Sidebar

Thứ Tư
01.05.2024

Chúa Nhật V Phục Sinh C

  1. Yêu Thương Như Thầy Yêu
  2. Người Môn Đệ Đích Thực
  3. Giới Luật Yêu Thương
  4. Chúa Nhật V Phục Sinh
  5. Di Chúc Của Đức Giêsu
  6. Luật Yêu Thương
  7. Yêu Như Thầy Ðã Yêu
  8. Lời Trăn Trối Yêu Thương
  9. Luật Cũ Nghĩa Mới
  10. Yêu Âm Thầm
  11. Chúa Nhật V Phục Sinh C
  12. Chúa Nhật V Phục Sinh
  13. Điều Răn Mới
  14. Yêu
  15. Hãy Yêu Thương Nhau
  16. Yêu Thương Là Phục Vụ
  17. Yêu Thương Nhau
  18. Vương Quốc Tình Yêu
  19. Cộng Đoàn Của Những Người Yêu Nhau
  20. Tôn Vinh
  21. Yêu Thương Đích Thực
  22. Dấu Chỉ Môn Đệ Chúa Kitô
  23. Qua Yêu Thương, Mọi Sự Trở Nên Mới
  24. Đặc Điểm Của Đức Ái
  25. Yêu Như Thầy Đã Yêu
  26. Chúa Nhật 5 Phục Sinh
  27. Thật Tuyệt Vời Cái Giới Răn...
  28. Bí Quyết Hạnh Phúc Học Nơi Đức Kitô
  29. Chúa Nhật V Phục Sinh
  30. Chúa Nhật V Phục Sinh

YÊU THƯƠNG NHƯ THẦY YÊU
Ga 13,31-35

Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Đó là lệnh truyền, lời trăn trối, là di chúc của Chúa Giêsu. Đó là điều đảm bảo sự sống đời đời cho chúng ta là môn đệ bước theo Ngài.

Thật vậy, trong bữa tiệc ly, trước khi đi vào cuộc tử nạn, Chúa Giêsu đã để lại cho các Tông đồ và cho tất cả những người đi theo Chúa lời tâm huyết:  "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Đây còn là mệnh lệnh, là giới răn của Thầy!

Vì  là giới răn, là mệnh lệnh của Thầy, nên tình yêu thương huynh đệ của người môn đệ phải mang chiều kích của Thầy: "hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Vì là giới răn của Thầy, nên từ nay yêu thương sẽ là bằng chứng, là danh hiệu của người môn đệ và là dấu chỉ cho mọi người nhận biết anh em là môn đệ Thầy khi anh em yêu thương nhau.

Yêu thương nhau, đâu phải chỉ có Kitô giáo mới giảng dạy. Người ta từng nói: bốn biển là anh em (tứ hải giai huynh đệ) hay Đạo lý cha ông ta cũng đã răn dạy: thương người như thể thương thân, để nói lên tấm lòng thương yêu rộng mở của người đối với người trong một xã hội.

Đối với Kitô giáo, yêu thương anh em như Chúa Giêsu đã yêu thương và yêu thương anh em là dấu chứng thuộc về Chúa Giêsu. Nét mới mẻ của tình yêu Kitô giáo là ở chỗ thước đo tình yêu đối với tha nhân không còn là "tình anh em máu mủ", cũng không còn là "bản thân mình" nữa nhưng là chính tình yêu của Chúa Giêsu Kitô. Cả cuộc đời Chúa Giêsu đã bằng chứng mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa là tình yêu trao ban, là tình yêu dâng hiến. Chúa Giêsu khi nói về tình yêu của Thiên Chúa và cũng là tình yêu của chính mình, Ngài đã khéo léo khi so sánh: "Không ai có tình yêu lớn hơn người hy sinh mạng sống cho bạn hữu" (Ga15, 13).  Hẳn thật đó là bản đúc kết, là bản tóm tắt nội dung cuộc sống và cái chết của Đấng bị đóng đinh vào thập giá để nói lên tình yêu của Chúa Cha dành cho loài người. Một Thiên Chúa đầy lòng nhân ái, đầy tình thứ tha đối với hết mọi con người không trừ ai. Tình yêu thương vô bờ bến đó phải là mẫu mực để chúng ta noi theo.

Chúa Giêsu không đòi các môn đệ của Ngài phải thông thái như các thầy kinh sư và ký lục. Ngài cũng không bắt họ phải sống nhiệm nhặt, gò bó như nhóm người Biệt Phái Pharisêu trong việc tuân giữ các giới luật. Điều Ngài đòi nơi các môn đệ, chỉ một điều duy nhất mà thôi, là phải "yêu thương anh em", yêu thương người khác "như chính Ngài đã yêu thương" mọi người đến tột cùng, đến hết khả năng yêu thương của Thiên Chúa.

Chính tình yêu thương vô vị lợi, bao dung này sẽ là dấu chứng của những người tin theo và tuân giữ Lời Chúa. Người môn đệ của Chúa Giêsu là người biết yêu thương tha nhân và ngược lại. Ngay từ cộng đoàn của các Kitô hữu tiên khởi, dấu chứng tình yêu đã trở thành chứng tá của Chúa Kitô Phục Sinh. Trong suốt lịch sử Giáo Hội, các người bên ngoài Giáo Hội cũng vẫn nhận ra Chúa là tình yêu xuyên qua những chứng từ sống động của một tấm lòng vị tha, bác ái của người tín hữu.

Trong cuộc sống hàng ngày, không phải chúng ta không biết đến đòi hỏi căn bản nhất của Tin Mừng là yêu thương tha nhân như Chúa đã yêu thương họ. Chúng ta vẫn được giảng dạy: Tình yêu là dấu chứng thuộc về Chúa. Thế nhưng, từ chỗ biết đến cuộc sống, luôn luôn vẫn có một khoảng cách: chúng ta vẫn thích lấy lòng mình làm thước đo tình yêu tha nhân trong mức độ nào đó để khỏi phải quá thiệt thòi cho mình. Chúng ta vẫn muốn dựa vào tấm áo hay danh xưng để chúng ta thuộc về Chúa, chứ chúng ta chưa dám "liều mạng" để chỉ khẳng định chân tính Kitô hữu của mình bằng ý nghĩa và hành động yêu thương chân thật. Vì thế mà ngay đối với người bên cạnh, người ta đối xử với tôi thế nào, tôi đối lại như thế ấy! Quan hệ của chúng ta đối với tha nhân còn mang nặng tính vụ lợi, đổi chác, mua bán. Và cách sống thấp hèn như vậy chẳng nói được với ai điều gì về niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa Tình Yêu cả! Trái lại, cách sống ấy là một phản chứng về Thiên Chúa, không làm cho ai tin được Thiên Chúa của chúng ta. Bởi vì: "người ta cứ dấu này mà nhận ra anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau".

"Như thầy đã yêu thương anh em, anh em cũng hãy yêu thương nhau".

Vậy, ai không yêu thương nhau, người ây không xứng là người kitô hữu, hay đúng hơn, đó là kẻ chối đạo. Thiên Chúa là tình yêu. Đạo Thiên Chúa là đạo yêu thương nhau. Không yêu thương nhau là không biết Thiên Chúa, là chối đạo.

Hôm nay chúng ta hãy tiếp tục sống đức tin, làm chứng về đức tin mà mình lãnh nhận từ khi lãnh bí tích Rửa Tội, đó là bằng cuộc sống Kitô hữu của chúng ta rằng: Đạo Thiên Chúa là đạo yêu thương nhau. Hãy để cho lòng mình lắng đọng để ân sủng Chúa giúp chúng ta thấy hết tầm mức của giới răn mới và những khoàng cách xa vời trong cuộc sống chúng ta, để chúng ta quyết tâm sống giới răn yêu thương của Chúa như chính Chúa đã sống và truyền dạy chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, vị Mục Tử Tối cao đã hy sinh tính mạng vì yêu thương chúng con. Chúa yêu chúng con và Chúa muốn chúng con hạnh phúc, được hạnh phúc đời đời với Chúa ngay khi còn sống ở đời này, xin cho chúng con biết sống đức tin chính là giữ lời Ngài truyền dạy, đó là yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng con. Amen.

 NGƯỜI MÔN ĐỆ ĐÍCH THỰC
Ga 13,31-35

Ngày hôm nay, các tổ chức, các công ty-xí nghiệp họ thường có những huy hiệu hay những bộ đồng phục để người ta nhận ra thành viên của tổ chức ấy, hoặc để các thành viên trong tổ chức đó nhận ra nhau. Bài Phúc âm chúng ta vừa nghe, CG không dùng những hình thức bên ngoài để người ta nhận ra ai là môn đệ Chúa, nhưng dấu hiệu để chứng tỏ mình là môn đệ đích thực của Chúa đó là phải có lòng yêu thương.

Có lẽ khi nói đến hai chữ "yêu thương" ai trong chúng ta cũng đều hiểu và cảm nhận được ngay. Vì con người không thể sống nếu không biết yêu thương. Ngay khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã đặt để trong lương tâm của mỗi người khả năng yêu thương. Nhờ đó con người có thể yêu mến Thiên Chúa và yêu thương nhau. Chính vì hai chữ "yêu thương" nó quan trọng như thế cho nên khi CG sắp bước vào cuộc khổ nạn, CG đã để lại cho các môn đệ lời trăn trói sau cùng, đó là: "các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con".

Nhưng yêu thương như Chúa yêu thương là như thế nào?

Tâm lý tự nhiên, chúng ta thường yêu thương những người trong gia đình, trong huyết tộc, hay yêu thương những người thương ta, làm ơn cho ta. Nhưng CG  yêu thương tất cả mọi người, từ những em bé, những kẻ tội lỗi, những người bị xã hội ruồng bỏ, và cả những kẻ làm hại Ngài, giết chết Ngài. Tình yêu đó đã làm cho Ngài không ngại khi cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Ngài không ngại rửa chân cho Giuđa kẻ sắp phản bội Ngài. Ngay cả lúc trên thập giá, khi còn chút hơi mọn, thay vì Ngài trách mắn những kẻ làm khổ mình nhưng Ngài lại "xin Chúa Cha tha cho họ". Ngài không nhìn họ là kẻ thù nhưng Ngài thấy nơi họ là những con người cần được thương xót.

Khi yêu thương chúng ta, Chúa không so đo hơn thiệt, không đặt bất cứ điều kiện nào. Ngài cho tất cả, hy sinh tất cả, kể cả mạng sống để ta được hạnh phúc. Ngài cũng muốn chúng ta là  môn đệ của Ngài cũng phải biết yêu thương tất cả mọi người như vậy.

Nhìn vào đứa con người ta có thể nhận ra cha mẹ của chúng, qua nét mặt, lời nói. Cũng thế, Chúa Giêsu sẽ được nhiều người nhận biết khi chúng ta là những môn đệ của Chúa biết phác hoạ lại chân dung của Thầy bằng một đời sống biết yêu thương.

 Mẹ Têrêxa Calculta đã dùng chính cuộc đời của mình để yêu thương và giúp đỡ người nghèo. Một lần nọ, mẹ đưa về nhà dòng một ông lão bị bỏ rơi trên đường phố, mình đầy ghẻ chóc. Sau một thời gian được mẹ săn sóc, ông xin được rửa tội. Mẹ mới hỏi: tại sao ông muốn được rửa tội. Ông trả lời: vì tôi thấy tình thương của Chúa dành cho tôi qua sự săn sóc của mẹ. Chính cách sống yêu thương của Mẹ Têrêxa không chỉ làm cho nhiều người tin vào Chúa mà còn  làm cho cả thế giới thấy được tinh thần yêu thương của kitô giáo. 

Làm sao chúng ta có thể nói với anh chị em lương dân đạo công giáo là đạo của tình yêu, Thiên Chúa chúng ta thờ, Ngài yêu thương hết mọi người mà chính bản thân, gia đình của chúng ta lại không yêu thương, không giúp đỡ nhau.

Tuy nhiên, nói yêu thương thì rất dễ nhưng để yêu thương như Chúa yêu không phải là chuyện dễ chút nào. Bởi vì đã gọi là yêu thương thì phải chấp nhận hy sinh: hy sinh tiền của, sức khoẻ, thời giờ, nhất là khi phải yêu thương những người chúng ta không thích, những người làm khổ chúng ta. Tự sức chúng ta thật khó để thực hiện lệnh truyền yêu thương của Chúa nhưng chúng ta sẽ làm được nếu dựa vào Chúa, noi gương Chúa. Nhờ kết hợp với Chúa qua đời sống cầu nguyện, chúng ta sẽ tập nhận ra Chúa qua anh chị em. Bởi vì Chúa Giêsu đã đồng hoá Ngài nơi tha nhân, nhất là những người nghèo khổ, bất hạnh.

Xã hội ngày hôm nay, người ta có thể mua được nhiều thứ bằng tiền, nhưng cái đang rất cần để mang lại hạnh phúc là yêu thương thì lại càng ít được quan tâm. Chính vì sự vắng bóng tình yêu nên cuộc sống của con người càng trở nên khô cằn. Biết bao gia đình tan vỡ, con cái chống lại cha mẹ, vợ chồng ly tán, anh chị em bất hoà cũng chỉ vì thiếu vắng tình yêu.

Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cùng cầu xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta, biết can đảm thực thi lệnh truyền yêu thương của Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Bằng một đời sống biết quan tâm và giúp đỡ nhau, không chỉ là cơm áo gạo tiền, nhưng một lời nói tốt, một lời cầu nguyện, một sự thông cảm tha thứ đó cho nhau đó cũng là chúng ta đang thực hiện lệnh truyền yêu thương của Chúa, đó là chúng ta đang làm chứng cho Chúa.

GIỚI LUẬT YÊU THƯƠNG (Thiếu nhi)
Ga 13,31-35

Chúng ta đang sống trong tuần 5 mùa phục sinh. Bây giờ con xin hỏi các em thiếu nhi:

1. Chúng ta vừa nghe đọc bài Tin Mừng Chúa Giêsutheo thánh nào? Thưa thánh Gioan. Thầy xin hỏi các em câu thứ 2:

2. Thánh Gioan đã định nghĩa Thiên Chúa là gì? Thưa: "Thiên Chúa là Tình yêu".

Bài Tin Mừng thánh Gioan mà chúng ta vừa nghe nằm trong bối cảnh những lời giã biệt của Chúa Giêsu trước khi Ngài bước vào cuộc thương khó.

Chúng ta cũng đặc nghi vấn:tại sao Hội Thánh lại chọn bài Tin Mừng này, khi chúng ta đang sống trong những ngày hoan lạc Phục Sinh? Xin thưa rằng: chúng ta đang sống trong giai đoạn cuối của mùa Phục Sinh. Lúc này là thời gian cuối cùng mà Chúa Giêsu Phục Sinh hiện diện với các tông đồ, vì Ngài sắp về trời vinh hiển.

Giáo Hội muốn cho chúng ta nghe lại những lời giã biệt của Chúa Giêsu, vì những lời đó như là lời trăn trối, là lệnh truyền của Chúa cho các môn đệ và cho mọi người chúng ta.Lệnh truyền này như một điều răn mới truyền lại cho chúng ta.Vậy thầy xin hỏi tiếp các em thiếu nhi:

3. Điều Răn mới mà Chúa Giêsu ban cho các tông đồ cũng như cho chúng ta là điều gì? Thưa là điều luật yêu thương: "anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em".

Thật vậy, dấu hiệu nhận biết chúng ta là người con Chúa là chúng ta biết yêu thương nhau. Chính Chúa Giêsu đã truyền cho các tông đồ và cho chúng ta điều đó: "Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau".Nhiều người không cùng đạo với chúng ta cũng rất thán phục chúng ta, khi họ thấy chúng ta biết sống đoàn kết yêu thương nhau, yêu thương mọi người. Qua đời sống tốt lành, đời sống yêu thương đó, họ sẽ có thiện cảm với chúng ta với đạo của chúng ta.

Các em thiếu nhi thân mến, Chúa cũng mời gọi các em sống tình yêu thương của Chúa ngay trong gia đình qua việc biết sống ngoan hiền, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, anh chị em. Các em cũng thể hiện tình yêu thương đó tại những nơi công cộng, nơi học đường, nơi trường lớp của các em bằng cách kính trọng, lễ phép với những người lớn tuổi, với thầy cô giáo. Các em cố gắng học tập tốt, biết yêu thương giúp đỡ mọi người, đối xử tốt với bạn bè.

Khi các em sống gương mẫu, hiền hòa như vậy, các em đang sống đúng ý Chúa, các em đang thể hiện tình yêu thương của Chúa cho mọi người. Chúng ta luôn tâm niệm rằng: khẩu hiệu của người Công Giáo của chúng ta là biết yêu thương nhau.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn biết sống yêu thương mọi người như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.

CHÚA NHẬT V PHỤC SINH
Ga 13,31-35

Trước khi một ai đó sắp chết, họ thường gọi người thân lại để trăn trối những điều quan trọng. Cũng vậy, khi biết mình sắp đi vào cuộc khổ nạn, CG quy tụ các môn đệ lại bên bàn tiệc ly để trao lại một lời trăn trối đầy tâm huyết: " Các con hãy yêu thương nhau như chính Thầy đã yêu thương các con". Để thực hiện Lời trối của CG: "hãy yêu thương nhau như chính Thầy đã yêu thương", trước tiên, chúng ta hãy tìm hiểu xem CG đã yêu môn đệ của Ngài như thế nào? Cứ mỗi Chúa Nhật, OBACE đến nhà thờ dự lễ, chúng ta được nghe đọc Phúc âm. Phúc âm chính là những lời ghi lại những hành động yêu thương của CG dành cho nhân loại, và cách riêng là dành cho các môn đệ của Ngài. Hành động yêu thương ấy thể hiện cách cụ thể qua việc: CG tin tưởng chọn gọi các môn đệ, tận tình hướng dẫn dạy dỗ cho các ông nhiều điều, đồng hành cảm thông chia sẻ với các ông những vui buồn, khó khăn trong cuộc sống. Tình yêu của CG dành cho các môn đệ còn được diễn tả một cách ấn tượng và cảm động qua việc CG hạ mình rửa chân cho từng người môn đệ trong buổi tiệc ly. Hành động hạ mình này như là một sứ điệp tóm kết ý nghĩa của tất cả những gì CG đã làm cho các môn đệ từ xưa đến nay: "hy sinh phục vụ vì yêu".

Trong cuộc sống đời thường xung quanh con, con nhận ra có một tấm gương hy sinh phục vụ giống Chúa : " Gần nhà con có một người bác, con quen gọi là bác út. Bác Uùt vào tuổi 45, có được 8 người con. Đùng một cái, vợ bể nợ bỏ xứ đi xa. Từ đó, mỗi ngày, bác phải đi làm thuê đóng thùng suốt lúa cho người ta, lãnh 7000 đồng mỗi ngày mua gạo nuôi con. Ngày thường, nhà ăn cực ăn khổ lắm. Đến Chúa Nhật, bác út dành ít tiền mua miếng thịt heo kho cho các con ăn. Trong bữa ăn, bác chỉ ăn toàn là nước thịt với rau, còn thịt thì nhường cho con. Mấy đứa con hỏi, sao cha không ăn thịt đi? Bác trả lời: bên chỗ làm, ba ăn sung sướng lắm, tụi con đừng lo, cứ ăn đi.  Mỗi khi trong gia đình có thức ăn ngon, bác đều nhường hết cho con. Sau này, các con đã khôn lớn, trong một lần dạy con, bác mới nói thiệt: thật ra, chỗ làm của cha ăn uống cũng kham khổ lắm nhưng vì cha thấy các con còn nhỏ, cần phải ăn nhiều để lớn, để có sức học, mà gia đình mình lại nghèo nên cha phải nhường cho tụi con ăn."

Không chỉ có người cha trong câu chuyện, mà con biết rằng trong OBACE đây, cũng có rất nhiều người có cách yêu giống như Chúa: yêu bằng hy sinh phục vụ. Trước tiên là các ông chồng. Các ông là trụ cột trong gia đình, con nhận thấy việc hy sinh của các ông là cố gắng đổ mồ hôi, vất vả kiếm đồng tiền để lo cái ăn, cái mặc trong gia đình. Hay hơn nữa, con nghe nói có một số ông hy sinh cả việc uống rượu, cờ bạc để tiết kiệm tiền cho con ăn học, cho vợ sắm sửa quần áo mới. Có những ông rành tâm lý hơn, đi làm về mệt lắm, mà còn xuống bếp phụ vợ nấu nồi cơm, lặt bó rau, để tìm kiếm nụ cười trên khuôn mặt vợ, để tạo thêm  bầu khí đầm ấm trong gia đình. Còn các bà, các chị thì việc hy sinh cũng chẳng kém. Sáng sớm đã phải thức dậy nấu cơm nước cho chồng con ăn, quét dọn nhà cửa, khệ nệ bưng thao đồ đi giặt, rồi còn phải đưa con cái đi học. Ban ngày, để san sẻ gánh nặng với chồng, chị còn tìm một việc gì đó để làm kiếm thêm vài chục ngàn. Có nhiều người vợ khác vì kinh tế gia đình khó khăn, dù chân yếu tay mềm mà cũng vất vả đi làm như chồng để cùng chồng xây dựng tương lai gia đình. Chưa kể những khó nhọc chất trên vai các chị khi con bệnh, con đau, khi gặp phải người chồng không biết lo, lại quen cờ bạc, rượu chè, gặp phải người mẹ chồng không biết cảm thông, tối ngày cứ để ý đến những chuyện vụn vặt để bắt lỗi, để chì chiết làm khổ dâu con.

Vợ chồng hy sinh cho nhau, hy sinh cho con để xây dựng hạnh phúc gia đình là điều đáng khen. Nhưng đáng mừng hơn nữa, có nhiều đôi vợ chồng công giáo còn quảng đại hơn, biết hy sinh cho bà con lối xóm. Hễ nghe làng xóm có hữu sự, đám ma, đám cưới, đám dỗ, thì sắp xếp người trong gia đình đến tiếp giúp. Mỗi tuần, hai vợ chồng làm lương cũng đâu có bao nhiêu, vậy mà một tuần lễ dám bỏ tiền ra mua một chục kg gạo, mấy chai nước mắm, 50g bột ngọt để cho gia đình nghèo trong xóm. Vợ chồng đồng lòng với nhau trong rất nhiều việc, nhưng đáng trân trọng nhất ở đây là anh chị biết tâm đầu ý hợp trong việc hy sinh phục vụ người nghèo. Đó là những việc làm rất hay thể hiện tình người với nhau và cũng là một hành động truyền giáo thiết thực nhất trong hoàn cảnh xã hội hôm nay.

Con vừa mới kể những tấm gương hy sinh phục vụ thiết thực trong đời sống gia đình, trong tương quan xóm làng. Con thiết nghĩ đây cũng là dịp thuận tiện để mỗi người trong chúng ta nhìn lại đời sống đạo của mình, tôi có biết hy sinh phục vụ cho người khác chưa hay tôi luôn là gánh nặng để người ta phải hy sinh. Thay cho lời kết, nguyện xin Đức Kitô Phục sinh ban cho chúng ta có được cách yêu giống Chúa, để từ đó, mỗi người chúng ta biết quảng đại hy sinh cho nhau bằng những việc cụ thể trong đời sống hằng ngày, hầu xây dựng hạnh phúc trần thế trong hiện tại và hướng đến thiên đàng vĩnh cửu mai sau. Amen.

DI CHÚC CỦA ĐỨC GIÊSU
Ga 13,31-35

Điều răn mới : Như Thầy đã yêu, anh em hãy yêu thương nhau.

Khi Giuđa đi rồi : Đức Giêsu đã bảo : Anh làm gì thì làm mau đi. Là đi nộp Người.(c.23)

Con Người được tôn vinh : Đức Giêsu sắp hoàn tất. Người chịu nộp dể làm trọn ý Cha. Sự thương khó và thập giá đang ở trước mặt, rất gần. Con Người được tôn vinh : không phải bằng sự thương khó và thập giá. Đau khổ và sự chết là đáng sợ vô cùng. Không tôn vinh đau khổ và sự chết. Nhưng đau khổ và sự chết để hoàn tất hành trình tự hạ tự hủy để thực hiện một sự vâng phục tuyệt đối như ý Cha thì sẽ được thưởng công là tôn vinh. Không muốn nhưng làm theo ý Cha thì Cha thưởng. Hoàn toàn theo ý Cha thì Cha thưởng hoàn toàn. Nếu có phần ý riêng thì sẽ bớt phần đó ra.

