- Lúa Chín Đầy Đồng Mà Thiếu Thợ Gặt
- 72 Môn Đệ Được Sai Đi
- Chúa Nhật 14 TN C
- Bình An Đích Thực
- Chúa Nhật XIV Thường Niên
- Thi Hành Sứ Mạng Của Đức Kitô
- Sứ Giả Hoà Bình
- Sai Đi Loan Báo Tin Mừng
- Sai Đi
- Chúa Nhật 14 Thường Niên
- Sứ Mệnh Các Môn Đồ
- Chúa Nhật 14 Thường Niên
- Bình An
- Khí Cụ Bình An
- Chúa Nhật XIV Thường Niên
- Chứng Nhân Nước Trời
- Lúa Chín Đầy Đồng
- Này Thấy Sai Anh Em Đi
- Như Người Mẹ Hiền
- Đồng Lúa Mênh Mông
- Mừng Vì Được Ghi Danh Nước Trời
- Vô Nghĩa
- Chúa Sai Các Môn Đệ
- Bình An Là Dấu Chỉ Triều Đại Của Thiên Chúa Đến Gần
LÚA CHÍN ĐẦY ĐỒNG MÀ THIẾU THỢ GẶT
Lc 10, 1 - 2. 17 - 20
Tại vùng trung đông, dầu mỏ thì dồi dào nhưng lại khan hiếm nước trong lành. Một nhà thông thái nọ đi tìm suối nước thiêng. Khi nhìn thấy suối nước đó, ông vui mừng phấn khởi, chân bước nhanh đến suối. Sau khi giải khát nhờ nước trong mát của dòng suối, ông chụp hình dòng suối đó, có ý mang về cho đồng bào ông thấy mà tìm đến hưởng nguồn nước trong lành.
Vừa về đến nhà, thân quyến, bà con lối xóm xúm lại mừng ông. Mọi người đều nhận thấy gương mặt hân hoan rạng rỡ của ông. Ai nấy đều vồn vã hỏi cho biết điều gì đã đến với ông, làm sao ông vui mừng phấn khởi như thế! Ông kể lại cho họ nghe việc ông đã khám phá nguồn nước trong lành và mời gọi mọi người đến đó thưởng thức hương vị ngọt ngào của dòng suối. Ai cũng vui thích với tấm ảnh về nguồn suối đó. Họ mong có phương tiện đi đến đó để được tắm mát và vui hưởng hạnh phúc bên nguồn nước trong lành.
Khi CG đến, Ngài không chỉ hứa ban cho chúng ta một dòng suối vật chất mà ban cho chúng ta chính Thịt Máu là Nguồn ban sức sống, là thần lương nuôi sống linh hồn chúng ta. Ngài tỏ cho chúng ta biết Thiên Chúa là Cha rất yêu thương chúng ta, và hứa đưa chúng ta về nơi hạnh phúc muôn đời.
Thế nhưng ai sẽ là người nói cho mọi người biết về suối nước trường sinh, về hạnh phúc Chúa dọn sẵn cho mọi người?
Chính Chúa Giêsu nói cho các Tông đồ và các môn đệ của Ngài và nhờ các ngài nói lại cho chúng ta. Khi chúng ta trở thành môn đệ Chúa thì có bổn phận nói lại cho anh em mình biết niềm hạnh phúc đó. Nguồn suối trường sinh từ Thiên Chúa thì không bao giờ cạn, ai đến lấy bao nhiêu tuỳ thích. Càng nhiều người đến thì dòng suối càng tràn đầy hơn. Vì vậy chúng ta đừng sợ thiệt thòi khi tiết lộ cho anh em mình về Tin Mừng đó, mà phải dành nhiều thời giờ để loan báo cho anh em tin vui trọng đại này.
Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu sai 72 môn đệ đi loan báo Tin Mừng. Khi đi, Chúa dặn đừng chào hỏi ai dọc đường, cũng đừng mang theo tiền bạc giày dép. Môn đệ Chúa khi đi rao giảng đừng để tâm đến tiền bạc của cải nhưng hãy lo giúp mọi người tìm về Nước Chúa. Việc rao giảng cũng rất cấp bách cho nên không nên lân la, chào hỏi, nấn ná nói chuyện với người quen làm mất thời giờ. Người môn đệ Chúa không nên chậm trễ nhiệm vụ loan báo Tin Mừng Nước Chúa cho anh em mình.
Ngày hôm nay việc loan báo Tin mừng có còn cấp bách nữa không? Sự cấp bách đó vẫn còn và còn nhiều hơn nữa vì thế giới hơn 6 tỉ người, trong đó người Công giáo sốt sắng chưa được 1 tỉ . Còn rất nhiều người chưa biết Chúa , chưa hưởng được các Bí tích Chúa Giêsu đã lập ra. Nhân loại còn nhiều người đang chìm trong u tối, chưa nhận ra con đường dẫn đến lối trường sinh.
Lúa chín đầy đồng nhưng phải có thợ đi gặt về. Nước Chúa cần có những người thợ nhiệt thành, quên mình, đem bình an đến cho tha nhân. Loan báo Tin Mừng là việc làm cao quý Chúa giao cho chúng ta. Tuy nhiên, việc rao giảng Tin Mừng cho người khác đòi hỏi phải có sự chuẩn bị trước về kiến thức cơ bản, cách truyền đạt, lối giải thích dễ hiểu để cho người nghe dễ tiếp thu, dễ đón nhận.
Ngày nay, Giáo Hội đang hết sức mời gọi con cái mình dấn thân trong đời sống tu trì, truyền rao Tin Mừng Nước Thiên Chúa . Thời nào cũng có những người nhiệt tâm làm sáng danh Chúa , đem nhiều người vào nước Chúa . Tuy nhiên, số người chưa biết Chúa vẫn còn quá nhiều. Vì vậy, Chúa đòi mỗi người chúng ta hãy gấp rút lo việc truyền giáo. Chúng ta thương anh em mình thì không thể nhẫn tâm ngồi nhìn họ sống mồ côi, không biết Chúa là Cha. Vì không biết Cha, họ hay lỗi phạm điều răn Chúa và dần dần đi đến hư mất.
Thế giới này đang cần ơn bình an Chúa ban. Chúng ta hãy đem bình an của Chúa đến cho mọi người. Bình an của Chúa không như thế gian ban tặng. Bình an của Chúa làm cho lòng mỗi người tràn đầy bác ái, sẵn sàng hy sinh bản thân cho người khác bớt phần khổ sở. Bình an của Chúa làm lương tâm thoải mái. Chỉ những ai có lòng yêu mến Chúa thật sự mới có được loại bình an này.
Bình an nhờ việc sống đạo. Nếu chúng ta không sống đạo thì làm sao có bình an thật từ Chúa mà cho anh em mình, làm sao nhắc nhở được người khác đến với đạo. Để đem người khác về với Chúa, mỗi người chúng ta hãy hy sinh, sống gương mẫu để thu hút lương dân tìm đến sự thật mà được ơn cứu độ. Chúng ta hãy tìm hiểu ý Chúa trong Phúc Âm, giáo lý trong lương tâm ngay thẳng. Mọi người chúng ta hãy hợp nhất với nhau trong tình huynh đệ. Chính Chúa Giêsu đã nói rằng: Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con hãy yêu thương nhau như thầy đã yệu thương các con. Chúng ta thấy rằng 9 người 10 ý. Nhưng ai yêu mến Chúa và anh em thì sẵn sàng bỏ một số ý riêng để làm vui lòng nhau và đẹp lòng Cha chung của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con đi làm chứng cho Chúa, cho chúng con trở nên muối men, ánh sáng cho đời bớt tăm tối và đau khổ. Con sẽ trung thành yêu mến Chúa và nguyện hướng về Chúa cho đến muôn đời. Xin Chúa phù trợ cho chúng con luôn. Amen.
72 MÔN ĐỆ ĐƯỢC SAI ĐI
Lc 10, 1 - 2. 17 - 20
Để hiểu được đoạn Phúc Âm nầy của Luca (do Luca thêm vào sau) chúng ta nên lưu ý : Phúc Âm là đời sống và đức tin của Giáo Hội dưới sự hướng dẫn của Chúa Giêsu Phục Sinh đang sống, đang hiện diện và đang hoạt động mạnh mẽ hơn trước nữa. Chính Người chủ sự mọi sứ vụ trong Giáo Hội. Bài sai thì đã phát ra rồi. Bây giờ chỉ cần sai đi. Mọi người được sai đi sẽ làm y như bài sai đã ban hành. Luca muốn nói như vậy qua bài tường thuật nầy vì mọi việc đã xảy ra như vậy rồi. Mười hai tông đồ là cho do thái. Việc truyền giáo cho dân ngoại đang phát triển tưng bừng và Luca đang phục vụ dân ngoại và trong vùng của dân ngoại. Phải làm cho thực tế nầy được hợp thức hoá. Phúc Âm Luca được viết 50 năm sau Chúa Giêsu Phục Sinh.
Rất nhiều nhà truyền giáo đang hoạt động hăng sai không thua kém các tông đồ chính thức như Phaolô, Barnabê, cả Luca.........rất nhiều.. Phải cho họ một danh hiệu mới công bằng. Luca muốn làm như vậy đó và chỉ có Luca.
72 là con số rất đông. Số 7 trong Kinh thánh là số huyền nhiệm chỉ tất cả. 72 là 7 nhân lên 10. 70 hay 72 cũng như nhau tuỳ theo cách dùng Do thái hay Hy lạp.
Là nhà truyền giáo thì tất cả đều đươc sai đi cùng một bài sai như nhau mặc dù có phân chia chức vụ theo công tác. Trước đây Đức Giêsu Galilêa chưa sai thì trong thời gian theo nhu cầu Chúa Giêsu Phục Sinh sẽ sai vì chính Người vẫn hoạt động không ngừng trong Giáo Hội. Các môn đệ "nhà truyền giáo" đang sống và hoạt động tông đồ. Áp dụng cho các ngài bài sai mà Đức Giêsu đã ban bố là hoàn toàn hơp lý vì đó là 'qui chế' chung cho mọi nhà truyền giáo. Khi Chúa Giêsu ban hành qui chế nầy chì có 12 ông đã đựoc huấn luyện. Hơn nữa 12 là số tượng trưng cho Israel thôi. Còn môn đệ thì 72 (70) ie. không giới hạn vì là cho muôn dân đông đảo như thực tế đã làm chứng.
Chỉ Luca quan tâm làm việc nầy vì chỉ Luca viết Phúc Âm cho dân ngoại (muôn dân) nơi cánh đồng truyền giáo còn mênh mong, cần rất nhiều thợ gặt. Chính Đức Giêsu đã chẳng bảo phải xin chủ ruộng sai thêm nhiều thợ đi gặt lúa sao? Phải có 72 môn đệ (vô số) nữa được sai đi mới thoả mãn được nhu cầu truyền giáo của dân ngoại ( đông vô sô). Và Đức Giêsu Phục Sinh đang làm.
Những điều kiện tông đồ mà bất cứ nhà truyền giáo nào cũng phải tự trang bị cho mình nếu muốn làm nhà truyền giào chân chính như lòng Chúa Giêsu mong ước:
- Khó nghèo: Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép..
- Từ bỏ: đừng chào hỏi ai dọc đường
- Chấp nhận làm ' chiên con giữa bầy lang sói'( Không quan tâm tới an toàn bản thân).
-Hành trang duy nhất là sự bình an của Chúa để tặng cho nhà nào mà đến ở.
- Đi từng hai người : để làm chứng cho nhau là họ giảng dạy đúng như Chúa Giêsu sai.
Cần nhiều, rất nhều, môn đệ để Chúa Giêsu sai đi. Nhưng càng cần những môn đệ như lòng Chúa Giêsu mong ước để Người sai đi và chắc chắn đem lại nhiều hoa trái, những hoa trái như lòng Người mong ước. Ngày nay, cho ngày nay, chúng ta nghe than vản luôn luôn 'thiếu linh mục, thiếu tu sỉ ' nhưng cũng nghe than vãn có những linh mục, tu sĩ không được như lòng Chúa Giêsu mong ước! Người xưa có câu : Binh quí phi tự hồ đa dĩ tự hồ tinh. Luca cũng nhắc lại lời Chúa Giêsu : Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì còn ít, anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ đi gặt lúa về. Chúng ta cũng cầu xin thêm: Xin Chúa Giêsu Phục Sinh ban cho thế gian nhiều thợ gặt như lòng Chúa mong ước.
CHÚA NHẬT 14 TN C
Lc 10, 1 - 2. 17 - 20
"Thiên Chúa là tình yêu" (1Ga 4, 8). Kitô giáo là ngôn ngữ của tình yêu mà Thiên Chúa đã nói qua người Con của Ngài, Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu là sứ giả của Thiên Chúa Cha, là Người Con Yêu Dấu, trong Chúa Giêsu, Đức Chúa Cha đặt trọn vẹn tất cả tình yêu thương của mình. Chúa Giêsu đến trần thế để mang tình yêu đó cho nhân loại (Ga 3, 16). Vì tình yêu luôn luôn đòi hỏi phải chia sẻ và ban phát, cũng như chính Chúa Giêsu đã tự ý hy sinh bản thân mình cho nhân loại, và mọi tạo vật đều được mời gọi tham gia chia sẻ vào sự sống và tình yêu của Thiên Chúa. Do đó, Chúa Giêsu không ước mốn sự gì khác ngoài việc nhìn thấy tình yêu Thiên Chúa càng ngày càng lan rộng khắp mặt đất, giống như ngọn lửa cháy lan toả ra khắp nơi "Ta đến để ném lửa vào mặt đất, và ước mong lửa ấy đã bùng lên" (Lc 12, 49)
Để ngọn lửa tình yêu của Thiên Chúa bùng cháy lên trong tim mọi người, Chúa Giêsu chọn 72 môn đệ và sai họ đi vào thế giới để rao giảng Tin mừng về Nước Thiên Chúa với lời nhắc nhở: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. Nầy Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói" (Lc 10, 2-3). Các môn đệ đã được kêu gọi để chứng tỏ tình yêu trong mọi khía cạnh của đời sống chứng nhân của mình. Họ ra đi từng hai người một là dấu chỉ sự hiệp nhất của các môn đệ Chúa Kitô. Họ phải mời gọi và cầu xin Thiên Chúa ban thêm các tông đồ của tình yêu trên cánh đồng truyền giáo. Họ phải cố gắng bắt chước sự hiền hoà của con chiên để tha thứ và chấp nhận sự bạc đãi của sói rừng, ngay cả sự chết như thánh Gioan đã dạy: "Căn cứ vào điều này, đó là Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em" (1Ga 3, 16). Giống như những môn đệ của Chúa Giêsu, sứ mệnh truyền giáo của chúng ta không phải là dùng sức mạnh của bạo lực để bẻ gẫy những con tim, nhưng chinh phục những con tim bằng cách làm chúng phải tự chảy mềm ra, mềm lại dưới ảnh hưởng của tình yêu Thiên Chúa (GLCG 2104-2109).
Khi sai 72 môn đệ ra đi, Chúa Giêsu cũng cảnh giác họ rằng: "Ta sai các các con như con chiên ở giữa sói rừng" (Lc 10, 3). Sói rừng biểu tượng cho những quyền lực chống lại Tin mừng, những sự bắt bớ cấm cách, những thử thách, và những đối xử bất công. Thiên Chúa là Tình yêu, nhưng Ngài cũng rất công bằng chính trực. Quả vậy, Chúa Giêsu đã dặn các môn đệ: "Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép" (Lc 10, 4). Nhiều người nghĩ rằng Ngài muốn đề cao sự nghèo khó của các nhà truyền giáo. Hiểu như thế cũng có ý nghĩa, nhưng đây không phải là ý của Ngài. Ngài dặn họ đừng mang theo vì chính những người đón tiếp các môn đệ có bổn phận phải cung cấp cho các ngài những thứ cần thiết này. Nói một cách khác, Chúa kêu gọi giáo dân phải rộng lượng và quảng đại đối với những người làm công cho Vương Quốc Thiên Chúa. Tư tưởng của Chúa Giêsu đã được giải thích rất rõ ràng trong câu 7: "Vì người thợ đáng được trả công" (Lc 10,7).
Nhân dịp suy gẫm bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta cũng phải xét lại lương tâm của chúng ta trong việc đóng góp cho sứ mệnh truyền giáo và xây dựng Vương Quốc Thiên Chúa (1 Cr 9, 16). Tư tưởng gia Jean Jacques Rousseau đã kể lại lời khuyên nhủ rất khôn ngoan cho chúng ta như sau: "Khi chết, mỗi người sẽ chỉ mang theo được trong lòng hai bàn tay nắm chặt cái mà người ấy đã cho đi" (1Tm 6, 7-9).
Trong Sứ Điệp Khánh Nhật Truyền Giáo 2003, ĐGH Gioan Phaolô II, số 4 có nói: "Qua phép Rửa Tội, tất cả các tín hữu được mời gọi nên thánh". Trong Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, Công Đồng Vaticanô II nhấn mạnh rằng ơn gọi nên thánh phổ quát bao gồm trong lời mời gọi mọi người tiến đến sự trọn hảo của lòng bác ái. Sự nên thánh và sứ mạng truyền giáo là những khía cạnh bât khả phân ly của ơn gọi dành cho mọi người đã chịu phép rửa. Cam kết trở nên thánh thiện hơn đuợc liên kết chặt chẽ với sứ mạng truyền bá thông điệp cứu độ. Trong Thông Điệp Redemptoris Missio, đoạn 90, tôi đã nhắc lại rằng; "Mọi tín hữu được mời gọi đến với sự thánh thiện và sứ mạng truyền giáo".
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con quảng đại đáp trả làm chứng nhân cho Chúa. Xin cho có nhiều tâm hồn quảng đại đáp lời mời gọi bước theo Chúa. Amen.
BÌNH AN ĐÍCH THỰC
Lc 10, 1 - 2. 17 - 20
Luca là thánh sử duy nhất kể lại cho ta về sứ mạng của 72 môn đệ. Những môn đệ này được sai đi từng hai người một, vì lời chứng của hai người là lời chứng thật. Chắc khi đi rao giảng các môn đệ cũng sẽ gặp nhiều trắc trở, nhưng sự vất vả không chuẩn miễn cho các ông khỏi những khó khăn và nguy hiểm. Các ông như chiên lành tay không trước mặt sói rừng. Dẫu vậy những người được Chúa sai đi và làm công việc do Chúa chỉ định, phải tuyệt đối tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Không mang theo tiền, lương thực hay đồ dùng cá nhân kềng càng, họ phải tiến thẳng đến mục đích chứ đừng dừng lại dọc đường mà chuyện vãn bàn tính mất thời giờ với những người qua đường. Nói khác đi, họ chỉ có một điều quan tâm là rao giảng Lời Chúa cho mọi người, một thành, một làng, một nhà mà họ được sai đến và làm việc tại đó.
