việc lãnh nhận Mình và Máu Chúa Kytô không chỉ là việc Chúa Kytô ngự trị trong tâm hồn chúng ta và ngược lại, nhưng còn là việc chúng ta hưởng trọn vẹn sự sống vĩnh hằng trong nước Thiên Chúa. "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết" (c. 54). Chính vì tầm quan trọng của việc lãnh nhận linh dược vô giá này, mà Giáo hội đòi buộc mọi tín hữu cần chuẩn bị tâm hồn thật sốt sắng, nếu không, hậu quả sẽ khôn lường. Điều này được thánh Phaolô ghi lại rất rõ ràng. "Bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa... Ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa là ăn và uống án phạt mình" (1 Cr 12, 27.29).
Mừng lễ Mình Máu Chúa Kytô là dịp để chúng ta tạ ơn Thiên Chúa vì đặc ân cao trọng Người ban tặng cho loài người, vốn mỏng giòn yếu đuối và bất xứng. Đặc ân đó, Thiên Chúa vẫn hàng ngày ban tặng cho chúng ta trong bất cứ giờ cử hành thánh lễ nào diễn ra trên toàn thế giới. Bí tích Thánh Thể mời gọi chúng ta đến kín múc lương thực Thần linh qua việc lãnh nhận Mình Máu Chúa Kytô để chúng ta được kết hiệp mật thiết với Người; đồng thời giúp mỗi người chúng ta thông phần vào đời sống vĩnh hằng của Thiên Chúa ngay tại thế này.
THÁNH THỂ - TÌNH YÊU VỊ THA
Ga 6, 51 - 58
Lm Trần Thanh Sơn
1. TÌNH YÊU CỦA CON NGƯỜI
Nhìn lại cuộc sống mình, cũng như nhìn vào các đôi bạn trẻ đang yêu nhau, chúng ta sẽ thấy họ làm nhiều việc như những người mất trí. Họ hành động chẳng dựa theo một cơ sở lý luận nào cả. Người ngoài cuộc chẳng ai hiểu nổi hành động của họ, ngay cả chính bản thân họ, có khi cũng chẳng hiểu tại sao mình lại làm như vậy. Và câu trả lời cho những việc làm kỳ quặc và có khi lố bịch đối với những người xung quanh đó, tôi thiết nghĩ, chỉ có thể là: Vì Tình yêu. Với sự thúc đẩy mãnh liệt của tình yêu, chúng ta có thể làm những việc mà không ai có thể nghĩ tưởng tới. Nhưng xét cho cùng, tình yêu của các đôi bạn trẻ, của chúng ta, một cách nào đó, đều quy hướng về bản thân mình. Chúng ta yêu người khác chỉ vì yêu chính bản thân mình. Hay nói một cách khác, chúng ta muốn được yêu.
Ngoài tình yêu đôi lứa, trong cuộc sống còn có một tình yêu khác cao thượng hơn, đó là tình mẫu tử. Tình mẫu tử, giúp người mẹ có sức mạnh chịu đựng những đêm dài thức trắng bên giường bệnh của đứa con nhỏ. Với sức mạnh của tình yêu, bà sẵn sàng chấp nhận bản thân thiếu thốn để con mình được no đủ; trong tình yêu, bà luôn mở rộng đôi tay đón những đứa con đi hoang trở về. Đôi nét về các loại tình yêu như thế có lẽ giúp chúng ta hiểu được phần nào tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta.
2. TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA :
Trước hết, tình yêu của Ngài vượt hơn cả tình yêu của người mẹ như lời ngôn sứ Isaia đã nói: "Mẹ nào lại quên con đẻ của mình, cạn lòng thương đối con dạ nó đã mang? Cho dù chúng quên được nữa, thì phần Ta, Ta sẽ không hề quên ngươi" (Is 49, 15). Ngài yêu chúng ta hoàn toàn vì chúng ta. Điều đó, được Môsê kể lại cho dân Do thái trong bài sách Đệ Nhị luật mà chúng ta vừa nghe: "Các ngươi hãy nhớ tất cả đoạn đường mà Chúa là Thiên Chúa các ngươi đã dẫn đưa các ngươi qua sa mạc ...Người đã ban cho các ngươi manna làm của ăn ... đã khiến nước từ tảng đá cứng rắn vọt ra" (Đnl 8, 2-3. 15). Thiên Chúa đã làm tất cả những gì có thể để nuôi dân Do thái. Ngài đã dẫn dắt họ vượt qua hoang địa về đến Đất Hứa, cho dù họ có bất trung, cho dù họ có phản bội, kêu trách và bỏ Chúa. Họ đã quên đi hồng ân được giải thoát khỏi ách nô lệ mà lên tiếng than trách Chúa: thà cho họ chết bên Ai cập cạnh nồi thịt với những hành tỏi của Ai cập, nhưng vì yêu, Ngài sẵn sàng bỏ qua những lỗi lầm đó để đến với họ (x. Xh 14, 11-12; 16, 2-3).
Kế đó, tình yêu của Thiên Chúa lắm lúc cũng có vẻ "điên khùng", vượt quá mọi lý luận của lý trí con người như tình yêu đôi lứa. Thật vậy, nhìn lại mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người, chúng ta sẽ thấy trong mối tương quan này, Ngài không nhận lại được bất cứ điều gì. Chỉ vì yêu loài người chúng ta, Ngài đã làm những việc mà trí khôn con người không thể tưởng tượng được, đó là việc Ngài từ bỏ vinh quang của một vì Thiên Chúa, Nhập Thể làm một con người nghèo hèn ở giữa chúng ta (x. Pl 2, 6-7).
Cuộc đời Đức Giêsu, dù xét một cách toàn thể hay theo từng chi tiết, chúng ta thấy Ngài sống hoàn toàn vị tha, nghĩa là vì tình yêu đối với Chúa Cha và đối với chúng ta. Cụ thể nhất là cái chết thê thảm và nhục nhã trên thập giá của Ngài. Cái chết này không vì một ích lợi nào cho mình, nhưng chỉ vì tuân theo thánh ý Chúa Cha và lợi ích phần rỗi của quý ông bà anh chị em và tôi, như lời chúng ta vẫn tuyên xưng trong kinh Tin kính: "Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi".
Hơn thế nữa, Ngài còn để lại chính Thịt và Máu Ngài làm của ăn cho từng người chúng ta như lời Ngài phán: "Ta là Bánh Hằng Sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống" (Ga 6, 51). Hành vi này của Đức Giêsu, quả thực đã đi quá sự suy luận của con người, đến nỗi ngay cả các môn đồ của Ngài cũng đã phải thốt lên: "Lời chi mà sống sượng thế! Ai nào có thể nghe nổi?" (Ga 6, 60), và "Từ đó, nhiều môn đồ của Ngài đã rút lui, và không còn đi theo Ngài nữa" (Ga 6, 66). Tình yêu của Thiên Chúa trong bí tích Thánh Thể, quả là một sự vấp phạm cho con người.
3. ÂN SỦNG CỦA BÍ TÍCH THÁNH THỂ :
Với bí tích Thánh Thể, Đức Giêsu đã trao ban trọn vẹn và hoàn toàn con người của Ngài cho chúng ta, để nhờ Ngài chúng ta được thông phần vào sự sống của Thiên Chúa, và được sống đời đời như lời Ngài quả quyết: "Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết" (Ga 6, 54). Ngài yêu chúng ta bằng một tình yêu hoàn toàn vị tha. Ngài yêu thương chúng ta đến nỗi Ngài đã tự huỷ mình để trở nên tấm bánh và ao ước được chúng ta ăn, để chúng ta được nên một với Ngài. Vì thế, trong một đoạn Tin mừng ngắn hôm nay, động từ "ăn" đã được lập lại đến 9 lần.
Không chỉ khi hiến thân trên thập giá, trong suốt cuộc sống trần thế của mình, Đức Giêsu đã liên tục chấp nhận trở nên tấm bánh bẻ ra cho nhiều người. Ngài chấp nhận trở nên "tấm bánh bị ăn". Ngài tự nguyện trở thành của ăn cho nhiều chúng ta. Đó là một hành vi tự nguyện tiêu tan đi để cho chúng ta nhờ đó mà được sống. Cuộc sống của Ngài hoàn toàn là vì chúng ta, Ngài không kể gì đến bản thân mình, đến nỗi có lần người nhà của Ngài đã muốn đến bắt Ngài về, vì nghĩ Ngài bị mất trí (x. Mc 3, 20-21).
Tình yêu của Đức Giêsu là thế đó, còn tình yêu của tôi và quý ông bà anh chị em thì như thế nào? Nếu như trong cuộc sống thường ngày, chúng ta vẫn trách những đứa con bất hiếu với cha mẹ, phê phán những con người bạc tình, không biết quý trọng tình yêu mà người khác dành cho họ. Chúng ta trách những người trong cuộc không biết đáp lại tình yêu. Thế nhưng, nhìn lại mình, chúng ta có đáp lại tình yêu của Con Thiên Chúa đã tỏ bày cho chúng ta nơi bí tích Thánh Thể không? Nếu như chúng ta còn cảm thấy thật nặng nề khi đến với Ngài trong Thánh lễ. Chúng ta còn tính toán với Ngài từng phút giây dành ra để tôn thờ Ngài. Thậm chí, khi tham dự Thánh lễ, chúng ta cũng chẳng buồn đón nhận Ngài vào nhà tâm hồn của mình, thì có lẽ, chúng ta cũng chẳng khác gì những người bội bạc mà chúng ta trách cứ trong cuộc sống thường ngày.
Đặc biệt hôm nay, trong ngày lễ kính Mình Máu Đức Kitô, ước gì tất cả chúng ta nhận ra tình yêu bao la mà Con Thiên Chúa đã dành cho từng người chúng ta, để rồi chúng ta biết dành ra một khoảng thời gian thích hợp đến tôn thờ Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, để tạ ơn Ngài, tâm sự với Ngài về tất cả những nỗi lo âu, băn khoăn, khắc khoải của chúng ta trong cuộc sống. Và ngay trong Thánh lễ này, chớ gì tất cả chúng ta, những người hiện diện nơi đây đều dọn lòng sốt sắng, sẵn sàng đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể, để rồi nói như thánh Phaolô: "Vì có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ một thân thể, vì hết thảy chúng ta thông phần cùng một tấm bánh" (1 Cr 10, 17). Và rồi khi trở về nhà, từng người chúng ta lại trở nên "tấm bánh bẻ ra" cho nhiều người khác. Được như thế, tôi thiết nghĩ, chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: "Tôi sống nhưng không phải tôi mà là Đức Kitô đang sống trong tôi" (Gl 2, 20). Amen.
AI ĂN THỊT TA VÀ UỐNG MÁU TA
Ga 6, 51 - 58
Sr Mai An Linh, OP
"Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy"
Hôm nay chúng ta cùng với Hội Thánh mừng kính trọng thể lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Trong Bí Tích Thánh Thể, chúng ta được đón nhận chính Đức Giêsu là nguồn của mọi ân phúc. Nên giờ đây Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đến để tham dự bữa tiệc thánh trong Thánh lễ này, với lời tha thiết đầy yêu thương : "Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy"(c.56).
Thịt máu là thân xác cụ thể của con người, thân xác ấy giúp chúng ta liên đới với người khác, là phương tiện truyền thông với người khác. Thân xác Chúa Giêsu cũng là cách thế tại thế và Ngài cũng chấp nhận những qui luật của không gian và thời gian như chúng ta nên Ngài cũng được sinh ra, cũng mệt nhọc, đói khát, buồn sầu, nhỏ lệ bên mộ người bạn thân, khóc thương Giêrusalem, quằn quại trên thập giá và chết. Nhưng sau Phục Sinh thân xác Ngài đã được vinh hiển, không còn lệ thuộc không gian và thời gian. Ngài xử dụng phương tiện và cách thế khác là bánh và rượu để ở với những kẻ tin vào Ngài.
Chúa Giêsu chọn bánh để làm phương tiện vì bánh là hoa quả của trái đất, công lao khó nhọc của con người và được con người nghiền nát để ăn, biến thành thịt máu họ, duy trì và phát triển sự sống. Và bản chất của bánh là để cho người khác, vì ngừơi khác. Nhìn vào cuộc đời Chúa Giêsu, chúng ta thấy nét " vị tha" rất rõ: Ngài làm người vì chúng ta, rao giảng, chịu thương khó, chịu chết, Phục Sinh vì chúng ta.