Và Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người: Lần đầu tiên Thiên Chúa được vâng phục trọn vẹn nơi Đức Giêsu. Đức Giêsu đại bại để Thiên Chúa đại thắng. Từ đầu đến giờ Thiên Chúa toàn là thua vì loài người không vâng phục. Giờ đây, bắt đầu một khởi nguyên mới với một nhân loại biết vâng phục theo gưong Đức Giêsu. Deus vincit ! Thiên Chúa chiến thắng!

Nếu Thiên Chúa được tôn vinh, Thiên Chúa sẽ tôn vinh Người nơi chính mình và ngay lập tức Thiên Chúa sẽ tôn vinh Nguời: Là ngay lập tức,không chờ đợi chút nào hết, cho Người Phục Sinh vinh quang và đặt Người làm Chúa và Đấng Cứu Độ.

Nhưng đỉnh của công cuộc nầy là YÊU THƯƠNG. Đức Giêsu chịu tất cả vì yêu thương và chỉ vì yêu thương: Yêu thuơng Cha và yêu thương con người. Yêu thương Cha vì 'ý Cha muốn thế'. Yêu thương con người là để mở ra cho loài người con đường cứu độ, con đường sự sống và sống đời đời. Con đường sự sống đời đời cho con ngưòi là" như Thầy đã yêu , anh em hãy yêu thương nhau". Tất cả mọi việc làm và lời dạy của Đức Giêsu tóm lại trong di chúc nầy. Và đây là dấu hiệu phân biệt của người môn đệ. Mt đã viết mệnh lệnh cuối cùng là : Hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ. ( Mt.28,19). Và 'các tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung'....(Cv, 3,44).

Yêu nhau như Thầy là 'mới'. Người đã hy sinh phục vụ đến hiến mạng sống để cho chúng ta tấm gương 'như Thầy'.

Xưng mình là tín hữu, là môn đệ, mỗi người hãy tự vấn :

Trong gia đình có đạo, trong họ đạo người ta có thấy dấu chứng yêu thương không ? Người ta có nhận ra chúng ta là môn đệ không? Hay chỉ nghe phàn nàn : có đạo mà dữ quá, chưởi quá ! Tệ hơn : tu mà vậy ! Có đạo mà vậy thì con cần gì có đạo !

Mẹ Têrêsa Calcutta làm việc bác ái mà không cần giảng đạo. Người ta thấy Chúa qua việc yêu thương bà làm. Làm như Thầy thì người ta sẽ thấy Thầy. Hãy làm chứng bằng những việc yêu thương như Thầy đã yêu thương. Chúng ta hãy quyết tâm thực hiện di chúc của Chúa Giêsu. Alleluia

LUẬT YÊU THƯƠNG
Ga13,31-33,34-35

Yêu thương là "chuyện cũ", Luật Cựu Ước cũng đã từng nói:"Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình". Thế tại sao Chúa Giêsu lại nói: "Thầy ban cho các con một giới răn mới là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con"? Cái mới trong giới luật yêu thương mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta và muốn chúng ta đem vào thực hành trong đời sống gì? Đó chính là hãy yêu thương nhau "như Thầy đã yêu"!

Đại văn hào Victo Hugo đã nói: " Thế giới không có người biết yêu thì mặt trời sẽ tắt". Quả thật, yêu và được yêu là nhu cầu căn bản và cần thiết nhất của con người trong mọi thời đại.

Thế nào là người biết yêu? Đây là một câu hỏi xem ra không cần thiết nhưng kỳ thực lại rất quan trọng. Bởi lẽ, tình yêu đích thực là tình yêu không vị kỷ. Người biết yêu là người biết mag lại hạnh phúc cho người mình yêu.

Sau khi chiếc tàu Titanic lộng lẫy và kiêu sa chìm xuống lòng đại đương, một tờ báo xuất bản ở Anh đã đăng kề nhau hai bức ảnh minh hoạ có nội dung như sau:

Trong bức ảnh thứ nhất, người ta thấy chiếc tàu chạm vào tảng băng, bên dưới có dòng chữ: "Sự yếu đuối của con người và sức mạnh của thiên nhiên".

Còn bức ảnh thứ hai, người ta lại thấy có một người đàn ông nhường chiếc phao cấp cứu của mình cho một người đàn bà đang bế con trên tay. Lần này, bức ảnh chú thích bằng dòng chữ: "Sự yếu đuối của thiên nhiên và sức mạnh của con người".

Sức mạnh và sự vĩ đại đích thực của con người không nằm trong khả năng chinh phục hay chế ngự thiên nhiên, mà chính là khả năng chế ngự bản thân, vượt thắng sự ích kỷ. Khi thắng vượt được sự ích kỷ nơi bản thân của mình rồi, con người sẽ trở nên vĩ đại vì biết hướng đến tha nhân. Khi đó, họ đã biết cách yêu và trở thành người biết yêu!

Yêu đúng cách là "yêu như Chúa yêu". Đó là một tình yêu "cúi mình xuống rửa chân cho môn đệ", một tình yêu "mở con đường sống cho người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình", một tình yêu tha thứ cho người môn đệ thân tín chối mình, một tình yêu tha bổng cho tên trộm có lòng hối cải năn năn, một tình yêu tha thứ cho kẻ hành khổ mình. . . Nước của Chúa là Vương quốc của tình yêu. Con người sống trong vương quốc này phải là những con người biết yêu "như Thầy đã yêu". Con người chúng ta được Chúa cứu chuộc để trở thành những con người biết yêu thương nhau. Mẫu số chung của những người mang danh Kitô hữu là Tình yêu: "Cứ dấu này mà người ta nhận ra các con là mộn đệ Thầy là các con hãy yêu thương nhau". Bộ y phục để chúng ta mặc vào dự tiệc Nước Trời là tình yêu. Món quà mà Chàng Rể mong chờ ta mang đến tặng Ngài cũng chính là tình yêu: "Ta muốn lòng nhân cứ không cần hy lễ".

Chúa đã ban cho chúng ta một kho tàng vô tận là con tim và tấm lòng yêu mến. Vì thế, chúng ta hãy cố gắng phát huy và sử dụng nó cho thật tốt và thật hữu hiệu để nó trổ sinh nhiều hoa trái thánh thiện cho chúng ta. Chúng ta có thể nghèo về vật chất, về địa vị và danh vọng trong xã hội. Nhưng đừng để cho mình nghèo nàn và thiếu thốn về tình yêu. Thắng vượt tính ích kỷ và vụ lợi, con người sẽ trở nên giàu có về tình yêu. Gandhi đã nói: "Sức mạnh vĩ đại nhất mà nhân loại có trong tay chính là tình yêu".

Hãy yêu thương thật nhiều để trở thành con cái của Thiên Chúa Tình yêu và thuộc về Vương quốc của tình yêu.

YÊU NHƯ THẦY ÐÃ YÊU
Ga 13, 31 - 33a. 34 - 35

Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em (Ga 13,34)

Trong bộ phim La Strada của Fredorico Fellini được trình chiếu 1954, khán giả thường nhắc lại một cảnh gây ấn tượng: một anh hề đang nói chuyện với 1 thiếu nữ. Cô nàng tỏ ra mệt mỏi vì phải cố gắng thương yêu những người không thể yêu và cũng chẳng đáng yêu, và nàng không muốn liên hệ với họ nữa. Khi (cuộc gặp gỡ sắp kết thúc) thiếu nữ định ra về, anh hề nói với nàng: Nếu em không yêu những người ấy thì ai sẽ yêu họ.

Lời anh hề nói với cô thiếu nữ làm tôi liên hệ với lời Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay. Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Các con hãy yêu". Đó cũng là lời Chúa Giêsu muốn nói với từng người chúng ta.

Chúa muốn chúng ta yêu thương tha nhân, nhưng thực tế chúng ta đã yêu thương tới mức độ nào? Có sẵn sàng yêu những người chúng ta không thích? Những người không ưa chúng ta, những kẻ nghịch thù có ý muốn làm hại chúng ta?

"Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau." (Ga 13, 35)

Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy yêu thương nhau và Ngài là mẫu gương sống động cho chúng ta noi theo. Ngài đã từ trời xuống thế, đi tìm kiếm kẻ tội lỗi để cứu giúp. Dù tội là chống lại Thiên Chúa. Thế nhưng Chúa Giêsu lại đi tìm kẻ đang chống lại Ngài và chịu vác thập giá để đền thay tội lỗi cho tội nhân, chuộc họ khỏi đau khổ đời đời. Chính Chúa Giêsu biết Giuđa sẽ phản bội nhưng Ngài vẫn thương yêu Giuđa, nhận ông làm người thân cận của mình, nhưng Giuđa đã không màng đến tình cảm đó, không biết hối cải, sửa mình. Giuđa là đại diện cho những  Kitô hữu không vâng giữ lời Chúa, cứng lòng trước những lời nhắc bảo của các mục tử và muốn sống xa đàn, không theo ý của chủ chiên.

Tuy nhiên, có một điều Giuđa không ngờ là cho dù ông có yêu mến Chúa Giêsu hay không thì Chúa vẫn thực hiện được kế họach ngàn đời của Ngài là cứu vớt các linh hồn. Thiên Chúa khôn ngoan, quyền phép và đầy tình yêu thương muốn chúng ta cộng tác vào công trình lớn lao của Ngài. Đó là một vinh dự, là hồng phúc cho con người. Nhưng nếu có ai muốn chống lại kế họach của Thiên Chúa, muốn phá hại công trình của Người thì vô phúc cho kẻ đó, còn chương trình Ngài vẫn không bế tắc.

Chính lúc Giuđa nộp Ngài, chính lúc Ngài bị trói hết chân tay trên thập giá, lại là lúc nhân lọai được ơn cứu rỗi, là lúc Ngài được tôn vinh.

Ngày hôm nay, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta noi gương Ngài, dùng tình yêu hóa giải hận thù, dùng sự hy sinh giúp đỡ thật tình đáp lại thái độ hằn thù, chua chát của kẻ ghét mình.

Khi yêu thương, chúng ta trở nên giống Thầy Chí Thánh và được gọi là con cái sự sáng, là con Chúa Trời. Và chắc chắn chúng ta sẽ được phần thưởng, được hưởng gia tài của người con Chúa.

Nếu chúng ta không biết yêu thương và tha thứ, chúng ta sẽ không có niềm hy vọng, như Giuđa bởi cứng lòng mà chết đau đớn trong tuyệt vọng, không biết trông cậy vào lòng nhân từ Chúa, không biết chạy đến Chúa với lòng khiêm nhu, sám hối để được Chúa nhân hậu thứ tha.

Ngày hôm nay, ai trong chúng ta cũng biết rõ giới răn Chúa Giêsu đã trối lại cho các môn đệ: "anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em (Ga 13, 34); nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao?(Mt 5, 46) Đối với người Công Giáo thì không được coi ai là kẻ thù, nhưng luôn cầu nguyện và mong điều tốt lành cho mọi người, mong cho chân lý, công bằng, bác ái đươc thực thi. Ước gì chúng ta biết sống triệt để giới luật yêu thương Chúa Giêsu đã truyền để xứng đáng là con cái Thiên Chúa. Amen.

LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG
Ga 13, 31 - 33a. 34 - 35

Có thể nói bất cứ trong một gia đình nào khi người cha hay mẹ sắp lìa bỏ trần gian này, các ngài đều mong mỏi đàn con, đàn cháu của mình còn ở lại trần gian biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Dù trong lúc các ngài chỉ nói thều thào trong hơi thở yếu ớt các ngài vẫn cố gắng để thốt lên những lời ấy.

Ðoạn Tin mừng Giáo hội cho chúng ta suy niệm trong Chúa nhật hôm nay nằm trong bối cảnh trước khi Chúa Giêsu lìa bỏ trần gian này mà về cùng Chúa Cha. Có lẽ, Người cũng không an tâm mấy khi nhìn thấy các Tông đồ vẫn còn nhiễm những tư tưởng của người thế gian. Các ông theo Chúa nhưng vẫn còn ham muốn chút quyền lợi cho cá nhân mình.

Một lần kia hai người con ông Dêbêđê vì muốn chiếm địa vị quan trọng bên cạnh Chúa Giêsu nên đã xin với Người: "Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang." (Mc 10, 37). Cũng vì lời xin này mà các Tông đồ bất bình với nhau (Mc 10, 41). Nếu các ông thật sự yêu thương nhau theo kiểu có phúc cùng hưởng có họa cùng chia thì chắc điều này không thể xảy ra.

Vì vậy, trong bối cảnh này Chúa Giêsu đã nhắn nhủ với các ông: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Mc 13, 34 - 35)

Ðiều răn mới này Chúa Giêsu kêu mời các Tông đồ và mỗi người chúng ta hãy biết thi hành trong cuộc sống. Hơn nữa, đã nói đến điều răn thì đó là điều bắt buộc chứ không phải muốn làm thì làm, muốn không thì không. Và đây chính là nét độc đáo của người môn đệ Chúa Giêsu.

Mỗi người chúng ta được kêu mời trở nên Chúa Kitô cho nhau. Nghĩa là vì yêu thương nhau và chúng ta trở nên tôi tớ cho nhau trong việc phục vụ. Ðiều này được biểu lộ rõ nét trong đời sống gia đình. Vợ chồng là Chúa Kitô của nhau vì yêu thương nhau. Cha mẹ trở nên Chúa Kitô cho con cái.

Cha mẹ sẽ an lòng nhắm mắt ra đi nếu đàn con đàn cháu biết yêu thương phục vụ nhau. Cũng thế, Chúa Giêsu cũng sẽ rất vui khi thấy chúng ta biết tích cực mỗi ngày trở thành Chúa Kitô cho nhau trong việc phục vụ. Xin Chúa Giêsu Phục sinh tiếp tục đồng hành và ban thêm sức mạnh để chúng ta thực hiện trọn vẹn lời trăn trối đầy yêu thương này.

LUẬT CŨ NGHĨA MỚI
Ga 13,31-33a.34 - 35

"Đây là giới răn của Thầy là các con hãy yêu thương nhau".

"Anh em đừng để mắc nợ ai điều gì ngoài món nợ tình thương" (Rm 13,18). Tình thương giữa người với người không bao giờ là một đề tài xa lạ hay lỗi thời từ ngàn xưa cho đến thời nay. Bao lâu và ở bất cứ nời nào có con người hiện diện thì ở đó cần có tình yêu. Điều ấy như một điều tất phải có để con người có thể tồn tại và phát triển. Tất cả văn hoá của các dân tộc, giáo huấn của các tiền nhân dù là công giáo hay ngoài công giáo đều không thể thiếu giáo luật yêu thương. Bởi đó không chỉ là điều lệ tự nhiên của con người mà còn là giáo huấn của trời, của Chúa. Và Đức Giêsu đã cho giới luật yêu thương ấy một ý nghĩa tuyệt vời hơn nữa. "Cứ dấu này mà người ta sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em hãy yêu thương nhau" (Ga 13, 35).

Chúa Giêsu xuống thế làm người, người ta đã nghĩ rằng Ngài sẽ dạy những giáo lý cao siêu huyền bí, cho con người thực hành những chuyện cao vời hơn chính tầng mây để đạt được cuộc sống vĩnh cữu. Thế mà thực tế lại hoàn toàn trái ngược. Ngài lại dạy một giáo lý hết sức quen thuộc mà ai cũng đã biết rõ, thuộc nằm lòng từ thuở còn trong nôi. Hãy yêu thương nhau. Đó thực ra là điều Thiên Chúa đã phú bẩm trong lương tâm tất cả nhân loại này. "Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn" dạy về điều gì thì ai ai cũng hiểu. Ngay bên Trung Hoa với một nền văn hoá đậm bản sắc Phong kiến thì cũng không thiếu những luật lệ như Kiêm Ái của Mặc tử. Yêu người như yêu mình, yêu bằng hành động cụ thể. Đức Phật bên Ấn Độ thì dạy phải có lòng từ bi. Và cũng với lòng từ bi ấy mà Ngài đã lên đường tìm cho đồng bào mình con đường đến hạnh phúc. Như thế, cho đến khi giáo lý yêu thương của Đức Giêsu ra đời thì điều ấy đã được nói đến rất lâu rồi. Đến Đức Giêsu cũng không dạy điều gì khác hơn. Có khác là Ngài đã dám thí mạng sống mình cho người mình yêu (Ga 15,13). Tức là giá trị và ý nghĩa của hành vi yêu thương ấy. Một tình yêu nhưng không và hiến dâng.

Bài học yêu thương ai cũng nhớ, cũng thuộc, cũng có thể trình bày rõ ràng, rành mạch. Nhưng xem ra nhân loại này vẫn còn đầy dẫy những đau thương và thách đố do chính con người tạo ra cho đồng loại mình. Nguyên nhân chính là bởi con người đã không thể yêu như Chúa yêu. Vì khi làm như thế, con người sẽ bị mất mát, bị đau thương và có khi phải chết nữa. Con người mở rộng trí khôn để đón nhận giáo huấn nhưng lại đóng cửa trái tim và bàn tay nên giáo huấn ấy không thành hiện thực. Lịch sử loài người cho thấy con người ngày càng tách biệt nhau. Nếu Thời công xã nguyên thuỷ con người sống thành "bầy đàn", mọi sự là của chung, thì thời hiện đại "mạnh ai nấy sống". Rồi khi con người tiến dần đến thềm văn minh thì cũng là lúc con người tiến dần đến ranh giới của chia cắt. Phân chia quốc gia, lãnh thổ, dân tộc, gia đình, rồi đến sự phân chi tài sản, giàu nghèo, thân phận. Đó là số phận của cái gọi là văn minh hiện đại. Tình yêu như mờ nhạt dưới bảo táp của giá cả, của miếng ăn, áo mặc, danh dự, uy quyền. Ai dám "liều yêu" thì coi như kẻ lập dị, không biết thời thế. Đức Giêsu đến để làm sống lại nền văn minh tình thương ấy. Ngài đã tự huỷ, bỏ mình để gắn kết, để hiệp thông. Ngài đã làm gương cho chúng ta về một đời sống yêu thương trọn hảo. "Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng hãy rửa chân cho nhau" (Ga 13,14). Khi sống giới luật yêu thương thì không những chúng ta đã hoàn thành cái nhiệm vụ của con người với con người mà chúng ta còn được cứu độ. "Phúc cho ai biết thương xót thì họ sẽ được Thiên Chúa thương xót" (Mt 5,7). Lẽ ra chúng ta không được cái phần thưởng ấy vì đó là nhiệm vụ chúng ta phải làm, phải thực hiện. Nhưng Thiên Chúa đã cho hành vi tự nhiên ấy một phần thưởng thì quả thật hành vi ấy phải rất cao trọng và lớn lao. Khi yêu thương thì chúng ta chu toàn lề luật của Thiên Chúa (x. Rm 13,18).

Người ta thích nói về tình yêu nhưng ngại sống cho tình yêu. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết yêu thương nhau, biết dám vì người khác mà hy sinh bản thân mình để chúng con cũng xứng đáng được gọi là môn đệ của Chúa.

YÊU ÂM THẦM
Ga 13,31-33a. 34- 35

Yêu thương nhau là một điều răn mới, bởi vì Chúa Giêsu đã biến đổi luật yêu thương cũ của Cựu ước là "Ngươi hãy yêu thương anh em như chính mình" (Lv 19,18) thành : " Yêu thương nhau như Ta yêu thương chúng con". "Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là các con hãy yêu thương thau như Thầy yêu thương các con "

Như vậy, tình yêu thương mà chúng ta có với nhau không phải là một tình yêu lấy cái tôi làm chủ, mà tình yêu luôn hướng về Thiên Chúa và tha nhân. Tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa. Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, như thế thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau. Giới răn mới của Chúa được đồng hoá với tình yêu thương của Thiên Chúa đối với chúng ta, một tình yêu khiêm hạ, chấp nhận hy sinh vì người khác. Như thế, nếu ai nói tôi yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình thì là kẻ nói dối. Ai yêu mến Chúa thì cũng yêu thương anh em mình. Chính vì thế mà yêu thương trở thành dấu chỉ của những người thuộc về Chúa, là môn đệ Chúa. "Với dấu này mà người ta nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con hãy yêu thương nhau" .

Nói lên những lời nầy, chắc rằng mỗi người chúng ta đều có thể nói được như vậy và mỗi người chúng ta cũng có thể hiểu được như vậy. Với những bài giáo lý mà chúng ta đã học được từ nhỏ, với những lời giảng dạy mà chúng ta đã nghe qua trong xứ đạo, chắc chắn mỗi người chúng ta hiểu được như vậy và nói được như vậy. Chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu chúng ta, nhưng sống thực được những điều này mới là một việc khó, cần phải cố gắng liên lỉ hằng ngày. "Chúng con hãy nên trọn lành như Cha chúng con ở trên trời là đấng trọn lành ". "Chúng con hãy làm những việc tốt để anh chị em chúng con nhìn thấy những việc tốt lành đó mà ngợi khen Cha chúng con, Đấng tốt lành ở trên trời ". Đó là lời giảng dạy của Chúa cho các môn đệ trước khi Chúa từ giã các ngài, trước khi Chúa thực hiện một hành động yêu thương cuối cùng cùng, tuyệt đỉnh của tình yêu là chết trên thánh giá.

Chúa Giêsu đã khuyên dạy các môn đệ : "Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương thau như Thầy đã yêu thương các con".Là môn đệ Chúa chúng ta không thể mơ ước chết một cách rình rang, chết một cách long trọng để mọi người nhìn thấy. Nhưng những hy sinh nhỏ nhặt hàng ngày không ai nhìn thấy trong âm thầm, để chúng ta có thể sống tình thương thật sự thiết thực đối với anh chị em, có thể phục vụ anh chị em trong những việc nhỏ nhặt hàng ngày. Những điều đó không ai trông thấy, nhưng chính những việc làm đó là những điều rất cần thiết để tôn vinh Thiên Chúa.Hơn nữa, nếu chúng ta sống điều chúng ta tin, nếu chúng ta sống điều chúng ta nói. Và hôm nay, chắc chắn mỗi người chúng ta có thể nói: Chúa dạy mình yêu thương Chúa và yêu thương anh em như chính Chúa đã làm gương. Vậy thì chúng ta sẽ cố gắng sống hằng ngày trong cuộc sống của mình để làm vinh danh Chúa, để cho anh chỉ em xung quanh nhìn thấy những việc tốt, việc phục vụ mà chúng ta thực hiện, để rồi mọi người đều thấy Chúa qua hành động của mỗi người chúng ta.

Lạy Chúa, xin cho con có trái tim biết yêu thương để mọi việc con làm đều quy về tình yêu Chúa và mưu ích cho anh em. Amen

CHÚA NHẬT V PHỤC SINH C
Ga 13, 31 - 33a, 34 - 35

Bài Phúc Âm hôm nay trích từ chương 13 của thánh Gioan, trích những lời từ biệt của Chúa Giêsu cho các môn đệ trong bữa Tiệc Ly, trước khi Người chịu khổ nạn và sau khi Giuđa phản bội Chúa, đã bỏ bàn tiệc đi thực hiện ý đồ phản bội Ngài. Chúa Giêsu đã căn dặn các đồ đệ : "Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau. Yêu thương nhau là một điều răn mới, bởi vì Chúa Giêsu đã biến đổi luật yêu thương cũ của Cựu Ước là "Ngươi hãy yêu thương anh em như chính mình" (Lêvi 19,18) thành : "Yêu thương nhau như Ta yêu thương chúng con". "Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương các con". Như vậy, tình yêu thương mà chúng ta có với nhau không phải là một tình yêu lấy cái tôi làm chủ, mà là tình yêu chia sẻ tình yêu của Thiên Chúa. Tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa. Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, như thế thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau. Giới răn mới của Chúa được đồng hoá với tình yêu thương của Thiên Chúa đối với chúng ta và tình yêu thương của Thiên Chúa. Như thế, nếu ai nói tôi yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình thì là kẻ nói dối. Ai yêu mến Chúa thì cũng yêu thương anh em mình. Chính vì thế mà yêu thương trở thành dấu chỉ của những người thuộc về Chúa, là môn đệ Chúa. Với dấu này mà người ta nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con hãy yêu thương nhau.

