Sidebar

Chúa Nhật

27.04.2025

Chúa Nhật V Phục Sinh A năm 2014

  1. Chọn Lựa Con Đường
  2. Chúa Giêsu Là Ðường Dẫn Ðến Sự Sống Thật
  3. Thầy Là Đường, Là Sự Thật Và Là Sự Sống
  4. Hãy Tin Vào Thầy
  5. Đường Đi Có Chúa
  6. Con Đường Hạnh Phúc
  7. Đường Về Nhà Cha
  8. Khát Vọng Đời Thường
  9. Bước Về Nhà Cha
  10. Tại Sao Đức Giêsu Lại Căn Dặn Các Môn Đệ: "Đừng Xao Xuyến?"
  11. Con Đường Giêsu Là Tin Yêu và Phục Vụ
  12. Nhà Cha
  13. Con Đường Đi Tới Chúa
  14. Chúa Nhật Thứ Năm Mùa Phục Sinh
  15. Chúa Là Đường Là Sự Thật Và Là Sự Sống
  16. Đường Về Nhà Cha
  17. Hãy Tin Vào Thiên Chúa Và Tin Vào Thầy
  18. Nẻo Đường Đích Thật
  19. Thầy Là Đường, Là Sự Thật Và Là Sự Sống
  20. Thầy Đi Trước Dọn Chỗ Cho Chúng Con
  21. Con Đường Giêsu
  22. Chúa Giêsu Nguồn Bình An
  23. Đường Của Chúa - Đường Dẫn Về Trời

CHỌN LỰA CON ĐƯỜNG
Ga 14, 1 - 12

Một lần tôi vào quán ăn trên đường, tôi chú ý đến bàn ăn bên cạnh, vì nơi đó có một đứa bé khó tánh. Thức ăn bày ra trước mặt nó, vậy mà nó không bằng lòng với những gì đang có. Người mẹ ngồi bên cạnh hết sức nhẫn nại, vừa năn nỉ vỗ vành, vừa cố gắng cho thức ăn vào miệng cho con, nhưng cuối cùng, bà không thể nào làm gì hơn được. Bên cạnh đó, cũng có một đứa bé lẵng lặng đứng nhìn. Nó nhìn những tô thức ăn của thực khách đã dùng xong nhưng còn thừa lại. Nó cũng nhìn vào tô thức ăn mà đứa bé khó tánh kia đang làm khó mẹ nó. Người mẹ trẻ cũng nhìn thấy đứa bé đang đứng nhìn như thế, bà gọi em đến và cho em tô thức ăn gần như còn nguyên vẹn. Em rục rè cho tất cả những gì trong tô vào trong chiếc lon của em và mang ra ngoài. Bên ngoài còn một đứa trẻ khác nhỏ hơn, đang ngồi chờ đợi. Người chị vui mừng, cho em ăn trước, sau đó nó mới dùng phần còn lại.

Tôi chợt suy nghĩ. Đứa bé có người mẹ bên cạnh, được nâng niu chiều chuộng, nó không biết tận hưởng hạnh phúc mà nó đang có, mà lại đòi hỏi cái gì không có trong hiện tại, nên nó khó chịu và không chấp nhận hiện tại. Còn đứa bé có đứa em đang ngồi chờ bên ngoài, nó biết tận dụng những gì mình có được, để mang lại lợi ích cho mình và cho người khác.

Hạnh phúc không ở đâu xa, nó ở ngay bên cạnh, nếu ai biết tận hưởng thì sẽ được, còn ai không biết thì sẽ không bao giờ nhận được.

Các Tông Đồ sống với Chúa Giêsu bao nhiêu năm trời, các ông nhìn thấy những việc làm, những điều lạ mà Ngài đã thực hiện. Các ông còn được nghe những lời giảng dạy riêng cho các ông để hướng dẫn cho bước đường tương lai. Vậy mà trong giờ phút quyết định, các ông lại thốt lên qua miệng của Tôma: "Chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết đường đi". Còn Philipphê thì sao? Ông không nhận ra được người mà mình đã theo bao nhiêu năm trời đây là ai, ông chỉ thấy đây là một con người, vì mặc dù sống với Chúa Giêsu, nhưng ông chỉ lắng nghe chính mình, ông chỉ theo những gì mình muốn, nên những gì của Chúa Giêsu không ảnh hưởng đến ông.

Chúa Giêsu bảo các ông "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống....... Ai thấy Thầy là xem Thấy Cha". Ngài muốn nói với các ông: những gì các ông đòi hỏi, nó đang ở trong hiện tại trước mắt các ông, nếu biết nhìn thấy để nhận ra mà sống thì thật là hạnh phúc. Một học giả nói rằng: "Con người luôn nuối tiếc quá khứ, mơ ước đến tương lai, nhưng lại hờ hững với hiện tại". Cái hiện tại là kết quả của quá khứ, là đường để đi đến tương lai, nhưng con người thường quên nó đi.

Các Tông đồ ngày xưa đã như thế, nhưng các ông được dạy bảo, nhắc nhở và các ông đã biết sống trở lại cho tốt. Câu chuyện của ngày xưa, tưởng đã đi vào quá khứ, nhưng nó vẫn còn là một câu chuyện thời sự nóng bỏng của ngày hôm nay đối với mỗi người trong chúng ta. Cũng như các Tông Đồ khi xưa, chúng ta cũng thường đòi hỏi, mơ ước những gì không có trong hiện tại, để những đòi hỏi, những mơ ước đó nó làm khổ chúng ta trong cuộc sống. Biết bao lần chúng ta bất mãn với hiện tại, không bằng lòng về chính mình, không bằng lòng về cách sống, không bằng lòng với người chung quanh và thường hay hỏi tại sao tôi không được như người khác, tại sao tôi không được tốt hơn.......... Những lần như thế, chúng ta đang đi trên con đường của các tông đồ khi xưa. Những lúc đó, Chúa Giêsu cũng nói với chúng ta lời nói khi xưa "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống......... ai xem thấy Thầy là xem thấy Cha". Những khi đó chúng ta có cảm nhận được hạnh phúc mà mình đang có, cảm nhận được hồng ân Chúa bao bọc chúng ta không? Nếu chúng ta biết trân trọng hiện tại và chu toàn trách nhiệm mình cho tốt: trách nhiệm của một con người mà Thiên Chúa đã đặt để trong xã hội, trách nhiệm của một người Công Giáo. Cụ thể hơn là trách nhiệm của một người cha, người mẹ trong gia đình, chúng ta có làm gương tốt, có dạy dỗ con cái theo thánh ý Chúa không? Nếu trong cuộc sống đời thường, chúng ta biết vượt qua những trở ngại, những vất vả, để chấp nhận cuộc sống và hoàn thành trách nhiệm của mình mà không phàn nàn trách móc.

Đó là chúng ta như đứa trẻ biết tận dụng cái mình đang có để đem lợi ích đến cho mình và cho người khác. Khi đó chúng ta đang nhận ra Chúa là đường, là sự thật và là sự sống cho chính chúng ta.

CHÚA GIÊSU LÀ ÐƯỜNG DẪN ÐẾN SỰ SỐNG THẬT
Ga 14, 1 - 12

Nếu so với truớc đây khoảng vài thập niên thì ngày nay chúng ta đi đây đi đó dễ dàng hơn nhiều. Bởi lẽ, đường đi ngày càng được mở rộng và thông thoáng hơn. Phương tiện di chuyển cũng đa dạng và phong phú hơn. Thậm chí, người ta có thể lên cung trăng hoặc nhiều hành tinh khác. Dầu vậy, có một con đường mà con người đành phải bó tay. Ðó là con đường dẫn tới sự sống thật.

Tuần trước, chúng ta đã cùng suy niệm Chúa Giêsu chính là mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành dẫn đoàn chiên của mình tìm lại sự sống. Hôm nay, Giáo hội tiếp tục cho chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu với ý nghĩa Người chính là đường dẫn tới sự sống thật.

Chúng ta biết, ý định ngàn đời của Thiên Chúa Cha là muốn cho tất cả con người được sống dồi dào. Thiên Chúa cũng biết là tự sức mình, con người chúng ta không thể nào tìm lại sự sống đã bị đánh mất. Do đó, chỉ có Ðấng từ Thiên Chúa mà đến mới có đủ sức đưa ta trở về tình trạng ấy. Ðấng ấy chính là Chúa Giêsu - Con Một Chí Ái của Ng ười.

Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ cách riêng là với Thánh Tôma cũng như cho mỗi người chúng ta: "Thầy là đ ường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Cha mà không qua Thầy " (Ga 14, 6). Trên hết mọi sự Thiên Chúa luôn luôn muốn cho con ng ười chúng ta được sống và sống dồi dào. "Ta đến để cho chiên đ ược sống và sống dồi dào " (Ga 10, 10); " Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người " (Mc 10, 45); "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn." (Lc 5, 31 - 32). Nhờ ăn năn sám hối mà những người tội lỗi mới mong được sống.

Như thế, nếu muốn có sự sống thật thì không cách nào khác chúng ta cần phải đặt trọn niềm tin vào Chúa Giêsu. Vì chính Người là Ðấng dẫn đường và cũng chính là con đường dẫn đến Chúa Cha - Ðấng là nguồn sống thật của chúng ta. Chúa Giêsu đã mời gọi Nicôđêmô và chúng ta: "Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời " . (Ga 3, 14 - 15)

THẦY LÀ ĐƯỜNG, LÀ SỰ THẬT VÀ LÀ SỰ SỐNG
Ga 14, 1 - 12

Anh chị em thân mến,

Ngày 20.04.1999, hai nam học sinh da trắng đã bắn vô trường Trung học Columbine, Colorado, khiến 12 em học sinh phải chết...một thầy giáo và nhiều em học sinh khác bị thương... vì hai em này đã gia nhập vào một tổ chức của Satan, đảng viên của Đức quốc xã. Hai em nhỏ này, cũng trạc tuổi như các em học sinh Trung học khác. Sở dĩ các em có gan lỳ dám phạm tội ác tày trời là giết người không gớm tay, chính vì các em bị nhồi sọ: không tin Thiên Chúa - không tin có Chúa - và cho rằng ai theo Chúa, thì cũng là kẻ ngu đần như người Do thái...Tiếc thay, các em này đã chọn lầm đường: đường của Satan, của bọn Đức quốc xã khát máu! Chỉ có một mình Thiên Chúa mới là đường, là sự thật của nhân loại mà thôi. Bài Tin mừng hôm nay mời chúng ta suy niệm cặn kẻ đề tài này...

a/. Trước hết chúng ta cần tìm hiểu vài câu nói của Chúa Giêsu:

Thầy là đường: con đường là phương tiện đưa người ta tới đích mình mong muốn, cũng là hình ảnh gần gủi với người Do thái. Họ đã lên đường về Đất Hứa (Tv 76, 8). Abraham lên đường về nơi Chúa chỉ (STK 12, 1-5). Con đường cũng là luật pháp Chúa dạy phải theo. Có hai con đường: Tốt và xấu. Người ta có quyền lựa chọn theo hai con đường đó, và phải chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình (Đnl 30, 15-20). Chúa Giêsu trước khi từ giã môn đệ, Chúa nói rõ cho họ: Ngài là đường dẫn đưa họ về với Chúa Cha, bằng lời nói cũng như bằng công nghiệp của Ngài.

Thầy là sự thật: vừa có nghĩa chắc chắn, thực tế, vừa trung tín và còn là qui tắc vững chắc cho đời sống nữa.

Thầy là sự sống: Chúa là nguồn gốc của sự sống, nên Ngài có thể ban cho chúng ta sự sống mới, đồng thời Ngài có thể cho ta được kết hiệp với sự sống của Chúa Cha. Vì vậy, ai đi trong đường của Ngài, đón nhận chân lý Ngài trao ban, thì sẽ được sự sống của Chúa Cha ở trong Ngài, nhờ đó mà ta sẽ được lớn lên...

b/. Qua bài Tin mừng hôm nay, có hai đề tài ta cần suy niệm:

Thầy là đường là sự thật và là sự sống: Chúa Kitô là đường, là con đường dẫn đưa nhân loại tới với Thiên Chúa. Chúa Kitô cũng là sự thật, vì Chúa Kitô không hề dối gạt ai; và vì Ngài là sự thật, nên Ngài cũng chính là con đường thật, sẽ đưa ta tới đích, chính là Thiên Chúa. Chúa Kitô là sự sống, vì Chúa Kitô là con đường và là sự thật, nên Ngài chính là Người đem lại sự sống thật cho chúng ta... Nói một cách vắn tắt, Chúa Kitô là Thiên Chúa Ngôi Hai; mà Thiên Chúa là Đấng Toàn Mỹ, nơi Thiên Chúa không hề có hình bóng của sự xấu, sự ác; chính vì thế, khi Chúa Kitô tự xưng mình là đường, là sự thật, và là sự sống... Điều đó có nghĩa Chúa Kitô chỉ nói lên sự thật, không hề thêm bớt, và cũng từ đó có ý nghĩa, chỉ một mình Thiên Chúa mới là đường là sự thật và là sự sống mà thôi...

Hội Thánh qua 20 thế kỷ, đã sẵn sàng làm chứng cho chúng ta về niềm tin này: tin Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Trước hết, Hội thánh công giáo qua các tông đồ truyền lại, không bao giờ coi lời nói của Chúa Giêsu ở đây là lời nói chơi, hay có ý gạt gẫm con người chúng ta. Qua lịch sử Hội thánh, các thánh tử đạo, các thánh hiển tu, đã không dại dột liều mạng sống mình, để minh chứng niềm tin đó cho chúng ta, là con cháu các ngài ngày hôm nay. Vua quan Việt nam, trước gương hi sinh, vui lòng đón nhận cái chết của các thánh tử đạo Việt Nam , họ vô cùng kinh ngạc vì gương can đảm phi thường của các ngài. Thực ra trên đời, là con người có ai không sợ chết? Như thế gương trung kiên bỏ mình của các vị tử đạo, không phải là lời chứng hùng hồn cho chúng ta rằng Đức Kitô, Người thật là đường, là sự thật và là sự sống sao?

c/. Gợi ý sống và chia sẻ: là người kitô hữu, thực ra ta có tin Chúa Kitô là đường. là sự sống thật của chúng ta không? Nếu ta đã tin, ta có muốn yêu mến Chúa Kitô và sẵn sàng sống theo lời Chúa dạy không?

HÃY TIN VÀO THẦY
Ga 14, 1 - 12

Cuộc sống của mỗi con người là một cái gì đó mong manh, dễ vỡ. Nhìn vào viễn cảnh của xã hội lại càng thấy bấp bênh cho số phận của mỗi con người. Một thế giới đầy những biến động của chính trị, bạo lực; một thế giới đầy những toan tính đầy những nguy cơ đẩy con người ta đến chỗ phải tận diệt. Trước những diễn tiến như thế, con người tự đặt câu hỏi cho chính mình: Cuộc sống con người có ý nghĩa gì? Con người rồi sẽ ra sao hay cũng chỉ chỉ là được tồn tại nơi cõi dương gian này một thời gian rồi lại biến mất trong hư vô? Nếu có cõi sống trường sinh thì con người có thể làm gì cho mình trong cõi sống vô biên ấy?...

Đoạn Tin Mừng mà Giáo hội cho chúng ta suy niệm ngày hôm nay nằm trong bối cảnh sau khi Chúa Giêsu tiên báo Người sẽ chịu sự phản bội, chịu đau khổ và sẽ chịu chết...Nghe nói thế các môn đệ đầy phân vân xao xuyến. Sao mà không xao xuyến được, một người thầy đầy quyền năng trong lời nói và hành động lại có thể chịu những sự âý hay sao? Chúng ta (những môn đồ) lâu nay theo Thầy Giêsu, nay Thầy bảo rằng phải đi xa rồi chúng ta sẽ theo ai, sẽ làm gì cho tương lai của mỗi người chúng ta?... Với những tâm tình đó các môn đệ xao xuyến, sợ hãi. Chúa Giêsu thấu hiểu tâm trạng của các môn đệ nên Chúa Giêsu nói "Anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy..." (Ga14, 1). Anh em (các môn đồ) đừng xao xuyến bởi hãy nhìn vào những việc Thầy làm từ lúc khởi đầu hành trình rao giảng cho đến bây giờ, Thầy có đủ quyền năng để làm mọi sự, nhiều lần người Do thái định giết Thầy nhưng họ không làm gì được Thầy bởi "Giờ Thầy chưa đến"(Ga2, 4), nhưng cuộc ra đi này là Thầy tự hiến, Thầy đi dọn chỗ cho anh em, Thầy đi trước để đưa anh em đi theo Thầy...Còn tâm tình nào sâu lắng mặn nồng, đầy tình cảm hơn tình yêu Chúa Giêsu đã dành cho các môn đệ cũng là cho mỗi người chúng ta. "Anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy..." đó là câu nói mà Chúa Giêsu muốn nói với mỗi người chúng ta hôm nay. Đừng xao xuyến nhưng hãy đặt nền tảng cuộc đời của mình trên quyền năng và sự hướng dẫn của Thiên Chúa, đừng xao xuyến bởi Chúa có đủ quyền năng để thực hiện trong mỗi người chúng ta những sự việc lớn lao ngoài sự tưởng nghĩ của chúng ta.

Chúng ta đang sống trong mùa Phục sinh, chúng ta mừng mầu nhiệm Chúa sống lại. Chúa Giêsu sống lại chứng tỏ rằng Ngài là Thiên Chúa thật và là Đấng cứu độ trần gian. Chúng ta có diễm phúc hơn các tông đồ xưa vì đã xác tín Đức Giêsu đã chết và sống lại thật. Tin vào Đức Giêsu phục sinh cho ta biết được rằng những lời Ngài nói, những việc Ngài làm đều mang lại giá trị cứu độ bởi đó là hành động của chính Thiên Chúa. Tin vào Chúa Giêsu phục sinh cho ta một niềm hy vọng lớn lao rằng chúng ta cũng sẽ được phục sinh như Ngài, cuộc đời chúng ta không là vô nghĩa, cuộc sống của chúng ta không là vô vọng mà mở ra một viễn cảnh đẹp, tốt lành trong Đức Kitô phục sinh.

