Sidebar

Thứ Tư
22.05.2024

Chúa Nhật XV Thường Niên C

  1. Yêu Thương Là Quan Tâm
  2. Anh Em Của Mọi Người
  3. Bên Ngoài Và Bên Trong
  4. Làm Gì Để Được Sống Đời Đời?
  5. Chúa Nhật 15 Tn C
  6. Chúa Nhật XV Thường Niên
  7. Bác Ái Bằng Hành Động
  8. Ai Là Anh Em?
  9. Bác Ái Kitô Giáo - Bác Ái Kiểu Mẫu
  10. Người Samairia Nhân Hậu
  11. Quân Vô Đạo
  12. Yêu Thương Mọi Người
  13. Luật Yêu Thương
  14. Thực Thi Lòng Thương Xót
  15. Anh Em Hãy Đi Và Hãy Làm Như Vậy
  16. Ai Là Người Thân Cận?
  17. Ai Là Anh Em Của Tôi?
  18. Tình Yêu, Cốt Lõi Của Kitô Giáo!
  19. Ai Là Người Thân Cận Của Tôi
  20. Tình Yêu Không Biên Giới
  21. Chúa Nhật 15 Thường Niên
  22. Yêu Thiên Chúa Và Yêu Tha Nhân
  23. Ai Là Tha Nhân Của Tôi?
  24. Yêu Là Dấn Thân

 YÊU THƯƠNG LÀ QUAN TÂM
Lc 10, 25 - 37

Trong một gia đình có người con đi học xa nhà, bất chợt ngày kia trở về trong gương mặt méo xẹo. Trông thấy đứa con với bộ dạng như thế, người mẹ biết ngay là con mình đang bị "viêm màng túi ". Mặc dù, đứa con có thể chưa mở miệng xin nhưng vì tình thương của người mẹ biểu lộ qua sự quan tâm. Với sự quan tâm ấy, bà biết con mình đang cần điều gì. Và cho dù thiếu hụt cách mấy bà cũng phải ráng để đáp ứng lại nhu cầu cần thiết của con mình.

Dụ ngôn mà Chúa Giêsu minh họa cho người thông luật trong đoạn Tin mừng hôm nay cho thấy thầy tư tế và thầy lêvi vì thiếu sự quan tâm nên đã bỏ người bị cướp nằm dở sống dở chết giữa đường. Ngược lại, người Samaria lại là người có sự quan tâm đến người bị nạn này. Anh ta đã hết tình hết mình với người bị nạn này: "Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác." (Lc 10, 34 - 35)

Ðiều đáng nói ở đây là người Samaria này chắc chắn chưa bao giờ được học biết về giới răn kính Chúa yêu người. Thế nhưng, chỉ vì xuất phát từ tình người với nhau mà anh đã thực thi sự quan tâm đến người bị nạn thật tuyệt vời.

Cuối đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với người thông luật cũng là nói với mỗi người chúng ta: "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy." ( Lc 10, 37b). Chúa Giêsu muốn chúng ta hãy thực thi tinh thần của đức mến vượt trên tình người nữa. Bởi lẽ, đức mến là nhân đức đối thần, nhờ đó chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự vì chính Ngài. Và vì yêu mến Thiên Chúa, chúng ta yêu mến người thân cận như chính mình. Vì thế, thực thi đức mến xuất phát từ lòng mến Chúa sẽ vừa có tình người và vừa sống đúng với giới răn của Chúa dạy.

Hằng ngày theo dõi trên các phương tiện truyền thông hay đi đây đi đó chúng ta sẽ thấy còn rất nhiều mãnh đời rất đáng thương. Trong bệnh hoạn tật nguyền mà có khi phải gánh bao nhiêu là nặng nề của đời sống gia đình. Ðang khi đó có nhiều buổi tiệc, nhiều cuộc chơi thâu đêm suốt sáng của bao nhiêu đại gia giàu có tốn tiền như nước. Nếu như những người này biết tiết kiệm chút đỉnh để giúp đỡ những người có hoàn cảnh đáng thương rthì thật là đáng tuyên dương. Mỗi người chúng ta mỗi khi tiêu xài hãy nhớ đừng quá phung phí. Ðó cũng là cách mà chúng ta đang quan tâm đến những anh chị em đang sống xung quanh đang có hoàn cảnh khó khăn.

