- Chúa Nhật Phục Sinh B
- Chúa Nhật Phục Sinh
- Sống Niềm Vui Phục Sinh
- Chúa Nhật Phục Sinh
- Chúa Giêsu Phục Sinh
- Chúa Đã Sống Lại Thật Rồi, Alléluia!
- Các Kitô Hữu Trợ Giúp Nhau Nên Thánh
- Chúa Kitô Đã Sống Lại Thật
- Chúa Đã Sống Lại
- Ngài Ở Đâu?
- Ngôi Mộ Trống
- Lễ Phục Sinh
- Chúa Nhật Phục Sinh B
- Chúa Đã Sống Lại Rồi: Hãy Đi Loan Báo Tin Mừng
- Chúa Nhật Phục Sinh
- Ánh Sáng Chúa Kitô
CHÚA NHẬT PHỤC SINH B
Ga 20, 1 - 9
"Theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết". (Ga 20, 9)
Chúng ta đã theo Chúa Giêsu đi vào tuần thương khó mà đỉnh cao là chứng kiến chính Chúa Giêsu đã chết trên thập giá. Hôm nay chúng ta hoan hỉ mừng biến cố Chúa Giêsu phục sinh.
Hoà cùng với niềm vui cùng đất trời, chúng ta sẽ được dẫn vào một luồng sáng mới. Luồng sáng này sẽ dẫn chúng ta ra khỏi tăm tối, đau khổ, chết chóc và chúng ta sẽ không còn đi trong bóng tối nữa vì ánh sáng đã đẩy lùi bóng tối sự chết qua một bên, giờ đây chỉ còn lại ánh sáng đem lại sự sống đó là Chúa Kitô, Ngài đã sống lại để đem lại sự sống đời đời cho chúng ta.
Bài phúc âm hôm nay (Ga 20, 1 - 9), Thánh Gioan đã mô tả hành trình đức tin của ba nhân vật: Maria Mađalêna, Phêrô và Gioan. Cả ba nhân vật trong phúc âm đều có hành động là "chạy". Trước tiên là bà Maria Mađalêna, bà là người đầu tiên "chạy" ra mồ và đã khám phá ra ngôi mộ trống. Khi thấy ngôi mộ trống, bà không hiểu ai đã "lấy cắp" xác Chúa cho nên bà liền "chạy" về báo tin cho hai môn đệ Phêrô và Gioan. Tiếp sau đó, hai ông cũng "chạy" ra mồ và đã thấy sự việc như lời của bà Maria vừa thuật lại. Vậy, họ "chạy" để tìm cái gì? Mục đích của họ "chạy" là để tìm Chúa. Đây là cuộc hành trình của Đức tin mà Chúa đã sắp đặt những dấu chỉ để giúp họ tìm. Những dấu chỉ mà trong Tin Mừng nhắc đến là ngôi mộ trống, những khăn vải liệm được xếp gọn... Qua đó cũng cho chúng ta thấy được lòng tin của họ, khi hai môn đệ "chạy" ra mồ và đã tới thì chỉ có một môn đệ tuy đến sau nhưng ông đã thấy và đã tin như trong Tin Mừng có nói "Theo Kinh thánh, Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết"(Ga 20, 9). Thực ra, Chúa Giêsu đã nói nhiều lần trong kinh thánh là việc Chúa chịu chết và sống lại nhưng các ông vẫn chưa hiểu. Và hôm nay, Thánh Gioan đã hiểu Lời Chúa đã tiên báo: Chúa Giêsu đã sống lại và về cùng Thiên Chúa, cũng có nghĩa là Chúa chịu chết trên thập giá, đã chịu mai táng trong mồ và Ngài đã sống lại.
Đối với mỗi người chúng ta, chúng ta biết rằng trong cuộc sống đời thường của mình không phải duy nhất sẽ vật chất, thể xác mà còn nhắc nhở cho chúng ta sự sống Lời Chúa là sự sống về phần linh hồn. Như Chúa Giêsu đã nói "Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích lợi gì" (Mc 8, 36). Có thể, trong cuộc sống nhiều lúc mọi sự xung quanh chúng ta đều chìm trong bóng tối nhưng chỉ có một tia sáng hy vọng lóe lên thì chúng ta phải làm gì? Chắc hẳn là sẽ có người nhanh chân "chạy" đến tia sáng đó, nhưng cũng có nhiều người không "chạy" tới mà chỉ biết đứng đó mà than khóc vì họ không tin, không yêu thương và không hy vọng vào ánh sáng đó sẽ cứu họ ra khỏi nơi tối tăm. Chúng ta nhớ rằng, trong cuộc sống của mỗi người không hẳn chỉ có bóng tối hoàn toàn mà vẫn còn một tia sáng đó là tia sáng của đức tin, của hy vọng và của yêu thương. Vì thế, chúng ta cần phải đặt niềm tin, niềm trông cậy, lòng mến vào Chúa để được Chúa dẫn vào ánh sáng của sự sống. Đối với tôi, cuộc sống của tôi nhiều lúc cũng gặp khó khăn, thử thách làm cho mình luôn đi trong tăm tối không còn biết tin tưởng, hy vọng vào ai và cuộc sống của tôi trở nên chán nản! Tôi nghĩ cuộc sống của tôi vẫn còn một tia sáng mà bấy lâu tôi không tìm ra, cho đến ngày hôm nay tôi đã tìm ra ánh sáng đó là Lời Chúa. Vì "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho tôi bước và ánh sáng chỉ đường cho tôi đi" (Tv 118, 105). Mỗi người chúng ta hãy tìm đến Lời Chúa để lời Chúa dẫn đường cho mỗi người. Vì thế chúng ta phải có niềm tin vào Thiên Chúa vì Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời đất muôn vật hữu hình và vô hình, đó là Thiên Chúa quyền năng, Thiên Chúa thông minh và chân thật. Chúng ta cũng cần đặt niềm hy vọng, cậy vào công nghiệp của Chúa, Chúa mời gọi từ khởi sự cho đến hoàn thành. Và chúng ta cũng phải có lòng yêu mến vì Thiên Chúa là tình yêu luôn làm cho chúng ta cảm nhận tình yêu đó là thập giá. Cuộc sống mới là cuộc xây dựng trong tình yêu của mình. "Yêu thương là tha thứ tất cả, chịu đựng tất cả, hy vọng tất cả" (1Cr 13, 7).
Qua đoạn phúc âm này, chúng ta luôn ý thức tham dự thánh lễ cho sốt sắng, ý thức về giá trị Lời Chúa để Lời Chúa soi sáng cho chúng ta nhất là những ai còn ngủ mê trong tội lỗi hãy chỗi dậy để thấy vinh quang Phục Sinh của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống lại và ra khỏi mồ, xin cho mỗi người chúng con biết đứng lên và trở về với Chúa sau mỗi lần vấp ngã để chúng con cũng được Phục Sinh với Chúa. Xin chiếu tỏa vinh quang của Chúa cho chúng con. Amen.
CHÚA NHẬT PHỤC SINH
Ga 20 , 1 - 9
Anh chị em thân mến.
Có lần tôi nhìn thấy một trẻ nhỏ rất dể thương, mọi người đang xúm quanh nó để bồng bế. Bổng nhiên đứa bé có vẽ như khó chịu và khóc lên. Mọi người cố tìm cách cho nó đừng khóc, ngỡ là nó đói, nên có người trao lại cho mẹ nó. Nhưng không phải thế, vì nó vẫn không chịu vật gì cho vào miệng. Người mẹ mới nhìn đứa trẻ một chút, bà mới tìm chay dầu, thoa lên bụng nó. Từ từ tiếng khóc của nó nhỏ dần, rồi dứt hẳn. Dường như nó mệt, nên nó nằm ngủ ngay trên tay của người mẹ. Tôi ngạc nhiên hết sức. Vì bà mẹ trẻ này không phải là một bác sĩ, cũng không phải là một thầy thuốc gì hết, nhưng tại sao bà chỉ nhìn con mình và biết nó đang cần gì.
Tôi chợt hiểu: Chỉ có tình yêu mách bảo cho bà. Thật thế, vì yêu thương con nên bà nhìn thấy những dấu hiệu, và tình yêu thúc bảo bà phải làm gì cho con mình. Ôi tình yêu bao la tuyệt vời.
Bao nhiêu người tới mồ Chúa Giêsu từ sáng sớm. Họ chạy tới, chạy lui, tìm người này người nọ. Nhưng tất cả đều không biết việc gì đã xảy ra, mặc dù họ cũng đã từng nghe câu: "Con người phải chịu đau khổ, chịu chết, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại". Vậy mà nhìn thấy thế họ vẫn không hiểu biết gì. Vì họ không có thời gian để nhớ, để hiểu những gì đã được nghe. Họ chỉ nghe, sau đó tất cả đều qua đi và không còn chút gì ở lại trong họ. Khi vị tông đồ trẻ chạy đến, ông cũng nhìn thấy tất cả như những người kia. Nhưng Ông thấy và ông tin. Tại sao thế?
Ông có nhìn thấy điều gì khác đâu, làm sao ông có được thái độ khác người như thế ? Chính do tình yêu mách bảo ông. Ông là người được Chúa Giêsu yêu thương nhất, và chắc chắn ông cũng yêu thương Ngài nhiều hơn những ông khác. Những đấu hiệu của tình yêu đã mách bảo ông nên Ông đã thấy và Ông tin. Ông tin những điều Ngài đã nói, tin những việc Ngài đã làm và tin những gì Ngài đã hứa. Ôi sức mạnh của tình yêu.
Mỗi người trong chúng ta có một hoàn cảnh sống. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta phải vất vã đấu tranh để mình được tồn tại. Còn hơn thế nữa, trong đấu tranh sinh tồn, ai cũng muốn cho đời sống của mình mỗi ngày được nâng cao hơn. Nhưng rồi mỗi người cứ làm việc như một cái máy, làm mà không cần suy tư. Có khi nào, chúng ta chợt tỉnh giấc, tự hỏi về mục đích cuộc đời của mình. Cũng được bao nhiêu lần, chúng ta ngồi yên tĩnh để nhìn lại quảng đời mình đã đi qua, xem nó tốt, xấu như thế nào không ? Chắc là rất ít khi chúng ta nhận ra được dấu hiệu của tình yêu trong đời sống hằng ngày của mình. Chúng ta cứ chạy, cứ làm việc, cứ tìm kiếm. Nhưng, những gì mình đã nhận được. - Chúng ta cũng không bao giờ biết. Những gì mình không nhận được. - cũng không ảnh hưởng gì đến chúng ta. Những đều xảy ra bên ngoài, trước mắt chúng ta, vang động bên tai, có khi cũng làm cãn bước chân.
Nhưng tất cả những điều đó cũng không đánh động gì nỗi con người của chúng ta. Vì chúng ta làm, hoạt động, lo lắng, tất cả những đều đó chúng ta chỉ biết lo cho bản thân mình, vì chúng ta chỉ biết yêu có chính mình. Nhớ kỷ mà xem : Chúng ta lo gia đình, nhưng nếu có thành viên nào trong gia đình không chịu vâng theo những ý kiến riêng tư của chúng ta, khi đó phản ứng của chúng ta sẽ ra sao ? hay có ai chỉ trích những việc làm của chúng ta, khi đó chúng ta có thành tâm nhìn lại để điều chỉnh cho đúng. Hay chúng ta vẫn ngoan cố và tìm cách loại địch thủ ra khỏi vòng cuộc sống. Nếu chúng ta đặt để tình yêu trong công việc, thì trong tất cả mọi biến cố xảy đến trong cuộc đời, đều là dấu chỉ của Tình Yêu Thiên Chúa. Từ những may mắn, những bất hạnh của bản thân hay của những người chung quanh.
Tất cả đều là những dấu chỉ của Tình Yêu mà Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta. Những dấu chỉ này chỉ những người luôn sống trong sự yêu thương bằng chính đời sống hằng ngày, trong tất cả mọi công việc bình thường của mình, họ mới nhận ra được. Còn ai không sống trong tình yêu thương, thì cho dù họ có giàu sang, tài giỏi hay thông minh xuất chúng đi nữa, vẫn không ích lợi gì. Vì họ nhìn mà không biết, nghe mà không hiểu.
Thiên Chúa yêu thương chúng ta, nên Ngài cũng luôn ban những dấu chỉ tình yêu. Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mình biết luôn yêu thương, để tất cả những việc làm đều phát xuất bởi tình yêu. Xin Chúa cũng cho chúng ta được biết nhận ra những dấu chỉ tình yêu của Ngài gửi đến, để biết sống theo những dấu chỉ của Tình Yêu.
SỐNG NIỀM VUI PHỤC SINH
Ga 20, 1 - 9
Lễ Phục Sinh là một đại lễ của người Công giáo. Đây là ngày của Đức Giêsu, Người "anh" (Trưởng tử) của chúng ta đã phá tan xiềng xích của sự chết và sống lại vẻ vang từ trong nấm mồ. Đây quả thật là ngày của Chúa. Nhưng cũng là ngày của chúng ta, vì Chúa Giêsu đã chia sẻ hoa quả chiến thắng khải hoàn cho của chúng ta. Vì thế chúng ta hãy mở lòng mình ra để đón nhận niềm vui của ngày đại lễ này.
Bài Tin Mừng tường thuật cho chúng ta về việc Maria Macdala khám phá ra ngôi mộ trống với những mãnh vải liệm bề bộn còn đó. Điều này tự nó chưa phải là bằng chứng xác thực về sự Phục Sinh. Tuy nhiên, đây là những dấu chỉ gợi mở để dẫn ta đến một niềm tin mạnh mẽ rằng: Đức Giêsu đã thoát khỏi sự ràng buộc của của tử thần và chuẩn bị cho các môn đệ đón nhận Chúa Phục Sinh.
Chúng ta không thể hiểu hết được niềm vui lớn lao của Đức Giêsu Phục sinh nếu như chúng ta hiểu được cái chết thật sự của Người. Các Tông Đồ, đặc biệt là hình ảnh và thái độ của Maria Madala đã theo chân Chúa trong suốt những chặng đường khổ giá cho phép chúng ta nhìn lại niềm tin của mình vào mầu Phục Sinh và chúng ta đã sống niềm tin ấy như thế nào?