Công việc trước hết phải làm khi vừa bước chân tới là chúc bình an cho người ta, vì bình an vốn là dấu chỉ và bằng chứng của ơn cứu độ, của việc Chúa đến nếu xứng đáng họ sẽ được lãnh nhận. Sự bình an nói đây là sự bình an của ơn cứu độ, kết quả sự can thiệp đặc biệt của Chúa, nên cũng gọi là sự bình an của Nước Thiên Chúa. Bởi thế, đây chính là điều phụng vụ muốn dùng tới khi chọn đọc bài phúc âm này, vừa nói đến Đức Kitô đã đem đến sự bình an, một thứ bình mà thế giới không thể ban được, vừa nói lên sứ mạng của Hội Thánh là tiếp tục đem đến cho nhân loại sự bình an của Chúa.
Ngoài ra Đức Giêsu cũng khuyên các ông hãy đón nhận cách đơn sơ, giản di nơi ở cũng như lương thực mà người ta cung cấp nơi mình, không phải lo đến việc trả các phí tổn bằng tiền, mà chỉ lo trả bằng công tác của mình thôi. Ngoài ra cũng phải tránh những vấn đề làm cho người ta khó chịu như về lương thực hoặc tiện nghi. Nhưng phải biết bắt chước Chúa sẵn sàng chữa lành những bệnh nhân tật nguyền cho người ta một cách miễn phí. Vì đây cũng là dấu chỉ của thời thiên sai như Isaia đã loan báo.Và sau cùng nếu bị người ta sua đuổi thì cũng phải loan báo Nước Trời đã đến gần, và nói thẳng cho họ biết rằng họ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự từ chối đó. Cũng nến để tất cả những gì thuộc về họ, cho dù là bụi đết dính chân cũng để lại để cảnh cáo họ.
Chỉ sau một thời gian ngắn, công việc rao giảng của các môn đệ hiển nhiên được thành công một cách đáng kể, và các ông đã hân hoan trở về bên Chúa Giêsu. Họ vui mừng hãnh diện vì làm tốt công việc được trao phó: rao giảng tin mừng, chữa bệnh tật. Tuy nhiên điều vượt quá sự mong mỏi của các ông là đã sua đuổi được ma qủy . Vì thế, các ông rất lấy làm hạnh phúc về việc đó cách rõ rệt nhưng cũng khá ngây ngô.
Chúa Giêsu muốn làm cho họ phải chưng hửng, Ngài chỉ muốn so sánh "chiến thắng" của họ với ánh chớp lóe lên từ trời xuống đất. Ngài cũng nói thêm về quyền năng mà Ngài đã ban cho họ trên Satan và các thứ thù địch sẽ được biểu lộ qua việc dẫn trên rắn rết mà chẳng hề hấn gì. Tuy nhiên Đức Giêsu muốn đưa họ đến một quan điểm đúng đắn là hạnh phúc đích thực không phải ở chỗ thắng ma qủy hay ở chỗ làm lụng vất vả rồi thành công, mà hệ tại ở chỗ chắc chắn mình được cứu rỗi: "hãy vui mừng vì tên các người đã được ghi trên trời". Quả thực đây mới chính là điều đem lại cho chúng ta sự bình an thực sự và vững bền không ai lấy mất được.
Sự bình an chân thật , sự bình an trong tâm hồn là của riêng những con người sống trong tình yêu của Chúa, sống trong tương giao mật thiết với Chúa và hoàn toàn vâng phục Ngài. Tội lỗi đã làm con người mất đi sự bình an đó, vì nó làm cho con người trở nên thù nghịch cùng Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới trả cho chúng ta sự bình an đã mất, vì chỉ mình Ngài có quyền tha thứ tội lỗi cho chúng ta. Vì thế muốn lấy lại được sự bình an phải đến với Đức Kitô, tuyệt đối tin tưởng vào Đức Kitô, tham dự vào mầu nhiệm thập giá của Ngài. Ngoài ra không có con đường cứu độ nào khác.
Nhờ Bí Tích Thánh Thể được cử hành, một bí tích mà Đức Giêsu đã thiết lập làm giao ước muôn đời cho hội thánh, chúng ta được phúc hiện tại hóa mầu nhiệm thập giá, tham dự vào hy tế đền tội với tất cả tham dự phong phú của nó. Chúng ta hãy tham dự vào cách ý thức tích cực và tron vẹn để chúng ta được bình an trong Đức Kitô, và chúng ta không quên cảm ta lòng thương xót bao la của Ngài.
Lạy Chúa, xin cho con nhận ra chỉ khi nào con ở trong và ở bên Đức Giêsu con mới tìm được sự bình an đích, và cũng cho con luôn nhận ra sứ mạng của mỗi người Kitô hữu là đem bình an Tin Mừng đến cho người khác. Amen
CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN
Lc 10, 1 - 2. 17 - 20
Anh chị em thân mến.
Trong thời buổi kinh tế thị trường, tất cả mọi mặt hàng đều phải có chất lượng, nếu muốn được đứng vững. Chúng ta nhìn thấy có rất nhiều nhóm người, họ mặc đồng phục, trên nón và trên áo có ghi tên sản phẩm mà họ mang đi. Đó là những chuyên viên tiếp thị.
Họ đi giới thiệu sản phẩm. Không biết sản phẩm họ giới thiệu như thế nào, mọi người đều chưa biết. Nhưng trước tiên, những con người này phải có một phong cách cho xứng đáng, thì sản phẩm của họ mới được nhiều người biết đến. Thế mà cũng có những người lừa đão. Họ cũng giới thiệu sản phẩm và có trúng thưởng. Rất nhiều người bị sụp vào bẩy, họ phải trả một số tiền, để nhận món hàng cùng với quà trúng thưởng mà cay đắng. Những chuyên viên tiếp thị như thế, chắc không ai muốn nhìn thấy họ thêm lần nào nữa.
Chúa Giêsu nhìn thấy những khách hàng của Ngài đang thiếu thốn, đang khao khát. Ngài sai các chuyên viên tiếp thị của Ngài đến với họ. Các chuyên viên này không giới thiệu mặt hàng để mang mối lợi về kinh tế. Nhưng giới thiệu Nước Trời. Những người được sai đi cũng phải có phong cách của Nước Trời. Họ đến đem sự Bình an cho những khách hàng của họ, đồng thời còn chữa lành những chứng bệnh, những đau khổ của con người. Muốn được như thế trước tiên họ phải co, thì mới có thể cho được. Họ không được mang gì hết, không được tìm những phương thế để bảo vệ cho thân xác. Nhưng mang hành trang của nước trời, đó là sự bình an.
Họ đã thành công, đã tìm được thị trường cho Nước Trời. Họ vui mừng báo tin cho chủ mình. Niềm vui của họ còn được đong đầy thêm vì đã được chắm công để trọng thưởng, không phải như niềm vui chóng qua, nhưng là phần thưởng đời đời cho những người xứng đáng.
" Lúa chính đấy đồng mà thợ gặt thì ít."
Mỗi ngày lời mời gọi càng cấp thiết hơn. Mỗi ngày nhu cầu con người càng cần thiết hơn, càng chờ đợi, càng khao khát nhiều hơn.
Thị trường hôm nay rất cần những chuyên viên tiếp thị cho nước trời. Chúa Giêsu cũng nói với những con người của thời đại mới, những người trong chúng ta:" Lúa chính đầy đồng mà thợ gặt thì ít." Ngài cũng sai chúng ta làm những chuyên viên tiếp thị cho Nước Trời. Chúng ta cũng đã gia nhập, đã lãnh sứ mạng. Mỗi người cũng đã ra đi, đã rao giảng. Có người trở về báo cáo được vui mừng vì kết quả tốt đẹp, nhưng cũng có người không dám nói gì hết, vì đã hoàn toàn thất bại.
Giờ này đây, mỗi người ngồi trước mặt Chúa và báo cáo thành tích của mình đi. Trải qua bao nhiêu năm tháng của đời người, đó là những năm tháng mà Thiên Chúa mời gọi đi rao giảng, đi tiếp thị, giới thiệu Nước Trời cho người khác. Mỗi người một hoàn cảnh, một môi trường khác nhau. Rao giảng tiếp thị không chỉ bằng lời nói suông, nhưng còn bằng cả con người, cả cuộc sống. Cứ nhìn lại xem, những người chung quanh, khi nhìn vào đời sống của chúng ta và họ nhận ra được gì? Họ nhận ra được một Chúa Kitô đang sống, đang hoạt động, đang mời gọi họ, đang phục vu, đang yêu thương tất cả mọi người. Hay họ nhận ra một con người trần thế, với những tiền bạc, với những tham lam, những nóng nãy giận hờn, với những ích kỷ nhỏ nhen, với những mánh khóe mưu mô mà họ không dám đến gần được nếu không muốn bị hại.
Nhìn lại quãng đời đã qua như thế, chúng ta sẽ thấy được báo cáo của mình mang lại niềm vui hay nỗi buồn. Nếu là vui mừng, chúng ta cũng được vui mừng thêm vì tên chúng ta đã được ghi trên trời. Còn nếu chưa hòan thành được trách nhiệm của một chuyên viên tiếp thị cho Nước Trời, thì giờ đây cũng vẫn còn thời gian để chúng ta làm lại, sữa đỗi lại cách giới thiệu, qua việc sữa đỗi cách sống, cho xứng đáng, thích hợp hơn. Có như thế, chúng ta sẽ đạt được niềm vui nước trời.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết lắng nghe mệnh lệnh của Chúa, để hoàn thành trách nhiệm thật tốt trong hoàn cảnh sống và đạt được niềm vui Nước Trời.
THI HÀNH SỨ MẠNG CỦA ĐỨC KITÔ
Lc 10, 1 - 2. 17 - 20
Anh chị em thân mến! Sau một thời gian được ở với Thầy nay các môn đệ được Chúa Giêsu sai đi làm công tác tông đồ, loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa cho muôn dân mà ưu tiên là dân Israel. Hôm nay thánh Luca ghi lại khung cảnh "xuất quân" của đoàn môn đệ Chúa Giêsu. Qua đoạn Tin mừng Lc 10, 1-9 ta được đọc hôm nay ta học được tính chất của sứ điệp cũng như nội dung của sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ mình loan báo. Chúa Giêsu sai các môn đệ và Ngài cũng sai mỗi người chúng ta cộng tác để cho Nước Chúa được lan rộng. Ta hãy suy niệm để biết phải thực hiện như thế nào và cần loan báo những gì cho triều đại Nước Thiên Chúa.
Trước hết người môn đệ rao giảng tin mừng phải là người được Chúa Giêsu sai đi, đi từ hai người một và vào các thành mà chính Chúa Giêsu sẽ đến. Nhiệm vụ của các môn đệ này là như những nhà tiền trạm, dọn đường để Chúa Giêsu thực hiện sứ mạng. Nhưng phải đi hai người một và không mang bao bị, túi tiền, giày dép... cho thấy nhiệm vụ này là một nhiệm vụ khẩn thiết phải biết bỏ đi những gì thứ yếu để chọn cái chính yếu là loa n báo Đấng Cứu Thế. Phải đi hai người một vì là người minh chứng nên chứng này phải thật mà thật thì phải có hai người trở lên như quy ước thời ấy. Vả lại việc loan báo tin mừng không phải là việc của cá nhân riêng lẻ mà là việc của cộng đoàn và cũng không phải là độc quyền của riêng ai nhưng phải liên kết với nhiều người khác. Ý thức mình là người được sai đi chứ không phải là chủ nên người môn đệ phải xin chủ ruộng chính là Thiên Chúa cho mình được làm thợ gặt trong cánh đồng của Chúa tức là làm người loan báo tin mừng. Chúa Giêsu còn dạy tỉ mỉ các môn đệ về các vấn đề cơ bản của công tác truyền giáo như "Đừng mang theo bao bị, túi tiền, giầy dép... đừng đi nhà này sang nhà kia...". Như đã nói sứ điệp nước Thiên Chúa là chính yếu phải làm sao cho sứ điệp ấy được loan báo. Nhưng sứ điệp đó là gì? Sứ điệp đó là Bình An, là Triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Nều liên kế với những câu trước ta thấy ChúaGiêsu chính là Bình An, là Triều đại Nước Thiên Chúa đang đến các môn đệ đang mở đường để Chúa Giêsu đến được với mọi người. Chúa Giêsu đang đến với con người, Ngài là Vua Bình An, là Đấng Cứu Độ, ai đón nhận Ngài thì được hưởng sự bình an, được hưởng ơn cứu độ, con ai từ chối Ngài thì đã tự tách mình ra khỏi sự sống ắt hẳn đi đến diệt vong.
Bài Tin mừng hôm nay cho ta thấy sứ mạng loan báo Tin mừng là công việc của chính Thiên Chúa nên muốn là thợ gặt phải cầu xin chủ ruộng để được là thợ gặt. Người loan báo tin mừng phải là người được sai đi nên ta hãy ý thức việc loan báo tin mừng không phải là phát kiến từ cá nhân nhưng là từ Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta được mời gọi trở nên thợ gặt của Chúa. Y thức đây là việc của Chúa nên ta hãy biết phó thác trông cậy vào Chúa, và để khi thành công ta không tự hào tự mãn cũng như khi thất bại ta không chán chường buông xuôi. Tất cả là do thánh ý Thiên Chúa, chúng ta là người được Thiên Chúa mời gọi cộng tác.
Được mời gọi theo Đức Kitô, làm công việc của Đức Kitô ta hãy nghe lời Ngài mà trang bị hành trang lên đường thật nhẹ nhàng khiêm tốn. Hãy tín thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Khi Chúa sai chúng ta đi chắc chắn Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta mọi thứ để chúng ta có thể chu toàn sứ mạng quan trọng là chúng ta có biết phó thác hay không. Ngày nay là thời của tiến bộ khoa học, nhưng đòi hỏi của tiền tài vật chất lôi kéo chúng ta và đôi khi làm ta mờ tối đến độ coi đó như là những nhu cầu chính yếu để ta có thể loan báo Tin mừng hiệu quả. Hãy nhớ rằng ta đang loan báo sự gì, loan báo tin mừng của Chúa hay chính bản thân chúng ta. Cái gì là chính yếu Lời Chúa hay tiền tài vật chất.
Người môn đệ của Chúa Giêsu cũng đòi hỏi phải là con người của bình an. Bởi Chúa Giêsu chính là bình an đích thực. Loan báo Chúa Giêsu là loan báo sự bình an, mà có loan báo sự bình an được đòi hỏi người môn đệ phải là người có sự bình an trước tiên. Bình an không chỉ là thư thái, thoải mái mà là Nước Thiên Chúa đang đến, là ơn cứu độ đang đến.
Ước gì ta biết sống khiêm tốn, giản dị để biết phó thác mọi sự cho Chúa.
Ước gì tha nhân nhận được nơi chúng ta sự bình an đích thực khi ta biết sống gắn bó với Chúa.
Ước gì mỗi người Kitô hữu chúng ta thực hiện được căn tính của mình là đem Tin mừng cho những người xung quanh
SỨ GIẢ HOÀ BÌNH
Lc 10, 1 - 2. 17 - 20
Giả như có một gia đình hay một cộng đoàn vì lý do nào đó phải sống trong tình trạng bất hoà. Các thành viên chống đối và tìm nhiều cách để hại nhau. Lúc ấy chắc chắn những người trong cuộc không còn sáng suốt nữa. Từ đó họ trở nên những người gây mất bình an cho nhau. Bởi lẽ, họ đang có xung đột nội tâm. Trường hợp như thế rất cần một hay nhiều người ngoài cuộc đến giúp kiến tạo hoà bình.
Con người dường như sống trong bất cứ thời đại nào cũng đều có khuynh hướng gây bất hoà cho nhau. Ngay từ những trang đầu của Bộ Kinh Thánh đã cho thấy ông Ađam đã hớn hở reo lên khi Thiên Chúa dẫn đến cho ông bà Eva: "Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!" (St 2, 23). Tuy nhiên, sau khi phạm tội thì ông lại trở mặt với bà. Chúa hiện đến hỏi, ông đã vội vàng đổ lỗi cho bà cách không thương tiếc: "Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn" (St 3, 12). Con người trở nên bất hoà nhau kể từ đấy. Vì ghen tỵ mà Cain đã không ngần ngại giết chính em ruột của mình là Abel (St 4, 1-16).
Các Tông đồ theo Chúa Giêsu cũng không tránh khỏi khuynh hướng ấy. Các ông đã tranh giành địa vị lẫn nhau (Mc 10,35 - 40). Càng sống trong tình trạng như vậy chúng ta sẽ càng trở thành những người mất bình an. Hiểu được tình trạng đó nên Thiên Chúa đã dùng mọi cách đem lại bình an cho con người chúng ta. Chính Chúa Giêsu là hiện thân, là sứ giả hoà bình hoàn hảo của Thiên Chúa. Ngày Chúa Giêsu sinh ra các sứ thần đã tung hô: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương" (Lc 2, 14).
Chúa Giêsu cũng muốn cho có nhiều người chia sẻ sứ mạng ấy với Người. Vì thế, hôm nay Người chỉ định thêm 72 môn đệ nữa. Con số 72 là con số hoàn hảo theo quan niệm của người Do thái. Nghĩa là Người muốn cho mọi người được hưởng sự bình an. Đồng thời, Người cũng muốn cho mọi người biết đem đến sự bình an cho nhau.
Người ta thường nói: "An cư thì mới lập nghiệp" hay "Người ta không thể cho cái gì họ không có". Do đó, làm sao chúng ta có thể là sứ giả hoà bình khi trong chính tâm hồn của mình còn sự xung đột. Để tránh sự xung đột ấy Chúa Giêsu chỉ cho các môn đệ cũng như cho chúng ta: "Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường.Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: Bình an cho nhà này" và "Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia". Điều quan trọng là hãy loan báo "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần".
Chúng ta đang sống trong thế giới mà phần đông người ta chỉ biết đổ xô nhau tìm kiếm những tiện nghi vật chất đời này. Họ tưởng rằng tiện nghi vật chất đời này sẽ đem lại bình an. Nhưng thật ra tiền bạc vật chất chỉ là phương tiện cho cuộc sống. Nếu chúng ta xem nó như cứu cánh đời mình thì nó chỉ đem lại sự bình an giả tạo. Bởi vì để có nhiều tiền của, người ta có thể bất chấp tất cả. Thậm chí anh chị em ruột cũng sẵn sàng hại nhau.
Chỉ khi nào sống theo Lời Chúa dạy và những chỉ dẫn của Giáo hội chúng ta mới có được bình an đích thực. Khi đó tự nhiên những ý muốn và những cách sống ghen tỵ, ganh ghét, chia rẻ...sẽ tự nhiên biến mất khỏi ta. Và khi ấy chúng ta đang là sứ giả hoà bình đích thực của Thiên Chúa cho những anh chị em xung quanh.
SAI ĐI LOAN BÁO TIN MỪNG
Lc 10, 1 - 2. 17 - 20
1. Cách đây ít lâu, có một cô giáo, sống xa nhà thờ hàng chục cây số, đến gặp tôi, cô nói rằng: "Thưa cha, có một số con em của gia đình Công giáo gần chỗ con ở, đến tuổi học giáo lý rước lễ, thêm sức rồi mà không có điều kiện đến nhà thờ để học giáo lý dịp hè nầy. Con có thể tìm cách giúp cho các em nầy được hay không ?". Tôi biết cô nầy có khả năng dạy giáo lý, nên tôi nói với cô rằng, việc đó quá tốt, tôi hoàn toàn ủng hộ cô.
