Sidebar

Thứ Ba
21.05.2024

Chúa Nhật V Thường Niên A

  1. Muối Và Ánh Sáng Cho Đời
  2. Anh Em Là Muối, Là Ánh Sáng Thế Gian
  3. Sự Sáng
  4. Sống Có Ích Cho Tha Nhân
  5. Giác Ngộ
  6. Muối Và Ánh  Sáng
  7. Muối Và Ánh Sáng Trần Gian
  8. Muối Cho Đời
  9. Chúa Nhật Thứ Năm Mùa Thường Niên
  10. Chúa Nhật V Thường Niên
  11. Chúa Nhật V Thường Niên
  12. Chúa Nhật V Thường Niên
  13. Chúa Nhật V Thường Niên
  14. Chúa Nhật V Thường Niên A
  15. Chúa Nhật V Thường Niên A

 

MUỐI VÀ ÁNH SÁNG CHO ĐỜI
Mt 5,13 - 16
Lm Đan Vinh
1. LỜI CHÚA: "Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ" (c. 16a).

2. CÂU CHUYỆN:
1) GƯƠNG SÁNG PHỤC VỤ CỦA MỘT NỮ TU:
Cách đây ít lâu một đoạn phim ngắn được chiếu trên đài truyền hình Pa-ri (Paris) nước Pháp: Đầu tiên người ta nhìn thấy trên màn ảnh nhỏ một đôi bàn tay xinh xắn và nõn nà đang săn sóc một vết thương lở loét trông thật ghê sợ. Tiếp theo là cảnh một nữ tu bác ái đội voan chùm đầu đang phục vụ một người bị bệnh phong. Rồi đến cảnh một khán giả đang ngồi xem truyền hình nói với người bên cạnh: "Có cho tôi một ngàn phờ-răng, tôi cũng không bao giờ thèm làm công việc ghê tởm ấy !". Cuối cùng là cảnh phóng viên hỏi chị nữ tu kia: "Xin hỏi chị đã phục vụ các bệnh nhân phong ở đây được bao lâu rồi ?" Nữ tu trả lời: "Thưa được gần 20 năm". Phóng viên hỏi tiếp: "Thế mỗi tháng chị nhận được thù lao bao nhiêu ?" Nữ tu trả lời: "Thưa không có đồng nào cả !". Câu hỏi tiếp: "Có người nói: Dù có cho họ một ngàn phờ-răng, họ cũng không bao giờ thèm làm công việc ghê tởm này. Vậy tại sao chị lại sẵn lòng làm việc này không công tới gần hai mươi năm ?" Nữ tu trả lời: Tôi cũng vậy, có cho tôi một triệu phờ-răng tôi cũng không muốn làm việc này. Nhưng chính do lòng yêu mến Chúa Giê-su mà những bệnh nhân này là hiện thân của Người, nên tôi sẵn sàng làm tất cả mà không cần bất cứ thù lao nào hết !".

2) GƯƠNG TRUNG THÀNH CỦA MỘT CON CHÓ:
Tại một trạm xe điện ngầm bên Nhật Bản, có một bức tượng khá nổi tiếng, không phải tượng của một nhân vật danh tiếng, nhưng là tượng một chú chó. Ai đi qua cũng chăm chú nhìn tượng con vật được tạc trong tư thế nằm ngước mắt nhìn về phía trước như đang đợi ai đó. Bức tượng này là hình ảnh của một chú chó mà câu chuyện về sự trung thành của nó lay động lòng người như sau: Một công nhân Nhật có nuôi được một con chó khôn ngoan và trung thành. Nó luôn đi theo và quấn quít bên ông chủ. Ngày nào nó cũng tiễn đưa ông đi làm tại trạm xe điện ngầm gần nhà. Nó chờ cho chủ lên tàu và tàu đóng cửa lại rồi mới đủng đỉnh ra về. Chiều đến, nó lại xuất hiện đúng giờ xe điện về đến trạm, vẫy đuôi chào đón chủ và sau đó ngoan ngoãn đi theo ông về nhà. Ngày nào cũng vậy, sáng theo chủ đến bến, chiến lại đến bến để đón chủ. Nhưng rồi một buổi chiều kia, người chủ của nó đã không trở về do tai nạn sập hầm và ông bị chết trong đó. Hôm ấy con chó như mọi lần đã đến trạm chờ chủ. Nhưng chờ đến chuyến xe cuối cùng mà không thấy chủ. Nó đành thất thểu ra về khi màn đêm bắt đầu buông xuống. Hôm sau, trời vừa hừng sáng nó đã có mặt tại trạm xe điện và ngồi yên chờ chủ. Nhưng đến tối mịt không thấy ông, nó lại lui thủi trở về. Và ngày nào cũng vậy, con chó luôn có mặt và ra về đúng giờ dù không có ông chủ đi cùng. Chẳng ai thèm quan tâm tới con vật đáng thương ấy, ngoại trừ ông xếp nhà ga và mấy nhân viên phục vụ nhà ga. Người ta thấy càng ngày con chó càng gầy đi. Ai cho đồ ăn, nó cũng chỉ ngửi qua và không ăn. Đôi mắt nó ngày một buồn hơn, và bước đi của nó cũng ngày một loạng choạng chậm chạp hơn. Nó thất vọng vì bị mất ông chủ thật rồi !

Vào một buổi sáng kia, tiết trời giá rét, bên cạnh dòng người mặc áo ấm chen chúc nhau lên tàu, người ta thấy con chó trắng đã nằm chết co quắp bên vệ đường từ bao giờ. Thương hại con vật trung thành, ông xếp và các nhân viên nhà ga xe điện đã chôn cất nó tử tế. Và để tưởng nhớ một con vật trung thành, người ta đã đúc một bức tượng của nó và đặt ngay nơi nó thường nằm mỗi khi đến đưa đón chủ.

3) HAI LỐI ỨNG XỬ MANG LẠI HAI KẾT QUẢ TRÁI NGƯỢC:
Đức cha PHUN-TƠN SIN (Fulton Sheen) đã kể lại hai câu chuyện sau đây:

+ CÂU CHUYỆN THỨ NHẤT: Tại một nhà thờ bên Nam Tư, một em lễ sinh đang giúp lễ cho cha già, đã vô tình đánh rơi làm bể lọ rượu lễ. Ngay lúc đó, vị linh mục dù đang dâng lễ, đã không kềm nổi sự tức giận, thẳng tay đánh em một bạt tai té giập vào tường. Ông còn thét lên: "Đồ nhãi ranh, làm ăn như vậy hả ? Mau cút ngay đi khuất mắt tao và nhớ đừng bao giờ vác mặt trở lại đây nữa nhé !" Cậu bé giúp lễ bị đánh rất tức giận. Cậu ta liền cởi ngay chiếc áo giúp lễ, rời khỏi nhà thờ và thề quyết sẽ không bao giờ thèm đặt chân vào nhà thờ nữa. Từ ngày đó, cậu ta trở thành kẻ thù của Giáo Hội. Về sau, khi đã trở thành người có quyền hành lớn lao, ông ta luôn gây khó dễ và quyết tâm tiêu diệt Giáo Hội. Kẻ đó không ai khác hơn là thống chế Ti-tô, một thời cai trị đất nước Nam Tư cũ.

+ CÂU CHUYỆN THỨ HAI: Đức cha Phun-tơn tiếp tục kể câu chuyện về mình như sau: "Tôi còn nhớ rõ là hồi còn nhỏ, tôi đã ước muốn được giúp lễ phục vụ bàn thờ khi linh mục cử hành thánh lễ. Năm lên bảy tuổi, mẹ tôi rất có lòng đạo đã dẫn tôi đến gặp đức Tổng giám mục Giáo phận để xin cho tôi được vào ban lễ sinh giúp lễ tại nhà thờ. Một hôm, đến phiên tôi giúp lễ. Vì lần đầu làm công việc này, nên tôi bị lóng ngóng và lỡ tay làm rớt bình đựng rượu xuống nền cung thánh nhà thờ bể tan thành từng mảnh nhỏ. Ngay lúc đó tôi rất xấu hổ và sợ hãi, vì bọn giúp lễ chúng tôi kháo nhau rằng: Đức Tổng giám mục là một người rất nghiêm khắc. Thế nhưng biết tôi làm bể lọ rượu, mà ngài vẫn không mảy may phản ứng và cứ tiếp tục dâng thánh lễ như không có chuyện gì xảy ra cả. Sau khi thánh lễ kết thúc và cởi áo lễ xong, ngài gọi tôi đến gần. Tôi chuẩn bị tinh thần để nghe ngài quở mắng vì tội bất cẩn làm bể lọ rượu của mình. Nhưng sự thể lại diễn ra trái với tưởng tượng của tôi. Đức cha thân mật đặt bàn tay lên vai tôi rồi âu yếm nhìn thẳng vào mặt tôi và hỏi: "Này con, lớn lên con có muốn đi tu và vào đại học không ? Con có bao giờ nghe nói về đại học Lu-vanh (Louvain) chưa ?" Tôi đáp: "Thưa đức cha chưa ạ". Ngài nói tiếp: "Con hãy về nhà thưa với mẹ con rằng: Đức cha bảo lớn lên con sẽ đi tu và sẽ vào học tại đai học Lu-vanh nhé". Từ ngày đó, tôi cố gắng chăm chỉ học hành và mỗi năm đều đạt thứ hạng cao. Khi tốt nghiệp bậc trung học phổ thông, được cha mẹ đồng ý, tôi đã tự động đến gặp đức cha để xin ngài cho tôi được dâng mình cho Chúa và được vào chủng viện học làm linh mục. Vì là học sinh xuất sắc, tôi được đức cha cấp học bổng để vào đại học Lu-vanh là đại học rất danh tiếng thời đó. Sau 4 năm, tôi tốt nghiệp đại học với hạng ưu và được thụ phong linh mục, rồi một thời gian sau đó thành giám mục. Nghĩ lại cuộc đời của mình, tôi thấy phải cám ơn Chúa đã thương cho tôi có được cha mẹ thật tuyệt vời, đã yêu thương và nuôi nấng dạy dỗ tôi nên người. Nhưng người tiếp theo tôi phải đặc biệt ghi ơn chính là Đức Tổng giám mục Giáo phận. Ngài là người khoan dung độ lượng: đã không la mắng khi tôi sai lỗi mà thay mặt Chúa để kêu gọi tôi dâng mình cho Chúa ngay khi mới 7 tuổi. Cũng nhờ lòng khoan dung và sự quan tâm ưu ái của ngài, mà tôi mới được như ngày hôm nay.

3. SUY NIỆM:
1) ANH EM LÀ MUỐI ƯỚP THIÊN HẠ VÀ LÀ ÁNH SÁNG CHIẾU SOI CHO ĐỜI:
"Thế nào là một Ki-tô hữu?". Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giê-su đã trả lời cho vấn nạn ấy qua hai hình ảnh là muối và ánh sáng như sau:

- Muối mặn: Như chất muối mặn thấm vào đồ ăn, để giữ cho đồ ăn khỏi bị hư hỏng và thêm ngon miệng thì người tín hữu cũng phải sống chan hòa với mọi người chung quanh để cải hóa họ nên tốt hơn. Vị mặn là bản chất của muối. Nếu muối không còn chất mặn thì không còn phải thực sự là muối nữa. Một khi người tín hữu mất đi đức tin, thể hiện qua việc không quan tâm giữ các giới răn và không có tình thương người theo tinh thần của "Tám Mối Phúc", chứng tỏ chất muối đức tin nơi họ đã biến chất, bấy giờ họ không còn có giá trị nữa và đáng bị khinh khi như muối lạt bị quăng ra đường cho mọi người chà đạp.

- Ánh sáng: Thực ra chỉ mình Đức Giê-su mới là nguồn sáng (x. Ga 8,12). Nhưng Người cũng muốn các tín hữu hôm nay phải giãi ánh sáng chiếu soi cho trần gian. Muốn chiếu giãi ánh sáng của Chúa cho người khác, trước hết chúng ta phải có Chúa là nguồn sáng trong tâm hồn mình. Lòng tin cậy mến Thiên Chúa phải được thẻ hiện qua các việc lành như : chia sẻ cơm áo cho người nghèo đói, khiêm tốn phục vụ những người bệnh tật, chăm sóc những người già cô đơn và những trẻ em mới sinh bị bỏ rơi... Nhờ đó lương dân sẽ nhận biết Thiên Chúa là "nguồn ánh sáng và là ơn cứu độ" (Tv 27,1) và tin theo Đức Giê-su qua các tín hữu như Người đã dạy: "Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha anh em, Đấng ngự trên trời" (Mt 5,16).

2) THỰC TRẠNG THẾ GIỚI HÔM NAY:
Nhiều người tín hữu chúng ta thường hay phàn nàn rằng: xã hội hôm nay ngày một suy đồi xuống cấp về nhân bản và tình người. Nhưng ít ai trong chúng ta dám nhận sự xuống cấp đó cũng có phần trách nhiệm của mình. Thực vậy: Xã hội suy đồi có nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó cũng có một phần do lỗi của các tín hữu chúng ta: Có thể do muối Tin Mừng nơi chúng ta đã bị biến chất, tình Chúa tình người nơi chúng ta đã ra nhạt... nên chúng ta thường nhắm mắt làm ngơ trước những nhu cầu của tha nhân, chúng ta không đủ nhiệt tình để dấn thân cải thiện môi trường là gia đình, khu xóm, và xã hội nên đoàn kết và giúp nhau sống tốt hơn. Có thể do cây đèn đức tin của chúng ta đã cạn dầu ân sủng và không còn đủ sức chiếu sáng bác ái được nữa, nên xã hội và thế giới chung quanh chúng ta ngày càng trở nên tối tăm và sa đọa tội lỗi hơn.

3) CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ ?
Đọc Tin mừng chúng ta nhận ra rằng môn đệ của Chúa chính là người làm chứng và loan báo Tin mừng. Muối nơi chúng ta phải mặn. Ánh sáng trong chúng ta phải sáng tỏ như thành phố được xây trên núi, nghĩa là Nước Trời được công khai xây dựng bằng cả vật chất, bằng cả con người, bằng lời nói, thái độ cử chỉ hành động... để ai nhìn thấy cũng nhận ra Đức Giê-su đang sống và làm việc trong chúng ta. Hôm nay Đức Giê-su đã trao sứ mạng làm chứng về Chúa cho các Tông đồ và cho Hội Thánh để mọi dân nước được mặn lại đức Tin, được ánh sáng Lời Chúa soi chiếu và Nước Trời sẽ có nhiều người gia nhập và ngày một lan tỏa đến khắp cùng bờ cõi trái đất.

Mỗi người tín hữu cần ý thức nguyên nhân của sự xuống cấp xã hội hiện nay là do sự xuống cấp suy đồi của chính chúng ta, để từ đó biết khiêm tốn cầu xin Chúa Giê-su đổ ơn Thánh Thần chỉnh đốn những sai lệch, tăng cường độ mặn Tin Mừng cho chúng ta. Cần xin Chúa Thánh Thần đốt lên trong tâm hồn chúng ta ngọn lửa tin yêu bằng dầu ân sủng nhờ năng lãnh nhận các phép bí tích, nhất là tham dự các buổi hiệp sông chia sẻ Lời Chúa và cầu nguyện sám hối chung cộng đoàn, năng xưng tội và rước lễ cách sốt sắng để chu toàn sứ mạng.