Khi chúng ta ăn là chúng ta làm cho đồ ăn biến thành thịt máu của mình để duy trì và phát triển sự sống. Nếu ăn mà không tiêu hóa thì sẽ bị bệnh. Vì thế, khi chúng ta ăn Thân Mình Chúa thì chúng ta cũng phải chuyển cái " vị tha" nơi Chúa Giêsu thành xương thịt, máu huyết mình, để cái " vị kỷ" nơi mình mất đi và " vị tha" lớn lên. Đó chính là sự sống của Chúa châu lưu trong mình ta : Chất yêu của Thiên Chúa ở trong ta "ai yêu thì sinh bởi Thiên Chúa". Nếu chúng ta chưa làm được điều đó có nghĩa là việc chúng ta ăn Thịt Máu Chúa qua Bí Tích Thánh Thể đang có vấn đề, cần phải xét lại ! Thế nhưng thường người ta hay chạy trốn, vì vị tha đòi phải chết cho cái tôi. Nhưng Chúa Giêsu xác quyết : Ngài là bánh sự sống và là bánh hằng sống. Ngài ban sự sống Thần Linh cho nhân lọai, ai ăn thì có sự sống đời đời. Đó là mạc khải cao nhất, qua đó Ngài thực hiện công việc cứu độ.
Ăn Thịt Máu Chúa sẽ đem lại sự sống đời đời, mà sống mãi thì ai cũng mong muốn, vậy đáng lý trước câu nói của Chúa Giêsu phải làm cho người đương thời hứng khởi và khao khát ăn thứ của ăn ấy chứ? Tại sao họ lại xô xát nhau, tranh luận sôi nổi?(Jn.6,52) Chỉ vì họ đã không tin vào Lời Chúa Giêsu và họ cho rằng ăn thịt người là bất nhân, uống máu là vô đạo. Chúng ta ngày nay cũng phản ứng như họ, tuy không bằng lời nói nhưng trong thực hành : Đó là không khao khát ăn thứ bánh cho sự sống đời đời, nên tham dự bữa tiệc Thánh mà lại không ăn, và có ăn thì niềm tin không đủ nên đã không sinh tác dụng, chưa vị tha như Chúa Giêsu, còn nhiều vị kỷ. Chỉ khi nào Ngài chuyển thành ta, ta được biến đổi, ta được kết hợp chặt chẽ với Ngài, mọi tư tưởng, hành vi, ngôn ngữ phải đều do Chúa Giêsu tác động, lúc đó việc ăn Thịt Máu Chúa mới thành công.
Như thế khi nhận lãnh Bánh Ngài ban, tôi cũng phải trở thành bánh thiết đãi tha nhân như Ngài. Điều Chúa đòi hỏi khó thực hiện, chỉ có Cha, Thần khí của Cha gửi tới mới biến đổi được lòng người. Nhờ sinh lại bởi Thần Khí, mầm sống vị tha sẽ được gieo vào và phát triển trong ta.
Sự sống đời đời được ban cho chúng ta ngay tại thế, đó là ơn sủng, sẽ triển nở trong vinh quang của việc thị kiến chính Thiên Chúa cùng với thân xác được sống lại trong ngày sau hết. Vì thế, trong năm Thánh Thể này chúng ta hãy tha thiết ăn thứ bánh trường sinh, và tôn sùng Thánh Thể Chúa mỗi ngày.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, hằng ngày chúng con được phúc đón nhận Bí Tích cực trọng này, xin cho chúng con biết noi gương Chúa sẵn sàng hiến thân mình từng giây phút trong cuộc đời, chấp nhận nghiền nát để trở thành tám bánh đền tội tiến dâng Chúa và phục vụ anh em đồng lọai.
BÍ TÍCH THÁNH THỂ
Ga 6, 51 - 58
Lm. Giacôbê Phạm văn Phượng, OP.
Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu cầm bánh trong tay và nói trước mặt các môn đệ : "Đây là Mình Thầy", lập tức mọi người hiểu rằng tấm bánh kia là thân thể Chúa, nghĩa là tấm bánh kia, bên ngoài có hình thù, mầu sắc, hương vị của bánh nhưng bản thể của bánh đã biến sang bản thể của Thiên Chúa. Làm sao có thể như thế được ? Đối với Thiên Chúa thì không thành vấn đề, bởi vì Thiên Chúa đã từng làm cho có man-na đầy tràn ở trong hoang địa, và nước trở thành rượu ngon ở tiệc cưới Ca-na, thì việc biến bánh ra Mình Chúa đối với Chúa là chuyện dễ dàng, dễ dàng đến độ Ngài chỉ cần một lời nói "Đây là Mình Thầy". Có ai trong chúng ta dám nói tôi là thế này tôi là thế nọ không ? thí dụ : "Tôi là ánh sáng". Chúng ta chỉ có thể nói : "Tôi có ánh sáng" hay "tôi chế ra ánh sáng La-de", chứ không ai có thể nói : "Tôi là ánh sáng". Chỉ có Thiên Chúa, Đấng tạo dựng ra ánh sáng, mới có nền tảng mà tuyên bố "Tôi là ánh sáng". Cho nên, khi Chúa nói : "Đây là Mình Thầy" là một câu nói quả quyết, một câu nói quả quyết sự đồng nhất.
Một số người chối bí tích Thánh Thể đã cho rằng : câu Chúa nói "Đây là Mình Thầy" chỉ có ý nghĩa tượng trưng, ám chỉ một việc khác. Chúng ta có thể trả lời như sau : Để có ý nghĩa tượng trưng, phải có một trong bốn ý sau đây : Thứ nhất, một cái gì tượng trưng rõ ràng, chẳng hạn khi chúng ta chỉ vào pho tượng thánh Giuse mà nói : "Đây là thánh Giuse". Thứ hai, một kiểu nói dụ ngôn, chẳng hạn như hạt giống gieo là lời Chúa. Thứ ba, một ý nghĩa tượng trưng tự nó, chẳng hạn như tre trúc trượng trưng cho lòng ngay thẳng, bông huệ tượng trưng cho sự trinh khiết. Thứ tư, một bản văn ám chỉ tới một chuyện khác, chẳng hạn I-sa-ác ám chỉ Chúa Giêsu. Lời truyền phép của Chúa Giêsu không ở trong bốn trường hợp đó. Tự bản chất và công dụng của bánh không bao giờ ám chỉ đến thân thể. Chúa cũng không cắt nghĩa gì thêm, vì quá rõ ràng, đến nỗi người Do Thái lấy làm chướng tai, không nghe được và bỏ đi. Trong Cựu Ước cũng như Tân Ước không bao giờ dùng tấm bánh để ám chỉ về người ta, cho nên, câu Chúa nói "Đây là Mình Thầy" phải hiểu là một chân lý quyền năng của Chúa.
Như vậy, câu Chúa nói "Đây là Mình Thầy" là Chúa lập bí tích Thánh Thể. Đây là điều chắn chắn, là chân lý tuyệt đối, nhắc nhở chúng ta những điều quan trọng sau đây :
Thứ nhất, Chúa Kitô hiện diện thật sự trong phép Thánh Thể. Chúa Kitô ở trong phép Thánh Thể là Chúa Kitô vinh hiển, nhân tính Ngài hiện diện trong bí tích đó không còn đau khổ, buồn phiền, cô đơn nữa. Những kiểu nói Ngài cô đơn, vắng lặng trong nhà tạm chỉ là để nhắc nhở thái độ dễ vô ơn, thờ ơ và xa vắng của chúng ta đối với Chúa.
Thứ hai, Chúa Kitô hiện diện trong phép Thánh Thể là trạng thái hết sức khiêm hạ vì thương yêu loài người. Chúa âm thầm tự trở nên một tù nhân giữa loài người. Phải có một tình yêu cao độ chúng ta mới hiểu được sự ở lại trong khiêm hạ này. Cũng trong sự khiêm hạ âm thầm này mà có biết bao phạm thượng, lộng ngôn xúc phạm đến Chúa qua bao thế hệ. Đó cũng là lý do nữa nhắc nhở chúng ta thêm lòng kính mến, tôn thờ bí tích Tình yêu tột đỉnh này.
Thứ ba, Chúa Kitô với hai bản tính đều ở trong bánh và rượu. Ở mỗi hình thái đều có đủ Chúa Kitô thật. Nhưng chúng ta nên nhớ : Chúa Kitô ở trong hình thái bánh rượu không còn lệ thuộc vào không gian, thời gian hay trương độ, trọng lượng như xác thịt người phàm nữa. Ngài ngự trong hình bánh rượu, Ngài nghe, biết, thấy chúng ta cầu nguyện, không bằng con mắt xác thịt như chúng ta mà bằng thần tính của Thiên Chúa. Cho nên, chúng ta hãy siêng năng đến cầu nguyện với Chúa trong Thánh Thể.
Chúng ta hãy nhớ và thực hành hai điều sau : Thứ nhất, mỗi khi tham dự thánh lễ, chúng ta hãy cố gắng rước lễ, bởi vì chả lẽ đi dự tiệc mà lại không ăn tiệc ? Chúng ta phải chuẩn bị chu đáo để rước lễ. Nhưng cũng đừng vì một đôi khuyết điểm hay yếu đuối nhỏ mà chúng ta nghĩ rằng mình không xứng đáng rước Chúa. Thật ra khi rước lễ, tình yêu chúng ta dành cho Chúa Giêsu đủ để Ngài tha thứ những tội nhẹ và khuyết điểm của chúng ta.Thứ hai, ngoài thánh lễ, Chúa vẫn ở với chúng ta trong nhà tạm Vì thế, mỗi khi vào nhà thờ chúng ta hãy ý thức sự hiện diện của Chúa, chúng ta cúi đầu hay bái gối với một lòng biết ơn và kính trọng, rồi chúng ta bắt đầu cầu nguyện với một lòng tin sâu xa : Chúa Kitô đang hiện diện thực sự trước chúng ta, đang lắng nghe chúng ta, đang muốn ban ơn cho chúng ta.
BÍ TÍCH TÌNH YÊU
Ga 6, 51 - 58
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Còn gì diệu kỳ và cao vời bằng việc Chúa Giêsu đã vâng lệnh Chúa Cha gánh tội cho toàn thể nhân loại :" Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu" ( Ga 15, 13 ). Chúa đã chết thay cho con người, cho loài người. Đó là điều vô cùng cao quí. Chúa lại còn yêu thương trần gian để lại chính Mình và Máu của Người để nuôi sống nhân loại. " Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời " ( Ga 6, 51 ).
THIÊN CHÚA YÊU THƯƠNG DÂN CỦA NGƯỜI:
Cuộc hành trình của dân Do Thái đi vào đất hứa là một cuộc hành trình dài dằng dẵng, khó khăn, thử thách trăm bề. Dân Do Thái đã có lúc nản chán, đã có lúc thất vọng muốn bỏ cuộc. Theo đoạn sách Đệ Nhị Luật chúng ta đọc hôm nay, Thiên Chúa luôn ở bên dân, luôn chăm sóc dân, khi dân đói Ngài cho Manna từ trời rơi xuống để nuôi dân hằng ngày; lúc dân khát không có bất cứ một giọt nước nào cho họ và đàn súc vật, Ngài lại sai Môsê lấy gậy đập vào đá tức khắc nước tuôn chảy tràn trề khiến dân có nước uống và đàn súc vật cũng được uống no nê. Thực tế, đây là những việc thật lạ lùng Thiên Chúa đã làm vì yêu thương dân chúng và tác giả sách Đệ Nhị Luật đã ghi chép lại để lưu truyền lại cho con cháu, hầu con cháu hiểu được tình thương vô biên của Chúa như thế nào đối với dân của Ngài. Manna và nước Thiên Chúa ban cho dân Do Thái trong cuộc hành trình sa mạc chỉ là lương thực và nước uống tạm, dân ăn Manna và uống nước từ tảng đá của Môsê dùng gậy đập vào rồi vẫn chết. Chúa Giêsu hôm nay đã khẳng định cách dứt khoát :" Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống ". Thịt và Máu của Chúa hoàn toàn khác biệt với Manna từ trời rơi xuống để nuôi dân Do Thái và nước từ những tảng đá chảy ra chỉ là nước lã mà thôi. "Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời "( Ga 6, 51 ), Chúa Giêsu không nhằm thỏa mãn cái đói cái khát của con người. Ngài ban chính Thịt và Máu của mình làm của ăn của uống nuôi sống con người. Đây quả thực là Bí Tích Tình Yêu, Bí Tích cao vời chỉ có đức tin con người mới có thể hiểu được.