Có rất nhiều Kitô hữu tuy không sống trong bậc tu trì nhưng rất tích cực trong việc loan báo Tin Mừng, những người nầy cách nào đó đã hiểu được lời dạy về việc truyền giáo của Đức Kitô. Như trong đoạn Tin Mừng được chọn đọc Chúa Nhật hôm nay, Đức Giêsu không những chọn và sai nhóm Mười Hai mà còn chọn và sai 72 môn đệ làm việc tông đồ nữa. Điều này cho thấy Chúa muốn mọi tín hữu đều phải tham gia vào việc tông đồ. Bởi con số 72 ở đây không những tượng trưng cho số nhiều mà còn mang tính toàn thể, số 72 đây là số các dân tộc của loài người mà sách Sáng thế chương 10 đã đề cập đến.
2. Lời mời gọi truyền giáo của Đức Giêsu vẫn như đang gởi đến với mỗi chúng ta: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít". Thật vậy, sau 2.000 năm Tin Mừng được rao truyền, ta thấy khắp nơi có bóng thánh giá, đó là điều đáng mừng. Thế nhưng chúng ta nghĩ gì khi số người tin vào Chúa mới khoảng 2 tỉ, trong khi đó khoảng hai phần ba nhân loại còn lại chưa biết Chúa!? Còn tại Việt Nam chúng ta, số người tin vào Chúa chỉ khoảng mười phần trăm! Có nơi cả huyện chỉ có một ngôi nhà thờ Công giáo, dĩ nhiên do nhiều nguyên nhân! Nhưng dầu sao cũng làm cho chúng ta suy nghĩ cánh đồng lúa mênh mông còn bị bỏ hoang không thợ chăm sóc, gặt hái. Thế giới này dường như vẫn còn dày đặc của bóng tối, sự dữ... rất cần ánh sáng của Tin Mừng soi dọi. Cho nên, không lạ gì Chúa Giêsu đã nói: "Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói".
3. Đức Giêsu đã ra đi loan báo Tin Mừng Nước Trời, người cũng sai các môn đệ phải ra đi. Thánh Phaolô đã từng thốt lên rằng: Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm, khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng (x.1Cr 9,16)! Công đồng Vaticanô II cũng đã khẳng định:"Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo" (Ad Gentes 2). Cuộc sống con người đa dạng, phong phú thì việc truyền giáo cũng có thể thực hiện bằng nhiều phương cách, chẳng hạn như:
- Có thể đó bằng phương cách dấn thân trong ơn gọi linh mục, tu sĩ mà trong những tháng hè nầy như là mùa thu hoạch ơn gọi qua những lễ khấn dòng, truyền chức mà chúng ta tham dự.
- Có thể đó là cộng tác với các linh mục, tu sĩ. Bởi có những họ đạo có đến hàng trăm em học sinh giáo lý, nếu không có các giáo lý viên cộng tác, thì làm sao các linh mục có thể giúp cho các em học tốt được! Có thể cộng tác bằng việc giúp đỡ tài chính cho việc truyền giáo nữa.
- Có thể đó là việc hy sinh của các giáo lý viên đến tận gia đình những người muốn học để chia sẻ niềm tin, do họ rất xa nhà thờ nhưng không có điều kiện đến để học giáo lý.
- Có thể là chia sẻ, dạy về Chúa cho những người gần gũi, con em ngay trong gia đình mình. Bởi không phải nơi nào giáo dân muốn tụ họp lại để học giáo lý, đọc kinh thì có thể thực hiện được cách dễ dàng. Thật vậy, có những nơi muốn phục hồi lại nơi thờ tự bị chiến tranh tàn phá thì không đơn giản gì và rất nhiều nơi lẽ ra phải có nhà thờ thì không dễ gì thực hiện được! Tôi được biết có gia đình ở cách nhà thờ gần nhất là trên 20 cây số. Nơi linh mục tới lui không phải thuận lợi, nhưng các thành viên trong gia đình nầy vẫn giữ vững đức tin, qua hàng chục năm như thế, do đâu ? Thưa do người cha của gia đình nầy hằng ngày cùng với con mình đọc kinh hôm, kinh mai, kể những câu chuyện về Đức Giêsu cho con cháu mình nghe.
4. Một phương thức rao giảng Tin Mừng rất hữu hiệu đó là dấn thân phục vụ xã hội theo tinh thần công bình, bác ái của Đức Kitô. Đây là phương cách mà Kitô hữu nào cũng có thể thực hiện được nơi môi trường mình sống, mình làm việc. Xã hội xem ra đang phát triển, nhưng nhìn kỹ lại đang tụt dốc về nhiều phương diện, nhất là về đạo đức, một thực tế không ai chối cãi được. Cho nên hơn bao giờ hết Tin Mừng của Chúa cần phải được rao giảng, nhất là bằng đời sống chứng nhân. Người ta thường nói : "lời nói lung lay, việc lành lôi kéo".
Trước những điều xấu trong xã hội, chúng ta thường làm thinh bỏ qua hay phàn nàn, trách móc. Hãy chọn phương cách tích cực hơn, như một danh nhân đã nói :"Thà đốt lên một ngọn nến tuy nhỏ, nhưng hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng đêm". Thật vậy, trước cảnh gian lận trong cuộc sống, một đời sống ngay lành của người Kitô hữu quả là một ngọn nến. Trước cuộc sống buông thả của các thanh niên nam nữ, một đời sống trong sạch của các Kitô hữu không là một ngọn nến sao? Trước lời thô lỗ, tục tằn của các bạn trẻ, một lời nói thanh tao của ta quả là một ngọn nến... Như các ngọn hải đăng không ồn ào mà chúng chỉ lặng lẽ chiếu sáng, nhưng ánh sáng của nó thật hữu ích. Đời sống tốt đẹp của người Kitô hữu cũng thế.
5. Như người thợ làm việc tích cực, đúng cách, bao giờ cũng mang lại hiệu quả tốt đẹp; cũng vậy, chắc chắn những hy sinh, cố gắng của chúng ta trong việc truyền giáo theo ý Chúa cũng sẽ mang lại hiệu quả. Điều nầy làm chúng ta vui mừng, nhưng đáng vui mừng hơn đó là tên của chúng ta được ghi trên trời (x. Lc 10,20), hay nói cách khác, phần thưởng cách xứng hợp mà Thiên Chúa sẽ tặng ban cho những ai tích cực làm tông đồ Ngài.
"Không có vị tiên tri nào được chấp nhận nơi quê hương mình.." (Lc 3, 24)
Bài TM hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi loan báo TM về Nước Thiên Chúa. Trước khi sai đi, Chúa ân cần dạy dổ họ nhiều điều... Và rồi, họ đã ra đi và trở về trong hân hoan, tường thuật lại kết quả họ làm được...Câu chuyện về việc ra đi truyền giáo của Đức Cha Lambert de la Motte, GM tông tòa đầu tiên của địa phận Đàng Trong VN (từ sông Gianh trở vào Nam), là điển hình của câu chuyện TM Chúa sai các môn đệ ra đi hôm nay....Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a. Có mấy điểm chúng ta sẽ theo dỏi tìm hiểu hôm nay:
* Phúc âm ghi (Lc c.1-3): Chúa sai 72 môn đệ khác, ngoài nhóm 12: " Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít...Thầy sai anh em đi như chiên giữa bầy sói." Chúa Giêsu đã có chủ ý chọn các môn đệ, dạy dổ họ rồi sai họ đi. Đây không phải là việc tình cờ... Năm 1659, Tòa thánh đặt Cha Lambert de la Motte làm GM tông tòa đầu tiên địa phận Đàng Trong. Trước đó đã có các nhà truyền giáo đến xứ này, nhưng chưa chính thức. Xưa Chúa sai các môn đệ ra đi như chiên giữa bầy sói, nay Tòa thánh cũng sai Đức Cha Lambert và các Lm đến VN đầy gian nan thử thách. Dự định đi tàu, tàu vỡ; đành phải đi bộ. Bệnh hoạn giữa đường tưởng mạng vong. Ngài đến đất Thái Lan vẫn chưa yên, còn bị người Bồ Đào Nha đòi bắt và trục xuất (vì lúc đó Tòa thánh muốn thoát khỏi quyền bảo hộ của nhà vua Bồ). Ngài còn bị viên quan trấn thủ Nha Ru đầu độc, vì ông này theo người Bồ, suýt chết, phải hơn tháng mới khỏi bệnh...
* Lc c.4: Chúa nói: các con đừng mang túi tiền, bao bị, dày dép: Chúa dạy hãy tin cậy vào Chúa, đừng tin và cũng đừng lo cho bản thân... Những năm đầu tiên trên đất truyền giáo, Đức Cha Lambert và các vị thừa sai đã thảo luận và soạn "huấn thị cho người tông đồ". Ngài sẽ gởi về tòa thánh xin phép cho họ thực hành bộ luật này. Ngày nay khi đọc lại bộ luật đó, người ta sẽ rất ngạc nhiên vì tính nghiêm túc và khắc khổ của nó. Ngoài việc tuân giữ bình thường của giới tu sĩ, các ngài còn tự nguyện hãm mình phạt xác để cho kết quả truyền giáo lên cao như: cấm ăn thịt và uống rượu - ăn chay cả tuần trừ chúa nhật và lễ nghỉ- ngủ nghỉ đơn giản - nguyện ngắm lâu giờ trong ngày. Cuối cùng Tòa thánh không chấp nhận những luật lệ gắt gao này như: ăn chay trường kỳ và cấm tuyệt đối không ăn thịt... Dù vậy khi biết ý của Tòa thánh, Đức Cha là người vâng lời Tòa thánh trước tiên và sốt sắng nữa.
* Lc c.5.9: Chúa nói: khi vào nhà nào, hãy chúc lành cho họ...hãy chữa những ai đau yếu và nói với mọi người: Nước Thiên Chúa đã đến gần... điều bận tâm cả đời của Đức Cha Lambert, dù ngài là một ông tây, một Giám mục, là xem coi giáo đoàn ngài có trách nhiệm phát triển đến đâu. Đi đến đâu, ngài đều được mọi người yêu mến, yêu mến vì lòng đạo đức, đơn sơ và khiêm tốn của ngài. Ngài ăn uống đạm bạc, ăn ít, không bao giờ uống rượu. Dù rất ghét ăn thịt, nhưng khi biết ý chỉ của Tòa thánh và hội Thừa sai Paris , ngài vâng lời cho dọn thịt lên bàn ăn ngay. Lòng bác ái của ngài dành cho người nghèo, bệnh tật không biên giới. Cứ ba tuần, ngài cử người đi thăm các tù nhân, giúp đở tiền bạc rộng rải cho họ. Vì quá lo lắng cho công cuộc truyền giáo, ngài rất bận tâm đào tạo hàng giáo sĩ, thày giàng, thành lập dòng MTG thuộc quyền địa phận. Cuộc đời truyền giáo của ngài xem ra cũng được Chúa thưởng công bằng một số việc lạ như: chữa cho hoàng đệ của vua Xiêm khỏi liệt một phần- trừ quỷ cho một cô gái - cứu sống một hài nhi coi như đã chết - và sau khi chết còn chữa cho một anh thanh niên mù 8 năm được sáng mắt...
b. Gợi ý sống và chia sẻ: Chúa Giêsu đã nói với các mộn đệ được sai đi: đừng vui mừng vì ma quỉ bị khuất phục, nhưng hãy vui mừng vì tên của anh em được ghi trên trời. Đức Cha Lambert chắc chắn đã vui mừng như lời Chúa Giêsu nói. Còn phần chúng ta, vui mừng cách nào đây?
CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN
Lc 10, 1 - 2. 17 - 20
John Nguyễn
1. Ơn gọi làm tông đồ giáo dân
Ngoài số 12 môn đệ được Đức Giê-su huấn luyện đặc biệt để sau này tiếp nối sứ mạng của Ngài, Tin Mừng Luca còn nói tới số 72 môn đệ được Ngài sai đi. Người ta thường ví ơn gọi của 12 môn đệ với ơn gọi tông đồ của hàng giáo phẩm và giáo sĩ, là những người thường được huấn luyện đặc biệt có trường lớp để tiếp nối sứ mạng cứu thế của Đức Giê-su. Và ví ơn gọi của 72 môn đệ với ơn gọi tông đồ của giáo dân, là những người được huấn luyện ở trình độ phổ thông để làm tông đồ.
Đấy cũng là một cách hiểu khá hợp lý. Thực ra, bất kỳ người Ki-tô hữu nào một khi đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức, đều được Đức Giê-su mời gọi tiếp tục sứ mạng của Ngài là cứu độ nhân loại. Vì thế, việc cứu độ nhân loại không phải là công việc dành riêng cho hàng giáo sĩ, mà là nhiệm vụ của bất kỳ người Ki-tô hữu nào, dù là giáo dân, đạo gốc hay tân tòng. Bài Tin Mừng hôm nay là một dịp nhắc nhở người giáo dân nhiệm vụ tông đồ hay cứu thế của mình. Đặc biệt những Ki-tô hữu đã có từng được đào tạo để làm tông đồ trong các chủng viện hay tu viện, mà nay lại đứng trong hàng ngũ giáo dân. Những người này thường được Thiên Chúa kêu gọi đặc biệt hơn những giáo dân khác.
2. Sứ mạng của Đức Giê-su còn bao nhiêu việc phải làm
Hễ nói tới câu Tin Mừng «Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về», chúng ta thường nghĩ ngay tới cánh đồng truyền giáo, làm như Giáo Hội chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là truyền giáo. Thực ra, Đức Giê-su đến là để cứu chuộc nhân loại, mà trong đó việc truyền giáo hay loan báo Tin Mừng chỉ là một phần, và chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích cứu thế của Đức Giê-su. Nhiều khi người Ki-tô hữu quá quan tâm đến phương tiện này mà quên đi mục đích của nó, nghĩa là lấy chính việc loan báo Tin Mừng làm mục đích của việc tông đồ. Mục đích của Giáo Hội cũng như của Đức Giê-su không phải là loan báo Tin Mừng, mà là cứu nhân loại, không chỉ đời sau mà còn cả đời này nữa. Cứu nhân loại là làm cho nhân loại hay con người thoát khổ và hạnh phúc hơn. Loan báo Tin Mừng chỉ một trong những phương tiện phải làm để đạt được mục đích cứu độ đó.
Ý thức lại vấn đề như vậy, chúng ta thử tự hỏi: chúng ta đã quan tâm tới vấn đề cứu độ con người như Đức Giê-su chưa? Một cách cụ thể, chúng ta đã làm gì để những người chung quanh ta bớt đau khổ và hạnh phúc hơn? Sự hiện diện của ta, với tư cách người Ki-tô hữu hay tập thể Ki-tô hữu, có làm cho gia đình ta, những người chung quanh ta, xã hội ta đang sống bớt khổ đau và hạnh phúc hơn không?
Thế giới và xã hội con người hiện nay còn biết bao tội lỗi, đau khổ, bất công. Sứ mạng cứu thế của Đức Giê-su chưa thực hiện được bao nhiêu, và còn biết bao việc phải làm. Nhưng có được bao người muốn dấn thân tiếp nối sứ mạng của Ngài? Việc thì nhiều mà nhân sự thì ít. Người Ki-tô hữu, dù là giáo dân hay giáo sĩ, có nghe thấy lời mời gọi tha thiết của Ngài không? Và nếu muốn tiếp tục sứ mạng của Ngài, chúng ta phải làm gì?
3. Trình tự những việc phải làm của người môn đệ Đức Giê-su
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su sai 72 môn đệ đi. Hãy coi lại xem Ngài truyền bảo họ những gì. Có những điều chính yếu được xếp theo trình tự thời gian mà cũng có thể là theo thứ tự quan trọng như sau:
1. «Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép»: ý nói đừng quá lo toan về những nhu cầu vật chất, mà hãy chú tâm vào sứ mạng của mình. Việc này được đề cập đến đầu tiên, ắt nhiên là một điều rất quan trọng. Muốn cứu rỗi người khác mà lại quan tâm đến những nhu cầu vật chất của mình, vốn đòi hỏi rất nhiều tâm trí và năng lực của mình, thì còn đâu tâm trí và năng lực để cứu rỗi người khác?
2. «Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường»: ý nói sứ mạng khẩn cấp, cần tập trung thì giờ và năng lực vào sứ mạng của mình. Ngoài nhu cầu vật chất, còn những nhu cầu cá nhân khác, cũng cần phải dẹp bớt để tập trung thì giờ và năng lực vào việc cứu rỗi con người.
3. «Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: "Bình an cho nhà này!"»: ý nói phải quan tâm tới sự bình an, thoải mái cho người mình gặp. Sự bình an, không phải sống trong lo âu, sợ sệt... về tinh thần cũng như thể chất là điều mà người môn đệ Chúa cần phải quan tâm thực hiện đầu tiên cho mọi người mình được sai đến. Đây là nhu cầu căn bản và cần thiết nhất của mọi người sống trong trần thế.
4. «Hãy chữa những người đau yếu trong thành»: ý nói hãy quan tâm đến đau khổ và hạnh phúc của mọi người, và cứu giúp họ trong khả năng của mình. Người môn đệ của Chúa cần phải quan tâm đến những nhu cầu hết sức cụ thể của con người. Phải cảm thông với niềm vui nỗi buồn, với hạnh phúc và đau khổ của mọi người, đồng thời phải cứu khổ và tạo điều kiện hạnh phúc cho họ một cách hữu hiệu.
5. Và sau cùng mới là «nói với họ: "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông"»: ý nói là phải loan báo Tin Mừng cho họ, tức nói với họ về Thiên Chúa, về nhu cầu tâm linh, về những gì thiêng liêng.
Ta thấy trình tự trên thật là hợp lý. Người chung quanh ta có được ta quan tâm tạo bình yên và thoải mái cho họ, thì họ mới dám đặt niềm tin tưởng vào ta, và mới có điều kiện thoải mái để nghe ta nói những chuyện xem ra có vẻ ít thực tế hơn đối với đời sống của họ. Thế mà rất nhiều khi người Ki-tô hữu lại làm ngược lại trình tự mà Đức Giê-su đã đề nghị. Chúng ta lo loan báo Tin Mừng trước, và coi những việc đáng quan tâm hàng đầu kia vào hàng thứ yếu. Chính vì thế mà việc loan báo Tin Mừng của chúng ta trở thành thiếu thực tế, kém hữu hiệu, nên không được đón nhận bao nhiêu từ nhiều thập kỷ nay tại Châu Á. Do đó, chúng ta cần phải sửa lại quan niệm về cách làm tông đồ của chúng ta.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, Công Đồng Vatican II nhắc nhở người Ki-tô hữu phải nhập thể nhiều hơn vào những lãnh vực trần thế để biến cải môi trường mình sống nên tốt đẹp hơn một cách hữu hiệu. Xin giúp con xét lại xem sự hiện diện của con đã biến cải môi trường con sống tới mức độ nào? Có làm cho những nơi mà con hiện diện tốt đẹp và hạnh phúc hơn không? Xin cho con biết quan tâm sống tinh thần Tin Mừng là tinh thần yêu thương trước đã, trước khi loan báo nó ra để người khác cùng sống theo. Xin giúp con biết yêu thương để quan tâm tới đau khổ và hạnh phúc của những người chung quanh con, và biến con trở nên một đấng cứu thế nho nhỏ trong môi trường nhỏ bé con đang sống, là gia đình con, là môi trường nghề nghiệp của con, khu xóm của con, v.v... Amen.