Như thế cuộc sống của con người đầy những ý nghĩa, vì sự sống là do chính Đức Giêsu đã chuộc lấy bằng máu mình, cuộc sống không là "đoản hậu" bởi chúng ta có sự sống bất diệt trong Đức Kitô. Cho dù cuộc sống có những biến chuyền, cho dù cuộc sống đầy những cam go... nhưng với niềm tin tưởng vào Thiên Chúa và nơi Đức Giêsu chúng ta tin chắc rằng tất cả đều nằm trong sự quan phòng đầy yêu thương của một Thiên Chúa quyền năng. Khi biết tin tưởng phó thác như thế thì cũng là lúc ta đang xây dựng cho mình một cuộc sống vĩnh cửu trong tình thương Thiên Chúa, như là Đức Giêsu đã nói: "Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống." (Ga8,12)

ĐƯỜNG ĐI CÓ CHÚA
Ga 14, 1 - 12

Thưa anh chị em,

Chúa nhật thứ V Phục Sinh hôm nay Chúa Giêsu trả lời cho Tông đồ Tôma, khi ngài hỏi làm sao biết đường mà đi theo Chúa: "Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy" (Ga 14,6). Như vậy chính Chúa Giêsu là con đường dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa, là ơn cứu độ duy nhất mà Thiên Chúa ban tặng cho trần gian, là con đường đưa chúng ta đến hạnh phúc viên mãn; bởi vì ở đâu có Thiên Chúa, ở đấy chính là thiên đàng.

Vậy làm sao chúng ta có thể đi trên con đường là Chúa Giêsu hay làm sao chúng ta có Chúa đi cùng trong cuộc hành trình đời người của mình?

Như chúng ta đã biết mọi con đường đều dẫn đến một nơi nào đó, dù đó là đường mòn, đường đất, đường nhựa hay đường sông, đường biển. Không có đường thì không thể đi đến nơi mình muốn được. Và để thực hiện chuyến đi, chúng ta sử dụng nhiều phương tiện khác nhau: đi bộ, đi xe máy, đi máy bay, đi bằng ghe, tàu..v.v..

Chúa Giêsu hôm nay chỉ cho chúng ta biết Ngài chính là con đường dẫn ta tới Chúa Cha, vì Người là sự thật, là hình ảnh Chúa Cha trong thế gian. Chính vì vậy, Người cũng là sự sống, nguồn thông ban ơn Thần Khí, là chính sự sống của Thiên Chúa cho những ai lớn lên trong Người là các kẻ tin. Cho nên Chúa Kitô là con đường duy nhất dẫn chúng ta đến với Chúa Cha mà không sai lầm. Có Chúa Kitô là có Thiên Chúa, mà Thiên Chúa ở đâu thì thiên đàng, hạnh phúc thật cũng ở đấy.

Xác định được như thế, chúng ta tự vấn xem mình đang đi trên con đường nào: con đường của Chúa hay con đường riêng của chúng ta, vắng bóng Thiên Chúa.

Có con đường đam mê những thú vui trần thế, lo tìm thú vui xác thịt, sống chỉ để thoã mãn những khát vọng nhục dục, những nhu cầu ích kỷ của chính mình, không bận tâm đến tha nhân và những lý tưởng cao đẹp.

Có con đường chỉ mong kiếm tìm những lợi lộc trần thế. Cuộc sống chạy theo những gì là có lợi cho mình. Lợi thì làm, không lợi thì thôi. Bế tắc. Bởi vì con con người còn có niềm vui lớn hơn, khi sống cho những giá trị tâm linh.

Có con đường chỉ biết giành giật chổ đứng trong xã hội. Mục đích chỉ là sống sao cho hơn người, được người đời trọng vọng, ca tụng..hay cho rằng con người có khả năng giải quyết mọi sự, mà quên rằng tất cả đều là ơn ban của Thiên Chúa. Sức người có hạn. Cuộc sống mỏng dòn. Con người không thể tự mãn về chính mình được.

Con đường có Chúa là con đường chăm chăm hướng về Chúa là mục đích đời mình. Sống vâng phục tin tưởng như Abrahma, như Mẹ Maria. Cùng đồng hành với Chúa như hai môn đệ Emmau. Sống như "thấy Đấng vô hình" đang hiện diện bên mình.

Để con đường cuộc đời chúng ta luôn luôn có Chúa, cần liên lỉ cầu nguyện xin Chúa thêm lòng tin cho chúng ta. Cần năng chạy đến các Bí tích để hưởng nhờ ơn trợ lực nâng đỡ của Chúa, nhất là Bí tích Thánh Thể, để có Chúa trong tâm hồn.

Lạy Chúa, cuộc đời có Chúa cùng đi, con an tâm vui bước!

CON ĐƯỜNG HẠNH PHÚC
Ga 14, 1 - 12

Sau nhiều năm học chung, tôi mới có dịp về Cà Mau thăm nhà người bạn thân, trước khi đi tôi cứ nghĩ Cà Mau sẽ rất xa, mình phải ngồi trên xe lâu lắm mới tới. Đúng như tôi suy nghĩ. Cuộc hành trình về Cà mau của chúng tôi rất vất vả. Sáng sớm chúng tôi đã đón được chuyến xe tốc hành về Cà Mau. Tuy đường từ Cần Thơ về Cà Mau có nhiều chỗ "ổ gà" thậm chí cũng có rất nhiều "ổ voi", nhưng cũng không thấm vào đâu so với sức trẻ của chúng tôi. Chúng tôi hãnh diện là những người khỏe, trẻ không sợ gian khó, nhưng chúng tôi cũng phải chùn bước khi thấy con đường từ Cà Mau về nhà bạn tôi. Từ Cà Mau vào phải đi qua hai chiếc đò, và đi bộ thêm hai giờ đồng hồ trên đường đất nhỏ với bốn chiếc cầu khỉ mới đến được nhà bạn tôi. Trong đoàn chúng tôi có tất cả sáu người, nhưng khi ngồi xe đến Cà Mau, thì đã có ba người không đi nổi nữa phải ở lại. Còn lại ba người tuy rất ngán ngẫm về con đường phía trước, nhưng vẫn phải đi vì không còn con đường nào dẫn về nhà bạn tôi được. Cuối cùng chúng tôi quyết tâm đi với hy vọng cũng sẽ tới và tâm niệm trong đầu "ai bền đỗ đến cùng người đó sẽ được rỗi". Cuối cùng chúng tôi đã tới. Thật là vui mừng và sung sướng vì chúng tôi đã đi đến đích cách thành công.

Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đã giới thiệu cho chúng ta biết như một lệnh truyền độc nhất không thể huỷ bỏ "Thầy là đường". Có thể lúc Chúa Giêsu nói Tôma vẫn chưa thể hiểu hết câu nói của Người. Ông còn đang mơ tưởng đến một quê hương nào đó, vì ông thuộc mẫu người thực nghiệm, muốn tay sờ, mắt thấy, tai nghe... Nhưng Đức Giêsu đã khẳng định chỉ cần nhìn vào Người, vì Người là con đường độc nhất dẫn về cùng đích duy nhất. Trong thực tế thì "đường" đã có sẵn và có từ muôn đời, nhưng người ta lại không muốn đi, có người thi lại không chịu nghe lời hướng dẫn để rồi bị đi lạc như Giuđa Iscariô. Có người đã đi đúng đường, đã tìm được sự hướng dẫn đích thực, nhưng lại bị lôi kéo bởi những con đường giả tạo, phù phiếm...để rồi bị lạc đường và bị lún sâu vào vũng lầy bóng tối, xa cách sự sáng mãi mãi.

Trên đường về thăm nhà bạn tôi, cũng chỉ có ba người về đến đích, còn ba người phải tạm chia tay hay nói đúng hơn là bỏ cuộc. Tượng tự những người lữ hành về quê trời cũng vậy, tất cả đều đang đi, nhưng cũng có người vì bị một lý do chủ quan hay khách quan nào đó mà phải ở lại, đành bỏ cuộc. Thật đúng như lời Đức Giêsu đã nói "Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy". Đi theo Người đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ mình vác thập giá mình hàng ngày mà theo. Nếu đường đã có sẵn mà chúng ta không chịu đi thì không bao giờ về đến đích. Đức Giêsu chính là con Đường và là Người dẫn đường, nhưng nếu chúng ta chán nản chúng ta không chịu đi thì Ngài cũng đành "bó tay", vì Ngài luôn cho ta có một sự tự do để lựa chọn.

Còn những người về đích, không phải họ là những người may mắn, mà là những người đã đi đúng đường, với nỗ lực bản thân vượt qua được những trở ngại trước mắt để về đến đích bình an.

Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta vẫn chưa đạt tới đích, tất cả chúng ta đều đang đi, trên quãng đường này chắc chắn có rất nhiều chông gai thử thách, cám dỗ mời mọc... nó sẽ thật nguy hiểm cho đời sống đạo của chúng ta. Có rất nhiều ngã và lối rẽ, nếu ta không thức tỉnh, nếu ta không vững vàng, ta sẽ bị sụp bẫy của kẻ thù mà đi lạc hướng, đi vào con đường của bóng tối và sự chết.

Lạy Chúa, xin cho con xác tín chỉ có Chúa mới là con đường nhanh nhất, và chắc chắn nhất dẫn chúng con về với Chúa Cha. Amen

ĐƯỜNG VỀ NHÀ CHA
Ga 14, 1 - 12

Có lẽ những ai đã học qua chương trình Văn Học lớp 12 đều không quên một tiểu tiết vui vui trong truyện ngắn "Đôi Mắt" của Nam Cao. Trong đó, anh Hoàng kể cho anh Độ nghe một câu chuyện "nực cười nhưng chẳng dám cười". Anh kể rằng: "Tôi kể cho anh nghe chuyện nầy thế nào anh cũng cho là bịa. Nhưng tôi có bịa tí nào, tôi chết. Một hôm, tôi đi chợ Huyện chơi. Ở nhà đã hỏi đường cẩn thận rồi, nhưng đến một ngã ba, lại quên béng mất, không biết phải rẽ lối nào. Đành đứng lại, chờ có người đi qua thì hỏi, chờ mãi mới thấy có một anh thanh niên vác một bó tre đi tới. Tôi chào rồi hỏi: 'Đi chợ Huyện lối nào, ông làm ơn chỉ giúp tôi'... Anh ta bảo: 'Ông cứ đi lối nầy, đến chỗ có một cây đa to thì rẽ về tay phải, đi một quãng lại rẽ về tay trái, qua một cánh đồng, vào đường gạch làng Ngò, vòng ra đằng sau đình, rẽ về tay phải, đi một quãng nữa thì đến chợ'. Đại khái như thế chứ không hoàn toàn đúng như thế. Chỉ biết nó lôi thôi rắc rối, nhiều bên phải bên trái, đến nỗi tôi không tài nào nhận ra được. Cuối cùng, anh bày cho tôi một cách: Đứng đợi đấy, gặp ai gánh hàng đi chợ thì đi theo...".

Tình huống của anh Hoàng đôi khi chúng ta cũng có thể gặp phải. Nếu ta đang ở một nơi xa lạ cần phải hỏi thăm đường đi. Đôi khi cách chỉ đường quá phức tạp đến nỗi ta "hỏi cũng bằng không". Nhưng cũng có thể ta may mắn gặp được một người tử tế, nhiệt tình, người ấy nói: "Thật khó chỉ cho anh. Thôi, anh cứ đi theo tôi, tôi sẽ dẫn anh đi".

Bối cảnh Tin Mừng hôm nay cho ta thấy tâm trạng âu lo của các Tông đồ khi biết mình sắp phải đơn độc. Trong Bữa Tiệc Ly, khi được biết Thầy không còn ở với mình nữa, các Tông đồ đã hết sức hoang mang và xao xuyến. Chúa Giêsu biết được tâm trạng của các ông nên Người đã trấn an, đồng thời hé mở cho các ông thấy việc ra đi của Người hoàn toàn cần thiết và có lợi cho các ông: "Anh em đừng xao xuyến!... vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em". Tôma vẫn chưa yên tâm vì chưa biết làm sao đi đến đó được. Ông hỏi Thầy: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường?". Chúa Giêsu không chỉ đường bằng cách đưa ra nhiều phương hướng phức tạp. Thay vào đó, Người nói: "Thầy là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy".

Như thế, Chúa Giêsu đã chỉ rõ mục đích của cuộc hành trình đời người là về với Thiên Chúa là Cha; và trong cuộc hành trình đó, chính Chúa Giêsu vừa là con đường, vừa là người dẫn đường cho mọi người.

Thật vậy, bước vào cuộc trần nầy là chúng ta bước vào một cuộc hành trình, hành trình hướng về Thiên Chúa là nguồn cội và cùng đích của đời mình. Nhưng con đường đến với Thiên Chúa không phải lúc nào cũng bằng phẳng. Nếu ta tự mình dò dẫm bước đi thì rất dễ lạc mất phương hướng, rất dễ rơi vào trạng thái lo âu chán nản rồi mất cả niềm hy vọng. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã dọn đường dẫn lối cho ta. Đi trên con đường Giêsu, ta không bao giờ sợ lạc lối. Trên con đường Giêsu, ta không đi lẻ loi một mình mà có Chúa Giêsu dẫn bước ta đi, có những anh chị em cùng đồng hành với ta.

Do đó, mỗi người chúng ta hãy hoà cùng cộng đoàn Dân Chúa, vững tâm tiến bước dưới sự dẫn dắt của vị thủ lãnh là Đức Giêsu Kitô. Hãy tin tưởng ta có một mái nhà vĩnh cửu để hướng về, nơi đó ta sẽ có một cuộc sống thật, một cuộc sống hạnh phúc đời đời.

KHÁT VỌNG ĐỜI THƯỜNG
Ga 14, 1 - 12

Trong đời sống đức tin của người Công giáo, hình ảnh mà chúng ta có về Thiên Chúa là rất quan trọng. Bởi lẽ, tuỳ như hình ảnh mà mình nuôi dưỡng về Thiên Chúa như thế nào, thì mình sẽ xây dựng đời sống đạo đức của mình như thế.

1. Hình ảnh con người có về Thiên Chúa trong Cựu ước:
Nhìn lại lịch sử dân Do thái qua những trang Kinh Thánh thời Cựu Ước, chúng ta thấy được rằng: đối với họ,Thiên Chúa còn là một vị thần quá xa vời, mặc dầu họ vẫn cảm nhận được rằng Ngài rất yêu thương họ, luôn bảo vệ họ và ở với họ trong mọi biến cố quan trọng của đời sống. Vì thế, tâm tình của họ dành cho Thiên Chúa là sợ hãi hơn là yêu mến. Họ sợ Thiên Chúa vì: "có ai nhìn thấy Thiên Chúa mà còn được sống bao giờ". Chẳng hạn Ông Ma-nô-ác liền nói với vợ: "Chúng ta chết mất thôi, vì đã thấy Thiên Chúa." (Tl13,22), hay Ông Gia-cóp đặt tên cho nơi đó là Pơ-nu-ên, "vì ông nói: tôi đã thấy Thiên Chúa mặt đối mặt, mà tôi đã được tha mạng." (St 32,31), nên họ sợ nhìn thấy Thiên Chúa và sợ gặp Thiên Chúa lắm. Những hình ảnh ấy nếu không được giải thích cho tận tường có thể sẽ làm méo mó khuôn mặt đích thực về Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa vẫn chấp nhận cho con người tô vẽ về Ngài với những điều chưa đúng đắn ấy để dần dần Ngài sẽ dẫn đưa họ tới sự thật về Ngài khi đến giờ Ngài đã định.

2. Khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô:
Đến thời Tân Ước, thời của Chúa Giêsu Kitô đến làm người và sống với con người, thì mọi mặc khải rõ ràng và chuẩn mực về Thiên Chúa được trình bày cho con người. Đức Giêsu đã âu yếm gọi Thiên Chúa là Cha và dạy cho con người biết nhìn về Thiên Chúa như người Cha đích thực của mình; một sự thật vượt quá suy nghĩ và tưởng tượng của con người. Ngài không ngừng nói về Thiên Chúa Cha cho con người qua những dụ ngôn "người cha nhân hậu", "ông chủ thương xót tên đầy tớ" . . . Thiên Chúa là một người cha hết mực yêu thương con người dù Ngài vẫn là Thiên Chúa toàn năng và là Thiên Chúa sáng tạo mọi loài.

3. Khát vọng của con người về Thiên Chúa:
Các môn đệ của Đức Giêsu ao ước được nhìn thấy Cha lắm. Do đó, Philipphê đã không bỏ qua cơ hội xin Đức Giêsu cho mình và anh em được nhìn thấy Thiên Chúa Cha khi Ngài nói về Thiên Chúa Cha cho họ "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con".

Khát vọng của Philipphê và của các tông đồ cũng là khát vọng của biết bao con người trên thế gian này, những con người thiện chí không ngừng tìm kiếm Thiên Chúa, Đấng mà họ gọi bằng những tên gọi khác nhau: Đấng tối cao, Đấng Tạo thành, Thượng Đế. . . Con người muốn bắc một nhịp cầu với Đấng siêu việt, muốn cảm nghiệm và tương quan với Đấng Tạo hoá. Khát vọng ấy suy cho cùng là chính đáng, là khôn ngoan. Bởi lẽ, con người nào mà không muốn biết mặt, không muốn nhìn thấy và sớ mó đến cha của mình bao giờ, nhất là người cha ấy lại là Thiên Chúa.

Thiên Chúa đã thấu hiểu nỗi niềm của con người nên Ngài đã đáp lại khát vọng ấy khi cho Con Một của Ngài làm người và ở giữa chúng ta. Để qua Đức Giêsu Kitô, chúng ta được gặp gỡ Chúa với chính Thiên Chúa, được diện kiến mặt đối mặt với Ngài, một Thiên Chúa dễ gần, dễ thấy, dễ quen, dễ cảm thông với con người. Như vậy, Thiên Chúa đâu chỉ ở nơi cao thẳm ngàn trùng hay vô phương thấu đạt nữa. Qua Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa hiện diện cách khiêm hạ với con người. Nhưng điều này con người không dễ chấp nhận nếu không được Thiên Chúa ban ơn đức tin cho họ. Đức Giêsu đã nói "Ai thấy Thầy là thấy Cha""Cha ở trong Thầy và Thầy ở trong Cha" (Ga 14,10) và Ngài còn mạnh dạn khẳng định "Cha và Tôi là một". Đây là một sự gắn bó và kết hiệp cách lạ lùng giữa Đức Giêsu và Cha của Ngài và cũng là Thiên Chúa của chúng ta.