THỊT VÀ MÁU CỦA CHÚA GIÊSU LÀ CỦA ĂN, CỦA UỐNG ĐEM LẠI CHO CON NGƯỜI SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI :
Thịt nói lên cả ý nghĩa thần linh, nuôi linh hồn con người, dẫn con người đến sự sống đời đời, sự sống vĩnh cửu. Thịt của Chúa Giêsu còn ám chỉ đến việc Nhập Thể của Người. Việc Nhập Thể của Chúa Giêsu mang lại cho mỗi người, cho loài người ơn cứu độ :" Ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa ". Chúa Giêsu đã chấp nhận hoàn toàn theo ý định của Thiên Chúa Cha để cứu rỗi loài người, cứu độ con người. Chính vì thế, thánh Phaolô trong bài đọc hai ngày lễ hôm nay đã nhấn mạnh đến việc hiệp thông với Chúa Giêsu Thánh Thể, nghĩa là trở nên một với Người :" Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy " ( Ga 6, 56 ). Ăn thịt và uống máu Chúa Kitô người Kitô hữu lãnh nhận một động lực mạnh nhất là xua tan những đà cản, những mối hận thù, bất hòa để họ có thể đến với anh em, đến với tha nhân trong yêu thương, cảm thông và tha thứ. Khi mời gọi:" Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy ", Chúa Giêsu muốn mời gọi mọi người Kitô hữu hãy lập lại cái chết tự hiến vì yêu thương của Người, bằng cả cuộc sống phục vụ, hy sinh, quảng đại và trao ban. Vì là Bí Tích Tình Yêu, mỗi lần lãnh nhận Mình và Máu Chúa Giêsu, người Kitô hữu hân hoan, ý thức rõ ràng mình đang lãnh nhận tình yêu vô biên của Chúa và họ sẵn sàng chia sẻ tình yêu họ lãnh nhận cho tha nhân, cho những người anh em đồng loại. Bởi vì Chúa đã hứa :" Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết"( Ga 6, 54).
ĐÁP LẠI TÌNH YÊU CỦA CHÚA :
Từ nhà Tiệc Ly năm xưa, khi Chúa Giêsu cầm lấy bánh tạ ơn Chúa Cha, rồi trao cho các môn đệ mà nói :" Hãy nhận lấy mà ăn...Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy " và Chúa cũng cầm rượu tạ ơn Chúa Cha và trao cho các môn đệ mà nói :" Hãy nhận lấy mà uống...Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy ". Cử chỉ của Chúa Giêsu trong nhà Tiệc Ly đã thay đổi các môn đệ hoàn toàn, họ sẽ yếu đuối, họ sẽ vấp ngã, họ sẽ chối Thầy, họ sẽ phản Thầy, nhưng tấm bánh và chén rượu Chúa trao cho các môn đệ là Mình và Máu của Ngài đã trở nên sự cảm thông, sự tha thứ, ơn giải thoát. Khi lãnh nhận Mình và Máu của Chúa Giêsu, các một đệ tiếp nhận sự chết và phục sinh của Ngài.Điều ấy cho các môn đệ hiểu rõ ơn cứu độ Chúa dành cho các ông và cho nhân loại. Suốt dòng lịch sử cứu độ, suốt cuộc hành trình đức tin, Bí Tích Thánh Thể luôn được cử hành mọi nơi, mọi lúc trong các nhà thờ, nơi có các linh mục, những cánh tay nối dài của Chúa Giêsu. Thánh lễ trở nên trung tâm của đời sống Kitô giáo và Bí Tích Thánh Thể trở nên tình yêu vô biên của Chúa đối với con người, đối với thế giới. Thánh lễ phải được người Kitô hữu đưa vào cuộc sống hằng ngày và Bí Tích Thánh Thể luôn là lương thực dồi dào, quí hóa nuôi sống con người. Tuy nhiên, trước tình yêu cao vời, hy sinh, tự hiến của Chúa :" Khi nào Ta được treo lên khỏi mặt đất, Ta sẽ lôi kéo mọi người đến cùng ta ". Hội Thánh mời gọi mọi người Kitô hữu luôn hiệp thông với nhau trong Bi Tich Thánh Thể và khi đã lãnh nhận Mình Máu của Chúa Giêsu Kitô, người Kitô hữu không ích kỷ nhận cho riêng mình mà Mình Máu của Chúa còn nhắc nhở các Kitô hữu sống là phải chia sẻ và trao ban, sống là yêu thương và hy sinh cho nhau. Người Kitô hữu luôn luôn phải sẵn sàng dọn tâm hồn để lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể mỗi lần tham dự thánh lễ và hết lòng tôn sùng, kính thờ Bí Tích yêu thương lớn lao này.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn khao khát và sốt sắng rước Mình và Máu Chúa. Amen.
CHÚA NHẬT MÌNH VÀ MÁU CHÚA
Ga 6, 51 - 58
Anmai, CSsR
Các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay đã cho chúng ta thấy rõ Chúa Giêsu khẳng định cho chúng ta : "Ngài chính là Bánh Hằng Sống từ Trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời ...". Ngày xưa, tổ tiên, cha ông của người Do Thái được Chúa ban cho man-na nhưng rồi cũng sẽ chết. Còn với Chúa Giêsu, Ngài là Bánh Hằng Sống, Bánh Hằng Sống chính là Bí Tích Thánh Thể, là Mình và Máu Chúa ban cho con người.
Có người tin và có người không tin. Những người Do Thái không tin nên đã tranh luận sôi nổi sau khi nghe Chúa nói Chúa là Bánh Hằng Sống. Họ không dừng lại ở chuyện tranh luận nhưng họ đã đi quá xa cái chuyện tranh luận và cuối cùng đã dẫn họ đến chuyện kết án tử cho Chúa. Đặc biệt trong giờ phút chia ly, trong giờ phút trước khi chịu án tử, Chúa Giêsu đã trối lại cho các môn đệ Bí Tích Tình Yêu. Bí Tích Tình Yêu của Chúa đã lập hơn 2000 năm qua và Ngài vẫn còn mở ngõ cho sự đón nhận của con người. Ngày xưa vẫn thế và ngày nay vẫn vậy. Có những người không tin đã đành, có những người tin, vẫn đi tham dự Thánh lễ nhưng vẫn chưa sống mầu nhiệm Thánh Thể mà Chúa mời gọi.
Khi được nâng lên thành một Bí Tích, bữa ăn với lương thực chính là Đức Giêsu càng có giá trị vô song, đó là cho con người có chính sự sống của Thiên Chúa, và nhờ đó dần dần được tham dự vào thế giới Thiên Chúa, thế giới của vĩnh hằng và sung mãn. Sự sống ấy đã là cơ nghiệp Chúa Giêsu để lại cho ta rồi, như Ngài đã nói: "Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời và Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết"(Ga 6, 54), cũng như cho con người sống với những kích thước lớn nhất và sâu nhất. Được mang lấy Đức Kitô trong mình, người kitô hữu cũng phải sống tinh thần của Ngài, mà Đức Kitô không sống cho riêng mình nhưng sống cho Chúa Cha và cho nhân loại. Ta trở nên một với Ngài không chỉ trong lúc cử hành Thánh Thể, nhưng cuộc đời của ta phải là một thánh lễ nối dài, đang khi trở về với cuộc sống thường nhật, mỗi người hãy ngợi khen và chúc tụng Chúa.
Chỉ xin đưa ra ba chiều kích nhỏ của việc sống Bí Tích Tình Yêu.
Hiệp thông với Thiên Chúa.
Trong cuộc lữ hành trần thế, Giáo Hội được gọi gìn giữ và cổ võ sự hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa và sự hiệp thông giữa các tín hữu. Vì mục tiêu ấy Giáo Hội có được lời Chúa và các Bí Tích, đặc biệt là Bí Tích Thánh Thể, nhờ đó Giáo Hội luôn sống động, tăng triển. Thánh Thể xuất hiện như đỉnh cao của tất cả các Bí Tích, vì nó làm cho nên hoàn thiện mối hiệp thông của chúng ta với Chúa Cha, bằng đồng hoá với Người Con yêu dấu của Người, nhờ hoạt động Chúa Thánh Thần với một đức tin sâu sắc.
Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã viết: "Khi bạn không được rước Mình Thánh Chúa và không tham dự thánh lễ, bạn có thể rước lễ thiêng liêng, đây là một thực hành đem lại nhiều ơn ích, qua đó tình yêu Thiên Chúa sẽ ấn dấu mạnh mẽ trên bạn".
Việc trở nên chi thể Đức Kitô do Bí Tích Thanh Tẩy thực hiện, không ngừng được đổi mới và củng cố nhờ tham dự vào hy lễ tạ ơn, nhất là việc thông hiệp trọn vẹn qua việc rước lễ. Chúng ta có thể nói rằng không những mỗi người chúng ta tiếp nhận Đức Kitô, nhưng Đức Kitô tiếp nhận mỗi người chúng ta. Người thắt chặt tình bằng hữu với chúng ta: "Anh em là bạn hữu của Thầy" (Ga 15, 14). Quả thật, chính nhờ Người mà chúng ta có sự sống: "Ai ăn Ta sẽ nhờ Ta mà được sống" (Ga 6,57). Việc rước lễ thể hiện cách tuyệt đỉnh việc "ở trong nhau", giữa Đức Kitô và mỗi môn đệ của Người: "Anh em hãy ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong anh em" (Ga 15, 4). Nhờ cử hành Bí Tích Thánh Thể, ngay từ bây giờ chúng ta được kết hợp với phụng vụ trên trời và tiền dự vào sự sống vĩnh cửu, khi Thiên Chúa có toàn quyền trên mọi sự (1Cr 15, 28).
Bởi thế, thánh Augustino đã kêu gọi: "Chúng ta hãy đến hiệp lễ, với lòng xác tín hiệp thông Mình và Máu Chúa Kitô. Vì dưới hình thức bánh, chính thân xác Người được ban cho bạn, còn dưới hình rượu thì có Máu Người, bạn chỉ còn là một Mình và một Máu với Người".
Vậy ăn lấy Đức Kitô trong tâm hồn là gì ? phải chăng là sự lãnh nhận tinh thần và sự sống của Người, một sự quyện lấy nhau, người này ở trong người kia. Nơi Chúa chỉ có một sự sống duy nhất là sống cho nhau và cho người khác.
Chia sẻ và trao ban.
Trao đổi, chia sẻ trong Bí Tích Thánh Thể được đẩy đến mức tận cùng. Bánh ơn trời, hoa màu của ruộng đất và công lao của con người, xin dâng lên Thiên Chúa! Con người dâng lên và Thiên chúa trao lại tất cả. Chính trong Bí Tích Thánh Thể mà người Kitô Hữu sống lấy giây phút hiện tại, điều mà thánh Gioan đã thốt lên: Thiên chúa đã yêu thương thế gian như thế đó, đến nỗi đã thí ban Người Con Một ... (Ga 3,16); và cũng chính trong Bí Tích Thánh Thể mà chúng ta có thể "trút cả mọi lo âu cho Chúa, vì Người chăm sóc chúng ta" (1Pr 5,7). Trong Bí Tích Thánh Thể, chia sẻ không còn chỉ là lời lẽ hay quà tặng bên ngoài, mà là chia sẻ đến mức không tưởng: "Anh em hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Thầy ...". Quà tặng Người trao chính là thân mình tự hiến của Người. Đó là tuyệt đỉnh của tình yêu.
Thân mình tự hiến cho chúng ta, phải chăng chính là để chúng ta biết tự hiến thân mình cho anh em? Chắc hẳn đó mới là sự trao đổi và cũng là sự tưởng nhớ mà Đức Giêsu mong muốn: "Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy". Đón nhận tấm bánh bẻ ra, thúc giục người Kitô Hữu phải chia sẻ bánh trong cuộc sống hằng ngày, đó là chia sẻ bánh bác ái, những gì chúng ta là và những gì chúng ta có, nó phải biến đổi chúng ta thành những người đồng bàn trong Giáo Hội và với từng con người, nó cũng dạy chúng ta cách phục vụ Giáo Hội qua anh chị em mình.