Hiện nay vẫn có nhiều người tín hữu tuy có khả năng ướp mặn tha nhân, có đủ sức chiếu tỏa ánh sáng tin yêu của Thiên Chúa, nhưng lại không dám dấn thân vì sợ nguy hiểm. Cần có thêm nhiều tín hữu Công giáo trở thành những điểm sáng về các lãnh vực như: ca nhạc, sản xuất kinh tế, những gương điển hình tiên tiến về các công tác bác ái xã hội được tôn vinh trên các phương tiện truyền thông, những mẫu gương hy sinh quên mình được nhiều người biết đến và đề cao trên báo chí, các trang mạng internet và truyền thanh truyền hình... Các tín hữu chúng ta phải tỏa sáng qua những hoạt động tốt đẹp phục vụ người nghèo khó, bị khinh dể và bị bỏ rơi trong các cô nhi viện, nhà nuôi người già, người mù lòa khuyết tật, nhà chăm sóc bệnh cùi hay si-đa... để mọi người được sống chan hòa yêu thương trong đại gia đình có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em của nhau như sách Khải Huyền đã diễn tả: "Bấy giờ tôi thấy Trời Mới Đất Mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa. Và tôi thấy Thành Thánh là Giê-ru-sa-lem mới, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang" (Kh 21,1-2).

4. THẢO LUẬN:
1) Trong lịch sử Việt Nam, bạn có biết những nhân vật người Công giáo nào đã để lại những công trình ích quốc lợi dân, làm rạng danh Thiên Chúa trước mặt đồng bào Việt Nam mà đại đa số là lương dân hay không ? Cụ thể: Đức cha A-lếch-xăng đờ Rốt đã để lại công trình nào? Ông Nguyễn Trường Tộ đã làm gì ? Hàn Mặc Tử đã làm gì ? Pe-trus Ký đã làm gì ?

2) Mỗi người chúng ta có thể làm gì để chiếu soi ánh sáng tình thương của Chúa giúp đồng bào Việt Nam hôm nay nhận biết tin thờ Thiên Chúa ?

5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúa đã ban cho chúng con mặt trời chiếu sáng ban ngày và mặt trăng soi chiếu ban đêm. Chúng con xin tạ ơn Chúa đã dạy các tín hữu chúng con phải trở thành ánh sáng giữa thế gian, là muối mặn ướp cho tha nhân khỏi bị hư hỏng. Đây là niềm vinh dự nhưng cũng là một trách nhiệm phải chu toàn. Xin cho chúng con luôn có ánh sáng của Chúa trong lòng, để đi đến đâu chúng con cũng đẩy lùi tăm tối tội lỗi, bất công và thù hận đến đó. Xin giúp chúng con luôn giữ gìn ngọn lửa đức ái trong tim, và luôn đi theo con đường mà Chúa đã soi dẫn và đi trước chúng con. Trong thực tế, xin cho chúng con luôn biết quên mình yêu thương phục vụ những người nghèo khổ bệnh tật, để nên muối ướp cho đời, trở thành ánh sáng chiếu soi cho trần gian. Xin cho các bậc cha mẹ biết nêu gương công chính, hòa thuận, khiêm tốn và đạo đức để giáo dục đức tin cho con cái. Xin cho chúng con cảm nghiệm được niềm vui của Chúa khi phục vụ những người nghèo hèn bệnh tật và bị bỏ rơi... là hiện thân của Chúa.

ANH EM LÀ MUỐI, LÀ ÁNH SÁNG THẾ GIAN
Mt 5,13 - 16
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Chúa Giêsu sau khi đã giảng về các Mối Phúc như nền tảng của Hiến Chương Nước Trời. Chúa Giêsu lại đem ra ba hình ảnh phổ thông ở nước Do Thái lúc đó để mời gọi các môn đệ thực thi và rồi khi đã thực thi những điều Chúa đề nghị, họ sẽ trở nên những chứng nhân loan báo Nước Trời.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa kêu mời các môn đệ, những cánh tay nối dài của Chúa trở nên muối và đèn soi. Hình ảnh muối và đèn soi được dùng rất nhiều trong Kinh Thánh.Hai hình ảnh rất phổ thông này, Chúa Giêsu vạch ra một lối sống mà các môn đệ phải tuân thủ khi họ được sai đi truyền giáo. Muối được dùng làm gia vị để ướp măn đặc biệt để ướp cá và để tra canh. Người Do Thái dùng muối để làm phân bón cho vườn cây, cho rau, hoa, quả vv... Trong y học, người ta dùng muối để làm thang thuốc, để bảo vệ sinh tố, để làm cho tiêu hóa dễ dàng và để dẫn thuốc vào thận.Riêng Cựu Ước, muối biểu trưng cho sự trung tín của Thiên Chúa: Sách Dân số có nói Thiên Chúa đã ký kết với dân một khế ước bằng muối. Tân Ước, Chúa Giêsu nói:" Anh em là muối cho đời ". Khi nói như thế, chúng ta hiểu được hai ý nghĩa: thứ nhất, thêm hương vị tức là thêm sức sống ơn thiên Chúa. Thứ hai bảo vệ đồ ăn khỏi hôi thối nghĩa là bảo vệ chân lý hằng sống.

Do đó, người Kitô hữu là người thuộc về Chúa, sống giữa trần gian nhưng không thuộc trần gian. Chúng ta là con cái Chúa nhưng chúng ta vẫn là những người đang sống trong xã hội loài người.Nên, chúng ta cũng có bổn phận đối với Xã hội, Gia đình và Giáo hội.Sống giữa trần gian nhưng không thuộc về thế gian, bởi lẽ chúng ta là những phần tử của Chúa, của Giáo hội, chúng ta có bổn phận xây dựng xã hội sao cho tốt đẹp nhưng đồng thời chúng ta cũng không để cho thế gian, sự dữ, ma quỉ lôi cuốn quên đường về Quê Trời. Chúng ta phải sống làm sao để như lời thánh Phaolô đã viết :" Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi ". Bổn phận của chúng ta là muối, là ánh sáng,muối ướp cho đời để đời khỏi ươn thối.Chính vì thế, mọi Kitô hữu có bổn phận rao giảng, dạy giáo lý để nhiều người được nhận biết Chúa, tin và đi theo Chúa.Là ánh sáng, chúng ta phải chiếu tỏa đức tin sâu xa của chúng ta cho những người khác để họ cũng có đức tin như chúng ta. Đọc Tin mừng của Chúa Giêsu chúng ta nhận ra rằng môn đệ của Chúa là người làm chứng và loan truyền Giáo lý, rao giảng Tin mừng. Muối phải mặn.Ánh sáng phải sáng tỏ như thành phố được xây trên núi, nghĩa là Nước Trời được công khai xây dựng bằng cả vật chất, bằng cả con người, bằng cách biểu lộ, diễn tả đến nỗi ai nhìn thấy cũng nhận ra Nước Trời.

Chúa Giêsu đã trao sứ mạng đó cho các tông đồ và cho tất cả chúng ta để mọi dân, mọi nước được mặn lại, được soi sáng và Nước Trời được lan tỏa đến mọi nơi.

Lời Chúa trong Chúa nhật V thường niên, nhắc chúng ta kiểm điểm xem chúng ta có có là muối mặn hay muối đã nên lạt? Chúng ta có còn là ánh sáng hay ánh sáng của chúng ta nghĩa là đức tin đã trở nên lu mờ ? Chúng ta có còn là thành xây trên núi để mọi người nhận ra Nước Trời hay không ? Kiểm điểm lại những tiêu chuẩn ấy là kiểm điểm lại chính cuộc sống của chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn trở nên muối ướp mặn cho đời, luôn trở nên ánh sáng soi chiếu để nhiều người nhận ra Nước Trời. Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết sống Tám Mối Phúc để Giáo lý chúng con lãnh nhận nơi Chúa, nơi Kinh Thánh luôn được chia sẻ cho nhiều người, để mọi người nhận ra chúng con đích thực là môn đệ của Chúa. Amen.

 SỰ SÁNG
Mt 5,13 - 16
Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Ngày kia trong lớp giáo lý, cô giáo lý viên nói với các em học sinh về đề tài 'Chúa Giêsu'. Hôm nay, cô muốn nói với các em về một người mà các em sẽ gặp. Người đó yêu thương và chăm sóc các em hơn cả chính gia đình, cha mẹ, anh chị em và bạn bè của các em. Người đó hảo tâm hơn bất cứ người hảo tâm nào mà các em biết. Người đó tha thứ tội lỗi cho các em bất kể các em đã làm sai lỗi, nếu biết sám hối. Cô giáo để ý có một em nhỏ trai rất chú ý lắng nghe khi cô giảng. Đột nhiên, em không thể giữ im lặng được nữa. Em giơ tay phát biểu: Em biết người mà cô đang nói tới. Người đó sống ngay bên góc đường. Kitô hữu là người tỏ bày cho người khác những điều mà Chúa Giêsu yêu thích.

Từ thời rất xa xưa, trong cuộc sống xã hội đã luôn xuất hiện kẻ nghèo, người giầu. Thiên Chúa an bài trao ban cho mỗi cá nhân những khả năng chuyên môn tiềm ẩn và số mệnh riêng. Sự sống là một mầu nhiệm vô biên, mỗi người được chia sẻ một tí chút khả năng. Hiện hữu trên trần gian, không ai giống ai hoàn toàn và cũng không có sự đồng đều giữa mọi người. Có người được sinh ra trong nhung lụa ấm êm, có người vào đời có đủ ăn đủ mặc và có kẻ được sinh ra trong đói nghèo khổ sở. Giầu có hay nghèo đói mời gọi sự hỗ tương chia sẻ để đạt hạnh phúc đời này và đời sau. Người nghèo nương tựa người giầu và người giầu chia sẻ cho người nghèo. Mọi khả năng tiềm ẩn có được đều là món qùa nhưng không của Thượng Đế ban. Chẳng có điều gì chúng ta có, mà không bởi trên ban cho. Chúng ta nhận lãnh nhưng không thì cũng hãy chia sẻ nhưng không. Tiên tri Isaia mời gọi: Hãy chia sẻ của ngươi cho kẻ đói, hãy tiếp nhận vào nhà ngươi những kẻ bất hạnh không nhà ở; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ mặc đồ vào và đừng khinh bỉ xác thịt của ngươi (Is 58, 7).

Giống như thời tiên tri Isaia của hơn 2,500 năm trước, thế giới hiện nay cũng thế, có biết bao nhiêu người nghèo, đói ăn và cùng khổ. Xã hội thời nào cũng có người giầu kẻ nghèo. Nghèo không phải là cái tội. Đôi khi họ nghèo tiền bạc, nhưng giầu lòng nhân ái. Chúa đã dựng nên mỗi người một cách đặc biệt không ai giống ai. Chúa dựng nên con người và chúc phúc cho loài người được sinh xôi nẩy nở đầy mặt đất. Con người có gia đình, xã hội và cộng đồng để cùng nâng đỡ chia sẻ với nhau trong tất cả mọi khía cạnh của cuộc sống. Mỗi người đóng góp chút khả năng đặc biệt để cùng vun đắp và xây dựng một thế giới văn minh và tiến bộ. Hãy ngắm nhìn thế giới đa dạng chung quanh có muôn mầu, muôn sắc tuyệt vời.

Mỗi loài thụ tạo hay mỗi con người đều là một kỳ công của tạo hóa. Tạo hóa đã đặt để trong mỗi sinh vật một sứ mệnh riêng biệt. Các loài thụ tạo liên đới hài hòa để tiếp tục sinh tồn. Con người là thụ tạo cao quý được Thiên Chúa yêu thương ban cho nhiều khả năng. Tuy con người hiện hữu trong trần gian giới hạn, nhưng có ước vọng cao vời và vượt trên các loài. Con người được sinh ra trong thời gian hữu hạn, nhưng lại ngưỡng vọng cuộc sống vĩnh cửu. Bởi thế, loài người có sứ mệnh cao cả là phải luôn học hỏi, nghiên cứu và suy tìm để nhận biết, chúc tụng, cảm tạ và tôn vinh Đấng Tạo Hóa.

Truyện kể: Vào một ngày nọ, khi thầy dòng ẩn tu đang cầu nguyện thì chợt trông thấy một người ăn xin tật nguyền, đó là người mẹ nghèo đang đi xin thức ăn cho con nhỏ bệnh hoạn. Nhìn thấy thế, vị ẩn tu thân thưa với Thiên Chúa rằng: Lạy Thiên Chúa tốt lành, làm sao Chúa lại để sự khổ đau xảy ra mà Chúa không can thiệp chi? Trong tận đáy lòng, vị ẩn sĩ nghe Chúa đáp lời: Ta đã thực hiện một số việc. Ta đã dựng nên con. Chúng ta là tác phẩm tuyệt với của Thiên Chúa. Chúa Giêsu phán: Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che dấu được (Mt 5, 14). Anh em là ánh sáng soi dọi cho trần gian. Ánh sáng của cuộc sống tỏa chiếu qua nhiều cách thế cả tinh thần lẫn thể chất. Có thể chiếu tỏa qua gương sáng đạo đức, qua lòng bác ái vị tha, qua trái tim từ bi hỉ xả và qua các nhân đức tin, cậy và mến. Ánh sáng có thể diễn tả qua lời nói dịu dàng, cử chỉ thân mật, khuôn mặt tươi vui, hy sinh phục vụ và sự ân cần giúp đỡ.

Chúa Giêsu ước muốn mỗi người chúng ta hãy góp phần làm vinh danh Chúa Cha: Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời (Mt 5, 16). Kitô hữu là muối ướp mặn đời và ánh sáng dọi chiếu muôn nơi để mọi người, mọi nơi được ánh lên vinh quang Thiên Chúa. Thực hành các nhân đức sống động trong môi trường chung quanh bằng việc tốt lành. Gieo nhân tốt thì sẽ phát sinh hoa trái tốt. Một suy nghĩ tốt, một lời nói tốt, một cử chỉ tốt và một hành động tốt sẽ sinh muôn vàn hương hoa tốt lành. Người tốt và việc tốt sẽ chiếu dãi tấm guơng tốt. Hữu xạ tự nhiên hương. Thiên Chúa tạo dựng mong muốn mọi loài chia phần vinh phúc và chiếu tỏa vinh quang Chúa khắp nơi hoàn cầu.

Sau khi trở thành tông đồ của Chúa Kitô, Phaolô đã dành cả cuộc đời còn lại để rao truyền danh thánh Chúa, bất chấp mọi khó khăn cản trở. Phaolô lên tiếng: Phần tôi, khi tôi đến với anh em, tôi không đến với uy thế của tài hùng biện hoặc của sự khôn ngoan, tôi đến công bố bằng chứng của Thiên Chúa (1Cor 2,1). Không dựa vào sự khôn ngoan hiểu biết của thế trần, Phaolô được chính Chúa Giêsu soi sáng thúc đẩy từ nội tâm. Ngài đã cố gắng rao giảng chân lý với lòng nhiệt thành nóng bỏng. Ngài thuyết phục mọi người hãy đặt niềm tin vào Chúa Kitô phục sinh, nguồn ơn cứu độ. Chân lý cứu độ hoàn toàn không do sự nhận biết suy nghĩ khôn ngoan của người phàm mà do chính Chúa Giêsu mạc khải: Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan của người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa (1Cor 2, 5). Chúa Kitô là nguồn sáng thật đã chiếu sáng vào tâm trí chúng ta sự sáng thật. Sự sáng tinh tuyền của ơn cứu độ giải thoát.