Chúng ta đã học giáo lý từ nhỏ, với những lời giảng dạy mà chúng ta đã nghe qua, chắc chắn mỗi người chúng ta hiểu được như vậy. Chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu chúng ta, nhưng sống thực được những điều này mới là một việc khó, cần phải cố gắng liên lỉ hằng ngày. "Chúng con hãy nên trọn lành như Cha chúng con ở trên trời là Đấng trọn lành". "Chúng con hãy làm những việc tốt để anh chị em chúng con nhìn thấy những việc tốt lành đó mà ngợi khen Cha chúng con, Đấng tốt lành ở trên trời". Đó là lời giảng dạy của Chúa cho các môn đệ trước khi Chúa từ giã các ngài, trước khi Chúa thực hiện một hành động yêu thương cuối cùng là chết trên thánh giá. Và Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta, Chúa đã tôn vinh Thiên Chúa Cha bằng một hành động cao cả là hy sinh chính mạng sống của Chúa, để chứng tỏ tình yêu thương tột cùng của Chúa đối với Thiên Chúa Cha và đối với mỗi người chúng ta. Vì thế, trước khi từ giã các môn đồ Chúa Giêsu đã khuyên : "Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển nơi Con Người". Thiên Chúa Cha được vinh hiển qua hành động hy sinh vì tình yêu của Chúa Giêsu và Chúa Giêsu muốn cho chúng ta cũng được sống như thế để làm vinh hiển Thiên Chúa, sống giới răn yêu thương. Liền sau đó, Chúa Giêsu nói : "Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con". Chúng ta không thể mơ ước chết một cách rình rang, chết một cách long trọng để mọi người khác nhìn thấy. Nhưng những hy sinh nhỏ nhặt hàng ngày không ai nhìn thấy trong âm thầm, để chúng ta có thể sống tình thương thật sự thiết thực đối với anh chị em, có thể phục vụ anh chị em trong những việc nhỏ nhặt hàng ngày bằng tình bác ái, chia sẻ âm thầm. Những điều đó không ai trông thấy, nhưng vì những điều đó mà chúng ta cần thực hiện hằng ngày để tôn vinh Thiên Chúa. Trong dịp nói chuyện với một người ngoại giáo thì anh này đã nói : "Nếu những người công giáo sống đức tin của mình, sống những gì mà mình nói thì thật là một điều hết sức tốt đẹp, có thế chúng tôi cũng sẽ tin theo". Câu nói này nói lên trách nhiệm của chúng ta. Nếu chúng ta sống điều chúng ta tin, nếu chúng ta sống điều chúng ta nói. Và hôm nay, chắc chắn mỗi người chúng ta có thể nói : Chúa dạy mình yêu thương Chúa và yêu thương anh em như chính Chúa đã làm gương. Vậy thì chúng ta sẽ cố gắng sống hằng ngày trong cuộc sống của mình để làm vinh danh Chúa, để cho anh chị em xung quanh nhìn thấy những việc tốt, việc phục vụ mà chúng ta thực hiện, để rồi họ được hướng dẫn tin nhận Chúa là Cha và tin Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế duy nhất, và gia nhập cùng với chúng ta trong một cộng đoàn duy nhất là Giáo Hội của Chúa, cộng đoàn của những người tin Chúa đã thương anh chị em, cộng đoàn của những người sống tốt lành, sống tử tế để làm vinh danh Thiên Chúa và mưu ích cho xã hội.

Trong tinh thần tham dự Phụng vụ hôm nay, chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người biết sống yêu thương nhau, biết nghĩ đến nhau, biết yêu thương nhau, chia sẻ và phục vụ bằng tình yêu thương.

Xin Chúa chúc lành cho chúng con. Amen.

CHÚA NHẬT V PHỤC SINH
Ga 13,31-33a.34 - 35

Anh chị em thân mến.

Trong thời buổi kinh tế thị trường, vấn đề quảng cáo đang là một vấn đề hết sức cần thiết. Từ những phương tiện truyền thanh, truyền hình, báo chí. Trên đường đi, nơi nào có thể được là chúng ta nhìn thấy những biễn quảng cáo. Cuối cùng trên sản phẩm, với những nhãn hiệu và những dòng chữ ca ngợi hiệu năng của sản phẩm. Có những sản phẩm còn có dòng chữ: đề phòng giã mạo. Không biết đó có phải là hàng chính phẩm hay không, nhưng vẫn có dòng chữ như thế. Người tiêu dùng bị lẫn lộn trong những thứ giã và thật, vì nhìn vào nhãn hiệu, có khi phân biệt được, có khi đành phải chịu thua, chừng nào đụng đến thực tế thì đành ôm hận.

"Để mọi người nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau."

Chúa Giêsu cho những môn đệ của Ngài mang một nhãn hiệu, để mọi người nhìn thấy là hàng chính phẩm, là môn đệ thật: đó là Yêu thương. Tình yêu thương không thể giã tạo được. Cũng không phải chỉ là cái mã bên ngoài. Nhưng là cái từ bên trong tâm hồn đã có, mới thể hiện ra bên ngoài cho mọi người nhìn thấy. Tình yêu thương cũng không phải để cho mọi người nhìn thấy mà thôi, nhưng còn là một giới răn, một mệnh lệnh.

Yêu thương như Thầy yêu. Thầy yêu thương không tính toán, cho đi không cần đòi lại, cho đi cả mạng sống vì người mình yêu. Nhãn hiệu Thầy ban như một dấu ấn, ai không mang được nhãn hiệu thì chỉ còn cách ra đi trong đêm tối như Giuda đã ra đi, chính vì ông ra đi nên không nghe được mệnh lệnh và giới răn mà Thầy đã truyền.

"Mọi người nhận biết chúng con là môn đệ của Thầy, là chúng con yêu thương nhau." Lời nói đó Chúa Giêsu cũng nói với từng người trong chúng ta, là những người của thời đại ngày hôm nay, những người đang ngồi trong nhà thờ, đang lắng nghe. Chúa Giêsu cũng cho mỗi người một nhãn hiệu người môn đệ, một nhãn hiệu thật sự có chất lượng từ bên trong mới bộc phát ra ngoài, chứ không phải là thứ hàng không chất lượng.

Mỗi người trong chúng ta thử nhìn lại chính mình xem, với nhãn hiệu người Công Giáo, người Môn Đệ Chúa Giêsu mà chúng ta được mang, có đúng với phẩm chất của con người hiện tại của mình không? Hay chúng ta chỉ là cái thùng trống rỗng, có mã bên ngoài, nhưng thực chất bên trong thì hòan toàn trái lại. Không lẽ giống như Giuda, chúng ta đã ra đi trong giờ phút quyết định, giờ phút mà mệnh lệnh Yêu Thương được ban hành, chúng ta không thể lắng nghe, vì bận với những toan tính riêng tư.

Mọi người nhìn vào chúng ta, nhìn thấy cách sống, những lời nói, thái độ đối xử và những toan tính, họ có thể nói được : Đó là nhãn hiệu của tình yêu, đó là người môn đệ của Chúa Giêsu không?

Nếu chúng ta biết dùng tình yêu, để nói lên những lời chân thật phát xuất từ con tim biết yêu thương.

Nếu chúng ta biết bỏ đi những tranh chấp, những đố kỵ chỉ vì một chút tự ái, để biết bỏ đi những hành vi không tốt đẹp, những tham lam bất chính, những cơn phẩn nộ không đúng chỗ vì con tim yêu thương thật sự.

Nếu chúng ta nhìn thấy được nhu cầu của anh em chung quanh đang cần: một cái nhìn yêu thương thông cảm, một nụ cười khích lệ, một câu nói động viên, một hành động giúp đở phát xuất từ con tim chân chính.

Với tất cả những chữ Nếu đó mà chúng ta thực hành được, đó là chúng ta đã mang nhãn hiệu của người môn đệ, nhãn hiệu yêu thương.

Và nếu tại sao chúng ta đã mang nhãn hiệu yêu thương mà chúng ta còn tìm cách để hạ bệ nhau, chiếm đoạt của nhau, chiếm giữ những điều không phải của mình. Nếu đã mang nhãn hiệu yêu thương, sao còn tìm cách để hại nhau bằng những lời nói, những hành động và cả những mưu mô toan tính. Như vậy là chúng ta đã đi con đường của Giuda, đã ra đi trong giờ phút quang trọng, ra đi trong đêm tối, không biết lắng nghe. Như vậy chúng ta chỉ là một thứ hàng không chất lượng, không đúng với nhãn hiệu bên ngoài. Như vậy, chúng ta là giã tạo, giã hình hay sao?

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người được xứng đáng là người môn đệ thật sự của Chúa, được thể hiện bằng chính cuộc sống của lòng yêu thương chân thành.

ĐIỀU RĂN MỚI
Ga 13,31-33a.34 - 35

Chúa phán: " Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau, như chính Thầy đã yêu thương anh em..." (Gn 13, 34)

Ngày 16.08.1987, một chuyến máy bay của Mỹ bị rơi ngay sau khi vừa cất cánh gần phi trường Detroit. Có 155 người thiệt mạng; một người duy nhất sống sót là một bé gái tên Cêcilia, 4 tuổi. Em sống sót được chính là nhờ sự hi sinh của mẹ em, bà Paula Chican. Khi máy bay đang rơi, bà đã lấy thân mình cuộn tròn lấy em bé, che chở cho em khỏi tai nạn. Đây là một hành động nói lên tình yêu vô cùng cao quý! Bài Tin Mừng chúa nhật hôm nay cũng muốn trình bày cho chúng ta chính đề tài: điều răn mới của Đức Kitô: Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương...

a. Trước hết có mấy điều cần chú thích:

* điều răn mới: Luật yêu thương này đã có trong Cựu Ước (Lv 19, 18); luật cũng dạy: yêu đồng loại như chính mình. Tuy nhiên, sau này, nhất là thời Chúa Giêsu, người ta đã bóp méo lề luật đó theo ý mình, cho dễ giữ...Chúa Giêsu đã giải thích rộng điều răn mới này trong ch. 15, 1-17. Chính Chúa đã trở thành mẫu gương sáng ngời cho một Tình Yêu chân thành, Tình yêu hiến tế qua cái chết của Ngài trên Thập giá.

* dấu chỉ là môn đệ của Chúa: Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh: Tín hiệu cho mọi người nhận biết ai là môn đệ Chúa Kitô: đó là Tình Yêu. Yêu như Chúa, yêu đến mức sẵn sàng tha thứ cho chính kẻ thù. Từ căn bản điểm này, người ta gọi Kitô giáo là đạo yêu thương...

b. Trong Bữa Tiệc Ly, Chúa nói với các môn đệ: các con hãy yêu thương nhau... Mới nghe qua, các ông nghĩ yêu thương nhau có gì là khó, nhất là vì cùng là môn đệ Chúa thì làm sao người ta phải từ chối mà không yêu thương nhau. Chúa lại nói tiếp: hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương.... Rồi Chúa còn nói mạnh hơn: đây là lệnh truyền của Thầy: hãy yêu thương nhau... Chúa còn gọi đó là điều răn mới. Lúc đó các môn đệ rất mù mờ về chuyện này; chỉ sau khi Thánh Thần ngự xuống, các ông mới hiểu rõ mà thôi...

Có thể nói, ngày hôm nay chúng ta hiểu rõ điều răn yêu thương này hơn thời của Chúa Giêsu; nhưng liệu chúng ta có yêu thương hay sống luật yêu thương như Chúa không? Thầy ban cho các con một điều răn mới. Đó là lệnh truyền, không phải là một lời đề nghị. Vậy yêu thương không phải là hành động của tình cảm mà là của ý chí. Có người nói với tôi: thưa cha, cha có cách nào làm cho con đừng nghĩ xấu, đừng oán ghét chồng con không? Tôi trả lời: tôi không có cách nào cả...Nhưng chúng ta nên xem lại: chúng ta có nghĩ rằng mình phải yêu thương chồng mình vì Chúa dạy, vì là lệnh truyền của Chúa, dù chồng mình chẳng đáng ưa chút nào không?

Điểm thứ 2: Hãy yêu thương như Thầy yêu thương, bằng một tình yêu hi sinh,tha thứ vô điều kiện: Lạy Cha xin tha cho chúng, vì chúng không biết... Trở lại câu chuyện người chồng không đáng thương chút nào cả. Khi người chồng lầm lỗi chị nọ có sẵn sàng tha thứ? khi người chiống đáng ghét chi có sẵn sàng yêu thương ? Những lúc đó chúng ta hãy nhìn Thiên Chúa Ngài là mẫu gương yêu thương, tha thứ

c. Gợi ý sống và chia sẻ:

Chúa Giêsu yêu nhân loại chúng ta bằng tình yêu hi sinh, tha thứ vô điều kiện, vì thế Người là mẫu gương sáng ngời về yêu thương tha thứ. Ta có sẵn sàng yêu thương tha nhân như Chúa yêu thương ta không?

YÊU
Ga 13,31-33a.34 - 35

Cách đây khá lâu tôi có xem trên Tivi có đoạn quảng cáo thứ gì mà loạn xà ngầu rượt đuổi lung tung, sau đó mọi người trong phòng cùng nâng bia Tiger lên chúc mừng. Tôi thấy lạ lắm nhưng cũng chẳng thèm để ý đến bao nhiêu vì là quảng cáo mà. Nhưng mới đây đọc báo Tuổi trẻ lại nhận ra những cảnh quảng cáo này nhưng được dựng lại trên báo. Thì ra đơn giản là bọn xấu muốn tấn công anh Max một người trọng hội bia Tiger. Anh Max chạy lòng vòng thành phố New York sau đó anh vào một cái phòng trong đó mọi người có thích một dấu và họ nhận ra ai dấu hiệu đó là "tín đồ" của bia Tiger. Sau cùng là câu Slogan nổi lên "Tiger rạng danh trên toàn thế giới".

Tôi không phải là nhân viên của bia Tiger để quảng cáo cho loại bia này nhưng với dấu thích trên tay làm cho tôi liên tưởng đến công việc của Phêrô nơi cửa thiên đàng như chúng ta thường nói. Muốn vào nước thiên đàng chắc chắn phải có một dấu hiệu nào đó để chứng tỏ mình là công dân của nước Chúa. Dấu hiệu đó không thể là gì khác ngoài dấu chỉ yêu thương. Và vơí dấu này người ta biết mình là " tín đồ " của nước Chúa. Nhưng yêu thương là yêu thương như thế nào? Bài Tin Mừng mà Phụng vụ cho đọc hôm nay cho thấy lý tưởng của tình yêu thương chính là tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. " Giờ đây Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người nếu Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình " . Tình yêu của Thiên Chúa là một tình yêu rộng mở, trao hiến trọn vẹn hết cho nhau. Thiên Chúa phải là Thiên Chúa Ba Ngôi bởi nếu một Ngôi hay hai Ngôi thì là tình yêu khép kín, vị kỷ. Trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi mở rộng để Thiên Chúa tác thành trời đất và thông chuyển tình yêu của Thiên Chúa cho mọi loài. Trong cuộc sống dương thế của Chúa Giêsu chúng ta có thể thấy được sự hiệp nhất trong tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúa Giêsu khi làm phép lạhoá bánh ra nhiều cho năm ngàn người ăn thánh Gioan ghi lại như thế này "Ngài cầm lấy bánh dâng lời tạ ơn rồi phân phát..." ta thấy Ngài không xin nhưng Ngài thực hiện theo ý Cha và Ngài tạ ơn Cha.

Còn chúng ta, chúng ta được Chúa Giêsu dạy hãy yêu thương nhau. Nhưng tại sao ở đây Chúa Giêsu lại nói "Thầy ban cho anh em một điều răn mới". Mới là mới ở chỗ nào? Mới là cách quy chiếu mới, cách thể hiện mới. Trong Cựu Ước đã có dạy yêu thương nhưng quy chiếu về chính mình "hãy yêu thương tha nhân như chính mình". Còn hôm nay Chúa Giêsu dạy "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Rõ ràng có một chuẩn mực mới. Yêu như Chúa yêu là yêu hết tình, yêu đến độ hy sinh tính mạng cho người mình yêu. Ở đây có hai phía chủ thể yêu và người được yêu. Chúng ta là người được Chúa yêu và theo như thánh Phaolô nói Người yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là những tội nhân, chúng ta chẳng có đáng yêu chút nào mà Chúa lại yêu hết tình, yêu hết mình vì chúng ta. Cho nên tình yêu thật không hệ tại nơi người được yêu có đáng yêu hay không, có đáp lại tình yêu hay không mà khi yêu là yêu trọn vẹn như nhà tư tưởng, mục sư Steve Goodier nói như thế này trong cuốn sách Đơn Thuốc Bình An Cho Tâm Hồn "Tình yêu đích thực không đòi hỏi người kia yêu mình như mình đã yêu". Trong tình yêu nam nữ chắc anh chị em cũng đã có lần kinh qua kinh nghiệm này. Yêu là yêu thế thôi, không thể chỉ cho người khác biết rằng tôi yêu em hay tôi yêu anh vì cái gì mà là trọn vẹn, cái gì nơi người yêu của mình cũng đáng yêu. Yêu như Chúa yêu là yêu thật, yêu có sự hao mòn đi nơi chính mình. Nếu chưa có từ bỏ, chưa mất mát, chưa hy sinh thì thường khi là chưa phải là yêu thương thật. Nhìn vào các gia đình ta có thể dể dàng nhận ra điều này. Cha mẹ sẳn sàng hy sinh ăn đầu tôm xương cá để cho con được ăn miếng ngon, cha mẹ sẳn sàng mặc áo vá, áo cũ để cho con cái có được những bộ đồ đúng mốt nhưng với sự hy sinh đó cha mẹ chúng ta không cảm thấy đó là sự mất mát, không cảm thấy thiệt thòi nhưng đó là một điều phải làm, nên làm và hạnh phúc vì được hy sinh cho con. Chỉ vì cha mẹ yêu con. Rộng lớn hơn một chút, trong xã hội của chúng ta cũng có rất nhiều người đã thể hiện tình yêu một cách vô vị lợi. Ví dụ như chị Huỳnh Tiểu Hương mà cách nay khá lâu trong chương trình gặp gỡ cuối tuần của đài Thành Phố Hồ Chí Minh mà tôi có dịp được xem. Chị là một đứa bé bị bỏ rơi, bị bán cho các động mại dâm ở những nơi người ta đào vàng, rồi chị trốn thoát trở thành trẻ em đường phố...may mắn thay số phận cho chị được khá lên và hiện nay chị đang nuôi dưỡng hơn 200 em bị bỏ rơi khuyết tật. Với sức khoẻ của chị như hiện nay chị đang bị bệnh ung thư chẳng biết công việc của chị rồi sẽ ra sao! Chị có hai câu nói làm tôi cảm phục và nhớ mãi. Đó là chị nói có những đêm chị trằn trọc chị như có linh cảm như có bé nào đó bị bỏ rơi và như có một sức mạnh vô hình thúc đẩy chị phải thức dậy để mang bé đó vào nhà thì chị mới yên lòng cho dù trời đêm mưa gió. Khi chị Quỳnh Hương dẫn chương trình hỏi "Nếu có một ai đó muốn mua hay xin các con của chị thì chi có cho hay bán không?". Chị trả lời rất dứt khoát "Không, không, không tất cả là con của tôi, tôi nuôi chúng đến khi nào tôi chết thì thôi...". Còn nhiều còn nhiều những tấm gương trong cuộc sống đã yêu, đã sống hy sinh vì yêu.

Người Kitô hữu chúng ta được tạo dựng và được cứu độ trong tình yêu của Thiên Chúa, lại được mời gọi sống điều răn yêu thương, cho nên có thể nói được yêu thương là căn tính, là bản chất của người Kitô hữu. Điều này đòi buộc mỗi người chúng ta phải luôn tự hỏi mình xem mình đã sống và đã thực hành điều răn Chúa dạy như thế nào. Tình yêu của người Kitô hữu chúng ta không hệ tại ở những cảm xúc tự nhiên nhưng phải là tiếp nối của tình yêu của Chúa Kitô, một tình yêu siêu vượt trên những cảm xúc tự nhiên. Tình yêu đó mang một khả năng biết mở rộng vòng tay, mở rộng con tim để đến với mọi người kể cả những người không có thiện cảm đối với chúng ta. Yêu là nhận ra Chúa nơi tha nhân. Yêu vì họ cũng là con của Chúa như chúng ta, không yêu thương thì không còn là Kitô hữu. Càng biết yêu thương, dám yêu, yêu không loại trừ là càng ngày càng trở nên những người Kitô hữu đích thực.

Ước gì mỗi người chúng ta thích được chữ yêu thương nơi tâm hồn chúng tađể chúng ta được trở nên những tín đồ trung thành của Thiên Chúa tình yêu.

HÃY YÊU THƯƠNG NHAU
Ga 13,31-33a.34 - 35

1. Thỉnh thoảng có những người giáo dân nhờ tôi đánh máy di chúc, thường thì trong di chúc đều có lời căn dặn đại khái : "Má (cha...) mong muốn anh chị em chúng con hoà thuận thương yêu nhau...". Cách nào đó, những bậc cha mẹ nầy đã thấm nhuần được tinh thần của Đức Giêsu. Trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, trong bầu khi dùng buổi tiệc cuối cùng với các môn đệ, trước lúc bước vào con đường khổ nạn, Đức Giêsu đã trối cho các môn đệ, cũng là cho mỗi người chúng ta nữa về giới luật yêu thương. Người nói rõ rằng: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau ; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em"(Ga 13,34).

2. Giới luật yêu thương Chúa ban có gì mới ? Thực ra lời dạy yêu thương nhau đã có từ xưa, có thể nói từ khi con người xuất hiện. Chúng ta vẫn nghe nói : "Tứ hải giai huynh đệ" (bốn bể là anh em), hay " thương người như thể thương thân", hay "bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy là khác giống nhưng chung một giàn"... Ngay trong Cựu Uớc cũng đã dạy rất rõ :"Hãy yêu đồng loại như chính mình..." (Lêvi 19,18). Nhưng tình yêu tha nhân nầy, ta tạm gọi là kiểu cũ, so với lời dạy và gương sống của Đức Giêsu, ta tạm gọi là kiểu mới, thì còn nhiều hạn chế, chúng ta sẽ thấy rõ điều đó qua một vài điểm so sánh :

- Yêu tha nhân theo kiểu cũ, mà ta thường đối với nhau, đó là lấy bản thân mình làm tiêu chuẩn. Đành rằng yêu người khác như bản thân mình là rất quý, nhưng vì lấy bản thân mình làm tiêu chuẩn nên làm sao tránh khỏi những vị kỷ, bất ổn, mà chúng ta sẽ bàn tiếp ở những điểm sau. Còn yêu thương theo kiểu mới, thì yêu như chính Chúa yêu thương chúng ta, cho nên những bất ổn đó sẽ được khắc phục.

- Yêu tha nhân theo kiểu cũ, do lấy bản thân mình làm tiêu chuẩn, cho nên sẽ giới hạn về đối tượng. Người Do thái xưa được dạy chỉ phải yêu: đồng đạo, đồng chủng, đồng hương... chứ không phải yêu thương tất cả mọi người. Cho dù xã hội ngày nay rất tiến bộ, nhưng tình yêu tha nhân theo kiểu cũ vần còn tồn tại, ta vẫn còn nghe những cụm từ "không đội trời chung với kẻ thù", "đối với kẻ địch thì phải khôn ngoan, cương quyết..." ! Còn yêu thương theo kiểu mới đó là yêu thương hết mọi người, dù kẻ làm khó dễ, thù nghịch với ta (x. Mt 5,43-48).