Việc cử hành Thánh Thể kêu gọi ta thực thi đức ái cách mãnh liệt, bằng cách lưu tâm đặc biệt đến anh em túng thiếu, những người được miêu tả như "bí tích hiện diện của Đức Kitô". Như thánh Gioan Kim Khẩu đã nói: "Bạn muốn tôn kính thân mình Chúa. Bạn đừng khinh thường khi thấy thân mình này được bao phủ bởi những giẻ rách, sau khi tôn vinh thân mình trong nhà thờ, được vận toàn lụa là, bạn đừng để thân mình bên ngoài bị lạnh, đừng để thân mình này lâm cảnh khốn cùng ... Đấng đã nói: "Đây là Mình Tôi", và bảo đảm với bạn những điều đó là thật, Đấng ấy cũng nói: Điều mà ngươi không làm cho kẻ bé mọn nhất này là chính người cũng không làm cho Ta.
Bí tích Thánh Thể đòi buộc chúng ta phải chăm sóc người nghèo. Để thực sự lãnh nhận Mình và Máu Đức Kitô đã nộp vì chúng ta, chúng ta phải nhậnï ra Người trong những người nghèo nhất. Thánh Thể thực sự dẫn đến yêu thương và thái độ phục vụ mà Đức Kitô yêu cầu các môn đệ thực hiện (Lc 22, 24-27; Ga 13, 14). Đáp lại sự tranh chấp của các môn đệ, là hành vi cúi xuống rửa chân của Đức Giêsu. Người đã trở nên gương mẫu yêu thương phục vụ tha nhân cách khiêm nhường (Ga 13, 14-17). Một tình yêu khiến Người trở nên của ăn "Đây là Mình Thầy hiến tế vì anh em" (Lc 22, 19). Một tình yêu được nâng lên thành một luật nền tảng, đúng hơn là một lối sống, làm mô phạm cho mọi người, mọi tương quan trong Giáo Hội "Các con hãy làm như Thầy đã làm cho các con" (Ga 13, 15). Điều này được thực hiện sống động nơi cộng đoàn tiên khởi: hiệp thông, chuyên cần bẻ bánh, cầu nguyện không ngừng, giúp đỡ người nghèo, những khách hành hương, thăm viếng các tù nhân và nuôi dưỡng những ai túng thiếu (Cv 2, 42- 47; 4, 32-35; 5, 14, 46).
Đức ái Kitô Giáo chỉ thực hiện được, nếu tình yêu Thiên Chúa được chuyển từ Đấng Cứu Thế sang cho người khác.
Biến đổi và thăng hoa cuộc sống.
Một câu hát có lẽ đã đi sâu vào ký ức nhiều người:
"Chúa đến thăm con, thăm con mỗi sáng ngày
Linh hồn thấy lại tuổi thơ ngây ...".
Cuộc viếng thăm đích thực nào cũng động chạm tới cõi lòng và làm biến đổi cuộc sống. Biến đổi sẽ đến mức trọn vẹn khi ta có thể thốt lên: "Tôi sống nhưng không phải tôi, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi" (Gl 2, 20).
Đức Kitô đến thăm viếng tâm hồn mỗi người Kitô Hữu, nhưng điều quan trọng là sự biến đổi nơi người kitô hữu, người đón nhận cuộc viếng thăm. Nếu sự biến đổi bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa Kitô là trên bình diện thân thể, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, thì cũng dưới tác động của Chúa Thánh Thần, người Kitô Hữu biến đổi tận bình diện nào khi lãnh nhận Thánh Thể ? Nói khác đi Thiên Chúa viếng thăm, chấp nhận ra khỏi chính mình để mang lấy những gì thuộc về con người, vậy con ngườiù liệu có ra khỏi chính mình để nhận lấy những gì thuộc về Thiên Chúa hay không ? Câu trả lời tất nhiên thuộc về Thánh Thần và thái độ tâm hồn của mỗi người chúng ta.
Tham dự Thánh Lễ là tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể, là cảm nếm trước bàn tiệc Nước Trời, nơi đó Chúa Kitô mời gọi mọi tín hữu đến rước lấy Ngài để có sự sống đời đời. Do đó mỗi khi tham dự Thánh Lễ, người tín hữu sẽ rước Thánh Thể để nuôi dưỡng đời sống đức tin. Đức ấy phải được hiện tại hóa qua đời sống hằng ngày. Thánh Phaolô đã lưu ý mọi Kitô Hữu về sự kết hợp với Thiên Chúa qua tất cả thụ tạo và việc làm, như một cách hiểu Thánh Thể nối dài trong cuộc sống: "Dù ăn, dù uống hay bất cứ làm việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa" (1Cr 10, 31). Đồng thời ngài cũng cảnh cáo sự chia rẽ giữa các tín hữu với nhau. Nói khác đi, Phaolô lên án việc cử hành Bí Tích Thánh Thể cắt đứt với cuộc sống thật: Tất cả cùng hiệp thông với một thân mình Chúa Kitô qua tấm bánh và chén rượu duy nhất, nhưng lại phân biệt giàu nghèo và chia rẽ nhau" (1Cr 11, 17-34).
Bữa tiệc Thánh Thể phát sinh một hiệu quả thánh hóa thân xác ta. Thánh Thể tác động một cách thần thiêng, gây ảnh hưởng không phải bằng sự đụng chạm khả giác nhưng bằng sự lan tỏa Chúa Thánh Thần, mà Mình Thánh Chúa đang mang theo. Phẩm giá của xác thịt nhân loại ngày càng trở nên cao trọng nhờ việc rước Thánh Thể. Một cách mầu nhiệm, Đức Kitô đến che giấu sự cao cả của xác thịt Ngài trong xác thịt hèn hạ của chúng ta, và muốn cho xác thịt ta tham dự vào việc thần hóa nhân tính. "Thân xác ta là đền thờ của Thiên Chúa". Chính vì thế, thân xác ta phải được biến đổi và tinh sạch. Vì nó thuộc về một ngôi vị con người và chia sẻ sự cao trọng của ngôi vị ấy. Nhất là nó đã trở nên nơi ở của Thiên Chúa, khi ta đón rước Chúa Ba Ngôi ngự vào lòng. Đối với người hấp hối, khi rước của ăn đàng, họ đón nhận được Đức Kitô là Đấng sẽ đưa linh hồn họ sang cõi sống bên kia, và đồng thời trong thân xác sắp tan rã, họ cũng nhận được sự bảo đảm có một sự sống trổi vượt, sẽ thắng được sự chết vào ngày thế mạt. Của ăn đàng đưa linh hồn vào hạnh phúc trên trời và đưa thân xác đến phúc sống lại.
Như thế, Thánh Thể là suối nguồn bình an sâu thẳm, vì nó xác nhận việc con người hòa giải cùng Thiên Chúa. Thánh Thể còn phát sinh ra sự bình an, bởi lẽ nó mang lại cho con người điều thiện hảo duy nhất có thể làm cho con tim thỏa mãn, là chiếm hữu được chính Thiên chúa. Nhờ đó khi gặp cơn cám dỗ, sự bình an ấy giúp con người được bình tĩnh và tín thác vào sự che chở của Thiên Chúa.
Nhớ lại câu dẫn vào Thánh lễ rất quen thuộc của một cha giáo : "Anh em thân mến ! Mỗi một lần chúng ta tham dự Thánh lễ là mỗi một lần chúng ta biến đổi cuộc đời chúng ta nên một với Đức Giêsu. Sau mỗi lần tham dự Thánh lễ mà chúng ta không để cho cuộc đời chúng ta nên một như Đức Giêsu thì Thánh lễ chúng ta tham dự trở nên vô ích".
Nghe một lần chưa thấm, nghe nhiều lần rồi thấm và phải suy nghĩ. Đúng như vị linh mục ấy nói. Nếu cứ tham dự Thánh lễ xong rồi cuộc đời đâu lại vào đấy thì quả là chán vì khi ta tham dự Thánh Lễ, ta được kết hợp với Thiên Chúa là nguồn vui, nguồn bình an, nguồn hạnh phúc thật của đời ta.
Và bài hát rất quen thuộc của linh mục nhạc sĩ Thành Tâm : "Ta về thôi vì Thánh lễ đã hết, nhưng đời ta là thánh lễ nối dài, mang tình thương Thiên Chúa đến mọi nơi, ta sống sao để thành chứng nhân !". Thánh lễ nào cũng kết thúc, cũng chia tay, cũng tạm biệt nhưng Thánh lễ sẽ không kết thúc, không tạm biệt, không chia tay với cuộc sống của ta. Hoa quả của Thánh Lễ, hoa quả của Bí Tích Thánh Thể chính là lối sống, hành vi, lời ăn tiếng nói, cách cư xử của mỗi người chúng ta với anh chị em đồng loại.
Thánh Phaolô mời gọi chúng ta sống kết hiệp với Chúa như Ngài đã kiết hiệp : "Tôi sống nhưng không còn là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi" (Gl 2, 20). Ước gì mỗi Kitô hữu cũng mặc lấy, cũng sống lấy tâm tình của Thánh Phaolô để mọi người xung quanh chúng ta nhìn vào chúng ta họ thấy có một Đức Giêsu đang hiện diện với họ.
Nguyện xin Chúa Giêsu Thánh Thể đến và ở lại với mỗi người chúng ta và xin Ngài làm chủ cuộc đời mỗi người chúng ta. Xin Chúa nuôi dưỡng và gìn giữ chúng ta đi qua cuộc lữ hành trần thế này để mai kia chúng ta được cùng hưởng nhan Thánh của Ngài trên Thiên Quốc.
TẤM BÁNH TÌNH YÊU
Ga 6, 51 - 58
+ TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Mỗi khi chiêm ngắm Thánh Thể Chúa, tôi không ngừng ngỡ ngàng trước tình yêu của Người. Tình yêu ấy vô cùng cao cả nhưng lại rất đỗi đơn sơ. Đơn sơ như hình ảnh tấm bánh.
Tấm bánh, tình yêu gần gũi.
Sao Chúa không hoá thân làm viên kim cương quý giá mà lại làm một tấm bánh? Tấm bánh bình thường, quen thuộc quá. Từ khi kinh tế phát triển, bánh càng ngày càng xuống giá, bớt được quý trọng.
Tuy bình thường, nhưng bánh vẫn là lương thực cần thiết cho con người. Cũng như khí trời, như nước, bánh đi vào sinh hoạt hằng ngày của con người. Bình thường lắm nhưng không có không được.
Chúa trở thành tấm bánh để gần gũi với loài người, để đi vào sinh hoạt đời thường của con người. Con người có thể đến với Chúa dễ dàng, không e ngại, sợ sệt. Chỉ là một tấm bánh vừa tầm tay mọi người. Chỉ là một tấm bánh sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của con người. Thật khiêm nhường mà đầy ý nhị.
Thật đơn sơ nhưng cũng thật sâu xa vì tấm bánh nói lên tình yêu tự hiến.
Tấm bánh, tình yêu tự hiến.
Bánh sẽ chẳng còn ý nghĩa nếu chỉ để trưng bày cho người ta chiêm ngắm. Bánh chỉ có ý nghĩa khi được sử dụng. Được sử dụng là bị bẻ ra, bị nghiền nát, bị tan biến, bị tiêu hoá. Vì thế, trở thành tấm bánh là chấp nhận chịu đau đớn, chịu huỷ hoại. Đây không phải là một chấp nhận bất đắc dĩ, vì tấm bánh bao giờ cũng mời mọc tiêu thụ.
Khi xưng mình là bánh bởi trời, Chúa Giêsu bày tỏ một tình yêu tha thiết, sẵn sàng chịu nghiền nát, tan biến, chịu chết cho nhân loại. Chúa chịu chết cho ta được sống. Chúa chịu huỷ hoại cho ta được lành lặn các thương tích. Chúa bé nhỏ đi cho ta được lớn mạnh.
Tấm bánh bị tiêu hoá để thực hiện một tình yêu hiệp thông.
Tấm bánh, tình yêu hiệp thông.
Chúa Giêsu tha thiết với sự hiệp thông. Người không ngừng mời gọi con người đến sống thân mật với Người. Người tự nhận mình là cây nho và mời gọi mọi người hãy trở thành cành nho gắn kết với cây nho.
Hôm nay, Người còn chủ động trở thành tấm bánh để hoà vào từng giòng máu, từng thớ thịt của con người trong một kết hiệp sâu xa. Người tự tiêu huỷ mình để trở thành thịt máu của con người. Không còn sự kết hợp nào sâu xa khăng khít hơn nữa.
Tấm bánh gợi lên một bàn tiệc tại đó anh em quây quần trong tình thương, chia sẻ lương thực và chia sẻ tâm tình. Không còn gì đẹp hơn. Chính Chúa Kitô tự hiến mình để quy tụ chúng ta. Chính Chúa Kitô bị bẻ ra để cho tình huynh đệ nhân loại được mặn mà thắm thiết.