SỨ MỆNH CÁC MÔN ĐỒ
Lc 10, 1 - 2. 17 - 20
Lm Joseph Nguyễn Thanh Sơn, DCCT
Vào mồng 8 tháng Bảy, Giáo Hội cử hành Chúa Nhật XIV Thường Niên, Phúc Âm của thánh lễ này được trích từ sách Luca chương 10:1-12; 17-20, là trình thuật việc Đức Yêsu sai 72 môn đồ Ngài đi giảng Tin Mừng Nước Trời.
Chúng ta thấy Đức Yêsu đã tuyển chọn và kêu gọi 12 người theo Ngài tiên khởi mà các tác giả Phúc Âm gọi là các Tông Đồ (Apostles). Các vị này là đại diện cho 12 chi họ, hay chi tộc Nhà Israel. Về sau, một trong 12 vị này là Yuđa Iscariốt đã phản bội Thầy, nộp Thầy cho "quân dữ" để lấy một số tiền nhỏ, rồi thay vì ăn năn sám hối như đồng bạn mình là Phêrô, đương sự đã đi treo cổ tự tử thảm thương. Ông Mathias đã được Nhóm Mười Một bầu chọn nhằm lấp vào chỗ trống này.
Ngoài ra Nhóm Mười Hai, Đức Yêsu đã thành lập nhóm đông đảo các môn đồ, hay môn đệ (disciples), chắc hẳn bao gồm cả các phụ nữ đạo hạnh, tốt lành...
Lời Đức Yêsu nói: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít, vậy anh em hãy xin chủ mùa sai thợ ra gặt lúa về", chúng ta không nên hiểu theo nghĩa hẹp rằng Ngài muốn chúng ta cầu nguyện cho Giáo Hội có thêm nhiều linh mục! Quả thực Ngài muốn điều này, nhưng ý định của Ngài không chỉ giới hạn vào ơn gọi đó.
Mỗi người Công giáo đều có một ơn gọi từ Thiên Chúa - ơn gọi trở nên "thợ gặt" cho đồng lúa đã chín vàng của Vị Chủ Mùa. Công Đồng Vaticanô đệ nhị đã mời gọi mọi tín hữu tham dự cách đầy đủ, trọn vẹn, và tích cực vào phụng vụ và sứ mệnh của Hội Thánh. Đó là một ơn gọi. Trước Công Đồng Chung quan trọng này, trong Thánh Lễ, linh mục cử hành làm mọi động tác, đọc mọi lời cầu, chỉ chú giúp lễ mới được thưa lại đôi lần bằng tiếng La-tinh mà chú bé bỏng ấy chẳng hề hiểu ý nghĩa, còn giáo dân thì phải giữ im lặng hoàn toàn. Duy một mình linh mục đọc kinh "Lạy Cha CHÚNG TÔI ở trên trời", giáo dân không được phép đọc "Lạy Cha CHÚNG TÔI..." Bây giờ, các Kitô hữu không còn hiện diện trong các buổi phụng tự một cách thụ động, như thể cái xác vô hồn, bất động, "chầu rìa" nữa.
Người giáo dân tham dự tích cực Thánh Lễ Misa, tức Thánh Lễ Bàn Thờ; tuy nhiên việc tham dự ấy sẽ không trọn đủ cho tới khi họ tham dự Thánh Lễ Cuộc Đời, tức tham gia vào sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội trong cuộc sống thường nhật của mình.
Chức linh mục được truyền phép là cốt yếu cho Hội Thánh. Điều ấy không thể đổi thay. Nhưng Thánh Linh qua Công Đồng nay mời gọi mọi người Công giáo trở nên các thành viên có trách nhiệm của Giáo Hội. Không còn chuyện để cho linh mục "độc diễn", làm mọi sự một mình. Không còn chuyện các tín hữu sợ hãi bày tỏ lòng tin của mình nơi công sở hay ở bất cứ chỗ nào khác. Giáo dân lãnh nhận sứ mệnh rao giảng Phúc Âm Chúa Kitô, qua các lãnh vực truyền thông đại chúng, như báo chí, phát thanh, hay hướng dẫn các buổi cầu nguyện cho các nhóm sống đức tin cơ bản tại cộng đoàn, tại nhà v.v...
Sự thật là hết thảy chúng ta đều được kêu gọi, đặc biệt qua Bí tích Thêm Sức, trở nên những tín hữu Công giáo tích cực, nhập cuộc, trách nhiệm và dấn thân.
CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN
Lc 10, 1 - 2. 17 - 20
Lm Bùi Quang Tuấn, DCCT
"Các ngươi hãy đi! Này Ta sai phái các ngươi như chiên vào giữa sói. Đừng mang ví tiền, bao bị, giày dép; cũng đừng chào hỏi dọc đường. Hễ vào nhà nào, trước tiên hãy nói: "Bình an cho nhà này". (Lc 10:3)
Đọc qua đoạn Kinh thánh trên đây không ít người cảm thấy dường như Lời Chúa chẳng dính dấp gì đến cuộc sống của mình. Những lời nhắn nhủ "đừng mang gì đi đường, không mang bánh mang bị, không mang tiền mang dép" có lẽ chỉ dành riêng cho các môn đệ Đức Kitô trước khi họ ra đi rao giảng Tin Mừng. Thế nên có thích hợp hay chăng chỉ là thích hợp cho các nhà thừa sai truyền giáo, chứ như dân thường thì e lệnh truyền trên đây không có một chút ý nghĩa nào !
Cũng có người thắc mắc : "Tại sao khi sai các môn đệ đi rao giảng, Chúa Giêsu không nghĩ rằng nếu không được đón tiếp thì họ sẽ lấy của gì để ăn, lấy nhà đâu để ở? Thế nên cần phải có chút ít tiền để phòng thân chứ. Rồi nếu như phải ngủ bờ ngủ bụi, mà có chiếc áo che thân thì tốt biết mấy. Tại sao Đức Giêsu lại bảo đừng mang tiền, mang bị, hay mang bánh, mang áo? Tại sao Chúa không phòng xa để giải quyết những trường hợp bất ngờ?"
Nhưng đâu phải Chúa Giêsu không biết nghĩ xa. Ngài dư biết sẽ có thành đón tiếp và cũng có thành chối từ. Chính Ngài đã từng căn dặn thành nào không đón tiếp thì hãy rũ bụi chân lại để tố các chúng đã hẹp lòng và bất cập với Tin Mừng đấy chứ.
Chúa Giêsu biết sẽ có những người đóng cửa lòng, không đón nhận các môn đệ của Ngài. Nhưng ý tưởng chính toát lên từ lời căn dặn của Chúa Giêsu chính là sứ mạng rao giảng Tin Mừng Nước Trời - sứ mạng đưa bình an đến cho các xóm làng - là một điều cấp bách. Đây là việc chung mà cộng đoàn các tông đồ phải khẩn trương thi hành chứ không được chậm trễ vì lỉnh kỉnh các vật dụng cá nhân.
Nói cách khác, ý của Chúa Giêsu là các môn đệ phải biết đặt sự nghiệp chung, lợi ích của Nước Trời trên bao bị, giầy dép, tiền bạc, áo xống. Việc rao giảng Tin mừng phải là công tác quan trọng, cần thiết và cấp bách hơn tất cả mọi lợi ích riêng tư.
Sống trong một tập thể hay cộng đoàn, nếu người ta chỉ biết đòi hỏi được đáp ứng các nhu cầu hay lợi ích cá nhân, tập thể hay cộng đoàn đó sẽ bị tổn thương nếu không muốn nói là có nguy cơ sụp đổ. Người hay đòi hỏi chắc chắn sẽ chẳng bao giờ tìm được niềm vui và hạnh phúc chân thật.
Kẻ gặp được niềm vui và hạnh phúc trong một cộng đoàn không phải là người được cộng đoàn dành cho nhiều ưu đãi, lợi lộc, hay địa vị, song là người biết sống dấn thân với cộng đoàn và cho cộng đoàn.
Người biết nghĩ đến ích chung, tha thiết với việc công sẽ là người đáng được tôn trọng và dễ dàng hoà hợp với tha nhân. Trái lại kẻ chỉ tìm ích riêng sẽ gây nên tình cảnh "khó sống" cho mọi người chung quanh. Họ không thể là môn đệ đích thật của Đức Kitô. Bởi vì người môn đệ đích thật sẽ không cứ lo tìm kiếm, bao bọc, chở che cho sự sống riêng mình, nhưng là dám đánh mất sự sống mình vì Nước Trời và vì tha nhân.
Người ta kể trong thời Chiến Quốc, khi quân nước Tề sang đánh nước Lỗ, lúc đến chỗ biên giới, bỗng thấy một người đàn bà, tay bồng một đứa bé, tay kia đang dắt đứa khác lớn hơn. Thấy quân giặc kéo tới, bà ta vội vàng bỏ đứa đang bồng trên tay xuống và bồng đứa bé kia lên, rồi chạy trốn vào núi.
Viên tướng nước Tề thấy lạ bèn cho lính đuổi theo bắt lại và hỏi : "Tại sao bà lại ẳm thằng lớn mà bỏ thằng nhỏ?" Người đàn bà thưa : "Đức nhỏ là con tôi, còn đứa lớn là con anh tôi. Vì quân lính kéo tới nhanh quá, lượng sức không thể bảo toàn được cả hai đứa, cho nên tôi đành phải bỏ con tôi lại."
Tướng nước Tề ngạc nhiên: "Con với mẹ là tình máu mủ ruột thịt rất gần. Nay bỏ con mình thì như cắt ruột mà cứu lấy con anh thì nghĩa là sao?" Người đàn bà trả lời : "Con tôi là tình riêng, con anh tôi là nghĩa công. Con đẻ tuy đau xót thật, nhưng đối với việc nghĩa thì biết tính làm sao. Tôi không thể nào sống mà chịu mang tiếng vô nghĩa giữa làng giữa xóm được.
Viên tướng nước Tề vội cho dừng quân lại và sai người về tâu với vua : "Nước Lỗ chưa thể đánh được. Vì quân ta vừa mới đến chỗ biên cương đã thấy con mụ đàn bà nơi xó rừng còn biết đặt tình riêng trên nghĩa công, thì huống chi là những bậc quan lại sĩ phu trong nước. Nên xin vua cho rút quân về."
Vua Tề cho là đúng và đồng ý lui quân.
Thế đó, một quốc gia, một cộng đoàn hay một gia đình sẽ rất vững chắc khi có những con người biết nghĩa đến kẻ khác, dám hy sinh quyền lợi riêng tư cho sứ mạnh và sự nghiệp chung. Không một sức mạnh nào của kẻ thù mà lại không chùn bước trước sức mạnh của đoàn kết yêu thương.
Hình ảnh của người mẹ bỏ rơi đứa con mang nặng đẻ đau của mình để cứu đứa con của người anh nhắc tôi về hình ảnh của một người Cha "bỏ rơi" người Con yêu dấu của mình để cứu vớt kẻ khác : Hình ảnh của một Thiên Cbúa đã dứt lòng hy sinh mạng Con, đến nỗi người Con đó phải thốt lên trong đau đớn tột cùng : "Lạy Cha, sao Cha bỏ con," một tiếng kêu xé lòng Cha. Nhưng chính nhờ sự hy sinh đó mà nhân loại đã được ơn giải thoát.
Thiên Chúa đã dâng hiến chính tình yêu giữa Cha và Con vì sự sống và hạnh phúc chung của toàn nhân loại. Thiết tưởng không có một tình yêu hay sự hy sinh nào lớn hơn tình yêu và hy sinh của Thiên Chúa.
Và tình yêu mời gọi đáp trả tình yêu. Thiên Chúa gọi mời bạn và tôi đáp trả tình yêu bằng cách sống như Ngài trong sự hiến dâng chính mình cho lợi ích của tha nhân và cộng đoàn.
Cách cụ thể, ta hãy cùng tự vấn : "Tôi có vì nghĩa công mà hy sinh ích riêng chưa? Tôi đã làm được gì cho giáo xứ? Tôi sẽ làm những gì cho cộng đoàn ? Tôi đã dấn thân cho ích lợi của đất nước và dân tộc chưa?
Trả lời bằng những quyết tâm chân thành là ta đang trở nên những người môn đệ chân chính của Đức Kitô rồi đó.
BÌNH AN
Lc 10, 1 - 2. 17 - 20
Lm Louis Thanh Minh
Cuộc sống con người trên trần gian không gì quý hơn sự bình an: nội giới cũng như ngoại giới, cá nhân cũng như xã hội. Có lắm tiền nhiều của nhưng thiếu bình an cũng chẳng sung sướng gì! Có tình song không có bình an cũng chỉ là đau khổ ê chề! Có quyền cao chức trọng mà chẳng có bình an thì cũng không có hạnh phúc.
Khi Chúa Hài nhi giáng sinh tại Bêlem, ca đoàn Thiên sứ đồng ca chúc : "Bình an dưới thế cho người thiện tâm". (Lc 2:14)
Sau khi Phục sinh, mỗi lần hiện ra với các tông đồ Đức Chúa Giêsu đều chào chúc : "Bình an cho các con!". Và trước khi về trời, Chúa còn hứa : "Thầy để lại cho chúng con sự bình an mà thế gian không ban được".
Đó là chính chủ đề của phần ngôn lễ hôm nay mà hội thánh muốn nhắc lòng chúng ta hướng đến : nơi bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia đã diễn ta một cảnh thái bình thịnh trị tuyệt vời Chúa tuôn đổ xuống thành Giêrusalem bằng những hình ảnh thật đẹp như : giòng sông, thác lũ, bú sữa... người mẹ nâng niu con thơ trên đầu gối, lòng các ngươi sẽ hân hoan, và nẩy nở như hoa cỏ đồng nội và các tôi tớ Chúa sẽ nhận biết bàn tay của người đã thực hiện những điều kỳ diệu.
Tiếp đến bài Phúc âm, Luca thuật lại việc Chúa tuyển chọn 72 môn đệ và sai đi truyền giáo ở các thôn làng và thành thị với lời huấn dụ : "Vào nhà nào chúng con hãy cầu chúc "bình an cho nhà này", nếu ở đó có ai đáng hưởng sự bình an, thì sự bình an sẽ ở với họ, bằng không sự bình an sẽ trở về với chúng con".
Quý độc giả thân mến, sự bình an là một báu vật vô giá của Thiên Chúa, chính Ngài là nguồn mạch bình an. Thiên Chúa chỉ ban sự bình an cho những ai có tâm hồn trong sạch, khiêm hạ và biết tín thác vào sự quan phòng của Ngài cũng như cho những người thiện tâm xây dựng hòa bình.
KHÍ CỤ BÌNH AN
Lc 10, 1 - 2. 17 - 20
Lm Vũ Minh Nghiễm, DCCT
Năm 1980, một tờ báo nọ có đăng một câu truyện lạ.
Một người đi chợ đậu xe trước cửa nhà hàng. Mua đồ xong trở ra xe, thì thấy một tấm giấy để trên chỗ ngồi với hàng chữ như sau:
"Thưa bác, tôi định ăn cắp xe của bác. Khi đang nổ máy, sắp trộm xe lái đi, tôi nhận thấy một tấm giấy gắn trên cửa xe, với hàng chữ : Bình an cho bạn. Tôi dùng tay lại, và suy nghĩ. Tôi lý luận rằng : Nếu tôi ăn cắp xe của bác, chắc chắn bác sẽ mất bình an. Và tôi cũng sẽ cảm thấy giao động. Nếu ăn cắp xe của bạn thì đây sẽ là lần đầu tiên tôi đi làm cái nghề này. Vậy, bình an cho bạn và bình an cho tôi. Lần sau khi đi chợ, bác nhớ khóa xe cẩn thận.
Ký tên:
Người dự tính ăn trộm
Câu chuyện lạ trên đây giúp chúng ta hiểu lời Chúa phán hôm nay trong Phúc âm: "Khi vào nhà nào, trước tiên các con hãy chúc bình an cho nhà đó. Nếu nhà nầy có con cái của sự bình an, thì sự bình an của các con chúc sẽ đậu trên người ấy, bằng không, sự bình an sẽ trở về với các con."
Người định ăn trộm kia phải là con cái của sự bình an, là một người có tâm hồn đoan chính, nên tấm bảng: "Bình an cho bạn", đã mang lại sự bình an cho anh ta.
Nhưng sự bình an của Đức Kitô mà Ngài dạy các môn đệ hãy chúc cho người khác, là thứ bình an nào ? Đức Kitô muốn nói gì, khi Ngài nói "Bình an cho các con?"
Thưa : Khi Kinh thánh dùng chữ bình an, thì sự bình an nầy có thể có 4 nghĩa.
Bình an theo nghĩa thứ nhứt, là nghĩa quân sự, tức là không có chiến tranh. Trên bình diện quốc gia, không có cuộc huynh đệ tương tàn. Trên bình diện quốc tế, không có việc nước nầy sát phạt nước kia. Bình an quân sự là nghĩa thứ nhứt.
Nghĩa thứ hai là nghĩa cá nhân. Khi chúng ta nói : "Hôm nay tôi cảm thấy tâm hồn thoải mái an hòa, đó là sự bình an cá nhân.
Nghĩa thứ ba là nghĩa tôn giáo. Kinh thánh dùng tiếng bình an, theo nghĩa tôn giáo nầy để chỉ một sự liên hệ giữa Thiên Chúa và chúng ta. Khi nói : "Tôi được bình an với Chúa", chúng ta chỉ sự bình an theo nghĩa thứ ba.
Sau hết, Kinh thánh dùng tiếng bình an để chỉ một trạng thái của thiên hạ trong đó mọi người được an hòa với Thiên Chúa, với những người chung quanh và với chính mình.
Đó là sự bình an của Đức Kitô. Đó là sự bình an mà Đức Kitô muốn nói khi Ngài phán:
"Thầy để lại sự bình an cho các con. Thầy ban bình an của Thầy cho các con." (Gn 14:27)
Trong thánh lễ, linh mục nhắc lại sự bình an đó trước khi rước lễ. Sự bình an nầy chính là sự thể hiện Nước Chúa trên trần gian, mỗi khi chúng ta đọc kinh Lạy Cha: Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến.. dưới đất cũng như trên trời".
Đó chính là sự bình an mà Đức Giêsu truyền cho các môn đệ đem đến cho mọi người trong thiên hạ đời bấy giờ. Đó là sự bình an mà Đức Giêsu truyền cho chúng ta mang đến cho mọi người trong thiên hạ hôm nay.
Ví dụ sau đây làm cho chúng ta hiểu được sứ điệp của Chúa hôm nay hơn chăng? Khi có cơn gió lớn miền nhiệt đới thổi trên Thái Bình Dương, người ta gọi là cơn tố (Typhon), nếu là thổi trên Đại Tây Dương, người ta gọi đó cơn Bão (hurricane).