- Yêu tha nhân theo kiểu cũ, chúng ta còn dễ thấy ở mục đích yêu thương: yêu thương người khác vì mình. Sống hiền hoà với tha nhân để tránh gây thù oán, để được yên ổn. Cũng có thể yêu thương người khác vì người đó đem lại cho ta lợi lộc, hoặc thoả mãn ước muốn nào đó của ta... Còn yêu thương theo kiểu mới, đó là yêu thương vì lợi ích của người được yêu thương, chẳng hạn Thiên Chúa vì yêu thương muôn loài nên Ngài đã tạo dựng và luôn chăm sóc cho muôn loài, đặc biệt là loài người. Đức Giêsu vì yêu thương ta nên sẵn lòng chịu nạn chịu chết vì ta.

- Yêu tha nhân theo kiểu cũ do lấy mình làm điểm quy chiếu, nên hay có sự thay đổi trong yêu thương. Vừa lòng thì còn quý mến, hết vừa lòng thì thôi. Lòng dạ con người thay đổi nào ai có thể lường ? Còn yêu thương theo kiểu mới do Chúa dạy đó là tình yêu không thay đổi, cho dù đối tượng có trở nên bất trung, bất xứng. Ngay trong Cựu Ước cũng đã nói lên điều đó :"Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương" (x. Tv 118 ; 136), dù dân Do thái có trung thành với Thiên Chúa hay không !? Nơi Đức Giêsu, một điển hình rõ nét, Người vẫn một mực yêu thương Phêrô, Giuđa dù các ông có phản bội Chúa hay chưa ! Người cũng đối với mọi người chúng ta như thế.

Đức Giêsu đã dạy, đã sống và muốn chúng ta cũng hãy đối xử với nhau: "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em".

3. Nhưng sống yêu thương nhau như Chúa dạy thực ra không phải dễ, do chúng ta thường có khuynh hướng quy về cái tôi vị kỷ của mình. Chính thánh Phaolô đã từng thốt lên :"Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tối ghét thì tôi cứ làm" (Rm 7,15). Do quy về cái tôi, nên chúng ta hay có thái độ so bì, ganh tỵ ngay cả những người thân thương ruột thịt của mình, nhiều khi với lý do rất đơn giản như : nó đẹp hơn tôi, nó giàu hơn tôi, nó được cha mẹ quan tâm hơn tôi, được hưởng gia tài nhiều hơn tôi... nên tôi ghét! Do quy hướng về mình, nên ta thường muốn được cái lợi, được hưởng thụ, được phục vụ mà ít quan tâm đến lợi ích của người khác, ít quan tâm phục vụ, hy sinh cho người khác. Nếu sống mà như thế thì làm sao ta có thể yêu thương như Chúa được. Đức Giêsu, Đấng đến không để được phục vụ mà để phục vụ. Vậy trong tinh thần bác ái, phục vụ người khác theo gương Đức Giêsu, chúng ta có thể bớt so bì, ganh tỵ... để dễ yêu mến người khác hơn.

4. Chúa dạy chúng ta yêu thương mọi người, không giới hạn đối tượng, nhưng Chúa cũng lưu tâm các môn đệ của Chúa, các Kitô hữu, cách đặc biệt về giới luật nầy: "Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm nầy : là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13,35). Nếu anh em trong một nhà, nếu các Kitô hữu không yêu thương nhau thì làm sao mà có thể yêu thương những người khác được ? Vậy hãy cố gắng thực hiện giới luật yêu thương quan trọng nầy nơi gia đình, cộng đoàn, nơi làm việc, xóm làng...

Mỗi người chúng ta hãy tự vấn lương tâm của mình : Tại sao người ta không xin gia nhập Giáo Hội, không đánh giá cao bản thân, gia đình, đoàn thể, xóm giáo, họ đạo chúng ta ? Chắc do nhiều nguyên nhân, nhưng thiết nghĩ, một trong những nguyên nhân chính yếu đó là do chúng ta sống thiếu yêu thương nhau ! Nếu đúng như vậy, mọi người chúng ta hãy cố gắng thực hiện lệnh truyền của Chúa :"Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau ; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em", đó là phương cách sống chứng nhân cho Đức Kitô cách hữu hiệu.

YÊU THƯƠNG LÀ PHỤC VỤ
Ga 13,31-35

1. LỜI CHÚA: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 13,34).

2. CÂU CHUYỆN: ĐẶC ĐIỂM CỦA TÌNH YÊU THỰC SỰ:

- YÊU THƯƠNG LÀ QUÊN MÌNH VÌ NGƯỜI MÌNH YÊU:

Vào năm 1995, một trận động đất với cường độ mạnh đã xảy ra tại Thành phố Kô-bê Nhật Bản. khiến cho nhiều nhà cửa trong thành phố sụp đổ trở thành những đống gạch khổng lồ, gây thiệt hại rất lớn cho thành phố về người và của. Các đội cứu hộ ngày đêm làm việc khẩn trương để lôi ra từ những đống gạch đổ nát nhiều xác chết và người bị thương. Nhưng cũng chính từ tai họa này, người ta đã khám phá ra một câu chuyện cảm động về một tình yêu hy sinh quên mình như sau:

Đến ngày thứ hai của cuộc đào bới, thì từ dưới một ngôi nhà đổ nát, người ta đã đào lên được hai mẹ con vẫn còn sống thoi thóp. Đứa con nhỏ mới được vài tháng tuổi đang nằm ngủ yên trong lòng mẹ, đang khi mẹ của em lại bị hôn mê bất tỉnh. Sau khi được cứu sống, một nhà báo đã phỏng vấn bà mẹ trẻ ấy như sau: "Làm thế nào mà hai mẹ con chị có thể sống được đến hai ngày dưới đống gạch đổ nát kia?". Chị đáp: "Tuy bị vùi dưới tòa nhà, nhưng rất may chúng tôi đã không bị đè chết. Mấy tiếng đồng hồ sau thì con tôi khóc đòi ăn đang khi tôi chẳng còn giọt sữa nào. Tôi quờ quạng tìm xem có cái gì ăn cho đỡ đói không. Bất ngờ bàn tay tôi chạn vào một con dao sắc trong cái giỏ bên mình. Tôi cầm dao rạch một đường ở ngón cái cho chảy máu, rồi ấn ngón tay bị cắt vào miệng con để bú máu thay vì sữa mẹ. Sau khi bú ngón tay của tôi được mươi phút thì cháu nằm im ngủ. Nhưng rồi lại tiếp tục khóc vì đói. Tôi liền rạch thêm một đường nữa nơi ngón tay khác và cho cháu bú. Sau đó tôi ngất đi lúc nào không biết cho tới khi cả hai mẹ con được cứu sống". Nhà báo tiếp tục hỏi: "Thế chị không nghĩ rằng làm như thế thì chị sẽ bị mất máu chết sao?" Chị ta trả lời: "Lúc ấy, tôi không nghĩ đến mình, mà chỉ lo kiếm cái gì cho con bú để nó được sống!".

- YÊU THƯƠNG KHÔNG ÍCH KỶ NHƯNG LUÔN NGHĨ ĐẾN NGƯỜI YÊU:

Một ông lão đang đào đất gieo trồng mấy hột đào. Cháu trai của ông thấy vậy liền thắc mắc hỏi: "Ông ơi, tại sao ông lại phải vất vả trồng đào làm chi? Liệu ông có sống được tới ngày cây đào ra trái hay không?". Bấy giờ ông lão mới âu yếm đặt tay lên vai đứa cháu, vừa cười vừa nói: "Này cháu, trái đào chúng ta ăn bây giờ chẳng phải là do người khác sống trước chúng ta đã trồng đó sao ? Chúng ta ăn trái đào do người trước trồng, thì tại sao ta lại không trồng cho người sau được hưởng ? Còn nếu ai cũng nghĩ rằng: chỉ khi nào được ăn mình mới trồng, thì liệu bây giờ chúng ta có được ăn những trái đào này hay không hả cháu?"

- YÊU THƯƠNG LÀ QUẢNG ĐẠI CHO HƠN NHẬN :

Một sinh viên nghèo nọ theo học ngành mỹ thuật, ngày kia ghé thăm phòng vẽ của một danh họa Pháp. Bấy giờ căn phòng thật vắng lặng. Rồi cậu ta thấy có một lão hành khất đang ngồi ở một góc tối để chờ làm mẫu cho họa sĩ vẽ. Thấy bộ dạng tiều tụy đáng thương của người hành khất, cậu sinh viên kia động lòng trắc ẩn liền mở bóp ra và tìm mãi mới lấy ra được một quan tiền tặng cho ông lão nghèo khổ kia. Khi họa sĩ đến làm việc, người hành khất mới hỏi xem cậu sinh viên có lòng quảng đại kia là ai. Dựa theo lời của người hành khất, họa sĩ đã trả lời: "Thưa đó là một sinh viên nghèo nhưng rất hiếu học". Chiều hôm đó, cậu sinh viên đã nhận được một món quà gói kín, trên có đề tên người gửi là "Nam tước Giắc đờ Rót-sin" (Jacques De Rothschild). Mở gói quà ra, cậu rất vui mừng đếm được tới 10 ngàn quan, kèm theo một bức thư nội dung như sau: "Đây là số tiền lời do một quan tiền mà cậu đã bố thí cho người nghèo sáng hôm nay!". Thì ra người hành khất ngồi chờ làm mẫu cho họa sĩ vẽ chính là một nam tước ham thích hội họa. Ông cũng là một người giàu có và tốt bụng.

- TÌNH YÊU CÓ SỨC ĐỔI MỚI NGƯỜI YÊU:

Cách đây ít lâu, đài truyền hình Thành phố đã chiếu một bộ phim giáo dục rất hay, mang tựa đề "Giai điệu hạnh phúc" (La Mélodie du bonheur). Câu chuyện về một cô dự tu tên là Ma-ri. Chị được mẹ bề trên sai đi làm gia sư trong một gia đình của viên đại úy góa vợ. Mấy đứa con của viên đại úy lúc đầu tỏ ra ngang bướng khó dạy. Nhưng nhờ thái độ khoan dung vui vẻ cùng với tài nhảy múa đàn hát, nhất là nhờ một tình thương bao la, cảm thông và chia sẻ... mà cô giáo Ma-ri đã dần dần cảm hóa được lũ học trò tinh nghịch và biến chúng trở thành những học sinh chăm ngoan và tài giỏi.

- TÌNH YÊU TÁI TẠO SỨC SỐNG MỚI CHO CỘNG ĐOÀN:

Một tu viện trưởng đến thăm một vị ẩn sĩ khôn ngoan, để xin tư vấn về cách điều hành tu viện. Ông cho biết: trước đây tu viện của ông là một trung tâm thu hút nhiều khách hành hương đến viếng thăm và cầu nguyện. Nhà nguyện trong tu viện luôn vang tiếng hát cầu kinh của khách thập phương. Số người đến gõ cửa xin vào tu đông đến nỗi không còn chỗ nhận thêm. Thế nhưng hiện nay tu viện lại rơi vào tình trạng vắng tanh vắng ngắt. Các tu sĩ chỉ còn lèo tèo mười lăm người già. Ai nấy chỉ lo cho bản thân mình mà không biết nghĩ đến kẻ khác. Nói chung tình trạng tu viện hiện đã xuống cấp tồi tệ. Sau đó, tu viện trưởng đã yêu cầu vị ẩn sĩ tư vấn để tìm ra nguyên nhân để khắc phục. Vị ẩn sĩ đã góp ý như sau: "Theo thiển ý tôi thì nguyên nhân chủ yếu của tình trạng xuống cấp kia chính là tội vô tình!" và giải thích thêm: "Đức Giê-su hiện đang cải trang thành một người trong tu viện, mà không ai nhận ra Người".

Nhận được lời giải đáp, tu viện trưởng trở về tu viện triệu tập các tu sĩ và cho biết Đức Giê-su hiện đang cải trang thành một thành viên trong nhà dòng. Ai trong cộng đoàn cũng có thể là Đức Giê-su ! Từ ngày đó, các tu sĩ đã đối xử với nhau như đối với Đức Giê-su: họ đã biết quan tâm phục vụ nhau, tôn trọng nhau và sẵn sàng bỏ qua những lỗi lầm khuyết điểm cho nhau. Bầu khí cộng đoàn dần dần nồng ấm trở lại và mọi người đều thấy an vui. Ngày ngày họ chăm chỉ lao động khiến năm ấy tu viện được một mùa nho và lúa mì bội thu. Họ chia sẻ hoa lợi cho dân nghèo chung quanh. Tấm gương đạo đức của họ đồn xa khiến khách hành hương khắp nơi lại lục tục kéo về tu viện dự lễ, nghe giảng và xưng tội. Số tu sĩ ngày một gia tăng. Chính nhờ thực hành tình yêu thương nhau cụ thể mà tu viện đã từ tình trạng mất sinh khí trở nên sinh động và ngày một nên tốt đẹp hơn.

3. SUY NIỆM:

- THẾ NÀO LÀ MỘT TÌNH YÊU ĐÚNG NGHĨA: Yêu thương không dừng lại những biểu hiện bên ngoài như: Mắt nhìn đắm đuối, lời nói dịu dàng, cử chỉ âu yếm, tim đập loạn nhịp... Tình yêu đúng nghĩa biểu lộ qua các việc: Luôn nghĩ đến và làm điều tốt cho người mình yêu, quảng đại cho đi mà không tính tóan, không chấp nhất những lầm lỗi và bào chữa lỗi lầm cho người mình yêu, sẵn sàng hy sinh chịu chết cho người yêu.

- YÊU THƯƠNG NHƯ THẦY: "Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Đức Giê-su đòi các môn đệ thực hành giới răn mới yêu thương như Người qua các việc làm cụ thể như sau: Rửa chân hầu hạ cho các môn đệ, cảm thông chia sẻ với môn đệ như "bạn hữu thân tình". "Yêu cho đến cùng" qua việc hiến thân làm của ăn cho môn đệ và sẵn sàng chịu chết đền tội thay cho họ.

Các tín hữu hôm nay cũng được Chúa mời gọi: "Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu". Chúng ta chỉ có thể thực hành được giới răn mới này khi chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Chúa, ý thức giới hạn của mình để xin Chúa giúp, noi gương Người phục vụ anh em, luôn quên mình và hy sinh cho tha nhân ngay cả mạng sống của mình. Tóm lại, tình yêu "như Thầy đã yêu" không phải là thứ tình yêu vị kỷ, chiếm đoạt, lợi dụng người yêu để trục lợi (Éros), nhưng là một tình yêu quảng đại, vị tha, sẵn sàng hiến dâng và luôn hy sinh cho người yêu (Agapè).

- YÊU THƯƠNG LÀ PHƯƠNG THẾ TRUYỀN GIÁO HỮU HIỆU: Có nhiều dấu hiệu để giúp người khác nhận ra người ki-tô hữu như: đeo ảnh, làm dấu thánh giá, treo ảnh Chúa trong nhà... Nhưng dấu hiệu quan trọng nhất mà Đức Giê-su dạy trong Tin mừng hôm nay chính là sống tình yêu thương. Đây cũng là một phương thế truyền giáo hữu hiệu như Lời Chúa phán: "Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em Đấng ngự trên trời" (Mt 5,16).

Tiếc thay, hiện nay vẫn còn những bất đồng sâu sắc về đức tin giữa những người cùng tôn thờ Thiên Chúa và cùng tin vào Đức Giê-su, nhưng chưa hiệp thông với nhau, còn đang phân hóa thành các tôn giáo như: Công Giáo, Chính Thống, Anh Giáo, Tin Lành... Thậm chí còn có những mối hận thù và giết hại lẫn nhau giữa những người cùng tin vào Chúa Giê-su như hai cộng đồng Công Giáo và Tin Lành ở Bắc Ai-Len, hai bộ tộc Hu-tu và Tút-si ở Ru-ăng-đa... Biết đến bao giờ mọi tín hữu mới có thể cùng đọc chung kinh tin kính, mừng các đại lễ Giáng Sinh và Phục Sinh trong cùng một ngày, cùng cử hành một lễ nghi phụng vụ ? Thế giới hiện nay giống như một sa mạc khô khan cằn cỗi vì thiếu tình yêu. Ước chi các cộng đoàn Ki-tô sẽ trở thành những ốc đảo, có những thảm cỏ xanh tươi và suối nước trong lành, cuốn hút các con chiên lạc quay về sống trong đại gia đình có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em như lời cầu nguyện của Đức Giê-su: "Xin cho chúng nên một" (Ga 17,21).

4. THẢO LUẬN:

1) Bạn thích câu chuyện nào nhất trong các câu chuyện kể trên và rút được bài học vào về tình yêu chân chính ?

2) Bạn có hài lòng về bầu khí yêu thương theo lời Chúa dạy trong gia đình, hội đòan, xứ đạo của bạn hiện nay chưa ? Tại sao ? 3) Bạn cần làm gì để loan báo Tin Mừng tình thương, giúp người lương nhận ra Chúa đang hiện diện trong cộng đòan của bạn ?

5. NGUYỆN CẦU

LẠY CHÚA GIÊ-SU, xin dạy chúng con biết yêu thương và hợp tác với người khác trong việc xây dựng Nước Trời ở trần gian. Xin cho chúng con biết đến với tha nhân không chút thành kiến, nhưng luôn tin tưởng họ. Khi làm việc chung, xin cho chúng con biết nhìn thấy Chúa ở giữa chúng con để sẵn lòng bỏ qua những tự ái, ích kỷ nhỏ nhen hay những thành kiến hẹp hòi về người khác.

LẠY CHÚA, ước chi chúng con dám quên mình đến với tha nhân. Xin cho chúng con đón nhận được ơn Thánh Thần sẵn sàng mở rộng đôi tai để lắng nghe người khác, mở lòng để đóan nhận mọi người và mở rộng tay để nối vòng tay lớn. Xin cho thánh ý Chúa sớm được thực hiện nhờ sự hiệp nhất của các môn đệ Chúa, cùng nhau xây dựng một "Trời Mới Đất Mới" công bình và yêu thương, bắt đầu từ gia đình, cộng đoàn rồi đến xứ đạo và sau cùng đến mọi dân tộc trên thế giới.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

LM ĐAN VINH www.hiephoithanhmau.com

YÊU THƯƠNG NHAU
Ga 13,31-35
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Cả cuộc đời của Chúa Giêsu nói lên Tình Yêu. Ngài đã diễn tả Tình Yêu hoàn hảo, trọn vẹn nhất là cái chết trên thập giá :" Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của Người hiến mạng sống vì người mình yêu " ( Ga 15, 13 ).Chúa nhật V Phục Sinh cho chúng ta thấy bối cảnh của Nhà Tiệc Ly, chiều Thứ Năm Thánh khi Chúa Giêsu dùng bữa tiệc Vượt Qua cuối cùng với các môn đệ, những người thân tin nhất với Chúa Giêsu. Ngài cho các môn đệ hiểu rõ về tình thương của Ngài đối với họ. Tình thương đòi phải trung thành không phản bội, giờ này Giuđa kẻ phản bội Chúa vẫn đang có mặt, Ngài đã tế nhị vạch mặt kẻ phản lại Ngài và Giuđa đã bỏ ra đi trong bóng đêm. Lúc đó, Chúa Giêsu nói :" Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người ".

Chúa Giêsu luôn hướng về giờ này. Giờ đau thương nhưng lại là giờ tử nạn. Giờ chết nhưng là Giờ Phục Sinh. Mầu nhiệm tử nạn đan quyện Mầu nhiệm sống lại. Thập giá là do sự độc ác của con người bầy ra để đóng đinh, xử tội người khác. Nhưng đối với Chúa Giêsu, Thập giá mang ơn cứu độ cho con người. Thánh giá trở nên vinh quang, khải hoàn. Giờ chết trở thành giờ cứu rỗi. Bóng tối trở nên ánh sáng. Giờ định mệnh xem ra là tang thương, nhưng giờ này lại là giờ vinh hiển bới qua cái chết, Chúa đã đánh bại tử thần. Qua cái chết, và Phục sinh, Chúa đã cứu độ nhân thế. Giờ ăn lễ Vượt qua cuối cùng, Chúa đã bộc bạch tâm tình cho các môn đệ. Ngài gặp gỡ các môn đệ để chia ly với các môn đệ :"Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi ". Chúa tỏ hết tâm hồn yêu thương các môn đệ và rồi Ngài dạy dỗ các môn đệ " Hãy yêu thương nhau ". Ra đi để chịu chết, Chúa Giêsu không để lại cho các môn đệ của cải, vàng bạc, ruộng vườn vv...Ngài để lại cho các môn đệ một di chúc, một lời trăn trối yêu thương. Đây là giới luật yêu thương. Chúa không chỉ nói với các môn đệ riêng tư là hãy yêu thương nhau nhưng Ngài còn đi xa hơn nữa là dạy cả Giáo Hội phải sống chia sẻ Tình Thương. Chiều thứ năm thánh, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ một bài học yêu thương :" Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương ". Ở đây không phải chỉ là tình bằng hữu nhưng là tình thương thật sự. Tình thương hiến mạng sống cho nhau.

Tình yêu mà Chúa truyền cho các môn đệ thực hành là tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa. Tình yêu không nằm trên môi miệng, trong lời nói mà tình yêu diễn tả bằng chính mạng sống của con người. Do đó, người Kitô hữu càng gắn bó với Chúa, càng mật thiết với Chúa, họ càng yêu thương như Chúa, đặc biệt quan tâm, yêu thương các người nghèo, người neo đơn, cơ nhỡ, tàn tật vv...Các Thánh đã làm gương cho chúng ta về giới luật yêu thương chẳng hạn như Chân Phước Têrêsa Calcutta, Cha thánh Maximialô Kolbê, Thánh Phanxicô Assisi, Thánh Anphongsô vv...Nhiều bác sĩ đã tận tình làm công việc từ thiện bác ái giúp đỡ người nghèo, và những người neo đơn, cơ cực. Nhiều thiện nguyện viên trên thế giới đã lăn xả làm việc không mệt mỏi giúp đỡ những người nghèo khổ, những nơi có bão lụt, thiên tai vv...Đức Bác Ái Kitô giáo không phải là một lời khuyên nhưng là một điều răn mới. Yêu nhau quả thực từ xưa đến nay vẫn đã được con người thực hành, nhưng mới ở chỗ, Chúa Giêsu nói và đã thực hiện là không loại trừ bất cứ ai cả, đặc biệt mới là yêu thương ngay cả kẻ thù :" Ai vả má phải, đưa cả má trái ". Yêu như Chúa yêu. Đó là cái mới của giới luật yêu thương mà Chúa đã dạy cho nhân loại.

Yêu thương là cốt lõi của Tin Mừng Chúa Giêsu. Yêu thương cũng là cốt lõi của Đạo Công Giáo. Bởi vì, Chúa Giêsu đã dạy :" Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã thương các con ". Nơi khác chúng ta đọc thấy :" Cứ dấu này người ta sẽ nhận ra các con là môn đệ của Ta.Đó là các con hãy yêu mến nhau ". Cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, Sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại :" Họ bỏ tất cả làm của chung, cùng nhau cầu nguyện, bẻ bánh...đến nỗi những người chung quanh đều kêu lên :" Kìa xem họ yêu thương nhau ".

Yêu thương là cái tinh túy nhất của Đạo do Chúa Giêsu thiết lập. Liệu chúng ta có sống thực hành đức ái như Chúa đã dạy không và nhiều người khi nhìn vào chúng ta họ có kêu lên:" Kìa xem các Kitô hữu yêu thương nhau " không ?

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết thực hành giới răn của Chúa là yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.

VƯƠNG QUỐC TÌNH YÊU
Ga 13,31-35
Lm. Anmai, CSsR

Lịch sử nhân loại đã mở đầu bằng sáng tạo thì sẽ kết thúc bằng tái tạo (sáng tạo mới).