Với những gợi ý như thế, Chúa hướng dẫn tôi trong tình yêu mến, trong cử hành và trong cách sống Bí tích Thánh Thể.
Yêu mến Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là trở nên hiền lành khiêm nhường, sống gần gũi với những người nhỏ bé nghèo hèn?
Cử hành Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là chấp nhận hao mòn, quên mình, thiệt thòi vì Chúa và vì anh em?
Sống Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là xây dựng tình đoàn kết, tình huynh đệ với những người sống quanh ta, trong mọi môi trường cuộc sống?
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, con cảm tạ tình yêu vô biên của Chúa. Con chúc tụng ngợi khen Chúa muôn đời. Amen.
ĐỂ THỰC SỰ LÀ SỐNG
Ga 6, 51 - 58
Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
"Thật, Tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình." (Ga 6, 53). Khi Chúa Giêsu đã dùng kiểu nói trịnh trọng theo văn phong thời bấy giờ " thật, Tôi bảo thật.. ( Amen...Amen...)" thì không chỉ nói lên tầm quan trọng của nội dung lời tuyên bố mà còn nói lên tính tất yếu và thiết yếu của chân lý đối với thính giả bấy giờ và nhân loại mọi thời. Căn cứ vào những lời Chúa Giêsu tuyên phán ở trên, chúng ta thử hỏi rằng những thính giả lúc bấy giờ, thực sự có sự sống nơi họ không. Hay nói cách khác, cần phải đặt vấn đề : sống là gì ?
SỐNG LÀ GÌ ?
Một câu hỏi không dễ trả lời. Câu trả lời khá phổ thông : sống là động. Trạng thái động đối lập với trạng thái tỉnh ( bất động ). Trạng thái này có thể là di động, chuyển động, cử động hay hành động. Nếu mô tả tình trạng sống là trạng thái động, thì vừa thái quá lại vừa bất cập. Các khoáng sản như đất đá hay lớn hơn như quả địa cầu, các tinh tú...chúng hằng di động và đang chuyển động. Vậy chúng đang sống ư ? Với sinh vật bậc cao là con người, nếu ở trong tình trạng hôn mê, không còn hành động cũng chẳng cử động thì đã chết chưa ?
Dưới cái nhìn sinh hóa thì sống là một quá trình tổng hợp và trao đổi các hợp chất hữu cơ. Các học giả trình bày khái niệm : sống là tồn tại có trao đổi chất với môi trường bên ngoài, có sinh đẻ, lớn lên và chết. Một số triết gia vừa thực tế vừa phũ phàng cho ta thấy sống là một quá trình tích lũy năng lực : sức khỏe, tiền bạc, địa vị...để tiến dần về nấm mộ ( cái chết ).
Quả thật nếu quan niệm sống như là một tình trạng đối lập với chết thì cuộc sống của con người trên bình diện thể lý tự nhiên đúng là nghịch lý và phi lý. Và rồi người ta dễ dàng đồng quan niệm với anh em Phật tử rằng cuộc sống ( đời ) là bể khổ với cái vòng lẫn quẩn thành - trụ - hoại - không; sinh - lão - bệnh - tử.
Dưới nhãn quan Kitô giáo theo ánh sáng Lời mạc khải thì sống là một trạng thái, đúng hơn là một động thái ở cùng, ở với và ở trong Đấng là nguồn sống, là Đấng Sáng tạo, là căn nguyên và cùng đích của mọi hiện hữu, đặc biệt của loài người. Con người khi tự ý cắt lìa, xa rời Thiên Chúa là đi vào cõi chết hay là đã chết, cho dù cơ thể còn sinh động, còn tổng hợp các chất hữu cơ...
Sách Sáng Thế ký diễn tả chân lý này khi cho thấy loài bụi đất chỉ thực sự là sống khi được Giavê thổi sinh khí vào ( x. St 2,7 ). Đến đây chúng ta mới hiểu được ý nghĩa lời Chúa trong sách Đệ Nhị Luật khi Giavê thử thách dân Người trong hoang mạc, khi để họ phải chịu đói cùng cực rồi ban Manna từ trời nuôi sống họ để họ ý thức, đúng hơn là đẻ họ tin nhận rằng : "người ta sống không nguyên bởi bánh nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra" ( Đnl 8,3 ).
" Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống" ( Ga 6,51 ). Một lời tuyên bố công khai gây nhiều tranh cãi cho thính giả bấy giờ. Quả là chối tai ! Nhưng đó là sự thật, một sự thật nền tảng và thiết yếu cho con người đến nỗi Chúa Giêsu trình bày một cách thẳng thừng tới mức "sống sượng", không chút rào đón xa gần. Người còn tái khẳng định chân lý ấy ở dạng thức đối nghịch : " Thật, Tôi bảo thật các ông : nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình" ( Ga 6,53 ). Chúng ta nhận ra tính tất yếu và khẩn thiết của chân lý này qua thái độ của Chúa Kitô là sẵn sàng chấp nhận người ta, kể cả các môn đệ rời bỏ Người, ngoại trừ nhóm Mười hai ( x.Ga 6,60-71 ).
ĐỂ THỰC SỰ LÀ SỐNG CẦN PHẢI ĐÓN NHẬN NGUỒN SỐNG TỪ THIÊN CHÚA VÀ HÀNH XỬ THEO SỰ SỐNG THIÊN LINH.
Thiên Chúa có thể ban cho nhân loại sự sống của Người dưới nhiều dạng thức khác nhau. Mình Máu Chúa Kitô chính là một trong những phương thế đặc biệt Chúa ban sự sống của Người cho nhân loại chúng ta. Là Kitô hữu, chúng ta dễ dàng tin nhận chân lý này hơn người Do Thái xưa, vì chúng ta tin nhận Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là chúng ta có biết sống, cư xử, hành động theo nguyên lý hoạt động của sự sống Thiên Chúa không.
Sự sống của Thiên Chúa chính là tình yêu giữa Ba Ngôi, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Tình yêu ấy được tỏ bày qua dòng lich sử, qua lịch sử ơn cứu độ và được tỏ bày cách trọn vẹn, hoàn hảo cho nhân loại nơi Đức Kitô, Ngôi Hai nhập thể làm người. Dựa vào lời mạc khải và qua lời dạy của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI trong Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu, chúng ta cùng xem xét một vài sắc thái của tình yêu Thiên Chúa :
Một tình yêu thể hiện qua tình bạn ( Filia ) : Ngay từ thưở đầu công trình sáng tạo, Giavê đã ngày ngày dạo chơi với con người và con người ở trước nhan Giavê cách thân tình như bạn hữu. Sau khi phạm tội thì con người mới lánh mặt Giavê (x. St 3,8 ). Khi đã biết đến giờ phải bỏ thế gian mà về cùng Cha, Chúa Giêsu đã tỏ bày cho các môn đệ : " Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy đã gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết." ( Ga 15,15 ).
Đã là bạn hữu chân thành thì luôn tín nhiệm nhau. Sự tín nhiệm được thể hiện không chỉ qua việc tỏ bày cho nhau cả những sự sâu kín của mình mà còn sẵn sàng trao phó trách nhiệm, cả trong những việc lớn lao, cao cả lẫn hệ trọng. " Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy bá chủ cá biển, chim trời..." St 1,28 ). Ngay từ đầu Giavê đã trao phó nhiệm vụ làm chủ vũ trụ thiên nhiên cho con người. Đến thời viên mãn Chúa Kitô lại trao phó việc rao giảng Tin Mừng cứu độ cho các môn đệ ( x. Mt 28,16-20 ).
Một tình yêu thể hiện qua việc đón nhận và trao ban ( Eros và Agapê ) : Khi tạo dựng con người Giavê Thiên Chúa đã sáng tạo loài tạo vật hữu hình cao cả nhất là loài người giống hình ảnh và họa ảnh của mình ( x. St 1,26-27 ). Có thể nói đây là một sự đón nhận toàn vẹn. Xem ai như chính mình là một sự đón nhận hết cả tấm lòng. Trên thập giá, đôi tay của Chúa Kitô giang ra, Trái Tim cực thánh của Người mở tung, là hành vi tình yêu đón nhận cách hoàn hảo và trọn vẹn. Người đón nhận cả những lời hoan hô Người khi Người vào thành thành Giêrusalem lẫn cả những lời nhục mạ khinh khi của nhiều người Do Thái bấy giờ. Người đón nhận lời tuyên tín của Phêrô thay mặt nhóm Mười Hai : " Bỏ Thầy chúng con biết theo ai..." ( Ga 6,68 ) và đón nhận cả sự phản bội, sự hèn nhát của các ngài khi bỏ Thầy chạy cứu lấy thân mình. Người đón nhận nhiều vị lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ vốn ghen tức tìm mọi cách loại trừ Người và đón nhận cả sự mê lầm của họ ( x. Lc 23,34 ).
Khi đón nhận con người như là hình ảnh của mình, Giavê Thiên Chúa đã trao ban chính công trình sáng tạo của mình, một công trình như mới khởi đầu. Và Chúa Kitô khi đón nhận các môn sinh làm bạn hữu thì Người đã trao ban công trình cứu độ mà Người vừa khai mở. Khi đón nhận bản tính nhân loại vào Ngôi vị Thiên Chúa thì Ngôi Hai đã thực sự trao ban chức vị làm con Thiên Chúa cùng với gia sản thừa kế cho loài người.
Chính khi đón nhận là lúc trao ban. Chính lúc trao ban là lúc đón nhận. Cả hai động thái trao ban và đón nhận luôn quyện lẫn vào nhau trong một tình yêu đích thực. Và tình yêu ấy bắt nguồn từ Đấng là Tình Yêu ( x.1Ga 4,8 ). Hôm nay chúng ta cùng tôn thờ mầu nhiệm Chúa Kitô trao ban cho chúng ta chính Máu Thịt của Người qua Bí Tích Thánh Thể. Hiện diện trong Thánh Thể là trọn vẹn Chúa Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa với thiên tình và nhân tính của Người. Trao ban cho ta Thân Mình Người là Chúa Kitô đón nhận chúng ta nên một với Người. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định chân lý này : " Thưa anh em, khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Chúa Kitô ư ? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao ?" ( 1 Cor 10,16 ).
Được dự phần vào Mình và Máu Thánh Chúa Kitô là để được sống. Và sự sống đích thực này phải được thể hiện bằng tình yêu. Đó là tình yêu sẵn sàng đón nhận tha nhân, cả ưu điểm lẫn khuyết điểm, cả mặt nổi trội lẫn khía cạnh hạn chế... Đó là tình yêu sẵn sàng trao ban những gì tốt nhất, đẹp nhất của ta cho tha nhân và trao ban cả con người của ta, sự sống của ta. Và đó phải là tình yêu luôn tìm cách nâng nhau lên hàng bạn hữu. Nếu như được vậy, thì một điều chắc chắn là chúng ta đang sống thực sự và thực sự đang sống cách dồi dào.
BÍ TÍCH THÁNH THỂ LÀ NGUỒN MẠCH
VÀ TỘT ĐỈNH CỦA ĐỜI SỐNG KITÔ HỮU
Ga 6, 51 - 58
Phaolô Phạm Xuân Khôi
Thánh Công Đồng Vaticanô II gọi "Bí Tích Thánh Thể là nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Kitô hữu" (Lumen Gentium, #11, GLCG #1324), nhưng phải đau lòng mà hỏi có bao nhiêu linh mục và tín hữu thật sự nhận ra vai trò này của Bí Tích Thánh Thể trong khi cử hành Mầu Nhiệm Thánh Thể và sống Bí Tích Thánh Thể mỗi ngày trong đời mình?
Nếu tất cả các linh mục đều xác tín điều này và cử hành Thánh Lễ với một niềm tin vững chắc vào Đức Kitô Phục Sinh ngự thật trong Bí Tích Thánh Thể, cùng sống cuộc đời mình như một Thánh Lễ nối dài thì đã không có những gương mù, gương xấu, đã không có những linh mục coi tiền tài danh vọng, ngay cả xác thịt, cao trọng hơn sứ vụ chính của mình là rao giảng Lời Chúa và ban phát các Bí Tích cùng ân sủng cho giáo dân qua chính đời sống đức tin và kết hợp với Đức Kitô Thánh Thể của mình.