Trong một cơn bão như vậy, thì có một trung tâm. Chính giữa trung tâm đó, có một nơi mà người Mỹ gọi là con mắt của cơn bão (eye of the hurricane). Trong khi ở chung quanh, cơn bão thổi lên ầm ầm, thì vùng trung tâm, tức là vùng con mắt, hoàn toàn yên lặng. Người đứng giữa trung tâm, ngước mắt lên, sẽ thấy trời quang mây tạnh, thấy mặt trời chói sáng, cảnh vật yên tĩnh như chẳng có việc gì xảy ra.
Con mắt hay là trung tâm của cơn bão là một hình ảnh Chúa muốn mặc cho mỗi thánh lễ, chẳng hạn thánh lễ Chúa nhựt hôm nay. Trong khi thế giới chung quanh chúng ta, biết bao những cơn bão tố xảy ra. Nào là cướp bóc, nào là nổi loạn, nào là chém giết lẫn nhau... thì trong thánh lễ giờ này, chúng ta được vui hưởng sự bình an của Đức Kitô, trong tình yêu thương của những người đồng đạo, đồng cảnh đồng thuyền...
Nhưng Chúa không muốn chúng ta ở lại giữa trung tâm của cơn bão tố. Sau khi thánhlễ hoàn tất, Chúa muốn cho chúng ta dấn thân vào trong giông tố, chia sẻ sự bình an của Chúa trong gia đình, trong cộng đoàn, trong toàn thế giới.
Chúng ta hãy thưa với Chúa như lời kinh Hòa bình rằng :
"Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lặng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm...
"Vào nhà nào, các con hãy chúc bình an cho nhà đó."
CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN
Lc 10, 1 - 2. 17 - 20
Lm Augustine, SJ
Một cậu bé 15 tuổi ngồi bên cạnh bố là người đang lái xe ngang qua một phi trường tí hon tại một thị trấn thuộc tiểu bang Ô-hai-ô (Ohio) của Hoa Kỳ, thì thình lình một phi cơ đang bay thấp mà người lái không còn kiểm soát được nữa, chúi mũi xuống đường. Thấy thế cậu bé hét lên: "Bố ơi, bố ơi! Dừng lại ngay!"
Vài phút sau, cậu bé lôi chàng phi công ra khỏi chiếc máy bay ngộ nạn. Đó là một chàng sinh viên 20 tuổi đang tập cất cánh và hạ cánh máy bay lên xuống. Chàng thanh niên ấy đã tắt thở trong tay cậu bé.
Vừa về tới nhà, cậu bé liền chạy lại ôm má vừa khóc vừa nói: "Mẹ ơi! Anh ấy là bạn con! Anh ấy chỉ mới có 20 tuổi!" Cậu bé rơi vào một cơn khủng hoảng tâm thần nên không ăn uống gì. Cậu liền vào phòng, đóng cửa lại và leo lên giường nằm.
Điều khiến cậu bé rơi vào cơn khủng hoảng là vì chính cậu đang cố công dành lấy bằng lái may bay cho bằng được sang năm ở tuổi 16. Cậu đi làm ngoài giờ ở một tiệm tạp hóa, kiếm được đồng nào liền dốc hết vào việc học tập lái máy bay. Bố mẹ cậu rất lo lắng về hậu quả của thảm kịch nói trên. Họ nghĩ thảm kịch ấy có thể gây hại không nhỏ cho con mình. Ông bà chưa rõ cậu bé 15 tuổi này còn dám tiếp tục học lái may bay nữa không. Nhưng ông bà đã nhất trí để cho cậu bé tự do quyết định về vấn đề đó.
Những đức tính của Chúa Giêsu
Hai ngày sau tấn thảm kịch nói trên, mẹ cậu mang bánh bích qui bà mới nướng lên cho cậu ăn. Bà nhìn vào ngăn kéo bàn học của con và thấy có một tập vở mở trang. Đó là tập vở cậu bé còn giữ lại từ hồi thơ ấu. Ngay ở trang đầu bà đọc thấy hàng chữ hoa: "ĐỨC TÍNH CỦA CHÚA GIÊSU". Kế đến, bà thấy con mình liệt kê những đức tính sau đây:
- Chúa Giêsu không hề phạm tội.
- Chúa Giêsu khiêm nhường và nâng đỡ người nghèo.
- Chúa không ích kỷ
- Chúa sống rất gần gũi với Thiên Chúa Cha là Cha của Người
Bà hiểu ngay con bà cũng biết theo gương Chúa Giêsu để cầu nguyện mỗi khi phải quyết định điều gì quan trọng. Thế là bà quay về phía con mà hỏi:
- Con quyết định thế nào về vấn đề học bay?
Cậu bé liền nhìn vào mắt mẹ mà trả lời:
- Thưa mẹ, con hy vọng rằng mẹ và bố sẽ hiểu cho con, nhưng với ơn Chúa giúp, con sẽ phải tiếp tục học bay.
Người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng
Cậu bé đó chính là Neil Armstrong ngày 20.7.1969 đã trở thành người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng.
Câu chuyện kể lại cho thấy con người của Đức Giêsu đã ảnh hưởng không nhỏ trên Neil Armstrong. Ngay từ thời thơ ấu, cậu đã biết chiêm ngưỡng cuộc đời Đức Giêsu. Rồi khi gặp gian nan thử thách, cậu đã không quên cậy dựa vào Đức Giêsu để lãnh lấy trách nhiệm cho tương lai đời mình.
Bài Tin Mừng hôm nay chủ yếu nói về những con người như Neil Armstrong, mà Thầy Giêsu chỉ định và sai đi cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Thầy sẽ đến (c.1). Những người ấy là loại người nào? Tại sao Thầy Giêsu chọn con số bảy mươi hai? Họ phải trở nên những con người như thế nào khi Thầy sai họ đi? Họ có đạt được điều Thầy chờ đợi nơi họ chăng?
Chỉ có thánh Luca ghi lại cuộc sai phái các môn đệ đợt hai này sau cuộc sai phái thứ nhất (Lc 9,1-6) liên quan tới Nhóm Mười Hai. Tác giả có thể dành cho đợt hai một ý nghĩa đặc biệt về sinh hoạt truyền giáo của Giáo Hội sau khi Đức Giêsu đã ra đi. Con số bảy mươi hai, theo các thầy ráp-bi của Do Thái giáo, chỉ về toàn cầu theo sách Sáng Thế chương 10 của bản văn Hy Lạp. Các môn đệ "được sai đi trước" (c.1) để chuẩn bị cho việc rao giảng thay vì đảm đang chính việc rao giảng. Họ được phái đi cứ từng hai người một để việc họ làm chứng về Đức Giêsu và về Nước Thiên Chúa mang tính cách chính thức (x. Mt 8,16). Nước Thiên Chúa phải do chính Thiên Chúa làm chủ. Do đó các môn đệ được cổ võ cầu nguyện để chính chủ mùa gặt sai thợ gặt đi gặt lúa về (c.2)
Tránh mọi ảo tưởng
Các môn đệ phải tránh mọi ảo tưởng. Trong thực tế họ phải kể mình như những con chiên ở giữa sói rừng nên phải hoàn toàn cậy dựa vào Chúa về tất cả những điều họ cần. Một số những điều Đức Giêsu căn dặn Nhóm Mười Hai (9,1-5) cũng được nhắc lại ở đây. Những người được sai đi phải ý thức về tính cấp bách của Tin Mừng, nên họ không được dừng lại thăm hỏi người này người kia vì đó là việc thường tốn phí nhiều thời giờ theo phong tục người Trung Đông.
Tin Mừng được công bố chính là Lời của Thiên Chúa. Lời đó không thể được kể như sứ điệp mà loài người có thể nhận hoặc khước từ tùy ý. Mọi người đều phải đối diện với ngày phán xét để nhận ra trách nhiệm của mình đối với Lời của Thiên Chúa.
Tên họ được ghi trên trời
Khi bảy mươi hai môn đệ đi sứ vụ trở về, họ lấy làm lạ về quyền lực đã được ban cho họ nhân danh Thầy Giêsu. Chính họ đã trừ được quỉ khỏi những người chúng ám. Như vậy là họ cùng với Thầy Giêsu đẩy lui được quyền bá chủ của quỉ thần trên mặt đất này. Thầy Giêsu xác nhận điều đó là đúng khi nói "Thầy đã thấy Satan như một tia chớp từ trời sa xuống." (c.18). Nhưng Thầy có ý đặt các môn đệ trong viễn tượng cánh chung với cuộc chiến thắng cuối cùng chính Thầy sẽ mang lại (Ga 12,31; Rm 16,20). Các môn đệ cần phải nhìn xa thấy rộng theo viễn tượng đó. Họ phải tránh cái nhìn thiển cận khiến họ dừng lại ở vinh quang và quyền lực trần thế mà quên rằng họ phải theo Thầy Giêsu lên Giêrusalem cho tới đỉnh Can-vê trước đã. Thầy khuyến cáo họ chỉ nên mừng vì tên họ đã được ghi trên trời mà thôi (c.20).
Toàn Giáo Hội được sai đến với toàn thế giới
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy bảy mươi hai môn đệ được sai phái thêm sau chuyến sai phái Nhóm Mười Hai (Lc 9,1-6) vì "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít" (Lc 10,2). Bài Tin Mừng cũng hàm ý cho thấy việc tông đồ không phải chỉ là việc giới hạn giữa mười hai môn đệ đầu tiên mà Đức Giêsu sai phái đi. Đó là việc của toàn thể Giáo Hội như sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo dạy (số 863). Toàn Giáo Hội được sai đến với toàn thế giới. Mọi thành viên của Giáo Hội đều được dự phần vào cuộc sai phái chung đó tuy mỗi người mỗi khác. "Chính ơn gọi Kitô hữu tự bản chất đã là ơn gọi để làm tông đồ" theo lời Công Đồng Vaticanô II (Hoạt Động Tông Đồ, số 2). Thực ra mọi hoạt động của Giáo Hội là Nhiệm Thể của Chúa Kitô nhằm trải rộng vương quyền của Chúa Kitô trên khắp mặt đất, đều được gọi là việc tông đồ.
"Chính Đức Kitô được Chúa Cha sai đi là nguồn suối cũng như nguồn gốc của toàn thể công cuộc tông đồ của Giáo Hội" (Hoạt Động Tông Đồ, số 4). Việc tông đồ của các thừa tác viên có chức thánh cũng như của các Kitô hữu giáo dân, mang lại kết quả là do họ sống gắn bó với Đức Kitô. Việc tông đồ mang những hình thức rất khác nhau do những ơn gọi khác nhau và những hồng ân khác nhau từ Chúa Thánh Linh. Nhưng đức ái luôn là linh hồn của mọi việc tông đồ, nhất là đức ái phát sinh do Thánh Thể.
CHỨNG NHÂN NƯỚC TRỜI
Lc 10, 1 - 2. 17 - 20
Lm Trọng Thưởng, CMC
Một mục sư Tin lành mới đến nhậm chức tại giáo xứ. Sau buổi lễ sáng Chúa Nhật, mục sư đứng cuối nhà thờ để chào đón giáo dân. Nhiều người lần lượt xếp hàng đứng bắt tay. Đa số đều rộng lượng bày tỏ những lời khen khuyến khích, chỉ trừ có một người nói rằng: "Bài giảng của mục sư nghe thật nhàm chán và buồn ngủ!" Một lúc sau người ấy lại xếp hàng bắt tay và nói: "Tôi nghĩ rằng mục sư đã không để giờ chuẩn bị bài giảng." Sau đó người kia lại xuất hiện trước mặt mục sư và nói: "Lần này mục sư thật sự làm hỏng chuyện rồi. Ông thật sự chẳng có gì để nói cả." Vị mục sư không chịu nổi nữa, liền đến một cụ sáu hỏi về con người kỳ cục kia. Cụ sáu nói rằng: "Đừng để tâm đến ông ta. Ông ấy chậm chạp, không có suy nghĩ. Ông ta chỉ lặp lại những điều người khác mớm cho thôi."
Khi đi rao giảng, làm sao cho người nghe nhận được sứ điệp là điều quan trọng. Trong bài Phúc âm hôm nay Chúa Kitô chọn 72 môn đệ và sai họ đi rao giảng rằng: "Nước Trời đã gần đến." Chúa không muốn các môn đệ chỉ như những con vẹt, lặp lại những gì Ngài chỉ dạy, nhưng muốn các ngài phải sống sứ điệp mình rao giảng, trở nên một người rao giảng Tin Mừng thật sự. Người rao giảng Nước Trời phải là người siêu thoát với mọi ràng buộc của trần gian. Nếu người môn đệ của Chúa rêu rao trên miệng nhiều điều tốt đẹp về nước trời, nhưng trên mình mặc quần áo xa hoa lộng lẫy, đeo lủng củng các thứ dây vàng, nhẫn vàng, với mọi thứ của cải sang trọng khác, ai có thể tin vào Nước Trời do lối sống như thế? Hoặc một người cũng môi miệng đó rêu rao chiêu bài bác ái, xây dựng, nhưng mặt khác lại đi chửi bới thoá mạ người khác. Làm sao có thể tin vào loại người như thế? Làm sao có thể tin rằng người đó không trở mặt chửi bới những người thân quen chung quanh?
Vì thế Chúa đã truyền cho các môn đệ khi đi rao giảng phải sống tinh thần khó nghèo, siêu thoát khỏi mọi ràng buộc, tham vọng trần gian, để có thể hướng lòng mình cũng như người nghe về Nước Trời. Kết quả của cuộc sống ly thoát mọi ràng buộc là sự bình an đích thực, mà người môn đệ nắm chắc trong tâm hồn và thông ban bình an cho những người chung quanh.
Sứ mạng rao giảng Tin Mừng Chúa đã trao ban cho 72 môn đệ và còn tiếp tục trao ban cho mỗi người Kitô hữu. Chúng ta hãy rao giảng bằng lời nói khi có thể, nhưng trên hết đời sống mỗi người phải là lời giảng hùng hồn nhất. Hãy siêu thoát khỏi những tham vọng của cải, quyền lực, lợi lộc cá nhân, bè phái" đó là những ràng buộc của trần gian khiến người Kitô hữu không thể là chứng nhân đích thực cho Nước Trời. Hãy một lòng xây dựng cho nước trời bằng tấm lòng ngay chính, không bè phái, không chia rẽ, không đối lập" hãy sẵn sàng hy sinh quên mình, dẹp bỏ ích kỷ cá nhân để đóng góp cho cộng đoàn, giáo xứ, cho Giáo Hội.
LÚA CHÍN ĐẦY ĐỒNG
Lc 10, 1 - 2. 17 - 20
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT
Mỗi lần nghe bài hát xem ra đã quá quen thuộc từ bao năm nay :" Lạy Chúa xưa Chúa đã phán, lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt. Chúa hãy ban nhiều thợ biết nhiệt thành, để nước Chúa rộng lan khắp nơi, xin Chúa ban cho đoàn chúng con nên tông đồ mở nước Chúa trời ", chúng ta vẫn như cảm thấy có một cái gì đó thôi thúc chúng ta hăng say phục vụ, mau mắn loan truyền Tin Mừng, giới Đức Giêsu Kitô cho nhiều người. Thế giới hôm nay vẫn còn quá nhiều người chưa nhận ra Chúa, vẫn còn không biết bao nhiêu người không được nghe Lời Chúa, không được loan báo Tin Mừng cứu độ. Lời của Chúa Giêsu vẫn như đang nói với chúng ta:" Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt "( Lc 10, 2 ).
Thử làm con tính nhẩm, chúng ta sẽ thấy rất ngạc nhiên và lạ lùng vì trên thế giới hiện giờ có hơn 7 tỷ người, nhưng mới có hơn 1 tỷ biết Chúa. Tại Á Châu, một lục địa rộng lớn chiếm 2/3 dân số thế giới, nhưng số người theo Chúa, gia nhập đạo Công giáo chỉ đếm trên đầu ngón tay, chưa tới 3% người theo Kitô giáo. Thế giới quả thực rất mênh mông, rộng lớn, nhiều mảnh đất, nhiều nước, nhiều lục địa hầu như vẫn còn đang bị bỏ hoang không thợ gặt. Các đồng lúa chín vàng trĩu hạt, nhưng thợ gặt lại quá ít oi, thiếu thốn thợ gặt trầm trọng. Thế giới chúng ta đang sống xem ra vẫn còn bóng đêm dầy đặc bao phủ, vẫn còn chiến tranh, thù nghịch, chia rẽ và sự dữ bủa vây. Do đó, thế giới vẫn cần ánh sáng của tình thương, của bao dung, tha thứ. Chính vì thế, không lạ gì khi Chúa Giêsu đã nói :" Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói"( Lc 10, 3 ). Cuộc ra đi của các tông đồ xem ra phải đối diện với trăm ngàn thử thách, phải đương đầu với những khó khăn nguy hiểm, với túng thiếu, với bấp bênh vv...Vì Chúa nói :" Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép" ( Lc 10, 4 ). Tuy vậy, các tông đồ và các sứ giả Tin Mừng vẫn phải ra đi. Ra đi chứ không ở lại, ra đi chứ không ù lì, đứng im tại chỗ. Ra đi là một lệnh truyền, chứ không chỉ là lời khuyên mà thôi. Chúa Giêsu nêu gương cho các tông đồ và Giáo Hội về kiếp sống của Người ở trần gian. Cuộc đời của Người là một cuộc hành trình không ngơi nghỉ. Từ lúc sinh ra cho đến khi chịu treo trên thập giá, Chúa Giêsu luôn chấp nhận sự thiếu thốn, bấp bênh :" Chồn có hang, chim có tổ, con người không nơi tựa đầu...". Đời của Chúa Giêsu là một cuộc lên đường không ngừng.
Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt : đó là hoàn cảnh của thế giới hôm nay. Một thế giới đông người, nhưng thiếu ánh sáng Tin Mừng. Công đồng Vaticanô II đã khẳng định :"...Hội Thánh lữ hành phải truyền giáo " ( TG 2 ). Không ai được miễn trừ lệnh truyền của Chúa Giêsu :" Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần"( Mt 28, 19 ). Lệnh truyền của Chúa Giêsu được vang lên không chỉ đối với các môn đệ, các tông đồ khi xưa mà nó còn vang vọng tới mọi người trong mọi thời đại. Ra đi để đem sự an bình cho con người, cho mọi người vì sự bình an do chính Thiên Chúa trao ban nhưng không cho nhân lọai. Sự bình an mà chính các thiên thần đã hát vang ngày sinh nhật của Chúa Giêsu :" Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm" ( Lc 2, 14 ). Giáo Hội lữ hành luôn có sứ mạng loan báo ơn cứu độ và mọi người luôn được mời gọi loan báo Nước Thiên Chúa và chữa lành mọi bệnh họan tật nguyền. Đức Giáo Hòang Gioan Phaolô II đã nói :" Không một ai tin Đức Giêsu, không một tổ chức nào trong Hội Thánh được miễn trừ sứ mạng cao cả : " Loan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc " ( Sứ vụ Đấng Cứu Thế, 3 ). Thánh Phaolô cũng đã không ngần ngại thốt lên:" Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng "( 1 Co 9, 16 ). Chúa Giêsu sai các môn đệ và chúng ta đi rao giảng Tin Mừng. Giáo Hội mời gọi mọi Kitô hữu ra đi làm chứng cho Đức Giêsu phục sinh. Chính vì thế, ơn gọi của người Kitô hữu là ra đi thả lưới, ra đi làm chứng cho Nước Trời, nước công chính và bình an.