ANH EM CỦA MỌI NGƯỜI
Lc 10, 25 - 37

Ai là người thân cận của tôi? (Lc 10, 29)

Câu hỏi của nhà thông luật này cũng là câu hỏi của nhiều người trên thế giới ngày nay. Câu hỏi này nhắm đến quyền lợi của cá nhân người hỏi. Chúng ta có thể hiểu ngầm vế còn lại: những người còn lại là người xa lạ hoặc là thù địch của tôi. Nếu là người thân, không hại đến quyền lợi tôi thì tôi giúp. Còn kẻ thù hại đến quyền lợi tôi thì tôi bất thông giao. Anh em thì không hại tôi, nhưng có lợi cho tôi. Kẻ xa lạ thì phải dè chừng, kẻ thù địch thì phải tiêu diệt. Nhưng câu trả lời của Chúa Giêsu trong câu chuyện dường như nhấn mạnh một khía cạnh khác.

Đừng hỏi ai là người thân của tôi, đừng chỉ nghĩ đến bản thân và lợi ích riêng mà phải nghĩ đến người khác: tôi có bổn phận gì đối với người xung quanh? Câu hỏi này giúp chúng ta nghĩ đến quyền lợi của anh em mình trước. Như vậy, Chúa Giêsu muốn mỗi người phải từ bỏ tính ích kỷ, qui về mình nhưng vị tha, nghĩ đến quyền lợi của tha nhân.

Chính Chúa đã thi hành điều này trước để làm gương cho chúng ta.

Khi loài người xúc phạm đến Chúa, Chúa không bỏ mặc con người dưới quyền sự chết mà hứa ban ơn cứu chuộc. Chính Ngôi Hai Thiên Chúa đã không giữ Ngai Trời của mình mà bỏ trời xuống thế làm người, lo cho loài người. Cho dù loài người phản bội tiếp tục đối xử bất công với Chúa và còn vu cáo, giết Đức Giêsu bởi tay dân ngoại. Chúa biết như vậy nhưng Ngài không nghĩ đến quyền lợi của mình. Chúa cũng không hỏi: ai là anh em, là trung thần của Ngài mà Ngài muốn làm anh em của chúng ta đang lúc chúng ta còn là thù địch của Ngài. Như vậy, Chúa đã lấy ân trả oán. Không những Chúa tha tội ác của chúng ta mà còn thi ân giáng phúc cho cả loài người bằng việc xuống thế, giảng dạy, chữa lành các bệnh nhân và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi nhân gian.

Câu trả lời của Chúa Giêsu đối với nhà thông luật hôm nay cũng là lời nhắn gởi tới mọi người trên trần gian. Nếu chúng ta biết lo cho quyền lợi người khác, muốn làm bạn với mọi người thì thế giới này không còn chiến tranh hận thù, các đảng phái không còn thù hằn tiêu diệt nhau, nhưng biết xây dựng nhau, coi nhau là anh em; mọi đồng bào, mọi người trong gia đình sẽ tự hỏi xem mình có coi mọi người là anh em của mình chưa.

Tuy nhiên, thực tế điều này không phải dễ làm. Con người chỉ có thể coi mọi người là anh em và đối xử với mọi người trong tình yêu thương khi sống giới răn thứ I: yêu mến Đức Chúa, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn. Ngươi. Khi chúng ta tin thờ Chúa, tuyên xưng Thiên Chúa là Cha. Thì từ đó, chúng ta mới nhận ra mọi người là anh em, kể cả kẻ thù. Còn ai từ chối Thiên Chúa là Cha thì không thấy được mọi người là anh em của mình, nhất là những kẻ thù nghịch mình! Đối với những ai từ chối Thiên Chúa thì ngày nào họ còn từ chối Thiên Chúa, họ sẽ không yêu thương được người khác cách chân thành mà chỉ giao tiếp dựa trên lợi danh: Vì tiền, vì chức, vì một lợi lộc nào đó. Họ sẽ đối xử với nhau theo kiểu mạnh được yếu thua. Khá lắm cũng chỉ là thương hại, bố thí chút cho kẻ bần cùng, cho đi phần dư thừa của mình, chứ không tôn trọng tha nhân đúng mức.

Lời Chúa hôm nay nhắc bảo chúng ta đừng chỉ lo cho bản thân, nhưng biết nghĩ đến anh em đồng loại như Chúa đã thương xót chúng ta. Chúng ta cũng hãy thương mến mọi người như anh em của mình. Điều này có thể thực hiện được như bài đọc I trong sách Đệ Nhị Luật nói: hãy trở về cùng Chúa. Thánh chỉ Ta truyền cho các ngươi hôm nay không quá khó, cũng không quá sức các ngươi. Lời Chúa ở sát bên các ngươi, trong lòng các ngươi, để các ngươi thực thi (Đnl 30,10-14).