Ánh sáng có thể len lỏi vào mọi nơi, mọi chỗ để đẩy lùi bóng đêm. Đêm tối là do thiếu ánh sáng. Khi mặt trời khuất bóng, màn đêm buông xuống. Con người khuất phục bóng đêm bằng các nguồn sáng hạt nhân, điện lực, động cơ và các nhu liệu. Ánh sáng mặt trời giúp mọi loài phát triển không ngừng trong thiên nhiên. Con người đã biết lợi dụng nguồn năng lượng để đưa vào cuộc sống. Ánh sáng văn minh mở rộng biên cương và kéo dài thời khắc làm việc và vui sống. Nhưng xã hội rất cần những ánh sáng thật chiếu dãi vào trong tâm hồn con người. Con người cần sự ấm áp của tình yêu thương, sự cảm thông, lòng thương xót và liên kết tình người. Một trái tim cô đơn có thể được sưởi ấm giữa mùa sương tuyết lạnh. Ánh sáng của những việc từ thiện và quan tâm cần thiết soi dọi vào giữa cuộc sống đầy vô cảm này.

Thánh Phaolô đã tâm sự: Vì thế, khi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy (1Cor 2, 3). Biết mình yếu kém vì đã từng đi bách hại các Kitô hữu thuở ban đầu, khi luồng sáng đánh ngã ngựa, Saul bị mù lòa bước đi trong đêm tối của sự sợ hãi cho tới khi nhận được ánh sáng của Chúa Kitô. Phaolô can đảm nói lên sự thật về Chúa Kitô phục sinh. Ông đã bước đi trong sự sáng và chiếu dãi ánh sáng đó cho nhiều người và nhiều cộng đoàn tiên khởi. Khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, mỗi người chúng ta cũng đón nhận ánh nến đức tin được đốt từ cây Nến Phục Sinh, chúng ta trở nên ánh sáng Chúa Kitô. Chúng ta hãy sống như con cái sự sáng luôn sẵn sàng đèn nến thắp sáng để ra đón Chúa Kitô.

Lạy Chúa, Chúa là ánh sáng và là sự sống. Xin ánh sáng của Chúa dẫn dắt chúng con ra khỏi bóng tối của sự dữ và sự dối trá. Xưa Chúa đã đem lửa xuống thế gian và mong cho lửa ấy cháy lên sưởi ấm mọi tâm hồn. Xin cho chúng con biết khơi dậy ngọn lửa yêu mến để nhiệt tâm sống chứng nhân cho tình yêu.

 SỐNG CÓ ÍCH CHO THA NHÂN
Mt 5,13 - 16
Lm Jos Tạ Duy Tuyền

Người ta kể đoạn kết của bộ phim Tôn Ngộ Không như sau: Vào đêm trước khi thầy trò Tam Tạng bước vào cửa Phật. Thầy trò ngủ chung với nhau, nhưng lòng bồi hồi xao xuyến không sao ngủ được. Ngộ Không thấy Thầy mình nằm trăn trở hết nghiêng bên này, lại nghiêng bên kia. Bèn quay sang nói với Thầy: "Ngày mai chúng ta vào cõi Phật rồi, sao Thầy không vui?".


Thầy Tam Tạng thở dài nói rằng: "Ngộ Không con ơi, con là khỉ, cả đời con theo Thầy chỉ mong thành người. Còn Thầy đã là Người, lại bỏ kiếp người vào cõi Phật. Biết có hay không! Làm người mà chưa giúp gì cho đời, liệu thành Phật, Thầy còn có cơ hội cứu đời cứu người nữa hay không?". Thực vậy Tôn Ngộ Không, khi theo thầy đi Thỉnh kinh đã mang hoài bão trở thành một con người nhưng Ngộ Không đã không có cơ hội thay đổi bản chất của mình, vì khỉ vẫn là khỉ, cho dù có 72 phép thần thông cũng không thay đổi phận số của mình.

Còn chúng ta là người, nhưng sống cho trọn kiếp người, cho xứng với bản chất và phẩm giá làm người đôi khi chúng ta vẫn chưa thực sự nên người. Có một nhà tu đức nói rằng: Bạn muốn là một người kytô hữu tốt trước hết bạn hãy là một con người tốt. Bạn muốn là một vị thánh, thì bạn phải là một người kytô hữu tốt. Dù chúng ta có muốn làm thánh làm phật, dù chúng ta có muốn trở thành những con người siêu phàm làm được nhiều chuyện lớn lao, phi thường nhưng trước hết và trên hết chúng ta phải là một con người hoàn hảo, một con người biết sống đúng bổn phận của mình. "Tu thân tích đức - tề gia - trị quốc - bình thiên hạ".

Một em học sinh muốn trở thành những nhà bác học lừng danh, thì trước hết, tuổi thơ của em phải là những học sinh gương mẫu, em phải biết chu toàn tốt bổn phận học trò của mình mới mong lập được công trạng cho gia đình và xã hội. Hơn nữa, người có tài nhưng không sống đúng bản chất con người là "nhân chi sơ tính bản thiện" thì cũng chỉ là kẻ gieo vãi sự chết chóc nơi nhân thế thay vì dùng tài năng để phục vụ cho đời.

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy bản chất của người kytô hữu không phải là những gì cao xa nhưng chỉ là những hạt muối bé nhỏ hay chỉ là một chút ánh sáng lẻ loi. Thật bình thường và cũng thật tầm thường nhưng lại thật hữu ích cho đời sống con người. Không có muối làm sao có những bữa tiệc thơm ngon mặn mà. Không có ánh sáng làm sao con người có thể nhìn ngắm những vẻ đẹp muôn màu của vũ trụ mà Thiên Chúa đã dựng nên. Các con là muối cho đời- là ánh sáng cho trần gian. Muối thì thấp hèn, âm thầm và khiêm tốn. Nhưng muối làm cho người phụ nữ nội trợ thêm rạng rỡ niềm vui, cho bữa cơm gia đình thơm ngon đậm đà. - Ánh sáng thì rực rỡ, huy hoàng. Ánh sáng soi cho người ta thấy rõ đường đi, cho con người nhận ra nhau, cho quan hệ giữa người với người thêm trong sáng chân thành. Mọi mối quan hệ còn ở trong bóng tối, thì đó chỉ là những mối quan hệ bất chính và tội lỗi. Nhưng thân phận cả hai đều phải chịu hao mòn hy sinh thì mới thực sự có ích cho đời: muối tan dần đi, ngọn đèn ngày càng lụn xuống. Lý do tồn tại của cả hai là để gây tác động tốt: nếu muối không mặn và đèn không sáng thì không có ích gì nữa, chỉ nên vất ra đường phố cho người ta chà đạp và khinh bỉ. Thân phận và hoàn cảnh của mỗi kitô hữu khác nhau: có người âm thầm hèn mọn như hạt muối, có người rực rỡ huy hoàng như ánh sáng. Nhưng mọi người đều có sứ mạng phải tác động tốt lên môi trường mình sống. Không tác động tốt thì không còn là kitô hữu nữa. Là muối đất, là ánh sáng thế gian, hơn ai hết, kitô hữu chúng ta cần phải thắp sáng lên niềm hy vọng bằng cuộc sống tỏa lan tình người. Dù chỉ là một ngọn đèn mù mờ giữa biển khơi, cho dù phải đương đầu với biết bao sống gió nhưng vẫn phải giữ cho ngọn đèn đó cháy sáng, vì biết đâu xa xa ngoài khơi vẫn còn có ai đó đang cần một chút ánh sáng để định hướng vào bờ.

Ngược dòng lịch sử 600 năm về trước CGS sinh ra, tiên tri Isaia đã dạy chúng ta phương thế để trở thành ánh sáng cho đời: Về mặt tiêu cực: đừng bao giờ khinh bỉ người khác, phải loại bỏ những tranh chấp, hăm dọa, nói xấu anh chị em mình; Về mặt tích cực là chia cơm cho kẻ đói, chia áo cho người nghèo, làm cho người đau khổ được hạnh phúc... Và "Như thế, sự sáng của ngươi sẽ tỏa rạng như hừng đông, ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong đêm tối và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày"

Một buổi chiều, Mẹ Têrêsa đi qua một căn nhà ngoại ô ở Calcutta. Nhà tối om và có tiếng rên từ bên trong vọng ra. Mẹ đẩy cửa bước vào, sờ soạng, đi lại giường một cụ già tiều tụy đau yếu, Mẹ hỏi: Nhà cụ không có đèn đóm gì ư?-Có một chiếc đèn còn tốt, nhưng không có dầu. Vả lại có ai đến thăm tôi đâu mà phải đèn với đóm! Mẹ lục lọi tìm ra chiếc đèn, lau chùi, mua dầu cho vào và đốt lên. Mặt cụ tươi tỉnh lên. Ít lâu sau Mẹ nhận được một lá thơ với mấy dòng chữ: "Nụ cười vui tươi của Mẹ, như dầu khích lệ, như đèn đốt sáng đời tôi, mỗi khi chiều về".

Mỗi người chúng ta cũng được Chúa mời gọi để thắp sáng cuộc đời kẻ khác. Mỗi người đều có một khả năng cá biệt để thắp sáng niềm tin cho anh chị em chúng ta và ướp mặn trần gian bằng tình yêu thương bác ái và cảm thông. Vì: "Làm thân cây nến vào đời Càng tiêu hao cháy, càng ngời vinh quang" Nhưng tiếc thay, vì lười, vì ích kỷ, vì hèn nhát, ngọn đèn của chúng ta lu mờ dần đi và có khi tắt ngấm. Vì thiếu bác ái, thiếu lòng nhân từ nên những ai tiếp xúc với chúng ta đều cảm thấy mặn chát, khô cằn thiếu sức sống vui tươi.

Xin Chúa giúp chúng ta dám hy sinh và từ bỏ mình mỗi ngày để trở nên ánh sáng và muối men cho đời. Amen

GIÁC NGỘ
Mt 5,13 - 16
Lm. Giuse Trần Việt Hùng

1. Sự Giác Ngộ
Nghe từ Giác Ngộ xem ra có vẻ nhuốn chút suy tư đạo lý của Phật Giáo. Tôi thích từ Giác Ngộ, đồng nghĩa với từ Thức Tỉnh (to awake, awaken). Mấy năm trước đây, tôi vẫn thường gặp và thăm hỏi thầy Thích Thiện Chí. Có một lần, thầy tâm sự rằng thầy mới được giác ngộ. Thầy kể rằng một ngày kia khi đang tụng kinh, thầy cảm thấy như có một lóe sáng trong đầu và từ giây phút đó thầy bắt đầu thao thao giảng dạy và chia sẻ những gì mà trước đây thầy không thể làm được. Thầy Thích Thiện Chí rất khiêm nhu và hiền lành. Thời gian trước thầy trụ trì tại Chùa Thập Phương nay đổi sang phục vụ tại Chùa Chiếu Kiến ở vùng Bronx, Nữu Ước.

Giác ngộ chính là được thức tỉnh. Mỗi người đều có những khoảnh khắc tự giác và nhận thức. Trước đó không bao giờ nhận ra dù có kinh qua bao nhiêu ngày sống. Giây phút giác ngộ hay thức tỉnh là một khởi đầu rất qúy báu. Có những vị thánh đã được thức tỉnh qua lời Chúa trong Kinh Thánh như thánh Antôn, Tu Viện Trưởng. Một ngày kia, Antôn ghé vào nhà thờ vừa khi bài Phúc âm đang đọc nói về người giầu có: Đức Giêsu đáp: "Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi."(Mt. 19, 21). Ngay lập tức, Antôn rời nhà thờ và về làng quê bán hết của hồi môn và 200 mẫu đất, rồi đem phân phát cho người nghèo. Lần kế tiếp, ngài vào nhà thờ nghe bài phúc âm khác: Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy (Mt. 6,34). Không do dự, ngài dâng biếu tất cả những của cải còn lại cho người nghèo. Sau đó, Antôn vào ẩn tu và tự tay lao động nuôi thân cùng giúp đỡ người khác. Đây chính là sự giác ngộ thực sự. Giác ngộ và tiếp tục sống ơn soi sáng thúc đẩy để thánh hóa cuộc đời.

2. Sống Thức Tỉnh
Giây phút ánh sáng chói lòa biến đổi cuộc đời. Saulô đang trên đường đi ruồng bách những tín hữu của Chúa Kitô, đã bị luồng ánh sáng đánh ngã ngựa và làm lòa mắt. Saulô không còn thấy đường đi mà phải nhờ người dẫn dắt. Saulô được chính Chúa Giêsu, nguồn ánh sáng chọn, gọi và cải đổi đời sống. Chúa Kitô đã biến đổi một Saulô đang ruồng rẫy bách hại các Kitô hữu trở thành Phaolô nhiệt thành rao giảng tin mừng Nước Chúa. Phaolô đã trở nên muối, nên men và ánh sáng cho mọi người, nhất là các dân ngoại. Thánh Phaolô đã mang ánh sáng tin mừng của Chúa đi cùng khắp. Ngài đã là chứng nhân đích thực và là đèn sáng để trên giá cao soi cho mọi người ở mọi thời, mọi nơi.

Giác ngộ như Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị trong lễ đăng quang nhận chức vị chủ chăn của Giáo Hội ngày 22 tháng 10 năm 1978. Câu đầu tiên trong bài giảng khai mạc là: Anh chị em đừng sợ. Ngài được linh hứng qua lời Chúa, trong Thánh Kinh đã có trên 100 lần nhắc đến từ "Đừng Sợ". Đừng sợ khi phải đối diện với những nghi nan, khó khăn hay thách thức. Đức Giáo Hoàng đã nỗ lực vượt ra ngoài tiền lệ đã gặp gỡ nhiều người, đi tới nhiều nơi và nhiều nước. Ngài đã hòa giải và xin lỗi toàn nhân loại vì những lỗi lầm của Giáo Hội trong quá khứ. Ngài chính là muối ướp mặn và là ánh sáng thế gian. Ngài đã đến với giới trẻ để ướp thêm vị mặn cho khỏi bị nhiễm mùi thế tục. Ngài đã sống chứng nhân đích thực của Chúa Kitô cho đến hơi thở cuối cùng.

Thức tỉnh như Đức Cố Hồng Y Phanxicô Nguyễn văn Thuận trong những ngày lao tù đầy khổ sở tại Vĩnh Phú. Nơi đây đa số tù nhân là những người không thuộc Đạo Công Giáo. Trong lúc cô đơn, buồn chán, thất vọng và nhớ nhung những sinh hoạt của giáo phận. Ngài kiên tâm cầu nguyện và được ơn soi sáng từ đáy tâm hồn mời gọi và đã thức tỉnh ngài là "Hãy chọn Chúa, chứ không phải là công việc của Chúa"(Escoge a Dios y no las obras de Dios). Nhận thức Chọn Chúa, ngài đã mở ra Con Đường Hy Vọng. Đức Cố Hồng Y Phanxicô là đèn sáng soi rọi gian trần. Ánh sáng cuộc sống của ngài đã lan tỏa từ trong ngục tù tối tăm, lạnh vắng đến kinh thành Rôma ánh sáng, trung tâm của Giáo Hội. Đèn vẫn cứ cháy sáng cho dù với chỉ một người lính canh hay cả ngàn ngàn người tụ họp bên ngài. Nơi ngài tỏa sáng niềm tin hy vọng vào Chúa Kitô. Ánh sáng của Chúa Kitô được phản ảnh qua đời sống đạo hạnh của ngài. Ngài là ánh sáng cho trần gian.