Lạy Chúa, xin giúp cho chúng con trở nên những sứ giả nhiệt thành loan báo Tin Mừng và giới thiệu Nước Thiên Chúa. Amen.
NÀY THẤY SAI ANH EM ĐI
Lc 10, 1 - 2. 17 - 20
Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb
Trên đường lên Giêrusalem, sau khi đề ra những điều kiện để trở nên môn đệ đích thực, Chúa Giêsu liền sai 72 môn đệ đi rao giảng Tin mừng. Cũng như nhóm 12, các môn đệ này đã từ bỏ mọi sự, đáp ứng được những đòi hỏi, những điều kiện mà Chúa đưa ra. Giờ đây, chính các ông cũng sẽ rời xa Thầy mình để ra đi loan báo Tin mừng cứu rỗi cho muôn dân theo đúng lệnh truyền của Chúa.
Lời căn dặn của Chúa Giêsu khi sai 72 môn đệ ra đi so với những lời Người dùng trước đó để nói với 12 Tông đồ chi tiết và rõ ràng hơn nhiều. Lý do để Chúa sai các ông đi rao giảng Tin mừng là vì "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít". Và vì thế, Chúa Giêsu mời gọi các ông tham dự vào sứ mệnh rao truyền Nước Thiên Chúa cũng như gia tăng việc cầu nguyện không ngừng để xin Chúa Cha sai nhiều thợ lành nghề đến đồng lúa chín vàng đang chờ người thu hoạch.
Chúa Giêsu đã không ngần ngại loan báo cho các môn đệ biết trước những gian nan khốn khó đang sẵn chờ các ông ở phía trước. Hành trình của các ông ra đi được ví như "chiên con đi vào giữa bầy sói". Sứ giả của Thiên Chúa một khi phục mệnh ra đi thì cần phải chấp nhận đi vào những hoàn cảnh khó khăn và thử thách, đi đến những nơi mình không muốn, và ngay cả liều mất mạng sống nữa. Họ chấp nhận những thử thách gian lao, là vì, đối với họ, niềm vui chính là được chính Chúa Giêsu tin tưởng trao phó cho công việc loan báo sứ điệp Tin mừng- sứ điệp của tình yêu. Họ vui mừng và tự do chấp nhận ra đi vì họ cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa mời gọi và thúc bách họ. Họ hoàn toàn tự do và vui vẻ ra đi bởi họ hiểu rằng tình yêu là một lời mời gọi chứ không bao giờ là một sự cưỡng bức. Thế nên, vâng lời Thiên Chúa tình yêu, họ ra đi....
Hành trang của các nhà truyền giáo cũng được Chúa Giêsu giản lược hết bao có thể. "Đừng mang theo túi tiền, bao bị hay giày dép". Hẳn chúng ta biết đây chính là sứ mệnh đòi hỏi gắt gao, thúc bách người môn đệ phải sống ngay lập tức thái độ từ bỏ mọi sự và tin tưởng phó thác vào tay Chúa quan phòng. Thật thế, không mang theo túi tiền, tức là người môn đệ sẽ cảm nhận một cuộc sống bấp bênh, không biết ngày mai sẽ ra sao, tương lai dường như không được đảm bảo; không mang bao bị và giày dép là nhằm tránh đi những thứ đồ đạc cồng kềnh, không cần thiết và tránh đi những tiện nghi thường dùng; cũng đừng chào hỏi ai dọc đường, tức là đừng quá lãng phí thời gian vì cách chào theo kiểu phương Đông thường dài dòng mà sứ vụ rao giảng Tin mừng thì đang khẩn cấp. Sứ mệnh ra đi của các môn đệ là một sứ mệnh không biên giới. Các ông được sai đến mọi nơi để mang đến cho người dân nơi đó quà tặng Bình an của Đấng Thiên sai, lời chúc lành từ trời mà Thiên Chúa muốn ban tặng cho con người.
"Họ ra đi, mang hạt giống vãi gieo, lúc trở về, reo vui hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng" (Tv 125, 6). Tác giả thánh vịnh diễn tả thật đúng tâm trạng của 72 môn đệ về những gì các ông đã thực hiện khi vâng lệnh Chúa ra đi loan báo Tin mừng. Các ông vui mừng hớn hở vì thành quả do sứ vụ rao giảng Tin mừng mang lại. Đồng thời các ông còn cảm nghiệm hiệu quả nhiệm lạ từ quyền năng uy quyền của Thầy mình. "Nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng khuất phục chúng con". Có thể đối với các ông, thành quả của những chuyến "ra khơi", và những ơn ích do Chúa ân ban mà mắt các ông được chứng kiến là niềm hạnh phúc tột cùng rồi. Thế nhưng, với Chúa Giêsu, đó chưa phải là đỉnh điểm của hạnh phúc. Thật vậy, Chúa Giêsu tiếp tục giúp các ông nhận thức tầm quan trọng sâu xa từ những gì các ông đã làm vì danh Chúa cho nhân trần. Đồng thời Người cũng khai mở cho các ông biết nguồn gốc quyền năng mà các ông đã có dịp cảm nghiệm, tất cả đều do ân huệ nhưng không của Thiên Chúa muốn qua các ông ban tặng cho con người. Chúa Giêsu còn cho các ông biết rằng, niềm hạnh phúc vĩnh cửu, niềm vui của các ông chính là "tên của anh em được ghi trên trời". Còn hạnh phúc nào hơn hạnh phúc này, còn thành quả và ân phúc nào hơn đặc ân vô biên mà Thiên Chúa đã ban tặng cho các ông sau khi các ông đã chu toàn lệnh truyền của Chúa, đến với muôn dân loan báo Tin mừng cứu rỗi? Đó chính là nguồn hạnh phúc đích thực mà Chúa muốn trao ban cho hết những ai xả thân vì Tin mừng.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta theo chân các môn đệ tiếp tục ra đi làm chứng cho tình yêu Chúa Kytô giữa lòng nhân loại. Bản chất của Giáo hội Chúa Kytô chính là sứ vụ truyền giáo. Vì thế, chúng ta không ngừng cầu xin Chúa ban cho Giáo hội thêm nhiều tâm hồn quảng đại đáp lại tiếng Chúa kêu mời. Xin Chúa cho mỗi người trong chúng ta ý thức hơn nữa sứ mạng mà Chúa và Giáo hội mời gọi là "Hãy ra khơi" rao giảng Tình yêu Thiên Chúa cho muôn người.
NHƯ NGƯỜI MẸ HIỀN
Lc 10, 1 - 2. 17 - 20
Lm. Jude Siciliano, OP.
Đọc bản văn tiếng Việt, chúng ta khó có thể nhận ra ngụ ý của Isaia đệ tam trong bài đọc 1 hôm nay. Thực ra, trong nguyên gốc thì tác giả dùng tới ba thì: quá khứ, hiện tại, tương lai. Chính ở trong cách dùng "thì" này mà ý nghĩa của sứ điệp được rõ ràng, và nhờ đó độc giả của ông nhận ra những gì đã qua, nhưng chỉ ở hiện tại và hy vong ở tương lai. Bản văn nói đến cả hai nội dung vui mừng và buồn đau, nhưng ở trong các giai đọan khác nhau: Quá khứ, hiện tại thì đau buồn, chua xót và ân hận, nhưng tương lai đầy hy vọng và ủi an.
Giêrusalem và dân Do Thái đã bại trận tan hoang. Dân số giảm thê thảm vì những người tài giỏi, khéo chân tay, sản xuất nhiều đều bị lùa đi đày sang Babylone. Từ đó họ hướng về Giêrusalem và quê hương mà khóc than, nhớ nhung. Isaia gióng tiếng an ủi họ nhân danh Thiên Chúa: "Đức Chúa phán thế này: Hãy vui mừng với Giêrusalem, hãy vì Thành đô mà hoan hỉ, hỡi tất cả những người đã than khóc Thành đô." Họ sẽ được trở về Giêrusalem, được giải thóat khỏi những nhục nhằn của kiếp sống nô lệ trên đất khách quê người. Tuy nhiên cuộc trở về của họ còn in đậm nét u sầu khi nhìn thấy đổ nát. Và điều làm cho đau xót tăng thêm là trách nhiệm của tuyển dân, nhất là của những thủ lãnh cầm quyền. Điều họ trông thấy trước mắt là hậu quả của phản bội, tội lỗi, bất trung với Giao Ước mà cha ông đã ký kết với Giavê.
Thật đau đớn biết bao những hậu quả của lãnh đạo sai lầm và lựa chọn tội lỗi. Đây cũng là kinh nghiệm cảnh cáo các linh hồn mọi nơi mọi thời. Chúng ta chẳng những cảm nghiệm tan nát về tội lỗi cá thể, nhưng còn chứng kiến tai họa, đổ vỡ cộng đòan, xã hội, quốc gia, quốc tế nữa. Những cuộc bại trận, dịch họa phải chăng là do tội lỗi chúng ta gây nên? Chúng ta không thể trốn tránh trách nhiệm chung vì những tan rã ấy. Tội của một xã hội không những bày tỏ trong chia rẽ, chiến tranh, hận thù, bạo lực, cô lập của xã hội ấy mà còn ảnh hưởng đến xã hội tòan cầu. Thí dụ, lạm dụng tài nguyên quá đáng, khí thải chất độc vào môi trường sinh thái của trái đất, sản xuất ma túy, thuốc phiện vô lương tâm ảnh hưởng nguy hại đến tòan thể nhân lọai, chứ không riêng một đất nước nào!
Chẳng khó mà xác quyết lỗi lầm đối với những người gánh chịu thân phận tha hương khi nhìn thấy cảnh điêu tàn Giêrusalem và họ than khóc vì quá khứ của mình. Nhưng rất khó cho chúng ta nhận ra sai lầm và trách nhiệm đối với các thế hệ tương lai!
Bài đọc 1 hôm nay trích từ chương cuối cùng của Isaia đệ tam (Trito-Isaia) thông điệp sau hết cho những người sống sót từ cuộc lưu đày trở về. Nó không phải là những lời khiển trách, nhưng an ủi vỗ về. Không phải là "nhìn xem đấy, tội lỗi của dân gây ra" mà là sấm ngôn của hy vọng và cứu vớt bằng các hình ảnh cụ thể: Giêrusalem sẽ được phục hồi, xứ sở được xây dựng lại: "Này Ta tuôn đổ xuống Thành đô ơn thái bình tựa dòng sông cả và Ta khiến của cải chư dân chảy về tràn lan như thác vỡ bờ". Việc phục hồi bất khả thi sẽ trở thành hiện thực. Dĩ nhiên không phải là do bàn tay lòai người, mà do quyền năng của Thiên Chúa. Ngài sẽ xây dựng lại Giêrusalem huy hòang rực rỡ hơn cũ. Isaia đệ tam tuyên bố như vậy: "Để được Thành đô cho hưởng trọn niềm an ủi, được thỏa thích nếm mùi sung mãn vinh quang, như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ".
Isaia chuyển hướng đột ngột trong việc công bố tin vui: Chẳng phải Giêrusalem an ủi các con cái mình. Lúc này họ đang than khóc trước hoang tàn, mà là Thiên Chúa sẽ là bảo mẫu của họ qua Giêrusalem: "Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy". Khi tôi rao giảng trong các nhà tù, tôi cảm nghiệm thất bại mỗi khi đưa ra hình ảnh người "cha" để tượng trưng Thiên Chúa - mặc dù Tân Ước luôn dùng hình ảnh ấy. Bởi vì tôi nhận ra rằng các phạm nhân thường mặc cảm về bố của họ. Họ tưởng tượng lại những lúc bị đánh đập, bỏ đói, vũ phu, trừng phạt nghiêm nghị. Nhưng hình ảnh người 'mẹ' thì luôn thành công. Bởi vì bà luôn dịu dàng, tha thứ, khích lệ, không khước từ cho nên họ cảm thấy an lòng.
Vậy nếu tuần tới, được giảng lễ cho họ, tôi sẽ lợi dụng tối đa tâm lý này của bài đọc 1 mà giảng giải. Tôi nắm chắc kết quả trong việc cho họ ấn tượng mạnh về Thiên Chúa yêu thương, vỗ về những số phận lạc lòai. Nên chăng chúng ta theo đường hướng này, không những cho các phạm nhân trong nhà tù, nhưng cho tất cả những linh hồn đang bị giam hãm trong các kiểu "khám đường" khác nữa! Thế giới tân thời nhiều người trẻ đang bị ám ảnh bởi quyền lực độc tài, chuyên chính, đòi hỏi. Họ cảm thấy ngay cả trong gia đình: bị bố bỏ rơi, lạc lõng, hiểu lầm, vô cảm, không chút triều mến! Họ và chúng ta cần được nghe lời Thiên Chúa đầy đủ như bài đọc hôm nay! Thiên Chúa là hình ảnh người mẹ luôn chăm sóc vỗ về. Chúng ta cần nghe Thiên Chúa cho mình bú no "bầu sữa mẹ" khi bị thế gian vùi giập, khổ đau, chứ không cần "cải tạo" để kiếm được yêu thương, thông cảm, tha thứ. Ai mà chẳng có lúc rơi vào những hòan cảnh như vậy? Chúng ta cần những người mẹ biết lắng nghe, thấu hiểu và chạy đến chạn đồ ăn thức uống lấy cho chiếc bánh nhà làm lấy!
Tất cả những điều này, Thiên Chúa làm hôm nay, trên bàn thờ, trong bí tích Thánh Thể. Xin tưởng tượng ông Kha-Luân-Bố vui mừng biết bao khi khám phá Châu Mỹ năm 1492. Xin tưởng tượng các môn đệ phấn khởi biết mấy khi rao giảng thành công trở về thuật lại cho Chúa Giêsu nghe!
Câu trả lời của Chúa Giêsu là: "Thầy đã xem thấy Satan như một tia chớp từ trời sa xuống". Nghĩa là hắn thất bại hòan tòan trước lời rao giảng của 72 môn đệ. Nhưng niềm vui của Kha Luân Bố làm sao sánh được với niềm vui của Thầy trò Chúa Giêsu? Niềm vui của Thầy trò Chúa Giêsu hệ tại truyền thông cho thế giới trầm luân Tin mừng cứu độ và sự sống vĩnh hằng. Ông Kha Luân Bố chẳng qua vì lợi lộc đời này, tương tự như các khoa học gia hôm nay khám phá ra các sáng chế, làm thăng tiến đời sống vật chất. Nhưng niềm vui rao giảng Tin mừng và ơn cứu độ lớn hơn nhiều và cũng thuộc chúng ta, và có thể đạt tới được nếu chúng ta triệt để trung thành với ơn gọi. Vì thế lời cầu nguyện hôm nay là: Lạy Thiên Chúa tòan năng, chúng con nài xin Chúa giải thóat chúng con khỏi mọi tội lỗi và dẫn đưa chúng con vào niềm vui muôn đời. Điều này chúng ta có thể chứng kiến cụ thể nơi những linh hồn làm việc tông đồ nhiệt thành và đắc lực.
Thực vậy, bài đọc 1 và 3 liên hòan với nhau. Bài này soi rọi ánh sáng vui mừng lên bài kia. Niềm vui Isaia III minh họa cho niềm vui các môn đệ khi trở về từ sứ vụ rao giảng. Chúa Giêsu là Giêrusalem mới an ủi, khích lệ, nuôi dưỡng những kẻ lưu đày trần gian. Ngài đã làm trọn lời tiên báo của Isaia: "Thiên Chúa sẽ biểu dương quyền lực của Người cho các tôi tớ biết" Đức Giêsu đã làm như vậy thông qua 72 môn đệ. Liệu chúng ta có được sai đi như họ? Câu trả lời là có khi chúng ta lãnh nhận các bí tích, nhất là Rửa tội và Thêm sức. Chúng ta thực sự được sai đi trước cánh đồng bao la của thế giới. Và Ngài cũng nói với chúng ta: "Lúa chín đầy đồng và thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. Anh em hãy ra đi. Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói". Như vậy, thực tế, chúng ta là hiệu quả của lời cầu nguyện và phân công của Chúa Giêsu, của Hội thánh, của các Kitô hữu nhiệt thành. Xin đừng phản bội ơn gọi kẻo mắc tội trước mặt Thiên Chúa. Nhìn vào sinh họat của từng giáo xứ, chúng ta đều thấy gương sáng truyền giáo trước mắt. Lễ sinh, đọc sách, chuẩn bị phụng vụ, quét nhà thờ, kéo chuông, thăm viếng kẻ liệt, giúp đỡ những gia đình gặp khó khăn... Mỗi người mỗi việc góp tay vào sinh họat chung. Chẳng lẽ họ không cộng tác với Chúa Giêsu trên cánh đồng truyền giáo hay sao?
Và dĩ nhiên, họ cũng gặp những khó khăn: "Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói". Không phải lúc nào các thợ gặt của Chúa đều kinh nghiệm thuận lợi! Ngay cả những Tông đồ đã từng nếm mùi thất bại. Họ tan tác, thất vong khi Thầy bị hành hình và chết tất tưởi trên giá gỗ. Chúng ta không thể gặp may mắn hơn "đầy tớ không hơn chủ". Tuy nhiên, chúng ta luôn phải giữ vững niềm vui: Thánh Phao Lô trong bài đọc 2 viết: "Thưa anh em, ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngòai thập giác Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!" Lý do vì thập giá ấy là dấu chỉ chắc chắn tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa đối với ông, với nhân lọai, chúng ta và cũng là bằng chứng của ông và của chúng ta đối với Thiên Chúa và tha nhân. Không hiểu quí vị nghĩ sao về tư tưởng này? Đời sống ngại hy sinh, yêu thích nhung lụa, tiện nghi xác thịt là câu trả lời của vô số người thời nay.
Điều chắc chắn là chẳng ai yêu thích khó khăn, đau khổ không lý do. Chúng ta phải yêu mến sự sống, giữ gìn sức khỏe để làm vườn nho cho Thiên Chúa. Chính Đức Kitô trong vườn Cây Dầu đã xin Thiên Chúa Cha cho mình khỏi chết. Nhưng khi cần thiết thì chúng ta làm những hy sinh, ngay cả tính mạng, Thánh ý Chúa là tuyệt đối. Nhưng nếu không tập dượt trước thì làm thế nào chúng ta sẵn sàng hy sinh? Cứ ăn ở nhung lụa, rồi bỗng dưng xả thân hy sinh được ngay thì chỉ là phép lạ. Mà phép lạ hiếm lắm. Người ta phải tập luyện hy sinh để thành tập quán, thói quen. Chính vì vậy, mà Phúc Am hôm nay, Chúa sai môn đệ đi rao giảng với điều kiện: Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường, nhưng hãy nói bình an cho nhà này." Nghĩa là họ không nên mang theo thứ chi ngòai Chúa Giêsu.