Lời Chúa nói trong lương tâm mỗi người, cho dù người đó tuyên bố mình vô thần nhưng trong lòng vẫn cảm thấy một điều gì đó linh thiêng trong thế giới này và vì vậy họ kiếm tìm một tín ngưỡng để có chỗ dựa tinh thần. Vậy chúng chúng ta hãy cầu xin cho mọi người dù đã biết Chúa hay đang từ chối Chúa biết nhận ra nguồn cội của mình. Xin cho mọi người chúng ta là những người đã tuyên xưng lòng tin vào Chúa biết giữ giới răn Kính Chúa Yêu Người và trở nên dấu chỉ yêu thương giữa lòng thế giới hôm nay.

BÊN NGOÀI VÀ BÊN TRONG
Lc 10, 25 - 37

Căn bản của nền luân lý hay đạo đức Khổng - Mạnh dựa vào luật được gọi là Trung và Thứ này: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân". Nghĩa là "điều gì mình muốn kẻ khác làm cho mình thi hãy làm cho người ta", Hoặc là "Điều gì mình không muốn kẻ khác làm cho mình thì cũng đừng làm cho người ta". Đạo đức của người Việt thì tóm gọn trong một mệnh lệnh: "thương người như thể thương thân". Còn những mệnh lệnh Chúa được ghi trong sách luật xem ra thật nhiều nhưng tóm gọn lại cũng chỉ là hai: "mến Chúa và yêu người", và cuối cùng thì chỉ có một mệnh lệnh là "yêu tha nhân như chính Chúa yêu mình"

Dụ ngôn người Samariatanô hôm nay là một điển hình, là một sự phê phán đánh thẳng vào lòng tự kiêu tự đại, tính kỳ thị chủng tộc và tôn giáo của người Do Thái, đặc biệt là đối với hàng ngũ những người lãnh đạo. Thật vậy người Do Thái xưa nay vẫn hãnh diện coi mình là dân riêng của Chúa, những người được tuyển chọn tách riêng ra khỏi các dân tộc khác. Họ nại vào tư thế: "tách biệt" đó để khinh ghét những người dân ngoại, coi những người nay như đương nhiên là tội lỗi xấu xa. Qua dụ ngôn này Đức Giêsu đã vạch trần thói vô nhân đạo của họ.

Trong câu chuyện dụ ngôn cả nạn nhân lẫn ông tư tế, thầy Lêvi đều là những người Do Thái, và họ đều từ Giêrusalem xuống Giêrikhô. Nghĩa là họ vừa mới lên Giêrusalem, rất có thể là lên đền thờ cầu nguyện trở về. trông thấy nạn nhân không những không thèm dừng lại cứu giúp, còn tránh qua bên kia đường mà đi. Làm như thể mình không thấy nạn nhân. Hành động này thật không thể tha thứ được vì đã thấy mà còn cố tình trốn tránh làm như không thấy, tội ấy mới thật là nặng gấp đôi. Bởi vì bằng cách tránh qua bên kia đường, làm như không thấy, họ tự bào chữa cho con tim thối nát và lương tâm chai đá của họ: họ muốn vẫn được coi như người công chính "mến Chúa và yêu người".

Thái độ này trái ngược hẳn với thái độ người Samariô, bản văn không nói rõ là từ Giêrikhô lên Giêrusalem hay ngược lại, nhưng nếu như người ấy từ Giêrikhô đi lên, thì có nghĩa là đang đi bên kia đường, khi trông thấy nạn nhân mà theo bối cảnh ở đây là người Do Thái, mặc dù vậy ông ta vẫn dừng lại băng bó, săn sóc nạn nhân và vực lên lưng lừa của mình. Và điều này có nghĩa là ông ta phải đi bộ, nhường con lừa cho nạn nhân. Ông đưa nạn nhân vào quán trọ, đưa tiền săn sóc nạn nhân, và hứa ngày hôm sau sẽ trở lại thanh toán tiền cho xong nếu còn thiếu.

Ngày hôm nay, có người giải thích dụ ngôn theo nghĩa bóng hay ẩn dụ, coi người Samaria như biểu tượng của chính Đức Kitô, Đấng từ trời cao, xa lạ đối với người phàm, nhưng cố tình yêu thương và săn sóc loài ngưởi bị Satan đánh gục. Giải thích như thế xem ra cũng có lý, nhưng thật là nguy hiểm vì có thể dẫn người ta tránh đi việc thực hành bác ái với anh em. Thật vậy, người ta có thể cho rằng chỉ có Chúa mới có thể yêu thương người ta tới mức như vậy, còn loài người chúng ta bản chất vốn ích kỷ lười biếng đời nào chịu làm như thế....