Sự hiệp thông giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa Cha đạt tới sự trọn vẹn để giờ đây lời nói và việc làm của Chúa Giêsu chính là lời nói và việc làm của Chúa Cha. Toàn bộ cuộc đời của Chúa Giêsu được Cha chiếm ngự. Đức Giêsu trở nên một tấm gương trong suốt phản chiếu trái tim và khuôn mặt của Thiên Chúa: đầy lòng nhân ái và hết mực bao dung với hết mọi người "Ai thấy Thầy là thấy Cha".

Sứ mạng của mỗi người chúng ta là hãy sống như Đức Giêsu đã sống. Chúng ta hãy cố gắng sao cho đời sống của mỗi người chúng ta trở nên trong suốt khỏi những lớp bụi mờ của lòng ích kỷ, ghen tương, hận thù, để người khác nhìn thấy được Đức Giêsu trong chúng ta. Sứ mạng của người Kitô hữu là trở nên một Chúa Kitô khác cho con người hôm nay, là phấn đấu để nói lên rằng: "Ai biết tôi là biết Đức Giêsu. Ai thấy tôi là thấy Đức Giêsu" và như thế cũng là biết và thấy Thiên Chúa vậy.

Jack là một công nhân khai thác đá. Anh tuy ít học, nhưng lại có một đời sống rất tất lành. Anh gần gũi, cảm thông và chia sẻ với mọi người trong những công việc nặng nhọc hay nhẹ nhàng. Không ai thấy sự nóng nảy, cáu gắt trên khuôn mặt của anh bao giờ, dù có những lúc anh làm việc rất vất vả... Một người bạn của anh hỏi anh: "Này Jack, tại sao anh đối xử tốt với mọi người như vậy?". Anh đơn sơ trả lời rằng: "vì Chúa dạy tôi như vậy đó". Bạn anh lại tiếp tục hỏi anh: "Chúa của anh ra sao?" Anh quá bối rối trước câu hỏi này vì anh không phải biết trình bày Chúa của mình như thế nào để cho bạn anh hiểu đây. Nhưng sau một phút ngập ngừng, anh trả lời với bạn của anh rằng: "Chúa tôi giống như tôi vậy nè". Người bạn của Jack nghe vậy quá xúc động và nói với anh rằng: "Vậy thì tôi xin tin vào Chúa của anh". Vài ngày sau, người ta thấy Jack dẫn người bạn của mình đến một ngôi nhà thờ gần đó để người ấy được gia nhập vào đạo và trở thành Kitô hữu.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta không ngừng khao khát trở thành hình ảnh của Đức Giêsu và của Thiên Chúa Cha trong cuộc đời mình bằng một đời sống yêu thương phục vụ và hy sinh vì anh em đồng loại, để mọi người nhận ra được khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa và để cho Danh Ngài được cả sáng khắp mọi nơi. Amen.

BƯỚC VỀ NHÀ CHA
Ga 14, 1 - 12

AI CŨNG HIỂU VỀ ĐẾN NHÀ CHA mới là một thành công thật sự cho mọi nổ lực của những người theo Chúa. Nhà Cha được hiểu đó chính là Thiên đàng, nơi con người được sống trong hạnh phúc bất diệt với Thiên Chúa. Đường trần gian đi đã khó, đường về Thiên đàng thì lại càng khó hơn. Đường trần gian có những bóng mờ, thì đường về thiên đàng cũng có khi mịt lối vì những quyến luyến trần gian làm khuất mắt con người. Nếu nói đường đời có nhiều ngã rẽ thì đường nhà Cha chỉ có một lối mòn nhưng khó ai chịu đi đúng hướng. Nhiều người đã tự ý đi theo lối đi của riêng mình.

"Thầy là đường là sự thật và là sự sống" (Ga14,6). Lời Chúa Giêsu như vừa tự giới thiệu về mình, vừa như muốn hối thúc nhiều người hãy đến với Ngài. Chính Ngài sẽ đứng ra dẫn lối, đồng thời Ngài cũng là lối đi duy nhất dẫn về Chúa Cha. "Thầy đi Thầy dọn chỗ cho anh em" (Ga14,2). Đường về nhà Cha có nhiều cách đi. Thành công của kẻ lữ hành là phải đến nơi mình định tới.

Đường đi một mình

Mỗi người phải tự quyết định ngay từ ban đầu, đi hay không đi. Sự quyết định nói lên sự tự do chọn lựa và một trách nhiệm về số phận của mình. Chúa kêu gọi từng cá nhân theo Ngài, dó đó mỗi người phải có lời đáp trả cách riêng tư. Tuy nhiên, cho dù vai trò cá nhân được đề cao đến đâu đi nữa thì con đường đi một mình là con đường nguy hiểm: Mệt lã không ai nâng đỡ; lạc hướng không kẻ chỉ đường; buồn phiền không người an ủi. Nếu biết thế, dại gì ta đi một mình trong khi ta có quyền chọn lựa những cách đi khác: Đồng hành với Chúa và với anh chị em.

Đồng hành với anh chị em

"Và tôi vẫn nhớ hoài một loài cây sống gần nhau thân mới thẳng ..." Lời hát như nhắc nhớ con người sống giữa mọi người cần có sự nâng đỡ của người khác để mình được lớn lên. Một sự lớn lên theo đường hướng tốt đẹp. Cây được thẳng là nhờ những cây khác mọc xung quanh mình. Người sống với người cũng rất cần sự nâng đỡ nhau như thế. Hôm nay tôi ngã có người nâng đỡ tôi. Và đến lượt tôi cũng có trách nhiệm để nâng đỡ kẻ khác khi họ cần đến.

Chúa Giêsu đến trần gian, Ngài không chọn duy nhất một "đệ tử ruột" để truyền hết "bí kiếp võ công" cho riêng kẻ ấy. Không, Ngài đã chọn nhiều tông đồ và sai đi "Cứ dấu này mà người ta nhận các con là môn đệ của Thầy là các con hãy yêu thương nhau". Ngài muốn môn đệ của mình phải sống với nhau bằng sợi dây yêu thương không thể tách rời.

Trong tập suy niệm "Đường Đi Một Mình", Cha Nguyễn Tầm Thường có nhắc đến câu chuyện về những người lữ hành trong trận bão tuyết. Người thứ nhất đi đầu và bị ngã quỵ trong cơn bão. Người thứ hai đi ngang qua cúi nhìn rồi bỏ đi. Người thứ ba đi đên thấy và vác kể xấu số đã quỵ ngã ấy. Ông cố chống tuyết, ôm người ngất xỉu trên vai. Đến ngôi làng, người ta thấy xác của người thứ hai chết trên đường. Rõ ràng cái chết bí ẩn không phải vì do cái giá lạnh của tuyết nhưng nằm ẩn kín trong tim của mỗi con người. Người thứ ba còn bước đi nỗi bởi vì khi vác kẻ xấu số trên vai, hơi ấm của họ đã truyền sang nhau nên cả hai còn sống sót. Bấy giờ ông hiểu, có những con đường không thể tự mình đi.

Đồng hành với Chúa Giêsu

Người tông đồ dù cho tự mình có đứng vững ở mức nào, dù bản thân có được sự nâng đỡ của người khác ra sao thì tự bản thân người ấy không thể đến với vinh quang Thiên Chúa được. Tự bản chất có một hố sâu ngăn cách thế giới trên cao và thế giới ta đang sống. Thế giới trên cao không phải là điều gì quá mơ hồ khiến con người không thể vươn tới. Tôma thì coi việc trở về với Cha là điều gì rất bí nhiệm, rất mong manh.

Chúa Giêsu đã tự nói "Thầy là Đường... ai thấy Thầy là xem thấy Cha" (Ga14, 6.9 ). Chúa Giêsu chính là con đường độc nhất dẫn tới nơi duy nhất. Tiếc rằng có nhiều người đã không dám đón nhận con đường ấy. Có nhiều người quá chú ý đến những chi tiết phụ tuỳ. Họ chỉ nghĩ đến những chuyện trước mắt như thiếu phụ Samaria chỉ biết nghĩ đến nguồn nước tươi mát vọt lên từ dòng suối (Ga 4,11-15) mà không nghĩ tới Đấng đang ở trước mặt bà. Họ giống như người Do thái chỉ ớong chờ vào bánh manna mà không màng chi đến Bánh Hằng Sống mà Người đem lại (Ga6, 33).

Đường về nhà cha xem ra đã quá rõ ràng mà không bị bí lối. Chính Chúa Giêsu đã khai mở con đường. Duy chỉ một con đường mà chính Ngài là người dẫn đường và cũng chính Ngài là con đường. Ai theo Người, cùng đi với Người sẽ không hề bị lạc lối bao giờ.

Tâm nguyện

Lạy Chúa đường đời còn nhiều ngã rẽ, khiến con dễ lầm lạc. Xin cho con luôn bước đi trong lối bước duy nhất của Ngài. Đường gian trần còn nhiều bóng mát mời gọi. Xin cho con đừng vì thế mà dừng lại quá lâu nhưng luôn hăng hái tiến về nhà Cha. Vì nhà Cha là nơi hạnh phúc thật mà chúng con kiếm tìm.

TẠI SAO ĐỨC GIÊSU LẠI CĂN DẶN CÁC MÔN ĐỆ: "ĐỪNG XAO XUYẾN?"
Ga 14, 1 - 12
Jos. Vinc. Ngọc Biển

Trong buổi tĩnh tâm các linh mục quốc tế ngày 12.10.1998 tại thành phố Monterrey, nước Mexico, qua bài nói chuyện của đức cố Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận, ngài đã chỉ ra một số điểm sai xót của Đức Giêsu, một trong những điểm sai xót đó là những lời giảng dạy, hành động xem ra mâu thuẫn.

Ví dụ như: có lần, Ngài đưa ra lời mời gọi: phúc cho kẻ nghèo, kẻ phải đói, kẻ phải khóc, kẻ bị người ta oán ghét (x. Lc 6, 20-22); hay "ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Lc 9, 24); hoặc làm sao có thể ví Nước Thiên Chúa, Nước của Ðấng toàn năng, vô tận với một hạt cải (x. Lc 13, 18-19); và điều mâu thuẫn lớn nhất chính là "Con Thiên Chúa, Ðấng hằng sống"; "Đấng công chính!" lại phải chấp nhận sự chết và chết nhục nhằn trên Thập giá??? (x. Lc 23, 47).

Những mâu thuẫn kiểu như thế, hôm nay lại được Đức Giêsu cất lên khi căn dặn các môn đệ: "Anh em đừng xao xuyến!" (Ga 14,1). Phải chăng lời của Đức Giêsu nói với các môn đệ giờ này xem ra có vẻ không tâm lý, mâu thuẫn với hoàn cảnh hiện tại, bởi lẽ các ông rất buồn vì Thầy trò sắp phải xa nhau. Vậy, câu hỏi được đặt ra là chính Đấng đang nói: "Anh em đừng xao xuyến!" (Ga 14,1), Ngài có xao xuyến không? Và từ đó, như một hệ luận, chúng ta tin hay không tin vào lời nói của Đức Giêsu!

1. Sự xao xuyến của Đức Giêsu

Thực ra trong cuộc đời của Đức Giêsu, Ngài cũng đã nhiều lần xao xuyến, chẳng hạn như:

Nhìn niềm tin trong viễn cảnh tương lai, Đức Giêsu đã thốt lên: "Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?" (Lc 18,8); rồi khi về Giêrusalem, Ngài cũng thốt lên lời than thở "Giêrusalem, Giêrusalem! [...] Ðã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các người không chịu" (Lc 13,34); hay trong bữa Tiệc Ly với các môn đệ, Ngài cũng trải qua nỗi xao xuyến thực sự, bởi vì chỉ còn một ít nữa thôi, Ngài sẽ từ biệt các môn đệ, sẽ bị bắt, do chính môn đệ thân tín của mình trao nộp, rồi Ngài cũng thấy trước được những đau khổ vì mình mà các ông phải chịu. Nỗi xao xuyến ấy bao trùm lên Thầy trò, khi kẻ đi người ở... Sự xao xuyến ấy dần càng tăng lên khi trong vườn Cây Dầu, Đức Giêsu cảm thấy sợ hãi, và Ngài đã than thở với các môn đệ: "Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức!" (Mc 14,34), và Ngài mướt mồ hôi máu. Sau đó, Ngài đã cầu nguyện tiếp: "Ápba, Cha ơi! Cha có thể làm được mọi sự, xin tha cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha" (Mc 14, 36). Cuối cùng, nỗi xao xuyến này được dâng lên đến tột đỉnh trên Thánh Giá, khi cơn đau đớn thấu con tim, báo hiệu giờ hấp hối đã gần, Ngài đã lớn tiếng kêu lên Thiên Chúa Cha: "Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?" (Mc 14, 34).  

Như vậy, cả cuộc đời của Đức Giêsu đã trải qua những cơn xao xuyến. Thật ra, sự xao xuyến của Đức Giêsu cho thấy, Ngài vừa là Thiên Chúa và cũng là con người, nên những nỗi xao xuyến đó của Ngài như là con đường để dẫn đưa chúng ta là những người cũng xao xuyến đến sự sống đời đời.

Tại sao chúng ta lại xác tín điều đó, thưa, vì lời căn dặn của Ngài  "Anh em đừng xao xuyến!" (Ga 14,1), là khả tín, đáng tin. Bởi vì sự xao xuyến này đã ngang qua cuộc đời của chính Đức Giêsu, và Ngài đã biến nó thành niềm hy vọng khi tin tưởng và tín thác nơi Thiên Chúa Cha là Đấng khơi nguồn và cùng đích của mọi sự.

2. Sự xao xuyến của các môn đệ 

Sau Đức Giêsu, sự xao xuyến cũng không buông tha các môn đệ. Các ông xao xuyến là bởi vì trước khi nói những lời ly biệt, Đức Giêsu đã tiên báo Phêrô sẽ trối Thầy (x. Ga 13, 38); Giuđa thì bán Thầy (x. Ga 14, 21); các môn đệ sẽ bỏ chốn (x. Mt 26, 56). Như thế, các ông thấy trước những viễn cảnh đó sẽ xảy ra, nên các ông lo sợ cho giờ phút kinh hoàng này sẽ đến với Thầy mình và các ông đều bị liên lụy là lẽ tất yếu.

Nỗi xao xuyến của các ông còn là nỗi sợ cô đơn. Các ông đã bỏ mọi sự, vợ con, nhà cửa, sự nghiệp để đi theo, ấy vậy mà giờ đây các ông sắp phải chia tay Thầy của mình. Sự chia tay này theo lối hiểu của các ông chẳng khác gì "rắn mất đầu"; hay "tàu không người lái". Vậy thì các ông sẽ đi đâu và về đâu đây???

Thêm một lý do nữa khiến các môn đệ xao xuyến, đó là: khi còn sống với các ông, Đức Giêsu hướng dẫn, dạy dỗ và dẫn dắt các ông từng ly từng tý, vậy Ngài sắp ra đi thì ai là người dẫn lối chỉ đường cho các ông?

Buồn sầu và xao xuyến của các môn đệ là lẽ thường tình nơi thân phận con người trước những điều không may, nguy hiểm, chia ly, từ biệt, rồi phải đối diện với chốn trần gian đầy tục lụy, thù hằn, thử thách và ngay cả cái chết như Thầy của mình.

Tuy nhiên, những sự xao xuyến đó của các ông đã được Đức Giêsu trấn an khi nói: "Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy" (Ga 14,1). Chỉ có niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa mới có thể giúp các ông vượt qua mọi gian nan, thử thách xảy đến trong cuộc sống trần gian; còn khi các ông xao xuyến không biết về đâu thì chính Ngài đã nói: "Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó" (Ga 14,3), rồi khi các ông xao xuyến không biết định hướng cho cuộc sống tương lai thì Đức Giêsu lại nói: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy" (Ga 14, 6). Đường ở đây không phải Đức Giêsu muốn nói về một lối đi theo nghĩa đen, nhưng Ngài muốn các ông hiểu rằng: Ai yêu mến, tôn thờ, sống theo lời Ngài thì chắc chắn đến được với Chúa Cha. Vì Đức Giêsu và Chúa Cha là một. Thấy Đức Giêsu là thấy Chúa Cha!; cuối cùng, sự ra đi của Đức Giêsu đem lại lời hứa hẹn tràn đầy niềm vui và bình an khi Ngài hứa trao ban Chúa Thánh Thần trên các ông. Như vậy, Đức Giêsu ra đi thì tốt hơn cho các ông, vì Ngài sẽ ban Chúa Thánh Thần đến dạy dỗ các ông biết những điều mà trước đây, các ông không thể hiểu được! (x. Ga 14, 26).

Như vậy, qua lời trấn an của Đức Giêsu "Anh em đừng xao xuyến!" (Ga 14,1), Ngài muốn mặc khải cho các ông thấy rằng: quê hương họ ở trên trời (x. Pl 3, 19), mà Đức Giêsu sẽ là người đầu tiên trở về với nguồn cội, nơi mà từ đó được phát xuất ra để dọn chỗ cho họ. Vì thế, các ông đừng xao xuyến, hãy tin vào Thầy, trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở.

3. Sự xao xuyến của con người ngày hôm nay

Trong thực tại cuộc sống, chúng ta thường gặp những cảnh ngộ nhiều lúc không được như lòng mong muốn. Tâm trạng này của mỗi chúng ta cũng chính là tâm trạng của các môn đệ khi xưa, nào là: sự cô đơn; quan điểm và thực trạng xã hội hoàn toàn xa lạ với đường lối của Thiên Chúa, của Tin Mừng;  rồi ốm đau; bệnh tật... nào là con cái hư hỏng; nào là buôn bán không gặp thời; nào là thất vọng vì những gương xấu trong cuộc đời; hay chính những chuyện tốt ta muốn làm mà cũng không được... Những sự xao xuyến ấy luôn luôn ở bên cạnh chúng ta, nó theo chúng ta như hình với bóng, vì thế, triết gia Martin Heideiger khi suy tư về con người, ông đã nói về sự xao xuyến này như sau: "Con người là một hữu thể bị ném ra cuộc đời, hiện hữu giới hạn trong thời gian, nghĩa là con người sống để mà chết. Và bởi con người sống và đi đến cái chết không thể tránh khỏi, nên con người mang nỗi khắc khoải khôn nguôi. Cái chết và nỗi khắc khoải được định nghĩa là thành tố làm nên con người hiện sinh. Đời người là như vậy. Chẳng ai làm người mà vô sự".