Trước hết, chúng hãy nhìn về cuộc đời và sự biến đổi của Maria Madala. Hành trình đức tin của một cuộc đời với nhiều đau khổ và tủi nhục. Dù Phúc Âm không nói nhiều về bà, chúng ta chỉ biết bà là người ở Macdala và được Chúa Giêsu chữa khỏi bảy quỷ (x.Lc 8,2). Nhưng với chi tiết bà đi ra mồ Chúa lúc mờ sáng và phát hiện ra ngôi một trống. Bao nhiêu đó cũng đủ cho chúng ta hiểu được tấm lòng yêu mến mà bà đã dành cho Chúa Giêsu.
Nhìn lại những ngày đầu, khi Chúa Giêsu lên Giêrusalem chịu khổ hình với đông đảo các môn đệ, đặc biệt là Nhóm Mười Hai là những môn đệ thân cận, được Chúa chọn cách riêng để cùng đồng cam cộng khổ với Người. Nhưng kết quả thật phủ phàng, tất cả đều bỏ Chúa, ngay cả Phêrô thủ lãnh của các Tông đồ đã từng thề hứa sống chết với Thầy, nhưng Phúc Âm cho thấy ông là người phản bội Chúa hơn ai hết. Theo Đức Giêsu đến chân thập giá chỉ toàn là phụ nữ ngoại trừ thánh Tông Đồ Gioan (Ga 19, 25). Thật là một điều đáng để chúng ta suy nghĩ. Đến khi Chúa chết, hạ xác và an táng cho Ngài cũng chỉ là những người mà không ai nghĩ là họ trung thành với Chúa.
Đặc biệt là hôm nay, ra mồ viếng Chúa sớm nhất chính là Maria Macdala (Ga 20, 1). Tin Mừng không nói các Tông Đồ và các môn đệ khác ở đâu và đang làm gì nhưng có điều chắc chắn là họ không nôn nao ra thăm mộ Chúa. Còn Maria Macdala, có lẽ suốt đêm qua bà không hề chợp mắt. Trong khi cả thành Giêrusalem ồn ào náo nhiệt ăn lễ Vượt Qua, thì Maria chỉ mong cho trời mau sáng để để có thể ra thăm mồ của Thầy mình, một người Thầy đã cứu vớt và mở ra cho cuộc đời bà một tia hy vọng, một con đường sống. Và lòng trung thành yêu mến Chúa của bà đã được đền đáp. Nhìn thấy Chúa Giêsu Phục Sinh là một hồng ân đặc biệt, hơn nữa bà còn được Chúa trao cho sứ mạng là loan báo Tin Mừng này cho các Tông Đồ và những người khác.
Trong cuộc đời của mỗi người chúng ta ít hay nhiều cũng cảm nhận được Chúa đã cứu vớt mình. Nhưng cảm nhận không chưa đủ mà chúng ta phải đáp trả tình thương đó ra sao mới là quan trọng. Giống như Maria Macdala, người phụ nữ của Tin Mừng Phục Sinh đã đáp trả bằng cả cuộc đời mình.
Chúa đã Phục Sinh Cách mấy ngàn năm, nhưng mỗi năm Giáo Hội tưởng niệm, kính nhớ ngày ấy không phải như biến cố đã qua mà còn nhắc nhở mỗi người chúng ta phải biết sống niềm tin đó. Nếu như cuộc sống của chúng ta bị bao bọc bởi ngày thứ tuần Thánh đợm màu tang tóc, thì ngày lễ Phục Sinh sẽ làm tan biến mọi đau khổ, thất vọng và mở ra cho chúng ta một tia hy vọng đằng sau cái chết chính là sự Phục Sinh vinh hiển. Vì khi đặt niềm tin vào Chúa Phục Sinh sẽ dẫn chúng ta đến một sự hoán cải và thay đổi. Niềm tin vào Chúa Phục Sinh cũng sẽ làm cho chúng ta không còn đặt nặng tìm kiếm những thú vui chóng qua ở đời này. Nhưng niềm tin ấy sẽ làm cho chúng ta quảng đại hơn trong việc hy sinh cuộc sống mình để lo lắng và làm cho mọi người được hạnh phúc.
Lạy Chúa! Xin cho chúng con hiểu rằng đau khổ và cái chết chì là là chìa khoá mở vào cuộc sống vĩnh cửu. Xin ánh sáng Phục Sinh của Chúa chiếu soi tâm hồn chúng con để xoá tan bóng đêm âm u tội lỗi. Xin Chúa ban bình an Phục Sinh Ngài cho chúng con.
CHÚA NHẬT PHỤC SINH
Ga 20, 1- 9
Chúng ta đã trãi qua những ngày kỷ niệm Chúa Giêsu đi vào cuộc thương khó, chịu chết để cứu chúng ta. Chúa là Đấng vô tội nhưng đã gánh lấy tội lỗi của chúng ta. Chúa đã chết vì tội của chúng ta. Chúa đã chết thay cho chúng ta. Nếu Chúa không chết thay cho chúng ta thì chúng ta sẽ phải chết.
Nhưng để cứu chúng ta Chúa Giêsu đã không dừng lại ở cái chết, Chúa đã chiến thắng sự chết và Chúa đã sống lại để cho chúng ta cũng được sống lại với Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại cho chúng ta về sự kiện sống lại của Chúa Giêsu. Hôm táng xác Chúa vào trong huyệt đá, vì gần đến ngày Sabát nên việc ướp xác Chúa chưa hoàn tất, chỉ mới làm sơ xài thôi; nên qua ngày Sabát, bà Maria Madalêna đã vội vả ra mộ Chúa từ sáng sớm để hoàn tất việc ướp xác Chúa.
Khi đến nơi bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mộ từ lúc nào rồi, nhìn vào ngôi mộ trống, không còn thấy xác Thầy nữa, Bà liền chạy tìm và gọi ông Phêrô cùng người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến cách đặc biệt. Nghe vậy hai môn đệ Chúa Giêsu chạy đến, có lẻ họ nghĩ rằng ai đó đã lấy mất xác Thầy mình rồi. Chạy đến nơi mộ Chúa, các ông đã quan sát và thấy rõ mọi việc, điều đó làm các ông phân vân.
Tảng đá đã được lăn ra khỏi mộ, nhìn vào ngôi mộ trống các ông thấy: " các dây băng nhỏ xếp để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ " . Ai đã trộm xác Thầy chăng ? Nếu có kẻ nào đó trộm xác Thầy thì sao các dây băng và vải liệm lại xếp ngay ngắn và gọn gàng như thế. Kẻ trộm xác Chúa là kẻ có ý đồ xấu xa, làm sao lại có thể xếp các dây băng và vải liệm gọn gàng như thế, các thứ này vốn là đồ bỏ đi thì đâu cần phải làm thế đâu. Có một điều gì đó mà các môn đệ Chúa chưa hiểu nên các ông phân vân.
Ngôi mộ trống của Chúa Giêsu và vải khăn liệm là những dấu chỉ hổ trợ cho niềm tin vào Chúa Phục Sinh của Hội Thánh Công Giáo chúng ta. Niềm tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh đã giúp Hội Thánh Công Giáo chúng ta luôn tồn tại với bao thay đổi không ngừng của lịch sử nhân loại.
Điều quan trọng và ích lợi cho chúng ta hơn cả là làm sao chúng ta sống mầu nhiệm Chúa Giêsu Phục Sinh trong đời sống làm kitô hữu của chúng ta đây ?
Chúa đã chết cho chúng ta, nhờ đó chúng ta không phải hư mất đời đời. Chúa đã sống lại để ban sự sống mới cho chúng ta. Sự sống đó sẽ dẫn chúng ta về quê thật của mình là Nước Trời. Phần Chúa, Chúa đã chuẩn bị sẵn cho chúng ta tất cả rồi! Còn phần chúng ta, chúng ta đã chuẩn bị như thế nào trong việc đón nhận sự sống đời đời mà Chúa đã ban cho chúng ta ?
Để đón nhận sự sống đời đời, chúng ta cần phải " chết đi " mỗi ngày với những tánh hư tật xấu, những ràng buộc của tội lỗi, những bất xứng trong đời của chúng ta đối với Chúa, đối với tha nhân và với bản thân của mình nữa.
Đồng thời chúng ta cần phải trao dồi những điều tốt đẹp, học hỏi các nhân đức, thấm nhuần những lời dạy của Chúa Giêsu, rập khuôn mẫu đời sống mình theo mẫu gương của Chúa Giêsu. Làm cho đời sống mình mỗi ngày một sung mãn, phong phú và làm cho đời sống anh chị em chung quanh cũng được sung mãn, phong phú trong sự sống mới mà Chúa Giêsu đã đem lại cho chúng ta.
CHÚA GIÊSU PHỤC SINH
Ga 20,1- 9
Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước,
cũng đi vào. Ông đã thấy và ông đã tin (Ga 20, 8).
Biến cố Chúa Giêsu phục sinh là một sự kiện lịch sử vĩ đại, siêu việt là căn nguyên của niềm tin Kitô giáo. Chính Ngài đã khai mở cho con người một Trời mới, một đất mới và một cuộc sống mới.
Thời sơ khai, để diễn tả Đức Giêsu (Đấng đã chịu đóng đinh, đã chết nay đã sống lại và đang sống) các sách Phúc Âm đã không ngần ngại dùng những tang chứng vật chất như: Người cho động đến mình, cho xem dấu đinh, ăn uống ... Ngày nay, dựa vào những hiểu biết khoa học, khoa chú giải thánh kinh đã không còn giải thích thánh kinh theo đúng với nghĩa đen của nó nữa. Nhưng điều đó không có nghĩa là gác bỏ đi sự thực hư của việc sống lại, mà là nghĩ đến ý nghĩa của việc Chúa Giêsu sống lại đối với đời sống chúng ta.
Quả thật, nếu nhìn các chứng từ trong thánh kinh như là một sự kiện lịch sử thì không thể làm thoả mãn được sự phục sinh của Chúa Giêsu, bởi ngoài sự kiện lịch sử, biến cố này còn là một biến cố đức tin. Do vậy, sự làm chứng của các Tông đồ (những người đã từng sống với Chúa Giêsu, đã từng xem Ngài là Đấng Messia, và nay lại công bố đã thấy Ngài vẫn sống sau cái chết) có cái gì đó không lịch sử và không thể lịch sử bởi chính sự phục sinh cũng như chính hành vi bước từ sự chết sang sự sống vĩnh cửu chỉ là một thực tại dành cho đức tin, vả lại các Tông đồ không thể tự đứng ra làm chứng cho hành vi này. Vậy điều chúng ta có thể cho là lịch sử chính là ngôi mộ trống và những lần hiện ra.
Ngôi mộ trống
Giá trị làm bằng chứng hiển nhiên của Ngôi Mộ trống nếu tách khỏi ngữ cảnh, tức là sự chứng kiến của các Tông đồ về những lần hiện ra thì vẫn là chi tiết khó chấp nhận, bởi việc khám phá ra ngôi mộ trống được các Phúc Âm thuật lại chẳng có vai trò bao nhiêu trong căn nguyên nảy sinh đức tin của các Tông đồ. Vả lại việc loan báo Tin Mừng thời sơ khai của các Tông đồ đã không nhắc đến cách rõ ràng về ngôi mộ trống. Thực ra, ngôi mộ trống tự mình nó không chứng minh được sự phục sinh, nhưng có lẽ đó là điều kiện cần thiết cho niềm tin của các tín hữu sơ khai ở Giêrusalem.
Những lần hiện ra
Trong Phúc Âm, các lần hiện ra của Chúa Giêsu là những bằng chứng then chốt cho biến cố Phục Sinh của Người. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là sự Phục Sinh của Chúa Giêsu không phải là hồi sinh trở lại với cuộc sống trước kia của Người. Thân xác Người không thuộc về vũ trụ vật lý. Sự Phục Sinh của Chúa Giêsu cũng không phải là tiếp tục sự sống sau cái chết, nhưng là chiến thắng sự chết, và "Nhưng xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm con Thiên Chúa với tất cả quyền năng " (Rm1,4). Như vậy, những lần hiện ra cũng chính là Chúa Giêsu , nhưng với một cánh hiện hữu mới. Điều này làm cho ta có thể hiểu tại sao các Tông đồ đã không nhận ra Chúa Giêsu ngay khi Người hiện ra: cô Maria Macđala tưởng là người làm vườn cho đến khi Người gọi tên cô (Ga20,16); hai người môn đệ trên đường Emmau ngộ nhận Người là một Người lạ mặt (Lc 24,31); các môn đệ tưởng là ma(Lc 24,40 )
Và như thế, những lần hiện ra của Chúa Giêsu không phải là những sự kiện hiển nhiên để các Tông đồ nhận biết rằng: người đã hiện ra với họ là chính Chúa Giêsu mà họ đã từng biết trước khi Người chết trên thập giá, rồi sau đó họ tin vào Đấng Phục Sinh là Chúa Giêsu; nhưng là một tiến trình ngược lại, đó là: họ nhận ra sự hiện diện của một người, nhưng họ không biết là ai, và từ sự nhận thấy này, họ bước sang lĩnh vực đức tin nhờ một suy nghĩ về cuộc sống trước đó của họ với Chúa Giêsu, bây giờ sáng tỏ nhờ thánh kinh mà " người đó " giải thích cho. Họ nhận ra kẻ đó chính là Chúa Giêsu sống động, và chính Chúa Giêsu đã chỉ lối cho họ, bắt đầu từ quá khứ của họ, hướng về tương lai bằng cách giao phó cho họ một sứ mệnh: sứ mệnh làm nên Giáo Hội.
Tóm lại:
Sự sống lại của Chúa Giêsu là tín điều sống còn của đức tin kitô giáo, nếu Ngài không sống lại thì biến cố về sự Phục Sinh của Ngài chỉ là thần thoại và kitô giáo trở thành trò lừa bịp mọi người. Các chứng cứ về sự Phục Sinh có thể làm cho họ nghi ngờ, nhưng điều gì đã làm cho các Tông đồ từ những kẻ nhút nhát, sợ sệt lại hăng say ra đi làm chứng cho sự Phục Sinh, dù phải chịu đau khổ, gian nan và cả đến sinh mạng mình?
Vâng, đó chính là vì họ đã nhận ra được Chúa Giêsu Phục Sinh, Đấng đã chịu đóng đinh, đã chết, nay thật sự đã sống lại.
Sự sống lại của Chúa Giêsu còn là nguyên nhân cho sự sống lại của con người, bởi Ngài đã đánh bại sự chết bằng chính mạng sống của mình, và đã Phục Sinh để thân xác chúng ta được sống lại: " Người đã chết và sống lại vì chúng ta" (2Cr5,15). Hơn thế nữa, đ ức tin kitô giáo dạy rằng: " nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô , chúng ta sẽ cùng sống lại với Người " ( 2Tm 2,11). Với niềm tin ấy, người kitô hữu đã tìm được câu giải đáp cho số phận tương lai của mình, và như thế, vấn nạn về sự sống lại của Chúa Giêsu không những là đáng tin mà còn là điều phải tin trong thế giới ngày nay.