Nhưng thực tế cho thấy thái độ của người Samari không phải là không có thật. Xưa nay vẫn không thiếu những người "dân ngoại", những người "vô thần" tỏ ra có lòng bác ái hơn những kẻ "hữu thần' những kẻ "có đạo". Trái lại cũng không thiếu những tư tế chẳng những thiếu bác ái mà còn vô nhân đạo. Thật ! "chiếc áo không làm nên thầy tu", cái nhãn hiệu Kitô giáo không miễn trừ cho chúng ta khỏi sự tham lam ích kỷ và tội lỗi. Không phải cứ hễ là Kitô giáo là chúng ta phải tốt, ngược lại đâu phải vô đạo, ngoại giáo là xấu đâu. Cũng tương tự như thế không phải cái nhãn hiệu mình mang trên mình đương nhiên chúng ta sẽ trở thành anh hùng đâu, hay những con người lý tưởng gương mẫu. Đúng! Cái vỏ không bảo đảm được cho cái ruột bên trong con người, nếu như cái ruột đó đã hư, đã thối...Trái lại cái ruột tốt dù không có bao bì đẹp hay chắc chắn bao bọc, thì vẫn cứ tốt và sử dụng được.

Dụ ngôn này không những dạy chúng ta phải có lòng bác ái với anh em, mà còn dạy chúng ta phải biết học với những người ngoài gia đình, ngoài cộng đồng tôn giáo hay chính trị của chúng ta. Đừng bao giờ có thành kiến về người khác, đừng bao giờ nghĩ rằng chỉ có mình là hay là tốt, trái lại hãy nhận ra cái tốt nơi những người vẫn bị coi là thù địch với chúng ta.

Lạy Chúa, xin cho con biết nhận ra mình, để con biết khiêm tốn hạ mình xuống trước mặt người khác, và hơn cho con luôn có lòng thường cảm yêu thương hết tất cả mọi người. Amen

LÀM GÌ ĐỂ ĐƯỢC SỐNG ĐỜI ĐỜI.
Lc 10, 25 - 37

Xin mời mỗi người nghiêm chỉnh đặt câu hỏi nầy cho chính mình kẻo không kịp.

Thường người ta lo đủ chuyện đời nầy chuyện to chuyện nhỏ đều lo còn chuyện sống đời đời thì chưa lo. Đợi giờ chót. Có khi để ngưòi khác lo cho: rước cha.

Sống thì phải được sống lâu, trăm tuổi. Nhưng sau đó thì đi đâu, ở đâu? Phải sống đời đời. Phải biết làm gì để đựoc sống dời đời.

Một người thông luật đã tỏ vẻ quan tâm nên hỏi Đức Giêsu và Người biết người nầy biết nên hỏi lại : Ông đọc thấy gì trong lề luật ? (ie. có rồi)

Yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa hết lòng hết sức....

Và yêu mến ngưòi thân cận như chính mình. Người thân cận là Do Thái, là dòng đạo có cắt bì. Ông muốn thử xem Đức Giêsu có gì mới không. Để minh hoạ cho cụ thể Đức Giêsu kể một câu chuyện làm ngạc nhiên vì tính mới mẻ.

Một ngưòi từ Giêrusalem xuống Giêricô, là Do Thái....bị cướp, gặp nạn dở sống dở chết nằm giữa đường, ai đi qua cũng phải thấy.

Một thầy tư tế rồi một thầy lê vi từ Giêrusalem về ( mới làm xong nhiệm vụ tế lễ ở đền thờ về). Là chức việc trong đạo. Thấy lạnh lùng tránh qua bên rồi đi thẳng. Không động lòng chút nào hết.

Một người Samaria, người ngoại, kẻ tội lỗi, kẻ thù của người Do Thái, đi ngang qua đó. Thấy, động lòng thương xót, ghé lại đổ dầu và ruợu, băng bó vết thương, đỡ lên lừa đưa đến quán trọ chăm sóc...tốn bao nhiêu khi trở về tôi sẽ thanh toán đủ. Tươm tất từ đầu chí cuối, không chỉ qua loa, nửa chừng. Có lòng thương xót là vậy. Thương thì thương cho trót gọt thì gọt cho trơn. Đây là tính mới mẻ: yêu kẻ thù. Có lòng thương xót mà thương xót cả kẻ thù, không phân biệt đạo ngoại. Ngoại mà có lòng thương xót thì hãy bắt chước còn đạo mà vô cảm vô tâm không có lòng thương xót thì đừng bắt chước kẻo khi phán xét Chúa Giêsu hỏi khi ta bi nạn nằm giữa đường có dộng lòng thương xót không thì trả lời làm sao ?