Tuy nhiên, đối với chúng ta là người kitô hữu, chúng ta có một niềm tin mạnh mẽ, đó là: đằng sau cái chết là sự sống vĩnh hằng. Niềm tin này hôm nay được Đức Giêsu mặc khải: "Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở [...] Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó" (Ga 14, 1-3); hay lúc khác Đức Giêsu nói: "... tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết" (Ga 6, 40).

Như vậy, chết không phải là hết. Cuộc sống này chỉ là một sự chuyển tiếp mà thôi. Khi tin như thế, Chúng ta có quyền hy họng vào lời căn dặn, trấn an của Đức Giêsu: "Anh em đừng xao xuyến!" (Ga 14,1).

Một mẫu gương đáng để chúng ta noi theo khi sống niềm tin của mình vào Đấng là đường, là sự thật, và là sự sống....đó chính là triết gia Pascal. Cả cuộc đời và sự nghiệp của ông đã đi vào trong lối suy tư mang đậm niềm tin nơi Đức Giêsu. Điều này được chứng minh khi người nhà của Pascal tìm thấy nơi gấu áo của ông lúc ông đã qua đời, tấm giấy chính tay ông viết và lưu giữ suốt cuộc đời, ông viết: "Sự sống đời đời là hiểu biết và yêu mến Ðức Kitô và Ðấng đã sai Ngài... lửa, lửa, lửa; nước mắt, nước mắt, nước mắt của tình yêu".

Ðó là bí quyết sống niềm tin, phó thác của B. Pascal một văn hào, một triết gia, một nhà toán học. Đây cũng phải là bí quyết sống của mỗi chúng ta khi xác định quê hương của chúng ta ở trên trời. Nơi quê hương ấy hoàn toàn khác với quê hương hay những thực tại mà chúng ta thấy hiện nay, vì thế, mọi việc làm, lời nói... của chúng ta hãy quy chiếu về đó như là điểm đến của cuộc đời nơi những người có niềm tin vào Chúa và cuộc sống đời sau.

Quê hương ấy được thánh Giáo phụ Augustinô diễn tả như sau: "Hội Thánh được biết có hai cuộc sống Thiên Chúa đã mạc khải và trao ban, đó là cuộc sống trong đức tin và cuộc sống trực kiến, cuộc sống lữ hành và cuộc sống nơi cư ngụ vĩnh viễn, cuộc sống lầm than vất vả và cuộc sống nghỉ ngơi an nhàn, cuộc sống ra sức làm việc và cuộc sống chiêm ngắm tôn nhan Thiên Chúa là phần thưởng".

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con không bị rơi vào tình trạng xao xuyến trước những điều bất trắc trong cuộc sống, xã hội và con người hôm nay, bởi xác tín rằng, quê hương chúng con ở trên trời, và mọi điều trái ý đó xảy đến như là một điều kiện cần cho được cứu rỗi. Có thế, chúng con hy vọng sẽ được vào nơi mà Đức Giêsu đã đi trước dọn đường và chuẩn bị cho chúng con. Amen.

CON ĐƯỜNG GIÊ-SU LÀ TIN YÊU VÀ PHỤC VỤ
Ga 14, 1 - 12

1. LỜI CHÚA: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy" (Ga 14, 6).

2. CÂU CHUYỆN:

1) THIÊN CHÚA LÀ ĐẤNG QUYỀN NĂNG VÀ VÔ HÌNH:

Một ông vua kia do cận thần xúi bẩy nên một hôm đã ra lệnh triệu tập tất cả các giám mục trong nước vào hoàng cung. Vua ra lệnh cho các giám mục: trong một tuần lễ phải chứng minh được là có Thiên Chúa. Nếu không chứng minh được thì tất cả các giám mục sẽ bị khép vào tội lừa bịp dân chúng và bị án treo cổ. Thật là một đòi hỏi nan giải, vì làm sao có thể chỉ cho nhà vua xem thấy Thiên Chúa vô hình được ? Rồi càng gần đến ngày hẹn, tâm trạng các vị giám mục càng thêm bồn chồn lo lắng. Bấy giờ một tu sĩ trẻ nghe biết câu chuyện, liền đến yêu cầu nhà vua được thay các giám mục chỉ cho nhà vua nhìn thấy Thiên Chúa. Đúng hẹn, anh tu sĩ đã dẫn nhà vua cùng quần thần lên một ngọn đồi đang lúc trưa hè nắng gắt, rồi chỉ tay lên mặt trời và nói: "Tâu bệ hạ, xin nhìn theo ngón tay của thảo dân, thì bệ hạ sẽ thấy Thiên Chúa". Nhà vua và các cận thần đều nhìn lên mặt trời theo hướng tay của anh tu sĩ kia đã chỉ, nhưng không ai có thể xem thấy gì vì bị ánh sáng mặt trời làm chói mắt. Bấy giờ nhà vua liền nổi cơn lôi đình truyền thị vệ chém đầu anh tu sĩ trẻ kia vì đã dám đánh lừa mình. Vị tu sĩ liền quỳ dưới chân nhà vua thưa rằng: "Muôn tâu bệ hạ, bệ hạ đòi nhìn xem Thiên Chúa. Thế mà mặt trời chỉ là một tạo vật tầm thường của Thiên Chúa, mà bệ hạ đã không thể xem thấy được, thì làm sao bệ hạ đòi nhìn thấy chính Thiên Chúa là Đấng vô cùng cao cả được ? Thiên Chúa luôn hiện hữu, nhưng vì Ngài thiêng liêng vô hình, nên người phàm mắt thịt  không thể xem thấy Ngài, mà chỉ có thể thấy Ngài bằng mắt đức tin thôi". Nhờ câu nói này của anh tu sĩ trẻ và các giám mục đã không bị khép tội khi quân và khỏi bị hành hình.

Trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giê-su đã nói với môn đệ Phi-líp-phê rằng: "Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư ? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha. Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao ? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình (Ga 14,9-10).

2) TIN VÀO THIÊN CHÚA LÀ NIỀM AN ỦI VÀ HY VỌNG CHO CUỘC SỐNG MAI SAU:

Trong một gia đình nọ. Ông chồng là người không tin có Thiên Chúa. Ông thường nhạo báng việc cầu nguyện dự lễ để thờ phượng Thiên Chúa. Trái lại, bà vợ của ông lại là một tín hữu sùng tín. Hằng ngày bà đều đến nhà thờ cầu nguyện cho chồng sớm được ơn trở về với Chúa. Bà luôn ăn ở ngay lành và dạy con sống tốt lành đạo đức để sau khi chết được lên thiên đàng hưởng nhan thánh Thiên Chúa. Dù sống giữa hai niềm tin trái nghịch giữa bố mẹ, người con trai duy nhất của hai người vẫn sống ngoan ngoãn với cha mẹ. Rồi một ngày kia, đứa con trai yêu quý bị mắc cơn bệnh phổi hiểm nghèo. Nghe bác sĩ cho biết mình sắp bị chết, em đã hỏi ông bố bấy giờ đang ở bên giường bệnh rằng: "Bố ơi, xin bố hãy nói thật cho con biết: sau khi chết con sẽ đi về đâu? Nếu theo mẹ dạy thì con sẽ được về trời gặp gỡ Thiên Chúa là Cha hằng yêu thương con và sẽ được hưởng hạnh phúc mãi mãi với Chúa và sau này còn được đoàn tụ với cả bố mẹ trên thiên đàng. Còn nếu theo bố thì sau khi chết sẽ chẳng còn gì nữa: con sẽ chẳng còn ai để yêu thương con và bảo vệ cho con...

Ông bố nghe đứa con yêu hỏi mà tê tái lòng. Ông liền ôm con vào lòng và nói với con: "Bố đã sai rồi con ạ. Con hãy tin theo mẹ con nhé". Đứa con lại nói: "Nhưng nếu bố không cùng tin Chúa như mẹ, thì làm sao sau này con có thể gắp được cả bố mẹ trên thiên đàng được?" Trước lời nói đơn sơ của đứa con thân yêu, ông bố của em đã không kềm nổi những giọt nước mắt thống hối. Sau ngày con qua đời, ông đã xin theo học khóa giáo lý dự tòng. Nhờ được nghe Lời Chúa, ông đã đạt tới đức tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa và thiên đàng đời sau. Ông đã tập sống đức tin bằng việc thực tập đức cậy và đức mến. Cụ thể là cầu nguyện sớm hôm để phó thác cuộc đời trong tay Chúa quan phòng, thực thi yêu thương bằng sự tha thứ và khiêm nhường phục vụ tha nhân noi gương Chúa Giê-su. Ông năng đến nhà thờ dự lễ và rước lễ để được kết hiệp với Chúa Giê-su Thánh Thể là mầm sống lại trong ngày sau hết. Ông xác tín Chúa Giê-su chính là con đường duy nhất dẫn đưa ông lên trời hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa như lời Người dạy: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy" (Ga 14,6).

3. SUY NIỆM:

1) Nội dung Tin Mừng hôm nay:

Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại câu trả lời của Đức Giê-su cho môn đệ Phi-líp-phê khi ông muốn Thầy chỉ cho xem thấy Chúa Cha. Đức Giê-su nói: "Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư ? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha" (Ga 14,9). Ngày nay muốn nhìn thấy Thiên Chúa, chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giê-su. Vì Người là Đấng "Em-ma-nu-en", nghĩa là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (Mt 1,23). Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình đã trở nên hữu hình khi mặc lấy thân xác phàm nhân để nên giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ không có tội (x. Ga 1,14). Đức Giê-su cũng trấn an các môn đệ trước khi bước vào cuộc khổ nạn và phục sinh như sau: "Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở" (Ga. 14,1-2).

Tin mừng hôm nay cũng mặc khải cho chúng ta: Mọi người trên trần gian đều có một Cha chung trên trời là Thiên Chúa, và đều là anh em với nhau. Sau này chúng ta sẽ được đoàn tụ với Thiên Chúa và với nhau trên Thiên Đàng. Thánh Phao-lô cũng dạy: "Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta" (Pl 3,20). Tuy nhiên chúng ta chỉ có thể lên trời với Thiên Chúa qua con đường Giê-su như Người đã nói: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha nếu không qua Thầy" (Ga 14,6). Vậy Con Đường Giê-su có những đặc điểm nào ? Và chúng ta phải làm gì để đi tới đích là được về quê trời với Thiên Chúa và hưởng hạnh phúc đời đời trên thiên đàng?

2) Những đặc điểm của Đường Giê-su ?

1) Đức Giê-su là Đường: Con đường lên trời vô cùng khó khăn và vượt quá tầm khả năng hữu hạn của người phàm. Chỉ có Đức Giê-su, Đấng từ trời mà đến, trở thành "Em-ma-nu-el" nghĩa là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta", mới có khả năng chỉ đường lên trời cho chúng ta như Người đã nói: "Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống" (Ga 3,13). Người luôn đồng hành với chúng ta trong cuộc sống (x. Lc 24,15) và ban Thánh Thần giúp chúng ta về tới thiên đàng đời sau.

2) Đức Giê-su là sự thật và là sự sông: Người dạy cho chúng ta sự thật là các mầu nhiệm của Thiên Chúa, ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Người: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống mà tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết" (Ga 11,25-26). Người cho chúng ta biết sự thật về Thiên Chúa là Đấng đã yêu thương loài người và sai Con Một xuống thế để dạy loài người con đường cứu độ và sẵn sàng chịu chết đền tội thay và sống lại để phục hồi sự sống cho loài ngươi. Chính Sự thật ấy sẽ giải thoát chúng ta nếu chúng ta tin vào Đức Giê-su (x. Ga 8,32)

3) Đi con đường của Đức Giê-su là chọn con đường hẹp, leo dốc và ít người muốn đi; Là chấp nhận "qua đau khổ sự chết để vào vinh quang phục sinh" theo thánh ý Chúa Cha; Là "mến Chúa yêu người" theo gương mẫu và lời dạy của Chúa Giê-su; Là "bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo chân Chúa", là khiêm tốn rửa chân phục vụ anh em và quảng đại chia sẻ cơm bánh cho người nghèo đói, góp phần chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền của tha nhân, năng thăm viếng an ủi những người sầu khổ bất hạnh... Là sẵn sàng chịu đựng những sỉ nhục và đau khổ vì danh Chúa như các Tông đồ xưa. Tóm lại là sống theo bản hiến chương Nước Trời là "Tám Mối Phúc Thật" do Chúa Giê-su đã công bố.

3.Chúng ta phải làm gì? :

- Nên đồng hình đồng dạng với Đức Giê-su: Trở thành Ki-tô hữu tức là thành một Chúa Giê-su khác trước mặt người đời. Mỗi tín hữu chúng ta phải sống thế nào để có thể nói được rằng: "Ai biết tôi là biết Chúa Giê-su. Ai thấy tôi là thấy Chúa Giê-su, vì chính Chúa Giê-su đang sống trong tôi". Từ nay, chúng ta cần xác tín rằng: Chỉ có Con Đường Giê-su mới dẫn đưa chúng ta lên trời. Tông đồ Phê-rô cũng đã quả quyết trước Thượng Hội Đồng Do thái như sau: "Chính Đấng ấy, là Tảng Đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, Tảng Đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường. Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ. Vì dưới gầm trời này, không có một Danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào Danh đó mà được cứu độ" (Cv 4,11-12).

- Phải về quê trời cùng với tha nhân: Đức Giê-su đã về với Chúa Cha trong vinh quang phục sinh, sau khi đã sống một cuộc đời yêu thương tận hiến và đã trải qua cuộc khổ nạn theo thánh ý Chúa Cha. Cuộc đời của Người đã trở thành con đường lên trời của các tín hữu chúng ta hôm nay. Khi suy niệm Lời Người và sống gắn bó với Người trong bí tích Thánh Thể, chúng ta sẽ hiểu biết ý Chúa Cha muốn chúng ta phải làm gì và sống kết hiệp mật thiết với Chúa Giê-su. Nếu chúng ta đi trên Con Đường Giê-su thì chính chúng ta cũng sẽ trở thành con đường để giúp anh em lương dân đến với Đức Giê-su. Chính nhờ gặp gỡ chúng ta, họ sẽ nhận biết Chúa Giê-su qua lời nói, việc làm và lối ứng xử hiền hòa nhân ái yêu thương phục vụ của chúng ta. Rồi "nhờ Người, với Người và trong Người", họ sẽ gặp được Thiên Chúa Cha và trở thành con Chúa Cha trong gia đình Hội Thánh ở đời này, để sẽ được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa Cha và với công đoàn tín hữu trên thiên đàng đời sau.

4. THẢO LUẬN:

1) Bạn có đồng ý với lập luận: "Đạo nào cũng tốt. Đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành. Do đó, Hội Thánh chẳng cần truyền đạo cho ai. Chỉ cần giúp anh em lương dân sống theo lương tâm hay sống đạo làm người là đủ" ? Tại sao ?

2) Khi gặp một hoàn cảnh nan giải, bạn cần làm gì để nhận biết thánh ý Thiên Chúa và vâng theo ?

3) Hát bài kết thúc như sau: "Con đây ! Lạy Chúa Chúa muốn con làm gì ?"

5. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúng con cảm thấy mình thật nhỏ bé và bất lực, khó lòng có thể chu toàn sứ mạng loan báo Tin mừng mà Chúa đã trao cho Hội Thánh trước khi lên trời. Xin cho chúng con ý thức rằng: Sứ mạng truyền giáo trước hết phải thực hiện cho những người thân quen như: cha me, vợ chồng, con cái, anh em và bạn bè của chúng con, rồi sau đó mới đến người khác. Xin giúp chúng con năng nhìn ngắm khuôn mặt dịu hiền của Chúa và suy niệm các hành vi và lời dạy của Chúa, vì Chúa chính là hình ảnh trung thực của Chúa Cha. Xin giúp chúng con biết lắng nghe Lời Chúa dạy và quyết tâm thực hành ý Chúa trong đời sống thường ngày. Xin cho chúng con biết từ bỏ ý riêng và vác thập giá mình hằng ngày mà theo chân Chúa. Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ ngày một nên con ngoan hiếu thảo của Chúa Cha, nên môn đệ đích thực của Chúa và nên anh chị em của mọi người.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.  - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

LM ĐAN VINH -  HHTM

NHÀ CHA
Ga 14, 1 - 12
Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Những điều làm chúng ta lo lắng nhiều trong cuộc sống đời tạm này là tìm kiếm có nhà để ở, có của ăn nuôi dưỡng, có gia đình, bạn bè và bà con thân thuộc chung sống. Chứng kiến cảnh những người vô gia cư sống lang thang nay đây mai đó, chúng ta thấy thật tội! Trong khu vực tôi đang phục vụ, hàng ngày tôi vẫn thấy có nhiều người vô gia cư sống bên lề đường. Một hôm tôi bắt truyện với một người và mới được biết anh là người Việt Nam. Ngày trước, quê ở Saigòn, anh được bảo lãnh sang Hòa Kỳ theo diện con lai. Không may mắn, vợ con từ bỏ và đi sống ở tiểu bang khác. Anh bơ vơ một mình. Quanh năm suốt tháng, với năm ba cái vali và bao bì, anh di chuyển từ chỗ này đến chỗ kia bên lề đường. Tôi không biết anh giải quyết các nhu cầu cá nhân ở đâu. Mùa Hè qua, mùa Đông đến, anh luôn có mặt đó. Anh không xin ăn. Anh đứng hoặc ngồi đó, miệng luôn lẩm bẩm nói điều gì không rõ. Biết rằng anh có bệnh trong người, nhưng hình như anh an phận và không than van trách móc. Tôi nghĩ có lẽ tâm trí của anh không được bình thường lắm. Tôi cũng không thể tưởng tượng nổi làm sao anh có thể sống sót ngoài đường sương gió tuyết lạnh và nóng nảy quanh năm suốt tháng như vậy. Anh không có nhà để về, không có nơi để ở và không có chốn để dung thân. Chính anh lại không muốn vào 'shelter' chỗ sống chung dành cho người vô gia cư. Thật đáng thương! Thân phận một đời người. Tôi chẳng giúp được gì cho anh.