3. Nhận Thức
Trong cuộc đời, ai trong chúng ta cũng có những giây phút hay khoảnh khắc thức tỉnh, giác ngộ hay lóe sáng tâm linh. Có nhiều khía cạnh và nhiều thể loại thức tỉnh khác nhau tùy theo mức độ nhận thức. Nhận thức từ những vật thể tới cảm xúc và tinh thần. Có những vật quý giá bao năm bị bỏ quên lãng, đột nhiên một ngày chúng ta nhận ra giá trị và sự tuyệt đẹp của nó. Có khi bao năm chúng ta bị nghiện ngập sống trong trụy lạc, bài bạc, rượu chè và khói thuốc, vào một ngày tự nhiên chúng ta phát hiện sự nguy hại và rồi chúng ta dứt bỏ nó. Có khi người bạn hiện diện ngay bên mà không nhận ra, cho đến lúc được thức tỉnh trong tình yêu, người ta gọi là tiếng sét ái tình. Hoặc khi trải qua những tại họa thương đau mất mát, chúng ta mới chợt tỉnh thức tiếc nuối những gì đã qua và bắt đầu lại. Có những thức tỉnh trong tâm hồn nhờ một biến cố, một lời linh ứng, một phát hiện hay một thúc đẩy từ đáy tâm hồn. Sự giác ngộ hay thức tỉnh đây mới chỉ là một khởi đầu trong cảm xúc, chúng ta phải phấn đấu và sống với tia sáng soi dọi đó bằng ý chí và cả cuộc đời. Sự giác ngộ mới có ý nghĩa và mang lại hoa qủa đích thực.

Không khi nào trễ, nếu chúng ta biết bắt lại từ đầu. Chúng ta biết rằng vạn sự khởi đầu nan. Giây phút khởi đầu bất cứ một việc gì cũng rất quan trọng. Người ta nói: Xảy một li, đi một dặm. Trong kinh nghiệm cuộc sống, chúng ta có nhiều cơ hội may mắn xảy đến trong đời. Nếu ai biết chộp bắt cơ hội, họ có thể làm giầu, thành công và đạt thắng lợi. Về đời sống tinh thần cũng thế, đến một lúc nào đó, chúng ta cảm nhận được sự an vui khi lòng mình ở ra và con tim thắp sáng lên niềm tin yêu hy vọng. Chúng ta hãy kiên tâm học hỏi, tìm hiểu và cầu nguyện, chúng ta sẽ không bị thất vọng. Chúa Giêsu đã hứa: "Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho (Mt. 7,7).

4. Muối và Ánh Sáng
Lời Chúa Giêsu xác tín rằng anh em là muối và là ánh sáng. Muối mặn để ướp đời. Ánh sáng trên giá soi sáng cho mọi người. Mỗi người chúng ta được chịu phép rửa trong Chúa Kitô và được trao nến sáng. Chúng ta đều mang danh là Kitô hữu, có nghĩa là chúng ta thuộc về Chúa Kitô. Thuộc về Chúa Kitô thì đương nhiên chúng ta phải là muối và ánh sáng. Mỗi lời nói, cử chỉ và việc hành xử của chúng ta đều mang danh là Kitô hữu. Mọi việc chúng ta thực hiện tốt hay xấu cũng đều mang danh là người công giáo. Người công giáo phải là muối, là men và là ánh sáng. Muối thì phải có chất mặn. Chất mặn sẽ ướp đời khỏi ôi rữa hay hôi thối. Người Kitô hữu có sứ mệnh nên gương cho mọi người trong môi trường sinh sống của mình. Chúa Giêsu đã phán: "Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi (Mt. 5, 13).

Cây tốt thì sẽ sinh trái tốt. Con người tốt sẽ phát huy những việc tốt.Trong thực tế lại không luôn là thế, người tốt vẫn có thể sai lầm, sa ngã và phạm tội. Thánh Phaolô khuyên dạy: Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã (1Tm.10,12). Cây cối sinh chồi nẩy lộc và hoa trái theo mùa tự nhiên, nhưng con người có ý chí tự do và chọn lựa cách sống. Sinh hoa trái tốt lành đạo đức là một ân huệ và sự cố gắng. Muốn được giác ngộ trong ơn gọi của mình, chúng ta cần sự kiên nhẫn cầu nguyện và ý thức về việc làm của mình. Chúa Giêsu tin tưởng truyền dạy rằng:"Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được (Mt. 5,14). Chúng ta phải là ánh sáng soi cho mình trước khi dọi sáng cho người khác. Thường thì chúng ta thích soi mói và nghe truyện người, hơn là nhớ truyện mình. Đèn của mình đã tắt mà lại muốn soi lối chỉ đường cho người khác. Mỗi người chúng ta cần tự giác và tỉnh thức luôn, đừng để mình bị rơi vào sự mù lòa trong tăm tối. Chúng ta nhớ lời Chúa Giêsu: "Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố? (Lc. 6,39).

5. Nhân Chứng
Chúa Kitô chính là nguồn và là ánh sáng đến trong trần gian. Ánh sáng của Chúa được tiếp nối qua đời sống của người tín hữu. Chúng ta không thể chối từ trách nhiệm là đèn sáng soi vào bóng tối. Cuộc sống con người đang dần bị tục hóa qua các trào lưu hưởng thụ và chạy đua với các nhu cầu đòi hỏi. Thế giới đang cần các ngọn hải đăng chiếu sáng. Mỗi Kitô hữu hãy khơi dậy ngọn đèn cháy sáng để đẩy lùi bóng tối. Chúng ta hãy thắp đèn và đặt trên giá để soi cho mọi người chung quanh. Nhân loại đang cần vị mặn của muối để thanh tẩy, cần ngọn lửa để sưởi ấm và cần những gương sáng để soi đường.

Mỗi người đều được mời ra đi làm nhân chứng tùy theo ơn gọi của mình. Có người sống trong bậc gia đình, người sống độc thân và người sống đời dâng hiến trong chức vụ linh mục, tu sĩ ... ai ai cũng có thể trở thành ánh sáng soi lối cho tha nhân. Giáo sư, thầy cô giáo, sinh viên, học sinh hãy nên muối, nên men giữa môi trường lớp học. Các kỹ sư, công nhân, chuyên viên, thợ máy hãy nên ánh sáng tại các công xưởng. Các thương gia, người buôn kẻ bán, các chủ tiệm, người làm công đều được mời gọi nên gương mẫu của sự công bằng và bác ái. Các bác sĩ, y sĩ, y tá, nhân viên nên gương tận tâm phục vụ như đèn sáng nơi nhà thương bệnh xá. Các chính khách, quân nhân, cảnh sát, công chức và các nhân viên phục vụ công quyền phải nên gương sáng trong khi thi hành chức vụ. Các nhà truyền thông, báo chí, văn nhân thi sĩ, kịch sĩ, ca sĩ, nghệ sĩ... cần dùng khả năng chuyên nghiệp của mình truyền rao chân, thiện, mỹ cho cuộc sống. Các tu sĩ, thiện nguyện viên, linh mục, phụ huynh hãy nên muối men phục vụ tại gia đình, cộng đoàn và giáo xứ. Chúng ta đừng dấu đèn sáng sau lưng, đừng bưng bít hoặc tắt đèn để được tự do hòa chung vào những cách sống không xứng danh là Kitô hữu. Là Kitô hữu, đừng sợ, chúng ta hãy tiên phong sống gương mẫu và là chứng nhân cho sự sáng và sự sống giữa dòng đời. Chúa Giêsu đã khuyến khích:"Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em"(Lc. 12,32).

Tóm lại, ước chi ánh sáng của ngọn nến mà chúng ta đã lãnh nhận trong ngày lãnh Bí Tích Rửa Tội được cháy sáng mãi. Ngọn nến của niềm tin và niềm hy vọng vào Chúa Kitô phục sinh. Mỗi người tự vấn lương tâm, chúng ta đã góp được gì để xây dựng đời sống của Giáo Hội. Chúng ta đã làm được những lợi ích gì qua những ân huệ, khả năng và thời gian Chúa ban cho chúng ta trong cuộc sống? Chúng ta đừng cất giữ muối và ánh sáng cho riêng mình, hãy để muối ướp mặn đời và ánh sáng dọi chiếu muôn nơi. Xin Chúa là nguồn ánh sáng vĩnh cửu sưởi ấm và đốt lửa mến yêu trong tâm hồn chúng con, để chúng con tiếp tục truyền rao lời chân lý của Chúa.

MUỐI VÀ ÁNH  SÁNG
Mt 5,13 - 16
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Chúa Giêsu luôn dùng dụ ngôn và những sự việc, những hình ảnh trong đời thường để dạy dỗ con người, để nói lên một sứ điệp, một sứ mệnh nào đó của Giáo Hội, của người Kitô hữu. Muối là đồ gia vị để ướp mặn, đèn dùng để soi sáng. Muối và ánh sáng là hai hình ảnh Chúa Giêsu dùng để nói lên sứ mệnh của Giáo Hội nơi trần gian.

Thực ra, ngay từ thuở ban đầu, Giáo Hội đã ý thức về sứ mệnh của mình bởi vì Giáo Hội là muối, là ánh sáng cho đời bởi vì Giáo Hội là Thân Thể của Đấng đã mạc khải là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống. Do đó, Giáo Hội có sứ mệnh phải loan báo con người bởi đâu mà ra, con người sẽ đi về đâu ? Giáo Hội cho nhân loại biết cùng đích của con người là sống và về với Thiên vì con người phát xuất tự Thiên Chúa. Tin Mừng viết: " Anh em là muối cho đời. Anh em là ánh sáng cho trần gian " ( Mt 5,13-14 ). Tin Mừng nói lên sứ mệnh cao cả, nói lên bản chất của Giáo Hội, của người Kitô hữu là truyền giáo, là giới thiệu Đức Kitô cho người khác. Chính vì bản chất của Hội Thánh, của người Kitô hữu là truyền giáo. Cũng như muối nhạt thì không phải là muối. ánh sáng phải chiếu sáng. Nên, người Kitô hữu không thể sống mà không loan báo Tin Mừng, không truyền giáo. Người môn đệ Chúa khi đã sống lắng nghe và thực thi Lời Chúa, đã sống các Mối Phúc Thật thì không thể nào không có tác động, không có ảnh hưởng trên những người khác.

Khi ví người Kitô hữu là muối cho đời, Chúa Giêsu đã trao cho các môn đệ, đã trao cho con người một trọng trách cao cả, một sứ mệnh quí giá. Muối không thể thiếu trong thực phẩm, trong phân bón, muối làm gia vị, ướp mặn và làm cho cá không ươn, không thối. Muối là đồ gia vị không thể thiếu được trong đời sống sinh hoạt hằng ngày của con ngưới. Do đó, con người đặc biệt người Kitô hữu không thể nào sống khơi khơi mà không ý thức vai trò, trách nhiệm của mình là làm gương tốt và giới thiệu Chúa Kitô cho nhiều người chưa biết Chúa. Chính vì thế, người môn đệ Chúa phải làm cho những người xung quanh bớt tẻ nhạt, bớt vô vị, người Kitô hữu phải làm cho người khác biết được Chúa và nhờ đó họ yêu mến Chúa.

Và khi ví con người là ánh sáng, Chúa Giêsu muốn mạc khải Ngài là ánh sáng: " Tôi là ánh sáng thế gian " ( Ga 8, 12 ). Chúa Giêsu là ánh sáng, là Mặt trời soi chiếu trần gian. Nhờ măt trời mới có mầu sắc, vẻ sinh đẹp, thảo mộc, cây cối xanh tươi và con người mới sống được. Mặt trời là hình ảnh đẹp nhất về Thiên Chúa. Người Kitô hữu chỉ là hình ảnh phản chiếu, họa lại hình ảnh của Đức Kitô. Tuy nhiên, Ngài luôn muốn con người trở nên muối và ánh sáng cho anh em minh. Thánh Phaolô trong thư thứ 2 gửi tín hữu Corintô đã viết: " Thiên Chúa đã phán ánh sáng hãy bừng lên từ nơi tối tăm ! Người cũng làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi, để tỏ bầy cho thiên hạ biết vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời trên khuôn mặt Đức Kitô " ( 2 Co 4, 6 ).

Vâng, muối và ánh sáng là hai thực thể quan trọng cho đời sống con người và cho thế giới mọi thời. Muối ướp mặn cho đời và làm cho đặm đà các món ăn. Ánh sáng chiếu soi và làm cho sự sống được trường tồn.

Giáo Hội Chúa Kitô là muối, là ánh sáng cho thế gian. Nên, mỗi Kitô hữu cũng thực thi Lời Chúa: " Chính anh em là muối, chính anh em là ánh sáng "...Người Kitô hữu chỉ có thể trở nên muối, trở thành ánh sáng nếu họ sống Tin Mừng và thực thi Lời Chúa cách nghiêm túc, chân thành...Người Kitô hữu sẽ không còn là muối, là ánh sáng nếu họ mất đi phẩm chất đạo đức, thánh thiện mà chạy theo những dễ dãi, những móc ngoặc, lọc lừa, thỏa hiệp ngược với chân lý, nghịch với Tin Mừng của Chúa Kitô.

Người Kitô hữu phải sống bản chất truyền giáo là như thế, nghĩa là họ phải luôn trở nên muối mặn cho đời và trở thành ánh sáng chiếu soi thế gian, dọi chiếu xã hội để bô mặt của Chúa được rạng rỡ, được nổi bật giữa thế giới.

Lạy Chúa Giêsu, xin tăng thêm đức tin, sức mạnh cho chúng con, để cho dù chúng con chỉ là thiểu số giữa biển đời mênh mông, chúng con vẫn tỏa hương thơm ngát, trở nên muối ướp mặn cho đời và trở thành ánh sáng chiếu soi mọi người. Amen.

 MUỐI VÀ ÁNH SÁNG TRẦN GIAN
Mt 5,13 - 16
Sr Mai An Linh, OP

Chúa Giêsu đã dùng muối và ánh sáng là hai yếu tố cần thiết cho sự sống con người. Thật vậy, trong đời sống không có muối người ta không thể nuốt nổi các thức ăn khác và không có muối con người có thể sinh ra nhiều bệnh tật. Còn ánh sáng cũng vậy, ánh sáng của mặt trời, của đèn điện hay của lửa đều cần thiết, không có ánh sáng người ta sẽ không biết đường để đi, không có ánh sáng người ta sẽ thấy đời không có gì là thú vị, như người mù đi trong đêm tối. Không có ánh sáng, trần gian không thể tiến bộ được. Chúng ta sẽ áp dụng muối và ánh sáng vào đời sống chúng ta như thế nào ?

1/ Muối :
a. Công dụng của muối : Muối là một thứ gia vị để nêm, ướp làm cho thức ăn thêm ngon và còn có công dụng để thanh tẩy.- Muốn cho thức ăn không hư thối người ta phải ướp nó bằng muối. Vì thế, muối là thức ăn cần thiết nhất cho con người (x.Hc.39,46), muối làm gia vị (x.Col.4,6). Muối là yếu tố quan trọng của bữa ăn và của các lễ vật (Xh.30,35), vì thế mà muối đã trở thành biểu tượng cho sự hiếu khách, cho cuộc sống có hương vị, cho hòa ước và giáo ước (x.Tl.28,29;Ez.4,14), một giao ước bền vững : giao ước muối ( x.Dt. 18,19), "giao ước muối" là giao ước trường cửu như giao ước giữa Thiên Chúa và David. Ngòai công dụng là duy trì sự sống, muối còn là biểu tượng của sự khôn ngoan.