Vừa qua đài Chân lý Á Châu kể câu chuyện vui liên quan đến đề tài hôm nay. Xin ghi lại để suy gẫm: Có hai tu sĩ được sai đi loan báo Tin mừng. Một người vui vẻ đi ngay. Người khác đòi hỏi bề trên cho hành lý, tiền nong. Ông ta không chịu đi nếu không được chu cấp, buộc lòng bề trên phải cho ít tiền. Đến quãng sông vắng, trời tối, hai ông định ngủ lại bờ sông nhưng nguy hiểm vì nhiều thú dữ. Ông có tiền liền gọi đò thuê đưa sang sông. Tới nơi, họ tìm được quán trọ an tòan. Ông có tiền liền nói với bạn: Thấy chưa! Không có tiền làm sao qua sông và được thế này? Người bạn trả lời: "đúng là vì Thiên Chúa quan phòng cho anh có tiền nên tôi qua được". Hai thầy tu đều có lý cả. Ngày nay tiền bạc là quan trọng, đi đâu cũng phải dùng, khắp nơi đều thu lệ phí, qua cầu, đường, quán trọ, xa lộ, nhà hàng, vi tính... Không có tiền thi hành sứ vụ thế nào? Nhưng tu sĩ thứ nhất nhiều lý hơn, vì Lời Chúa là sự thật tuyệt đối và lịch sử Giáo hội đã chứng minh.
Công việc Chúa truyền làm đòi hỏi người ta phải hòan tòan cậy nhờ vào Thiên Chúa, tự thân, môn đệ chẳng làm được. Công việc là của Chúa, hiệu quả cũng là của Thiên Chúa, trách nhiệm thực hiện vẫn là của Ngài. Hãy để Thiên Chúa là Thiên Chúa Tòan năng. Xin đừng đảm nhận trách nhiệm về mình kẻo sinh lòng kêu ngạo. Chúng ta chỉ là đại sứ của Ngài, làm việc cho Ngài, hưởng bổng Ngài trả, chẳng liên hệ chi tới chúng ta. Tu sĩ thứ hai đã tự đảm nhận công việc cho mình. Đó là thái độ chúng ta hôm nay. Liệu có sai lầm không? Lời đầu tiên tôi phải nói với chủ nhà là: Bình an cho nhà này. Làm sao tôi có thể nói như vậy, nếu không đem Chúa Giêsu đi theo? Cho nên chúng ta phải triệt để vâng theo lời chỉ dẫn của Chúa Giêsu, tinh thần của Ngài sẽ giải quyết tất cả. Nguyện xin Ngài giúp đỡ chúng ta, những người rao giảng Lời Chúa cho thế gian. Amen.
ĐỒNG LÚA MÊNH MÔNG
Lc 10, 1 - 2. 17 - 20
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Thế giới thật mênh mông, thênh thang và rộng lớn.Nơi đâu cũng có người, nơi đâu Tin Mừng cũng cần phải được rao giảng. Thật vậy, cánh đồng truyền giáo lúc nào cũng bao la bát ngát, Chúa Giêsu đã gợi ý cho các môn đệ: " Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít " ( Lc 10, 2 ). Do đó, lệnh truyền giáo của Chúa quả lúc nào cũng có ý nghĩa: " Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ...mà làm cho nhiều người trở thành môn đệ "...
Đứng trước đồng lúa mênh mông, Chúa Giêsu đã thấy mọi vấn đề khó khăn của việc loan báo Tin Mừng và trách nhiệm, vai trò của những môn đệ của Chúa, nên Ngài đã sai các môn đệ: " anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói " ( Lc 10, 3 ). Tuy giống như chiên ở giữa sói rừng nghĩa là các môn đệ, các tông đồ sẽ gặp khó khăn, sống bấp bênh, không được đảm bảo: " Không được mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép. Không được lân la, trò chuyện, chào hỏi ai dọc đường " ( Lc 10, 4b ). Chúa dặn các môn đệ ra đi truyền giáo phải sống hiền lành và siêu thoát. Chúa cho các môn đệ thấy thi hành sứ mạng rao giảng không thể lệ thuộc vào của cải ở trần gian, không bám lấy những gì chóng qua, không phí phạm thời giờ vì những chuyện phù phiếm ở đời, đơn sơ đón nhận sự giúp đỡ của người khác về ăn ở, tôn trọng việc tin hay không tin của kẻ khác, cứ kiên nhẫn chờ đợi, phó thác, cậy trông vào Chúa và sự tác động của Chúa Thánh Thần. Chúa nói với các môn đệ: " Anh em hãy ra đi ". Ra đi có nghĩa là không ở lại, không bám víu vào bất cứ sự gì chóng qua, mà ra đi là đi mãi, đi hoài, đi không ngừng và loan báo Tin Mừng cho tới khi không còn hiện diện ở thế giới này nữa. Chúa Giêsu đã làm gương cho các môn đệ vì Ngài được sinh ra ngoài đồng, sống và loan báo Nước Thiên Chúa ngoài đường, không nhà, không cửa, không nơi tựa đầu. Đời của Chúa là một cuộc hành trình không ngừng. Ngài đã làm mọi việc, đã rao giảng và chết ở ngoài đường, ở trên đồi vắng. Chúa Giêsu đã không lên đường và không ngừng ra đi. Chúa dạy các môn đệ và mọi người phải truyền giáo, phải loan báo Tin Mừng, không ai được lẩn trốn trách nhiệm rao giảng Tin Mừng. Từ Chúa Giêsu cho đến ngày nay, dân Chúa đã không ngừng lên đường và ra đi. Hãy nhìn một cách tổng quát cánh đồng thế giới ngày nay: cả nhân loại sống trên mọi nước cho tới giờ phút này đã hơn 7 tỷ người, người tin vào Chúa kể cả Công giáo, Tin lành, Chính thống giáo mới được hơn 1 tỷ. Lục địa Á Châu rất đông dân nhưng tỷ lệ biết Chúa mới được hơn 3%, do đó, việc loan báo Tin Mừng luôn trở nên khẩn thiết, cấp bách. Người biết Chúa chỉ chiếm 1/7 tỷ lệ dân số thế giới. Lúa chín vàng không có thợ gặt. Thế giới hình như vẫn còn bước đi trong dò dẫm, trong đêm tối âm u của nhiều tranh chấp, hận thù, sự dữ và thế giới này đang cần, thật cần tình thương, cần sự an bình, quảng đại, khoan dung, và tha thứ. Lời của thánh Phanxicô khó khăn: " Đem tình thương vào nơi tranh chấp, đem ủi an đến chốn ưu sầu " quả thực là lời tình yêu khẩn thiết: " Yêu đến quên mình. Yêu đến chấp nhận cái chết trên thập giá. Yêu mới nói lên lời. Yêu để tha thứ ". Chúa vẫn sai nhân loại, sai con người ra đi đem sự an bình, đem tha thứ. Đi để chữa lành và đi để loan báo rằng Nước Chúa đã gần đến. Hội Thánh qua nhiều thời đại đã không ngừng sai các tông đồ ra đi loan báo Nước Thiên Chúa. Công Đồng Vaticanô II đã nói: " Bản chất Giáo hội là truyền giáo " và Đức cố Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã nói: "...Không một ai được miễn trừ sứ vụ cao cả này ".Thánh Phaolô xác tín cách thâm sâu: " Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng " ( 1 Co 9, 16 ).
Lạy chúa Giêsu, xin sai Thánh Thần đến biến đổi tâm hồn mỗi người chúng con, để chúng con can đảm, hiên ngang ra đi loan báo Tin Mừng cứu độ của Chúa. Amen.
MỪNG VÌ ĐƯỢC GHI DANH NƯỚC TRỜI
Lc 10, 1 - 2. 17 - 20
Lm. Anmai, CSsR
Nhớ lại một cha già trong nhà Dòng, gốc của Ngài là người Huế nên Ngài hay nói với những ai thăm Ngài rằng mỗi người hãy nhìn lên Thánh Giá Chúa và sống "in như ri". Giọng Huế rất hay với chữ "in như ri". "In như ri" chính là chữ "In ri" (Vua dân Do Thái) được treo trên đầu Chúa Giêsu. Câu nói dí dỏm của Cha già xem ra mà hay đó chứ ! Là kitô hữu, phải chăng mỗi người được mời gọi nhìn lên thánh giá Chúa và sống mầu nhiệm ấy.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, nhiều người đã kinh nghiệm và đã sống mầu nhiệm thánh giá ấy. Một trong những người đã sống mầu nhiệm thánh giá một cách trọn vẹn đó chính là Thánh Phaolô tông đồ. Khẳng định về kinh nghiệm của thánh giá hôm nay chúng ta được nghe Thánh Phaolô tông đồ nhắc lại: "Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian".
Chẳng cần phải minh giải nhiều, chẳng phải nói nhiều, những người mang tên là kitô hữu đã biết khá nhiều về con người của Phaolô. Phaolô đã hơn một lần bay nhảy và đã hơn một lần bách hại đạo Chúa Giêsu. Phaolô đã bằng mọi cách diệt cho bằng được nhưng ai xưng mình là kitô hữu. Thế nhưng, sau khi được Thiên Chúa "mở mắt" cho thấy Ngài thì cuộc đời của Phaolô thay đổi hoàn toàn. Cứ đọc lại tất cả các thư của Thánh Phaolô, chúng ta sẽ thấy rõ cảm nghiệm của Ngài về Chúa Giêsu.
Phải nói rằng cuộc đời của Phaolô là một cuộc đời tuyệt vời. Trước khi biết Chúa Giêsu thì Phaolô sống theo kiểu người đời nhưng khi biết Chúa Giêsu thì Phaolô đã sống chết với con người mang tên Giêsu đó. Với Phaolô, đâu phải đơn giản để sống chết với Chúa Giêsu vì trước đó Phaolô là người bách hại Chúa. Khi cuộc đời của Phaolô thay đổi 180 độ thì chẳng ai tin được. Người ta đã cho rằng Phaolô là người giả tạo vì trước đó thì bắt Chúa còn sau thì lại rao giảng Tin mừng về con người mà trước đây mình bách hại. Vì Chúa Giêsu, Phaolô đã lội ngược dòng để minh chứng cuộc đời của mình thuộc về Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu - Nước Thiên Chúa lúc nào cũng đối nghịch với thế gian thì phải. Thế gian thì sống bất minh, sống gian tà, sống thiếu sự thật còn Nước Thiên Chúa là nước của sự thật, sự sống vĩnh cửu. Những ai sống vì Nước Thiên Chúa, sống với Nước Thiên Chúa, sống cho Nước Thiên Chúa thì bị người đời thoá mạ và ngược đãi. Không dừng lại ở thoá mạ, ngược đãi mà còn bị loại trừ ra khỏi thế gian này cho rảnh mắt.
Người bị loại ra khỏi thế gian mà ai ai cũng biết đó chính là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu biết trước chương trình của Chúa Cha dành cho Ngài và giờ của Ngài phải đến thế gian.
Thật sự ra Chúa Giêsu đã biết trước thế gian như thế nào nhưng vì Thánh ý của Cha nên Ngài vẫn đến. Chúa Giêsu đã đến thật và Ngài đã sống giữa thế gian này. Sống giữa thế gian, dẫu là Con Chí Thánh của Cha trên trời ấy nhưng Chúa Giêsu đã đón nhận tất cả những đau khổ của thế gian dành cho Ngài. Chúa Giêsu là Chúa còn phải đón nhận đau khổ như vậy để rồi môn đệ của Chúa, những người theo Chúa cũng phải sống cái đau khổ như Thầy Chí Thánh đã sống.
Biết trước được những khó khăn ấy, khi sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã cảnh báo cho các ông: "Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường.5 Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: "Bình an cho nhà này! " Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em. Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông." Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói: "Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên các ông phải biết điều này: Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần." Thầy nói cho anh em hay: trong ngày ấy, thành Xơ-đôm còn được xử khoan hồng hơn thành đó."
Sau khi nghe lời chỉ bảo của Thầy, các môn đệ đã ra đi và đã trở về và thưa chuyện với Thầy "Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con." Và rồi, Chúa Giê-su bảo với các môn đệ rằng: "Thầy đã thấy Xa-tan như một tia chớp từ trời sa xuống" Sau đó Chúa Giêsu đã ban cho các môn đệ quyền năng để các ông có thể đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù. Tất cả thế lực của Kẻ Thù bày ra nhưng sẽ không làm được gì các môn đệ cả. Chúa Giêsu còn dặn dò thêm: "Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi".
Chúa Giêsu nhắc nhở cho các môn đệ rằng đừng mừng với cái chuyện quỷ thần khuất phục nhưng hãy vui mừng vì tên của các môn đệ, của những người theo Chúa sẽ được ghi ở Giêrusalem mới, ở Nước Trời. Niềm vui của Giêrusalem Thiên Quốc không giống như niềm vui của trần gian, của cuộc đời mà nhiều người tìm kiếm, theo đuổi. Niềm vui của Giêrusalem Thiên Quốc được ngôn sứ Isaia vừa nói qua bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe:
Hãy vui mừng với Giê-ru-sa-lem,
hãy vì Thành Đô mà hoan hỷ,
hỡi tất cả những người yêu mến Thành Đô!
Hãy cùng Giêrusalem khấp khởi mừng,
hỡi tất cả những người đã than khóc Thành Đô,
để được Thành Đô cho hưởng trọn nguồn an ủi,
được thoả thích nếm mùi sung mãn vinh quang,
như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ.
Vì Đức Chúa phán như sau:
Này Ta tuôn đổ xuống Thành Đô ơn thái bình tựa dòng sông cả,
và Ta khiến của cải chư dân chảy về tràn lan như thác vỡ bờ.
Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ,
được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối.
Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy;
tại Giêrusalem, các ngươi sẽ được an ủi vỗ về.
Nhìn thấy thế, lòng các bạn sẽ đầy hoan lạc,
thân mình được tươi tốt như cỏ đồng xanh.
Đức Chúa sẽ biểu dương quyền lực của Người cho các tôi tớ biết,
và nổi cơn thịnh nộ với các kẻ thù.
Ở trong Giêrusalem Thiên Quốc, ở Thành Đô của Thiên Chúa thì những người yêu mến Thành Đô sẽ vui mừng, sẽ được bình an như trẻ thơ được bú no bầu sữa mẹ và sẽ được nâng niu trên đầu gối, được bồng ẵm bên hông như Mẹ hiền vậy. Khi ở Thành Đô thì những thù địch sẽ bị đẩy lui bởi cơn thịnh nộ của Đức Chúa.
Giêrusalem Thiên Quốc, Nước Trời luôn luôn nghịch lại với thế lực của ma quỷ, của thế gian, của sự ác để rồi những ai muốn vào Giêrusalem Thiên Quốc, muốn vào Nước Trời cũng phải sống như các môn đệ ngày xưa đã sống nghĩa là phải sống như chiên sống giữa sói rừng vậy. Thế nhưng, những ai tin tưởng và phó thác cuộc đời mình trong lòng bàn tay của Thiên Chúa thì tất cả những thế lực của ma quỷ sẽ không làm hại những người tin được. Kinh nghiệm ấy hết sức rõ ràng nơi cuộc đời của những người môn đệ thân tín, của các thánh nam nữ của Thiên Chúa, đặc biệt nơi các Thánh Tử Đạo của Thiên Chúa. Những môn đệ thân tín, các thánh nam nữ của Thiên Chúa, các Thánh Tử Đạo của Thiên Chúa đã bị thế gian cấu xé, nghiền nát nhưng rồi trước mặt Thiên Chúa, các Ngài đã sống hết mình, hết lòng, hết sức, hết trí khôn cho Nước Trời, cho Thành Đô của Thiên Chúa nơi Thiên Quốc.
Chuyện quan trọng của người môn đệ, của người theo Chúa Giêsu đó là làm sao tên của mình được ghi ở trên Trời. Tất cả mọi chuyện, tất cả mọi sự rồi sẽ qua đi mà thôi. Giữa cái lựa chọn Nước Trời và trần gian này không phải là đơn giản, nhiều và nhiều người muốn chạy theo cái thế gian này để bỏ cái vinh quang Nước Trời mà Thiên Chúa mời gọi.
Nguyện xin Thầy Chí Thánh ban thêm ơn, ban thêm sức mạnh và đặc biệt ban thêm quyền năng cho những ai tín thác vào Chúa để rồi nhờ ơn Chúa những người đó có thể chống chõi tất cả những mưu mô của các thần để sau cuộc chiến ở cõi đời này thì những người ấy được vào hưởng nhan Thánh Chúa và được vào hưởng Giêrusalem Thiên Quốc như Chúa đã hứa ban.
VÔ NGHĨA
Lc 10, 1 - 2. 17 - 20
Lm Vũ đình Tường
Vô nghĩa diễn tả tình trạng nghe mà không hiểu hay nghe vào tai này chạy tuốt qua tai kia, để lại trong ta cõi trống. Câu nói khơi lên trong ta một chút gì dù là vui buồn, sướng khổ hay lo lắng đều là những câu nói có nghĩa bởi vì chúng khơi lại trong ta ít nhiều tình cảm sâu thẳm trong lòng. Ngôn ngữ con người tự nó không có sức mạnh khơi dậy tình cảm trong ta. Nó chỉ có tác dụng khi ta nghe chúng với tâm tình lắng nghe, muốn nghe. Trong trường hợp đó ngôn ngữ có sức mạnh khơi dậy, khích động lòng người. Trái với ngôn ngữ con người Lời Chúa tự Lời Ngài có sức mạnh bởi Lời Chúa luôn kèm theo sức mạnh của Thánh Thần nên tự Lời Chúa có sức mạnh. Hơn nữa lời Chúa có sức tạo dựng. Lời Ngài phán ra tạo nên đất trời. Vì thế đất trời đều lệ thuộc vào Lời Ngài để tồn tại. Chúng tồn tại vì do Lời Chúa ban sức sống, cầm giữ và ban cho chúng ơn tái tạo được hiểu là biến hoá trong vũ trụ đất trời.
Lời Ngài có khả năng thay đổi tuỳ theo vật Ngài sáng tạo. Lời Ngài khoả đầy vũ trụ và di chuyển cùng tốc độ nở bành trướng của vũ trụ hay Lời Ngày thu nhỏ, kiên nhẫn đợi chờ cho con tim đóng kín mở ra đón Ngài vào tim. Chúng ta bị lệ thuộc vào thời gian và không gian nhưng Lời Ngài hoàn toàn không bị điều kiện thời gian, không gian kìm chế.
Khi con tim đóng kín không đón nhận Lời Ngài không phải vì Lời không có sức mạnh tiến vào nhưng là Lời tôn trọng quyết định, cảm xúc trong ta, không cưỡng bách, thúc ép ta miễn cưỡng đón nhận Lời Ngài. Khi sai 72 môn đệ đi rao giảng Đức Kitô đã hướng dẫn các môn đệ là khi vào nhà nào, thành nào nếu người ta đón tiếp thì hãy cư ngụ tại đó, nếu không thì hãy âm thầm ra đi và bình an của Lời Ngài cũng sẽ ra đi Lc 10,6.
Điều này cho thấy Lời Ngài có sức mạnh đến người không cản được, đi người không thể cầm giữ. Lời Ngài tự do, tự tại đến đi tuỳ theo mức độ cởi mở, đón nhận của con tim người nhận. Con tim rộng mở đón nhận ơn bình an; con tim đóng chặt, khép kín mất bình an nội tâm.