Chúng ta dù có đi đâu, rồi cũng mong về nhà. Nhà là tổ ấm của yêu thương. Ai ai cũng mong có một mái nhà để được đùm bọc sinh sống. Dù là mái tranh nghèo, nhưng cuộc sống ấm áp là đủ. Người ta thường nói: Hai trái tim vàng, một túp lều tranh là thế. Thật là lý tưởng và đơn sơ. Trong thực tế cuộc sống văn minh ngày nay, hình như sự đòi hỏi các phương tiện và nhu cầu cuộc sống cao hơn nhiều. Nhưng chúng ta biết rằng nhà to hay nhỏ không quan trọng, điều cần thiết là có mái nhà. Nhà là nơi mọi thành viên trong gia đình có thể qui tụ và vui hưởng hạnh phúc bên nhau. Chúng ta đang trong cuộc lữ hành trần thế, chúng ta chỉ có thể sống tạm nơi đây một thời gian. Đôi khi, vì nhu cầu cuộc sống, chúng ta đã chuyển đổi từ nơi này tới nơi khác nhiều lần. Cho nên các ngôi nhà dù có xây cất kiên cố, cũng không thể giữ chân của chúng ta tại một chỗ. Chúng ta luôn phải đi kiếm tìm cuộc sống tươi đẹp hơn. Ai cũng như ai, cuộc đời con người bước tới và phát triển mỗi ngày. Dù nhà có sang có đẹp, rồi một ngày nào đó, mỗi người chúng ta đều phải giã từ.

Niềm tin hy vọng của con người trên trần thế có cùng đích và có nơi để về. Chúa Giêsu sau khi phục sinh từ cõi chết, Ngài đã mạc khải cho các môn đệ: Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con (Ga 14, 2). Chúa Giêsu đi trước để dọn chỗ cho chúng ta. Còn gì hạnh phúc hơn. Chúng ta biết chắc chắn là sẽ có đường để đi theo và có nhà để tới. Chúa Giêsu mở một chân trời mới đáp ứng mọi ngưỡng vọng của đời người. Có người ví đời người như cánh bèo trôi, lênh đênh dòng nước, khi trôi khi dừng, lững thững theo dòng nay đây mai đó và cuối cùng tàn rụi. Nhưng người có niềm tin vào Thiên Chúa là có niềm hy vọng. Đời tạm này sẽ đi qua và cuộc đời trần thế sẽ kết thúc, nhưng hồn thiêng sẽ sống mãi. Chúa Giêsu đã hứa sẽ trở lại đón chúng ta về nhà Cha. Ngày hạnh phúc đó, xác hồn kết hợp trong một cuộc sống mới và nơi đó không còn bóng dáng sự chết.

Chúa Giêsu đã dọn cho chúng ta có chỗ dung thân đời đời. Nhưng để tìm đạt cùng đích của cuộc đời, chúng ta không thể đi con đường nào khác ngoài con đường Chúa Giêsu đã vạch ra. Chúa nói: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy (Ga 14, 6). Con đường dẫn tới sự sống viên mãn là con đường sự thật. Chúa Giêsu đến trần gian là để làm chứng cho sự thật. Có rất nhiều người chưa hiểu biết sự thật là chi? Sự thật là Chúa Kitô, Con Thiên Chúa giáng thế làm người và đã hy sinh thân mình để cứu độ chúng sinh. Chúa Kitô là sự thật tuyệt đối. Sự thật của Chúa sẽ giải thoát chúng ta khỏi mọi điều bất chính. Sự thật thì đơn sơ, trong sáng và thanh khiết. Chúa Thánh Thần chính là Thân Chân Lý. Muốn học biết sự thật, chúng ta phải biết hướng thiện và tìm về nguồn cội rễ của sự hiện hữu. Thiên Chúa Cha đã mạc khải sự thật qua chính Con Một của Người. Chúng ta chỉ có thể đến với Chúa Cha qua Đức Kitô.

Ngay sau khi Chúa Giêsu về trời, các tông đồ đã ra đi làm nhân chứng. Công việc chính yếu của các ngài là: Còn chúng tôi, thì sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời Thiên Chúa (Tđcv 6, 4). Sứ vụ của các tông đồ là cầu nguyện và rao giảng. Các tông đồ đã nhiệt tâm và hăng say rao giảng tin mừng Chúa Kitô phục sinh và đón nhận các tín hữu. Đặt nền tảng và xây dựng Giáo Hội sơ khai. Tuy phải đối diện với nhiều khó khăn cả về mặt tôn giáo và xã hội, các ngài đã can đảm vượt qua mọi gian khổ để mở mang Nước Chúa: Lời Chúa lan tràn và số môn đồ ở Giêrusalem gia tăng rất nhiều. Cũng có đám đông tư tế vâng phục đức tin (Tđcv 6, 7). Giáo hội mở rộng cửa và có rất nhiều người đã ăn năn sám hối trở về gia nhập đạo thánh. Hình thành tổ chức của Đạo Công Giáo thời sơ khai là do chính các người Do-thái. Họ đã giơ tay xin đóng đinh Chúa Giêsu vào thánh giá, nay trở thành môn đệ của Chúa. Một số các vị tư tế xin giết Chúa, nay cũng tin nhận Chúa Kitô phục sinh và ăn năn sám hối đổi đời.

Niềm tin vào Chúa Kitô là căn cốt của ơn cứu rỗi: Vậy vinh dự cho anh em là những kẻ tin; nhưng đối với những người không tin, thì tảng đá mà thợ xây loại bỏ, đã trở thành đá góc tường (1Petr 2, 7). Chúa Kitô trở thành tảng đá góc của niềm tin. Chúa Kitô là tất cả, là đầu hết và là cùng đích. Mọi sự đều qui phục dưới chân Người. Các tông đồ đã nhờ Danh của Đức Kitô làm mọi sự lạ lùng: Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha (Ga 14, 12). Chúa Giêsu trao ban trực tiếp cho các tông đồ quyền giảng dậy, làm các phép lạ và xua trừ ma quỉ. Biết rằng, không thể cáng đáng mọi công việc, các tông đồ đã tuyển chọn và đặt tay cầu nguyện trên những người cộng tác tiếp tục sứ mệnh. Ân sủng của Chúa Kitô là kho tàng chung của Giáo Hội được kế thừa qua mọi thời.

Thánh Phêrô tràn đầy sinh lực của Chúa Thánh Thần đã mạnh dạn công bố tin mừng và xác tín điều giảng dậy: Còn anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để rao giảng quyền năng của Đấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người (1Petr 2, 9). Chính nhờ Chúa Kitô, cùng với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô, các tín hữu trở thành dân riêng được tuyển chọn. Qua Bí tích Thanh Tẩy, mỗi người được trở nên tạo vật mới, được tháp nhập vào nhiệm thể Chúa Kitô và được chung phần gia nghiệp mà Chúa đã dọn sẵn cho. Chúa Kitô là trưởng tử đã sống lại từ cõi chết và đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Ngài đã chuẩn bị sẵn chỗ cho chúng ta trong Nhà Cha của Ngài.

Lạy Chúa, hôm nay là ngày Chúa đã dựng nên, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan. Chúng ta hãy sống niềm vui phục sinh ngay khi còn đang lữ hành dưới thế. Xin cho chúng con luôn biết dõi theo con đường chính thật để đạt tới sự sống đời đời.

CON ĐƯỜNG ĐI TỚI CHÚA
Ga 14, 1 - 12
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Trước khi Chúa Giêsu chịu khổ hình, chịu chết và sống lại, Ngài đã bộc bạch tâm sự của Ngài cho các môn đệ. Bài Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay nằm trong văn mạch của các bài diễn từ dài của Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly hay sau bữa ăn.Chúa Giêsu loan báo Giuđa bán Chúa, phản bội, Phêrô chối Thầy và sự ra đi của Ngài...Các môn đệ đâm ra hoang mang, nao núng và mệt mỏi, khiến Chúa phải trấn an các môn đệ, các tông đồ để các Ngài lấy lại bình tĩnh mà đón nhận những việc sắp xảy đến.

Tin Mừng Chúa Nhật V Phục Sinh, năm A mở đầu bằng lời trấn an của Chúa " Lòng các con đừng xao xuyến ". Đừng xao xuyến để bình tĩnh, hiểu được những biến cố, những sự việc sẽ diễn ra trong những ngày sắp tới.Ở đây, Chúa an ủi, động viên các môn đệ rằng Ngài đi trước dọn chỗ cho các ông, để Chúa ở đâu các môn đệ cũng ở đó với Thầy. Đây là lời trấn an thật giá trị, quí báu bởi vì Thầy ở đâu trò cũng ở đó, thật là thượng sách !Nhà Cha là nơi Chúa Giêsu sẽ về và các môn đệ cũng sẽ được về, và ở với Chúa trong Nước Thiên Chúa Cha. Các môn đệ ở lại trần gian trong cuộc hành trình đức tin, chỉ cần các Ngài đi đúng con đường của Thầy, nhuần nhuyễn, tin mạnh mẽ vào lời của Chúa Giêsu và sống điều Chúa Giêsu đã sống. Các môn đệ thực hiện được những điều đó, các Ngài mới đến được với Chúa Cha, có nghĩa là mới vào được Nước Thiên Chúa.

Thực tế, những lời của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng này là những lời an ủi, trấn an, khích lệ các tông đồ và đặc biệt cũng là lời mạc khải thêm, đặc biệt cho tông đồ Tôma. Bởi vì Tôma chưa hiểu gì về điều Chúa Giêsu nói! Con đường mà Chúa Giêsu nói là đường nào ? " Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường ? ". Dù rằng Chúa đã xác định, quả quyết :" Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy ". Tôma và các môn đệ vẫn còn lơ mơ, ấm ớ về lời mạc khải của Chúa Giêsu. Tại sao Chúa lại là đường. Đường đó là đường nào ? Chúa Giêsu còn quả quyết :" Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người ". Đây là lời mạc khải cao sâu và đầy tình thương của Chúa Giêsu đối với các môn đệ và đối với nhân loại, đối với chúng ta. Tôma và các môn đệ chưa hiểu về cách nói bóng nói gió của Chúa Giêsu về nơi ở, về đường đi. Đường các môn đệ và chúng ta đi là con đường Giêsu. Nơi Chúa dọn trước là Nhà Cha trên trời.

Trên thế giới, trên quê hương, trong thôn làng đều có những con đường. Nhưng câu nói làm chúng ta thật tâm đắc của bà cụ già trong phim "Sám Hối "..."Nếu đường này không dẫn tới Nhà thờ thì quả thực là vô ích ". Đường dẫn tới Nhà thờ là đường dẫn tới Chúa, dẫn tới Quê trời ". Bất cứ một con đường nào không mở ra tình thương, không chấm dứt bằng một hạnh phúc thì con đường đó chưa phải là con đường Giêsu. Đường Giêsu là đường tình yêu, là đường thắp sáng niềm tin. Chỉ có con đường Giêsu mới đưa ta vào Nước Thiên Chúa.

Đức Cha Georges Pontier đã viết :" Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy"...Đức Giêsu tự giới thiệu mình là Người " đưa " đến với Chúa Cha, vì Người đã đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ.Cái chết và sống lại của Người là thời điểm lịch sử Người vĩnh viễn phá rào cho anh em nhân loại của Người có lối đi qua.Người đi đầu để mở đường, để "dọn một chỗ " cho họ trong nhà Cha. Nhà Cha đây không là gì khác ngoài trái tim Cha.Ở trong tim của ai còn quí hơn ở trong nhà người ấy." Thầy ở trong Chúa Cha, và Chúa Cha ở trong Thầy ". Đây chỉ nơi cư ngụ là trái tim, là sự hiện diện bên trong, là tình hiệp thông vĩnh hằng, tức là chính bản thể Thiên Chúa.

Người đưa đường đã trả chi phí : trả bằng sinh mạng của Người, trả bằng ơn tha thứ.Người đã đi đầu để vượt qua :" trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại","trưởng tử giữa một đàn em đông đúc ".Người chỉ xin chúng ta một điều là đừng đi lầm đường :" Thầy là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống ".

Bảy lần trong đoạn Tin Mừng ngắn của Chúa Nhật hôm nay, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ " tin " vào Người, tin Người là Đường đi đến với Chúa Cha. Chúng ta hãy dâng tặng Người lòng tin của chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, xin dẫn chúng con đi dưới sự soi sáng của Chúa và dưới tác động của Chúa Thánh Thần để chúng con không sợ bị lầm lạc mà luôn đi trên con đường của Chúa để sau khi đi hết cuộc hành trình đức tin ở trần thế này, chúng con được về với Chúa trong Nhà Cha trên Trời.Đó là cùng đích của mọi Kitô hữu. Amen.

CHÚA NHẬT THỨ NĂM MÙA PHỤC SINH
Ga 14, 1 - 12
John Nguyễn

1. "Thầy đi là để dọn chỗ cho anh em" ở "trong nhà Cha Thầy"
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su cho biết Ngài "đi là để dọn chỗ cho anh em" ở "trong nhà Cha Thầy". Đây là một trong những lời cáo biệt của Ngài với các môn đệ trước khi Ngài bước vào cuộc khổ nạn và chết trên thật giá. Vì thế, chữ "đi" ở đây có nghĩa là đi vào đau khổ và cái chết. "Dọn chỗ cho anh em ... trong nhà Cha Thầy" có nghĩa là chuẩn bị sự sống đời đời cho con người. Như vậy, Đức Giê-su đã dùng sự đau khổ và sự chết để chuẩn bị sự sống đời đời cho con người. Nói cách khác, nhờ đau khổ và cái chết, Ngài trở thành con đường dẫn tới sự sống đời đời.

Ngài đã phải đau khổ và chết mới có thể đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Phần chúng ta, để hưởng được sự sống đời đời ấy, chúng ta cũng phải góp một phần nào hy sinh và đau khổ của mình vào khi quyết tâm sống phù hợp với sự đòi hỏi của tình yêu. Tình yêu ở đây là tình yêu đối với Thiên Chúa được cụ thể hóa thành tình yêu đối với tha nhân. Tình yêu luôn đòi hỏi phải được chứng tỏ cụ thể bằng đau khổ và hy sinh. Không chấp nhận đau khổ và hy sinh cho ai hết có nghĩa là không yêu ai cả. Nhưng yêu cũng là ... chấp nhận sự khác biệt của người mình yêu.

2. "Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở"

Đức Giê-su phải chịu đau khổ và chết không phải chỉ để cứu rỡi hay đem lại sự sống đời đời cho một mình ta, hay nhóm của ta, cộng đoàn của ta, Giáo Hội của ta, hoặc những người có cùng khuynh hướng với ta. Ngài muốn cứu tất cả mọi người, mọi khuynh hướng, mọi cộng đoàn, mọi tập thể... khác nhau. Thánh Phao-lô viết: "Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý" (1Tm 2,4). Điều đó đã được Đức Giê-su tỏ cho biết trong câu: "Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở". "Nhiều chỗ ở" có nghĩa là dung nạp được nhiều: nhiều người, nhiều chủng tộc, màu da, khuynh hướng (chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tâm linh, tôn giáo...).

Nhìn trong thế giới tự nhiên này, ta thấy sự vật hết sức đa dạng, nghĩa là đủ loài đủ kiểu, rất khác biệt nhau. Thế giới sẽ trở nên đơn điệu và buồn tẻ biết bao nếu thiếu sự đa dạng và khác biệt ấy. Hãy thử tưởng tượng xem: nếu trên đời chỉ có một loài hoa duy nhất cho dù hết sức đẹp, hoa nào cũng giống y hệt hoa nào, thì chúng đâu thỏa mãn nhu cầu thích cái đẹp của con người như khi có hàng trăm ngàn loài hoa khác nhau như trong thế giới ta đang sống đây! Thế giới này sẽ ra sao nếu chỉ có một loài chim, một loại cá, hay tệ hơn, chỉ có một loài thú duy nhất?

Thế giới tuy đa dạng và đầy khác biệt, các loài các vật trong đó vẫn luôn luôn hài hòa, bổ túc cho nhau, ăn khớp với nhau. Nếu thế giới tự nhiên đầy bất toàn này mà còn phong phú đa dạng như thế, còn có sự hài hòa giữa những khác biệt như thế, thì sự sống đời đời hay thiên đàng, là một thực tại hoàn hảo, ắt nhiên phải phong phú, đa dạng và nhất là hài hòa hơn biết bao!

Vì thế, ngay ở đời này, chúng ta cũng cần trang bị cho mình một tinh thần sẵn sàng chấp nhận mọi khác biệt nơi những người chung quanh chúng ta. Chính Thiên Chúa đã dựng nên con người và vạn vật đầy khác biệt như thế. Vì thế, mọi thành viên của Thiên Đàng đều phải có khả năng chấp nhận khác biệt rất cao độ để sự hài hòa giữa những khác biệt ấy trở nên hoàn hảo. Điều ấy đòi hỏi họ phải có tình yêu và lòng bao dung cao độ. Nếu không có tình yêu và lòng bao dung, thiên đàng không còn là thiên đàng nữa, sự sống đời đời không còn là hạnh phúc nữa.

Nếu ta đang giận hờn ai, không muốn nhìn mặt ai, ghét cay ghét đắng ai, và chủ trương không thể sống chung với họ, không thể cùng đội chung một bầu trời với họ, v.v..., hãy tự hỏi: nếu cả hai gặp nhau trên thiên đàng, ta sẽ đối xử với người ấy thế nào? Người ấy cũng được Thiên Chúa và Đức Giê-su yêu thương, cứu chuộc, tha thứ như ta. Nếu lúc ấy ta không thể nhìn người ấy với tình yêu thương anh em, thì chính ta là người không xứng đáng ở thiên đàng. Với sự thù hận và ác cảm ấy, ta chỉ làm cho thiên đàng bị ô nhiễm và không còn là nơi hạnh phúc nữa. Ta đáng ở một nơi khác không phải là thiên đàng. Vì thiên đàng chỉ thích hợp với những con người tràn đầy yêu thương. Vậy, muốn là công dân của thiên đàng, thì ngay ở trần gian này, hãy tập yêu thương và sống hài hòa với những người khác biệt chúng ta. Muốn thế, ta phải nhìn thấy Thiên Chúa nơi tha nhân.