Người ta vẫn thường dùng chữ tận thế để diễn tả sự tan vỡ của lịch sử và vũ trụ vật chất. Sự tan vỡ, sự tận thế là điểm tất yếu để cho thế giới mới xuất hiện. Tận thế, theo cách nói, cách diễn đạt của con người chính là giây phút quặn đau để chấm dứt cõi tạm và đưa vào con người vào cuộc sống mới (Rm 8, 21.22; 2 P 3, 10.13; Kh 21, 1.5)

Gioan đã được "ơn" để thấy vũ trụ thời cánh chung. Trời cũ đất cũ đã qua đi. Cách riêng, biển là nơi ủ ấp những sự dữ cũng sẽ không còn nữa. Một trời mới đất mới sẽ xuất hiện để thay cho trời cũ đất cũ. Một Giêrusalem mới tự trời cũng sẽ xuống và chỉnh tề như một tân nương. Hội Thánh mới là dân Thiên Chúa sẽ xuất hiện đó là mỗi người chúng ta. Tất cả trong tư thế sẵn sàng để đón chờ đức lang quân. Người đến đó chính là Thiên Chúa và Thiên Chúa ở cùng họ. Với tình thương, Thiên Chúa sẽ lau khô giọt lệ trên khuôn mặt của họ. Chúa sẽ khử trừ sự chết. Thiên Chúa phán: này Ta làm mới mọi sự.

Thế giới mới, cuộc sống mới mà Thiên Chúa hứa này hoàn tất mọi lời hứa và công trình của Ngài. Ơn cứu độ đã hứa, đã chuẩn bị một thời gian thật dài trong lịch sử nay hoàn thành. Chúa Giêsu là thủ lãnh của vạn vật tập họp tất cả trong Ngài và Ngài trong tư cách là con trao lại Thiên Chúa Cha để như lời Chúa Giêsu nói là tất cả mọi sự là của Cha.

Thế giới mới này đã được hoàn tất và sẽ phục hồi tất cả những gì đã mất, đã hư hỏng để công trình cứu độ của Thiên Chúa hoàn thành. Thế giới mới này không chỉ phục hồi tình trạng nguyên khởi của nhân loại mà còn tiến xa hơn, đạt tới viên mãn hơn. Tất cả cái xấu bị loại bỏ. Cái bất toàn được cải thiện và nâng cao. Cái tốt do lòng tin - cậy - mến được giữ lại làm chất liệu để xây dựng trời mới đất mới.

Niềm tin để xây dựng trời mới đất mới được Phaolô và Banaba nhắc nhở cho mọi người.

Phaolô và Banaba đi rao giảng Tin mừng. Khởi đầu từ Antiôkia là nơi Thánh Thần "thổi hơi" cho các ông và mời gọi các ông đi rao giảng. Các ông đã đi từ thành này sang thành khác, đảo nọ sang đảo kia với biết bao nhiêu khó khăn vất vả, lo lắng, sỉ nhục và thậm chí còn bị cầm tù. Thế nhưng vượt trên tất cả những khó khăn ấy lại là niềm vui vì danh Chúa và cứu độ các linh hồn. Lòng các ông dần dần thay đổi. Các ông yêu những người các ông được sai đến như Chúa Giêsu đã yêu các ông. Các ông đã thực thi giới răn mới nhận được từ Chúa. Vì thực thi như vậy, những ai tiếp xúc, những ai gặp gỡ nhìn thấy nơi các ông hình ảnh của Chúa Giêsu.

Cuộc đời của các tông đồ quả là cuộc đời đầy gian nan khốn khổ ấy vậy mà các ông lại để giờ khích lệ và khuyên nhủ người ta giữ vững đức tin "Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa." Các môn đệ có lẽ phần nào giống như Thầy của mình trong bàn Tiệc Ly. Dù biết phải đón nhận đau khổ, đón nhận cái chết trên thập giá nhưng lại bảo các môn đệ giữ vững niềm tin. Các môn đệ mời gọi con người ta đi theo con đường hẹp, đi theo con đường thập giá.

Đó là niềm tin. Niềm hy vọng thì qua thánh Gioan tông đồ, chúng ta được mời gọi để chờ đợi cái ngày trời mới đất mới đến. Trời mới đất mới mà Gioan thấy cũng chỉ là trong viễn tượng và là viễn tượng của lòng tin. Nếu không hy vọng vào trời mới đất mới đến thì sẽ nản lòng và cứ mãi bám vào cái cũ, bám vào cái trời cũ đất cũ mà con người đang sống. Để có một niềm hy vọng vào lời của Gioan không phải là chuyện đơn giản.

Thêm một bậc nữa để sống trong trời mới đất mới đó là tình yêu, đó là lòng mến. Tình yêu và lòng mến đó ngày hôm nay Chúa Giêsu đã trình bày hết sức rõ ràng trong Tin mừng theo Thánh Gioan

Chúa Giêsu biết trước cái ngày mà Ngài phải ra đi nhưng rồi Ngài loan báo cách hiện diện mới mẻ của Ngài. "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga 14,23). Và thánh Gioan quảng diễn như sau: "Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta" (1 Ga 4,12).

Vâng, tình yêu đích thực là một "sự hiện diện thực sự" của Thiên Chúa. "Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ". Chúa Giêsu hiện diện giữa những người cùng nhau cầu nguyện (Mt 18-20). Những gì các người đã làm (cho ăn, cho mặc, viếng thăm, săn sóc) cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta, là "các ngươi đã làm cho chính Ta vậy". Chúa Giêsu luôn hiện diện trong mọi người đang cần đến tôi và tôi đang phục vụ (Mt 25,31-46).

Nếu thực là thế ! Nếu thực là "Thiên Chúa đã chết", thì sự vắng mặt của Thiên Chúa trong thế giới hiện tại chỉ là hiện tượng tình yêu đã chết". Nhưng hãy để ý, vì tiếng nói lừa dối của thế giới hiện đại không ngừng thay đổi giọng điệu với ta, qua những làn phát sóng, trong mọi thứ quảng cáo. Người ta chỉ bàn luận, chỉ ca ngợi "tình yêu". Nhưng là thứ tình yêu nào chứ ? Éros hay Agapè, "tình yêu bản thân" hay "tình yêu kẻ khác" ? tình yêu là từ hàm hồ nhất, giả dối nhất. Khi chúng ta nói: "Tôi thích bánh bía Sóc Trăng !"... chúng ta có thích nó thực sự hay chúng ta sử dụng nó nhằm thoả mãn cho lợi ích của chúng ta ? Khi chúng ta yêu một người nào đó, chúng ta có yêu họ theo cách đó. .. nghĩa là chỉ vì chúng ta hay vì họ ? Ngôn ngữ Hy Lạp ít hàm hồ hơn, vì có hai từ khác biệt nhau để diễn tả hai thực tại yêu thương đối nghịch nhau:

- Éros: Yêu mình... đó là tình yêu lợi dụng kẻ khác đến hủy hoại họ.
- Agapé: Yêu tha nhân.. . đó là tình yêu sẵn sàng hy sinh cho kẻ khác.

Chúa Giêsu nói: như Thầy đã yêu thương anh em, anh em hãy thương nhau. Với một từ "như" hết sức đơn giản. .. nhưng đã vạch trần mọi hình thức tình yêu giả tạo của chúng ta dễ dàng lặp đi lặp lại.

Yêu như Chúa Giêsu yêu ! Đó là quỳ gối xuống rửa chân cho anh em mình, một cử chỉ phục vụ thấp hèn nhất (Ga 13,14). Đó là việc Chúa Giêsu vừa làm. Yêu như Chúa Giêsu yêu ! Đó là "hiến mạng sống cho kẻ mình yêu thương" (Ga 10,11-15,13). Đó là điều Người sắp thực hiện, vào ngày mai, trên thập giá.

Chúa Giêsu nói với thánh nữ Angèle de Foligno: "Việc cha yêu con, đâu phải trò đùa". Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta đã dẫn Người đến thái độ hoàn toàn từ bỏ bản thân mình.

Để yêu tha nhân đúng như con người, và nhận biết họ trong chính sự "khác biệt" của họ, chúng ta cần từ bỏ quan niệm coi mình là trung tâm mọi giá trị. Đối với Thiên Chúa, tình yêu tha nhân đã dẫn Chúa Giêsu chấp nhận thập giá Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi yêu thương họ, trong cả khả năng thụ tạo nhầm lẫn của họ. Khả năng đó, "kẻ khác" đã chiếm hữu trong tự do của họ, để phủ nhận tôi, trở nên một địch thù với tôi, và kết án tử hình tôi !

Đối với Chúa Gỉêsu, tình yêu không phải là cái gì cứ lặp đi lặp lại cách dễ dàng và nhàm chán đến độ vô nghĩa. Mọi người xem ra đều nói đến yêu thương. Thế mà, Chúa Giêsu quả quyết, giới răn của Người thì mới mẻ. Phải, yêu như Chúa Giêsu hẳn là phải rất độc đáo, rất mới lạ. Đó là một thứ luân lý mới. Người ta không khi nào biết được nơi mà tình yêu đó dẫn bạn tới.

Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: "là anh em có lòng yêu thương nhau".

Vỏn vẹn với 3 dòng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã ba lần lặp lại điệp khúc: Yêu thương nhau. Sự lặp lại rất có ý nghĩa. Nhờ đó, Người đã gợi lên ba lý do bổ sung cho nhau, khiến chúng ta phải yêu thương.

Đó là lệnh truyền của Chúa Giêsu: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới".
Đó là gương mẫu của Chúa Giêsu: "Yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em".
Sau cùng, đó là dấu chỉ Chúa Giêsu: "Người ta sẽ nhận biết anh em nhờ tình yêu...".
Như vậy, Chúa Giêsu thực sự mời gọi các môn đệ tiếp tục sứ vụ của Người, lúc Người rời bỏ thế gian. Tình yêu huynh hệ là "thể thức" thực sự, giúp Đức Kitô tiếp tục hiện diện suốt dòng "Thời gian cuối cùng", mở đầu bằng cài chết của Người. Gioan đã không thuật lại việc lập phép Thánh Thể, như ta mong đợi. Nhưng bù lại, ông đã tường thuật việc rửa chân " và trao ban "giới răn mới quan trọng" như thể dưới mắt ông, Tình yêu là một tái diễn sự Hiện Diện đích thực của Đức Kitô, cũng thực sự và hữu hiệu, như dấu chỉ hữu hình, của Bí tích Thánh Thể. Nhằm bổ sung những gì mà các thánh sử khác không nói đến, có thể nói thánh Gioan đã giảm thiểu tính thiêng thánh của nghi thức, để đề cao nội dung hơn". Theo thánh Mát-thêu, Máccô và Luca, Chúa Giêsu nói: "Này là Mình Thầy sẽ bị nộp, và Máu Thầy sẽ đổ ra". Còn theo Gioan, Chúa Giêsu đã nói: "Thầy rửa chân cho anh em, Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Nhưng, đó cũng chính là "sự hiện diện" có tình nghi thức và thực sự. Có một điều gì đó chất vấn mạnh mẽ các Kitô hữu khi tham dự thánh lễ. Dấu chỉ mà người ta nhận ra môn đệ Chúa Giêsu không chỉ là Thánh lễ. "Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau".

Chúa Giêsu từ vương quốc Tình Yêu đến và Ngài lại trở về vương quốc Tình Yêu. Ngài đã mở đường bằng Tình Yêu và những ai yêu thật sự như Chúa Giêsu yêu sẽ có một chỗ trong vương quốc Tình Yêu ấy.

Muốn có chỗ trong trời mới đất mới hay vương quốc Tình Yêu của Chúa Giêsu thì ngay trong cái cõi tạm, ngay trong cái trời cũ đất cũ này con người phải sống niềm tin, niềm hy vọng và đặc biệt tình yêu mà Chúa Giêsu đã sống.

CỘNG ĐOÀN CỦA NHỮNG NGƯỜI YÊU NHAU
Ga 13,31-35
Lm. Jude Siciliano, OP

Các bạn đã bao giờ xem bộ phim "Nếu hôm nay là thứ ba, đây ắt hẳn là nước Bỉ" chưa? Đó là phim về một nhóm du khách người Mỹ, thực hiện một chuyến du lịch qua bảy thành phố Châu Âu trong 18 ngày, chỉ dừng chân tại mỗi thành phố 2 ngày. Dù vội vàng nhưng mỗi thành phố họ gắng tham quan cho được một nhà thờ, bảo tàng hay kỳ quan liên quan đến khảo cổ học. Có lẽ vài người trong chúng ta cũng đã từng tham gia vào một chuyến du lịch như thế và kỳ nghỉ hè được mong đợi này khiến chúng ta kiệt sức, mong muốn được quay trở lại làm việc ngay!

Bài đọc một trong sách Tông đồ Công vụ hôm nay nhắc tôi nhớ lại bộ phim đó và những lời tường thuật của mấy người bạn về những chuyến đi xuyên quốc gia tương tự. Chúng ta dõi theo những hành trình giảng đạo của Phao-lô và Ba-na-ba, bắt đầu tại thành phố Đéc-bê, sau đó quay trở lại Lýt-ra (một điểm dừng chân khá là táo bạo của Phao-lô vì lần trước ông đã từng bị một nhóm người ném đá gần chết!); Các ông đi đến I-cô-ni-a, An-ti-ô-khi-a, Pi-xi-đi-a, Pam-pi-li-a, Péc-ghê và sau đó trở lại An-ti-ô-khi-a.

Dĩ nhiên Phao-lô và Ba-na-ba không đi theo một "Quyển sách hướng dẫn của Michel về các thành phố lớn trong vùng tiển Á". Các ông xác tín vào một sự hướng dẫn hoàn toàn khác. Vì khi trở lại An-ti-ô-khi-a và tường thuật về những thành công do sự nỗ lực trong sứ vụ của hai ông, chúng ta được kể lại rằng, "Hai ông tập họp Hội Thánh và kể lại tất cả những gì Thiên Chúa đã cùng làm với hai ông". Đó cũng chính là một chủ đề xuyên suốt sách Công vụ - Thánh Thần cùng hoạt động và gia tăng sức mạnh cho các nhà giảng thuyết tiên khởi khi họ nỗ lực rao giảng Tin Mừng về Đức Giêsu Kitô. Phao-lô và Ba-na-ba cũng nói cho các môn đệ tụ họp trong các hội thánh hai ông thăm viếng biết về cái giá phải trả của những nỗ lực bản thân: "Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa". Các tông đồ đang nói từ chính kinh nghiệm của các ngài.

Vậy thì, các cuộc lữ hành của chúng ta sẽ dẫn chúng ta tới đâu, vì chính chúng ta cũng được trao nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng cho thế giới? Có thể chúng ta sẽ không bước vào một hành trình sứ vụ loan báo Tin Mừng đầy sóng gió như hai vị tông đồ điển hình này. Dù vậy, Bí tích Rửa tội đã xức dầu chúng ta trở thành những ngôn sứ trong chính môi trường sống của mình. Không được trốn tránh trách nhiệm đó!

Chúng ta hãy cùng nhau liệt kê "lĩnh vực sứ vụ" của chúng ta: ở bữa ăn sáng, nơi làm việc, giữa những người bạn trong các buổi gặp mặt, trên mạng hay trong siêu thị... Tôi không đề nghị chúng ta đứng ở tiệm xà bông và thuyết giảng; dù cho có xấu hổ ít đi một chút vì đức tin cũng chẳng hề gì. Nhưng những sinh hoạt hằng ngày, lối sống, các giá trị, việc đánh giá của chúng ta phải khơi gợi nên sự tò mò cho những người chung quanh. Ai biết được, biết đâu họ lại tò mò tự đặt ra nhiều câu hỏi quan trọng: "Điều gì làm cho bạn khác biệt như thế nhỉ?" "Với tất cả những vấn đề đó, làm sao anh có đủ sức mạnh để vượt qua nhỉ?" "Làm sao anh vẫn tràn trề hy vọng như vậy nhỉ?" Khi đó, chúng ta sẽ có cơ hội thực hiện điều mà chính hai vị tông đồ đã làm - "Công bố Tin Mừng".

Chúng ta có thể cảm thấy mình không được huấn luyện đủ về mặt thần học, nhưng chúng ta nên nói từ chính hiểu biết, từ trái tim và từ chính cảm nghiệm đức tin của mình. Giống như Phao-lô và Ba-na-ba, chúng ta không đơn độc trên hành trình, vì Thánh Thần sẽ là "người hướng dẫn hành trình" cho chúng ta. Đó cũng chính là điều mà sách Công vụ Tông đồ thực sự nói tới: Thánh Thần hoạt động nơi những con người bình thường giúp họ công bố Tin Mừng và như sách Công Vụ kể, nhận "khá nhiều người làm môn đệ". Hãy thử xem!

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu công bố nhiệm vụ trung tâm của các môn đệ, cho dù chúng ta đang ở trên đường hay ở trong nhà mình. "Anh em hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy: là anh em có lòng yêu mến nhau."

Tình yêu khắc dấu cuộc đời Đức Giêsu. Người đã trao tặng toàn bộ cái tôi của Người vì yêu chúng ta. Con người đã cảm nghiệm tình yêu này bằng nhiều cách. Người bày tỏ tình yêu bạn bè cho những ai gần gũi với Người nhất. Với lòng trắc ẩn, Người chữa lành những ai tìm đến Người với những đau khổ về tinh thần và thể xác. Người diễn tả tình yêu qua việc đón nhận những người tìm kiếm sự công nhận của một xã hội luôn bỏ lơ họ, làm bạn đồng hành và cho cùng ngồi ăn uống với Người. Người nói những lời yêu thương thứ tha cho các tội nhân và thậm chí còn ăn uống với họ nữa. Sau cùng, Người sẽ chẳng bao giờ rút lại thông điệp về tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta dù nó dẫn Người đến cây thập giá.

Bài tin mừng hôm nay nằm trong phần mở đầu diễn từ từ biệt của Đức Giêsu đối với các môn đệ (13, 31 - 17, 26) trong bữa Tiệc Ly. Trình thuật bắt đầu bằng việc Giu-đa ra đi để phản bội Đức Giêsu và Đức Giêsu nói những người đồng bàn rằng: giờ báo oán và tôn vinh của Thiên Chúa đã bắt đầu. Điều Đức Giêsu sắp chịu sẽ tôn vinh Thiên Chúa vì nó mang lại lợi ích cho toàn thể nhân loại. Thời điểm đen tối bắt đầu và thế nhưng một thời của ánh sáng mới cũng sắp được khởi sự vì hành động yêu thương của Đức Giêsu sẽ giải phóng nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, thập giá không phải là một dấu hiệu thất bại đối với Đức Giêsu. Ngược lại, nó biểu lộ sự chiến thắng của Thiên Chúa đối với tội lỗi và bóng tối. Chiến thắng đó đã được khởi sự nhưng dưới con mắt của những người quan sát bất cẩn, những gì đang xảy ra cho Đức Giêsu lại có vẻ là sự thất bại. "Giờ đây Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người". Trong Tin Mừng Gio-an, Thiên Chúa luôn được đặt tại vị trí trung tâm, là Nhân Vật chính trong vở kịch. Vì thế, điều sắp xảy đến cho Đức Giê-su sẽ là một mặc khải trọn vẹn về tình yêu của Thiên Chúa dành cho thế giới.

Dầu vậy, những biến cố sẽ xảy đến vẫn cứ là nguyên nhân gây đau khổ và phá vỡ mọi niềm hy vọng của các môn đệ. Đức Giê-su sẽ bị tách ra khỏi họ. Chỉ dẫn của Người trước lúc ra đi là họ phải yêu thương nhau như chính Người đã yêu thương họ; tình yêu thương của họ sẽ là dấu hiệu cho mọi người biết họ là môn đệ của Đức Giê-su.

Những lời trăng trối của các bậc vĩ nhân không bao giờ nhắm những chuyện nhỏ nhặt, vặt rãnh. Đúng hơn, chúng thường là những giáo huấn cốt lõi tóm lược toàn bộ cuộc đời của những vĩ nhân đó. Vì vậy, những lời từ biệt của Đức Giê-su cũng là những lời trọng tâm - đó là điều Người muốn các môn đệ nhớ về Người và tiếp tục thực hiện trong danh Người. Người nói với các môn đệ rằng, cái chết của Người sẽ tỏ lộ cho mọi người biết Thiên Chúa yêu thương chúng ta biết chừng nào. Khi đó, chúng ta phải phản ánh tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta và bằng việc yêu thương nhau, tất cả mọi người sẽ nhận biết chúng ta là môn đệ Đức Giê-su.

Dân It-ra-en đã được lệnh là phải yêu thương nhau; nhưng họ không bị yêu cầu phải yêu thương kẻ thù. Tình yêu của Đức Giêsu đã vượt qua mọi ranh giới quốc gia và văn hoá. Người dạy chúng ta phải yêu thương dù là ta thấy người khác đáng yêu hay không. Người dạy về một tình yêu hiến tế mang lại hoà bình cho nhân loại và lôi kéo mọi người đến với nhau thành một cộng đoàn yêu thương. Sau đó, trong bữa ăn Người sẽ minh chứng một cách thức của tình yêu qua việc rửa chân cho các môn đệ. Người làm chủ phải trở nên người phục vụ kẻ khác.

Đức Giê-su đặt quy định đầu tiên cho cộng đoàn của Người, là phải yêu thương và phục vụ. Cộng đoàn phải là nơi phản ánh và là khuôn mẫu của tình yêu mà Đức Giê-su đã sống và dạy các môn đệ Người. Còn dấu hiệu nào hùng hồn hơn một cộng đoàn yêu thương trong thế giới này! Một cộng đoàn với những dấu hiệu phân biệt: Tha thứ lẫn nhau; săn sóc, thậm chí quan tâm đặc biệt, các thành viên nhỏ nhất; chia sẻ đồ dùng; sẵn sàng phục vụ nhau...Một cộng đoàn yêu thương như thế sẽ từng ngày thu hút người khác đế gia nhập với chúng ta. Tình yêu này sẽ lôi kéo người khác vì, liệu ai có thể chống cưỡng lại được một nhóm người yêu thương nhau như thế trong 'cái thế giới chẳng còn mấy ai biết yêu thương' này?

Dẫu sao, chúng ta còn phải cố gắng rất nhiều để có thể trở thành những cộng đoàn phản ánh tình yêu Đức Giêsu cho thế giới! Không những vậy, ngày càng có nhiều người rời bỏ các cộng đoàn Kitô hữu vì, như họ nói, họ không cảm nghiệm được tình yêu đó trong các giáo hội của họ do tình trạng bè phái, chia rẽ giữa các thành viên. Thay vì một tinh thần hăng say lên đường, nhập cuộc như chúng ta đọc trong sách Công vụ hôm nay, họ lại chỉ cảm thấy sự cô lập và não trạng co cụm, phòng thủ. Chẳng phải mấy năm gần đây nhiều người đã rút lui khỏi các cộng đoàn Công Giáo vì những cớ gây vấp phạm của chúng ta sao? Chẳng phải họ bỏ đi vì thế gian lôi kéo họ mạnh hơn chúng ta sao? Chẳng phải đó là do họ chưa thấy giáo xứ của chúng ta thực sự là một cộng đoàn cởi mở, yêu thương, đón nhận sự đa dạng của mọi thành viên sao?

Cho dù là lý do gì đi nữa thì chúng ta vẫn có nhiều việc phải làm nếu chúng ta muốn nỗ lực hàn gắn những chia rẽ, tha thứ những xúc phạm, săn sóc người nghèo khổ và chào đón những người mới vào sống trong cộng đoàn của chúng ta. Ước gì công việc này của chúng ta sẽ luôn được nâng đỡ nhờ lời nguyện mà chúng ta đọc trong thánh lễ này: "Lạy Chúa Kitô đầy lòng lân tuất, xin hãy biến chúng con thành một cộng đoàn phản ánh tình yêu của Ngài ngõ hầu chúng con trở thành dấu hiệu cho sự hiện diện phục sinh của Ngài trong thế giới hôm nay."
Anh em Học Viện Đaminh chuyển ngữ.