- Muối còn mang ý nghĩa thanh tẩy :
Trong đời sống thường ngày người ta vẫn thường dùng muối để sát trùng khi làm món ăn, nên không lạ gì khi chúng ta thấy Êlisê dùng muối thanh tẩy nước độc (x.2Vua2,19.22). Theo nghi lễ cũ mọi của lễ phải ướp muối (x.Lv.2,13; Ez.43,24), và nó phá hủy cái xấu (Đnl.29,22;Gr.17,6;Xp.2,9). Cũng chính vì công dụng thanh tẩy mà người ta sát muối vào trẻ sơ sinh (x.Ez.16,4). Phong tục này được coi như một nghi lễ trừ quỉ hay một lý do vệ sinh. Có lẽ Chúa Giêsu đã đề cập đến công dụng thanh tẩy trong lời nói của Ngài. Tất cả sẽ được ướp mặn bằng lửa (x.Mc.9,49). Thật vậy, lửa thử vàng và tinh luyện nó ( x. 1Cor. 3,13).

Thế nhưng muốn cho muối phát huy được tác dụng như vừa nêu thì muối phải chấp nhận hòa tan. Hòa tan chứ không đánh mất mình " hòa nhi bất lưu" (Khổng Tử). Đức Giêsu hòa nhưng không lưu, Ngài hòa nhất với nhân lọai nhưng không hề phạm tội. Muốn ướp, muốn nêm, muối phải hòa tan nhưng phải giữ được độ mặn.

b/ Ý Chúa :
Khi Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng : chính anh em là muối đất là Ngài muốn các ông phải giữ được đặc tính của muối là muối người khác, đó là đặc điểm của người môn đệ, đất là con người, là thế gian. Các ông phải ướp trần gian khỏi hư thối là sự chết và phải giữ cho bền vững giao ước giữa lòai người với Thiên Chúa. Không có muối là những người môn đệ này, thì trần gian sẽ u buồn, không có hương vị và đời trở nên vô nghĩa.Không phải chỉ những người đã rửa tội mới là muối cho đời, nhưng là cả những người nghe và giữ Lời Thiên Chúa nữa, người sống yêu như Chúa sống. Cho nên vấn đề không khép kín chỉ cho riêng Kitô hữu. Nhưng muốn sống được như thế thì người môn đệ phải giữ cho mình đừng bị lạt đi, phải giữ được vị mặn là sống Bát Phúc và trung tín với chính mình, với sứ điệp Phúc Âm. Sống bát phúc sẽ là người hòa đồng, nhưng không đánh mất mình. Người nghèo của tám mối phúc không biết dựa vào ai mà chỉ dựa vào Đức Giavê.

Vị mặn là bản chất của muối. Cũng vây " mặn" phải là bản chất của người môn đệ. Nếu mất vị mặn thì không còn là muối. Người môn đệ không còn vị mặn là đánh mất bản chất tông đồ của mình. Đức Giêsu gợi ra hình ảnh : nếu muối ra nhạt, đó là hình ảnh không thể có được để làm cho người ta chú ý đến điều nghịch lý của người môn đệ, nghĩa là người môn đệ không thể mất bản chất cấu tạo ra người môn đệ, nên nếu làm mất đi bản chất của mình thì kể như đánh mất chính mình.

2/ Ánh sáng :
a. Công dụng của ánh sáng :
Ánh sáng làm cho người ta thấy được sự vật và đường đi, ánh sáng làm cho người ta vui và đem lại sự sống, làm cho thấy những cái muốn thấy và cả những cái không muốn thấy. Ánh sáng êm dịu làm vui thú đôi mắt nhìn trời (x.Jos.11,7), mọi người đều có kinh nghiệm này. Liên tưởng chặt chẽ ánh sáng và sự sống (x.Tv.58,9). Kẻ mù không thấy ánh sáng của Thiên Chúa (x.Tob.3,17.11, 8) và đã nếm trước sự chết. Ngược lại Tv.56, 14 vì Shéol là lãnh địa của sự tối tăm. Bởi thế, đối với con người, ánh sáng và tối tăm có tác dụng đối nghịch.

Muốn phát huy được ánh sáng phải để trên cao, soi cho mọi người không trừ ai. Ngòai ra ánh sáng còn có nghĩa mạc khải về Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ. Trong Is.2, Người Tôi Tớ Đức Giavê đã được gọi là ánh sáng soi muôn dân, Israel phải là ánh sáng soi dân ngọai (x.Is.42,6). Các thầy Rabbi dùng tước hiệu ánh sáng trần gian gán cho Thiên Chúa, cho Abraham, Israel, cho lề luật, đền thờ Giêrusalem. Trong tân Ước, Chúa Giêsu là ánh sáng trần gian (x.Lc.2,32; Jn.8,21;12,35), theo gương Chúa Giêsu các môn đệ của Ngài phải là ánh sáng của nhân lọai.

b. Ý Chúa :
Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ ý thức vai trò của mình, vai trò làm cho người ta thấy Thiên Chúa, thấy Thiên Chúa chứ không phải thấy mình và làm cho họ có niềm vui. Có niềm vui là có Thiên Chúa, như thế là giúp người ta có sự sống đời đời. Muốn được như thế người môn đệ phải sống như con cái ánh sáng (x.Jn.12,35) và phải để lên cao (x.Mt.5,16). Lời Thiên Chúa do Đức Kitô công bố sống động nơi môn đệ và sinh ra hoa trái nơi lối sống của họ. Ánh sáng chính là Đức Kitô đóng trên các môn đệ của Ngài, đó là sự sáng suốt, sự chân thành của đức tin phải tỏa sáng nơi việc làm của người tông đồ.

3/ Sứ điệp Tin Mừng :
Nếu bạn không trở nên muối, ánh sáng cho thế gian thì bạn còn là Kitô hữu nữa không ?Trong hòan cảnh cụ thể của bạn. Bạn phải sống như thế nào để trở nên muối cho đời và ánh sáng cho trần gian.Trong môi trường bạn sống có những vấn đề nào được đặt ra. Bạn có cách nào để gỉai quyết những vấn đề đó chăng ? Bạn có thể làm ngơ trước những vấn đề đó mà vẫn nghĩ mình là Kitô hữu hay không ?

Lạy Chúa, xin giúp chúng con sống đúng bản chất của mình ướp đất và soi sáng trần gian, đừng vì tham sân si mà ra lạt hay lu mờ đi. Nhưng như thành xây trên núi, như đèn thắp sáng đặt trên giá, có bình dầu yêu mến với ngọn lửa đức tin cháy sáng, để sự hiện diện và hành động của chúng con, làm cho mọi người nhận biết mà tôn vinh Cha trên trời.

 MUỐI CHO ĐỜI
Mt 5,13 - 16
Lm. Giacôbê Phạm văn Phượng, OP
.
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói về muối và ánh sáng. Đó là hai hình ảnh xác định rất rõ và đúng bản chất cũng như sứ mạng của người môn đệ Chúa Giêsu là chúng ta. Chúng ta phải là muối cho đời và ánh sáng cho trần gian.

Chúng ta là muối cho đời nghĩa là gì ? Thời Chúa Giêsu, muối được dùng để làm cho đất được tốt, trộn lẫn với phân nên được gọi là muối đất. Ngày nay, muối luôn luôn được sử dụng để giữ cho các thức ăn khỏi bị ôi thối, ngăn chặn hay làm chậm lại sự tan rã hay hư hỏng của thịt cá. Nhưng vai trò thường tình nhất của muối là tạo ra vị ngon : có muối đủ mặn thì ngon, không đủ thì lạt quá, không ngon hay mất ngon. Ngoài tác dụng tạo ra vị ngon, muối còn là một yếu tố rất cần cho cơ thể. Cơ thể chúng ta sống không thể thiếu muối. Ngoài muối thường, ngày nay còn có muối i-ốt, loại muối này vừa dùng để nêm nếm thức ăn, vừa rất có lợi cho sức khỏe trong việc ngừa bệnh bướu cổ. Muối i-ốt hoàn toàn không có mùi vị khác muối thường.

Đó là hình ảnh nói về phẩm chất của người Kitô hữu. Chúng ta là muối cho đời, mang lại mùi vị cho đời, nghĩa là vai trò của chúng ta là phải mang lại niềm vui và phấn khởi cho mọi người, mang lại ý nghĩa cho các thực tại tầm thường đang trở nên nhạt nhẽo. Dùng muối làm hình ảnh : "Anh em là muối cho đời", rõ ràng Chúa Giêsu muốn đề cao tầm quan trọng đời sống thấm nhuần Tin Mừng của người Kitô hữu đối với thế giới.

Thứ hai, chúng ta là ánh sáng cho trần gian nghĩa là gì ? Ai cũng biết : ánh sáng rất quan trọng và cần thiết, không có ánh sáng, con người và vũ trụ vạn vật không thể sống được, bởi lẽ không có ánh sáng tức là không có mặt trời. Mặt trời là nguồn mạch duy nhất và cần thiết cho mọi năng lượng hiện hữu trên hành tinh của chúng ta. Không có mặt trời thì không có than đá, không có chất đốt, không có điện lực, bởi vì sẽ không có rừng, không có thủy triều. Như vậy, ánh sáng rất cần thiết, không có ánh sáng thì không có sự sống. Cũng thế, không có ánh sáng thì cũng không có mầu sắc, không có vẻ đẹp.

Đó cũng là một hình ảnh nữa nói về phẩm chất của Kitô hữu. Chúng ta phải chiếu giãi sự sáng ra trước mặt người ta, tức là phải nêu gương sáng đời sống đạo đức, thánh thiện, phải làm việc lành trước mặt người ta, để họ xem thấy những việc lành đó mà ngợi khen Cha trên trời. Cho nên, mang danh hiệu là tín hữu Chúa Kitô, chúng ta phải có đời sống tốt lành thánh thiện hơn những người khác, để trở nên ánh sáng chiếu soi cho họ, giúp họ nhận biết Cha trên trời.

Như vậy, với hai hình ảnh muối đất và ánh sáng đã được Chúa Giêsu phát biểu theo chiều hướng truyền giáo rõ rệt, khó có thể hiểu khác đi được. Chúng ta minh chứng mình là môn đệ của Chúa Giêsu qua cuộc sống đức tin, lối sống yêu thương, tinh thần Tin Mừng. Chúng ta làm chứng cho Chúa, cho đạo bằng đời sống chứng nhân của chúng ta. Thế giới chúng ta đang sống đã bị quá nhiều ô nhiễm bởi những cái xấu và tiêu cực : tin tức thế giời trên truyền hình mỗi ngày để lại những ấn tượng đau xót cho người xem : chiến tranh, hận thù, chém giết, bạo lực, khủng bố...diễn ra khắp năm châu. Những thảm kịch ấy làm cho thời đại hôm nay trở thành điểm nóng thôi thúc người Kitô hữu diễn đạt cuộc sống yêu thương bằng những hành vi cụ thể, thực tế trong cuộc sống cá nhân, gia đình và nơi môi trường xã hội.

Theo ý Chúa Giêsu, thì vị mặn của muối và ánh sáng của đèn là những việc lành, nghĩa là những công việc phù hợp với lòng tin của chúng ta hay với Tin Mừng của Chúa, đó là những công việc thể hiện các nhân đức thương xót, từ bi, nhân hậu, những công việc thể hiện công bình, quảng đại, bác ái. Nhiều người tưởng rằng việc lành phúc đức chỉ là những việc đạo đức đối với Chúa, như đọc kinh lần hạt, đi nhà thờ dự lễ, ăn chay kiêng thịt... Những việc ấy tuy rất tốt, nhưng nếu thiếu các việc lành đối với tha nhân như công bằng, bác ái thì cũng trở thành vô ích. Có biết bao người đi nhà thờ, dự lễ đọc kinh thật nhiều, nhưng lại thiếu công bằng bác ái. Họ có ngờ đâu họ đã trở thành muối nhạt, muối vô dụng hay chiếc đèn không còn ngọn lửa chiếu sáng nữa. Thật đáng sợ, vì đời họ đã không làm cho ai ngợi khen Thiên Chúa.

Nhưng có điều này đáng an ủi là trong thiên nhiên, muối đã nhạt thì không thể nào trở thành mặn, đèn đã tắt thì không thể tự mình đốt lên ngọn lửa khác. Nhưng trong thế giới siêu nhiên, điều đó có thể xảy ra : người tội lỗi có thể ăn năn trở lại, người khô khan có thể trở nên sốt sắng, người lười biếng có thể trở nên siêng năng.

Chúng ta sống trong xã hội là chúng ta sống với, sống cùng, sống cho và sống vì người khác. Không ai là một hòn đảo, không ai có thể tự phụ sống cho riêng mình mà hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến người khác. Bằng lời nói hay hành động, tất cả mọi hành xử của chúng ta đều gây một ảnh hưởng nào đó với người khác. Riêng với người Kitô hữu, thì vai trò ảnh hưởng ấy càng quan trọng hơn. Cuộc sống chứng tá của bác ái, của nhẫn nhục, của tha thứ, của quảng đại, của phục vụ và của sự cần kiệm liêm chính mà chúng ta luôn phải thể hiện có khả năng thuyết phục và lôi kéo được nhiều người đến với Chúa.

Như vậy, nếu mỗi người Kitô cố gắng thực hiện vai trò ướp muối đất vào soi sáng cho người bằng những việc lành, tức là bằng những việc công bằng, bác ái, thì thế giới này, xã hội này sẽ tốt đẹp hơn và Thiên Chúa sẽ được nhiều người ca tụng ngợi khen. Như thế, đời sống chứng tá của chúng ta còn có tác dụng tông đồ, truyền giáo nữa.

 CHÚA NHẬT THỨ NĂM MÙA THƯỜNG NIÊN
Mt 5,13 - 16
Lm Stêphanô Bùi Thượng Lưu

Bài Tin Mừng Chúa nhật thứ 5 mùa thường niên theo thánh sử Matthêu gồm hai ý tưởng chính yếu: môn đệ Chúa Kitô là "Muối cho đời" và "Ánh sáng cho trần gian". Trong bài suy niệm này, chỉ xin được ngẫm suy về muối.

Ngay từ tấm bé, ai trong chúng ta cũng thuộc nằm lòng câu tục ngữ Việt Nam :

"Cá không ăn muối cá ươn.
Con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư".


Ông bà tổ tiên mình đã dùng kiểu nói ví von dễ hiểu để dậy con cháu những bài học đạo đức luân lý cụ thể. Qua câu tục ngữ đó, ai trong chúng ta cũng hiểu rằng chất mặn của muối ướp cá cho khỏi ươn khỏi thối. Muối ở đây là lòng kính thảo cha mẹ, biết vâng lời, biết nghe và sống theo những lời dậy bảo của các bậc sinh thành. Những lời dạy bảo của cha của mẹ là khuôn vàng thước ngọc, giúp cho con cái trưởng thành khôn lớn, để trở thành người có ích cho gia đình xã hội mai sau. Đứa con nào bỏ ngoài tai lời cha mẹ khuyên răn, chắc sẽ khó tránh khỏi tính hư tật xấu.

Muối còn là gia vị cần thiết cho sự sống: muối mang lại dinh dưỡng cơ thể và bảo vệ sức khoẻ. Nấu nướng mà không có "mắm muối", đồ ăn sẽ nhạt nhẽo, không mặn mà. Trong đời sống vợ chồng, muối là tượng trưng cho những gì thắm thiết "mặn nồng", nhờ đó đôi vợ chồng gắn bó chung thủy với nhau đến "đầu bạc răng long":

"Tay bưng đĩa muối chấm gừng,
Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau."


Chúa Giêsu cũng dùng hình ảnh cụ thể của muối để giáo huấn các môn đệ. Đa số các Ông là dân thuyền chài, sinh sống bằng kéo chài thả lưới, trước khi bỏ "mọi sự" mà theo Chúa, để trở thành "những kẻ chài người". Hơn ai hết, các Ông hiểu ngay Chúa Giêsu muốn dậy các ông gì khi Ngài nói: "Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi."