3. "Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha"

Câu nói ấy của Đức Giê-su chắc hẳn đã làm cho các tông đồ hết sức ngạc nhiên. Thấy Đức Giê-su cũng chính là thấy Chúa Cha, vì Đức Giê-su chính là hiện thân, là hình ảnh trung thực của Chúa Cha. Người ta có thể thấy được tình yêu của Chúa Cha qua tình yêu của Đức Giê-su, thấy được vẻ đáng yêu của Chúa Cha qua sự đáng yêu của Đức Giê-su, v.v... Và một cách nào đó, Đức Giê-su cũng chính là Chúa Cha, vì cả hai cùng là một Thiên Chúa duy nhất. Các tông đồ có diễm phúc nhìn thấy Đức Giê-su, sống với Ngài, cảm nghiệm Ngài, nên cũng là nhìn thấy, sống với và cảm nghiệm chính Thiên Chúa Cha.

Còn chúng ta, chúng ta không có diễm phúc ấy. Tuy nhiên, nếu chúng ta có tình yêu và đức tin, chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa hay Đức Giê-su nơi bất cứ người nào ta gặp trong cuộc đời. Cho dù người ấy là ai, thương ta hay ghét ta, làm lợi cho ta hay hại ta, thánh thiện hay tội lỗi, dễ thương hay dễ ghét, miễn họ là con người, thì họ đều là hình ảnh của Thiên Chúa với nhiều mức độ trung thực khác nhau. Đức Giê-su muốn ta yêu thương họ, bất kể họ thế nào, bất kể họ khác biệt ta đến mức độ nào, vì chính Ngài cũng yêu thương họ, muốn cứu chuộc họ, phục vụ họ. Ngài đã tự đồng hóa Ngài với họ đến nỗi ai làm gì cho họ thì cũng là làm cho chính Ngài, không làm cho họ thì cũng là không làm cho chính Ngài (x. Mt 10.40; 18,5; 25,40.45; Lc 10,16). Ngài cũng rất ước muốn được yêu thương họ bằng trái tim ta, nói với họ, an ủi họ bằng miệng lưỡi ta, và làm việc cho họ, phục vụ họ bằng đôi tay của ta. Ngài chỉ thực hiện được ước muốn đó nếu ta cho phép và hợp tác với Ngài. Vậy bạn có muốn Ngài dùng bạn như một khí cụ để yêu thương của Ngài không?

CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, nhà Cha có rất nhiều chỗ có thể dung nạp được rất nhiều người với rất nhiều khuynh hướng khác biệt. Xin Cha cho tâm hồn con, lòng trí con cũng có nhiều chỗ để có thể dung nạp được tất cả mọi người là anh chị em con, với nhiều khuynh hướng, tính khí, chủ trương khác nhau. Xin cho con biết chấp nhận mọi người như họ đang là, để yêu thương họ bất chấp họ như thế nào. Xin cho con yêu thương họ giống như Cha đã yêu thương họ và đã yêu thương con. Amen.

CHÚA LÀ ĐƯỜNG LÀ SỰ THẬT VÀ LÀ SỰ SỐNG
Ga 14, 1 - 12
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Trước khi rời các môn đệ để về với Chúa Cha sau khi Chúa Giêsu Kitô từ trong kẻ chết Sống lại. Ngài đã dặn dò, đã giới thiệu với các môn đệ và cho toàn thể nhân loại Ngài là Cửa chuồng chiên, ai không qua Ngài sẽ không vào được nước trời, sẽ không đạt được Thiên Chúa. Ngài chính là hình ảnh của Chúa Cha nhân hậu, Ngài thật là Mục tử tốt lành. Hôm nay, Chúa Giêsu loan báo Ngài sẽ về với Cha của Ngài và Ngài chính thức giới thiệu Chúa Cha cho các môn đệ và mọi người.

I. CHÚA GIÊSU LOAN BÁO VIỆC RA ĐI CỦA NGÀI :
Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu nhiều lần đã hiện ra với các môn đệ, Ngài đã chứng tỏ cho các ông thấy Ngài đã sống lại từ cõi chết, Ngài đã cho các ông thấy các lỗ đinh ở hai bàn tay, hai bàn chân và cạnh sườn Ngài bị đâm thâu qua. Ngài đã ban bình an, đã an ủi các ông và điều chứng minh hùng hồn nhất Ngài cùng ăn, cùng bàn với các môn đệ. Qua những cử chỉ quen thuộc, qua cung cách trước khi còn sống ở trần gian, các môn đệ đã nhận ra Thầy của mình. Chúa Giêsu vẫn tiếp tục dậy dỗ các môn đệ (Cv1,3 ) và động viên các môn đệ giữ vững niềm tin. Giờ phút này, Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Ngài những điều thật tâm huyết vì rằng trong bữa tiệc ly trước khi Ngài chịu chết, Ngài đã biết rõ Giuđa sẽ phản nộp Ngài ( Ga 18, 2-3 ), về việc Ngài sẽ ra đi dứt khoát ( Ga 13, 33 ) và về việc Phêrô chối Ngài ba lần ( Ga 13, 38 ). Chúa Giêsu nhìn trước sự việc Ngài sẽ không còn hiện diện cách bằng xương bằng thịt với các môn đệ nữa, nên Ngài đã trấn an các môn đệ vì khi trở về với Chúa Cha, các môn đệ đang hoang mang xao xuyến đứng trước viễn cảnh mồ côi, cô đơn, lẻ loi giữa một thế giới đầy thù nghịch...Chúa nói : "Lòng các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và Tin vào Thầy " ( Ga 14, 1 ). Chúa Giêsu chỉ cho các môn đệ hiểu rõ rằng Ngài ra đi về

với Chúa Cha sẽ giúp các môn đệ có sự khăng khít với Ngài và với Cha của Ngài vì chính Ngài là Đường, là sự Thật và là sự Sống ( Ga 14, 6 ). Chúa Giêsu ra đi quả thực có ích cho các môn đệ của Ngài, bởi vì Ngài có trở về với Chúa Cha, Ngài dọn chỗ cho các môn đệ để :" Thầy ở đâu, các môn đệ cũng ở đó " ( Ga 14, 3 ). Chúa Giêsu nhấn mạnh với các môn đệ :" Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi " ( Ga 14, 4 ). Tôma băn khoăn tự hỏi và thưa với Đức Giêsu : " Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường " ( Ga 14, 5 ). Chúa Giêsu trả lời :" Chính Thầy là Con đường, là sự Thật và là sự Sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy " ( Ga 14, 6 ). Chúa Giêsu là Đường, là sự Thật và là sự Sống vì Ngài là hiện thân của Chúa Cha. Ngài được sai tới trần gian để giới thiệu cho nhân loại biết về Chúa Cha

và qua Ngài, nhân loại đạt được hạnh phúc vĩnh cửu, được thông dự vào sự sống trường sinh của Ngài. Chúa hứa với các môn đệ : " Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi,Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho tới tận thế " ( Ga 14, 18 ). Chúa bảo đảm với các môn đệ:" Thầy sẽ xin Cha và Người sẽ ban cho các con một Đấng phù trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi " ( Ga 14, 16 ).

II. CHÚA GIÊSU CHỈ CHO MÔN ĐỆ VÀ MỌI NGƯỜI BIẾT CHÚA CHA:
Trong đời sống phục vụ, rao giảng Tin Mừng cứu độ, Chúa Giêsu đã nhiều lần nói đến Chúa Cha: "...Con không thể tự mình làm điều gì, nhưng mọi sự đều vì đã trông thấy Cha làm " ( Ga 5, 19 ). Nơi khác, Chúa Giêsu nói :" Ta và Cha Ta là một " ( Ga 10,30 ) Còn hôm nay, tông đồ Philip khi nghe Chúa nói về Cha, đã nhanh nhảu lên tiếng:"Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện"(Ga 14,8 ) Đức Giêsu trả lời: " Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha " ( Ga 14, 9 ). Điều này gợi cho chúng ta thấy tại sao Môsê không dám nhìn Chúa trong bụi gai cháy đỏ. " Không ai có

thể thấy Thiên Chúa mà còn sống được
". Thực tế, con người chỉ có thể diện đối diện với Thiên Chúa qua cuộc sống đời sau nghĩa là chỉ qua sự chết, bên kia cuộc sống này, con người mới thấy tỏ tường vinh quang và nhan thánh Chúa. Quả thực, đã lỗi thời rồi khi người ta diễn tả một Thiên Chúa hay ghen, hung dữ, hay giáng phạt hơn là chạnh lòng thương xót. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu giới thiệu là một Thiên Chúa nhân từ, hiền lành, khiêm nhượng. Đức Giêsu là hình ảnh sống động, hoàn hảo nhất của Chúa Cha vì Ngài kết hợp mật thiết, thâm sâu với Chúa Cha, nên cuộc sống, công việc, cử chỉ, hành vi, thái độ, lời nói của Chúa Giêsu là hình ảnh toàn vẹn nhất của Chúa Cha. " Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy " ( Ga 14, 11 ). "...Đấng Ta sẽ gởi đến từ nơi Cha, là Thần Khí sự thật, từ nơi Cha xuất phát ra, Ngài sẽ làm chứng về Ta, " ( Ga 15, 26 ).

III. CHÚA GIÊSU TIẾP TỤC CÔNG VIỆC CỦA NGÀI NƠI TRẦN GIAN QUA CÁC MÔN ĐỆ :
Khi mạc khải Chúa Cha cho các môn đệ, khi chỉ cho các ông thấy Chúa Cha, các môn đệ qua sự soi sáng của Chúa Thánh Thần đã hiểu thế nào là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần :" Các con hãy đi giảng dậy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần " ( Mt 28, 19 ). Lệnh của Chúa phục sinh đã chỉ ra rằng :" Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là một ". Chúa phục sinh đã vén mở cho các môn đệ về cuộc hành trình, cuộc sống mới của các ông sẽ ra thế nào, sẽ ra làm sao khi Chúa về với Cha Ngài. Chúa Giêsu sống lại nói :" Thật Thầy bảo thật anh em, Ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha " ( Ga 14, 12 ). Chúa Giêsu về trời, về với Cha của Ngài, nhưng các môn đệ vẫn tiếp tục sứ mạng cứu thế của Ngài nơi trần gian này, như thế, các Ngài tiếp tục làm công việc của Chúa đã làm vì Chúa Phục sinh không ngần ngại đồng hóa cuộc sống của mình với cuộc sống của các môn đệ đang còn tiếp tục việc cứu thế của Chúa nơi thế gian này. Cuộc sống mà Chúa phục sinh đã kinh qua cũng là lời mời gọi mọi người Kitô hữu hãy đi vào để Chúa Cha được tôn vinh nơi Chúa Con ( Ga 14, 13 ).

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mọi người chúng con luôn xác tín rằng :" Chúa là Đường, là Sự Thật và là sự Sống " ( Ga 14, 6 ). Xin Chúa ban cho nhân loại này biết nhận ra Chúa là khuôn mẫu lý tưởng của đời sống Mọi người. Xin cho chúng con cảm nghiệm và nhận ra ý Chúa:" Ta và Cha Ta là một ".

ĐƯỜNG VỀ NHÀ CHA
Ga 14, 1 - 12
Sr Victoria L.
Bối cảnh của bài Phúc Âm hôm nay là phần cuối của bữa Tiệc Ly giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. Không cần phải nói có lẽ ai trong chúng ta cũng hình dung được bầu khí ảm đạm của bữa tiệc, vì "Biệt ly nào cũng đong đầy nước mắt." Nhìn thấy nét buồn sầu và lo âu của các môn đệ, Chúa Giêsu hết lời an ủi và khuyến khích các ông phải coi sự ly biệt hôm nay là niềm vui mới phải, vì Ngài ra đi là để dọn chỗ cho các ông trong nhà của Cha Ngài chứ không phải bỏ rơi các ông. Vì thế "lòng các con đừng xao xuyến, một hãy tin tưởng vào Thiên Chúa và vào Thầy." (Gn 14,1)

Cuộc đời mỗi người chúng ta là một cuộc hành trình về nhà Cha trên trời. Đây là cuộc hành trình đầy chông gai nguy hiểm, nhiều hy sinh vất vả và lắm thương đau. Vì thế, đường về nhà Cha trên trời là quãng đường chật hẹp, gồ ghề, và đòi hỏi nhiều cố gắng, kiên tâm. Tuy nhiên, ngoài con đường này ra thì không còn lối nào dẫn về nhà Cha trên trời nữa. Chính Chúa Giêsu cũng phải đi qua con đường này để về nhà Cha. Vậy để tránh đi lầm đường lạc lối, chúng ta chỉ việc men theo những dấu chân Chúa Giêsu để lại, những vết máu và mồ hôi Ngài đổ ra khi Ngài đi qua. Sở dĩ bước theo Ngài chúng ta không sợ lạc lối là vì chính Ngài "là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống." Vì thế, giữa những thăng trầm của cuộc sống chúng ta đừng ngại đặt hết niềm tin vào Ngài là vị chỉ đạo duy nhất có thể giúp chúng ta nhắm đứng hướng đi. Tuy nhiên, khi phải đối diện với thực tế của cuộc sống, con mắt đức tin của chúng ta thường bị che mờ bởi những đau khổ, trái ý, lo âu khiến chúng ta không nhận ra được Chúa Giêsu đang đứng bên ngã ba đường đời để giúp chúng ta định hướng. Do đó, khi nghe Chúa Giêsu nói "Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi," ông Tôma liền hỏi lại, "Chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao mà biết đường đi?"

Sống giữa cuộc sống xô bồ nhộn nhịp của xã hội ngày nay, thật khó mà nhận ra được tiếng Chúa kêu mời, vì tiếng Ngài không ồn ào như tiếng động cơ, không ngân nga như tiếng nhạc, không dặp dìu như lời thơ, nhưng chỉ thì thào như gió thoảng. Cho nên nếu muốn bắt được làn sóng của tiếng Chúa, chúng ta phải tự tạo cho mình một căn phòng đặc biệt trong tâm hồn nơi mà trí óc có thể trốn xa những lo toan của cuộc sống và con tim có thể tìm được những phút giây yên nghỉ yên bên Chúa. Trong căn phòng này, chúng ta sẽ cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống cách dễ dàng hơn để rồi sự cảm nghiệm nầy sẽ lan rộng ra mãi cho đến khi bao trùm cả không gian và thời gian của chúng ta mới thôi. Và chỉ khi nào chúng ta tập được tập quán này qua việc cầu nguyện, chúng ta mới có đủ nghị lực để nhìn quá khứ với con mắt thông cảm hiểu biết, nhìn hiện tại với tràn ngập phấn khởi, và nhìn tương lai với muôn vàn tin tưởng cậy trông. Lúc bấy giờ, chúng ta sẽ cảm nghiệm được niềm vui và bình an mà Chúa muốn chúng ta đạt được khi Ngài nói: "Lòng các con đừng xao xuyến." Như mặt hồ không thể phản chiếu được sự tròn đầy của trăng rằm cho đến khi nó hoàn toàn phẳng lặng, không ai trong chúng ta có đủ khả năng để đương đầu với những xáo trộn của cuộc sống một cách bình tĩnh nếu tâm hồn không lướt thắng được những xao xuyến lo âu. Ngài không gạt chúng ta đâu khi nói rằng "Thầy đi để dọn chỗ cho các con" (Gn 14,2). Và thật sự là như vậy, nếu không hai ông Phêrô và Gioan đã không nhìn thấy ngôi mộ trống trong ngày Chúa Nhật Phục Sinh. Điều nầy có nghĩa là Ngài đã ra đi thật để dọn chỗ cho chúng ta. Và điều yêu ủi chúng ta nhất là điều kiện để được ở với Ngài trong nhà Cha trên trời: "Lòng các con đừng xao xuyến, một hãy tin tưởng vào Thiên Chúa và vào Thầy."

HÃY TIN VÀO THIÊN CHÚA VÀ TIN VÀO THẦY
Ga 14, 1 - 12
Lm Trần Nguyên

Nhân đọc chứng từ của cụ Đỗ Duy Huỳnh về những ngày tù gian khổ của cụ và Đức H.Y. P.X. Nguyễn Văn Thuận ở trại giam Vĩnh Quang, tôi thấy càng thêm lòng kính trọng một nhân chứng của niềm hy vọng. Thiết nghĩ đây cũng là lẽ sống và gương sống sáng chói nhất của Đức H. Y.

Nuôi được niềm hy vọng trong cuộc sống lao tù giữa hoàn cảnh cực kỳ khó khăn. Trở thành nguồn hy vọng và nâng đỡ tinh thần cho người khác trong lúc chính tương lai của mình cũng bị bao phủ bằng một màn đen dầy đặc. Thiết nghĩ nếp sống và những hành động đó xuất phát từ sức mạnh tinh thần của một bậc vĩ nhân.

Gương sáng của chứng nhân niềm hy vọng này giúp tôi hiểu rõ hơn đoạn Tin mừng dành cho Chúa nhật hôm nay. Chúng ta đã mừng đại lễ Phục sinh được 5 tuần, nhưng bài Tin mừng dẫn chúng ta ngược dòng thời gian trở về khung cảnh buổi Tiệc ly để nghe những lời trăng trối của Đức Giêsu:

Đây là một trong những lời trấn an và nâng đỡ tinh thần mạnh mẽ nhất trong toàn bộ Phúc âm. Nhưng chúng ta không khỏi tự hỏi: Nghe những lời này trong hoàn cảnh chúng ta đang sống hiện nay, đó có phải là những lời trấn an quá ư là không thực tế.

Sao Đức Giêsu lại có thể bảo lòng chúng ta đừng xao xuyến:

Trong khi sau biến cố 11.9, nạn khủng bố quốc tế vẫn còn là mối đe dọa có thể dẫn đến tiến trình tiêu diệt cả một nền văn minh toàn cầu.

Trong khi đất nước Việt Nam đang điêu linh, mất đất, mất hải phận, đa số đồng bào đang phải vật lộn với cuộc sống hằng ngày, đang phải chạy ăn từng bữa, các nạn bão lụt tới tấp, các quyền lợi căn bản của con ngườI đang bị chà đạp.