Xin cho những người mang danh là kitô hữu cũng biết chết đi chính thân xác mình, tức là chết đi những hận thù, chia rẽ, ghen ghét ... biết luôn tin tưởng, phó thác và sống trong niềm hoan lạc Phục Sinh của Chúa Kitô. Xin cho cuộc sống của mỗi người kitô hữu luôn là chứng nhân cho sự Phục Sinh của Ngài. Amen.
CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI THẬT RỒI, ALLÉLUIA!
Mc 16, 1-8
Tin Mừng Phục Sinh được công bố một cách rõ ràng và mạnh mẽ, bởi vì đã có Thứ Sáu Thánh, thì cũng có Chúa Nhật Phục Sinh. Tin Mừng Phục Sinh là Chúa Giêsu đã sống lại, Ngài vẫn sống và đang hoạt động trong đời sống của nhân loại, trong cuộc sống của mỗi người chúng ta. Chúa đã sống lại thật rồi: Alléluia.Alléluia.Alléluia.
Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô đã viết thế này: " Cái ngươi gieo không phải là hình thể sẽ mọc lên, nhưng là một hạt trơ trụi, chẳng hạn như hạt lúa hay một thứ nào khác.Việc kẻ chết sống lại cũng vậy: gieo xuống thì hư nát, mà chỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà chỗi dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà chổi dậy là thân thể có thần khí " (1 Co 15,37.42-44 ).
Còn cũng trong đoạn 15 gửi tín hữu Côrintô 20-22,49, thánh Phaolô viết:" Nhưng không phải thế ! Đức Kitô đã chỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại.Quả thế, như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống...Vì thế, cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến ".
Thánh Phaolô còn nhắc nhở chúng ta rằng: " Không phải chỉ tới lúc chết chúng ta mới được thông phần Phục Sinh với Chúa Giêsu, nhưng ngay bây giờ giữa cuộc sống đời tạm này, chúng ta vẫn có thể thông phần với sự chết và sự sống lại của Ngài, miễn là chúng ta sẵn sàng mở rộng tâm hồn ra với Ngài để đón nhận Ngài và sống đời sống của Ngài như thánh Phaolô đã nói: " Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi ".
Vâng, Chúa Giêsu đã chấp nhận cái chết theo ý Chúa Cha, Ngài vô tội, nhưng Ngài đã gánh tội của nhân loại, của mỗi người để rồi quảng đại, hy sinh chết trên thập giá để cứu độ và giải thoát chúng ta khỏi mọi tội lỗi, yếu hèn. Cái chết của Ngài nói lên tất cả tâm tình yêu thương của Ngài đối với chúng ta.
Ca nhập lễ ngày lễ Phục Sinh đã hát vang lên: " Chúa sống lại thật rồi. Ha-lé-lui-a. Kính dâng Người vinh quang và uy quyền.Đến muôn đời muôn thuở. Ha-lé-lui-a " Hoặc trong ca hiệp lễ chúng ta đọc thấy: " Đức Kitô đã chịu sát tế, làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vậy chúng ta hãy dùng bánh không men.Là lòng chân thật và tinh tuyền. Để ăn mừng đại lễ " ( 1Co 5, 7-8 ).
Sứ điệp Phục Sinh luôn chứng minh Đức Giêsu đã sống lại và Tin Mừng Phục Sinh là Đức Giêsu Kitô luôn hoạt động trong thế giới và nơi tâm hồn mỗi con người. Mỗi lần chúng ta yêu thương nhau, yêu thương người khác là chúng ta đang tham dự vào quyền năng Phục Sinh của Chúa Giêsu. Mỗi lần chúng ta tin tưởng nhau dẫu chúng ta cảm thấy như bị lừa dối là chúng ta vẫn đang tham dự vào mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giêsu. Mỗi lần chúng ta tiếp tục thắp sáng hy vọng, dẫu hy vọng có thể bị nhạt nhòa là chúng ta đang tiếp tục tham dự vào mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giêsu.
Sứ điệp Phục Sinh là không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa, không có gì tách khỏi khỏi sự chết vì chính Chúa đã vì yêu thương, gánh tội trần gian và chết cho trần gian, sống lại khải hoàn. Tin Mừng Phục Sinh là tất cả chúng ta được lôi kéo tới chân thập giá để lãnh nhận ơn cứu độ bởi vì chỉ nơi thập giá ơn cứu độ mới chứa chan nơi Người.
Lạy Cha từ ái, ngày hôm nay Đức Giêsu đã đánh bại thần chết, khai đường mở lối cho chúng con vào cuộc sống muôn đời. Nay, chúng con đang hoan hỷ mừng Người sống lại, xin Cha ban Thánh Thần làm cho chúng con trở nên người mới để sống một cuộc đời tràn ngập ánh sáng Đấng Phục Sinh. Amen . ( Lời nguyện nhập lễ, Chúa Nhật Phục Sinh.Thánh lễ chính ngày ).
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
CÁC KITÔ HỮU TRỢ GIÚP NHAU NÊN THÁNH
Mc 16, 1-8
"Ngươi hãy đứng dậy, vào thành, và người ta sẽ nói cho ngươi biết ngươi phải làm gì" (Cv 9,7). Câu nói này của Đức Giêsu Phục Sinh đã dạy cho Saul-Phaolô nhiều điều.
Cuộc gặp gỡ Đamát đã đánh ngay tâm điểm của lòng tự phụ tự mãn của Saun, khi cho ông thấy là: ông không tự đủ cho ông. Khi còn trai trẻ, còn khỏe mạnh, người ta tưởng không cần ai; thật ra không cần chờ đến tuổi già, hay khi mắc bệnh, cuộc sống của chúng ta là một chuỗi những trợ giúp cống hiến và đón nhận, về vật chất và nhất là về tinh thần. Rõ ràng chúng ta không làm ra bản thân chúng ta. Rõ ràng chúng ta không tự cung cấp cho mình mọi nhu yếu phẩm. Và càng rõ ràng hơn nữa, chúng ta cần được giúp đỡ để sống một đời sống trí tuệ, tinh thần, tâm linh quân bình, phong phú. Thân phận làm người là thân phận lệ thuộc. Điều đó thật đúng với Mẹ Maria: khi nhận mình chỉ là một nữ tỳ hèn mọn, Đức Maria nhìn nhận mình lệ thuộc tuyệt đối vào Thiên Chúa và người khác. Thế nhưng có mấy ai tự do và sống mạnh mẽ được như Mẹ?
1.- Cuộc đời chúng ta là kết quả của muôn vàn ân huệ
Chúng ta trở lại với thánh Phalô, tại Đamát vẫn còn là Saun. Khi ông đã bị mù mắt và té ngã trên đường vào Đamát, người ta đã cầm tay dắt ông vào trong thành. Một thầy rabbi còn trai trẻ, mới đây còn tỏ ra dồi dào sinh lực và sáng kiến, sẵn sàng đương đầu với những thách đố lớn nhất như tiêu diệt giáo phái mới vừa xuất hiện, đã hung hãn đi khắp nơi không mệt mỏi để tróc nã các Kitô hữu, thế mà bây giờ lại cần có người "cầm tay dắt đi vào Đamát". Rõ ràng sự hùng mạnh của con người là một điều quá mong manh. Sức khỏe thể lý, của cải, nhan sắc là những yếu tố nay còn mai mất. Như vậy, không ai có lương tri mà lại đi tự hào về những yếu tố đó như thể chúng là bản chất của mình, chúng là chính mình. Ngạn ngữ Ả-rập có nói: "Khi ta cưỡi một con ngựa đẹp, thì hãy nhớ rằng con ngựa đẹp!" Bởi vì khi một người cưỡi con ngựa đẹp, nếu có nhiều cặp mắt nhìn vào để trầm trồ khen ngợi, thì tự nhiên anh ta lại thấy giá trị của mình tăng theo con ngựa, và dễ dàng đồng hóa sự khen ngợi đó vào chính bản thân mình. Trong khi có một điều đơn giản nhất mà người cưỡi ngựa chưa bao giờ hiểu: chính con ngựa mới là con ngựa đẹp! Đáng tiếc là suốt cuộc đời, ta vẫn cứ ngây ngô đồng hóa mình với bao nhiêu con ngựa như vậy? Tài sản, địa vị, quyền lực, kiến thức, đều là những con ngựa đẹp mà cuộc đời cho ta mượn để giúp nhau nên tốt hơn, và đôi khi cho ta mượn chỉ là để trang sức cho đời ta thêm đẹp, chỉ là để lót đỡ cho ta bớt ê chề, đau đớn, khi gặp những đau khổ trên đường đời. Lâu này, ta quên bẵng đi, cho rằng đó là cái thực của mình! Tấm gương Phaolô cho hiểu là chúng ta đều giới hạn, và đã là giới hạn, thì chúng ta luôn cần đến sự trợ giúp của nhau.
Khi đã vào thành Đamát, Saun lại phải tiếp tục chờ đợi, vì Đức Giêsu Phục Sinh đã nói: "Người ta sẽ nói cho ngươi biết ngươi phải làm gì" (Cv 9,7). Hẳn là Saun không thoải mái gì khi nghe câu nói đó: một con người quen tiên liệu, hoạch định chương trình, mà bây giờ phải chấp nhận những ẩn số, ngồi chờ một chương trình không biết thế nào, và ai là người thông tri cho mình. Rất khó chịu! Về phương diện thể lý, cần phải có Khanania, một người được Đức Chúa Phục Sinh phái đến, đến đặt tay trên Saun, để làm cho những cái gì như vảy bong ra khỏi mắt ông, và mắt ông được lành lại. Về phương diện thiêng liêng, Saun càng cần hơn nữa một sứ giả của Chúa, vẫn là Khanania, ban bí tích rửa tội cho. Saun thấy quá rõ: ông không tự đủ cho chính ông. Chúng ta không tự đủ cho chúng ta, vì sẽ có lúc chúng ta cần người này người nọ giúp đỡ để chúng ta được chữa lành chứng này tật nọ, để đưa chúng ta đi sâu vào đời sống trong Hội Thánh.
Sau này, Phaolô sẽ làm chứng về điều đó: "Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?" (1 Cr 4,7). Khi đã gặp Đức Kitô Phục Sinh, Phaolô ý thức rất rõ rằng trọn vẹn cuộc đời và con người của ông là những ân huệ Thiên Chúa ban không, để rồi như ông nói trong Thư 2 Cr, "ông chỉ tự hào về những yếu đuối của ông" (2 Cr 12,5). Và ông đã ghi nhận là Chúa muốn ông khỏi tự cao tự đại, chính Chúa đã muốn ông phải chấp nhận thân phận yếu đuối giới hạn, bằng cách để cho "thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào" (2 Cr 12,7). Ông đã kho chịu lắm, nên "đã ba lần xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này" (2 Cr 12,8). Nhưng Chúa nhất định: "Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối" (2 Cr 12,9). Và Phaolô đã hiểu, con người của ông yếu đuối và giới hạn, nên nếu ông làm được gì là Chúa trực tiếp làm qua ông. Thế là ông reo lên: "Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh" (2 Cr 12,10).
Ngày trước, một người có thế giá thích nhấn mạnh trên gia đình từ đó ông đã xuất thân. Còn hôm nay, lại là chuyện ngược lại: người có thế giá thích nhấn mạnh trên tình trạng thấp hèn của những bước khởi đầu của họ. Họ muốn cho thấy rằng họ đạt thành công nhờ sức riêng. Họ là những con người tự tạo ra mình.
Cho dù điều này có đúng trong thế giới giao dịch thương mại, hoặc trong thế giới chính trị, hoặc thể thao, chắc chắn nó vẫn không đúng trong đời sống thiêng liêng. Không có vị thánh nào tự tạo ra mình. Chính Thiên Chúa lấy sáng kiến. Do đó ngay vị ần sĩ trong hoang địa cũng chỉ làm một việc là đáp trả lại ân ban của Thiên Chúa. Đây vừa là một chân lý tu đức nên tảng, vừa là một chân lý thần học chắc chắn: Bất cứ người nào cũng nhận đức tin từ một người khác. Chúng ta không cứu độ được chính chúng ta.
Các chân lý này có những hệ luận quan trọng. Chúng ta phải vừa sống tâm tình biết ơn vừa sống khiêm nhường. Biết ơn, bởi vì chúng ta chẳng là gì nếu không có các quà tặng của những người khác; không có sự quảng đại của mọi người, hẳn là chúng ta không thể nào có thể vào đời và bảo toàn cũng như phát huy sự sống. Và khiêm nhường, bởi vì chúng ta chẳng có lý do gì mà hãnh diện như thánh Phaolô đã viết. Khiêm nhường là thấy các sự vật như Thiên Chúa thấy chúng. Nếu chúng ta có thể làm như thế, hẳn là chúng ta sẽ thấy một chuỗi các nguyên nhân đàng sau các thành công của chúng ta, mà còn thấy cả một mạng lưới các tương quan, trong đó mọi điều chúng ta đã thực hiện được đều lệ thuộc một dàn các yếu tố, đó là chưa nói có nhiều yếu tố chúng ta chưa biết hoặc sẽ không bao giờ biết.
Phải nhấn mạnh thêm điều này nữa. Chúng ta không thể loại bỏ được các món nợ về lòng biết ơn chúng ta đã chồng chất lại. Vì thế chúng ta có thể trau dồi một linh đạo về lòng biết ơn. Có bao giờ chúng ta cầu nguyện cho các ông bà tổ tiên mà chúng ta không bao giờ biết mặt, ở vào một thời đại nhiều giới hạn hơn chúng ta hôm nay, mà đã sống và gìn giữ cho đức tin vừa tinh trong vừa sống động trong dòng họ chúng ta? Chúng ta có bao giờ cầu nguyện cho vị linh mục đã ban phép rửa tội cho chúng ta chăng? Chúng ta có bao giờ cầu nguyện cho vị thầy đã dạy chúng ta về các chân lý nền tảng cùa đức tin chúng ta?
Nhân ngày Lễ Truyền Tin hôm nay, chúng ta thấy Đức Maria đúng là không có gì cả, vì "nữ tỳ hèn mọn" có nghĩa là "tuyệt đối chỉ là nữ tỳ". Nhưng do sống khiêm nhường và luôn luôn với lòng biết ơn, Mẹ đã có được tất cả những ân huệ cao quý, mà ân huệ tuyệt đối cao quý là Người Con yêu dấu, mà Mẹ ban cho chúng ta làm Đấng Cứu Độ.