Qua lời của Chúa Giêsu, các môn đệ hiểu rất rõ rằng: họ được mời gọi là "muối" cho đời. Bản chất của muối là mặn. Giá trị của muối cũng là chất mặn. Bên bờ hồ Galilê hay bên hồ Giênêgiarét xưa, đã nhiều lần chính các ông đã dùng muối để ướp cá trên thuyền. Nay giữa cuộc đời bon chen, đầy sa đọa, môn đệ Chúa Giêsu phải là "muối" ướp mặn thế gian, làm cho đời khỏi ươn, khỏi thối. Theo lối giải thích của thánh sử Matthêu, các môn đệ phải là "muối cho đời" (Mt 5:13), nghĩa là phải gìn giữ và làm cho thế gian thêm mặn nồng trong giao ước với Thiên Chúa. Nếu không "nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi" (Lc 14:35).

Bản chất của muối là mặn. Bản chất của người môn đệ Chúa là được Chúa kêu gọi lên thánh, để "thánh hoá" bản thân, gia đình và xã hội. Trong Bí tích Thánh tẩy xưa kia, có nghi thức linh mục cho em bé hoặc người tân tòng nếm chút muối. Vì muối được ghi nhận trong Cựu Ước như "muối giao ước của Thiên Chúa" và Muối có công dụng thanh tẩy, cũng như ngôn sứ Êlisê đã dùng muối để tẩy rửa "nước độc" (2 V 2:19-22), vì thế, xát muối vào trẻ con (Ez 16:4), là dấu chỉ người Kitô hữu được kêu gọi nên thánh, để "thánh hóa" đời.

Trong Tân Ước, muối còn là hình ảnh của sự khôn ngoan và sự tinh ròng về luân lý. Đó là điều Đức Giêsu chờ đợi nơi người môn đệ (c.13). Nếu muốn "muối" đời khỏi ươn khỏi thối, người Kitô hữu phải nhất quyết từ bỏ "tội lỗi", cải chừa tính mê, để mặc lấy sự công chính, tức là mặc lấy chính Chúa Kitô, Đấng là "Đường, Sự Thật và Sự Sống". Làm sao có thể "ướp cho đời khỏi hư thối" khi chính mình không phải là "muối mặn". Cha mẹ làm sao dạy bảo được con cái
" Cá không ăn muối cá ươn,
Con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư
",
khi chính đời sống của cha của mẹ chẳng gương mẫu gì! Vợ chồng công giáo mà "chồng ăn chả, vợ ăn nem", tối ngày chỉ lo làm giầu, cãi vã nhau như cơm bữa, thì làm sao ướp cho tình yêu lứa đôi khỏi hư thối. Trong Tin mừng theo thánh sử Marcô (Mc 9:50), Đức Giêsu cũng dạy: "Muối là cái gì tốt. Nhưng muối mà hết mặn, thì anh em sẽ lấy gì ướp cho mặn lại? Anh em hãy giữ muối trong lòng anh em và sống hòa thuận với nhau." Ở đây muối chính là những giọt mồ hôi và lao công xây đắp cuộc sống, những hy sinh và từ bỏ mình để duy trì mối hòa thuận thương yêu (x Lc 14:34tt). Thánh Phaolô mời gọi các tín hữu "lời nói phải đi đôi với việc làm": "Chớ gì ngôn ngữ anh em luôn dịu dàng, ướp đầy muối mặn để biết trả lời hợp với mọi người".

Câu chuyện "Những Lọ Đựng Muối Tiêu" sau đây, trích từ "những câu chuyện tu đức hằng ngày" của chương trình phát thanh Việt ngữ đài Chân lý phải làm mỗi tín hữu Chúa Kitô phải bóp trán suy nghĩ:

Sưu tầm là một giải trí rất phổ thông hiện nay. Người ta sưu tầm tem, nhãn hiệu, lon bia, chai lọ, sách quý... và lâu lâu đem triển lãm.

Tại một nhà thờ nọ tại Chicago bên Hoa Kỳ, trong một cuộc triển lãm các vật sưu tầm, người ta thấy có cả một khu dùng để triển lãm các lọ đựng muối tiêu. Một ông khách nọ vừa bước vào, sau khi mua một cái bánh Hamburger ở của vào, đã vội vã đi một vòng quan sát. Khi tới khu triển lãm các lọ đựng muối tiêu, ông mới sực nhớ ra cái Hamburger của mình nhạt quá. Thế là ông đã cầm lấy một lọ muối và xốc nhiều lần. Nhưng xốc đến lọ thứ mười hai mà ông vẫn chưa thấy muối. Ông đành phải trở lại cửa xin người bán hàng cho ít muối và phàn nàn: "Gần hai trăm cái lọ muối thế kia mà không có lấy một hột muối".

Đó là hình ảnh của cuộc đời Kitô chúng ta. Mang lấy danh hiệu là muối đất, nhưng lắn lúc chúng ta chỉ là những lọ trống không. Muối dùng để ướp đồ ăn cho khỏi ươn thối. Muối dùng để sát trùng, chữa những vết thương. Muối dùng để nêm cho thức ăn được thêm đậm đà...

Trong một xã hội đang thối rữa vì những tệ đoan, người Kitô cần phải là muối để thanh tẩy và đem lại cho cuộc sống thêm đậm đà hương vị. Một lời nói, một hành động của chúng ta, nếu có chút muối của Đức Tin, Đức Ái sẽ mang lại cho những người xung quanh niềm vui và sức sống.

CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN
Mt 5,13 - 16
Lm Augustine S.J.

Phong trào chia sẻ đời sống Tin Mừng bắt đầu ảnh hưởng tới buôn làng. Sau hai tuần học về cầu nguyện và chia sẻ Tin Mừng, một em dân tộc Cờ Ho nhận ra ánh sáng, nên đã viết như sau cho người tới dạy lớp đó: "Anh chị em chúng con tuy có ánh sáng mà chúng con lại không nhận biết. Chúng con chỉ là người mù về Tin Mừng. Cuộc sống của chúng con chỉ là bóng tối. Chúa biết chúng con là kẻ có tội nên mới sai thày mang Tin Mừng đến cho chúng con."

Một cách bất ngờ, em dân tộc Cờ Ho này đã đụng tới đề tài lớn là "Ánh sáng và bóng tối." Chính Đức Giêsu tự xưng là ánh sáng thế gian (Ga 9,5). Ngài còn khẳng định rằng các moan đệ Ngài phải trở nên ánh sáng soi cho trần gian. Cần phải hiểu lời Chúa dạy thế nào cho chính xác? Nhất là hiểu để đưa ra thực thi.

Một thành xây trên Núi không tài nào che giấu được
Thiên Chúa sáng tạo ánh sáng: - Ánh sáng không phải tự nhiên mà có. Chính Thiên Chúa đã dựng nên ánh sáng và mọi sự khác. Sách Sáng Thế mô tả cho thấy khi đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng và bóng tối còn bao trùm vực thẳm, thì Thiên Chúa phán: phải có ánh sáng! Liền có ánh sáng. Bóng tối và ánh sáng kế tiếp nhau, cả hai đều trong một hoàn cảnh vì được tạo dựng do cùng một Đấng Thiên Chúa (Is 45,7; Am 4,13 LXX). Do đó thánh vịnh gia hô hào:

Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa,
không trung loan báo việc tay Người làm.
Ngày qua mách bảo cho ngày tới,
Đêm này kể lại với đêm kia (Tv 18A, 2-3).

Cho nên không có chỗ dành cho các thần mặt trời, mặt trăng và các vì sao, dầu người ta có thể nói đến ánh sáng và bóng tối như những biểu tượng.

Đức Kitô là ánh sáng soi cho trần gian: - Khi Đức Giêsu bắt đầu rao giảng tại Galilê, Tin Mừng Matthêu (4,16) cho biết lời sấm trong sách Isaia 9,1 đã được ứng nghiệm.

Chính ngang qua lời nói và việc làm, Đức Giêsu tự mạc khải là ánh sáng soi cho thế giới. Khi Người làm cho người mù được thấy như trong Tin Mừng Gioan, Người tuyên bố rất rõ về mình rằng: Bao lâu tôi còn ở trần gian, tôi là Ánh Sáng soi cho trần gian (9,5). Người còn nói: "Ai theo tôi sẽ không bước đi trong tăm tối nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống" (8,12). Điều quan trọng là đặt niềm tin vào Người "Tôi chính là Ánh Sáng đến trong trần gian để ai tin vào tôi không bước đi trong tăm tối." (12,46).

Khi Đức Kitô chiếu giãi ánh sáng để người ta thấy thì hành vi ấy phát xuất từ bản thân Người với tư cách là Lời của Thiên Chúa, là sự sống và ánh sáng soi cho loài người, là Ánh Sáng đích thực soi cho mọi người đến trong thế gian (1,4.9). Do đó xảy ra màn bi kịch là có cuộc đối đầu giữa ánh sáng và bóng tôi: Ánh sáng bừng lên giữa tăm tối (1,4), và xảy ra vụ thế giới xấu xa ra sức bóp nghẹt ánh sáng. Lý do vì có những con người ưa thích bóng tối hơn ánh sáng, nên họ đeo đuổi công việc xấu xa của họ (3,19). Tại bữa tiệc ly, khi Giuđa bỏ bàn ăn để đi lo chuyện nộp Thầy mình, tác giả Gioan ghi nhận "Khi ấy trời đã tối" (19,30). Rồi khi Đức Giêsu bị bắt, Người tuyên bố: "Đây là giờ của các ngươi và quyền lực tăm tối" (Lc 22,53).

Đức Kitô biến hình: - Suốt cuộc đời trần thế của Đức Giêsu, thiên tính như ẩn giấu nơi tình trạng yếu đuối và khiêm hạ của con người, nhưng có một trường hợp Ánh Sáng thần linh của Người tỏ lộ cách ngời sáng, đó là trường hợp Người biến hình với dung mạo rực rỡ, với bộ đồ chói lọi như ánh sáng (Mt 17,2). Tình trạng biến hình như vậy không còn thuộc về đieu kiện tự nhiên của loài người. Tình trạng ấy báo trước tình trạng của Đức Kitô phục sinh như trong cuộc hiện ra với tông đồ Phaolô khi ấy còn là Saulê (Cv 9,3; 22,6; 26,13). Chính với tư cách là Con Thiên Chúa mà Đức Giêsu "rực rỡ trong vinh quang Thiên Chúa" (Dt 1,3). "Chính Đức Kitô là ánh sáng, nơi Người chẳng có tăm tối" (1Ga 1,5). Tất cả những gì là ánh sáng đều phát xuất do Đức Kitô, kể từ khi ánh sáng thể lý được tạo dựng (x.Ga 1,4) cho tới khi tâm hồn ta được chiếu sáng do ánh sáng Đức Kitô (2Co 4,6). Ngược lại, tất cả những gì xa lạ với ánh sáng Đức Kitô đều thuộc về tăm tối của đêm đen, tăm tối của âm phủ, tăm tối của nỗi chết, và tăm tối của Satan quỉ thần.

Con Cái của Ánh sáng: - Đức Kitô là Con Thiên Chúa làm người, biểu lộ ánh sáng thần linh, nhằm đối tượng là chính chúng ta, những kẻ tin vào Người. Do đó, Người nói với chúng ta trong Tin Mừng hôm nay là: Chính anh em là ánh sáng cho trần gian (c.14).

Nét đối chiếu giữa ánh sáng và bóng tôi diễn ra không phải chỉ ở bình diện suy tư siêu hình nhưng ở bình diện luân lý. Ánh sáng mang lại phẩm chất thuộc về điều thiện hảo và đức công bằng, đó là lãnh vực của Thiên Chúa và của Đức Kitô. Ngược lại, bóng tối thuộc về sự ác và sự nghịch đạo, mặc dầu trong ý đồ lừa đảo Satan có thể đội lốt thiên thần ánh sáng. Một đàng sự công chính không thể liên kết với sự bất chính và ánh sáng không thể dung hoà với bóng tối (x.2Co 6,14) nhưng Satan vẫn có thể nép dưới bóng thiên thần ánh sáng (x.2Co 11,14), để hành động.

Loài người chúng ta được đặt giữa chọn lựa sự thiện và sự ác. Chọn sự ác ta trở nên con cái của tăm tối. Ngược lại, chọn sự thiện, ta trở nên con cái của Thiên Chúa, Đấng là hiện thân của Ánh sáng. Dưới cái nhìn của Đức Giêsu, loài người chia ra một bên là "con cái của thế gian này" bên kia là "con cái của ánh sáng" (Lc 16,8). Bản án cuối cùng sẽ dựa vào việc người ta có chọn lựa Đức Kitô là Ánh sáng chăng: "Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa" (Ga 3,19-21).

Bước ra khỏi vùng u tối
Vượt khỏi tăm tối, bước vào ánh sáng: - Mọi người khóc chào đời giữa tăm tối. Nhưng Thiên Chúa đã gọi các tín hữu ra khỏi miền u tối mà bước vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền (1P 2,9). Ngài kéo ta ra khỏi quyền lực tăm tối, cho ta hưởng phần gia nghiệp cùng chư thánh trong vương quốc của Con Ngài, tràn ngập ánh sáng (x.Col 1,12).

"Xưa kia anh em là bóng tối, nhưng bây giờ trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng, mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật." (Ep 5,8-10).

Quả thật, lời Đức Giêsu dạy ta trong Tin Mừng hôm nay hết sức cụ thể. Trước hết, Thiên Chúa đòi một sự hoán cải nơi hữu thể ta: Chính anh em là ánh sáng cho trần gian (c.14). Sự hoán cải ấy, những người ở xung quanh ta phải thấy được: Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được (c.14). Chúa không cho phép ta lấy lý do khiêm nhường để che giấu ánh sáng ta nhận được từ Đức Kitô, Đấng đến để soi sáng mọi người trần thế: Chẳng ai thắp đèn rồi để bên dưới cái thùng (c.15). Hãy nhằm mục đích tối hậu của đời ta cũng là mục đích của mọi người và mọi việc được thực hiện: Đó là để tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời (c.16). Hễ ai nhằm mục đích đó và sống trung thực với mục đích đó, ta được giải thoát khỏi tăm tối và trở nên ánh sáng soi cho thế gian này.

Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu còn dạy các moan đệ: Chính anh em là muối cho đời. (c.13).

Muối là đồ gia vị và cũng là phương tiện để duy trì của ăn khỏi hư thối (Ga 6,6). Ở phía tây bờ hồ Galilê người ta chuyên sử dụng muối để ướp cá. Tại khuôn viên đền thờ Giêrusalem có cả một kho dự trữ muối để đáp ứng nhu cầu rắc muối trên các vật hiến tế (Lv 2,13; Ed 43,24).

Trong Tân Ước, muối là hình ảnh của sự khôn ngoan và sự tinh ròng về luân lý. Đó là điều Đức Giêsu chờ đợi nơi người môn đệ (c.13).

Trong Mc 9,50 Đức Giêsu cũng dạy các môn đệ khi nói: "Muối là cái gì tốt. Nhưng muối mà hết mặn, thì anh em sẽ lấy gì ướp cho mặn lại? Anh em hãy giữ muối trong lòng anh em và sống hoà thuận với nhau." Ở đây muối có thể được kể như sự hy sinh và từ bỏ mình để duy trì đời sống hoà thuận thương yêu nhau (x.Lc 14,34tt).

 CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN
Mt 5,13 - 16
Lm Phạm Quốc Hưng, CSsR

"Các ngươi là muối cho đời... là ánh sáng cho thế gian".
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng ba hình ảnh rất gần gũi để gọi các môn đệ của Người: muối cho đời, ánh sáng cho thế gian, và cái thành tọa lạc đầu non.