Không cần biết là Do Thái, Lê vi, tư tế hay Samaria ngoại giáo Chúa chỉ hỏi có lòng thương xót không, có biết động lòng không? Có thì được chúc phúc không thì thôi.

Điều răn quan trọng nhất và cũng là duy nhất có giá trị trước mặt Chúa là đây. Đây cũng là điều mới mẻ của Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu cũng sẽ phán xét theo tiêu chuẩn nầy vì Người đã dạy như vậy.

Hãy đi và làm như vậy thì được sống đời. Bảo đảm.

CHÚA NHẬT 15 TN C
Lc 10, 25 - 37

Trong bài Phúc Âm hôm nay (Lc 10, 25-37) Chúa Giêsu nói về dụ ngôn "người Samari tốt lành" để trả lời cho chàng luật sư muốn gài bẫy Chúa khi đặt câu hỏi: "Ai là người thân cận của tôi" (Lc 10, 29). Người ta đã thấy Chúa làm niều điều hay lẽ phải, ăn nói khôn ngoan, tinh thông mọi điều. Vì thế, chàng luật sư này liền đến chất vấn Chúa Giêsu. Luật của người Do Thái đã giới hạn sự giao tiếp giữa người Do Thái với những người không phải là DoThái.

Chúa Giêsu thấy chàng luật sư chưa sống đời mình một cách thực tế, còn chờ đợi, xem ai là người anh chị em của mình để yêu thương giúp đỡ. Chúa Giêsu kể câu chuyện một người đi đường từ Giêrusalem xuống Giêricô, dọc đường chẳng may bị kẻ cướp lấy tất cả đồ dùng quần áo, đánh cho nửa sống nửa chết, vắt nằm lăn lóc bên đường. Một tư tế đi qua rồi một trợ tế đi qua nhìn thấy tránh sang một bên và thản nhiên tiếp tục con đường của mình.

Tư tế và trợ tế là những bậc vị vọng trong một dân tộc mà chính quyền và giáo quyền làm một như dân Do Thái thời bấy giờ và ai cũng muốn làm bạn cùng những người đó. Trái lại sau đó, một người xứ Samaria là một nước thù địch cùng nước Giuđa lúc bấy giờ vì nạn Nam-Bắc phân tranh, người đó đi qua và hết lòng tận tình săn sóc nạn nhân người Giuđa. Kể xong, Chúa Giêsu long trọng hỏi chàng luật sư đó : "Ai là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?". Dĩ nhiên câu trả lời là người tỏ lòng thương xót giúp đỡ. Và Chúa Giêsu đã kết luận cuộc đối thoại bằng một câu đáng giá ngàn vàng : "Vậy ông hãy đi và làm như thế". Hãy thực tế, đừng ngồi đó hỏi ai là anh chị em tôi để tôi yêu mến, để tôi lo lắng, để tôi săn sóc. Nhưng trước tiên hãy sống tỏ ra mình là người anh chị em của mọi người trước đã. Khả năng tỏ ra anh chị em của người khác ở trong tay của mình, đừng ngồi đó chờ mà hãy thực hành ngay.

Đối với chàng luật sư, luật cũ dựa trên nhân bản, lấy con người của mình làm tiêu chuẩn để cư xử: "Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và người thân cận như chính mình" (Lc 10, 27). Xét về mặt công bằng xã hội, nếu chúng ta tôn trọng nhân vị của người khác như chính bản thân mình, đó là điều tốt. Sách Giáo Lý Công Giáo cũng dạy: "Mỗi người hãy coi tha nhân, không trừ một ai như chính bản thân mình" (GLCG số1931)

Đối với Chúa Giêsu, dựa trên tinh thần đạo đức siêu nhiên, Ngài đã bổ túc luật cũ, lấy tiêu chuẩn hành động là Thiên Chúa; "Đây là điều răn của Thầy: " Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con" (Ga 15, 12; 13, 34). Công Đồng Vaticanô II trong Hiến Chế Lumen Gentium đoạn 40 cũng nhắc nhở: "Bởi vậy, Người đã sai Thánh Thần đến với mọi người, để từ bên trong Ngài thôi thúc họ yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn cùng hết sức họ (Mc 12,30) và yêu thương nhau như Chúa Kitô yêu thương họ" (Ga 15, 12; 13, 34)