2.- Những cộng sự viên cần thiết
Chúng ta là kết quả của biết bao đóng góp của biết bao người. Vô số người, chúng ta không biết tên biết mặt, nhưng luôn luôn có những người chúng ta biết rõ. Phaolô biết rõ là để cho hoạt động truyền giáo của ông đạt kết quả, ông cần phải đi Giêrusalem, dù là mãi ba năm sau biến cố Đamát, để trình diện với các vị lãnh đạo Hội Thánh: "diện kiến ông Kêpha,... gặp ông Giacôbê..." (Gl 1,14-15). Rồi mười bốn năm sau, ông lại lên Giêrusalem, để "trình bày cho người ta Tin Mừng tôi rao giảng cho dân ngoại, - cách riêng cho các vị có thế giá -, vì sợ rằng tôi ngược xuôi, và đã ngược xuôi vô ích" (Gl 2,2).
Trong những người đã cộng tác với Phaolô, phải kể đến những môn đệ thân tín là Titô và Timôthê, đôi vợ chồng Priska và Aquila, "hai anh chị đã liều mất đầuđể cứu mạng tôi" (Rm 16,4). Có những người tốt lành, nhưng lại muốn tranh hơn thua trong việc phục vụ, nên Phaolô mới viết như sau trong Thư Philípphê: "Tôi khuyên hai chị Êvôđia và khuyên cả chị Xintikhe nữa: xin hai chị sống hòa thuận với nhau trong Chúa. Tôi xin anh Xi-di-gót, người bạn chân thành đã đồng lao cộng khổ với tôi, xin anh giúp đỡ các chị ấy". Lý do: "các chị đã giúp tôi chiến đấu trong Tin Mừng, cũng như anh Clêmentê và các cộng sự viên khác..." (Pl 4,2-3). Còn có thể kể thêm ra một số tên, mỗi tên đều có kèm theo một đánh giá của Phaolô: anh Êpênét, "bạn yêu quý của tôi, là của đầu mùa miền Tiểu Á dâng lên Đức Kitô", chị Maria, "người đã vất vả nhiều vì anh em", các anh Anrôních và Giunia, "bà con với tôi, và đã từng ngồi tù với tôi; các anh là những người xuất sắc trong các tông đồ, lại còn theo Đức Kitô trước tôi", anh Apelê, "người đã từng được tôi luyện trong Đức Kitô", hai chị Tryphen và Trôphyxa, chị Pexiđê, "những người đang vất vả vì Chúa" (Rm 16,5tt). Phaolô đã tỏ ra biết vị trí của mình trong mạng lưới các tương quan; ông cũng đã tạo ra được những người cộng sự tốt, để hỗ trợ nhau mà chu toàn việc Chúa.
Người ta có kinh nghiệm về những tập thể nào đó, ví được như một rổ cua, không cần đậy nắp, mà không con nào bò ra ngoài được, vì con nào leo lên, thì bị những con khác kéo xuống ngay. Cũng xin kể chuyện hai chú diều và hai con chim ưng. Hai chú diều bay trên bầu trời, chúng quyết định mở cuộc tỷ thí để xem ai sẽ bay cao hơn. Cạnh chúng có hai con chim ưng cũng đang mở cuộc thi tài. Chỉ trong chớp mắt, chúng bay vút lên trời. Nhưng hai chú diều thì cứ đảo bên này đảo bên kia, và không sao bay lên cao được.
Sau này, diều hỏi chim ưng: "Chúng ta mở cuộc tỷ thí dưới cùng một bầu trời, nhưng vì sao các anh có thể bay lên cao, còn chúng tôi thì không?"
"Đó là vì nguyên tắc tỷ thí của chúng ta khác nhau!", một chim ưng nói: "Nguyên tắc của chúng tôi là phải vượt thắng đối thủ; trong khi nguyên tắc của các anh lại là ngăn không cho đối thủ thắng mình".
"Thế thì có gì khác nhau giữa hai điều trên nào?", diều hỏi.
"Chúng hoàn toàn khác nhau chứ!", chim ưng đáp.
"Theo nguyên tắc của chúng tôi, nếu đối thủ bay vượt hơn mình, thì mình phải cố gắng hết sức để có thể đuổi kịp và thắng; còn nếu mình vượt hơn, đối thủ cũng phải nỗ lực nhiều hơn để có thể bằng mình. Do đó, cả hai chúng tôi đều có thể bay vút lên giữa trời xanh. Còn theo nguyên tắc của các anh, thì nếu đối thủ bay cao hơn mình, mình phải tìm cách kéo đối thủ xuống. Nếu ta không thể bay lên được, thì mi cũng đừng hòng! Hai sợi dây của các anh cứ xoắn vào nhau như thế, làm sao bay lên cao?... Đó là cách nghĩ của các anh, và lẽ đương nhiên là cả hai đều thất bại".
Hai con diều cứ tìm cách níu kéo nhau đó, đã được giải thích cặn kẽ về lý do khiến chúng không thể bay lên được. Trong đời, nào ai biết được có bao nhiêu "chú diều" đang lâm vào tình trạng như thế?
3.- Kết luận
Nhiệm vụ của chúng ta là xây dựng cộng đồng Kitô hữu, và đối với thánh Phaolô, điều này thường có nghĩa là sẵn sàng làm công việc góp ý sửa sai cho anh chị em, và dĩ nhiên, cũng sẵn sàng đón nhận sự góp ý của cộng đoàn. Chắc chắn công việc này không phải là làm một cảnh sát luân lý, nhưng là đáp lại sự thôi thúc của Chúa Thánh Thần mà sống bác ái trong những chi tiết cụ thể, nhỏ nhặt. Bởi vì, như thánh Phaolô nói, "bổn phận của chúng ta, những người có đức tin vững mạnh, là phải nâng đỡ những người yếu đuối, không có đức tin vững mạnh, chứ không phải chiều theo sở thích của mình" (Rm 15,1-2). Chúng ta sống không phải để làm theo sở thích của mình, mà là làm theo ý muốn của Thiên Chúa, do chỗ kiên nhẫn với người yếu và sẵn sàng sống đức ái thiết thực.
Lạy Chúa, Chúa biết những sức mạnh và những yếu kém của chúng con. Xin ban cho chúng con lương tri để chúng con tôn trọng những yếu đuối của người khác, và trợ giúp họ bằng sức mạnh Chúa đã ban cho chúng con. Và xin làm cho chúng con luôn luôn sẵn sàng dùng sức mạnh này mà chân thành thực thi bác ái nhằm phụng sự Chúa và phục vụ anh chị em. Amen
LM Phan Long, ofm
CHÚA KITÔ ĐÃ SỐNG LẠI THẬT
Ga 20, 1-9
Đó là lời hô vang của các môn đệ xưa. Đó là lời loan báo của những người phụ nữ đầu tiên được gặp Chúa Kitô phục sinh. Tin Mừng phục sinh được vang lên trong Hội Thánh trong khắp buổi đầu. Tin Mừng này còn được vang lên mãi, vang lên mãi để tuyên xưng niềm tin, mời gọi nhân loại, mời gọi con người sống niềm hy vọng. Chúa Kitô đã sống lại, alléluia. Chúa Kitô sẽ làm cho chúng ta được sống lại như Người.
Chúa nhật phục sinh là Chúa nhật vĩ đại cho toàn thể nhân loại, cho những người có đức tin. Bởi vì, Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần, Chúa Kitô đã chỗi dậy từ cõi chết.Mọi người chúng ta không được chứng kiến sự phục sinh của Chúa như các người phụ nữ, như các môn đệ, nhưng Kinh Thánh, và việc làm chứng của các môn đệ, của những người phụ nữ, của Hội Thánh là lời tuyên xưng đức tin không hề lay chuyển. Thánh Phaolô đã viết trong thư thứ nhất gửi tín hữu Corintô 1Co 15, 14: " Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì việc rao giảng của chúng tôi trở nên vô ích và đức tin của anh em cũng trống rỗng nữa ".Ơn huệ Thiên Chúa trao ban, ơn phục sinh Chúa Kitô đem lại củng cố đức tin của chúng ta, đến nỗi mỗi lần tung hô đức tin sau khi truyền phép, chúng ta cùng với Hội Thánh muôn thời tung hô: " Đức Kitô đã chết, Đức Kitô đã sống lại, xin cứu độ chúng con ". Chúa Kitô quả thực cứu độ chúng ta và qua cái chết, qua sự sống lại của Ngài, Ngài muốn làm cho mọi người được phục sinh với Ngài: " Bằng sự chết, Ngài đã phá hủy sự chết của chúng ta, bằng sự sống lại, Ngài đã phục hồi sự sống cho chúng ta. Lạy Chúa Giêsu xin hãy đến trong vinh quang ". Chúng ta hy vọng, niềm hy vọng vào sự sống lại sẽ giúp chúng ta vui sống, tin yêu, phó thác vào Chúa. Chính nhờ niềm vọng vào đời sống mai sau, chúng ta sẽ chấp nhận sự sống hiện tại và vững lòng tin yêu sống tình yêu và sự sống của Chúa trong hiện tại: " Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi ". Chấp nhận sống tình yêu trong hiện tại sẽ mở ra chân trời hy vọng tốt đẹp cho mỗi người có lòng tin vào Chúa.
Chúa nhật phục sinh là lễ của mọi lễ bởi vì Hội Thánh mừng ngày Chúa Kitô khải hoàn. Tin Mừng phục sinh hôm nay vẫn vang lên, vang lên mãi mãi như lời thánh Phêrô diễn tả trong bài đọc I hôm nay: " Chúa Kitô, Đấng mang Tin Mừng đến cho nhân loại, và chữa mọi người bị quỉ ám, đã bị giết treo trên cây thập giá, nhưng ngày thứ ba Người từ trong kẻ chết sống lại". Tin Mừng phục sinh luôn thôi thúc, giục giã mọi người lên đường làm chứng cho Chúa Kitô sống lại. Người Kitô hữu luôn sống hy vọng và luôn sống tình yêu hiện tại tràn đầy bởi Đức Kitô đã phục sinh để đem lại tình yêu vô biên cho mọi người: " Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu " ( Ga 15, 13 ). Tình yêu của Chúa Giêsu là tình yêu tự hiến, tình yêu nhưng không, tình yêu cao cả. Sống tình yêu như Chúa là sống trong niềm hy vọng phục sinh: Alléluia.
Chính nhờ sự sống lại của Chúa Kitô mà nhân loại, con người và mọi người sẽ luôn hy vọng, một chân trời mới mở rộng.Bởi vì, nếu Chúa Kitô không sống lại thì đức tin của chúng ta trở nên hão huyền, mơ hồ và vô ích. " Lạy Chúa, bởi thánh giá và sự phục sinh của Người, Người đã giải thoát chúng con; Người là Đấng cứu độ của thế gian ".
Alléluia.Alléluia.Alléluia. Chúa Kitô đã sống lại để chúng ta được đi vào sự sống mới và được sống lại với Ngài. Alléluia.
Xin cho chúng con luôn xác tín và tuyên xưng niềm tin Chúa Kitô phục sinh để chúng con không nhát đảm, lùi bước trước những khổ đau, thất vọng ê chề trong cuộc đời . Amen.
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Cách đây ít lâu, một tờ báo phát hành tại Ca-li-phóc-ni-a, Hoa kỳ đứa tin như sau : có một công ty nhận làm dịch vụ ướp xác chết trong tủ lạnh để khỏi bị hư thối. Rồi với những khám phá và tiến bộ khoa học, những người chủ trương hy vọng rằng : họ có thể tìm ra nguyên nhân cái chết của xác đó, tình trạng bệnh lý của cái xác đó trước khi chết. Và trong tương lai, họ có thể điều trị chứng bệnh đã tìm thấy và làm cho cái xác ấy được sống lại và sống mãi.
Chúng ta thực sự không biết được chương trình này rồi sẽ ra sao, thành công hay không, chúng ta cứ chờ xem. Nhưng hôm nay, nói về sự sống lại của Chúa Giêsu, chúng ta không nói đến chuyện con người sẽ sống lại để tiếp tục sống mãi với cái thân xác mà người ta gọi là xác đất vật hèn này.
Vậy Chúa Giêsu sống lại là thế nào ? Khi sống lại Ngài có sống với thân xác cũ không ? Ngay từ thời thánh Phao-lô tông đồ, trong thư gửi cho giáo đoàn Cô-rinh-tô, ngài cho biết đã có những người đặt ra các câu hỏi như thế. Và ngài đã khẳng định với họ rằng : thân xác phục sinh không giống như thân xác cũ trước kia, nhưng bất tử và thiêng liêng. Nghĩa là Chúa Giêsu đã sống lại trong thân xác của Ngài. Nhưng thân xác lúc sống lại hoàn toàn khác thân xác lúc còn sống trước kia. Cũng là thân xác lúc trước thật, nhưng sau khi sống lại thân xác Chúa Giêsu trở thành siêu việt, không còn bị ràng buộc bởi những cản trở vật chất nữa, không còn bị chi phối bởi những định luật của không gian và thời gian nữa, nên muốn đi lại đâu tùy ý, vượt qua tường hay vào trong phòng khi các cửa đều đóng kín, và biến mất liền sau đó như các sách Tin Mừng đã thuật lại. Vì thế, thánh Phaolô nói : "Ngài là Người Trời".
Đây cũng là tình trạng của thân xác chúng ta sau này, nghĩa là sau ngày tận thế, thân xác chúng ta cũng sẽ trở nên giống thân xác của Chúa Giêsu sau khi sống lại, tức là trở nên siêu việt và linh thiêng như thế, tuy vẫn là thân xác của mình. Về điều này trí óc chúng ta không thể hiểu thấu được, vì chúng ta còn bị giới hạn trong những phạm trù của không gian và thời gian, và chúng ta chỉ có thể chấp nhận được bằng đức tin. Nhưng tin có cơ sở, có bằng chứng, đó là sự sống lại, sự phục sinh của Chúa Giêsu.