TÔN VINH
Ga 13,31-35

Lm Vũđình Tường

Hy sinh lớn, tôn vinh lớn; hy sinh nhỏ, tôn vinh nhỏ. Tôn vinh lớn nhất, cao trọng nhất, trọn vẹn nhất là thí mạng sống cho người mình yêu như Đức Kitô đã vâng lời Chúa Cha xuống thế để thực hiện trọn vẹn ý Chúa Cha.

Ta đến không phải để làm theo ý Ta mà làm theo ý Đấng đã sai ta (Gn 6,38)

Đức Kitô thể hiện ý đó bằng con đường khổ nạn, con đường thập giá, con đường bị chính môn đệ mình bán rẻ, chối bỏ, phân tán và lẩn trốn sau cửa then cài vì sợ.

Không có tình yêu nào cao quí hơn mối tình chết cho người mình yêu (Gn 15,13)

Đức Kitô yêu mến Chúa Cha đến nỗi - thể hiện ý Cha - chết trên thập tự, ban ơn cứu độ cho nhân loại. Ngài chấp nhận hy sinh với í chí sắt son, quyết tâm vượt qua tất cả mọi chướng ngại, rào cản, vực sâu. Không gì ngăn cản, lay chuyển, tình yêu Ngài dành cho Cha. Ý Ngài đã quyết và Ngài quyết tâm thực hiện tốt đẹp, trọn vẹn điều mình đã quyết. Ngài chấp nhận mọi đau khổ rùng rợn, hành hạ thân xác.

Họ thay nhau nguyền rủa, xỉ nhục, vu vạ, cáo gian; Ngài đứng lặng câm, ngán ngẫm lời thề gian, làm chứng dối của người không tôn trọng sự thật. Nghe những lời đó tinh thần ngài đau khổ đến chết được nhưng Ngài không hề đối chất.

Linh hồn Thầy đau buồn đến nỗi chết (Mt 26,38)

Nhìn những cánh tay dâng lên nắm chặt hung hăng thét 'giết nó đi', giết nó đi' khiến Ngài liên tưởng đến tính bồng bọt, háo thắng của con người. Kẻ chống đống Ngài nghĩ giết chết thì còn chi để nói, để sợ. Họ đã lầm và lầm lớn. Chính lúc Ngài chết đi lại là lúc thức tỉnh lương tâm người lính gác dưới chân thập tự khi anh ta tuyên xưng,

Người này quả thật là con Thiên Chúa (Mat 27,54)

Kẻ mưu toan đóng đinh giết Đức Kitô, ngày họ mất an; đêm mất ngủ, lo lắng vì tin Ngài sống lại từ cõi chết. Tổ chức họp kín liên miên. Tìm cách dậy lính phao tin dối trá. Họ chạy cửa trước, luồn cửa sau, lo đủ tiền đút lót. Ban hành lệnh lạc, ra sức đối phó, bịt miệng dân chúng đồn thổi tin Đức Kitô Phục Sinh. Họ đóng đinh diệt khẩu không ngờ có hàng triệu triệu môi miệng ngày đêm cao rao, ca tụng Đấng bị diệt khẩu. Đấng một thời rao giảng giờ đây trở thành Đấng được mọi thế hệ rao giảng.

Vui mừng
Đức Kitô vui mừng khi thấy giờ hiến tế đến gần. Giờ Ngài từ lâu mong đợi. Không phải Ngài ham chết, sợ sống hay coi thường sự sống. Vì yêu quí sự sống nên Ngài tự hiến để ban sự sống trường sinh cho toàn dân. Qua đó Ngài tôn vinh Chúa Cha.

Con Người được tôn vinh. Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người. (Gn13,31)

Hoa trái của tôn vinh
Cái chết và sự Phục Sinh của Ngài mang lại hoa trái đầu tiên để tôn vinh Chúa Cha. Lịch sử nhân loại từ trước tới nay và từ nay về sau, sẽ không còn tôn vinh nào cao quí, tuyệt vời hơn tôn vinh Đức Kitô dành cho Chúa Cha. Tôn vinh cao cả vô song Ngài thể hiện trên thập tự. Tự hiến giọt máu cuối cùng trong tim diễn tả tình yêu tuyệt vời dành cho Cha.

Thứ đến là hoa quả ơn cứu độ Đức Kitô ban cho con người. Những ai tin vào Ngài nhận sự sống trường sinh.

Hoa quả cho vũ trụ là toàn thể vũ trụ được đổi mới nhờ cái chết và sự Phục Sinh của Ngài. Thánh Gioan (Kh 21,1) nhìn thấy trời mới, đất mới mở ra cho toàn dân. Đức Kitô Phục Sinh Vinh Hiển luôn ở với dân Ngài. Một dân được tuyển chọn bằng máu của con Chiên hiến tế là chính Đức Kitô chịu đóng đinh, ban ơn cứu độ cho những ai tin, sống tinh thần Tin Mừng. Lời loan báo xưa của thiên sứ thể hiện,

Anh em đừng sợ. Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân. Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho chúng ta trong thành vua Đavít. (Luca 2,10)

Các phụ nữ ra thăm mộ từ sáng sớm nghe thiên sứ loan báo, Tôi biết các bà tìm Đức Giêsu, Đấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã chỗi dậy như Người đã nói (Mat 28,6).

Đổi mới
Trong Cựu Ước Yavê Thiên Chúa đổi mới qua trận lụt Đại Hồng Thuỷ. Chỉ ít người ngay lành sống sót.

Đức Kitô hiến tế để đổi mới, không phải huỷ diệt mà là đổi mới. Vẫn trời cũ, đất cũ, vũ trụ cũ, con người cũ. Đổi mới đến cho những ai chấp nhận ơn Cứu Độ Đức Kitô ban. Ơn cứu độ thay đổi con người từ nội tâm đến lối sống. Trong tinh thần đổi mới đó người ta sống với nhau bằng yêu thương. Cư xử với nhau bằng bác ái. Thông cảm cho nhau bằng thứ tha và giao hoà. Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy là Anh em có lòng yêu thương nhau c.35

YÊU THƯƠNG ĐÍCH THỰC
Ga 13,31-35

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Thực tế, giới răn yêu thương không phải là một cái gì mới mẻ và lạ lùng. Cái mới và lạ lùng, chính là Tin Mừng đưa tình yêu lên tầm cao mới, chiều sâu mới. Tình yêu đạt tới đích điểm của nó là hy sinh mạng sống: "Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu " ( Ga 15, 13 ). Đây xem ra không phải là một việc dễ dàng và đơn sơ, nhưng không phải vì khó khăn, phức tạp, đòi hỏi nhiều hy sinh cố gắng mà chúng ta được miễn trừ yêu thương. Vậy, chúng ta phải sống thế nào để Lời Chúa và giới răn yêu thương của Chúa đi vào cụ thể trong đời sống thường ngày của chúng ta ?

Đức Giêsu Kitô đã từ cõi chết sống lại, Ngài lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Ngài phục sinh vinh hiển khi Ngài được tôn phong làm vua vũ trụ vạn vật. Đức Giêsu Kitô cũng được vinh hiển khi Tin Mừng cứu độ của Ngài được rao giảng khắp nơi, qui tụ muôn người tin Ngài làm gia nghiệp, làm cứu Chúa của mình. Một trong khía cạnh phụng vụ và Tin Mừng của thánh Gioan cho chúng ta biết: " Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau ". " Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em " ( Ga 13, 34 ). Tình yêu là một mầu nhiệm. Nên, yêu nhau giúp chúng ta trở nên môn đệ Chúa. Yêu nhau là dấu chỉ chúng ta là con của Cha trên trời và yêu nhau là dấu chỉ chúng ta là anh em của nhau. Yêu nhau như Chúa đã yêu là cúi xuống rửa chân cho nhau để noi gương bắt chước Chúa đã khiêm nhượng, đã cúi mình thẩm sâu để làm một công việc của một tên đầy tớ, một tên nô lệ dẫu người đó là một kẻ phản bội như Giuđa Iscariốt. Yêu như Thầy đã yêu là yêu cho đến chết, yêu cho đến cùng...yêu trên thập giá.Yêu như Thầy đã yêu là một tình yêu cao sâu, mầu nhiệm và hoàn toàn linh thánh. Đây không phải là tình yêu vị kỷ nhưng là một tình yêu vị tha, tình yêu hiến dâng, hy sinh cho người khác. Yêu như Thầy yêu là ban chính Mình Máu Thánh để nuôi dưỡng nhân loại, nuôi sống con người. Chúa đã yêu thương nhân loại, yêu thương con người để nêu gương cho chúng con hãy bắt chước Chúa yêu thương anh chị em đồng loại của chúng con.Yêu thương là cốt lõi của Đạo Đức Kitô. Do đó, cái chính yếu của Đạo là tình yêu, cốt lõi của Tin Mừng là tình yêu. Càng gắn bó, càng sống mật thiết với Chúa, càng biết thương mến anh chị em, càng yêu mến người nghèo, người bơ vơ, vất vưởng. Chúa Giêsu trong nhà Tiệc Ly ngày Thứ Năm Thánh đã dạy các môn đệ và nhân loại một bài học sâu xa, bài học để đời:" Yêu thương và yêu thương cho đến cùng, yêu thương đến hy sinh mạng sống, yêu thương đến chết trên thập giá ". Các thánh là những người đã đạt đến trình độ yêu thương như Chúa Giêsu. Các Ngài đã dám tin, đã dám liều mình coi thường mạng sống để yêu thương nhân loại, yêu thương người nghèo. Mẹ Têrêsa thành Calcutta đã nói: " Chúng con đã được rước Chúa trong Thánh Thể, bây giờ hãy đi sờ đụng Chúa trong người nghèo...". Đó là tình yêu thật, tình yêu đã trở thành lạ lùng, linh thiêng và mầu nhiệm.

Lạy Chúa, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con luôn biết yêu thương đồng loại, yêu thương người khác như Chúa đã yêu. Amen.

DẤU CHỈ MÔN ĐỆ CHÚA KITÔ
Ga 13,31-35
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Là Kitô hữu, bình thường ai cũng muốn kẻ khác nhận biết mình là con cái Chúa trong Hội Thánh. Dĩ nhiên vẫn có đó những Kitô hữu không muốn kẻ khác nhận biết mình là con cái Chúa. Với xã hội rộng lớn, bản thân không nắm rõ. Tuy nhiên ngay trong chính mãnh đất thân yêu Việt Nam này thì đã từng có nhiều người e ngại kẻ khác biết mình là Kitô hữu. Sợ bị thua thiệt về đường công danh, lợi lộc hay học vấn mà nhiều người đã ghi vào lý lịch ba chữ "không tôn giáo". Ngay cả đến hôm nay, trong các lớp học cấp ba, cao đẳng, đại học, khi mà một số thầy cô còn dè bỉu Công giáo qua các bài học về thuyết tiến hóa, về sự hình thành tôn giáo... Các thầy cô thường lấy chuyện Kinh thánh Ađam - Evà ra mà diễu cợt. Tôi đã nghe nhiều em học sinh, sinh viên thú nhận rằng những lúc ấy các em dường như không muốn ai biết mình là Công giáo. Nhiều thầy cô có thể vì thiếu hiểu biết hay vì cố tình xuyên tạc nên đã có những lời giảng dạy mang tính phê bình chỉ trích tôn giáo, cách riêng Công giáo. Rất nhiều em học sinh, sinh viên viên vì chưa hiểu biết giáo lý, nhất là Thánh Kinh nên có thái độ tự ti là điều dễ hiểu.

Tuy nhiên bài viết này không trực tiếp đề cập đến cái thực tế đang tồn tại ấy. Xin được mạn bàn về cái dấu chỉ mà Chúa Giêsu nói đến trong đoạn văn Tin mừng Gioan 13,33-35. Dấu ấy là "các con yêu thương nhau". Yêu thuơng nhau thì cũng có ba bảy đuờng yêu thương. Không phải hễ yêu thương nhau là ta đã là môn đệ Chúa Kitô. Để đích thực là môn đệ của Người thì ta phải "yêu thương nhau như Người yêu thương ta" ( x.Ga 15,12 ). Đây mới chính là dấu chỉ chính danh, chính hiệu.

Vậy thế nào là yêu thương nhau như Chúa Kiô yêu thương ta? Chúng ta vốn quen tai với những dẫn giải rằng phải yêu thương cho đến cùng, phải hiến dâng mạng sống vì người mình yêu, phải cúi xuống rửa chân cho nhau tức là hầu hạ nhau... Rồi phải yêu thương không chỉ người dễ thương mà còn cả những người dễ ghét, những người bắt bớ hoặc đang làm hại chúng ta. Yêu thương nhau như Chúa yêu là giang tay đón nhận cả người phản bội mình làm bạn hữu...Những dẫn giải trên không sai nếu không muốn khẳng định là rất đúng. Tuy nhiên, bản thân vẫn thấy còn lấn cấn chút gì đó trong thực hành.

Thế nào là yêu đến cùng đây? Không lẽ ta phải dùng chính cái chết của mình để minh chứng. Quả thật đã và đang có nhiều người sống yêu thương đến cùng như vậy. Thế nhưng ngoài các Thánh Tử Đạo thì có mấy ai chấp nhận chết vì yêu thương, chưa kể chết cho người tội lỗi. Cúi xuống để hầu hạ nhau ư? Vẫn có đó nhiều người xưng mình là tôi tớ, là đầy tớ mà đâu có chịu cúi xuống. Dù vậy, có ai dám to gan nói họ chưa phải là môn đệ của Chúa. Giang tay ra đón nhận nhau cả những khi họ là người công chính lẫn khi họ là người bất nhân, tàn ác, quả là không mấy dễ dàng. Và tính chất vị tha của tình yêu trong những cách thế ấy hình như chưa mấy rõ nét.

Yêu thương ai là nỗ lực làm cho người mình yêu phát triển và nên tốt đẹp hơn cả mình.

Một trong những cách thế yêu nhau như Chúa yêu ta mà Tin Mừng gợi ý, đó là làm cho người mình yêu được phát triển và gặt hái thành quả hơn cả mình. "không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại..." ( Ga 15,16 ). "Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa..." ( Ga 14,12 ).

Quả thật sau khi Chúa Giêsu về trời và Thánh Thần được ban xuống thì các Tông đồ đã làm được nhiều sự lạ cả thể hơn cả Thầy chí thánh. Các Ngài cũng chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ, phục sinh kẻ chết, rao giảng Tin Mừng mà kết quả xem ra khả quan hơn Thầy khi Thầy còn tại thế. Xưa những ai đụng đến gấu áo của Thầy thì được chữa lành mọi bệnh tật thì nay chỉ cần bóng Phêrô phủ trên ai thì họ đều được chữa lành. ( x.Cv 5,15-16 ).

Chúng ta có thể đã cúi xuống hầu hạ một ai đó nhưng muốn họ hơn cả mình thì còn phải xét lại. Chúng ta có thể đã tận lực tận tâm lo cho một ai đó về thể chất hay tinh thần nhưng với ý hướng là muốn cho họ vượt qua mình thì cũng hơi khó. Một anh chị em dân tộc thiểu số thẳng thắn thú nhận rằng: con có thể giúp cho người xóm giềng làm ăn kinh tế nhưng muốn cho họ giàu hơn con thì con không muốn. Các em thiếu nhi cũng tự nhận rằng bày cho bạn làm toán thì được nhưng không muốn bạn ấy học giỏi hơn mình. Và chính bản thân tôi, một linh mục chính xứ đang có linh mục phó xứ và thầy phó tế phụ giúp, đã nhiều lần tôi hướng dẫn các ngài trong lãnh vực mục vụ và cách thế giảng dạy, tuy nhiên thử hỏi mình có thực tâm muốn thầy sáu hay cha phó có uy tín trước mặt bà con giáo dân hơn mình không. Một câu hỏi thật khó trả lời.

Không phải đã lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, không phải giữ luật tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật, không phải siêng năng lãnh nhận các Bí tích, không phải chuyên chăm đọc kinh, lần hạt... là những dấu chỉ minh chứng ta là môn đệ Chúa Kitô. Những điều ấy tuy là cần nhưng không đủ. Bởi chưng vẫn đó nhiều người đã lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, tham dự Thánh lễ Chúa Nhật đều đặn, thường xuyên lãnh nhận các Bí tích hay siêng năng lần chuổi kính Đức Mẹ mà vẫn sống "không ra người có đạo", nói theo kiểu cách bình dân. Tất thảy chỉ vì một lẽ này : người ta sẽ nhận ra các con là môn đệ của Thầy là các con yêu thương nhau, yêu thương nhau như Thầy yêu thương các con.

Yêu ai mà muốn người mình yêu nên tốt đẹp và phát triển hơn cả mình, đúng là một trong những dấu chỉ minh chứng đó là một tình yêu vị tha, một tình yêu vô vị lợi. Và chắc chắn đó là một trong những cách thế yêu thương nhau như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta.

QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI
Ga 13,31-35
LM Phạm Thanh Liêm, SJ
Theo tin mừng Máccô, không có tông đồ nào tin Đức Giêsu phục sinh cho đến khi các ngài được chính Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra cho: "Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu hiện ra trước tiên với bà Maria Magdala, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy quỷ. Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng sống với Ngài mà nay đang buồn bã khóc lóc. Nghe bà nói Ngài đang sống và bà đã thấy Người, các ông vẫn không tin. Sau đó Ngài tỏ mình ra dưới một hình dạng khác cho hai người trong nhóm các ông, khi họ đang trên đường đi về quê. Họ trở về báo tin cho các ông khác, nhưng các ông ấy cũng không tin hai người này. Sau cùng, Người tỏ mình cho chính nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy" (Mc.16, 9-14).

Đức Giêsu đã phục sinh. Từ biến cố này, với sự trợ giúp của Thánh Thần, các tông đồ nhận biết Đức Giêsu không chỉ là một con người, một tiên tri, một vị Kitô vua (Mc.8, 27), nhưng còn là Đấng vô cùng đặc biệt: Ngài là Đấng ngự bên hữu Thiên Chúa (Mc.14, 62), ngang hàng với Thiên Chúa, là một với Thiên Chúa Cha (Ga.10, 30), có trước Abraham (Ga.8, 57-58), có quyền tha tội (Mc.2, 5.7). Những trích dẫn này giả sử người đọc đều biết cái nhìn của các sách tin mừng về chân tướng của Đức Giêsu, là cái nhìn về Đức Giêsu dưới ánh sáng Phục Sinh. Khi Đức Giêsu nói những điều trên, các tông đồ đã không hiểu; nhưng một khi Đức Giêsu phục sinh, với ơn Thánh Thần, các tông đồ nhớ lại những lời của Đức Giêsu, và lúc đó họ hiểu lời Đức Giêsu đã nói với họ.

Tác giả tin mừng Gioan, sau một thời gian dài suy gẫm, đã nhận ra Lời hằng ở nơi Thiên Chúa từ đời đời (Ga.1, 1), và Lời đã nhập thể (Ga.1, 14). Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể, nên Ngài có trước Abraham. Những suy tư về Ba Ngôi sau này, có cùng quan niệm của Gioan về Lời hằng có và nhập thể. Vào thời điểm của tin mừng Gioan và trước đó, chưa có từ ngữ Ba Ngôi, nhưng tin mừng Matthêu cũng đã nhắc đến Cha, Con, và Thánh Thần: "vậy anh em hãy đi làm muôn dân thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, Con, và Thánh Thần" (Mt.28, 19).

Một điều quan trọng cần hiểu, là tương quan giữa Cha, Con, và Thánh Thần. Đức Giêsu ý thức "Cha trọng hơn Thầy" (Ga.14, 28); có những điều "chẳng có ai biết, kể cả Con Người, chỉ có Cha biết thôi" (Mc.13, 32). Tuy nhiên, Đức Giêsu cũng ý thức "nếu các ông không tin rằng Tôi Hằng Hữu, các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết" (Ga.8, 24), đồng thời cũng nhận ra mọi người phải tôn vinh Ngài: "để ai nấy đều tôn vinh người Con như tôn kính Chúa Cha. Kẻ nào không tôn kính người Con thì cũng không tôn kính Chúa Cha, Đấng đã sai người Con" (Ga.5, 23). Đức Giêsu luôn được phân biệt với Thiên Chúa Cha, ngay cả khi Ngài nói: "Ta và Cha là một" (Ga.10, 30).

Các nhà thần học hiểu rằng, cách nói như thể Đức Giêsu kém Thiên Chúa Cha là nói theo nhiệm cục cứu độ, chứ thật sự ba ngôi đều ngang bằng nhau và là một trong tất cả. Nói trong nhãn quan nhiệm cục cứu độ, Chúa Cha là nguyên ủy và cùng đích mọi sự, Chúa Con thực hiện công trình cứu độ, và Thánh Thần thánh hóa và hoàn tất những gì Chúa Con đã khởi đầu. Con người và công trình cứu độ con người, là điều vô cùng kỳ diệu Thiên Chúa đã và đang làm trong dòng lịch sử. Khi cứu độ con người, Thiên Chúa, qua những sáng kiến để cứu độ con người, cho con người biết Thiên Chúa tuyệt vời như thế nào.

Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể. Ngài sống và hành xử, chính là Thiên Chúa sống và hành xử. Đức Giêsu đã yêu thương con người, phản ánh Thiên Chúa yêu thương con người. Đây chính là con đường giúp con người hạnh phúc. Trước khi chịu khổ hình, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga.13, 34-35). Yêu thương tha nhân như chính mình (Mc.12, 31) đã là một điều khó, thế mà Đức Giêsu còn dạy: hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Đức Giêsu đã yêu thương con người đến chết, đến hiến mạng sống cho con người. Yêu như Chúa yêu, đó là huấn lệnh của Đức Giêsu cho các môn đệ của Ngài.

Yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em. Đây là điều rất khó, nhưng nó làm con người được hạnh phúc thật. Thiên Chúa là tình yêu, Ngài là Đấng chỉ biết yêu thương, làm tất cả vì yêu thương. Thiên Chúa yêu thương con người ngay lúc con người còn là tội nhân, Ngài thông cảm với những yếu đuối của con người, Ngài biết tại sao họ lại hành xử và phản ứng như vậy, nên Ngài thông cảm và tha thứ cho họ. Để chúng ta có cùng cách hành xử của Thiên Chúa, có con tim giống như Chúa, bao dung nhân hậu giống như Chúa, mình cũng cần có cái nhìn giống như Chúa; có như vậy, mình mới có thể yêu thương, tha thứ cho tha nhân.

Thù hận, tìm cách trả thù, chỉ làm cho con người khổ sở bất hạnh. Ngay cả khi người ta xúc phạm đến mình, nếu mình tha thứ, mình sẽ sống an bình và hạnh phúc hơn. Yêu thương, là cung cách hành xử của Thiên Chúa, là vương đạo, là Thiên Chúa đạo. Thiên đàng, là nơi người ta yêu thương, quan tâm đến nhau, và như vậy con người hạnh phúc. Không có con đường hạnh phúc nào khác ngoài con đường yêu thương. Yêu thương cả kẻ thù ghét mình, vì nếu mình không yêu thương mình không được hạnh phúc thật

Làm sao để người ta có cung cách hành xử của Thiên Chúa? Làm sao để người ta có cái nhìn về người khác như Thiên Chúa nhìn họ? Làm sao để có thể yêu thương tha thứ và khoan dung đối với người khác như Thiên Chúa đối với họ? Cầu nguyện, chiêm ngắm Đức Giêsu hành xử, đối xử với tha nhân, đối xử với những người ghét Ngài, chúng ta sẽ dần dần trở nên giống như Đức Giêsu, sẽ trở nên giống Thiên Chúa.

Với Đức Giêsu và Thánh Thần, Thiên Chúa đang làm mới tất cả. Khi đón nhận tin mừng Phục Sinh, người ta được biến đổi. Người ta có cái nhìn mới về Thiên Chúa và về vũ trụ này. Một khi sống như Đức Giêsu chỉ dạy: yêu thương như Ngài yêu thương, thì Kitô hữu làm cho thế giới này dễ thương và đáng yêu đáng sống hơn. Thiên Chúa đang làm mới mọi sự, trong và nhờ Đức Giêsu Kitô.

ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐỨC ÁI
Ga 13,31-35
LM Nguyễn Hữu Thy

Cách đây chưa lâu, tôi được mời tham dự vào một buổi bàn cãi về vấn đề « Hiệp nhất các giáo phái kitô giáo ly khai », do một số các gia đình tổ chức. Buổi bàn cãi rất sôi nổi, và tôi còn nhớ ý kiến của một người phụ nữ đầy vẻ nóng nảy, nhìn về hướng tôi với những lời phát biểu như sau : « Các nhà thần học các ngài thật sự là những cái gông kìm hãm trên con đường tiến về sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu. Với vô số các lý thuyết của mình, các ngài đã làm cho Kitô giáo trở nên quá phức tạp và mù mịt, đến nỗi - do chấp nhất vào các hệ thống và tư tưởng thần học trừu tượng - chính các ngài cũng không còn nhìn thấy được chân lý đơn sơ của Kitô giáo nữa ! Vâng, thật ra trọn vẹn niềm tin Kitô giáo chỉ có thể tóm tắt trong một câu hết sức đơn giản : Con người cần phải yêu mến Thiên Chúa và tha nhân như chính mình. Chính trên nền tảng này, chính trên giáo huấn rõ ràng và quan trọng này, sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu phải được thể hiện. Thế tại sao sự việc lại trở nên quá phức tạp như thế ? »

Và sau khi người phụ nữ vừa chấm dứt lời phát biểu của mình thì một tràng pháo tay tưởng thưởng của hầu hết mọi người hiện diện đồng loạt nổi lên ! Và tất cả mọi con mắt trong phòng đều căng thẳng và tò mò đổ dồn về phía tôi, như chờ nghe sự tự bênh vực và bào chữa của tôi trước một lời phê bình quá thẳng thừng như thế ! Và sự việc thiết tưởng không hề đơn giản chút nào ! Chính Ðức Giêsu cũng đã phát biểu những lời phê bình thẳng thắn như thế đối với các vị kinh sư và các nhà thần học ngày xưa, vào thời của Người, là những người cũng vì tự giam mình trong đủ các thứ luật lệ và giáo điều rườm rà nên không còn phân biệt và khám phá ra được đâu là điều chủ yếu và cao trọng nhất trong tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân nữa ! Vì thế, ngoài dự đoán của mọi người có mặt hôm đó, tôi đã tán đồng ý kiến của người phụ nữ đó : Bà ta có lý ! Dĩ nhiên điều đó không có nghĩa là chúng ta có thể phủ nhận được những sự khác biệt và những rào cản quan trọng - nhiều khi khó lòng vượt qua - giữa các giáo phái thuộc Kitô giáo, cũng như giữa các kitô hữu.

Vâng, đức ái thực sự là trọng điểm có tính cách quyết định của Kitô giáo, là sự hoàn tất mọi lề luật ! Nhưng phải chăng đó là một điều đặc biệt ? Phải chăng giới luật đức ái - nhiều hay ít - không phải là nền tảng cho mọi tôn giáo ? Phải chăng chỉ Kitô giáo mới có thể sở hữu danh từ và giới luật đó cho một mình mà thôi ? Phải chăng chúng ta không tìm gặp giáo lý nền tảng đó trong Hồi Giáo, Phật Giáo và trong các tôn giáo lớn khác trên thế giới ? Mặc dù trong thực hành, mỗi tôn giáo áp dụng giới luật từ bi bác ái mỗi khác, theo nhân sinh quan và vũ trụ quan của tôn giáo đó, nhưng trên nguyên tắc, đã là một tôn giáo thì tôn giáo nào cũng đều luôn luôn nhắm tới đức ái để hành đạo.

Phải chăng là một thái độ mang vẻ trịnh thượng khi chúng ta nghe đọc trong bài Tin Mừng hôm nay những lời : « Thầy ban cho các con một giới răn mới » ? Và đâu là điều mới mẻ trong giới răn này ? Phải chăng danh từ « mới mẻ » ở đây được hiểu là : vì chúng ta thường hay quên giới luật nền tảng đó, nên cần phải luôn nhắc nhở lại ?

Chiếc chìa khóa để hiểu được ý nghĩa bài Tin Mừng nằm ở phần hai của câu nói mà chúng ta đang bàn tới : « ..., như Thầy đã yêu thương các con » (Ga 13,34). Ðức Giêsu ban cho chúng ta một chuẩn độ mới, khi Người nói về đức ái, cũng như Người muốn cho người ta phải hiểu đức ái là gì, đó chính là Người: « Thiên Chúa là tình yêu ! »

Và ý nghĩa sâu xa là ở chỗ : Chính lúc Ðức Giêsu ban cho các môn đệ giới luật đức ái, thì Giu-đa Ít-ca-ri-ốt rời phòng Tiệc Ly ra đi, bấy giờ định mệnh của Ðức Giêsu đã được quyết định, bấy giờ nhân loại đã sẵn sàng phản bội, bắt trói, kết án, hành hạ và giết hại Người, và - như tất cả chúng ta đều biết - không vì bất cứ lý do một tội phạm nào, nhưng chỉ vì tình yêu xã kỷ và triệt để của Người đối với nhân loại. Cuộc khổ nạn thập giá của Ðức Giêsu đã mặc khải cho thấy đâu là tình yêu đích thực và đâu là tình yêu và tính cách nhân bản tạm thời hạn hẹp !

« Các con hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương các con ! » Ðó là giới luật đức ái của Ðức Kitô. Nhưng để biết được các hành động và chính cuộc sống chúng ta còn cách xa với giới luật đó như thế nào, thì người ta có thể đọc thấy được qua thái độ dửng dưng và xa lạ của chúng ta trước cuộc sống đầy bác ái của bao vị thánh nhân, như : Phan-xi-cô As-si-si, Ma-xi-mi-li-an Kol-bê hay Mẹ Tê-rê-xa Cal-cut-ta, v.v...Ðức tin Kitô giáo của các ngài đối với chúng ta xem ra thái quá, hơi sôi nổi, không bình thường. Nhưng thực ra sự thật lại ngược lại : Ðức ái triệt để của các vị thánh nhân vạch trần quan điểm của chúng ta về tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân là : còn thiếu thốn hạn hẹp, chưa dứt khoát và chưa thành tâm !

Tất cả chúng ta đều biết rõ là cuộc sống và cách cư xử của chúng ta, những kitô hữu bình thường, hãy còn cách xa với chuẩn độ về đức ái mà chính Ðức Giêsu đã thiết đặt bằng chính sự sống và cái chết của mình. Vâng, chẳng những còn cách xa, nhưng trong thực tế, cái chuẩn độ về một đức ái triệt để như thế hầu như chỉ là một điều lý tưởng, nếu không nói là một ảo tưởng, khi so sánh với thái độ sống cụ thể của con người !

Mặc dầu thế, ở đây khi nhìn vào con người cụ thể người kitô hữu, tôi xin mượn phép định nghĩa rằng : Người kitô hữu là một người luôn nỗ lực vươn tới cái ảo tưởng về tình yêu đó. Theo ý nghĩa này, có lẽ ở đây câu nói của cố tổng thống Do-thái, David Ben Gurion (1886-1973), được áp dụng cho chúng ta, những kitô hữu : « Ai không có ảo tưởng, thì không phải là một người thực tế ! » Amen

YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU
Ga 13,31-35
Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

Trong bữa ăn cuối cùng, sau khi rửa chân cho các môn đệ và sau khi Giuđa ra đi để thực hiện ý định bán Thầy, khi còn lại các môn đệ yêu dấu, Chúa Giêsu khai mở diễn từ cáo biệt để chuẩn bị bước vào cuộc Khổ nạn. Tin mừng hôm nay là phần dẫn nhập trong diễn từ đó.

Từ sau khi Giuđa ra khỏi phòng Tiệc ly thì cũng chính là lúc cuộc Thương khó của Chúa Giêsu bắt đầu, giờ Con Người tôn vinh được khởi sự. Tiếng hô lớn "Giờ đây" làm cho chúng ta cảm nhận một điều gì đó xảy đến với Chúa rất quan trọng và, dường như đó cũng là cách Chúa Giêsu biểu lộ trước sự vui mừng cuộc vinh thắng trong tương lai mà Người sẽ được Chúa Cha tôn vinh sau khi hoàn tất chương trình cứu rỗi nhân loại. Chính vì sắp bước vào cuộc Thương khó và như thế sắp phải rời xa các môn đệ dấu yêu, trong hoàn cảnh đó, chúng ta có thể xem diễn từ cáo biệt của Chúa là những lời trối trăn gửi đến các môn đệ và lời trăn trối quan trọng nhất Chúa muốn để lại chính là lời yêu thương- một điều răn mới.

Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Điều răn mới Chúa Giêsu muốn gửi trao cho các môn đệ xoay quanh hai tiếng "yêu thương". Lời yêu thương đó rất chân tình, rất cụ thể và dễ hiểu. Bởi Chúa Giêsu không cần viện dẫn một tình yêu nào khác ngoài tình yêu mà Chúa Cha đã yêu thương Người cũng như tình yêu mà chính Người đã trao ban cho nhân loại.

Yêu như Thầy đã yêu là gì? Thật ra liên từ "như" ở đây không chỉ là sự so sánh mà đó còn là sự thể hiện cội nguồn của tình yêu xuất phát từ chính Chúa. Chúa Giêsu muốn các môn đệ yêu thương nhau không phải bằng một tình yêu "đầu môi chót lưỡi", "trên mây trên gió", lãng mạn, xa rời thực tế mà là một tình yêu được kín múc trong tình yêu của Chúa. Chính Chúa đã đi bước trước để thể hiện tình yêu đối với nhân loại và Người muốn các môn đệ hãy làm phát sinh hoa trái tình yêu đó nơi anh em mình. Tình yêu của Người được diễn tả cách sống động và cụ thể. Chúng ta có thể thấy cuộc đời của Chúa Giêsu chính là một cuộc hành trình ra khơi, đi đến với người nghèo khó, bệnh hoạn và tội lỗi.

Từng bước chân trên hành trình ra khơi đó chính là để mày mò, kiếm tìm "con chiên lạc", "đồng bạc bị mất" hầu quy tụ tất cả trong một tình yêu duy nhất. Đối với các môn đệ, tình yêu đó còn được thể hiện trong cử chỉ rửa chân - một cử chỉ độc nhất vô nhị mà Chúa đã thực hiện để các ông noi theo. Chưa dừng lại ở đó, đỉnh cao của tình yêu đó chính là thập giá, là sự hy sinh tính mạng của Người để cứu rỗi nhân loại. Yêu thương nhân loại đến độ phải tự huỷ chính mình, chấp nhận những đắng cay, khổ nhục, những gièm pha, phỉ báng, nhạo cười của đồng loại mà không một lời ca thán thì chắn chắc đó phải là một tình yêu không từ dưới đất mọc lên mà chính là từ trời đưa xuống. Chúa Giêsu chính là tình yêu, là quà tặng của Chúa Cha trao ban cho nhân loại và giờ đây, Người cũng muốn các môn đệ Người lưu truyền cho nhau tình yêu và quà tặng ấy cho hết mọi người.

Đối với Chúa Giêsu, tình yêu vô vị lợi chính là bí quyết, là chìa khoá để mở rộng tâm hồn đến với mọi người. "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" phải được xem là kim ngôn cho hết thảy chúng ta. Hơn lúc nào hết, thế giới này đang cần đến những chứng nhân tình yêu của chúng ta biết chứng nào. Bổn phận của chúng ta - những Kytô hữu, là biến thế giới này trở nên hoà bình hơn, an vui và dạt dào tình thân hơn. Xin Chúa cho chúng ta biết thể hiện tình yêu đó nơi đồng loại và không ngừng lôi kéo tình yêu từ trời xuống cho hết mọi người.

CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH
Ga 13,31-35
Lm Augustine, SJ

Tình yêu là đề tài muôn thuở. Nhất là vào thời bây giờ, tình yêu là một mặt hàng đắt khách. Tình yêu xuất hiện ở sách vở, báo chí, phim ảnh, và mọi ngành nghệ thuật. Những bản tình ca, những tạp chí chuyên đề về tình yêu, vẫn thu hút mọi người. Có vẻ như tình yêu hiện diện ở khắp nơi và chi phối đời sống nhân loại. Thế nhưng sự thật lại khác hẳn. Thế giới chúng ta đang sống lại là một thế giới bị xâu xé bởi hận thù, người ta tưởng khi cuộc chiến tranh lạnh giữa Liên Xô và Mỹ kết thúc, thế giới sẽ được sống trong hoà bình. Nhưng từ đó đến nay, thế giới vẫn không ngừng sôi sục vì chiến tranh và xung đột. Xung đột giữa các quốc gia vốn là anh em với nhau, xung đột giữa các bộ tộc trong cùng một đất nước, xung đột giữa các tín đồ của những tôn giáo khác nhau. Người ta giết nhau không nương tay, không chút nhân hậu. Thế giới bị đe dọa bởi chính con người. Cơ quan UNESCO của Liên Hiệp Quốc đã chọn năm 1995 là năm cổ võ lòng khoan dung, bởi lẽ chỉ có lòng khoan dung mới cứu được thế giới khỏi thảm hoạ diệt vong bởi chính sự cứng cỏi của nó.

Gần đây, Đức Thánh Cha thường nói đến một "nền văn minh tình thương". Con người chỉ được coi là văn minh khi nó bước ra khỏi sự man rợ của thú tính, khi nó biết sống yêu thương và nhìn nhận người khác cũng như mình, bất chấp những khác biệt về chủng tộc, màu da, tôn giáo, quan điểm chính trị hay xã hội... Xây dựng một nền văn minh dựa trên tình thương, đó là bổn phận cấp bách của người Kitô hữu hôm nay.

Một điều răn mới

Hai câu cuối của bài Tin Mừng trên đây là lời Đức Giêsu nhắn nhủ các môn đệ yêu dấu. Đó cũng là lời Ngài nói với mọi Kitô hữu hôm nay. "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy thương yêu nhau". Điều răn "cũ" nằm ở trong sách Lêvi 19, 18: "Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình". Đức Giêsu đã từng giải thích lại ý niệm về "người thân cận". Người thân cận không phải chỉ là đồng bào ruột thịt, mà là bất cứ ai mang tư cách là người. Khi tôi giúp đỡ ai, tôi làm cho người đó trở thành "người thân cận" của tôi (Lc 10, 29.36). Điều răn cũ này vẫn là điều răn quan trọng bậc nhất; người Kitô hữu vẫn phải giữ khi sống với tha nhân (Rm 13, 8; Cl 3,14).

Ở đây Đức Giêsu đưa ra một điều răn "mới", xét về nhiều phương diện. Trước hết, điều răn này có một phạm vi nhỏ hơn. Đức Giêsu mời gọi các môn đệ yêu thương nhau. Đó là tình yêu thương giữa những người Kitô hữu, những người đồng đạo. Đức Giêsu không phủ nhận điều răn phải yêu thương mọi người (agapê), nhưng ở đây Ngài nói đến một điều răn mới, đó là tình huynh đệ giữa những kẻ có cùng niềm tin vào Ngài (philadelphia).

Kế đến, điều răn này có tính đòi hỏi hơn, vì dựa trên một tiêu chuẩn cao hơn. Kitô hữu phải yêu mọi người như chính mình, nhưng họ phải yêu thương các Kitô hữu khác như Đức Giêsu đã yêu thương họ, nghĩa là hiến mình phục vụ cho đến chết.

Cuối cùng, điều răn này được coi là mới vì nó gắn liền với Giao Ước Mới, Giao Ước đã được thiết lập trong máu Đức Giêsu (Lc 22, 20; 1C 11, 25). Đây không phải là điều răn được khắc trên bia đá (Xh 24, 12), nhưng là điều răn được ghi tạc vào tâm hồn các Kitô hữu do tác động của Thánh Thần (x. Gr 31, 31-34; Ed 36, 25-28).

Thánh Giêrônimô có kể lại một chuyện về thánh Gioan tông đồ. Lúc vị tông đồ đã về già, ngài vẫn không ngừng nhắc nhở các Kitô hữu trong cộng đoàn là hãy yêu thương nhau. Người ta phát chán vì thấy ngài cứ nói mãi điều ấy, nên mới hỏi ngài lý do. Ngài trả lời: "Bởi vì đó là điều răn của Chúa. Chỉ cần giữ điều răn này là đủ."

Đức Giêsu đã coi tình yêu thương giữa các Kitô hữu là một dấu chỉ để mọi người nhận ra họ là môn đệ đích thực của Ngài. Nói cách khác, có thể định nghĩa môn đệ là những người biết yêu thương nhau. Yêu thương nhau vốn là nét đặc trưng của các tín hữu buổi đầu. Sách Công Vụ cho thấy "mọi người tín hữu đều coi mọi sự như của chung" (2, 44), họ "đồng tâm nhất trí chuyên cần lui tới Đền Thờ, bẻ bánh ở nhà, cùng nhau chia sẻ của nuôi thân." (2, 46). Tình yêu thương giữa các Kitô hữu đã khiến dân ngoại phải thốt lên: "Xem kìa, họ yêu thương nhau biết chừng nào, họ dám sẵn sàng chết cho nhau!" Những Kitô hữu đầu tiên ở Việt Nam cũng đã được gọi là những người theo "đạo yêu thương", không có tình yêu thương, chẳng ai nhận ra chúng ta là môn đệ Đức Giêsu, Đấng đã yêu thương và yêu thương đến cùng.

Bản chất của người môn đệ là yêu thương. Nhưng trong thực tế các Kitô hữu ngày nay vẫn chưa sống trọn vẹn điều răn mới này. Có biết bao tranh chấp, đã và đang xảy ra trên thế giới, giữa những anh chị em Kitô hữu. Gần đây, ở Phi Châu (Rwanda), hai bộ tộc Hutu và Tutsi đã tàn sát lẫn nhau không thương tiếc. Mà cả hai phần lớn đều là những người công giáo, vốn là anh em với nhau. Phải chăng dấu ấn Kitô hữu chưa thực sự thấm nhuần vào đời sống chúng ta, đưa chúng ta vượt lên trên những bất đồng và dị biệt về nhiều mặt.

"Anh chị em hãy yêu thương nhau". Chúa Giêsu phục sinh vẫn muốn nhắc lại mãi điều răn này cho từng Kitô hữu. Tình yêu không chỉ vắng bóng trên thế giới, mà đôi khi còn vắng bóng cả nơi các tập thể Kitô hữu. Gia đình, giáo xứ, dòng tu, các hội đoàn, các hội thánh Kitô giáo trên khắp thế giới, được mời gọi yêu thương như lời chứng cho nhân loại hôm nay về Chúa Giêsu. Giữa một thế giới bị phân hoá và đỗ vỡ, tình yêu nơi những Kitô hữu cho thấy sức mạnh hiệp nhất của Chúa Phục Sinh. Yêu thương chính là làm việc tông đồ truyền giáo rồi vậy.

Những khuôn mặt của tình yêu

Khi nhìn ngắm Đức Giêsu, chúng ta thấy một số nét nổi bật nơi cách bày tỏ tình yêu của Ngài. Chúng ta ao ước mình có thể yêu NHƯ Đức Giêsu, chẳng những đối với anh chị em đồng đạo, mà cả đối với mọi người.

Một tình yêu đi bước trước. Đức Giêsu không chờ người khác đến với mình. Chính Ngài mời gọi ông Lêvi làm môn đệ, xin đến ở trọ nhà ông Dakêu làm nghề thu thuế; chính Ngài đã trở nên bạn đồng hành của hai môn đệ chán nản trở về Emmau; đã hiện ra để thỏa mãn những đòi hỏi của ông Tôma cứng lòng. Chẳng ai bắt Ngài làm thế. Chỉ tình yêu mới cho Ngài sự bạo dạn để đến với con người, đặc biệt những người tội lỗi. Ngài cũng mời chúng ta để lễ vật lại mà đi làm hoà với người gây chuyện xích mích với ta (Mt 5, 23-25).

Một tình yêu khiêm tốn. Cần nhìn ngắm Con Thiên Chúa mới sinh ở Bêlem để hiểu thế nào là khiêm tốn. Đức Giêsu sống khiêm tốn suốt một đời. Ngài không làm ai bị choáng ngợp bởi quyền uy hay sự thánh thiện. Phụ nữ, trẻ em, người bị xã hội ruồng bỏ, ai cũng có thể đến với Ngài. Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng (Mt 11, 29). Tình yêu khiêm tốn là tình yêu cúi xuống. Tình yêu này khiến ta ngửa tay xin ngay cả một người nghèo khó nhất.

Một tình yêu phục vụ. Đức Giêsu ý thức về sứ mạng phục vụ của mình. Con Người đến là để phục vụ và hiến mạng cho muôn người (Mc 10, 45). Ngài đã rao giảng Tin Mừng xoa dịu vết thương của người đau khổ. Ngài mời chúng ta rửa chân cho nhau, nghĩa là phục vụ trong khiêm hạ (Ga 13, 13). Chính Ngài cũng tự nhận mình chỉ là người hầu bàn cho các khách dự tiệc (Lc 22, 27). Thập giá là đỉnh cao của tình yêu phục vụ. Tình yêu có thể bị khước từ, lăng nhục, nhưng cuối cùng tình yêu sẽ thắng. Thập giá là nơi Đức Giêsu được tôn vinh và là nơi tình yêu của Chúa Cha được bày tỏ trọn vẹn cho nhân loại.

THẬT TUYỆT VỜI CÁI GIỚI RĂN...
Ga 13,31-35
Lm Phêrô Phan Văn Lợi
Ngày nọ, một linh mục nghe một thanh niên 16 tuổi nói với mình: "Thật tuyệt vời cái tôn giáo chỉ đòi hỏi một chuyện là yêu mến. Đức Giêsu thật tuyệt vời khi cho chúng ta một giới răn duy nhất là mến yêu!" Một thoáng im lặng rồi cậu dán mắt vào vị linh mục: "Phần cha, cha có thực hành giới răn của Đức Giêsu không?" Vị linh mục đã trả lời như mọi kitô hữu, nếu không khó chiu, có lẽ sẽ trả lời: "Tôi đang cố gắng!"

1. Yêu thương như Thầy...

Đúng thế, lòng yêu mến gần như làm nên linh hồn, ý lực cho các diễn từ thời danh của Đức Giêsu trong bữa Tiệc ly được Gioan ghi chép và được đoản văn Tin Mừng hôm nay lấy lại. Ngỏ lời với môn đệ, Đức Giêsu đề nghị với họ "giới răn mới của Người". Nó "mới" vì là điều khoản căn bản và độc nhất của "giao ước mới" đã được Giêrêmia loan báo (31,31-34) và được cuộc Vượt qua của Đức Kitô khai mạc.

Đó là một tình yêu hỗ tương ("yêu nhau") nhờ đó không ai ở trên người khác và tất cả đều cần tình thương của tha nhân. Đó là một tình yêu nghịch lý, ngược đời: thôi yêu người thân cận như chính mình, như Cựu Ước đã dạy (x. Lv 19,18) và chính Đức Giêsu cũng đã dạy (x. Mt 22,39), nhưng yêu thương "như Thầy đã thương yêu anh em", với chính sự hiến thân toàn diện và vô biên của Đức Kitô, Con Thiên Chúa.

Nhiều kẻ coi chữ "như" này tựa một liên từ so sánh: các môn đệ được kêu gọi bắt chước lối xử thế của Thầy mình. Thật ra, không chỉ biểu thị sự so sánh, liên từ đó còn biểu thị nguồn gốc của tình yêu mà Đức Giêsu đòi hỏi nơi các môn đệ. Thành ra có thể diễn dịch: "Anh em hãy yêu thương nhau... vì Thầy đã thương yêu anh em, để anh em yêu thương nhau như Thầy" hoặc "Anh em hãy thương yêu nhau bằng tình yêu mà Thầy đã dùng để yêu thương anh em". Nghĩa là "tình yêu của Chúa Con đối với các môn đệ làm phát sinh lòng bác ái nơi các môn đệ. Chính tình yêu của Người lưu chuyển đến họ, làm cho họ yêu mến anh em và được anh em yêu mến. Tình yêu của Đức Giêsu triển nở nơi các tín hữu mang dấu ấn tình yêu Chúa Cha" (X. Léon-Dufour)

Cuối cùng, đó là một tình yêu phải trở nên tấm thẻ độc nhất cho biết mình thuộc về cộng đoàn của Đức Kitô, trở nên bằng chứng sống động nhất cho thấy ta đã tin vào Người. Chính vì thế mà chân dung đẹp nhất của Giáo Hội mọi thời là chân dung được Luca vẽ ra trong sách Công vụ: "Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung" (4,32).