Nếu các tín hữu thật sự hiểu được điều này thì họ đã không đi Lễ trễ và ra về sớm, họ đã không coi việc tham dự Thánh Lễ ngày Chúa Nhật là một nhiệm vụ thay vì là một hồng ân, họ đã không than phiền là Thánh Lễ quá dài..., và nhất là họ đã cố gắng thay đổi để mỗi ngày một nên giống Chúa Giêsu nhiều hơn.
Mục đích của bài này là tóm tắt những giáo huấn của Hội Thánh về tầm mức quan trọng của Bí Tích Thánh Thể trong đời sống Kitô hữu.
Xem Lễ, Dự Lễ hay Dâng Lễ?
Hầu hết người Công Giáo Việt Nam chúng ta "đi Lễ" ngày Chúa Nhật chỉ vì nhiệm vụ bắt buộc hay vì thói quen, hoặc vì sợ phạm tội trọng nếu mất Lễ. Họ đi "xem Lễ" như đi xem "xi-nê", mà chưa chắc đã mê "xem Lễ" bằng xem "phim chưởng." Nhiều lắm là họ đi "dự Lễ" cách thụ động như đi "dự tiệc cưới." Chỉ có một số ít người hiểu rằng mình đi "dâng Lễ" cùng với Đức Kitô. Sở dĩ có tình trạng này vì:
1) Nhiều giáo dân, nhất là người lớn, không được đào luyện kỹ càng về Giáo Lý và sống Đức Tin.
2) Rất ít người hiểu rằng Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích Tình Yêu (ĐTC Bênêđictô XVI, Sacramentum Caritatis, #1), là quà tặng của Đức Chúa Cha (Ga 13:1) và của chính Đức Giêsu Kitô tự hiến chính Mình Người mà dâng lên Đức Chúa Cha để mang ơn cứu độ đến cho chúng ta.
3) Những lạm dụng trong việc cử hành phụng vụ,và thái độ thiếu cung kính của một số Linh Mục khi cử hành Thánh Lễ, làm cho nhiều tín hữu nghi ngờ sự hiện diện thật của Đức Kitô trong Bí Tích Thánh Thể.
Hội Thánh dạy rằng Bí Tích Thánh Thể là trọng tâm và cùng đích của các Bí Tích Khác. Bí Tích Thánh Thể thật sự là nguồn mạch ân sủng cho mọi tín hữu và là tột đỉnh của đời sống Kitô hữu, vì trong Bí Tích Thánh Thể chúng ta gặp chính Đức Kitô, là Thiên Chúa, là Tình Yêu, và là nguồn mạch mọi ân phúc. Bí Tích Thánh Thể ban cho chúng ta ân sủng để sống đời Kitô hữu giữa trăm ngàn khó khăn và cám dỗ.
"Nguồn mạch và tột đỉnh" có nghĩa là gì?
Khi nói rằng Bí Tích Thánh Thể là "nguồn mạch và tột đỉnh" của đời sống Kitô hữu có nghĩa là toàn thể đời sống tâm linh của Kitô hữu được bắt nguồn từ Bí Tích Thánh Thể. Đồng thời đời sống Kitô hữu chỉ đạt được mục đích nơi Bí Tích Thánh Thể, vì mục đích của đời sống Kitô hữu là trở nên giống Đ1ưc Kitô mỗi ngày một hơn. Không có gì quan trọng và cần thiết hơn để giúp người tín hữu đạt được mục đích này là kết hợp mật thiết với Đức Kitô Thánh Thể và sống Thánh Thể trong đời sống hằng ngày. Như thế là Bí Tích Thánh Thể là điểm quy chiếu của tất cả mọi tư tưởng và hành động của người Kitô hữu.
Đời sống tâm linh của chúng ta phải là con đường hai chiều. Con đường này bắt đầu từ Bí Tích Thánh Thể. Nó dẫn đưa chúng ta từ Bí Tích Thánh Thể vào đời sống thường nhật, rồi lại đưa chúng ta trở về với Thiên Chúa trong Bí Tích Thánh Thể sau khi chúng ta đã đi một quãng đường đời.
Bí Tích Thánh Thể vừa là "nguồn mạch" vừa là "tột đỉnh" của đời sống Kitô hữu vì chính Đức Kitô hiện diện thật nơi Bí Tích Thánh Thể để đem Thiên Chúa và con người lại với nhau trong một cuộc trao đổi yêu thương, có giá trí cứu độ, một liên hệ hai chiều, vừa cho đi vừa nhận lại.
Hai diện của Bí Tích Thánh Thể, vừa là "nguồn mạch", vừa là "tột đỉnh" của đời sống Kitô hữu tỏ lộ cho chúng ta thấy rằng Bí Tích Thánh Thể đưa con người lại gần Thiên Chúa như thế nào trong một cuộc đối thoại có giá trị cứu độ. Vỉ Bí Tích Thánh Thể chính là Đức Kitô, Người kết hợp với Thiên Chúa Cha vì Người là Thiên Chúa, đồng thời kết hợp với chúng ta vì Người là người thật, con Đức Mẹ Maria. Đức Kitô trở thành nhịp cầu thông cảm giữa Thiên Chúa và chúng ta. Người là Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người (x. 1 Tim 2:5; GLCG #480, 618). Người hoà giải chúng ta với Chúa Cha, và cho chúng ta được phép thành nghĩa tử của Ngài. Khi tiếp nhận Đức Kitô Thánh Thể cách xứng đáng, chúng ta cũng trở thành một phần của nhịp cầu này, được làm anh em với Đức Kitô, và được gọi Đức Chúa Cha là "Cha ơ!" (Rom 8:15). Chính nhịp cầu thông cảm ấy đã đưa con người lại gần Thiên Chúa Tình Yêu, để rồi hai trái tim cùng chung một nhịp đập. Liên hệ giữa Thiên Chúa và con người trở thành một liên hệ hỗ tương giữa Cha và con, vừa lãnh nhận từ Cha, vừa dâng lại cho Cha. Chúng ta đón nhận Bí Tích Thánh Thể như một hồng ân Chúa Cha ban cho, là Chính Ngài trong Đức Kitô, và kết hợp với Đức Kitô, là Lễ Vật Cực Trọng trong Bí Tích Thánh Thể, chúng ta dâng lại cho Đức Chúa Cha chính mình và tất cả mọi sự của chúng ta, linh hồn, thân xác, tư tưởng, lời nói, việc làm và cả đời sống, như một của lễ sống động, đẹp lòng Ngài. Không những thế, trong Bí Tích Thánh Thể, chúng ta cũng kết hợp với toàn thể Hội Thánh, là Nhiệm Thể Đức Kitô. Để rồi nhờ hồng ân Bí Tích Thánh Thể, chúng ta thương yêu tha nhân như chính mình vì họ là hình ảnh của Thiên Chúa.
Là "nguồn mạch" của đời sống Kitô hữu, Bí Tích Thánh Thể giúp chúng ta nhận ra rằng mình được cứu độ trước hết nhờ hồng ân Thiên Chúa chứ không phải nhờ sức riêng mình. Thiên Chúa đã ban Chính Ngài cho chúng ta trong Đức Kitô trước. Đồng thời vì là "tột đỉnh" của đời sống Kitô hữu, Bí Tích Thánh Thể là Của Lễ Cao Trọng, đầy ân sủng, mà qua đó con người có thể dâng mình lại cho Thiên Chúa qua Đức Kitô, Vị Thượng Tế cao cả, nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Như thế Bí Tích Thánh Thể là sự kết hợp mật thiết nhất giữa Thiên Chúa và chúng ta.
Sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và chúng ta trong Bí Tích Thánh Thể đem lại ân sủng giúp chúng ta sống ba nhân đức đối thần là Tin, Cậy, Mến. Bởi vì các Bí Tích là phương tiện Thiên Chúa dùng để ban ân sủng giúp chúng ta sống các nhân đức này, nhờ đó chúng ta có thể sống "cách sống nhiệm tích" (ĐTC Gioan Phaolô II, Dominicae Cenae, #7). Cách sống nhiệm tích là phát triển đời sống tâm linh nhờ ân sủng nhận được từ các Bí Tích, đồng thời sống Đức Ái trong nhiệm vụ hằng ngày, là trở thành dấu chỉ của Tình Yêu Thiên Chúa giữa thế gian.
Kết Luận
Nhiều người thắc mắc rằng người Công Giáo đi Lễ hằng tuần mà đời sống tâm linh chẳng hơn gì những người không đi Lễ. Chúng ta phải nhận rằng đây là một thảm trạng mà chỉ có Thiên Chúa mới thay đổi được. Chúng ta hãy cầu nguyện nhiều cho những vị có nhiệm vụ giáo dục giáo dân để các ngài chu toàn sứ vụ Ngôn Sứ mà Chúa đã trao phó cho các ngài. Đồng thời chính mỗi người chúng ta cần kết hợp mật thiết với Đức Kitô Thánh Thể mỗi ngày, và cố gắng sống "cách sống nhiệm tích" để mọi người thấy việc chúng ta làm mà ngợi khen Cha Trên Trời (x. Mt 5:16).
ĐÂY LÀ MÌNH TA, ĐÂY LÀ MÁU TA
Ga 6, 51 - 58
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Con người sinh ra trên đời luôn cần có lương thực. Thú vật sống trên núi, trên rừng, dưới biển đều phải nhờ lương thực. Mọi sinh vật cũng cần có thức ăn, thức uống mới có thể sinh tồn được. Đối với đời sống tôn giáo cũng vậy, đặc biệt người Kitô hữu được Chúa yêu thương. Chính Ngài đã luôn hiện trong Bí Tích Thánh Thể, để được ở mãi với loài người, với con người, để làm lương thực nuôi dưỡng con người trên đường dương thế trở về quê trời. Chúa Giêsu đã hứa với nhân loại: " Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời " ( Ga 6, 58 ).
Giáo lý dạy chúng ta rằng: Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích Tình Yêu, Bí Tích của sự hiệp nhất. Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Corintô đã viết: " Không phải chúng ta đã bẻ bánh để dự phần vào Thân Mình Chúa Kitô ư ! Bởi vì tấm bánh chỉ là một, nên dù chúng ta có nhiều người, chúng ta cũng là một thân thể, vì tất cả chúng ta cùng chia sẻ một tấm bánh đó sao ? ". Khi Chúa mời gọi: " Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy ", Chúa Giêsu muốn mọi Kitô hữu trên trái đất này hãy lập lại cái chết tự hiến vì yêu thương của Người, bằng cả cuộc sống dấn thân và trao ban. Khi Chúa nói: " Đây là Mình Thầy. Đây là Máu Thầy ". Chúa Giêsu thiết lập Bí Tích Thánh Thể. Giáo Hội luôn lập lại cử chỉ của Chúa Giêsu khi Ngài lập Bí Tích Thánh Thể trong nhà Tiệc Ly. Đây là Bí Tích cao quí Chúa để lại và trao ban cho nhân loại, tặng ban cho mỗi người chúng ta. Bí Tích Thánh Thể cũng là Bí Tích liên kết mọi người Kitô hữu để đời đời con người cảm tạ tri ân Chúa vì Người đã để lại cho nhân loại Bí Tích đem lại sự sống muôn đời. Chúa Kitô hiện diện trong Thánh Thể bao lâu hình bánh rượu còn tồn tại. Đây là mầu nhiệm của đức tin. Bởi vì khi linh mục đọc lời truyền phép thì bánh rượu không còn là bánh rượu nữa nhưng đã trở thành Thịt Máu Chúa.
Chúa Giêsu đã phán: "...Bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống " ( Ga 6, 48-51 ). Chúa Giêsu đã truyền cho các môn đệ tái diễn lại cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Người trên bàn thờ để đem lại ơn cứu độ cho con người. Do đó, Giáo Hội luôn tung hô Chúa Giêsu sau truyền phép: " Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết, và tuyên xưng Chúa đã sống lại, cho tới khi Chúa lại đến ".
Vâng, Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích ban sự sống do đó khi rước lễ là chúng ta đón nhận sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô và sự hiện diện thiêng liêng của Ngài vẫn kéo dài trong cuộc sống của chúng ta. Nên, chúng ta phải dọn lòng trong sạch để đón nhận Mình Máu của Chúa Kitô bởi vì việc rước Mình, Máu Chúa giúp đời sống thiêng liêng của chúng ta trở nên vững mạnh, giúp vượt thắng và xa lánh tội lỗi. Việc rước Mình Máu Chúa Kitô giúp tăng triển sự hiệp thông với Chúa Kitô. Sự hiệp nhất, gắn bó với Chúa Giêsu trong Thánh Thể giúp mọi người Kitô hữu hiệp nhất với nhau.Đồng thời Bí Tích Thánh Thể là bảo chứng chắc chắn cho người Kitô hữu đạt tới vinh quang Nước Trời.