Trong trường hợp con tim khép kín thì tâm tình của người mang Lời Chúa đóng một phần quan trọng trong việc hoán cải con tim khô cằn, sỏi đá. Tâm tình đó là tâm tình của người môn đệ đặt hết tin tưởng vào Lời Chúa. Chính xác tín này thể hiện qua lời nói, việc làm của họ làm cho con tim khô cằn, sỏi đá được thảnh thơi và từ từ mở ra đón nhận Lời Ngài. Người môn đệ chân thành là người môn đệ ít nhiều có cảm nghiệm về sức mạnh Lời Ngài mang lại trong tâm hồn họ, đóng dấu ấn tín yêu thương trong lòng khiến họ rao giảng mà không nghi ngại, gặp trở ngại không sờn lòng, thất bại không nản chí, đau khổ không chùn bước, thành công không kiêu căng. Chính thái độ khiêm tốn, kiên nhẫn và nhẫn nhục giúp con tim khô cằn tìm thấy nguồn nước. Con tim đóng kín hé mở đón Lời Ngài. Một tâm hồn hay tấm lòng thay đổi nhờ vào Lời Ngài được thánh Phao lô diễn tả trong bài đọc thứ hai là con người mới, tạo vật mới. Tạo vật mới này có được là do Lời Ngài biến đổi, thánh hoá và ban cho sự sống mới. Tạo vật mới được nuôi dưỡng bằng Thần Khí và ơn an bình thiên quốc.
CHÚA SAI CÁC MÔN ĐỆ
Lc 10, 1 - 2. 17 - 20
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Do đó, lúc nào, thời nào, giai đoạn nào, Hội Thánh cũng mời gọi các Kitô hữu thực hiện lời truyền của Chúa Giêsu :" Anh em em hãy đi rao giảng cho muôn dân..". Lời truyền ấy luôn luôn vang dội giữa mọi người, luôn luôn là lời thôi thúc mọi người ra đi loan báo Tin Mừng, ra đi giới thiệu Chúa Giêsu cho những người khác. Ý thức, sứ mạng rao giảng và lời của Chúa :" Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít " (Lc 10, 2 ). Nhiều thợ gặt và nhiều sứ giả của Chúa, của Giáo Hội đã đi cùng khắp thế giới để rao giảng Tin Mừng: " Nước Thiên Chúa ".
Thực tế, đã 2013 năm qua, Lời Chúa vẫn thôi thúc Hội Thánh, tuy nhiên trên thế giới mới khoảng 1/7 nhân loại là biết Chúa, còn biết bao nhiêu người chưa được nghe giảng Tin Mừng, có những người đã biết Chúa nhưng còn nguội lạnh vì chưa học giáo lý kỹ, chưa thực hành Lời Chúa tốt đẹp, nên tất cả đều phải được lắng nghe Lời Chúa và thực hiện Lời Chúa khi họ được học giáo lý kỹ càng, để sống đúng Tin Mừng của Chúa.
Cánh đồng thế giới được ví như một ruộng lúa mênh mông đầy lúa chín vàng, nhưng thợ gặt lại quá ít. Chúa Giêsu muốn gợi ý cho mọi người rằng trách nhiệm truyền giáo thuộc về mọi Kitô hữu. Thế giới mênh mông nhưng lại rất ít thợ gặt. Bởi vì thế giới hiện giờ có hơn 7 tỷ người. Tuy nhiên, số theo Chúa, biết Chúa chỉ mới có hơn 1 tỷ mà thôi. Chính vì thế, giữa người biết Chúa và người không biết Chúa vẫn có một sự chênh lệch trầm trọng, giữa thợ gặt và ruộng lúa chín cũng có sự thật chênh lệch. Nhưng nơi đâu theo kinh nghiệm từ hơn 2.000 năm nay có những Sứ giả, những Linh mục thánh thiện, những Thiện nguyện viên tốt, những Nhà truyền giáo tốt thì kết quả truyền giáo thực rất tốt, mang lại nhiều hoa quả, nhiều người nhận biết Chúa.
Nếu chúng ta làm một cuộc so sánh, chúng ta sẽ thấy có một sự sút giảm trầm trọng về ơn gọi tại các nước Âu Châu,, các Nước Mỹ La Tinh, và các nước thứ ba, riêng tại vùng Đông Nam Á , đặc biệt là tại Việt Nam, ơn gọi còn tương đối nhiều. Nhưng người ta vẫn phải hướng tới tương lai, hướng tới một viễn tượng xa xôi và sâu xa hơn. Có thể, một lúc nào đó ơn gọi sẽ ít đi...Viễn tượng của một thế giới vắng bóng, hoặc ít thợ gặt vẫn là thách đố lớn đối với Giáo Hội. Thế giới hôm nay, nhiều nơi vẫn còn đang đi trong mò mẫm, nhiều bóng tối đang phủ lấp những đám mây sáng, con người đang cần những đốm sáng của tình thương, đang cần những tấm lòng, những trái tim nhân hậu, những tia lửa bùng cháy của sự khoan dung, tha thứ, Chúa Giêsu đã từng nói :" Anh em hãy ra đi . Nầy Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói " ( Lc 10, 3 ). Khi Chúa Giêsu nói lên điều đó, Ngài cho hay ra đi lên đường truyền giáo, không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió, lúc nào cũng dễ dàng bởi vì ra đi là phải phó thác, tay không và đón nhận mọi rủi ro ở đời, tuy nhiên, lệnh của Chúa ra đi lên đường là phải ra đi.
Vâng, Chúa làm gương cho các tông đồ và mọi người về cuộc ra đi lên đường của Ngài, vì cả cuộc đời của Ngài là một cuộc ra đi không ngừng, một cuộc ra đi không bao giờ mệt mỏi. Hành trang của Ngài là sự phó thác nơi bàn tay Thiên Chúa và bằng lời cầu nguyện. Nên, mọi Kitô hữu là phải lên được truyền giáo, là phải ra đi. Trong Sứ Vụ Đấng Cứu Độ, Chân Phước Gioan Phaolô II đã viết :" Không một ai trong những người tin vào Đức Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo Hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này : Đó là loan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc ".
Mọi người chúng ta phải cộng tác vào công trình cứu rỗi của Chúa bằng việc cầu nguyện và xin Chúa ban thêm cho có nhiều thợ gặt lành nghề, nghĩa là các Linh mục, các Tu sĩ thánh thiện, những Nhà truyền giáo lành nghề để cánh đồng mênh mông đầy lúa chín vàng, có nhiều thợ gặt tốt thu hoạch lúa và bỏ vào kho lúa. Thánh Phaolô đã viết một câu rất chí lý :" Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng " ( 1 Co 9, 16 ). Chúng ta phải ra đi đem lại sự an bình cho thế giới, cho mọi người và cho những người sống xung quanh chúng ta. Ra đi để xây dựng tình thương, nối lại sự hiệp nhất, phá tan oán thù, hờn ghét. Ra đi để băng bó những vết thương, những nỗi cô đơn, buồn chán. Ra đi để đem lại an bình cho mọi người. Chúng ta phải ra đi để làm chứng cho Chúa Phục Sinh như các tông đồ xưa đã làm chứng cho Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, như Chúa đã sai các môn đệ xưa ra đi, lên đường rao giảng Tin Mừng khắp nơi. Xin Chúa tăng thêm sức mạnh cho chúng con, để với ơn Chúa Thánh Thần giúp sức, chúng con sẽ trở nên những tông đồ nhiệt thành và cần cù, giới thiệu Nước Thiên Chúa. Amen.
BÌNH AN LÀ DẤU CHỈ TRIỀU ĐẠI CỦA THIÊN CHÚA ĐẾN GẦN
Lc 10, 1 - 2. 17 - 20
Lm. Jude Siciliano, OP
Kinh Thánh thắm đượm tính thi ca, đặc biệt trong các Thánh vịnh, vì Thánh vịnh là những lời cầu nguyện đầy thi vị. Ngày hôm nay, ông Isaia là một mẫu gương ngôn sứ ưu tú, vì ông đã gây chú ý cho chúng ta qua tài năng thuyết phục và quyền uy trong phát biểu đầy thi vị. Ở đây các nhà thơ có thể được nổi bật vì họ đang nổ lực gây chúng ta chú ý, và họ đưa chúng ta từ những vị trí cố định đến những trải nghiệm và tầm nhìn mới. Đó là những điều mà ông Isaia đã làm cho chúng ta ngày hôm nay, vì ông dùng hình ảnh nữ tính để chuyển tải thông điệp hy vọng của mình.
Trước hết, ông Isaia áp dụng những hình ảnh người mẹ để nhân cách hóa Giêrusalem. Theo văn hóa thời đó, người phụ nữ hầu như không được kể đến, họ không có tiếng nói và cũng chẳng có uy quyền gì. Vào thời "Isaia I", Giêrusalem (ví như người phụ nữ) bị khinh bỉ như một tội nhân và kẻ sa ngã (Is 3,25-26). Nhưng bây giờ, trong chương cuối về những điều được gọi là "Isaia III," thì Giêrusalem đã cho một trẻ thơ chào đời (Is 66,7) và đất nước được tái sinh. Đất nước mới sinh này được người mẹ Giêrusalem nuôi nấng chu đáo và âu yếm quan tâm, được chăm sóc như một người mẹ nuôi con thơ. Dân chúng được hứa ban niềm hân hoan và sự sung túc từ "dòng sữa dồi dào của Giêrusalem".
Ông Isaia diễn tả trí tưởng tượng thi ca của mình xa hơn nữa. Giêrusalem, thành phố đứng đầu, được so sánh với Thiên Chúa, Đấng chúc phúc sự quan tâm của người mẹ dành cho đất nước tái sinh và mới sinh. "Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy; tại Giê-ru-sa-lem, các ngươi sẽ được an ủi vỗ về". Phần trích đoạn này của ngôn sứ Isaia được viết sau khi dân trở về từ chốn lưu đày. Lúc bấy giờ đất nước chưa được tái thiết và vì thế, vị ngôn sứ đã loan báo niềm hy vọng này đến với dân chúng. Thiên Chúa đang dành cho dân người sự chăm sóc của một người mẹ dịu dàng, và ban cho họ niềm hy vọng để duy trì "trong thời gian chờ đợi".
Vượt qua nỗi sầu khổ không hề dễ dàng chút nào, vì nỗi sầu khổ thường làm cho thời gian dài thêm. Vị ngôn sứ Isaia bảo đảm cho những ai sầu khổ sẽ không còn than khóc nữa, vì rằng ở đây đã có quyền lực đổi mới của Thiên Chúa dành cho họ. Quyền lực này không phải được tỏ lộ bằng sức mạnh, nhưng được tỏ lộ theo cách thức mà chúng ta và một dân tộc được khổi phục cần đến, tựa như cần đến một bảo mẫu vậy. Thiên Chúa là Cha của dân tộc Israel, và khi dân tộc này cần đến thức ăn của trẻ thơ trong thời kỳ măng sữa, thì Thiên Chúa cũng chính là Người Mẹ của họ.
Có những lúc chúng ta cần Thiên Chúa ban sức mạnh, đặc biệt khi chúng ta phải đương đầu với thách đố căm go như là: sự đè ép của cơ quan quản lý Thành phố; sức ép của cộng đồng về việc thu nhập sống thấp; thành kiến trong gia đình chúng ta; những bày tỏ tán thành phá thai tàn nhẫn; những chính sách tù nhân dã man. v.v... Vào những lúc này chúng ta cần Thiên Chúa "cho ta điểm tựa" và ban cho ta ân sủng bằng chính cánh tay hữu mạnh mẽ của Người.
Vào những lúc khác, đặc biệt sau khi người thân qua đời; sụp đổ một kế hoạch; mất việc; con cái đau yếu, v.v... chúng ta cần Thiên Chúa an ủi và gìn giữ như hôm nay ngôn sứ Isaia mô tả cho chúng ta. Những lúc này, chúng ta khao khát một đường lối mà Thánh vịnh 131 miêu tả một em bé ngoan ngoãn và tin tưởng, "Như trẻ thơ no sữa nép mình bên lòng mẹ".
Có sự so sánh tương đương với ngôn từ Tin mừng ngày hôm nay theo thánh Máccô và thánh Mátthêu, nhưng trong các trình thuật đó, 12 sứ đồ đều được phái đi. Theo thánh Luca thì có 72 người. Con số đó nổi tiếng trong Kinh thánh. Theo sách Sáng thế chương 10, trong toàn thể thế giới có 72 người. Sử dụng cùng con số đó, thánh Luca ám chỉ rằng Đức Giêsu có ý định cho toàn thể thế giới đón nhận sứ điệp của Người. Mùa gặt bội thu là nói đến ngày xưa cũng như ngày nay. Những "người thợ gặt" này phải cầu nguyện, phải kết hợp lời cầu nguyện của họ với lời cầu nguyện của Đức Giêsu, để còn người khác nữa sẽ kết hợp với họ trong việc làm.
Đang khi chúng ta cầu nguyện cho nhiều linh mục, phó tế và ơn gọi tu sĩ khác nữa trong Thánh Thể, thì chúng ta cũng tạ ơn những người giáo dân lao động đã kết hợp với chúng ta trong những lĩnh vực phục vụ Thiên Chúa. Nhiều năm qua chúng ta vẫn cầu nguyện cho ơn gọi. Vì thế, chúng ta đừng nhắm mắt làm ngơ trước những lời cầu nguyện được đón nhận qua các ơn gọi khác nhau, và hôm nay chúng ta phải biết dâng lời tạ ơn.
Có sự cấp bách trong những lời giảng dạy của Đức Giêsu với các nhà truyền giáo của Người. Vì vậy, đường lối hướng dẫn mà Đức Giêsu ban truyền cho họ là: đừng mang theo túi tiền, bao bị, vì những người Trung Đông này có thể bị trì hoãn do những nhu cầu thông thường về phép lịch sự và lòng hiếu khách, cũng "đừng chào hỏi ai dọc đường", do thời gian ngắn ngủi.
Những người giảng thuyết này có một thông điệp bình dị và cấp bách muốn truyền đạt, đó là "Triều đại của Thiên Chúa đã đến gần các ông". Thiên Chúa ở cạnh dân chúng và bình an là dấu chỉ về sự hiện diện của Người. Có người tiếp nhận tin vui này, có người không tiếp nhận. Những của cải chúng ta mang theo để phục vụ Thiên Chúa không bao gồm những đồ dùng. Thay vào đó, chúng ta là những người mang bình an khi dân chúng phải gánh chịu sầu khổ, sợ hãi, lo âu, kỳ thị và tuyệt vọng. Bình an (shalom) là ân sủng mà Đấng Mêsia (Cứu Độ) sẽ mang đến, và vì thế, ân sủng của Đức Giêsu dành cho các môn đệ là sự bình an mà họ sẽ đón nhận đối với những ai cần đến.
Đức Giêsu dạy bảo các môn đệ phải giảm thiểu hết mức những hành trang mang theo. Chúng ta biết rằng Đức Giêsu không muốn chúng ta bị quấy rầy bởi những của cải vật chất, vì những thứ đó làm chúng ta sao lãng. Chúng ta cần nhớ rằng Đức Giêsu ở với chúng ta, Người là cội nguồn của mọi vụ mùa mà chúng ta đi thu gặt. Chúng ta không phải đi tìm tiện nghi hay những ân huệ đặc biệt vì chúng ta biết mình là ai rồi. Dân chúng sẽ quan tâm chăm sóc những sứ giả, không phải vì chức vụ hay địa vị của họ, nhưng chính xác hơn họ chăm sóc vì họ cũng là những sứ giả của Đức Kitô, họ loan báo về sự hiện hữu của Thiên Chúa: "Triều đại của Thiên Chúa đã đến gần".
Chúng ta không phải là những người bảo thủ. Chúng ta cảm phục những lời dạy bảo của Đức Giêsu khi đi đường với hành lý gọn nhẹ; Người dạy phải tin tưởng vào Người và tin tưởng sứ điệp mà chúng ta mang theo. Tuy nhiên, có những nơi và những tình huống đòi buộc, thì chúng ta phải dùng đến những nguồn vật chất để cung cấp cho những nhu cầu thể lý của người dân. Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ chúng ta cả thân xác lẫn linh hồn. Vì vậy, những Kitô hữu phải dâng tiền bạc để xây dựng bệnh viện, trại mồ côi, trường học, nhà trọ hoặc nhà tình thương cho những ai lâm cảnh khốn khó.
Có những Kitô hữu mẫu mực đã thực hiện những công việc thiện tâm này, trong số đó, có người được phong thánh, có người được biết đến như những người tốt lành và là người yêu quý của những kẻ cơ hàn. Họ có thể giỏi giang với những viên gạch hay nơi đống hồ. Nhưng trong trái tim họ, họ không đặt sự tin tưởng của mình vào "túi tiền", "bao bị" hay "giày dép", nhưng họ đặt tin tưởng vào Đấng đã sai họ đi với những lời, "Hãy ra đi..." Nhiều người đã đối diện với "những con sói" tham ăn, tham vọng và uy quyền chống lại họ. Họ đã vượt qua những thế lực tiêu cực này, không phải bằng việc đọ súng với nhau, nhưng vượt qua bằng cách nhớ lại Đức Giêsu đã nói rằng họ sẽ có Thánh Thần cùng đồng hành.
Một trong những mẫu gương yêu thích của tôi về lòng dũng cảm và tin tưởng vào Thiên Chúa là (Mẹ) thánh Phanxicô Xaviê Cabrini (1850-1917). Chị sinh ra tại Ý và muốn trở thành người truyền giáo đến Trung Hoa, nhưng lại được Đức giáo hoàng Lêo XIII gởi đi cùng với sáu chị em khác để phục vụ cho hàng ngàn người Ý nhập cư đang sinh sống ở thành phố New York. Trong vòng 35 năm, chị đã thành lập được 67 trụ sở được dâng tặng để phục vụ người nghèo, kẻ bị bỏ rơi, người thất học hoặc đau yếu. Chị đã hãi hùng với nước và sợ chết đuối. Bởi lẽ chị đã vượt đại dương hơn 30 lần. Trong dịp phong thánh cho chị, Đức Piô XII đã công bố rằng: "Mặc dù thể trạng rất mỏng manh... nhưng thánh nhân không cho phép điều gì ngăn cản mình hoàn thành những công việc xem ra vượt quá sức mạnh của một người phụ nữ".
Một câu chuyện về Mẹ Cabrini mà tôi thích nhất là khi mẹ đang thảo luận với chị em mình việc xây thêm một bệnh viện nữa. Họ phản đối rằng họ không có kinh phí cho công trình như thế. Câu trả lời của mẹ là "Công việc đó của ai, của Thiên Chúa hay của chúng ta"? Thế là bệnh viện được xây lên.
Một mùa gặt đem lại bội thu hoa trái và cho dù người thợ gặt không nhiều và chúng ta được sai đi như những chiên con giữa bầy sói, nhưng "Công việc đó là của ai, của Thiên Chúa hay của chúng ta"?
Chuyển ngữ: Anh em HV Đaminh Vò Vấp
Nguồn vietcatholic.org
3352 05-07-2013 20:50:25