Chúa Giêsu đã không những chỉ dạy về sự chạnh lòng thương, mà chính Ngài là lòng thương xót, chính Ngài đã đóng vai trò của người Samari tốt lành. Nhân loại chúng ta là những nạn nhân bị đánh đập, cướp bóc, bị thương tích nửa sống nửa chết, bị bỏ rơi dọc đường trên cuộc hành trình tìm về sự sống vĩnh cửu. Tình yêu thương, sự chạnh lòng thương xót của Thiên Chúa được thể hiện qua việc nhập thể, mang lấy thân phận làm người, cùng chịu đau khổ, chịu chết và sống lại. Chúa Giêsu đã đến gần chúng ta, săn sóc lo lắng cho chúng ta. Ngài từ phía trời cao, xuống thế, và tự đặt mình vào trong hoàn cảnh của chúng ta. Chính Ngài là người hàng xóm đã chạnh lòng thương chúng ta. Mặt khác, Người cũng chính là nạn nhân của nhân loại, đã bị đánh đập tàn nhẫn và chết thê lương trên thập giá mà không có ai cứu chữa (Mc 15, 34). Chúa Giêsu là Người tôi tớ rao giảng sự công chính, như con chiên bị sát tế cách bất công (Cv 8, 32; Is 50, 6). Chúa Giêsu đặt ra một thử thách lớn đối với những người đồng hương Do Thái của Ngài. Trong bối cảnh lịch sử thời ấy, người Do Thái và Samaria là những kẻ thù cay đắng của nhau. Người Do Thái nhìn người Samaria là loại công dân bậc hai hay ba, vì họ không còn mang dòng máu thuần khiết Do Thái nữa. Chúa Giêsu cũng muốn nói với chúng ta ngày nay rằng: "Mỗi người ở một lúc nào đó đều là thân cận, bởi mỗi người sẽ có lúc cần phải được giúp đỡ, ngay cả kẻ thù đáng ghét nhất của bạn. Hãy biểu tỏ lòng thương xót - chạnh lòng thương- qua việc phục vụ cho bất cứ ai đang cần giúp đỡ".

Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta phải thực tế, phải sống và tạ ơn vì những gì Chúa đã ban, phải vâng theo những lề luật Chúa ghi khắc trong tâm hồn và dạy phải tuân giữ. Hằng ngày chúng ta gặp những người cô đơn, bị bỏ rơi, thiếu tình thương và chăm sóc, bị ngược đãi, thất vọng, chán nản và mặc cảm tội lỗi. Họ kêu cứu trong bài đáp ca hôm nay "Tôi buồn sầu và đớn đau" chúng ta đừng bỏ qua. Hãy dừng lại và giúp họ. Có rất nhiều cách mà chúng ta có thể thực hiện như: một nụ cười chân thành, một lời chào vui vẻ, sự ân cần thăm hỏi có thể giảm bớt nỗi đau của một tâm hồn sầu muộn, một lời "cảm ơn" nồng nàn có thể khích lệ một người bị quên lãng, bị khinh khi. Tình yêu chân thành sẽ chỉ cho ta biết phải làm sao. Tình yêu có thể cảm hoá lương tâm và thay đổi cách sống của một người. Tình yêu có tác dụng trên tha nhân và làm cho họ trở nên tốt hơn.

Câu chuyện Chúa Giêsu kể hôm nay, chỉ cho chúng ta biết ai là người thân cận mà chúng ta phải yêu thương. Người cho chúng ta sức mạnh, sự khôn ngoan để yêu thương qua tình yêu của Ngài. Trong tuần này, để thực hành Lời Chúa, chúng ta cùng nhau làm những việc cụ thể như thay vì nghĩ xấu, nói xấu tha nhân thì chúng ta hãy nghĩ tốt nói tốt cho tha nhân, tìm cách giúp đỡ tha nhân một cách tận tình và bác ái hơn. Làm cha mẹ, hãy dạy cho con cái sống trong sạch, yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì chính Ngài là suối nguồn yêu thương, dạy cho ác em nhỏ biết kính trọng người lớn và chân thành yêu thương những người kém may mắn. Cuối cùng, mọi người hãy cầu nguyện để xin Chúa cho mình quảng đại yêu thương như Chúa Giêsu yêu thương.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng ta thành người Samaritanô nhân hậu, biết yêu thương và sẳn sàng giúp đỡ tha nhân bằng tình yêu mà Chúa muốn. Amen.

CHÚA NHẬT XV THƯỜNG NIÊN
Lc 10, 25 - 37

Anh chị em thân mến.

Người Việt Nam thường nêu lên câu :"ách giữa đàng mang vào cổ" để tránh né những việc mà họ cho là không mang lại ích lợi gì cho mình mà nhiều khi con mang đến những phiền phức không đâu.