Giáo Hội luôn bảo quản Mình Máu Chúa Kitô trong Nhà Tạm để có sẵn Thánh Thể cho những người đau yếu, những người vắng mặt, và cũng để cho mọi người tôn thờ cung kính Thánh Thể khi tới nhà thờ, khi không cử hành thánh lễ vv...
Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô làm cho chúng ta càng lúc càng xác tín hơn Chúa luôn hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể. Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận đã luôn yêu mến Thánh Thể và Ngài đã nói: bàn tay của Ngài là bàn thờ, là Nhà Thờ Chính Tòa. Với ba giọt rượu và chút nước. Với miếng bánh miến. Ngài đã làm cho Chúa hiện diện và biến rượu bánh thành Mình Máu Chúa Kitô qua lời truyền phép.
Chúng ta hãy luôn yêu mến Bí Tích Thánh Thể bởi vì Chúa luôn mời gọi chúng ta đón rước Người trong Bí Tích Thánh Thể: " Thật, Tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn Thịt và uống Máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình ".
NÀY LÀ MÌNH THẦY... NÀY LÀ MÁU THẦY HIẾN TẾ VÌ ANH EM
Ga 6, 51 - 58
LM. Antôn Nguyễn Văn Độ
Theo truyền thống từ thế kỷ XIII, vào ngày thứ Năm sau lễ Chúa Ba Ngôi, tức 60 ngày sau lễ Phục sinh, Giáo hội cử hành lễ kính Mình Máu Thánh Chúa. Lễ này do Đức Ubanô IV thiết lập ngày 11 tháng 8 năm 1264 còn gọi là lễ của Chúa, lễ Mình Máu Thánh Chúa. Vì hôm nay, Giáo hội không chỉ cử hành lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, Festum Corporis Christi, mà còn rước kiệu trọng thể Mình Thánh Chúa ra khỏi nhà thờ, đi trên các nẻo đường, vừa đi vừa hát bài : « Chúa nuôi dân bằng lúa mì tinh hảo, mật ong rừng, Người cho hưởng thỏa thuê » (Ca nhập lễ - lời của thánh Tôma Aquinô). Để loan truyền công khai rằng : Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Bí tích Thánh Thể và Hy tế của Chúa Kitô là ơn cứu độ cho toàn thế giới.
Cử hành Thánh Thể
Giáo hội công khai cách long trọng Bí tích Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, mầu nhiệm được thiết lập trong bữa Tiệc Ly và hằng năm được tưởng nhớ vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh, nay được biểu lộ cho hết mọi người, bởi đức tin sốt mến và lòng sùng kính của cộng đoàn Giáo hội.
Trên bàn thờ Chúa, chúng ta đã thấy tận mắt Bánh và Rượu được truyền phép. Nhưng cần phải được soi sáng, chúng ta mới nhận biết và tin rằng Bánh chính là Mình Chúa Kitô và Rượu là Máu Chúa Kitô. Thật không có ngôn ngữ nào có thể diễn tả hết niềm tin của chúng ta : Làm sao Bánh lại có thể là Mình Chúa Kitô và Rượu lại là Máu Chúa Kitô được?
Chúng ta tin Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Bí Tích Mình Thánh. Bánh thánh trở thành Bí tích cần thiết để nuôi dưỡng linh hồn chúng ta, và dẫn dắt chúng ta trên đường về tới thiên đàng! Trước khi về Trời, Chúa Giêsu đã hứa: « Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế » (Mt 28, 20). Người ở lại với chúng ta thế nào? Bí tích Thánh Thể là kho tàng cao quí thực hiện lời hứa trên.
Chúa Giêsu hiện diện thật sự giữa chúng ta. Giáo hội quả quyết rằng : Sự hiện diện thật của Người trong Bí tích Thánh Thể là chân lý cơ bản của Đức tin Công giáo. Chúng ta phải tôn thờ, Tấm Bánh truyền phép được đặt trước mặt chúng ta nói về quyền năng vô cùng của tình yêu được bộc lộ trên Thánh Giá vinh hiển. Bánh Thánh nói cho chúng ta về sự hạ mình khó tin của Đấng đã biến mình, hiện diện khiêm tốn dưới hình bánh và hình rượu.
Thánh Tôma Aquinô cho chúng ta biết : Con độc nhất của Thiên Chúa, muốn cho chúng ta thông phần vào thiên tính của Chúa, đã làm người. Để cứu chuộc con người, Người đã đổ máu mình ra rửa chúng ta sạch muôn vàn tội lỗi, giao hòa chúng ta với Chúa Cha trên bàn thờ Thập Giá.
Đây không phải là máu chiên, bò, nhưng là Máu Châu Báu của Chúa Kitô, Thiên Chúa thật. Bánh và rượu trở nên Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Vì thế, Người được các tín hữu ăn : « Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống » (Ga 6,55-56). Từ phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi đám đông trong hoang địa. Chúa Giêsu đã chính thức hứa ban cho chúng ta của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn chúng ta (Lc 9, 11b-17).
Bí tích Thánh Thể là Tình Yêu tột đỉnh của Người đối với chúng ta : « Trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán: « Các con hãy lãnh nhận mà ăn... ». Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén và phán: « Các con hãy cầm lấy mà uống. Chén này là Tân Ước trong Máu Ta; mỗi khi các con uống, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta » (1 Cr 11, 23-26). Thật là niềm an ủi cho những người đã buồn vì sự vắng mặt của Chúa » (Bài giảng của Thánh Thomas Aquinas, Booklet 57).
Thánh Gioan Kim Khẩu nói : « Anh em hãy để tâm suy nghĩ về vinh dự khi anh em được cất nhắc lên đồng bàn tham dự tiệc thánh. Điều mà các thiên thần run sợ khi chiêm ngắm Ánh Huy Hoàng chói lọi, Đức Kitô lại ban cho chúng ta làm của ăn, bằng mọi cách, Người lấy chính máu mình nuôi dưỡng chúng ta, Người kết hợp chúng ta với Người, để chúng ta được hợp cùng Đức Kitô và hiệp nhất cùng nhau như một thân mình và một xác vậy ». (Thánh Gioan Kim Khẩu)
Bí tích Thánh Thể là chóp đỉnh về lòng nhân ái của Thiên Chúa đối với chúng ta : « Chúa Kitô tháp nhập vào mỗi tín hữu nhờ Bí tích này. Những kẻ Người đã sinh ra thì Người nuôi dưỡng bằng chính bản thân Ngài, qua Bí tích Thánh Thể, Người làm cho ta vững tin rằng Người đã mang lấy chính xác thân của ta ». Người tan biến trong chúng ta, « làm một với chúng ta, làm cho chúng ta trở nên thân mình của Ngài » (Thánh Gioan Kim Khẩu).
Việc biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, là nguyên tắc cho việc thần thiêng hoá tạo vật. Vì thế, lễ kính Mình và Máu Thánh Chúa Kitô có đặc điểm hết sức riêng biệt là rước kiệu Mình Thánh Chúa.
Rước kiệu Mình Thánh Chúa
Khi kiệu Mình Thánh Chúa và đưa Chúa ra khỏi nhà thờ. Giáo Hội tuyên xưng Chúa Giêsu ngự thật trong phép Mình Thánh, mang Chúa vào trong đời ta, với mong ước nhà ta là nhà dành cho Chúa, đường đời ta là đường của Chúa Giêsu. Xin Chúa Giêsu luôn hiện diện trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta!
Khi đặt Mình Thánh vào Mặt nhật, dưới dạng mặt trời, ngụ ý rằng Chúa Giêsu là « Mặt Trời » : Ngài là ánh sáng của lòng ta (đó là ý nghĩa của từ « mặt nhật »)
Bình khói hương thơm nghi ngút vừa đi vừa xông, tượng trưng cho lời nguyện cầu của chúng ta tỏa bay lên trước tòa Chúa.
Các em bé rắc trên đường nhắc lại cuộc Rước Chúa Giêsu vào Thành Thánh, và những lời tụng ca của các em rất làm Chúa hài lòng.
Qua cuộc rước kiệu, chúng ta thấy Chúa và chắc chắn Chúa thấy tất cả những khổ đau của những bệnh nhân; những nỗi cô đơn của những người trẻ và của những người già; những cám dỗ, những nỗi lo lắng trong cuộc sống của chúng ta. Cuộc rước kiệu này còn có ý nghĩa là xin Chúa chúc lành cho chúng ta và cho toàn thế giới.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự trong phép Mình Thánh, là Bánh đích thực nuôi dưỡng chúng con trên mặt đất này, xin hướng dẫn chúng con đến bàn tiệc trên Trời, trong vinh quang các thánh của Chúa, có Mẹ Maria là Mẹ chúng con.
Lạy Mẹ Maria, Trinh Nữ Chí Thánh, Mẹ của Chúa Giêsu, Đấng đầu thai Vô Nhiễm, từ hai ngàn năm nay, đã chấp nhận, hiến dâng mọi sự, hiến dâng thân xác Mẹ hầu rước lấy thân xác Đấng Sáng Tạo, xin giúp chúng con chiêm ngưỡng, xin giúp chúng con thờ lạy và yêu mến, Đấng đã yêu thương chúng con dường ấy, hầu chúng con được sống đời đời với Người. Amen.
"AI ĂN TÔI THÌ SẼ NHỜ TÔI MÀ SỐNG NHƯ VẬY"
Ga 6, 51 - 58
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Hôm nay Giáo Hội mừng Lễ Mình Máu Thánh Chúa để mọi Kitô hữu càng ngày càng yêu mến Chúa bởi vì Chúa đã để lại cho nhân loại chính Thân Mình để nuôi nhân loại, nuôi dưỡng mọi người.Bí tích Thánh Thể là Bí tích Tình yêu, Bí tích nuôi sống như lời quả quyết của Chúa Giêsu :" Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết " ( Ga 6, 54 ).
Thực tế, lễ Mình Máu Thánh Chúa đã có từ xa xưa thời Trung Cổ bên Âu Châu với gợi ý của thánh Tôma Aquinô rằng :" Chúa về trời nhưng vẫn còn hiện diện bên chúng ta, đặc biệt là trong Bí tích Thánh thể; và với thời gian lòng sùng kính đó mỗi ngày mỗi sâu xa, đậm đà.Ngày lễ này được coi là lễ rất trọng. Lễ Thánh Tâm Chúa đã được Đức Giáo Hoàng Urbanô II lập ra, xác nhận, bảo đảm và khuyến khích lòng sùng kính sẵn có của giáo dân về Bí tích Thánh Thể. Thánh lễ Mình Máu Thánh Chúa còn nói lên ý nghĩa cao vời là Chúa đã trở nên lương sống con người, chúng ta được Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta cũng phải trở nên lương thực cho nhau. Bài Tin Mừng này là khúc kết thức về bài giảng của Chúa Giêsu về bánh ban sự sống. Tin Mừng thánh Gioan cho hay là sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh hóa ra nhiều ( Ga 6, 1-13 ), Ngài sợ bị dân chúng tôn Ngài lên làm vua ( Ga 6, 15). Chúa Giêsu trốn họ, ra đi và đi trên biển tới với các tông đồ ( Ga 6, 16-21 ). Dân chúng vẫn đi tìm Ngài và rồi Chúa Giêsu giảng cho họ nghe về bánh thiêng liêng. Chúa kết thúc bằng việc loan báo sẽ lập Bí tích Thánh thể.
Chúa Giêsu yêu thương nhân loại, yêu thương mọi người, yêu thương từng người đến nỗi đem chính Thân Mình làm của lễ toàn thiêu dâng hiến Chúa Cha, đồng thời trở nên lương thực nuôi dưỡng con người ở đời này để họ được sống đời sau.