Trong cuộc sống cá nhân và gia đình, vớI bao khó khăn về công ăn việc làm, các vấn đề hôn nhân, giáo dục con cái, khác biệt thế hệ v.v.. và v.v...

Nhiều lúc chúng ta không khỏi nghi nan tự hỏi: Không biết Đức Giêsu có hiện diện và đồng hành với chúng ta trong cuộc sống thường nhật không? "Lòng các con đừng xao xuyến". Những lời này đôi khi xem ra có vẽ vô tình và hờ hững trước những gánh nặng đang đè nặng trên đôi vai chúng ta.

Đoạn Tin mừng hôm nay một lần nữa khẳng định với chúng ta là: Đức Giêsu biết và hiểu rất rõ các vấn đề chúng ta đang phải chạm trán, vì khi nói lên những lờI trấn an trên, chính ngài cũng đang kinh nghiệm những vầy vò của nhiều vấn đề của cuộc sống

Nhóm Biệt phái và Luật sĩ đang rình mò tìm cơ hội để thanh toán Ngài. Các môn đệ không hiểu sứ mệnh và các giáo huấn của Ngài. Giuđa đang tìm dịp bán nộp Ngài. Phêrô sẽ chối từ Ngài, và cuộc thương khó đẫm máu sẽ dẫn Ngài đến cái chết đau đớn và ngục ngã trên Thập tự.

Vâng, trong chính bối cảnh tang thương đó, Đức Giêsu đã quên những vấn đế và đau khổ của chính mình để nói lên những lời ủi an các môn đệ. Ngài dư biết là khi Ngài chết đi, họ sẽ có thể rơi xuống vực sâu của tuyệt vọng.

Trong tuần tới, chúng ta hãy lấy đôi phút mỗi ngày để đọc và thấm nhuần những lý do khiến chúng ta có thể vững tâm trong những nổi khó khăn của cuộc sống, vì thật sự:

Đức Giêsu là Đàng, là Sự Thật và là Sự Sống. Ai thấy Thầy là xem thấy Cha.

NẺO ĐƯỜNG ĐÍCH THẬT
Ga 14, 1 - 12
Lm Bùi Quang Tuấn, CSsR

"Đường, Sự Thật, và Sự Sống chính là Ta. Không ai đến được với Cha mà không nhờ Ta" (Gn 14,6).
Bước vào trần gian để được sống kiếp con người, không ai lại không khát khao và tìm kiếm hạnh phúc. Không một lãnh tụ của đất nước nào lại không đoan quyết với nhân dân những đường lối hấp dẫn, có thể đưa họ đên với chân trời hạnh phúc. Không một chính khách hay nhà đầu tư nào lại không hứa hẹn những tương lai rực sáng cho niềm khát mong nền tảng của con người là hạnh phúc. Thế nhưng trả lời cho thật đúng câu hỏi "hạnh phúc là gì" và "đi tìm hạnh phúc nơi đâu" lại không phải là một chuyện dễ dàng?

Đối với quan niệm của nhiều người, hạnh phúc là khi có việc làm ngon lành vững chắc, hạnh phúc là có vợ đẹp con khôn, hạnh phúc là tiền bạc đầy túi, hay danh vọng quyền lực đầy mình, ăn chơi giải thoải mái. Thế rồi điều người ta có hứa hẹn hay kiếm tìm không gì khác hơn là làm sao cho đời mình có nhiều danh vọng, quyền lực, tiền bạn, của cải, sắc đẹp... Cứ càng nhiều càng tốt. Càng nhiều càng thấy "hạnh phúc."

Từ quan điểm đó, con ngưòi cũng sẽ dễ đi đến kết luận: ai bị nghèo túng, đau buồn, đói khổ, yếu đuối, chèn ép là bất hạnh, vô phúc.

Ấy thế mà trong Hiến Chương Nước Trời, bài giảng đầu tiên của cuộc sống công khai, Đức Giêsu lại công bố một sứ điệp hoàn toàn mới và đầy vẻ nghịch lý: phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó; phúc cho những ai đau buồn; phúc cho những ai đói khát; phúc cho những ai sống trong sạch; phúc cho những ai bị bách hại, đánh đập, khủng bố vì sự công chính.

Số báo Time đầu năm 2002 có nói đến Cliff Baxter, một nhân vật cao cấp trong tổ hợp kinh tài năng lượng Enron, người đang có trong nhà bang hàng triệu đôla, đang có vợ đẹp con khôn, đang có căn nhà đáng 700 ngàn, thế mà tuần trước Baxter đã lái chiếc xe Mercedes mới mua 80 ngàn đôla của mình đến một con đường nhỏ, rút súng bắn vào đầu một phát để kết thúc cuộc sống mà có lẽ anh cho là không hạnh phúc bằng cái chết.

Cứ tưởng vừa giàu có sang trọng vừa được nhiều người mến mộ thì hạnh phúc lắm. Thành ra quan niệm về hạnh phúc của con người không có gì là bảo đảm chắc chắn hết.

Vậy cái gì có thể bảo đảm mang hạnh phúc cho tôi đây? Nghèo khổ, đói khát, thương đau à?

Xin thưa: Cội nguồn mang lại hạnh phúc đích thực và vững chắc cho con người chính là Thiên Chúa, và là Thiên Chúa hiện thân trong Đức Kitô. Cối lõi của hạnh phúc không phải là cái nghèo, đói khát, khổ đau, nhưng là Nước Trời, là Thiên Chúa. Kinh thánh nói rõ lắm: Phúc cho người có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ; phúc cho ai hiền lành vì họ sẽ được Nước Chúa làm cơ nghiệp ; phúc cho ai trong sạch vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa; phúc cho ai ăn ở thuận hoà vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa...

Phải là như thế, chứ nghèo khổ hay đói khát mấy mà không có Chúa, không có Nước Trời thì đó là hỏa ngục chứ phúc gì! Cho nên cần phải hiểu cho đúng giá trị của nẻo đường dẫn đến Thiên Chúa. Người nghèo khổ, đói khát, ưu phiền, trong sạch, chịu bắt bớ được gọi là có phúc vài họ rất gần Chúa, rất dễ gặp được Chúa, bởi vì Chúa đã đến trong thân phận giống như họ.

Chúa Giêsu đã đến trong thân phận của một người nghèo, và rất nghèo. Sinh ra trong chuồng súc vật, sống không có nơi gối đầu, chết trần truồng trên thập giá.

Chúa Giêsu không những nghèo mà Ngài còn hiền lành, khiêm nhường. Hiền lành, khiêm nhường đến nỗi không có hạng người thấp kém hay tội lỗi đến đâu mà Ngài không tiếp nhận, ủi an, và thương xót.

Chúa Giêsu còn là một con chiên tinh tuyền, trong sạch, chịu hành hạ, bắt bớ, và chịu chết để mang lại niềm hy vọng hân hoan và sự sống phong phú, sâu xa, trường tồn cho con người.

Có điều là lắm khi con người chỉ đi tìm những sự sống nông cạn và nhất thời của thế gian mà quên đi những giá trị thiêng liêng và vĩnh hằng của Nước Trời mà Đức Giêsu mang đến. Phải chăng chính vì thế mà lắm người đã không cảm nhận được niềm hạnh phúc đích thực trong cuộc đời. Có những người đã tìm được rất nhiều tiền, đạt được nhiều danh vọng, trải qua biết bao nhiêu lần hưởng thụ xác thịt, nhưng vẫn cảm thấy cuộc đời hụt hẫng, trống vắng vô cùng. Tại sao? Phải chăng vì họ chưa kiếm tìm Thiên Chúa? Phải chăng vì họ chưa biết tựa nương vào nền tảng vững chắc duy nhất là Đức Giêsu, "Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống?"

THẦY LÀ ĐƯỜNG, LÀ SỰ THẬT VÀ LÀ SỰ SỐNG
Ga 14, 1 - 12
Lm Trần Bình Trọng

Lời từ giã của Chúa trong bữa Tiệc ly với các tông đồ, để lại cho các tông đồ một nỗi đau buồn man mát, khiến các ông xuống tinh thần. Vì thế trong Phúc âm hôm nay Chúa dùng những lời lẽ khích lệ để an ủi các ông: Lòng các con đừng lo lắng bối rối. Hãy tin tưởng vào Thiên Chúa và hãy tín nhiệm nơi Thầy (Ga 14,1). Qua các tông đồ, Chúa cũng muốn ta đặt tin tưởng vào lời Chúa, phó thác vào chương trình quan phòng của Chúa. Tuy nhiên trong thực tế, ta lại tiếp tục đi theo đường lối riêng của mình. Quan sát bản thân, ta thấy tin tưởng là cái gì ta học được bằng kinh nghiệm. Ta không thể biết được rằng ta có thể tin tưởng vào người khác trong những vấn đề quan trọng, nếu ta không biết họ, và không tin họ trong những việc nhỏ. Tuy nhiên trong cái mối liên hệ với Chúa, ta chỉ tìm đến Chúa khi gặp vấn đề khó khăn, nan giải. Ta muốn tự giải quyết những vấn đề hàng ngày mà không cậy nhờ đến Chúa, không cầu xin Chúa Giúp. Ta chỉ kêu cầu đến Chúa, khi nào ta gặp thất bại, khi ta bị dồn vào thế bí, để xem ra may ra Chúa có giúp được gì không? Còn ngoài ra ta lãng quên Chúa. Ta đóng Chúa vào hộp.

Cũng như các tông đồ cảm thấy buồn khổ, xuống tinh thần, khi được biết Chúa sắp từ giã họ về Trời, có những khi ta cảm thấy như là Chúa đi sắng, hay còn hồ nghi sự hiện diện của Chúa. Có lẽ không ai đến nhà thờ hôm nay có được đời sống thanh thản không gặp khó khăn, trắc trở hay bệnh tật. Đời sống ta chồng chất những phiền muộn, lo âu, sợ hãi, chán nản. Đứng trước những vấn nạn và trắc trở của cuộc sống, ta tự hỏi tại sao Chúa để gian nguy, khốn khó xẩy đến cho bản thân và gia đình? Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ vào cuộc sống, ta sẽ thấy những cảnh gian nguy, khổ cực có thể là những thử thách mang lại ơn phúc lộc. Nhìn bằng con mắt đức tin, những khó khăn trắc trở của cuộc sống sẽ giúp ta xích lại gần Chúa trong lời cầu nguyện.

Từ giã các tông đồ về Trời, nhưng Chúa không bỏ họ, mà vẫn ở lại với các tông đồ bằng ơn thánh, bằng sức mạnh thiêng liêng. Chúa còn hứa: "Thầy sẽ trở lại đón các con về cùng Thầy, để cốt cho Thầy ở đâu, các con cũng được ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi" (Ga 14,3-4). Đến đây, thánh Tôma liền thắc mắc là Ông không biết đường. Chúa Giêsu đáp: "Thày là đường, là sự thật, và là sự sống" (Ga 14:6). Cái vấn nạn của Ông Tôma nói lên cái tính vô tư của các tông đồ. Họ đã theo Chúa ba năm, nghe lời Chúa giảng dạy, chứng kiến phép lạ Chúa làm mà họ vẫn chưa nhận thức được rằng, qua Chúa Giêsu là họ được đến với Chúa Cha. Còn thánh Philiphê thì cũng cá mè một lứa. Ông ta xin Chúa để cho Ông thấy Chúa Cha. Chúa Giêsu bảo Ông Philiphê là Ông ta đã thấy Thiên Chúa Cha bằng việc xem thấy Chúa Con rồi.

Chúa vẫn ở lại với ta, đồng hành với ta trên mọi nẻo đường của cuộc sống. Nếu ta đi lầm đường lạc lối, Chúa hứa chỉ đường cho ta trở về với Chúa qua Thánh Kinh, qua Giáo Hội. Thiên Chúa là đấng hướng dẫn đời sống con người vì Người nhấn mạnh Người là đường lối.

Suốt 40 năm trong sa mạc, Maisen đã tìm đường tới đất hứa, và Ông đã lạc lõng trong sa ở Sinai. Tuy nhiên bây giờ Chúa khẳng định chính Người là đường. Trải qua bao nhiêu thế kỷ, nhiều triết gia và học giả đã cố công đi tìm sự thật.

Nhưng bây giờ Chúa phán chính Người là sự thật. Không những Người giảng dạy sự thật bằng lời nói mà còn bằng gương sáng. Chúa Giêsu còn xác nhận Người là sự sống: sự sống vĩnh cửu được chuộc bằng giá tử nạn và phục sinh của Người. Để đáp lại những khát vọng và những lời cầu xin của loài người qua nhiều thế hệ, Chúa công bố Người là hiện thân của cả ba cùng đích: là đường, là sự thật, và là sự sống.

Trong thời Trung cổ, tác giả Gương Chúa Giêsu thêm những lời lẽ sau đây vào miệng Chúa: Ta là đường mà ngươi phải bước theo, là sự thật mà ngươi phải tin tưởng, là sự sống mà ngươi hằng hi vọng.

THẦY ĐI TRƯỚC DỌN CHỖ CHO CHÚNG CON
Ga 14, 1 - 12
Sr Angeline Thanh Nga
Mùa Xuân năm 1990, tôi được hân hạnh sống và làm việc với các chị em Dòng Mến Thánh Giá tại trung tâm dành cho những người vô gia cư tại thành phố Los Angeles. Công việc của tôi mỗi ngày là dọn phòng và những vật dụng cá nhân cần thiết cho những người mới được nhận vào trung tâm, chào đón và chỉ dẫn cho họ các nơi trong nhà cũng như các chương trình, sinh hoạt hằng ngày, và giúp đỡ những khi họ cần đến. Hằng tuần, tôi theo các chị rảo quanh các công viên có đông dân số "homeless" (vô gia cư) để mang thức ăn cho họ, đồng thời thăm hỏi, ngỏ lời mời và đưa họ về ở với chúng tôi tại "Homeless Center". Nhiều lúc trung tâm chúng ta đầy ắp không còn đủ chỗ cho những người muốn đến sau.

Xã hội Mỹ đầy tiện nghi mà chúng ta đang sống không thiếu những người chẳng có một mái nhà để ở. Có biết bao người sống chui rúc dưới gầm cầu, trong các cống rãnh, bên những vệ đường, góc phố, hoặc một xó xỉnh nào đó. Biết bao thanh thiếu niên đã không ngần ngại lìa bỏ mái ấm gia đình để phiêu lưu đời mình vào một kiếp sống vô định không biết rồi sẽ đi về đâu? Có biết bao gia đình ngày nay vợ chồng li dị, li thân: cha mẹ con cái không hoà thuận, thiếu hiểu biết, thông cảm, tin tưởng, tôn trọng nhau, cho nên dù có mặt đó nhưng lòng vẫn như lạc lõng, xa cách... Tất cả đều là những hình ảnh vô gia cư!

Trong hành trình thiêng liêng, mỗi người chúng ta ít nhiều đã có lần nào đó cảm thấy bơ vơ, lạc lõng giống như tâm tình của các môn đệ trong Phúc âm hôm nay khi sắp phải xa cách Chúa. Trần thế rộng thênh thang nhưng đôi lúc chúng ta dường như không tìm thấy lối bước, không có chỗ dung thân! Nhưng Trái tim Chúa không bao giờ thiếu chỗ cho chúng ta. Nếu chúng ta thinh lặng và lắng đọng tâm hồn, chúng ta sẽ nghe tiếng Chúa thì thầm nhắn bảo như Ngài đã nhắn bảo các môn đệ: "Trong nhà Cha có nhiều chỗ... Thầy đi dọn chỗ cho các con... để Thầy ở đâu, các con cũng ở đó (Ga 14,2-3). Lòng các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tín nhiệm Thầy" (Ga 14,1).

"Thầy đi để dọn chỗ!" Chúa Kitô đã đi trước bằng cách sống cuộc đời nhân loại của Người để từ đó trở nên con đường cho chúng ta nối tiếp theo sau. Theo gương Chúa, sống cuộc đời như Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ tới được nơi mà Chúa dọn cho mỗi người, và sẽ tìm gặp sự thật và sự sống.

Lạy Chúa, Trái Tim Chúa chính là căn nhà của con, là nơi con trở về sau những lần chiến đấu mệt mỏi, sau những giây phút vất vả lo âu trong cuộc sống để nghỉ ngơi và lấy lại sức. Khi cuộc đời không còn chỗ cho con thì Trái Tim Chúa vẫn hằng rộng mở chờ đón. Khi con người vô ơn bạc bẽo thì Trái Tim Chúa vẫn luôn ân cần sưởi ấm. Khi con không còn thấy lối đường nào để đi thì trong Trái Tim Chúa con sẽ gặp chính đường ban sự sống. Xin Trái Tim Chúa mãi mãi là căn nhà sưởi ấm tâm hồn con.

CON ĐƯỜNG GIÊSU
Ga 14, 1 - 12
Lm. Giacôbê Phạm văn Phượng, OP.
Có một tác giả đã nói lên tính cách bí ẩn của cuộc sống con người bằng một câu chuyện như sau : Tại một vùng quê nọ bên Tây Phương, một ông từ coi nhà thờ có thói quen mỗi ngày cứ 15 phút trước giờ ngọ, ông gọi điện thoại đến người phụ trách tổng đài trong vùng và hỏi giờ. Ngạc nhiên về thói quen lạ lùng ấy, người tổng đài đã hỏi lại : "Thưa ông, nếu không có gì làm phiền ông, xin ông cho biết lý do tại sao ông hỏi như thế mỗi ngày ?". Ong từ nhà thờ giải thích : "Thưa ông, có gì đâu, tôi là người có trách nhiệm phải kéo chuông mỗi ngày vào đúng giờ ngọ. Tôi cần hỏi giờ chính xác thôi". Người tổng đài điện thoại mới vỡ lẽ ra, ông nói với ông từ nhà thờ : "Thật là buồn cười, trong khi ông điện thoại đến hỏi giờ nơi tôi, thì chính tôi là người điều chỉnh đồng hồ của tôi theo tiếng chuông của ông".