Vừa qua trên một rrang báo, tôi đọc thấy một câu chuyện thương tâm: một cô gái trẻ bị bảy chàng thanh niên hảm hiếp. Vì quá khiếp đảm, thần kinh bị suy sụp nặng. Tôi tự hỏi vì sao có tình trạng như thế. Cô ta đi lạc đường, tìm cách hỏi thăm đường về nhà, nhưng mọi người tưởng cô là người không tốt nên tìm cách xa lánh, không dám tiếp xúc. Trời tối dần, việc gì đến rồi cũng phải đến. Nếu những người khách qua đường quan tâm hơn một chút thì không việc gì xảy đến. Nếu họ dám để ra một chút ít thời giờ để lắng nghe, nếu họ chịu để cho con tim của mình biết run động một chút, để đáp ứng nhu cầu của người khác. Nếu họ biết quên mình một chút mà hướng đến người khác, thì mọi sự sẽ trở nên tốt hơn rất nhiều.

Trong bài phúc âm chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu cho người thông luật một thí dụ điển hình để thực hành luật yêu thương. Ông ta thuộc lòng hơn 600 điều luật trong sách, ông ta tuân giữ thật chu đáo. Nhưng chỉ giữ trong lý thuyết, còn thực hành cụ thể thì: "ai là người thân cận của tôi". Ngài cho một câu chuyện và bảo: "ngươi hãy đi và làm như thế". Người thân cận để thực hành yêu thương là tất cả mọi người, không loại trừ ai, khi những người đó có nhu cầu cần thiết đến sự giúp đở, lòng thương xót, sự tha thứ. Yêu thương thì không còn chọn lựa, không còn phân biệt đẳng cấp sang hèn. Đó mới là điều mà Chúa Giêsu bảo: "Ngươi hãy đi và làm như thế".

Mỗi người trong chúng ta, thuộc kinh thánh rất nhiều, thuộc giáo lý cũng rất nhiều, còn kinh đọc thì không biết bao nhiêu mà kể cho cùng. Nhưng để thực hành những gì mình biết, những gì mình gọi là đã giữ từ nhỏ thì thật là rắc rối. Chúng ta cũng không biết ai là người thân cận để thi hành lề luật. Chúng ta thuộc lòng mười điều răn, rồi còn tóm lại hai điều: kính mến Chúa và thương yêu người.

Nhưng thương yêu ai và bằng cách nào thì không bao giờ dám nghĩ đến. Vì chúng ta giữ đạo làm sao không thiệt hại bản thân, không mất mát những gì mình có, không đụng đến quyền lợi cá nhân, chúng ta cũng sợ ách giữa đàng mang vào cổ, nên không thể nào nhìn thấy được nhu cầu của người thân cận để thi hành luật yêu thương được. Nhiều lần chúng ta cũng hỏi như người thông luật trong bài phúc âm: "ai là người thân cận của tôi"? Chúa Giêsu không chỉ cho chúng một câu chuyện, nhưng rật nhiều và rất nhiều, Ngài cũng bảo chúng ta nhiều lần: "hãy đi và làm như thế".

Mỗi người trong chúng ta để ra một phút suy tư, nhìn lại những gì mình đã làm gọi là giữ đạo, để xem mình đã sống đạo như thế nào?

Biết bao lần, chúng ta từ chối những lời van xin thống thiết của người khác khi họ cần đến chúng ta. Rất nhiều lần chúng ta né tránh những việc mà đáng lẽ ra mình phải làm để cho người khác vơi đi phần nào khó khăn. Cũng rất nhiều lần chúng ta từ chối vì nhiều lý do: không phải việc của tôi, hay tôi không có thời gian, không có khả năng. Hay một câu nói hết sức không chút tình người "đừng dại mà vướng vào". Có phải đó là những lúc mà chúng ta sống đạo đó sao? Vậy thì lời Chúa Giêsu bảo chúng ta "hãy đi và làm như thế", chúng ta thực hành như thế nào? Không lẽ lời đó chỉ có giá trị cách đây 2000 còn bây giờ thì không giá trị gì cho chúng ta sao? Như vậy thì vô ích quá.

Nếu chúng ta biết nói một lời dịu dàng khi cần thiết, biết nở một nụ cười an ủi, biết mở rộng vòng tay để đón nhận ai cần đến, biết để cho con tim run động trước những cảnh thương tâm và sẵn sàng hành động, thì lúc đó, Lời của Chúa Giêsu "hãy đi và làm như thế", đã thực sự được thể hiện cách chu đáo nơi bản thân của chúng ta rồi đó.

Xin Chúa cho mội người biết thực hành yêu thương cách sống động trong cuộc sống đời thường.