Muối được dùng để khử trùng, để gìn giữ thức ăn cho khỏi hư thối, và để nêm vào các món ăn cho thêm hương vị đậm đà.

Ánh sáng giúp người ta nhận biết, phân biệt và chiêm ngắm sự vật.
Thành phố trên núi thường được dùng làm điểm qui chiếu để người ta định hướng.
Theo đó, cả ba hình ảnh này đều giống nhau ở điểm là chúng không hiện hữu cho riêng mình, nhưng hiện hữu để góp phần gìn giữ, tô bồi hay xây dựng cho một đối tượng khác.

Đó chính là bản chất cuộc sống của Chúa Kitô như chính Người đã tự xưng: "Sự sáng thế gian chính là Ta" (Jn 8:12).

Thực vậy, Chúa Giêsu đã đến trong thế gian để cứu chuộc nhân loại, để làm cho cuộc sống con người thêm sung mãn tràn đầy, để dẫn con người hướng về Thiên Chúa là Nguồn Chân-Thiện-Mỹ và đạt được hạnh phúc đời đời.

Khi gọi các môn đệ là "muối cho đời", là "ánh sáng cho thế gian", là "cái thành tọa lạc đầu non", Chúa Giêsu muốn nói họ phải trở nên giống Người, nên những "Chúa Kitô khác", những con người biết hy sinh quên mình để sống cho người khác và góp phần làm đẹp cuộc sống cho người và cho đời.

Như Chúa Giêsu đã cứu chuộc nhân loại bằng việc sống trung thực với địa vị của Người là Con Thiên Chúa, người môn đệ của Chúa cũng chỉ có thể trở thành men nồng, muối mặn, và ánh sáng của trần gian để góp phần làm đẹp cuộc sống của tha nhân khi họ trung thành sống đúng bản chất và ơn gọi Kitô hữu của mình.

Một khi đánh mất "tính chất Kitô" của mình, nghĩa là không sống xả kỷ vị tha như Chúa Giêsu đã sống, nguời tín hữu sẽ giống như muốn đã đánh mất vị mặn và trở nên vô dụng chỉ đáng vất bỏ. Chúa Giêsu đã cảnh cáo các môn đệ về điều này như sau: "Nếu muối ra dại, thì lấy gì muối nó lại? Không còn ích gì, chỉ có việc đổ ra ngoài cho người ta dẫm đạp đi thôi" (Mt 5:13)

Sự sa đọa đồi bại về luân lý của xã hội Âu Mỹ ngày nay phải chăng là hậu quả tất yếu của việc rất nhiều người mang danh là tín hữu Chúa Kitô nhưng lại sống phản nghịch với các đòi hỏi của Phúc âm và giáo huấn chân thực của Hội thánh?

Chúng ta phải sống thế nào để nên "muối cho đời" và "ánh sáng cho thế gian" như lời Chúa truyền dạy?

Những lời trích sách tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất của Phụng vụ hôm nay đã vạch ra một cách cụ thể lối sống của những người thực sự đặt niềm tin vào Chúa và phần phước của họ như sau:

" Há lại không phải là bẻ bánh với người đói, dẫn trọ nhà kẻ vô gia cư?
Thấy ai mình trần, ngươi cho áo che thân,
ngươi sẽ không tránh né một người cũng là cốt nhục của ngươi.
Bấy giờ ánh sáng của ngươi tung tóe như rạng đông,
da non thương tích ngươi sẽ mau líp lại,
phúc đức của ngươi sẽ cầm đầu đi trước,
và binh bọc hậu là vinh quang của Đức Yavê.
Bấy giờ ngươi khẩn cầu và Yavê sẽ đáp lại,
ngươi kêu cứu và Người sẽ phán: Này Ta đây!
Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi cùm ách, việc trỏ tay và lời rủa độc,
và điều ngươi sở nguyện, ngươi cấp cho kẻ đói,
và cho người đói khó no lòng ấm cật,
ánh sáng của ngươi sẽ rạng giữa tối tăm,
và mù tối của ngươi cũng như chính ngọ"
(Is 58:7-10)

Đó chính là lối sống yêu thương, tha thứ, chia sẻ và phục vụ như đã được gặp thấy nơi cuộc sống của chính Chúa Giêsu.

Và đó là cũng là lối sống mà các thánh - những người môn đệ thập toàn của Chúa Giêsu - đã, đang và sẽ thực hiện trong lịch sử Giáo hội qua mọi thời đại. Thực vậy, người ta đã thấy một Gioan Bosco tận tâm chăm sóc giáo dục giới trẻ bị bỏ rơi; một Damien dấn thân phục vụ những người bị phong hủi tại đảo Molokai; một Maximilian Kolbe thí mạng cho người bạn tù được sống; một Têrêsa Calcutta tìm đến với những người cùng khổ để phục vụ họ, để chia sẻ chính sự cùng khổ của họ. Các ngài là những người đã nỗ lực sống như những hạt muối mặn ướp đời, những luồng ánh sáng soi tỏ và sưởi ấm thế gian theo gương Chúa Giêsu.

Với bản tính tự nhiên vốn ích kỷ hẹp hòi, sợ khổ sợ khó, cũng như với những cảm nghĩ và tính toán theo sự khôn ngoan thế gian, chúng ta thường cảm thấy khó khăn e ngại khi phải sống theo các đòi hỏi của Tin mừng Chúa Kitô.

Vì thế, như lời thánh Phaolô trong bài đọc 2 của Phụng vụ hôm nay, chúng ta cần được củng cố bằng sức mạnh của "Thần khí và quyền phép của Thiên Chúa" và phải quyết định "không muốn biết gì ngoài Đức Kitô Giêsu, và là (Đức Kitô Giêsu) bị đóng đinh Thập giá" ( 1 Cor 2:5).

Nhờ năng cầu nguyện, gắng hy sinh, chuyên cần suy gẫm Lời Chúa và cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, nhất là biết luôn kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu Thánh Thể là Nguồn Ánh Sáng và Năng Lực của người Kitô hữu, noi gương xả kỷ vị tha của Mẹ Maria và các thánh cũng như trông cậy ở lời chuyển cầu của các ngài, chắc chắn chúng ta sẽ được ướp bằng vị mặn của Chúa Kitô và được sưởi ấm và soi sáng bằng ánh sáng của chính Người. Và nhờ vậy, chính chúng ta sẽ được Chúa Kitô biến đổi để được trở thành "muối cho đời" và "ánh sáng cho thế gian" đúng như ơn gọi Kitô hữu của mình, ơn gọi sống cho người và cho đời như Chúa Kitô đã sống.

 CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN
Mt 5,13 - 16
Sr Rosaline Liễu, LHC

Muối và ánh sáng là hai điều quen thuộc và gần gũi trong cuộc sống con người. Muối để ướp mặn, để giữ thứa ăn khỏi hư thối. Ánh sáng để soi dẫn; để chiếu sáng. Thiếu muối, không thể giữ được sự tươi tắn; thiếu ánh sáng, chẳng thể làm được việc gì. Trong bài Tin Mừng của thánh Matthêu hôm nay, Chúa Giêsu đã gọi những môn đệ theo Ngài là muối và ánh sáng. Thiên Chúa đã đưa Chúa Giêsu như ngọn đèn vào trần gian. Các môn đệ có bổn phận vừa đem ánh sáng đó đi, vừa có nhiệm vụ phản chiếu ánh sáng Chúa bằng hành động và lối sống của mình. Ngài muốn họ trở thành chất xúc tác để ướp mặn và chiếu sáng trần gian. Hiện diện giữa trần gian, họ có nhiệm vụ giữ trần gian khỏi bị hư thối vì tội lỗi.

Lời Chúa dạy các môn đệ hôm nay cũng là lời nhắc nhở chúng ta, những người Kitô hữu phải ý thức chu toàn bổn phận của mình. Cuộc sống người Kitô hữu phải là đèn soi để nhờ đó mà phục thiện những người xung quanh. Chúa Giêsu đã không gọi kẻ theo Ngài là muối và ánh sáng Giáo hội, nhưng là muốn và ánh sáng thế gian. Ngọn đèn giữa ban trưa nắng, vẫn là ánh sáng, nhưng ánh sáng này không mang lại lợi ích gì. Đời sống đạo của chúng ta cũng thế, nếu chúng ta chỉ biết có mình, có nhà thờ, có những buổi cầu nguyện mà không đem ra sống với xã hội thì chưa phải là ánh sáng trần gian mà Thiên Chúa muốn: "Người ta không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá hầu soi sáng cho mọi người". Là muối, chúng ta phải sống đạo, phải hiện diện gần gũi với kẻ khác, không phân biệt họ là ai. Mỗi người chúng ta phải nêu gương sáng cho kẻ khác, phải đượm tình bác ái, ánh lên nét vui tươi, hy vọng, để khi nhìn vào, người khác nhận biết chúng ta là môn đệ của Chúa. Chúng ta cần phải xét lại cuộc sống của ta, phải làm gì để thông nguồn ánh sáng cho những người chung quanh. Một người Ấn giáo đã nói với một tín đồ Kitô giáo rằng: "Nếu người Kitô hữu các anh sống đúng như lời Kinh thánh dạy thì chỉ trong vòng năm năm, các anh sẽ chinh phục cả Ấn Độ". Và nhờ việc thực thi Lời Chúa, chúng ta nên như muối ướp những con người đang bị mê hoặc vì tính hư tật xấu, chúng ta nên như ánh sáng soi dẫn tha nhân còn tăm tối tìm về hạnh phúc đích thực là Thiên Chúa.

Lạy Chúa, bổn phận người Kitô hữu là phải giới thiệu Chúa cho người xung quanh. Xin cho mỗi người chúng con luôn là muối và ánh sáng để sự hiện diện của chúng con làm tăng thêm ý nghĩa và giá trị cuộc đời. Xin cho mỗi người chúng con được biết lấy chính cuộc sống mình làm lời rao giảng, hầu chúng con có thế chiếu tỏa phần nào sự tốt lành của Chúa. Xin cho chúng con biết trộn Lời Chúa vào cuộc đời mình, soi Lời Chúa vào cách sống của mình để xứng đáng là môn đệ Chúa.

 CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN
Mt 5,13 - 16
Lm Gioan M. Cao Vũ Nghi, CMC

Toyohiko Kagawa từ tuổi ấu thơ đã mồ côi cha mẹ. Gia đình một người họ hàng đã nhận bé về nuôi, nhưng đã bị họ đối xử cách tàn tệ. Dầu vậy, Kagawa vẫn nhẫn nhục chịu đựng và đã trở nên một người thành công trong xã hội. Nhưng rồi đau thương một lần nữa lại đến viếng thăm: Ông Kagawa đã mắc phải bệnh phổi, và chỉ còn chờ chết. Một hôm, ông thấy một luồng sáng bao bọc ông và ông cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa. Liền sau đó, ông đã được chữa lành, không những về phần xác, mà tâm hồn ông cũng được biến đổi. Từ ngày đó, ông đã hiến thân phục vụ những người bần cùng nghèo khó nhất trong xã hội. Ông đã hoàn toàn quên mình phục vụ những con người xấu số này: an ủi, thông cảm, lắng nghe họ; cung cấp đồ ăn áo mặc cho họ. Một thời gian sau, ông bị nhiễm trùng mắt, và vì đó đã bị mù một mắt, nhưng ông vẫn tiếp tục phục vụ cho tới ngày ông từ biệt cõi đời.

Toyohiko Kagawa đã được lãnh nhận ơn Chúa, và ông đã cảm thấy bị thúc bách phải đáp trả bằng cách phục vụ anh chị em đồng loại của mình. Qua tấm gương phục vụ của ông, nhiều người đã tìm được ánh sáng cứu độ và nhận ra tình thương của Thiên Chúa. Toyohiko Kagawa đã là một ngọn đèn sáng Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay.

Hai ngàn năm trước đây, Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể làm người, và Ngài là đã là ngọn đèn chiếu giải ánh sáng cứu độ cho những người sống trong tội lỗi, ánh sáng bình an hy vọng cho những người bệnh tật và những người bị xã hội ruồng bỏ, và ánh sáng đức tin cho những người chưa nhận biết Thiên Chúa chân thật. Để ánh sáng cứu độ, bình an và hy vọng của Chúa được tiếp tục chiếu sáng và lan rộng mãi trong trần gian, Chúa đã mời gọi những người đã được ơn Chúa thánh hóa tiếp tay với Chúa. Với các môn đệ, Chúa đã sai họ đi rao giảng tin mừng, chữa lành những người bệnh tật, và giải thoát những người bị quỉ ám (xem Matthêu 10:8); với người Chúa mới chữa khỏi quỉ ám, Chúa dạy"Con hãy về nhà với thân quyến, và loan truyền cho họ biết những gì Thiên Chúa đã làm cho con và đã thương con" (Marcô 5:19); hay ít nữa là như người đàn bà ngoại tình, Chúa đã khuyên bà: "Hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa" (Gioan 8:11). Nhưng cả khi Chúa chưa mời gọi, cũng có người khi được chữa lành, đã cảm thấy bị thúc bách để cao rao danh Chúa, như người được chữa khỏi bệnh cùi (xem Lk 17:15)

Ngày nay, tùy hoàn cảnh và tùy bậc sống của mỗi người, Chúa còn tiếp tục kêu mời mọi Kitô hữu, những người đã được cứu độ nhờ nước Rửa tội, được nuôi dưỡng bằng Mình và Máu Thánh Chúa, và được chữa lành nhờ phép Giải Tội và Xức Dầu, hãy là ánh sáng cho trần gian. Có thể chúng ta được Chúa mời gọi theo gương các vị tử đạo để làm chứng cho Đức Tin trong những nơi Kitô giáo còn đang bị bắt bớ, có thể chúng ta được kêu gọi để như ông Kagawa làm rạng sáng đức Bác Ái Kitô giáo cho thế giới, hay có thể được kêu gọi để đem ánh sáng bình an hy vọng cho những tâm hồn cô đơn trong những viện dưỡng lão, hay những tâm hồn sầu khổ và bệnh tật trong các bệnh viện, và cũng có thể chúng ta được mời gọi để nói về tình thương của Chúa cho những người đang bị đè nặng bởi những khổ đau trong cuộc đời. Lẽ dĩ nhiên, để đáp lại lời mời gọi của Chúa, đòi chúng ta phải có sự cố gắng và phải chấp nhận những khó khăn. Chúng ta có thể như ngọn đèn ẩn náu dưới đáy thùng, sống an phận cho xong kiếp làm người, nhưng vì là những người đã được lãnh nhận, chúng ta có bổn phận để chia sẻ hồng ân Chúa cho anh chị em của chúng ta.

Ước chi mỗi người chúng ta hãy quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa, để cùng nhau chúng ta hãy là ngọn đèn dập tắt bóng tối của hận thù, ghen ghét, và bất công trong thế giới, và thay vào đó là ánh sáng bình an và hy vọng của Chúa Kitô.

 CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN A
Mt 5,13 - 16
Lm Giuse Vũ Thái Hòa

Tất cả chúng ta đều đã có lần nếm một món ăn nhạt nhẽo. Nhưng chỉ cần thêm vài hạt muối, món ăn trở nên đậm đà và dễ ăn. Người Việt chúng ta thường dùng nước mắm để nêm các món ăn. Tuy thế vẫn phải thêm muối, món ăn mới thêm hương vị và mặn mà! Vào thời Chúa Giêsu, muối tượng trưng cho tính hiếu khách. Khách đến nhà thường được tặng bánh mì và muối, biểu hiệu sự tiếp đón nồng hậu.