Lương thực nuôi dưỡng con người, lương thực nuôi dưỡng nhân loại như Chúa nói :" Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống.Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời, và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống " ( Ga 6, 51 ). Ngôn từ " thịt " chỉ toàn bộ con người với khả năng và yếu đuối. Do đó, dân Do Thái đã hiểu theo nghĩa đen và đã bỏ đi
( Ga 6, 60 ). Bởi vì họ thiếu lòng tin, không tin nơi Chúa Giêsu có cả bản tính Thiên Chúa nữa. Chúa Giêsu cho thấy " Ai ăn thịt của Ngài thì luôn kết hợp với Ngài...". Của ăn vật chất ở trần gian nuôi sống con người, thể xác con người thì Chúa Giêsu cũng nên lương thực nuôi sống những ai tin vào Ngài. Và như thế, khi lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa thì con người được hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa.Như Ba Ngôi Thiên Chúa : Cha, Con và Thánh Thần hiệp thông với nhau. Khi xưa tổ tiên của người Do Thái khi được Chúa cứu khỏi bàn tay của Pharaon bên Ai Cập.Môsê và Aaron đã theo lệnh Chúa dẫn dân Do Thái đi qua sa mạc tiến vào Đất Hứa. Chúa đã cho Môsê dùng gậy đập vào đá, nước vọt ra làm cho người Do Thái và súc vật uống nước thỏa thuê, dư tràn. Khi họ đói kêu trách Chúa, Ngài đã cho Manna từ trời rơi xuống để nuôi sống dân Do Thái. Họ lấy làm lạ nên hỏi Manhu là cái gì vậy ?
Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Thánh Thể để lấy chính Ngài làm của lễ hiến tế đẹp tuyệt vời dâng lên Thiên Chúa Cha và để lại cho nhân loại Mình Máu của Ngài làm lương thực nuôi sống loài người.Thánh lễ mỗi ngày trên bàn thờ là hiến lễ giao hòa đẹp lòng Thiên Chúa. Nhân loại sẽ được hưởng nhờ và được nuôi sống nhờ Mình Máu Thánh Chúa. Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể sẽ hiện diện với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Đó là bảo chứng sâu xa cho lòng tin của chúng ta. Chúa nuôi sống mọi người cho tới khi chúng ta được trở về kết hợp với Ngài trong Nước Thiên Chúa.
Claude Ducarroz đã viết một đoạn rất ý nghĩa như sau :" Bấy giờ, trí nhớ của chúng ta trở thành lòng tri ân chan chứa, và lễ tưởng niệm mở rộng đến tất cả các nữ tôi tớ bé nhỏ-như Đức Maria-và tất cả các tôi tớ-như thánh Giuse-là những thành viên của gia đình rộng lớn của Đức Giêsu, những người có phước được rửa chân dưới mọi hình thức, những người có phước được mời đến dự tiệc Thánh thể ở mọi nơi mọi thời ".
Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta cảm nghiệm sâu xa tình thương sâu xa, vô bờ của Chúa. Chúa quan phòng lo liệu cho nhân loại, cho mỗi người. Chúa muốn chúng ta cũng biết chia sẻ với tha nhân, với anh em bằng chính tình thương tha thứ của mỗi người chúng ta. Mình Máu Thánh Chúa là lương thực nuôi sống Giáo Hội, nuôi sống Gia đình, nuôi sống mỗi người...
" Lạy Chúa, Chúa đã để lại cho chúng con Bí tích Mình Máu Thánh Chúa, để chúng con đời đời tưởng nhớ Chúa đã chịu khổ giá và sống lại hiển vinh".
THẦN LƯƠNG
Ga 6, 51 - 58
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Vào năm 1263, tại nhà thờ thánh Catherine, thành Bolsène nước Ý, có một linh mục trong khi dâng lễ, sau khi đọc lời truyền phép đã nghi ngờ về bánh và rượu trở thành Mình và Máu Chúa. Xảy ra là Máu Thánh chảy ướt khăn thánh và khăn bàn thờ. Đức Giáo Hoàng nghe tin và đã rước khăn thánh về để tạm tại nhà thờ Orviette. Sau đó, xây nhà thờ để thờ kính Máu Chúa nơi Khăn Thánh này. Ngày 8 tháng 9, 1264, Đức Giáo Hoàng Urbanô IV (1262-1268) đã ban hành tự sắc Transiturus, lập lễ kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô và cử hành sau tuần 8 ngày của lễ Chúa Thánh Thần. Thánh Tôma Aquinô đã sáng tác bài Pange Lingua và Adoro Te để tôn kính Mình Máu Thánh Chúa.
Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ muôn loài và quan phòng mọi sự một cách lạ lùng. Mọi thụ tạo trong hoàn vũ đều thay đổi mỗi giây phút. Các loài có sự sống từ thực vật, động vật đến sinh vật đều theo một tiến trình phát triển, có sinh và có tử. Trong mọi loài Chúa đã dựng nên, được phát triển và nẩy nở theo thời gian năm tháng tùy theo mỗi loại. Nơi mọi loài có sự sống, đều phải hấp thụ dưỡng chất qua môi trường chung quanh để sinh tồn. Có nghĩa mọi loài hiện hữu cần có ăn uống, hấp thụ, tiêu hóa, đào thải, phát triển, già nua và tiêu diệt. Ăn uống là nhu cầu cần thiết để sống và sinh tồn. Ngày xưa dân Do-thái lữ hành trong sa mạc trên đường về miền Đất Hứa, Thiên Chúa đã nuôi dân bằng Manna, thịt chim cút và nước nguồn. Chúa đã nuôi dân suốt thời gian: Trong hoang địa, Người đã nuôi các ngươi bằng Manna mà cha ông các ngươi chưa từng biết tới (Đnl 8, 16a). Manna lương thực nuôi dưỡng hằng ngày là hình ảnh của bánh trường sinh.
Khi ra rao giảng tin mừng, Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân. Cả bốn phúc âm đều kể lại sự kiện biến hóa 5 chiếc bánh và 2 con cá nhỏ. Chúa Giêsu đã cầm bánh và cá, ngước mắt lên trời, tạ ơn và bẻ ra trao cho các tông đồ và các tông đồ trao cho hơn năm ngàn người ăn no nê và còn dư thừa. Chúa rộng ban một cách dồi dào dư giả. Chúa Giêsu nhận biết các nhu cầu cả tâm linh lẫn thể xác của những người đang đi theo Chúa. Chúa Giêsu đã dậy dỗ họ và đã nuôi dưỡng họ. Nhưng chúng ta biết Chúa đến trần gian không nhằm đáp ứng mọi nhu cầu đòi hỏi về thân xác của con người. Chúa làm phép lạ để minh chứng về sứ mệnh cứu độ của Chúa và để chuẩn bị tinh thần họ đón nhận của ăn cao quí hơn. Đó chính là của ăn nuôi hồn và là thần lương tinh tuyền. Chúa muốn dùng chính thân mình Ngài làm của ăn ban sự sống đời đời.
Chúa Giêsu đã lập Bí tích Thánh Thể trong bữa tiệc ly, trước khi Ngài chịu chết. Như đã hứa, Chúa Giêsu đã chọn bánh miến và rượu nho làm của ăn nuôi hồn. Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể: Ngài cầm lấy bánh, tạ ơn, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ và nói: Tất cả các con hãy nhận lấy mà ăn vì này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con. Rồi Ngài cầm lấy chén rượu, tạ ơn, dâng lời chúc tụng, trao cho các môn đệ và nói: Tất cả các con hãy nhận lấy mà uống, vì này là chén máu Thầy, máu giao ước mới và vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được ơn tha tội. Và truyền: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. Khi Chúa nói: Đây là Mình Thầy và đây là Máu Thầy, thì bản thể của bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa. Chúng ta hiểu Chúa Giêsu nói: Đây là Mình Thầy, chứ không phải là dấu chỉ của Mình Thầy.
Chúng ta có thể nhận biết hình dáng bên ngoài của bánh và rượu như mầu sắc, mùi vị, hình thù và kích cỡ. Trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta không thể nhìn thấy Chúa Kitô với con mắt trần. Chúng ta chỉ có thể nhìn với con mắt đức tin. Chúng ta tin rằng Chúa Kitô hiện diện trọn vẹn trong hình bánh rượu, bởi vì Chúa đã sống lại và không còn chết nữa (Rm 6, 9). Với quyền năng vô biên, Chúa đã biến đổi bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa. Chúng ta học biết chính Chúa đã tạo dựng vũ trụ muôn loài từ hư vô. Chúa hóa bánh nuôi năm ngàn người. Chúa biến nước thành rượu tại tiệc cưới Cana. Chúa cho kẻ chết sống lại. Chúa đã làm rất nhiều phép lạ để chứng minh quyền năng vô biên. Bí tích Thánh Thể là sự lạ vượt trên tầm trí hiểu của con người. Đây là mầu nhiệm của đức tin.
Chúng ta có thực sự tin Chúa Giêsu ngự thật trong Bí tích Thánh Thể không? Chúng ta có tin bánh và rượu thực sự trở nên Mình và Máu Thánh Chúa Kitô sau khi linh mục đọc công thức truyền phép trong thánh lễ không? Trong cuộc thăm dò ý kiến (Gallup poll) mới đây về thái độ của một số người Công giáo về Bí tích Thánh Thể. Kết qủa làm cho nhiều người Công giáo bị lo lắng xôn sao về một trong những niềm tin căn bản nhất của Giáo Hội. Nói rằng chỉ có 30 phần trăm những người được hỏi ý kiến, tin là họ đã lãnh nhận Mình và Máu Thánh, linh hồn và thần tính của Chúa Giêsu Kitô dưới hình bánh và rượu trong khi rước lễ.
Trải qua truyền thống của hai ngàn năm, lời Kinh Thánh và giáo huấn của Giáo Hội luôn dậy rằng Bí tích Thánh Thể chính là Mình và Máu của Giêsu Kitô, không còn là bánh và rượu bình thường. Phúc âm thánh Gioan chương 6 đã nêu rõ: Bấy giờ, Chúa Giêsu nói với họ: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Người, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi (Ga 6, 53). Chúa Giêsu nhấn mạnh về Thịt và Máu, chứ không phải chỉ là biểu tượng. Vì có một số môn đệ nghe lời Chúa nói về ăn thịt và uống máu Ngài, họ đã không thể chấp nhận và đã bỏ đi. Chúa Giêsu không kêu gọi các ông trở lại để giải thích rằng Ngài chỉ có ý nói một cách biểu trưng. Chúa Giêsu xác tín lời thật: Ai ăn thịt và uống Máu Ta, thì có sự sống đời đời và Ta, ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết (Ga 6, 54).
Thời kỳ Giáo Hội sơ khai đã khắc cốt ghi tâm những lời truyền này một cách rất cẩn thận. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu thành Corintô đã làm rất sáng tỏ: Bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa (1Cor 11, 27). Phaolô đã tin nhận bánh và rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô thực sự. Giáo Hội luôn luôn dạy rằng qua lời truyền phép của linh mục trong Kinh Nguyện Thánh Thể, bánh và rượu đã được biến đổi bản thể. Mặc dầu hình dạng bề ngoài vẫn là bánh và rượu, nhưng bởi quyền năng của Chúa, bánh rượu đã trở nên Mình và Máu Thánh Chúa. Làm sao chúng ta có thể hiểu biết điều này? Đòi hỏi niềm tin. Sau khi truyền phép, linh mục nâng Mình Máu Chúa và tuyên xưng: Đây là mầu nhiệm đức tin. Là mầu nhiệm, giống như tình yêu, chúng ta không bao giờ hiểu thấu hoàn toàn. Tất cả mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, thần tính của Chúa Giêsu, sự Chết và Sống lại của Chúa Kitô đều là những mầu nhiệm.
Nhận lãnh Bí tích Thánh Thể, chúng được thông hiệp với Chúa và với nhau: Tấm bánh mà chúng ta bẻ ra chẳng phải là thông hiệp vào Mình Chúa đó sao?(1Cor 10, 16b). Thánh Thể liên kết chúng ta nên một. Thánh Phaolô diễn tả rất rõ: Vì có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể, vì hết thảy chúng ta thông phần cùng một tấm bánh (1Cor 10, 17). Chúa Giêsu đã dùng của ăn cụ thể nuôi thân xác để biến đổi trở thành của ăn nuôi hồn. Chúa hiện diện với đoàn con cái mọi nơi và mọi lúc qua Bí tích Thánh Thể trong Nhà Tạm.
Lạy Chúa, với quyền năng vô biên, Chúa đã nuôi dưỡng chúng con bằng bánh hằng sống. Xin cho chúng con biết chuẩn bị tâm hồn xứng đáng để lãnh nhận của ăn thiêng liêng và hồng phúc này. Xin cho chúng con đáng hưởng phần gia nghiệp Chúa hứa ban: Ai ăn thịt và uống Máu Ta, thì có sự sống đời đời.
Nguồn vietcatholic.org
2458 19-06-2014 16:13:33