Như vậy, Chúa Giêsu đã sống lại, có nghĩa là Chúa Giêsu chết trên thập giá, bây giờ vẫn đang sống. Và nếu Ngài muốn, Ngài cũng sẽ xuất hiện cho chúng ta gặp Ngài tận mắt như các tông đồ xưa. Vì thế, chúng ta tin Chúa Giêsu là chúng ta tin một người sống, một người có thể gặp được. Những vĩ nhân trên đời, những anh hùng dân tộc...sự nghiệp của họ lẫy lừng nên chúng ta khâm phục; cuộc đời họ đáng quí, nên chúng ta tưởng nhớ. Và tưởng nhớ vì họ đã chết. Đâu còn gì để gặp gỡ và đâu còn gặp gỡ nữa mà bảo tin. Còn Chúa Giêsu thì hằng sống, Ngài đang sống thực. Chúng ta tin Ngài vì chúng ta vẫn gặp Ngài.
Trải qua gần hai ngàn năm, niềm tin của các tông đồ và của các tín hữu tiên khởi vẫn còn được tiếp tục tuyên xưng. Mãi mãi vẫn còn có người tuyên xưng Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Chúa, là Con Thiên Chúa. Ngài đã chết để cứu chuộc chúng ta. Ngài đã sống lại để bảo đảm chúng ta cũng sẽ sống lại. Và hiện giờ Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn đang đồng hành với chúng ta trong cuộc sống trần gian. Chúng ta vẫn gặp Ngài trong Giáo Hội, trong các bí tích, trong thánh lễ, trong cầu nguyện, trong lời Chúa và trong khi thi hành giới răn mới của Ngài.
Chúng ta hãy nhớ : ai cũng sống lại : người tội lỗi hay người công chính, người có đạo hay không có đạo...đều sống lại. Nhưng sống lại để được thưởng hay chịu phạt, được lên thiên đàng hay xuống hỏa ngục...đều tùy thuộc vào cuộc sống hôm nay trên trần gian. Vì thế, cuộc sống hôm nay, tuy ngắn ngủi, nhưng lại là cái giá cho cuộc sống mai sau. Cho nên chúng ta cần sống đúng người Kitô hữu đã được cứu chuộc để được sống mãi với Chúa Ki-tô.
Dưới tựa đề "Trái tim của chàng E-rôn Phơ-lin (Errol Flinn) đã quá lâm lụy", báo Pa-ri Mát (Paris Match) cho in tấm hình của Phơ-lin, một tài tử lừng danh của Hô-ly-út (Holywood). Tấm hình chụp Phơ-lin nằm trần như nhộng trên chiếc ghế xếp, tay phải cầm ly rượu uýt-ki, tay trái đặt nhẹ trên vai một phụ nữ xinh đẹp cũng đóng khố như chàng. Bên trên tấm hình có hàng chữ sau : "Errol Flinn đã chết như khi chàng sống". Thì ra tấm hình này, tuy chụp Phơ-lin lúc còn sống, nhưng đồng thời nó cũng ghi lại đầy đủ chi tiết cái chết của chàng. Khi bệnh tim đến kết liễu đời chàng, người ta thấy Phơ-lin giống hệt như trong tấm hình chụp lúc còn sống.
Cây nghiêng về hướng nào sẽ ngả theo hướng đó. Đời sống thế nào, cái chết sẽ thế ấy. Anh chị em tin có đời sau và chắc anh chị em cũng đồng ý với tôi : sống thế nào chết thế ấy. Thế thì chúng ta phải sống thế nào cho xứng đáng với phẩm giá con người. Hơn nữa, chúng ta còn phải cố gắng sống sao cho xứng đáng với chức vị là con Chúa nữa.
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Trong tác phẩm "Lời Kinh Của Ếch" cha Melo tưởng tượng ra câu chuyện như sau: Một người đàn bà nọ rất đạo đức, sáng nào cũng đến nhà thờ thật sớm để cầu nguyện và chịu lễ. Trên đường bà gặp rất nhiều người qua lại, kẻ giàu người nghèo đều có, và ngay cả những người hành khất bên đường xin bố thí. Nhưng vì mải mê trong lời cầu nguyện, bà đi một mạch đến nhà thờ. Ngày nọ, không rõ vì lý do gì, khi đến nhà thờ bà thấy cửa đóng kín, bà cố gắng gõ nhưng cửa vẫn đóng chặt. Trong nỗi thất vọng chờ đợi, bà ngước nhìn lên cao và bỗng thấy có một biểu ngữ lớn với hàng chữ: "Ta đang ở ngoài kia".
Câu chuyện trên đây phần nào đã gợi lên cho chúng ta một ý nghĩ: Chúa Giêsu Phục Sinh đang ở đâu? Ngài đang ở đây trong chúng ta, ở ngoài kia trong những người nghèo khổ mà đôi khi chúng ta không biết. Như Maria Mađalêna, nhờ tình yêu nồng nàn dành cho Đức Giêsu, người Thầy đáng kính của mình, mà bà đã thắng được nữ tính nhút nhát, dám đi ra mồ lúc trời mờ sáng để trở thành người nữ đầu tiên loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các môn đệ: "Người ta đã cất Chúa khỏi mồ, mà chúng tôi không biết họ đặt Ngài ở đâu".
Động lực nào đã thúc đẩy Maria Mađalêna đưa Tin Mừng Chúa sống lại cho anh em. Bà đã thấy gì mà bà đã tin? Bà thấy ngôi mộ trống và với niềm tin chưa dứt khoát vì nghĩ rằng ai đã đem xác Thầy đi, nhưng nhờ Phêrô và Gioan, niềm tin vào sự phục sinh càng xác tín hơn. Phêrô bước vào mộ và thấy như vậy. Gioan, người được Thầy yêu dấu đã đến mộ trước nhưng vào sau, cũng thấy như thế. Nhưng Thánh Kinh ghi nhận phản ứng của Gioan: " Ông đã thấy và ông tin" (Gio 20:8). Qua hình ảnh của Maria Mađalêna và hai môn đệ cho chúng ta thấy rằng: lòng mến càng vững mạnh thì lòng tin càng gia tăng. Gioan đã thấy gì? Phải chăng ông tin vào sự tiên báo Phục Sinh của Đức Giêsu đã thành sự thật? Điều mà Gioan đã xác tín ngay khi bước chân vào mộ chính là Đức Giêsu đã phục sinh. Chắc chắn niềm tin này không dừng nơi ngôi mộ trống để rồi buồn phiền tự hỏi "Ngài ở đâu?" Nhờ tình yêu chân thành đối với Thầy mình mà Gioan đã mạnh dạn loan báo chính Ngài đã sống lại. Gioan đã trở nên người nam đầu tiên, bằng niềm tin, mang niềm vui và hy vọng chiến thắng trên mọi đau khổ, chết chóc và thất vọng của con người bởi vì tình yêu không thể bị chôn vùi trong huyệt đá của khổ đau, u sầu và tuyệt vọng, nhưng Đấng đã toàn thắng khải hoàn trong vinh quang.
Ước gì Lời Chúa hôm nay tác động trong chúng ta một tình yêu mãnh liệt để chúng ta vững tin vào mầu nhiệm Phục Sinh. Như thánh Phaolô đã nói: " Nếu Đức Giêsu không sống lại, thì niềm tin của chúng ta chỉ là hão huyền". Tất cả cuộc sống của chúng ta đều xây dựng trên niềm tin vào sự sống lại của Chúa Giêsu. Tất cả những nỗ lực xây dựng công bằng bác ái của chúng ta chỉ có ý nghĩa bởi vì chúng ta tin vào sự sống lại.
Nguyện cho niềm tin vào sự phục sinh của Chúa Giêsu luôn là động lực giúp chúng ta tin tưởng tiến bước trong cuộc lữ hành trần gian này, để rồi chúng ta mang tình yêu nơi Chúa Giêsu Phục Sinh đến cho tha nhân. Chính trong đêm vọng Phục Sinh, từ ánh sáng Chúa Phục Sinh, sẽ được lan toả cho mọi người ánh sáng Niềm Tin. Ánh sáng đó sẽ khơi dậy niềm tin vào sự sống mai hậu và xua tan mọi bóng đêm của hận thù, chia rẽ và chiến tranh trên thế giới ngày nay.
Sr. Maryann Bích-Đàm, MTGQN
Thế là Giêsu người thành Nagiarét đã "mồ yên mả đẹp". Thôi thì hãy yên nghỉ và quên đi những đau khổ, oan kiên và tất tưởi của cuộc sống. Quên đi những tiếng la ó, những lời thóa mạ, phản kháng, và bản án bất công đã đưa Ngài đến cái chết. Quên đi những tiếng búa chát chúa làm xuyên thấu tay chân bằng những chiếc đinh dài và nhọn nhưng rất vô tình. Quên đi cơn hấp hối kinh hoàng tưởng chừng "Cha nỡ bỏ con" (Mt 27:46). Quên đi đồi Golgotha loang máu. Và Giêsu ơi! Hãy ngủ yên.
Câu chuyện tưởng đã yên, nhưng mới sáng ngày thứ nhất trong tuần đã bị khua động trở lại. Ngài đã không ngủ yên. Ngài đã chỗi dậy và ra khỏi mồ. Maria Mađalêna và một số phụ nữ đã phát hiện ra rằng ngôi mộ đã trở thành trống rỗng, và thân xác Giêsu đã không còn trong đó nữa. Thế là một lần nữa, những thiếu phụ này lại bị xúc động và sợ hãi: " Chúa đã bị mang ra khỏi mồ. Chúng tôi không biết họ để Ngài ở đâu" (Gio 20:2). Điều này cũng làm cho các môn đệ đã hoang mang sợ hãi, càng thêm hoang mang sợ hãi hơn. Phêrô và Gioan cũng đã bị lôi cuốn, và muốn tìm ra sự thật.
Những nhân chứng ấy không ai khác là Maria Mađalêna và một số phụ nữ, Phêrô và Gioan, những người mà liên hệ mật thiết với Đức Kitô đã được nói đến nhiều trong Tin Mừng (x Gio 20:1-10).
Thời gian là buổi sáng phục sinh, khi mà người, vật còn đang ngái ngủ. Khi ánh bình minh vừa ló rạng. Vào thời điểm ấy, ta mường tượng các phụ nữ kia đang âm thầm và lặng lẽ bước đi trong sương mai, và những con gió thoảng buổi sáng đang làm họ se lạnh. Những cơn gió mát, nhẹ nhàng và thoang thoảng.
Không gian là ngôi mộ trống bên triền đồi Golgotha. Nơi mà buổi chiều thứ Sáu thảm sầu, một tử thi đã được chôn cất vội vàng.
Và Chúa Giêsu đã sống lại. Biến cố này đã trở thành niềm tin và sức sống mãnh liệt cho nhân loại trong suốt chiều dài lịch sử cứu độ. Hàng triệu triệu người đã sống với niềm tin này, và hàng triệu triệu người đã chết để bảo vệ niềm tin này. Nhưng đối với những người như chúng ta, những chứng từ ấy phải chăng vẫn còn là một nghi vấn! Và những chứng từ ấy có nghĩa gì trong cuộc sống đạo của mỗi Kitô hữu?
Có cần phải tình cảm và xúc động như Maria Mađalêna và những phụ nữ đã có mặt trong buổi sáng phục sinh không: " Thưa ông, nếu ông mang Ngài đi đâu, xin làm ơn chỉ cho tôi chỗ ông đã đặt Ngài để nhận Ngài lại" (Gio 20:15).
Cuộc sống đạo, cuộc sống tâm linh đôi lúc cũng cần được nuôi dưỡng bởi những động lực và thôi thúc tình cảm như thế. Có lúc chúng ta cần phải xúc động khi tham dự những nghi lễ sốt sắng. Cũng có lúc chúng ta cần phải để lòng mình lắng đọng khi gối quì một mình trong thinh lặng tại một góc của giáo đường. Và cũng có lúc chúng ta phải để cho lòng mình thổn thức một niềm cảm xúc trước những vẻ đẹp và sự cuốn hút của Thiên Chúa qua những người, những vật, mà chúng ta đụng chạm tới.
Có cần phải hăm hở và nhiệt tình như Phêrô, như Gioan đã nhanh chân chạy ra mộ để tìm ra những dấu hiệu của cuộc phục sinh không: " Phêrô và môn đệ kia bắt đầu chạy ra mồ. Họ cùng chạy bên nhau, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn và đến mồ trước. Ông không vào trong nhưng cúi xuống nhìn vào và thấy những khăn liệm ở trên đất" (Gio 20:3-5).
Đời nội tâm nếu chỉ dựa vào những rung động của tình cảm sẽ dễ trở thành mê tín, dị đoan, nhìn Chúa Giêsu mà lại tưởng là người làm vườn. Hoặc ngược lại, nhìn người làm vườn mà lại cho là Chúa Giêsu, như trường hợp của Maria Mađalêna. Niềm tin, ngoài những yếu tố tình cảm cũng đòi hỏi những dấu hiệu khả tín và dựa vào những lý luận hợp lý. Có lẽ vì phản ứng tự nhiên ấy mà cả Phêrô lẫn Gioan đã hăm hở chạy ra mộ.
Nhưng có lẽ ít ai để ý và dành cho ngôi mộ trống kia một chỗ xứng hợp trong biến cố phục sinh. Phải chi ngôi mộ ấy đã bị phá hủy ngay đêm thứ Sáu do lính của La Mã thì mọi chuyện đã đổi chiều. Hoặc phải chăng đám lính canh của các Thượng Tế gửi tới vẫn còn đang thức khi nhóm phụ nữ đến mộ thì sự việc cũng lại khác hẳn. Nhưng ngôi mộ mà xác thân của Giêsu đã được mai táng, và từ ngôi mộ ấy, Chúa đã sống lại vẫn còn đó, trống vắng, và lạnh lùng. Người ta chỉ tìm được những giây băng, vải cuốn, và khăn liện. Chính vì vậy nên nó đã trở thành một dấu chỉ đầy ý nghĩa của biến cố phục sinh.
Ngôi mộ trống cho ta một ý niệm về thái độ dứt khoát với quá khứ. Đức Kitô đã để lại tất cả những gì thuộc về thế giới kẻ chết như khăn liệm và băng quấn lại cho thế giới của sự chết. Ngài đã ra khỏi mộ và không trở lại. Thân xác Ngài giờ đây là thân xác thần linh, thân xác có thể vào nhà nơi các môn đệ Ngài trong lúc vẫn cửa đóng, then cài. Và đó là ý nghĩa của sống lại, của phục sinh.
Ngôi mộ trống còn là một dấu chỉ để con người suy về quá khứ. Một quá khứ với những đa mê và dục vọng. Điều này cũng có nghĩa là chúng ta sẽ không ngoái nhìn lại quá khứ và không nên tiếc nuối những gì mình đã bỏ lại. Nếu Thiên Chúa có nhìn đến ta lúc này, thì Ngài sẽ nhìn thấy một tinh thần vượt thoát từ mồ sâu tội lỗi. Và nếu con người có nhìn đến ta, thì họ sẽ chỉ thấy một chiếc khăn liệm gói trọn quá khứ, và hiện tại là sự đổi mới hoàn toàn.