Tác giả của câu chuyện trên kết luận : "Cuộc sống quả là bí ẩn mà những người trong cuộc không thể nào tự mình tìm ra được câu trả lời". Chúng ta cần có một câu giải đáp từ bên ngoài về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống, và người có thể nói với chúng ta về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống chính là Thiên Chúa, chủ tể của sự sống. Kinh Thánh, lời của Ngài, thường ví cuộc sống như một cuộc hành trình. Từ lúc Nô-ê xuống tàu, Ap-ra-ham cất bước ra đi vào vùng đất xa lạ, đến ngày vội vã ra đi của Đức Maria, và cả cuộc đời không ngừng di động của Chúa Giêsu. Tất cả đều là những hình ảnh diễn tả cuộc hành trình trong đức tin của người Kitô hữu.

Đời người là cuộc hành trình, ra khỏi lòng mẹ là nhập cuộc và ra đi không ngừng : tuổi trẻ và thanh niên được dệt đầy những năng động để không ngừng dự phóng và sáng tác. Tuổi trung niên thành công tràn ngập, nhưng thất bại cũng giăng đầy những lối đi : có những người bạn chợt đến rồi đi, vui tươi hớn hở chớm nở, nhưng thất vọng cũng bao trùm. Rồi tuổi già đến, chúng ta nhận ra rằng : tất cả trên đời này chỉ là tạm bợ.

Đời là một hành trình, Đức Kitô đã trải qua đời trần thế bằng không biết bao nhiêu cuộc hành trình : Sinh ra trong một cuộc hành trình, và mở mắt chào đời để phải vội vã ra đi như một người tị nạn, năm 12 tuổi, lạc mất trong một cuộc hành trình, trong cuộc sống công khai, Ngài không ngừng đi lại khắp nẻo đường Pa-lét-tin, và cuối cùng Giêrusalem, đồi Can-vê là điểm đến của cuộc hành trình. Qua cuộc hành trình không ngừng nghỉ ấy, Đức Kitô đã tuyên bố : "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống", nghĩa là ai tin Ngài và đi theo dấu chân của Ngài mới thực sự tìm được hướng đi cho cuộc hành trình. Ngài là con đường dẫn chúng ta về cõi phúc vinh quang.

Thực vậy, trên thế giới không thiếu những con đường nổi tiếng, nhưng có một con đường thật danh tiếng và luôn luôn nổi tiếng. Con đường ấy mở ra bằng một tình thương và kết thúc bằng một hạnh phúc. Con đường ấy thắp sáng hy vọng để dẫn tới nhà Cha trên trời. Đó là con đường mang tên Giêsu. Đúng vậy, đối với chúng ta, chỉ có một con đường duy nhất để được cứu độ, để đạt tới cuộc sống bất diệt và hạnh phúc vĩnh cửu, tên gọi của con đường ấy là Giêsu.

Đi trên đường Giêsu là đi bằng cả niềm tin gắn bó hiệp thông của những người biết mình có một lý tưởng để theo đuổi, và sẵn sàng hy sinh tất cả để đạt được lý tưởng ấy. Đi trên đường Giêsu cũng là đi bằng niềm hy vọng bền vững. Sống hôm nay là chuẩn bị sống ngày mai, và ngày mai tại nhà Cha đã được định hình ngay từ bây giờ trong bước đường lữ thứ giữa lòng đời. Đi trên đường Giêsu còn là đi bằng cả tình yêu chan hòa phục vụ. Bởi vì con đường của Giêsu chính là con đường của yêu thương, sống trong phục vụ là lúc chúng ta đang đi trên con đường của Chúa.

Vì hoàn cảnh, ơn gọi mỗi người thường khác nhau, không phải ai cũng thích hợp với ơn gọi làm linh mục hay tu sĩ. Nhưng một điều chắc chắn mà có lẽ ít khi chúng ta nghĩ tới, đó là tất cả chúng ta đều được Chúa kêu mời nên thánh, sống hạnh phúc trong ơn gọi làm người và làm con cái Chúa. Chúa Giêsu đã sống ơn gọi làm người và làm con Thiên Chúa của Ngài một cách tuyệt đối hoàn hảo và đã trở thành mẫu gương lý tưởng cho chúng ta. Vì thế, Chúa bảo chúng ta hãy đi theo con đường của Ngài trong suốt hành trình của cuộc sống. Với Chúa, chúng ta sẽ không cảm thấy cô đơn. Chúng ta sẽ mệt mỏi, nhưng không kiệt quệ. Chúng ta sẽ khổ đau, nhưng không thất vọng. Chúng ta sẽ chán nản, nhưng không bị bỏ rơi. Chúng ta kiếm tìm hạnh phúc, và chúng ta sẽ đạt được.

Xin Chúa là ánh sáng, là đường đi, là chân lý, hướng dẫn chúng ta lúc nào cũng đi trên con đường của Chúa, để sau cuộc hành trình đời này, chúng ta được về bên Chúa là cùng đích của chúng ta.

CHÚA GIÊSU NGUỒN BÌNH AN
Ga 14, 1 - 12
Lm Trần Thanh Sơn

Trong thời gian gần đây, theo dõi báo đài và tin tức trên truyền hình, chắc hẳn mỗi người chúng ta đều nghe biết về tình hình bất ổn trên thế giới, đặc biệt là miền Trung Đông. Cả thế giới đang lo lắng và suy nghĩ tìm cách giải quyết mối căng thẳng do nạn khủng bố gây ra. Và ngay tại Việt Nam chúng ta trong những ngày vừa qua, bà con tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long, lại đang hết sức lo lắng khi kết quả kiểm tra ngẫu nhiên trên đàn vịt chạy đồng cho thấy có từ 70 -80 % số mẫu cho kết quả dương tính với type H5 (Hồ Văn-Trần An, Tuổi trẻ, ngày 15/4/2005). Rồi trong những ngày cuối năm nay, các em học sinh lại cũng đang bối rối không biết nên thi và chọn trường nào để có thể tiếp tục theo học.

Và có lẽ không ai trong số chúng ta đang ngồi đây, tôi cũng như quý ông bà anh chị em không có một nỗi lo lắng riêng tư nào đó. Và không chỉ chúng ta mà tôi thiết nghĩ, tất cả mọi người ai cũng đang lo lắng, băn khoăn. Chúng ta băn khoăn về rất nhiều việc: nào là kinh tế gia đình đang gặp khó khăn, việc ăn học và dạy dỗ con cái; tương lai không biết như thế nào... và còn nhiều điều lo lắng khác nữa. Các tông đồ thời Chúa Giêsu cũng thế, đứng trước lời loan báo về cuộc khổ nạn sắp tới của Thầy mình, về những chia rẽ, phản bội trong hàng ngũ nội bộ, các ông cũng lo lắng băn khoăn. Nhưng với tình thương của người Thầy, của vị Mục tử nhân lành, Đức Giêsu đã lên tiếng trấn an các ông và cũng là với từng người chúng ta: "Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy". Một lời nói diễn tả tấm lòng dịu dàng, thương yêu bao la của Chúa đối với từng người chúng ta.

1. Nguyên nhân sâu xa của các nỗi lo lắng:
Chúng ta lo lắng vì nhiều lý do, nhưng tựu trung có lẽ vì hai lý do chính yếu sau đây: không biết tương lai sẽ ra sao và khi gặp khó khăn, trở ngại chúng ta không biết nên làm thế nào.

Các tông đồ hoang mang lo lắng không chỉ về cuộc khổ nạn của Chúa, nhưng theo cha Xavier Léon Dufour thì họ còn lo lắng bởi từ đây, họ phải xa cách một người thực sự cần thiết cho cuộc đời của họ. Họ còn lo lắng bởi sự thất vọng sâu xa, khi nhìn cuộc khổ nạn của Chúa như là một sự bế tắc, thất bại, không còn tương lai (x. Fiches Dominicales, Năm A, trang 141).

Nỗi ưu tư của các tông đồ xưa, cũng chính là nỗi ưu tư của từng người chúng ta trước những khó khăn của cuộc sống, trước một tương lai bấp bênh, trước những trách nhiệm trong gia đình, xã hội đang đè nặng trên đôi vai của chúng ta. Đó là nỗi lo của các bậc làm cha mẹ trong việc hướng dẫn, giáo dục con cái. Đó còn là trăn trở của các bạn trẻ trước một tương lai còn mù mờ. Nó còn là những khắc khoải của từng người chúng ta trước sự im lặng của Thiên Chúa. Những khó khăn đó đôi lúc như muốn đè bẹp chúng ta. Nó khiến chúng ta bối rối, không biết phải làm gì.

Suy nghĩ kỹ, chắc hẳn mỗi người chúng ta nhận ra rằng chúng ta bối rối, vì chúng ta đang khép kín và muốn tự mình giải quyết. Chúng ta giải quyết mọi việc như là không có Thiên Chúa. Nhưng lời Đức Kitô hôm nay, kêu gọi chúng ta: "Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy". Tin vào Thiên Chúa, nghĩa là giao trọn cuộc đời mình cho Chúa, để Ngài hướng dẫn và dìu dắt. Đây không phải là một niềm tin mù quáng, nhưng là niềm tin dựa trên chính lời hứa của Đức Giêsu, Đấng đã chết và sống lại vì chúng ta: "Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó".

2. Đức Giêsu, Nguồn bình an:
Tuy nhiên, nói tin vào Thiên Chúa thì dễ, nhưng sống niềm tin này thì không dễ chút nào. Suy nghĩ hiện nay của chúng ta hiện nay, dù muốn hay không cũng bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa thực dụng. Chúng ta đánh giá mọi việc, mọi người theo giá trị kinh tế. Trong khi đó, Đức Giêsu là một con người mà chúng ta chưa từng thấy, lại bị chết treo trên thập giá, hay nói như thánh Phêrô trong bài đọc hai: Ngài là "viên đá bị thợ xây loại bỏ". Bởi đó, tin vào Đức Kitô là dám bước một bước liều, một bước của những tâm hồn mạnh mẽ, can đảm. Tổ phụ Abraham, được gọi là cha của những kẻ tin, cũng đã minh chứng niềm tin của mình bằng một bước đi mà tác giả thư Do thái gọi là "đi mà không biết mình đi đâu" (Dt 11, 8). Tuy không biết mình đi đâu, nhưng tổ phụ biết Đấng gọi mình đi rất yêu thương mình, và ông đã tin tưởng để cất bước ra đi. Nhờ đó, ông được chúc phúc. Vì thế, thánh Phêrô khẳng định với từng người chúng ta rằng, Thiên Chúa đã tuyển chọn Đức Giêsu, viên đá bị thợ xây loại bỏ ấy để tôn vinh và làm nên tảng đá góc tường, để rồi, "ai tin Người sẽ không phải hổ thẹn".

Sở dĩ chúng ta dám tin tưởng và phó thác cuộc sống của chúng ta cho Chúa là vì nhờ phép Rửa, chúng ta đã được trở nên con cái và là người nhà của Thiên Chúa, như lời thánh Phêrô khẳng định: "Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện là dân riêng của Thiên Chúa." Chúng ta được tuyển chọn và trở thành dân riêng của Thiên Chúa không phải do công trạng của chúng ta, nhưng do tình yêu nhưng không của Thiên Chúa.Vâng, tình thương của Đức Giêsu dành cho chúng ta thật lớn lao. Ngài không lấy cái chết khổ giá làm đủ, Ngài còn để lại Thịt và Máu Ngài trong bí tích Thánh Thể làm của ăn hàng ngày cho chúng ta trên hành trình về quê Trời. Với Thánh Thể, Đức Kitô mãi mãi ở với chúng ta, làm bạn đồng hành với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Nhờ bí tích Thánh Thể, Ngài vẫn ở đó, hiện diện thực sự ở giữa cộng đoàn chúng ta, điều quan trọng là chúng ta có đủ xác tín để nhận ra Ngài, đến với Ngài và trải rộng lòng mình ra cho Ngài bước vào và để Ngài hướng dẫn cuộc sống của chúng ta hay không. Chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu Thánh Thể và hãy tâm sự với Ngài về tất cả những nỗi ưu tư, băn khoăn, khắc khoải của riêng mình.

Một khi chúng ta uốn mình để Ngài hành động trong và qua chúng ta, mọi việc chúng ta làm sẽ sinh một hiệu quả kỳ diệu như lời Ngài đã hứa: "Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy làm. Người ấy còn làm những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha." Hiệu quả đó chính là sự bình an trong tâm hồn, cho dù những khó khăn và nghịch cảnh của cuộc sống vẫn còn đó. Tin vào Đức Kitô còn giúp cho chúng ta có một cái nhìn và một cách đánh giá mới đối với tất cả sự vật. Nó giúp chúng ta vượt qua những cái hữu hình trước mắt để hướng tới sự sống vĩnh cửu mà Ngài đã hứa.

Cầu chúc cho tất cả quý ông bà anh chị em cảm nhận được sự hiện diện thật sự của Đấng Phục Sinh trong lòng mỗi khi hiệp lễ. Nhờ đó, chúng ta có thêm sức mạnh và tâm hồn mãi mãi được bình an để hoàn tất cuộc hành trình về nhà Cha. Amen.

ĐƯỜNG CỦA CHÚA - ĐƯỜNG DẪN VỀ TRỜI
Ga 14, 1 - 12
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Cuộc vui nào rồi cũng có lúc tàn. Những năm tháng sống với các môn đệ quả thực hạnh phúc, Chúa đã sống với các ông, đã huấn luyện, dạy dỗ các ông và hé mở cho các ông thấy Nước Trời. Các môn đệ cứ tưởng, Thầy của mình sẽ sống mãi, sẽ làm vua, sẽ khôi phục nước Israen và các ông sẽ tha hồ chia nhau những chức vị trong Vương Quốc của Thầy. Nhưng, đùng một cái Thầy bị bắt, bị kết án tử hình, bị treo trên Thập Giá và rồi Thầy Phục Sinh đúng như lời Thầy đã nói trước. Chúa sống lại đã hiện ra với các ông để củng cố đức tin các ông và minh chứng cho các ông Ngài đã sống lại thật. Chúa Phục Sinh không thể ở lại mãi với các môn đệ trong thân xác Phục Sinh, Ngài phải trở về với Chúa Cha và dọn chỗ cho các Ngài.

CUỘC CHIA LY NÀO CŨNG MANG LẠI LO ÂU, BUỒN PHIỀN VÀ KHỔ ĐAU :
Sống trên gian trần người nào cũng có lúc phải suy nghĩ, lo âu, đau buồn vì những quyết định, về những trách nhiệm khiến họ mất ăn mất ngủ. Đặc biệt khi phải xa lìa người thân, cha mẹ, anh em vv...con người đều cảm thấy nôn nao, xao xuyến và đau buồn khôn xiết. Đối với các môn đệ, Chúa Giêsu đã ở với họ suốt 3 năm ròng, Thầy trò đã cùng nhau chia xẻ ngọt bùi, đắng cay.Nay, khi biết Chúa Giêsu không còn ở với mình nữa, các ông đâm ra hoang mang, xao xuyến tột độ. Đây là lẽ thường tình của con người, nhất là khi những người ra đi xa lại là những con người thân thiết, đã từng nếm ngọt chia cay với mình. Các môn đệ rơi vào trường hợp này.

NHƯNG CHÚA ĐÃ NÓI VỚI CÁC MÔN ĐỆ :
Chia ly, xa lìa buồn và lo âu, hoang mang thiệt, nhưng Chúa cho các ông biết sự ra đi của Ngài là hoàn toàn cần thiết và hoàn toàn có lợi cho các ông. " Anh em đừng xao xuyến ! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em"( Ga 14,1-3 ). Chúa Phục Sinh cho các môn đệ hay Ngài đi về với Chúa Cha và cũng cho các môn đệ hay Cha của Ngài cũng là Cha của các Ngài và Cha của mọi người. " Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy ( Ga 14, 6 ). Rồi Chúa quả quyết: " Chính Thầy là đường, là sự thật và là sự sống" ( Ga 14, 6 ). Chúa là sự thật bởi vì Người dẫn chúng ta từ sự lo âu đến an bình, từ sự đau khổ đến vinh quang, từ sự chết đến sự sống, từ đời sống trần gian mau qua đến đời sống trường sinh. Đức Giêsu là sự thật. Sự thật về một Thiên Chúa hay chạnh thương và giầu lòng thương xót. Sự thật về một Thiên Chúa cứu độ và giải thoát con người. Đức Giêsu là sự sống. Sự sống vĩnh hằng, sự sống trường sinh. Sự sống ngay chính trong cung lòng Chúa Cha ban cho mọi loài được sống. Chúa là Đấng cứu độ duy nhất, Ngài muốn cứu tất cả mọi người, không trừ một ai, miễn là con người biết mở lòng ra để đón nhận ơn của Chúa.

Chúa là đường. Người đã trở nên người phàm là cốt để nơi Người, mọi người thấy được Chúa Cha. Người đã đi hết con đường của Người, con đường làm mọi người ngỡ ngàng, nhưng sau này con người đều hiểu bởi vì con đường ấy là con đường tình yêu, con đường Thập Giá và sự chết, mọi người sẽ chinh phục được sự thật của chính mình và sẽ đạt tới sự sống. Con đường của Chúa là con đường phục vụ, con đường tự hiến, con đường hẹp vì con đường rộng rãi dẫn tới hư vong. Chúa đã ngang qua Thập Giá để kéo mọi người lên cùng Chúa. Và tình yêu của Người là tình yêu cứu độ, tình yêu tự hiến và hy sinh:" Không tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của Người hiến mạng sống vì người mình yêu"( Ga 15, 13 ).

Đạo là đường. Chúa chính là đường, là cửa chuồng chiên. Ai muốn vào nước trời phải đi ngang qua cửa chuồng chiên.

Như một câu hát của Soeur Sourire:" Tất cả mọi nẻo đường của trần thếsẽ đưa ta về trời...". Có ngang qua đau khổ, ngang qua thử thách, Thập Giá, con người mới có vinh quang, mới được sự sống đời đời. Các môn đệ từ Phêrô, Phaolô, Batolômêô, Tôma vv...tất cả đã kinh qua con đường đó vì họ đã tin nhận Chúa " là đường, là sự thật, là sự sống" ( Ga 14, 6 ).

Lạy Chúa Phục Sinh xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn tuyên xưng Chúa là đường, là sự thật, là sự sống. Xin cho chúng con biết trải qua sự đau khổ mà Chúa đã kinh qua để chúng con cùng được vinh quang với Người. Amen.

Nguồn vietcatholic.org

1276    16-05-2014 19:22:22