Và như để minh họa cho giáo huấn tối hậu ấy trong giờ phút tối hậu ấy, có hai nhân vật và hai câu nói hết sức thảng thốt của Đức Giêsu: "Một kẻ trong anh em sẽ nộp Thầy!" Và "Gà chưa gáy, anh đã ba phen chối Thầy". Hai thảm kịch này của tình bạn, của tình yêu làm sáng lên những gì Đức Giêsu vừa dạy cho cả nhóm. Giuđa đã lao vào đêm tối ("ra khỏi phòng tiệc ly") và y đã không thể trồi lên lại. Y đã thất vọng, y là hình ảnh khủng khiếp của tuyệt vọng: tất cả chấm dứt với tôi rồi. Phêrô cũng sẽ lường được lỗi lầm mình, nhưng ông sẽ vẫn ở lại trong tình yêu. Ông chắc chắn mình còn được yêu mến và còn có thể yêu mến. Chính cái "còn" này giúp ông không chìm vào thất vọng, như thánh ca mùa chay hay nhất hát lên: "Không đêm tối nào mà chẳng hy vọng ánh sáng. Không gì chấm dứt với Thiên Chúa cả".

Khi nghĩ rằng Thiên Chúa không thể tha thứ cho mình, chúng ta trở thành Giuđa. Trong khi chúng ta luôn có thể trở thành Phêrô và nghe được lời làm cho chúng ta sống lại: "Con có yêu mến Thầy không?". Chính cái đó mới đáng kể: "Con có yêu mến Thầy không?"

2. Yêu thương ngay cả...

Nghe những giáo huấn ấy, nhìn những tấm gương ấy, những tấm gương còn kéo dài qua lịch sử Giáo Hội, trong đời sống các kitô hữu đích thực, thậm chí trong đời sống của biết bao người lành ngoại đạo, tất cả chúng ta có lẽ đều nuôi dưỡng ước mơ thầm kín là một ngày nào đó, rốt cục chúng ta sẽ thật sự đặt cược đời mình trên tình huynh đệ. Ta sẽ yêu thương ngay cả X... đúng như bản chất anh ấy, ngay cả Y... sau những gì chị ấy đã làm cho ta. Chúng ta cảm thấy rõ ràng chọn lựa của tình yêu là như thế, không chùn lại khi điều đó trở nên khó khăn. Đi cho đến cùng một chọn lựa cứng rắn: bằng bất cứ giá nào, tôi vẫn muốn yêu thương, tôi sẽ chẳng để cho quyết định thương yêu của mình cao bay xa chạy.

Chúng ta sẽ chẳng luôn luôn đạt tới đó, nhưng có thể đạt tới chỗ chẳng bao giờ cho mình những lý do để bỏ cuộc, chẳng bao giờ quyết định rằng trong một hoàn cảnh nào đó, đối với một ai đó, chúng ta không có bổn phận yêu thương. Chính tính vô điều kiện ấy của tình yêu xét như quy luật sống tuyệt đối bất khả xâm phạm mới biến ta thành kitô hữu: "Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau". Ở điểm duy nhất này. Không có ba mươi sáu điểm, không có hàng trăm điểm!

Đúng! cho tới khi xảy ra với X... hay với Y... một cái gì đó khiến chúng ta nói: "Đến đây thì không thể yêu thương nổi, Thiên Chúa không thể đòi tôi một chuyện như vậy". Người đòi hỏi đấy! Nếu chúng ta chẳng tin rằng mình là những kẻ được gọi làm điều không thể, thì hãy khép sách Tin Mừng lại đi! Bí quyết lớn lao của Tin Mừng, đó chẳng phải là dạy ta "hãy yêu thương", nhưng là bảo rằng ta có thể làm điều ấy vì ta là những kẻ đã được cứu chuộc. Được cứu chuộc bởi Đức Giêsu Kitô, điều đó muốn nói ta có thể yêu thương như Người: "Với Đấng đã chiến thắng sự chết, bạn có thể làm những điều bất khả" (Chiara Lubich). Và thành thử là yêu thương ngay cả X... ngay cả Y... Thay vì lải nhải: "Chúng ta hãy thương yêu nhau", hãy dám can đảm đương đầu với khó khăn hiện thời của mình: "Tại sao tôi đang căm ghét X..., oán hận Y...?"

Chúng ta biết rõ mình đôi khi có những lý do mạnh mẽ để bỏ rơi hay căm ghét một ai đó. Nhưng chọn lựa yêu thương của ta phải đi đến chỗ điên rồ cuối cùng, điên rồ lớn nhất của Tin Mừng: yêu thương ngay cả trong một cuộc tranh chấp, đi đến chỗ chẳng nói xấu chút nào kẻ thù của ta, không cầu mong điều dữ song là điều lành cho đương sự, cho dẫu phải chống lại đương sự.

Vì không có chuyện chạy trốn trước một xung đột khả dĩ. Các kitô hữu chẳng chống lại gì trong thế giới chúng ta như hiện thời đều là những kẻ ích kỷ và có lẽ là những kẻ hèn nhát, chứ chẳng phải là môn đệ của Đức Kitô. Chúng ta được mời gọi yêu thương trong các cuộc xung đột và điều đó có thể dẫn tới chỗ gây ra một xung đột nhân danh công lý, vì công lý là một trong những khuôn mặt cao cả của tình yêu. Bác ái không thể định nghĩa được bằng ngôn từ "cảm tính" hay "sủng mộ". Olivier Clément viết: bác ái "đâu phải là đường, nó là muối!" Ngôn từ của bác ái "không bạc nhược, nhưng là dũng cảm". Bác ái đích thực không tránh né bạo lực, mà là chuyển đổi nó thành việc tranh đấu trong cuộc sống, là tạo lập Công bình và Lẽ phải. Trước những áp bức bạo hành đang nhan nhản, những dối trá lừa lọc đang tung hoành, những bất công kỳ thị đang giáng xuống những kẻ yếu thế, kitô hữu không thể nhân danh bác ái để chỉ nở nụ cười xuề xòa, đưa bàn tay thỏa hiệp, giữ im lặng đồng lõa, nói những ngôn từ hết sức mang tính "ngoại giao". Họ phải lên tiếng và hành động giải thoát các nạn nhân để đồng thời giải cứu các đao phủ!

Chúng ta cũng được mời gọi yêu thương những kẻ lắm chuyện, hay gây phiền nhiễu, những kẻ chúng ta phê phán là không thể chịu nổi và đó có lẽ là thật, nhưng điều ấy chẳng xóa bỏ yêu cầu của Đức Giêsu: Hãy thương yêu! Chính trên yêu cầu này mà trong vài lúc nào đó chúng ta định đoạt cuộc đời chúng ta. Nếu ai đó, đọc thấy điều này, hiểu rằng mình được yêu cầu làm một bước kinh khủng, hết sức điên rồ, đương sự hãy cầu nguyện và tiến tới, lê mình tới: đương sự sẽ chẳng bao giờ gần gũi Đức Kitô như vậy đâu.

BÍ QUYẾT HẠNH PHÚC HỌC NƠI ĐỨC KITÔ
Ga 13,31-35
Sr. Joane H. Huệ, OP

Bài Phúc Âm hôm nay gợi nhớ lại một hình ảnh cảm động nhất cho những ai đã từng kề bên giường bệnh của người thân thương để đón nhận những lời cuối cùng. Trong thổn thức lo âu cho người ở lại, Chúa Giêsu đã trăn trối bí quyết sống hạnh phúc cho các môn đệ trước cuộc tử nạn của Ngài, rằng:

Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau" anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.

Theo kinh nghiệm thường tình, ai sống hạnh phúc là sống yêu thương vì con người ai cũng muốn yêu và được yêu" và yêu như Chúa yêu thì cũng thật là khó. Nhà bác học Einstein có nói một câu rất hợp với ý Chúa Kitô. Ông bảo: "Chỉ có sống cho kẻ khác mới đáng sống." Và chúng ta đã biết không ai sống trọn vẹn cho kẻ khác bằng Thiên Chúa- làm người, chịu con người lên án cho đến chết và chết nhục nhã. Hành động chủ yếu của tình yêu trưởng thành phải chăng là trao ban mà không đòi được đáp trả? Chúa Giêsu hay tất cả những ai yêu thật có lẽ đều thú vị cảm nhận được chuyện "cho thì có phúc hơn nhận" (Tông đồ công vụ 21:30). Theo Mẹ Theresa Calcutta, mẫu gương sống động của Đức ái Kitô Giáo, khi chúng ta cho đi một điều gì mà mình yêu quý nhất thì chính là lúc chúng ta nhận lãnh nhiều hơn những gì mà chúng ta đã trao ban. Một ví dụ điển hình mà Mẹ thường xuyên làm đó là chôn cất kẻ chết. Chôn cất hay đi dự lễ an táng có lẽ là để cầu nguyện và chia buồn với người mất mát. Nhưng trên thực tế, nhìn vào quan tài, chúng ta được Chúa nhắc nhở và cảm nhận được sự chóng qua của thân phận làm người để rồi nhắm đến cùng đích tối hậu mà sống. Niềm vui căn bản chính là đây: có Chúa và được Chúa hướng dẫn!

Trong thực hành yêu thương, đôi khi chúng ta cũng có những kinh nghiệm "luẩn quẩn." Đó là yêu không trật tự như lời thánh Phaolô đã từng khuyến cáo (I Cor. 14:40). Nói theo kiểu Đông Phương, một người phải "tu thân, tích đức, tề gia, trị quốc, rồi mới bình thiên hạ" chứ không thể ngược lại. Một thực tại phũ phàng mà chúng ta thường vấp phải chính là ta hay bỏ quên người gần nhất hoặc là yêu người ở xa và lánh người kề cận. Nếu ta không yêu người thân cận thì cũng khó mà chứng minh được mình có khả năng yêu người ở xa vì tình yêu hệ ở việc làm không phải lời nói xuông. Cũng thế, chúng ta không yêu tha nhân như lời Chúa kêu mời thì làm sao chúng ta có thể chứng tỏ mình yêu Chúa và là môn đệ Chúa?

Lời mời "hãy yêu như Thầy đã yêu" quả thật là một thách đố lớn cho chúng ta là những môn đệ của Ngài. Yêu đến tận cùng và yêu tất cả mọi người trong trật tự như Chúa đã làm sẽ giúp chúng ta sống trọn vẹn ơn gọi làm người và làm môn đệ của Chúa. Bí quyết hạnh phúc là sống yêu thương" và chỉ có yêu thương như Lời Chúa truyền mới thật sự đem lại hạnh phúc và mới bộc lộ được căn tính làm người môn đệ của Chúa.

Lạy Chúa chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương ban cho chúng con bí quyết hạnh phúc. Chúng con xin lỗi Chúa vì nhiều khi đã bám víu vào những của tạm bợ đời này mà không để lòng mở rộng đón nhận tình yêu Chúa và trao ban một cách quảng đại như Chúa đã làm. Xin Chúa tiếp tục giúp chúng con nhận ra được ơn gọi làm môn đệ Chúa qua Bí Tích Thánh Tẩy là một hồng ân và cảm nghiệm được hạnh phúc thật khi yêu Chúa và yêu tha nhân.

CHÚA NHẬT V PHỤC SINH
Ga 13,31-35
Lm Trọng Hương

Hạt giống

Đoạn Tin Mừng này là một phần của bữa tiệc ly. Có 3 chi tiết đáng lưu ý:
1. Giây phút Giuđa ra đi là tiếng chuông báo hiệu cuộc thương khó bắt đầu. Chúa Giêsu coi đó là tiếng chuông mở đầu giờ Ngài được tôn vinh. Không phải đau khổ tự nó là tôn vinh, mà vì qua đau khổ Chúa Giêsu thực hiện ý muốn của Chúa Cha. Chúa Giêsu lấy làm vinh dự khi được thực hiện ý muốn Chúa Cha.

2. Trước lúc bước vào con đường thập giá, Đức Giêsu trối lại cho các môn đệ điều răn mới của Ngài: "Chúng con hãy yêu thương nhau... Ở điểm này mọi người sẽ nhận biết chúng con là môn đệ của Thầy, là chúng con có lòng yêu thương nhau".


Nẩy mầm
1. Chúa Giêsu lấy làm vinh dự được thi hành ý muốn Chúa Cha. Do tình yêu, người ta cũng lấy làm vinh dự được chiều ý người mình yêu. Thánh Phaolô nói "Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô". Các tông đồ sau khi bị bắt nhốt trong tù và bị đánh đòn, đã "hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu" (Cv 5,41). Nếu ta không lấy làm vinh dự làm theo ý Chúa và chịu khổ vì Chúa, đó là dấu ta chưa yêu Chúa.

2. "Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là chúng con hãy yêu thương nhau": Yêu thương nhau là điều răn của Chúa. Chúng ta yêu thương nhau là tâm huyết của Chúa. Như thế, khi chúng ta không yêu thương nhau thì không phải là chúng ta chỉ lỗi phạm đến nhau mà là xúc phạm đến chính Chúa, xúc phạm đến điều quan trọng nhất trong Đạo Chúa.

3. "Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau": Tại sao người ta không tin vào Giáo Hội? Tại sao người ta không đánh giá cao cộng đoàn của chúng ta? Đức Giêsu đã trả lời trước từ lâu rồi: tại vì chúng ta không yêu thương nhau.

4. Một bề trên tu viện công giáo đến tìm một ẩn sĩ ấn giáo tại chân núi Hy mã lạp sơn và trình bày về tình trạng bi đát của tu viện ông:

Trước kia tu viện này là một trung tâm thu hút nhiều khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân từ khắp nơi đến. Trong tu viện không còn chỗ nhận thêm người vào tu hàng ngày đến gõ cửa nữa. Thế mà bây giờ tu viện chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng, tu sĩ thì leo teo mấy người, cuộc sống thật là buồn tẻ.

Vị bề trên hỏi tu sĩ ấn giáo cho biết nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã đưa tu viện tới tình trạng trên đây. Tu sĩ ấn giáo ôn tồn bảo: "Các tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn đó là tội vô tình." Và ông giải thích: "Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quý vị, nhưng quý vị không nhận ra Ngài."

Nhận được lời giải đáp, vị bề trên hớn hở trở về tu viện. Ông tập họp mọi người lại và loan báo cho họ biết Đấng Cứu Thế đang cải trang thành một người trong nhà. Các tu sĩ đều mở to đôi mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng Cứu Thế cải trang vậy? Nhưng có điều chắc là một khi Ngài đã cải trang thì không ai có thể nhận ra Ngài được. Mỗi người trong họ đều có thể là Đấng Cứu Thế.

Vậy là từ đó mọi người đều đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sức sống và niềm vui đã trở lại với tu viện. Từ khắp nơi người ta lại tìm đến tu viện để tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều người trẻ cũng đến xin gia nhập cộng đoàn. (Trích "Món quà giáng sinh")

CHÚA NHẬT V PHỤC SINH
Ga 13,31-35
John Nguyễn

1. Thiên Chúa được tôn vinh nơi Đức Giê-su và qua Đức Giê-su
a) Hai mặt đối nghịch nhau của mầu nhiệm vượt qua
«Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người». Đức Giê-su nói điều này ngay trước khi chịu tử nạn. Tới giờ phải chịu tử nạn, mà Ngài lại nói đó là lúc Ngài được tôn vinh. Điều này cho thấy «tử nạn» và «được tôn vinh» là hai mặt khác nhau của cùng một sự việc. Nói cách khác, tử nạn và phục sinh, hay đau khổ và vinh quang tuy khác nhau và ngược lại nhau, nhưng lại luôn luôn gắn liền với nhau, không thể tách rời nhau, giống như hai mặt của một tờ giấy duy nhất.

Đó là chính là nội dung và ý nghĩa của mầu nhiệm vượt qua: vì đau khổ và vinh quang, tử nạn và phục sinh không thể tách rời nhau, nên muốn đạt được cái này thì phải trải qua cái kia. Không thể phục sinh nếu không chịu tử nạn, không thể hạnh phúc hay vinh quang, nếu không trải qua đau khổ. Đời sống thực tế chứng tỏ rõ ràng điều ấy: Tôi không chịu cực khổ làm ăn, gia đình tôi không thể ấm no hạnh phúc được. Một học sinh không chịu khó nhọc học hành không thể đỗ đạt hay làm nên danh phận gì.

Ý thức được thực tế của mầu nhiệm vượt qua, người kitô-hữu không nên mơ tưởng có được hạnh phúc mà không phải qua đau khổ, hay có được vinh quang mà không phải chịu nhục nhã, hay sẽ phục sinh mà không cần tử nạn. Qui luật thực tế của đời sống không cho phép như thế. Muốn hạnh phúc mà không qua đau khổ, muốn vinh quang mà không chịu nhục nhã, muốn phục sinh mà không cần tử nạn, đều là những cám dỗ cho tất cả mọi người, vì những ước muốn đó thường dẫn đến tội lỗi. Thật vật, tất cả mọi tội lỗi xảy ra trên đời đều xuất phát từ ước muốn không thực tế đó. Kẻ trộm cướp, hối lộ, kẻ giết người, gian dâm, v.v... đều là những kẻ muốn hạnh phúc mà không phải khó nhọc, vất vả. Tới đây, ta nên nhớ lại lời của Đức Giê-su: «Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong mà nhiều người đi lại qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy» (Mt 7,13-14).

b) Trong Đức Giê-su, Thiên Chúa và con người là một
«Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người». Đức Giê-su và Thiên Chúa đều được tôn vinh trong cùng một con người (là chính Đức Giê-su), và trong cùng một sự việc (là cuộc tử nạn). Điều này cho thấy Đức Giê-su và Thiên Chúa liên quan với nhau mật thiết đến mức có thể nói Đức Giê-su và Thiên Chúa là hai mặt khác nhau của một thực tại duy nhất: con người Đức Giê-su. Có thể nói Đức Giê-su, một mặt là một con người yếu đuối, bị hạn chế đủ mọi mặt, mặt khác lại chính là một Thiên Chúa mạnh mẽ, vô hạn đủ mọi mặt. Hai mặt ấy tuy ngược hẳn nhau nhưng lại kết hợp và gắn liền với nhau thành một con người duy nhất.

Đức Giê-su chính là mô hình gương mẫu của chúng ta, của mọi người kitô-hữu. Cũng tương tự như Đức Giê-su, một mặt ta mang tính con người, vốn hữu hạn, yếu đuối, dễ trở nên tội lỗi, một mặt ta chính là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hạn, mạnh mẽ, thánh thiện, «được thông phần bản tính Thiên Chúa» (2 Pr 1,4). Tính chất thần linh trong bản thân của đa số chúng ta có thể còn ở dạng mầm, chưa phát triển. Bổn phận và sứ mạng của người kitô-hữu là phải làm sao để cái mầm thần linh ấy ngày càng phát triển lớn mạnh lên. Ta càng ý thức được tính chất thần linh của mình, và cố gắng sống phù hợp với tính chất ấy, thì tính chất ấy càng có điều kiện phát triển mạnh.

Khi mầm thần linh ấy phát triển trong ta, khiến ta sống, hành động và xử sự như Đức Giê-su, thì ta có thể nói được như Ngài: «Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người». Thiên Chúa chỉ được tôn vinh trong bản thân ta, khi chúng ta làm cho mầm thần linh trong ta phát triển lớn mạnh. Mầm thần linh ấy chính là Nước Trời ở trong ta. Đức Giê-su đã từng nói: «Nước Thiên Chúa ở trong anh em» (Lc 17,21). Và trong bản thân chúng ta, Nước ấy, hay cái mầm thần linh ấy, giống như một hạt cải, «là loại nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên lại là thứ lớn nhất. Nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được» (Mt 13,32). Nhưng mầm thần linh ấy chỉ phát triển khi «cái tôi đáng ghét» của ta thật sự nhỏ đi: «Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi» (Ga2. Yêu thương là điều kiện phát triển tính thần linh trong ta

Mầm thần linh ấy không thể phát triển được trong một con người coi cái tôi của mình là quá lớn. Sự phát triển hình ảnh của Thiên Chúa trong ta và sự trương phình bản ngã của ta là hai sự việc luôn luôn tỷ lệ nghịch với nhau. Càng coi cái tôi của mình là quan trọng, càng đặt nặng cái tôi của mình, thì cái tôi ấy càng lấn át tính chất thần linh, và làm cho nó ngày càng yếu ớt, nhỏ bé đi, và đó chính là nguyên nhân của mọi thứ tội lỗi. Trong tiếng Việt, chữ «tội» được hình thành bởi chữ «tôi» và dấu «nặng»: «tôi nặng tội». Điều ấy không phải là không có ý nghĩa. Tội lỗi được hình thành từ việc coi cái tôi của mình quá nặng. Và sự thánh thiện thì ngược lại, được hình thành từ việc coi nhẹ hay tự hủy cái tôi của mình đi. Đức Giê-su đã từng nói: «Hạt lúa được gieo vào lòng đất nếu không chết đi, nó vẫn chỉ là hạt lúa, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác» (Ga 12, 24). Cái tôi có chết đi, thì sự sống thần linh hay Nước Thiên Chúa trong ta mới phát triển và sinh hoa kết trái.

Yêu thương chính là quên mình, hay ra khỏi cái tôi của mình để đến với Thiên Chúa và tha nhân. Và đó chính là bản chất của sự thánh thiện, cũng là bản chất của Thiên Chúa, như thánh Gioan đã định nghĩa: «Thiên Chúa là tình yêu» (1 Ga 4,8). Nếu ta là hình ảnh của Thiên Chúa, thì cách hành xử của ta phải phản ánh tình yêu. «Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu» (1 Ga 4,7-8). Tình yêu chân thật chính là dấu chứng của sự thánh thiện, chứng tỏ có sự hiện diện của Thiên Chúa. Người nào càng yêu thương và càng hy sinh cho người khác thì càng là người thánh thiện, và càng chứng tỏ có Thiên Chúa ở với mình. 3,30). Mầm thần linh ấy không thể được phát triển nơi một người lúc nào cũng coi cái tôi của mình quá lớn.

Chính vì thế, trước khi từ giã các môn đệ để chịu tử nạn và về cùng Chúa Cha, Đức Giê-su cho các môn đệ biết cái dấu hiệu quan trọng nhất để có thể căn cứ vào đó mà biết được ai là môn đệ đích thực của Ngài, đó là tình yêu thương đối với mọi người, và nhất là đối với nhau. «Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này, là anh em có lòng yêu thương nhau». Làm dấu thánh giá, đọc kinh, dâng lễ... chỉ là những dấu hiệu bên ngoài của người kitô-hữu, mà người không phải là kitô-hữu vẫn có thể giả mạo. Còn sự yêu thương - được thể hiện cụ thể bằng hành động - mới là dấu chứng thật sự của người kitô-hữu. Người yêu thương thực sự biết quên mình để hy sinh cho tha nhân vô điều kiện, cho dù chưa rửa tội, thì đã là kitô-hữu đích thực từ bên trong rồi. Còn người mang danh kitô-hữu mà sống ích kỷ, không tình thương, thì chỉ là kitô-hữu hữu danh vô thực mà rhôi (xem Rm 2,12-24).

Cầu nguyện

Lạy Chúa, xin biến cải lòng con thành «trời mới đất mới», thành Nước Trời, trong đó luôn luôn tràn ngập tình yêu thương, để mọi người nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa - là tình yêu - ở trong con.

Nguồn vietcatholic.org

2806    27-04-2013 08:24:39