Không luyến tiếc, không ngoảnh mặt lại với quá khứ, nhất là quá khứ từng làm cho con người hư hỏng và sa lầy trong vòng tội lụy, là thái độ mà Chúa Giêsu Phục Sinh muốn thấy nơi mỗi Kitô hữu. Họ cần phải dứt khoát với quá khứ ấy, nếu muốn cùng Ngài phục sinh như Tông Đồ Phaolô đã khẳng định: " Nếu ta cùng chết với Ngài ta sẽ cùng Ngài phục sinh" (Rom 6:5).
Cuộc đời và cuộc sống mỗi Kitô hữu cũng phải như ngôi mộ trống ngày phục sinh. Có nghĩa là chúng ta phải trở nên dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa, và sự sống lại của Đức Kitô trong cuộc đời mình. Để được thế, trước hết ngôi mộ tâm linh này phải đón nhận Chúa Giêsu Tử Giá bằng những chứng từ cuộc sống, và để Ngài làm cho nở hoa, phục sinh trong quyền lực Thiên Chúa. Như vậy, mỗi khi có ai nhìn vào ngôi mộ tâm linh ấy, tức là linh hồn của mỗi Kitô hữu, họ sẽ khám phá ra không phải là những người giầu tình cảm đạo đức, những người thông thạo giáo lý, hiểu biết; nhưng hơn thế, họ nhận ra một Chúa Giêsu phục sinh và vinh hiển.
Ngôi mộ trống vẫn không nói nhiều. Ngôi mộ trống cũng vẫn im lìm một chỗ không di chuyển. Và ngôi mộ trống cũng vẫn chỉ là một ngôi mộ trống. Nhưng hình ảnh của nó gắn liền với buổi sáng phục sinh, với Maria Mađalêna, với Phêrô và Gioan, và tất cả những ai đang tin vào Con Thiên Chúa - Đấng xóa tội trần gian - đã chịu cực hình thập giá, và được mai táng trong đó. Và cũng từ ngôi mộ ấy, Ngài phục sinh vinh hiển.
Cuộc đời tôi, cuộc hành trình tâm linh của tôi cũng cần phải giống như ngôi mộ trống kia, để tất cả những ai tò mò nhìn vào cũng nhận ra Chúa đã phục sinh.
T.s.Trần Duyệt
1. "Nếu Đức Kitô không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng. Và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng. Thế ra chúng tôi là những chứng nhân giả của Thiên Chúa, như thế là chúng tôi chống lại Thiên Chúa" (1Cor. 15, 14-15).
Thánh Phaolô thật rõ ràng, thật quả quyết về Đức Giêsu đã sống lại, nếu Người không sống lại thì Phaolô và tất cả các tông đồ, các tín hữu thời đó vừa phạm tội ác chống lại Thiên Chúa, vừa bị người đời bắt bớ, đánh đập, tù ngục và đóng đinh giết đi. Các tông đồ chịu chết vì điều giả dối đó để làm gì ? Để chịu khốn nạn hơn hết mọi người sao ? Và giả dối thì tất nhiên, Giáo hội không thể xuất hiện và tồn tại bền vững cho đến ngày nay được. Nhưng chính vì Đức Kitô đã sống lại, đã tiếp xúc với các tông đồ, các ông đã trông thấy, ăn uống, đã đụng chạm đến Người, đã nhận nhiệm vụ Người trao phó đi giảng dạy muôn dân, cho muôn dân tin mà được cứu độ, được sống lại, giải thoát họ khỏi cái chết kinh khủng ngàn thu. Chính vì Đức Kitô sống lại, Phaolô đã bỏ đường bắt đạo, trở lại giảng đạo, giảng sự sống lại của Đức Kitô, ông đã sống chết vì Đức Kitô, đã chịu trăm ngàn khổ cực, đã chịu đóng đinh như Đức Kitô để rao giảng Đức Kitô sống lại cho muôn dân được sống lại với Đức Kitô.
Khi Đức Giêsu bị bắt, bị xét xử, bị đóng đinh chết trên thập giá, thì các tông đồ bỏ trốn, tinh thần các ông đã chết, khi các ông nghe tin mồ trống, các ông cũng khủng hoảng, vì lính canh mồ đang phao tin các môn đệ đã lấy trộm xác. Đó là án tử hình đang đeo vào cổ các ông. Luật thời đó kết án tử hình kẻ trộm cắp. Nhưng khi gặp Đức Giêsu sống lại, các ông đã trở nên dũng mạnh, can trường đứng trước công trường rao giảng Đức Giêsu đã chịu chết và sống lại cho toàn dân đang dự lễ tại đền thánh Giêrusalem (Cv. 2,14-4,31). Các ông còn vui mừng khi bị điệu ra trước thượng hội đồng Do thái để chịu xét xử tù ngục, đánh đòn, chịu khổ vì Đức Kitô. Tuy nhiên, người ta vẫn thắc mắc : Sự sống lại của Đức Kitô quan trọng như vậy, đã thay đổi cuộc sống của các tông đồ như vậy, đã lôi cuốn dân chúng đồng thời với các ông trở lại như vậy, để xây dựng Giáo hội tồn tại vững bền như vậy, tại sao bốn thánh sử chỉ kể lại vắn tắt hai ba lần Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ thôi ? Còn về cuộc chịu chết khổ nạn của Đức Giêsu thì các ngài viết rất dài và đầy đủ chi tiết.
2. Thánh Marcô chỉ viết 8 câu kể tên 3 bà đi thăm mộ và hoảng sợ khi vào trong mộ thấy một thanh niên mặc áo trắng nói : "Đức Giêsu Nagiareth... đã chỗi dậy rồi... ".
Thánh Luca kể hai lần Chúa hiện ra : Một lần hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau, một lần hiện ra với các tông đồ, Người chúc bình an cho các ông rồi cho các ông rờ xem chân tay có xương thịt rõ ràng, chứ không phải ma, và ăn trước mặt các ông. Rồi Người dạy dỗ và mở trí các ông hiểu Kinh Thánh ứng nghiệm về Người. Người truyền cho các ông đi rao giảng cho muôn dân, rồi Người được rước lên trời.
Thánh Matthêu chỉ kể vắn tắt Đức Giêsu hiện ra với các phụ nữ, rồi hiện ra với 11 môn đệ. Ngài nhấn mạnh đến việc các thượng tế lừa đảo, bảo lính canh mồ phao tin các môn đệ lấy trộm xác.
Thánh Gioan kể dài hơn : Chúa hiện ra ba lần : trước hết với Maria Madalena, và hai lần với các môn đệ : một lần không có ông Tôma, lần sau có cả Tôma, và đoạn 21 cuối do các môn đệ Gioan kể thêm Đức Giêsu hiện ra ở biển hồ Tiberia lúc các ông đánh cá. Người nướng cá cho các ông ăn và hỏi ba lần Phêrô " Con có yêu mến Thầy không ?".
Thánh Gioan cũng thêm một chi tiết khá tế nhị : Phêrô và Gioan chạy ra mộ khi vào mộ, ông thấy những băng vải và khăn che đầu Đức Giêsu cuốn lại và xếp riêng ra một nơi, chứng tỏ : Không ai đưa xác đi đâu và Đức Giêsu đã sống lại đàng hoàng mới có sự sắp xếp như vậy.
3. Sở dĩ các ngài viết vắn tắt về sự sống lại của Đức Giêsu, có lẽ vì những lý do sau :
Thứ nhất : Sự sống lại của Đức Giêsu khác với sự sống lại mà Người đã cho Lagiarô hay con trai bà góa thành Naim và con gái ông Giairô chết được sống lại ở đời này, rồi lại chết. Sự sống lại của Đức Giêsu là sự sống đời đời : "Người không còn chết nữa. Sự chết không còn làm chủ được Người nữa" (Rm. 6, 9). Thân xác Người trở nên vinh hiển : "Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người" (Phil. 3, 21). "Thiên Chúa còn đặt mọi thù địch dưới chân Người, thù địch cuối cùng là sự chết" (1Cor. 15, 25-26). Như vậy Người đã chiến thắng sự chết. Cho nên không thể dùng ngôn ngữ trần gian nào diễn tả sự sống lại huyền diệu của Đức Giêsu được. Các ngài chỉ có thể kể : Người hiện ra đúng như Người lúc bị đóng đinh, có xương thịt, có lỗ đinh đóng chân tay và cạnh sườn, có ăn nói, dậy dỗ, trao quyền rao giảng Tin mừng, chứ không như bóng ma quái. Đồng thời Người lại giống như thần thiêng, không bị lệ thuộc vật chất, Người hiện ra gặp các ông mọi nơi, mọi chỗ dù cửa nhà đóng kín. Thật lạ lùng mãnh liệt đối với các ông. Cho nên chỉ kể thế là đủ.
Thứ hai : Các tông đồ đã trực diện hiển nhiên trước sự sống lại diệu huyền của Chúa, đâu cần phải sống lâu bên Chúa mới nhận ra Người sống lại. Các ông tiếp xúc trực tiếp với Người bằng tất cả mọi giác quan : tai, mắt, miệng lưỡi, chân tay, lòng trí và cả tâm hồn với mọi cảm tính từ hoảng sợ, nghi ngờ đến vui mừng, yêu mến tha thiết, từ đời sống lo âu đến đời sống bình thường, từ chốn ẩn lánh kín đáo đến công trường trước đông đảo quần chúng, hơn nữa chính Chúa còn mở trí cho các ông thấu hiểu các sách luật Môisê, các Ngôn sứ và Thánh vịnh, Thánh Kinh đã ứng nghiệm về Người (Lc. 24, 44-45). Chính các tông đồ là những cuốn sách sống động cho muôn dân hơn muôn vàn sách viết chữ. Chính các ông là những chứng nhân trực tiếp rõ ràng nhất bằng lời giảng, bằng đời sống, bằng gương lành, và bằng chính những cái chết anh dũng của các ngài, nhất là bằng ân sủng của Chúa Con, bằng tình yêu của Chúa Cha và bằng tác động của Chúa Thánh Thần. Những người có thiện tâm đều tin vững vàng Đức Giêsu đã sống lại thật. Kẻ cố chấp, ác tâm thì dù biết mọi chi tiết rõ ràng, như quân dữ, họ cũng viện mọi lẽ để không tin Người.
Thứ ba : Như Tử Cống hỏi Khổng Tử : "Người chết còn biết không ?". Người đáp : "Nếu Ta nói : Người chết còn biết, thì sợ con cháu hiếu thảo liền chết theo ông cha, nếu Ta nói người chết không còn biết nữa, thì sợ con cháu bất hiếu, cha mẹ chết bỏ không chôn" (Khổng Tử gia ngữ : Trí tự VIII.)
Cũng vậy, nếu Chúa không sống lại, hay vật chất hóa sự sống lại của Chúa bằng xương bằng thịt cho người ta thấy luôn luôn, thì người ta không còn tin Chúa bởi trời xuống nữa. Người ta chết là hết, hay người ta tìm được thuốc trường sinh, thì người ta không cần Thiên Chúa nữa. Người ta sẽ sống thoải mái theo thú tính của mình và chắc chắn thế giới này sẽ nguy hiểm kinh khủng vì ai cũng lo giành dựt, xâm chiếm về cho mình hưởng thụ.
Nếu Đức Giêsu sống lại hoàn toàn vô hình, các tông đồ không thấy Người sống lại thì chắc các ông sẽ không thể tin Người sống lại, do đó, các ông đâu còn dám chết đi để làm chứng Người sống lại.
Cho nên Đức Giêsu đã xuống thế gian làm người để chết đi và sống lại cho người ta thấy tình thương bao la hữu hình của Người để người ta kính mến Người, và lên trời vô hình để người ta tin Người là Thiên Chúa hằng sống.
Lạy Chúa Giêsu, Người đã sống lại thật. Alleluia. Chúng con phấn khởi vui mừng. Alleluia. Chúng con cảm tạ và tung hô Chúa muôn đời. Alleluia .
Lm Vikini
CHÚA NHẬT PHỤC SINH B
Ga 20:1-9
Tại sao Chúa hiện ra với 'Mai Đệ Liên' trước các Tông đồ ?
Dân tộc nào cũng có những câu chuyện thần thoại, càng thần thoại nếu trí tưởng tượng của họ càng giàu. Tuy nhiên câu chuyện của một người đã chết đi ba ngày, rồi tự mình sống lại, là một câu chuyện khó tin, vượt sức tưởng tượng của loài người. Đối với những người không tin, thì đó chỉ là một câu chuyện hoang đường, không hơn, không kém. Tuy nhiên câu chuyện Đấng Cứu thế chết đi sống lại đã được các tiên tri loan báo cả ngàn năm trước, và chính Chúa cứu thế cũng tự loan báo. Để tẩy chay lời tiên tri về việc Đấng cứu thế phục sinh, những kẻ kết án Chúa đã sai quân lính canh mộ Chúa hầu tránh cái âm mưu có thể xẩy ra do môn đệ lấy trộm xác Chúa, rồi phao tin là Thày mình đã sống lại.
Việc Chúa phục sinh từ cõi chết là một biến cố quan trọng không những trong lịch sử Kitô giáo, mà còn có một chỗ đứng đáng kể trong lịch sử thế giới. Tuy nhiên cả thành Giêrusalem đều mê ngủ trước biến cố phục sinh của Chúa, và mọi sinh hoạt trong thành đều diễn ra bình thường. Còn các môn đệ Chúa thì hoang mang, không biết đâu là thực hư. Tất cả họ đều bị khủng hoảng trầm trọng, không con hi vọng gì nữa. Tâm trí họ bị rối loạn vì những khiếp sợ và bực mình. Họ khiếp sợ vì người Do Thái bách hại. Họ bực mình vì cái chết của Thày mình đã làm tiêu tan mọi mối hi vọng.
Chỉ có bà Maria Mađalêna, có tên Việt là Mai Đệ Liên, là người đầu tiên đã xuất hiện đi ra khỏi nơi trú ẩn để tìm Chúa. Bà ta quá sầu khổ về cảnh đóng đinh của Thày mình, nên khi thấy mồ trống, bà ta không còn nghĩ gì khác, mà chỉ nghĩ về việc người ta đã lấy trộm xác Chúa. Mađalêna là người đầu tiên thấy Chúa sống lại, nhưng không nhận ra Người. Bà tưởng đó là người làm vườn cho tới khi Chúa gọi bà bằng tên Maria (Ga 20:16). Đến đây bà vội vã đi về kể cho Phê-rô và Gio-an là xác Chúa không còn ở trong mồ nữa.