"Muối đất": ngày xưa, khi khám phá ra phân bón, người ta dùng muối để làm đất trồng thêm phì phiêu. Khi chưa có tủ lạnh, muối còn được dùng để ướp cá, thịt và đồ ăn để giữ được lâu.

Một hình ảnh rất quen thuộc với người Việt Nam chúng ta, đó là đèn dầu. Một căn nhà có đèn sáng báo rằng nhà có người ở, có sự sống. Một người đi lạc trong đêm tối hẳn sẽ rất sung sướng khi thấy có ánh đèn. Ánh đèn này đem lại niềm vui và thu hút mọi người.

Chúa Giêsu sai các môn đệ đến trong thế gian như người ta nêm muối vào thức ăn để thêm hương vị và giữ được lâu. "Các con là sự sáng thế gian". Đây không phải là lời xác nhận sự ưu thế của các môn đệ, nhưng là một công tác truyền giáo: qua đời sống của mình, qua lời nói và hành động, người Kitô hữu được mời gọi làm ánh sáng hy vọng cho những ai đang lần mò trong bóng tối tuyệt vọng, dẫn dắt họ đến với Chúa là Cha của họ và là Cha chung của mọi người. Trong bóng đêm mịt mùng, một ánh lửa nhỏ cũng có thể được nhìn thấy từ xa.

Chúng ta nhận xét thấy Chúa Giêsu không nói: các con hãy cố gắng làm muối đất và trở nên ánh sáng cho thế gian. Nhưng Ngài nói: các con là muối và là ánh sáng bởi vì các con là môn để của ta, vì các con đã lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy.

"Các con là sự sáng thế gian". Sự sáng này không phải do chúng ta tạo nên, nhưng phát xuất từ Chúa Kitô: "Ta là sự sáng thế gian" (Ga 8:12). Ngài muốn chúng ta như tấm gương phản chiếu ánh sáng của Ngài cho mọi người và cho mọi nơi. Do đó ánh sáng được chiếu tỏa không phải cho chúng ta được vinh danh, nhưng cho vinh quang của Chúa: "Sự sáng của các con phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời".

Muối đất, sự sáng thế gian: hai hình ảnh nhưng cùng diễn tả một lời mời gọi. Tiên tri Isaia, trong bài đọc 1, đưa ra những phương cách để giữ muối khỏi "lạt" và ngọn đèn luôn chiếu sáng: đó là sống bác ái: chia cơm sẻ bánh cho người nghèo đói, tiếp đón những kẻ bất hạnh vô gia cư, cho quần áo những người không đủ mặc... Khi ấy, "ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong bóng tối và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày".

Có lẽ nhiều người sẽ tự nhủ: làm sao mình có khả năng và xứng đáng làm muối đất và sự sáng cho mọi người? Nắm muối gồm những hạt muối nhỏ dồn lại: đèn sáng được nhờ những giọt dầu góp lại. Những hạt muối nhỏ đó, những giọt dầu đó là những việc nho nhỏ mà chúng ta thực hiện trong đời sống hằng ngày: những nụ cười, lời nói nhã nhặn, lịch thiệp, những cử chỉ bác ái, khiêm nhường, kiên nhẫn, biết lắng nghe, tha thứ, biết nghĩ đến người khác v...v...

Bài Phúc âm hôm nay nhấn mạnh đến chứng từ của tất cả chúng ta. Nếu chúng ta thương yêu nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta, có lẽ chúng ta không cần giảng đạo nhiều, vì chính đời sống, việc làm, việc bác ái của chúng ta sẽ mang lại hương vị cuộc đời cho mọi người và chiếu tỏa trong bóng đêm như ánh sáng ban ngày, giúp đỡ họ, đồng hành với hot đến với Chúa là "nguồn ánh sáng và ơn cứu độ " (Tv 26:1)

 CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN A
Mt 5,13 - 16
JNK

1. Công dụng của muối và nhiệm vụ của người Ki-tô hữu
Muối dùng để ướp thức ăn, giữ thức ăn khỏi hư thối, đồng thời thêm vị ngon cho nó. Đức Giê-su đã dùng hình ảnh này để nói lên sứ mạng của người Ki-tô hữu đối với môi trường mình đang sống. Thật vậy, Đức Giê-su đã lập Giáo Hội - gồm những người Ki-tô hữu - như một dấu chỉ của Nước Trời, như một cầu nối giữa nhân loại với Thiên Chúa, như một lời chứng cho Ngài trước mọi người. Giáo Hội - hay người Ki-tô hữu - có vai trò như muối đối với thế giới. Nếu muối dùng để ướp thức ăn, giữ thức ăn khỏi hư và thêm vị ngon cho nó, thì Thiên Chúa muốn dùng người Ki-tô hữu để giữ cho thế giới, xã hội không bị hư hỏng, mà trở nên tốt đẹp hạnh phúc hơn trước mặt Thiên Chúa.

Thức ăn bị nhiều yếu tố bên trong lẫn bên ngoài làm cho hư thối. Xã hội con người cũng bị những yếu tố nội tại lẫn ngoại tại làm cho hư hỏng, tồi tệ, và trở nên đau khổ. Vì thế, khi Đức Giê-su nói: "Chính anh em là muối cho đời", thì một cách nào đó, Ngài muốn giao cho chúng ta, là người Ki-tô hữu hay môn đệ Ngài, một nhiệm vụ rất quan trọng đối với xã môi trường mình đang sống. Đó là: phải làm sao giữ cho môi trường ấy không bị hư hỏng và đau khổ bởi gương xấu, bất công, hận thù, bạo lực, mà trở nên tốt đẹp hạnh phúc hơn nhờ gương sáng, sự thực thi công lý, tình thương của chính chúng ta... Người Ki-tô hữu cần ý thức nhiệm vụ ấy.

2. Trở nên "muối cho đời" bằng cách nào?

Nhưng chúng ta phải thực hiện nhiệm vụ ấy như thế nào? Làm sao chúng ta có thể giữ cho thế giới đừng hư hỏng mà trở nên tốt đẹp hơn? Đức Giê-su đề nghị với chúng ta một phương cách cũng lại bằng một ẩn dụ: "Chính anh em là ánh sáng cho trần gian".

Mọi người ai cũng cần ánh sáng để nhìn thấy, để biết lối đi hầu khỏi té ngã, để biết đường mà làm công nọ việc kia. Về mặt tâm linh, người ta cũng cần có những gương sáng để họ theo đó mà hành xử cho đúng, cho khôn ngoan, cho tốt đẹp trong mọi trường hợp. Nhưng gương sáng đó họ tìm nơi đâu? Khi nói: "Chính anh em là ánh sáng cho trần gian", Đức Giê-su đã giao phó cho chúng ta nhiệm vụ làm gương sáng cho mọi người chung quanh, trong môi trường mình sống. Và khi làm gương sáng như thế, chúng ta đã trở nên "muối cho đời".

3. Bạn có làm gương sáng trong môi trường mình sống không?
Tình hình xã hội hiện nay có nhiều điều đáng bi quan: bất công, bạo lực và nhiều thứ tệ nạn xã hội đang lan tràn, mạng sống con người bị coi thường (nhất là của thai nhi), tình dục bị lạm dụng, bảng giá trị Ki-tô giáo bị đảo lộn (nhiều người, kể cả Ki-tô hữu, coi trọng tiền bạc, địa vị hơn tình nghĩa...), v.v... Nói chung, thế giới đang bị hư hỏng, trở nên tội lỗi, từ trong gia đình ra đến ngoài xã hội. Vì thế, bất kỳ người Ki-tô hữu nào cũng cần ý thức lại nhiệm vụ làm "muối cho đời", làm "ánh sáng cho trần gian" mà Đức Giê-su đã giao cho chúng ta. Nhưng thử hỏi, người Ki-tô hữu - cụ thể là chính bạn, chính tôi - đã ý thức và cố gắng thực hiện nhiệm vụ ấy trong cuộc đời mình chưa?

Thực tế đang trả lời cho chúng ta. Giáo Hội lúc nào cũng nỗ lực truyền giáo, bỏ ra biết bao nhiêu nhân lực và tài lực vào công việc này. Nhưng... hiện nay, dân số Ki-tô giáo trên thế giới tuy có tăng theo đà tăng của dân số thế giới, nhưng tỷ lệ người Ki-tô hữu đang càng ngày càng giảm khoảng từ 50 năm nay, nhất là tại Âu châu. Tại châu Âu, nơi trước đây số Ki-tô hữu đã lên tới 70%, thì nay tỷ lệ người Ki-tô hữu thực hành đạo thật sự (pratiquants, church-goers) chỉ còn chưa tới 5% (tôi đã gặp nhiều người Âu châu cho biết là chỉ được từ 2 đến 3%). Tại châu Á, tỷ lệ người Ki-tô hữu hiện nay - theo thống kê của Tòa Thánh tính đến cuối năm 1998 - chỉ được 2,7%. Số Ki-tô hữu gia tăng chủ yếu là do trẻ con vừa lọt lòng mẹ thì đã thành Ki-tô hữu do được rửa tội sớm, và số người lớn trở lại Ki-tô giáo chủ yếu là do việc kết hôn với người Ki-tô hữu đòi buộc. Số người giác ngộ Ki-tô giáo để tự nguyện theo thì rất ít. Thực trạng đó quả không đáng tự hào chút nào!

Điều ấy đòi hỏi chúng ta phải suy nghĩ để tìm ra nguyên nhân: chúng ta đã sống đạo thế nào? Tôi nghĩ: mọi nỗ lực truyền giáo đều là vô ích, nếu chính người Ki-tô hữu chỉ giữ đạo một cách hình thức, không sống đạo thật sự, nghĩa là chỉ biết đến nhà thờ dự lễ, năng lãnh nhận các bí tích, chứ thật sự không áp dụng tinh thần Đức Ki-tô vào trong đời sống của mình.

4. Phải chăng cách sống của ta là một phản chứng?
Ta hãy nghe Mahatma Gandhi - được dân Ấn Độ xem là một vị thánh - nói về cách sống đạo của những Ki-tô hữu trong xã hội của ông. Ông đã lên tiếng, có vẻ như thách thức người Kitô hữu, cụ thể là những người Anh đô hộ họ: Nếu những người Kitô hữu ở Ấn độ thật sự sống đúng tinh thần của Đức Kitô, thì họ chẳng cần phải mất công rao giảng, toàn Ấn độ sẽ trở thành Kitô hữu hết. Trước mắt ông, người Kitô hữu - cụ thể là người Anh lúc ấy đang đô hộ dân tộc ông - cũng tham lam, bất công và tàn bạo không kém gì những kẻ xâm lăng khác. Ông rất say mê Đức Kitô, nhưng ông không thể trở nên Kitô hữu, vì những người đem Kitô giáo đến với dân tộc ông - người Anh - lại chính là những người đang nô lệ hóa dân tộc ông, đàn áp dân tộc ông một cách dã man. Ông không thể tin rằng dân Ấn Độ hiền lành của ông cứ phải gia nhập cái đạo của những người đang quàng ách nô lệ lên dân tộc ông thì mới được cứu rỗi. Nếu những kẻ nô lệ hóa dân tộc ông một cách bỉ ổi mà được Thượng Đế thưởng công chỉ vì họ là người Kitô hữu, đang khi dân tộc hiền hòa của ông lại bị phạt chỉ vì không phải là Kitô hữu, thì một vị Thượng Đế như thế không thể chấp nhận được!

Cũng vậy, biết bao người như Gandhi rất mộ mến Đức Giê-su, nhưng cứ nhìn thấy cách sống của những người Ki-tô hữu chung quanh họ, là họ cảm thấy chẳng cần phải vào Ki-tô giáo làm gì. Vì người Ki-tô hữu nói chung cũng chẳng hơn gì họ: cũng ích kỷ, cũng ăn gian nói dối, cũng gây bất công, cũng lặng im trước bất công, cũng sống chẳng có tình nghĩa bao nhiêu... Làm sao họ có thể tin được những người chẳng tốt hơn họ, đôi khi kém họ lại được Thiên Chúa ân thưởng chỉ vì là Ki-tô hữu, còn họ cũng sống như vậy thậm chí tốt hơn thì lại bị phạt. Chẳng lẽ chúng ta lại giới thiệu với họ một Thiên Chúa bất công và vô lý như vậy qua cách sống của chúng ta?

5. Truyền giáo bằng chính đời sống phù hợp với Tin Mừng
Nếu đời sống của ta ngược lại với Tin Mừng, làm sao ta có thể làm "muối cho đời" để đời khỏi hư hỏng được? làm sao ta có thể làm cho đời tốt đẹp lên được? Muối như thế là muối đã lạt. Muối có giá trị hay không là ở vị mặn của nó. Nếu muối lạt thì còn giá trị gì, còn làm được việc gì? "Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi"!

Người ta - nhất là Đức Giê-su - có thể kết luận gì về chất "muối" tâm linh của ta? Hãy tự xét mình xem chất "muối" của ta có còn vị "mặn" không? có còn tác dụng "ướp" nữa không? Xét một cách cụ thể hơn: sự hiện diện của tôi trong gia đình, trong tổ dân phố, trong xứ đạo, trong xã hội, trong nơi ta làm việc... có làm "ánh sáng" dẫn đường cho môi trường ấy tốt hơn không? Những vùng đông người Ki-tô hữu có trật tự xã hội và mức phát triển về mọi mặt - nhất là mặt đạo đức - cao hơn những vùng khác không? Sự hiện diện của một ngôi giáo đường có đích thực là một sự chúc lành cho vùng chung quanh không? nghĩa là có làm cho dân chúng vùng chung quanh trở nên tốt hơn, trật tự hơn, hạnh phúc hơn không?

Theo quan niệm của Gandhi, để toàn dân Ấn Độ trở thành Ki-tô hữu, không cần phải đổ công đổ của ra mà truyền giáo cho bằng chỉ cần người Ki-tô hữu sống đích thực tinh thần của Đức Giê-su là đủ. Sống như thế chính là trở nên "ánh sáng cho trần gian". Thật mỉa mai khi muối đã lạt lại còn muốn ướp cái này cái nọ, ích lợi gì? Và mỉa mai hơn nếu đạo mình mình không thèm sống lại còn muốn đem đạo ấy truyền cho người khác, để làm gì?! Vừa truyền giáo, vừa sống phản lại Tin Mừng thì chẳng khác gì "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược". Thật mỉa mai khi chính mình tối om lại muốn làm ánh sáng dẫn đường cho người khác! Thật ngược đời khi chính mình đói meo lại đi lo chuyện làm no ấm thiên hạ!

CẦU NGUYỆN
Tôi nghe tiếng Chúa nói với tôi: "Qua Đức Giê-su, Cha đã mời gọi con và trao cho con nhiệm vụ: hãy trở nên "muối cho đời" và "ánh sáng cho trần gian". Để làm được chuyện ấy, con phải là muối thật mặn, phải là đèn thật sáng. Muốn thế, con phải quyết tâm trở nên như thế. Điều quan trọng là chính con phải quyết tâm trước, rồi Cha sẽ ban ơn trợ giúp sau. Con không quyết tâm thì Cha có đổ tràn thần lực xuống cho con cũng vô ích. Cha đành phải bó tay nếu chính con từ chối lời mời gọi của Cha hay chính con không quyết tâm thực hiện. Vì Cha luôn luôn tôn trọng tự do của con. Một lần nữa, Cha mời gọi con hãy trở nên "muối cho đời" và "ánh sáng cho trần gian". Cha rất mong con đáp trả bằng một quyết tâm thật sự".

Nguồn vietcatholic.org

7195    06-02-2014 19:28:42