Thật là một điều khó tin khi Mađalêna được coi là người đầu tiên loan báo tin mừng Chúa sống lại. Tuy bà ta không ý thức được rằng mình đã được chọn để loan báo cho hoàn cầu việc Chúa phục sinh. Làm sao Chúa hiện ra với bà, một người tội lỗi có lòng ăn năn sám hối, trước khi hiện ra với các môn đệ? Đó là vì bà đã ra viếng mộ Chúa trước tiên.
Cuối Phúc Âm Thánh Gioan hôm nay được thêm một ý tưởng rất quan trọng : Trước đó họ chưa hiểu rằng, theo Thánh kinh, Đức Giêsu phải sống lại từ cõi chết (Ga 9:20). Chính ông Phêrô đã không hiểu tại sao khăn liệm xác lại được để riêng một bên. Việc đối diện với Chúa phục sinh đã đổi hẳn tất cả. Bây giờ họ thấy, và họ tin. Sách Công Vụ Tông Đồ hôm nay ghi lại : Trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại (Cv 10: 41).
Cũng như các tông đồ, cũng như Mađalêna, ta cũng có những lần hồ nghi về việc Chúa sống lại. Có những khi ta cảm thấy những giờ phút tuyệt vọng, chán chường, những ngày giờ, những năm tháng mà tâm hồn bị bóng tối bao phủ. Ta cảm thấy như là Chúa đi vắng, và không còn gì để bám víu. Tuy nhiên cũng như Mađalêna, cũng như Phêrô và Gio-an, ta vẫn phải đi tìm Chúa, ngay cả khi ta cảm thấy khó tin vào Chúa. Chúa vẫn ở đó chờ đợi ta. Chúa vẫn đến với ta trong đời sống hằng ngày. Ta sẽ khó lòng tìm thấy Chúa nếu ta quá bận tâm lo lắng về những sự vật trần thế, nếu ta mê đắm theo đuổi những chuyện viển vông.
Phục sinh là thời giờ mà ta phải tìm ra câu trả lời cho những thắc mắc và khắc khoải của loài người :
* Ta đang tìm kiếm những gì ?
* Có phải ta tìm Chúa và sự công chính của Nước Người hay không?
* Cái lẽ sống và cùng đích của đời sống ta là gì ?
* Đâu là chỗ ta có thể bám víu khi mất đi của cải và người thân yêu ?
* Ai là người có thể lấp đầy sự trống rỗng trong tâm hồn ?
* Và ai là người có thể đem lại ý nghĩa cho cuộc sống ?
Lm Trần Bình Trọng, USA
CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI RỒI: HÁY ĐI LOAN BÁO TIN MỪNG
Ga 20,1-9
Nếu có một người nào đó nói với bạn:" chết rồi sẽ sống lại", chắc bạn sẽ bỉu môi, suy nghĩ và có khi hoang mang chưa dám tin, vì đức tin bạn yếu hay bạn chưa có lòng tin. Và đây, có một câu Chuyện thật một trăm phần trăm đã xẩy ra cách đây 2003 năm trong lịch sử nhân loại. Đức Giêsu Kitô đã đến trần gian, sống với trần gian, sống cho trần gian, hòa đồng với mọi người ngoại trừ tội lỗi. Ba năm Chúa Giêsu đi giảng đạo, Người đã kết nạp các môn đệ, giáo dục, cắt nghĩa, giải thích cho các môn đệ nhiều điều; sau cùng tới thời đã định, Người đã chấp nhận ý Thiên Chúa Cha, chịu chết treo trên thập hình tự giá dù rằng Ngài hoàn toàn vô tội, con người đã chôn Ngài trong mồ đá, n hưng sau ba ngày Người đã sống lại đúng như lời Ngài đã loan báo trước... Đó là biến cố vô cùng quan trọng đã làm đảo lộn lịch sử nhân loại, xôn xao dư luận từ 2003 năm nay và chắc chắn còn tiếp tục mãi cho đến ngày tận thế.. . "Ta là sự sống lại và là sự sống; ai tin Ta,sẽ không chết đời đời "(Ga 11,25a.26)
I. Vẫn là cái ngớ ngẩn của các môn đệ, của dân Do Thái và nhiều người.
Chúa Giêsu sau thời gian ẩn dật ở Nagiarét với cha mẹ Người; ba năm đi rao giảng công khai, Chúa Giêsu đã kêu gọi một số môn đệ đi theo Người, Chúa đã giảng dậy, uốn nắn, giải thích, cắt nghĩa cho các môn đệ nhiều điều, Chúa đã làm rất nhiều phép lạ trước mặt các môn đệ để củng cố lời nói của Ngài như Chúa Giêsu đã làm cho nước hóa thành rượu ngon trong tiệc cưới Cana (Ga 2,1-11), làm cho bánh hóa nhiều để nuôi nhiều ngàn người (Mt 14,13-21), làm cho kẻ chết sống lại (Mc 5,21-43), Lc 7,11-12; 11,1-14 ) vv... Chúa đã trừ quỉ, chữa lành nhiều bệnh hoạn tật nguyền. Nhưng phép lạ lớn nhất vẫn là phép lạ chính Người đã chết thật trên thập giá, đã được an táng trong mồ, chỉ ba ngày sau tự Ngài đã sống lại như lời Ngài đã loan báo trước (Ga 20,31 ).
Các môn đệ còn mê muội không hiểu gì về biến cố lớn lao ấy vì rằng Thánh Thần chưa mở trí cho các môn đệ. Vâng, trước khi thực hiện thánh ý Chúa cha cứu đời, Chúa Giêsu đã nói gần, nói xa với các môn đệ. Nhưng lòng trí các môn đệ vẫn nặng nề chưa làm sao hiểu nổi, các môn đệ cũng xin Chúa Giêsu giải thích thêm nhưng các môn đệ vẫn chưa hiểu hết ý nghĩa. Các môn đệ cứ tưởng rằng Thầy mình sẽ khôi phục lại nước Israen theo kiểu trần gian, để mỗi một môn đệ sẽ trở nên công hầu khanh tướng trong vương quốc của thầy Giêsu.
Các môn đệ vẫn còn cái óc xưng hùng xưng bá. Các ông cứ tưởng rằng thầy Giêsu sẽ làm Vua như kiểu các vua thế trần. Thế nên, mới có chuyện bà mẹ hai con ông Giêbêđê tới xin xỏ với Chúa Giêsu cho một đứa con ngồi bên tả và một đứa ngồi bên hữu Chúa. Thế mới có chuyện, Phêrô vị thủ lãnh các tông đồ vừa tuyên xưng Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa hằng sống, được Chúa khen tặng, nhưng khi nghe Thầy Giêsu loan báo ý định chịu chết cứu đời. Phêrô đã vội vã cản đường Chúa Giêsu. Đúng là các môn đệ đã chẳng hiểu tí gì về con đường của Chúa phải đi, không hiểu gì về ý định của Chúa là phải tuân phục ý Chúa Cha: " Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta" (Ga 4,32 ). "Người đã hạ mình xuống, vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá "( Pl 2,8 ). Chúa Giêsu đã chết và được Philatô ban tử thi cho ông Giuse, một nghị viên quê ở Arimathia chôn cất (Mc 15,42-46) và (Ga 19,38-42 ).
Tuy nhiên biến cố mồ trống từ tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần đã làm mọi người hoang mang, nhất là các bà phụ nữ ra thăm mộ từ sáng sớm, trong đó có cả Phêrô, vị lãnh đạo Giáo Hội. Quả thực hiện tượng hoang sơ của ngày thứ nhất theo sách khởi nguyên, là một sự trống vắng, mông lung. Ngày thứ nhất ấy đã được khỏa lấp bằng ngày thứ nhất phục sinh khi Chúa Giêsu từ trong kẻ chết sống lại. Người ta có thể nhất trí với nhau rằng nếu mọi việc đều bình thản, nghĩa là khi Maria Mađalêna, vài phụ nữ khác, Phêrô và Gioan ra mộ và thấy xác Chúa Giêsu vẫn còn nguyên nằm đó thì không có Tin Mừng phục sinh, không có tin được loan truyền, loan báo. Nhưng mọi sự đều khác: Sự kiện mồ trống (Mt 28,1-8). Chúa hiện ra với Maria (Ga 20,11-18)...
Các môn đệ ngay chính lúc đó vẫn chưa hiểu nổi lời Thánh kinh: " Đức Giêsu phải sống lại từ cõi chết " (Ga 20,9; Cv 2,24-31, 13,32-37 ). Vì thế, các người Do Thái và nhiều người khác lại càng tỏ ra mù tịt về biến cố Chúa Giêsu sống lại. Các vị lãnh đạo Do Thái, dân Do Thái và nhân loại tưởng rằng đã giết được Chúa Giêsu, tưởng rằng đã loại trừ được Chúa Giêsu là họ đã chiến thắng. Họ có biết đâu : "Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần. Ngài đã trở thành bất tử ". Các người Do Thái, các tư tế, thượng tế, biệt phái và nhiều người khác đã ấm ớ như bọn lính được các quan chức cho tiền để tung ra tin giật gân, hầu mập mờ đánh lận con đen: "Lính canh lãnh tiền và được dậy sao thì làm như vậy" (Mt 28,11-15 ), nhưng nhân loại có hiểu đâu: "...Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì việc anh em tin cũng hão huyền "(1co 15,12-17 ).
II. Gioan đã tin, các người phụ nữ cũng đã tin...
Gioan, người môn đệ Chúa Giêsu yêu, đã ngồi kề ở ngực Chúa trong bữa tiệc ly, khi chạy tới mộ trước Phêrô, thấy khăn liệm đã được cuộn lại, khăn phủ đầu để một nơi gọn gàng, Gioan liền tin (Ga 20,5-8 ). Gioan đã có cái nhạy cảm từ con tim vì chính Chúa Giêsu đã tỏ lộ cho ông nhận ra sự kiện huyền diệu ấy. Gioan đã nhận ra ngay dấu chỉ của sự kiện phục sinh : Chúa Giêsu phải sống lại từ cõi chết. Thân xác của Chúa Giêsu theo lời Thánh kinh phải đi vào cõi vinh quang, cõi vĩnh hằng. Nó không thể là thân xác trở lại cuộc sống trần thế bình thường như con bà goá thành Naim, con gái ông Giarô và Lazarô được Chúa Giêsu lam cho sống lại. Nhưng thân xác của Chúa Giêsu lúc này đây sẽ trở nên khác hẳn như thánh Phaolô so sánh : " Khi bị an táng, nó là một thân xác vật chất, nhưng khi sống lại, nó sẽ trở thành một thân thể tinh thần " (1co 15,37.42-44). Gioan đã có trực giác rất nhạy bén vì người vào mồ trước không phải là Maria Mađalêna, không phải là Gioan mà là Phêrô vị thủ lãnh các tông đồ. Trực giác của Gioan chỉ ra rằng tin thấy chưa đủ mà phải phát phải phát xuất tự tình yêu. Gioan đã sống trong tình yêu tuyệt đối, nên ông đã nhận ra Chúa sống lại trước hết mọi người vì ông tin có sự sống đang ở đó, rằng tình yêu không chết, tình yêu rất sống động. Phêrô đã thấy tất cả sự việc, Maria đã thấy tảng đá đậy mồ bị đẩy ra ngoài nhưng cả Phêrô, cả Maria Mađalêna vẫn chưa hiểu gì về lời Thánh kinh đã nói trước. Vâng, Gioan đã thấy và đã tin. Rồi từ sự kiện của lòng tin, Phêrô cũng đã từ từ được ơn soi sáng và Ông cũng nhận ra Chúa đã sống lại.
Còn Maria Mađalêna, sau cái sự kiện mồ trống, sau ánh sáng lu mờ, còn xám xịt của buổi sáng tinh mơ ngày thứ nhất trong tuần: tảng đá bị lăn ra và dầu thơm hương liệu còn ở trong tay. Maria MađaLêna đã không kịp xoay sở khi Chúa hiện ra với bà, và bà cứ tưởng là người làm vườn, khi Chúa âu yếm kêu tên bà và bà đã nhận ra Chúa phục sinh: " Rabboni "(Lạy Thầy ). Chúa phục sinh đã nói với bà :"Hãy về loan bao với anh em Ta..." hoặc khi các ngươi phụ nữ ra mộ thì có một người mặc áo trắng và nói với các bà rằng :"Tại sao các bà tìm kẻ sống giữa kẻ chết..."(Lc 24,5 ). Tất cả như bừng tỉnh sau một giấc mơ dài nhuộm mầu u tối. Dưới lăng kính của ánh bình minh. Gioan, Phêrô, Mađalêna và các người phụ nữ đa nhận ra Chúa phục sinh với con tim, với đức tin của mình.
III. Tin Mừng Phục sinh vẫn luôn là thách đố :
Người ta cứ tưởng rằng giết được Chúa Giêsu là mọi sự đã chấm dứt. Người ta vẫn hão huyền, vẫn mơ mộng :Có người đã tin, có người còn mập mờ, có người không tin. Đã hơn hai ngàn năm, biến cố phục sinh vẫn luôn là thách đố dai dẳng. Người ta vẫn mập mờ như buổi sáng tinh mơ ngày thứ nhất trong tuần khi Mađalêna ra mộ: đáng lẽ ra xác Chúa vẫn còn ở đó, nhưng những gì Maria Mađalêna nắm bắt được là sự vắng mặt, chỉ thế thôi ! 2003 đã trôi qua, nhưng nhiều người vẫn chưa bừng tỉnh, họ vẫn như còn sống trong một cơn mơ dài không lối thoát. Có nhữngngười tưởng Chúa đã chết và như thế là chấm dứt tất cả, chính vì thế có nhà triết gia nọ đã viết :" Dieu est mort "(Thiên Chúa đã chết ) Tuy nhiên, dựa vào lời Chúa, chính Chúa đã nói: "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết mà là của người sống" (Mc 12,18-27) hoặc "Nếu hạt lúa mì gieo xuống đất không chết đi, thì nó trơ trọi một mình; nhưng nếu nó chết đi, nó mới sai hoa kết trái "(Ga 12,24 ). Nhưng chính khi loan báo thương khó với các môn đệ tới ba lần, Chúa Giêsu đã quả quyết :"...Chúa chết, sau ba ngày sẽ sống lại "(Mc 8,31;9,31:10,34 ).
Mừng lễ phục sinh hôm nay, chúng ta không được hạnh phúc như Phêrô, như Gioan và Maria Mađalêna đã thấy tảng đá được lăn ra, khăn liệm, khăn phủ đầu và mồ trống. Tuy nhiên chúng ta còn hạnh phúc hơn vì chúng ta có lòng tin: chúng ta tin Chúa phục sinh vẫn luôn ở với ta bây giờ và mãi mãi. Chúng ta cùng với thánh Phaolô thốt lên lời này: " Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì việc anh em tin cũng hão huyền "(1co 15,12-17 ). Chúa Giêsu đã sống lại, alléluia.. .và Người đã "đi trước các môn đệ tới Galilêa "(Mc 16,7). Chúa phục sinh vẫn đợi mọi người chúng ta ở mọi thời, mọi nơi và Người truyền lệnh cho các môn đệ và mọi người:"Hãy loan truyền Tin Mừng phục sinh ". Chúa phục sinh hứa: "Và này Thầy sẽ ở cùng chúng con mọi ngày cho tới tận thế" (Mt 28,20 ).
Hãy làm chứng cho Chúa phục sinh nhờ ánh sáng phục sinh tràn ngập tâm hồn. Alléluia.
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
1. Đức Giêsu sống lại, một biến cố vĩ đại .
Hôm nay, chúng ta hân hoan kỷ niệm ngày Đức Giêsu phục sinh. Ngài phục sinh sau khi chịu khổ nạn, chết trên thập tự và mai táng trong mồ. Đó quả là một biến cố vĩ đại, làm nền tảng cho niềm tin của chúng ta. Thánh Phaolô nói: « Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng» (1Cr 15,14); «Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người» (1Cr 15,17-19).
2. Ngài sống lại thì ích lợi gì cho cuộc sống hiện sinh của tôi?
Nhưng thử hỏi biến cố Đức Giêsu sống lại có ảnh hưởng hay ích lợi gì cho đời sống hiện sinh của tôi, nghĩa là đời sống thực tế bây giờ và tại đây của tôi? Biến cố này có ảnh hưởng trên đời sống của tôi, hay nó chỉ là một kỷ niệm được lập lại hàng năm, chỉ để tưởng nhớ một biến cố đã hoàn toàn qua đi? Vì biết bao năm phụng vụ trôi qua, năm nào cũng có Tuần Thánh, cũng có lễ Phục Sinh, mà nào tôi có thay đổi gì đâu! Chuyện Đức Giêsu sống lại với một đời sống mới, con người mới, cách hiện hữu mới, tất cả đều đã trở thành quá khứ, chẳng có ảnh hưởng gì trên hiện tại của tôi, nên tôi vẫn sống với con người cũ, cách sống cũ, chẳng có gì thay đổi! Phải vậy chăng, hay việc Ngài sống lại vẫn là một biến cố hiện sinh, vẫn có khả năng biến cải đời tôi?
Nếu Ngài chỉ sống lại trong lịch sử, cách đây 2000 năm, mà không sống lại trong lòng tôi, thì việc sống lại ấy ích lợi gì cho tôi? Vấn đề quan trọng là Ngài phải sống lại trong tâm hồn tôi. Và vấn đề ấy tùy thuộc ở tôi rất nhiều, ở quan niệm và thái độ nội tâm của tôi đối với việc sống lại của Ngài.
3. Ngài sống lại để biến ta thành con người mới
Đức Giêsu sống lại là để đem lại cho chúng ta sự sống mới, và trở nên những con người mới, ngay bây giờ và chính tại đây, như thánh Phaolô nói: « Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới» (Rm 8,11). Điều quan trọng là làm sao có được sự sống mới ấy? Câu Kinh Thánh vừa trưng dẫn cho biết: Thần Khí làm cho Đức Giêsu sống lại, cũng chính Thần Khí ấy sẽ biến cải chúng ta nên con người mới, với sức sống mới. Chỗ khác, thánh Phaolô nói: «Thiên Chúa đã làm cho Chúa Ki-tô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại» (1Cr 6,14). Nhưng vấn đề cụ thể là chúng ta phải làm gì để Thần Khí ấy biến cải chúng ta nên con người mới?
4. Muốn nên con người mới, con người cũ phải chết đi
Đức Giêsu chỉ sống lại sau khi chết đi, nên ta chỉ có được sự sống mới sau khi chết đi con người cũ. Vì thế, muốn có sự sống mới, muốn trở nên con người mới, ta phải cùng chết với Đức Giêsu, chết với tất cả những thói hư tật xấu và tội lỗi của con người cũ: « Chúng ta biết rằng, con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa» (Rm 6,6). Thánh Phaolô còn nói rõ hơn: «Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện» (Ep 4,22-24).
5. Con người cũ là con người ích kỷ, cần được lột bỏ
Như vậy, để có được sự sống mới, ta phải dứt khoát từ bỏ con người cũ, là con người ích kỷ, chỉ nghĩ tới mình, lo cho mình, chỉ quan tâm tới hạnh phúc và đau khổ của chính mình, không quan tâm gì tới ai, không lo cho ai. Nếu đã lấy mình làm trung tâm thì sẽ coi mọi người chỉ là phương tiện. Có diệt trừ thói ích kỷ, là nguyên nhân mọi tội lỗi, chúng ta mới có được sự sống mới: « Nếu sống nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em thì anh em sẽ được sống» (Rm 8,13).
Sự sống mới là một sự sống phong phú, nhưng lại đòi hỏi một sự lột xác, một tinh thần tự hủy: « Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn mãi là hạt lúa; còn nếu chết đi, nó sẽ sinh nhiều hạt khác» (Ga 12,24). Tương tự, hạt nguyên tử, nếu không bị phá hủy, nó sẽ mãi mãi là một nguyên tử nhỏ bé, im lìm, bất động, không làm nên một công lực hữu ích nào; nhưng nếu bị phá hủy, nó sẽ phát sinh một năng lượng khủng khiếp, có thể làm nên những thành tựu lớn lao. Cũng vậy, khi ta phá hủy «cái tôi ích kỷ» của ta, thì «cái tôi» ấy không hề mất đi, mà chuyển hóa thành một thực tại mới, con người mới, vĩ đại, cao quí, và sức sống của con người mới ấy sẽ phong phú, mạnh mẽ và có ý nghĩa hơn lên ngàn lần.
6. Một nghịch lý thực tế
Đừng tưởng cứ ôm khư khư lấy «cái tôi ích kỷ» của mình, chăm chút lo cho nó, thì nó sẽ có một sức sống phong phú, tốt đẹp và hạnh phúc. Trái lại, càng quá quan tâm đến nó, thì lại càng làm cho sức sống của nó hạn hẹp lại, càng làm giảm bớt giá trị và hạnh phúc của nó. Đức Giêsu nói: « Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời» (Ga 12,25). Kinh nghiệm cho ta thấy: những kẻ ích kỷ, chỉ lo lắng cho bản thân mình, không bao giờ được hạnh phúc và cũng chẳng làm cho ai hạnh phúc. Họ không bao giờ hài lòng với chính họ, với những gì họ đang có. Và càng tìm kiếm thêm cho mình, càng lo cho bản thân mình nhiều hơn, thì họ càng lún sâu vào đau khổ hơn. Trái lại, những vị thánh, những người sống quên mình, xả thân, lại là những người cảm thấy hạnh phúc nhất, mặc dù xem ra họ có vẻ bị thiệt thòi nhất, phải chịu khổ cực nhiều hơn ai hết.
7. Con người mới là con người vị tha, biết yêu thương
Con người mới được thánh Phaolô xác định: « Con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa» (Ep 4,24); «con người mới là con người đổi mới luôn luôn để nên giống như hình ảnh Đấng dựng nên mình» (Cl 3,10). Như vậy, con người mới chính là con người hoàn nguyên, nghĩa là trở về với tình trạng tốt đẹp nguyên thủy khi được Thiên Chúa tạo dựng, trước khi con người phạm tội. Đó là con người phản ánh trung thực bản chất của Thiên Chúa, là Tình Yêu. Vậy, để có một đời sống mới, một tinh thần mới, để trở nên con người mới, với một sức mạnh mới, ta cần có một quyết tâm từ bỏ con người cũ là con người ích kỷ, chỉ quan tâm lo cho bản thân mình, để mặc lấy con người mới là con người sống vị tha, sống yêu thương, sống vì tha nhân. Khi ta quyết tâm như thế, với một ý chí cương quyết, lập tức, Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại, sẽ tiếp sức với ta, biến đổi ta nên con người mới. Điều quan trọng và tối cần thiết là ta phải quyết tâm từ bỏ nếp sống vị kỷ để sống đời sống vị tha, sống yêu thương. Sau đó, «hãy để Thần Khí canh tân đổi mới anh em thấu tận trí khôn» (Ep 4,23); «Hãy để cho Thiên Chúa biến hóa anh em cho tâm trí anh em đổi mới» (Rm 12,2). Nếu ta tiếp tục quảng đại, Ngài sẽ biến đổi ta một cách toàn diện, từ quan niệm, cách suy nghĩ, đến cách ăn nói, hành động để trở thành con người mới thực thụ. Có như thế, việc sống lại của Đức Giêsu mới thật sự ích lợi cho đời sống Kitô hữu của ta.
Cầu nguyện
Lạy Cha, đã bao năm qua, con mừng Đức Giêsu phục sinh chỉ như kỷ niệm một biến cố hoàn toàn quá khứ, chẳng ăn nhập gì tới đời sống cụ thể của con. Vì thế, đã bao năm, con chẳng có gì thay đổi. Nhưng năm nay, con quyết tâm trở nên một con người mới, một con người sống vị tha, yêu thương mọi người. Xin Thánh Thần của Cha hãy biến đổi con .
John Nguyễn
Trong đêm Phục Sinh mừng kỷ niệm Chúa Giêsu sống lại, Giáo hội rước Cây nến Phục sinh cháy sáng bừng bừng tiến vào nhà thờ và hát ca ngợi: Lumen Christi - Ánh sáng Chúa Kitô!
Trong khung cảnh đêm tối chỉ một mình ánh sáng từ Cây nến Phục sinh tỏa ra hương vị thánh thiêng cả nhà thờ. Ánh sáng lung linh thật đẹp và thi vị! Nhưng phải chăng ánh sáng này có gì đặc biệt khác với ánh sáng từ các ngọn nến khác khi cũng được đốt lên? Tại sao Giáo hội lại xưng tụng đây là Ánh sáng Chúa Kitô từ Cây nến Phục sinh trong đêm này?
Trong đời sống nhiều khi chúng ta phải ngồi suy nghĩ hằng giờ, có khi cả tuần lễ, cả tháng trời mong tìm ra giải đáp cho một vấn đề. Nhưng vẫn trong vòng bế tắc... Bỗng dưng một tia sáng lóe lên trong tâm trí.. thế là trong người rộn lên niềm mừng vui vì ta tìm ra đáp số cho vấn đề đang suy nghĩ. Ánh sáng này thật lạ lùng huyền bí và có giá trị khôn lường. Cả tâm hồn lẫn trí khôn cùng làn da thớ thịt gân cốt mạch máu lúc này bừng lên sức sống mới. Trong người cảm thấy khoan khoái nhẹ nhàng. Trên gương mặt lộ hẳn niềm rộn vui. Có người cảm thấy sung sướng quá cười nói, ca hát, múa nhảy như lúc lên "cơn"! Ánh sáng này chiếu tỏa từ trong thâm tâm ra bên ngoài. Ánh sáng này đánh thức ta bừng dậy.
Tia sáng lóe lên trong tâm trí. Đó là điều bất ngờ xảy đến không ai có thể làm ra được. Tia sáng này không được bật lên như ngọn đèn điện, khi em bé đưa tay bật nút điện ở trên tường hay do bạn trẻ bật hộp quẹt lấy lửa hút thuốc. Không, tia sáng này không do chúng ta nối chế ra. Tia sáng này đến từ một nguồn ánh sáng khác. Tia sáng này là quà tặng, là ân đức từ trời cao chiếu xuống. Tia sáng lóe lên trong tâm trí!
Kinh thánh thuật lại công trình sáng tạo trời đất bắt đầu bằng việc Thiên Chúa tác tạo ánh sáng. Ngài phán: "Hãy có ánh sáng! Và liền có ánh sáng" (Gen 1,3). Ánh sáng này là hình ảnh Chúa Giêsu đến chiếu sáng trần gian như chính ngài khẳng định: "Thầy là ánh sáng trần gian" (Gioan 8,12) Ánh sáng Chúa Kitô: Lumen Christi!
Ngày nay những phong trào, những lý thuyết hứa hẹn mang lại ánh sáng, hào quang soi chiếu cuộc sống, tâm hồn con người luôn luôn thu hút mọi giới. Con người khao khát tìm về ánh sáng cho cuộc đời. Và những gì ngoài đường xá phố chợ đèn điện chiếu sáng thường gợi chú ý mọi người. Nhưng tia sáng bừng lên trong tâm trí không phải là món hàng bày bán trong cửa tiệm bán đồ điện. Người ta không thể bật tia sáng này lên như bật ngọn đèn neon trong nhà mình.
Lumen Christi - Ánh sáng Chúa Kitô không phải là sản phẩm như cây nến có thể mua trong cửa hàng đem về đốt lên trong phòng khách, trong bàn ăn, để tăng vẻ đầm ấm thân mật.
Không, Ánh sáng Chúa Kitô không dừng lại nơi đây như thế. Ánh sáng này dọi chiếu, soi đường chỉ phương hướng cho con người, như chính Chúa Giêsu khẳng định: "Thầy là ánh sáng trần gian".
Trong ánh sáng Chúa Kitô con người nhận ra nhau là anh em con một Cha trên trời. Cho dù khác nhau về nhiều mặt, nhưng trong ánh sáng Chúa Kitô tất cả mọi người cùng có nhân vị như nhau. Chúa Giêsu đến trần gian mang ánh sáng tình yêu đến cho mọi người. Ngài không dùng quyền hay làm phép lạ xóa tan bóng tối, nhưng Ngài không sợ bóng tối, trái lại soi chiếu vào trong bóng tối. Trong ánh sáng Ngài chúng ta nhận ra những khuyết điểm yếu kém đời mình.
Lumen Christi - Ánh sáng Chúa Kitô là ánh sáng lóe lên từ trong tâm hồn. Ánh sáng này có sức soi chiếu mang niềm vui mừng phấn khởi cho tâm hồn con người.
Lm. Nguyễn Ngọc Long (Nguồn vietcatholic.org)