BÁC ÁI BẰNG HÀNH ĐỘNG
Lc 10, 25 - 37

1. "Thương người như thể thương thân", hay "Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn": những câu ca dao tục ngữ như thế nói lên sự thông cảm chia sẻ với nhau trong cuộc sống cho dù có thể có những khác biệt. Thế nhưng trong cuộc sống không thiếu những người chỉ biết quan tâm đến mình mà chẳng hề biết giúp đỡ người khác, dù trong lúc đó họ rất cần đến sự giúp đỡ của ta. Đó cũng là thái độ vô tâm của thầy tư tế và thầy trợ tế (Lêvi) đối với người bị nạn như trong dụ ngôn mà Chúa dùng để nói với người thông luật, thái độ này đối nghịch với thái độ đầy nhân ái của người bị xem là ngoại đạo Samaria.

2. Thầy tư tế và trợ tế trên lộ trình của mình đã thấy một nạn nhân bị kẻ cướp đánh nhừ tử, nhưng cả hai đều bỏ qua, như thể không hay biết gì! Các ông tránh qua một bên vì sợ những phiền lụy có thể đến với mình, khi dừng chân lại giúp người bị nạn. Bởi biết đâu kẻ cướp còn đang rình rập gần xa đâu đó? Biết đâu nạn nhân nầy không có một xu dính túi, nếu dừng lại giúp đỡ vừa mất thời giờ, công sức và tiền bạc? Biết đâu khi giúp nạn nhân nầy sau đó còn phải mất giờ làm chứng khi nhà chức trách đến làm việc? Còn nếu nạn nhân nầy đã chết rồi, mà đụng chạm như thế thì bị mắc uế...! Có nhiều lý do, nhưng tự trung lại những bậc thầy nầy chỉ biết luật mến Chúa yêu người trên lý thuyết. Còn trong thực tế, các thầy chẳng quan tâm gì đến nỗi khốn khổ của người khác !

3. Ngược lại người Samaria , bị xem là kẻ ngoại lai, vô đạo lại cư xử rất nhân đạo "thương người như thể thương thân". Đang trên lộ trình, có thể anh rất bận rộn, nhưng khi thấy người bị nạn giờ đây việc hàng đầu của anh là cứu người. Bất chấp người đó có đồng chủng, đồng đạo với mình hay không, điều này không cần thiết ! Tin Mừng cho thấy anh tự tay chăm sóc nạn nhân, anh cũng không sợ hao tốn sức lực, tiền bạc, ô uế...gì cả. Anh hiểu rằng tình người và mạng người là trên hết. Không biết anh biết luật bác ái đến mức độ nào ? Nhưng anh đã thực thi bác ái. Anh đã bén nhạy cảm thông trước nỗi đau của đồng loại. Anh đã giữ luật nội tâm.

Thầy tư tế và trợ tế xem ra không phạm một tội gì, nhưng lại bỏ qua việc phải làm, đó là giúp đỡ người bị nạn. Còn người Samaria thật đáng khen đã làm một điều khi nhận ra điều mình phải làm.

4. Chúa bảo người thông luật đang đối thoại với Chúa, cũng là bảo mọi người chúng ta cứ "làm như vậy" là sẽ được sống. Chúng ta lưu ý cụm từ "làm như vậy" được lập đi lập lại (x. Lc 10,28; 37), tức là muốn có được sự sống đời đời hãy thực thi, hãy làm việc bác ái đối với người khác chứ không chỉ nói suông. Trong Tin Mừng Matthêu chương 25 nói về việc phán xét chung, tiêu chuẩn hàng đầu được Chúa đưa ra đó là chúng ta có thực thi bác ái đối với tha nhân, hiện thân của Thiên Chúa, nhất là những người đau khổ, thiếu thốn đang cần sự giúp đỡ của ta hay không ? Có thể nói, những việc bác ái như là tấm vé thông hành để ta vào NướcTrời. Hãy biến lòng yêu thương thành những hành động cụ thể, bởi nếu chỉ nói suông hay chỉ có lòng yêu thương mà không thể hiện bằng việc làm thì đâu có lợi ích gì cho người mình yêu thương ! Ta vẫn thường nghe nói :"Từ trái tim đến đôi tay là một con đường dài". Vì thế Mẹ Têrêsa Calcutta đề nghị mỗi tối trước khi đi ngủ, ta chỉ cần xét mình nhờ nhìn vào 2 bàn tay : hôm nay tôi đã làm gì cho Đức Giêsu và với Đức Giêsu ?

5. Ngay cả về phương diện tự nhiên, sống trên đời này không ai mà không cần đến sự giúp đỡ người khác, không ai là một hòn đảo, chúng ta vẫn thường nghe nói "sỏi đá cũng cần có nhau", vật vô tri vô giác mà còn phải nương tựa vào nhau. Hôm nay ta chưa gặp hoạn nạn, nhưng biết đâu một ngày rất gần chúng ta lại cần đến sự giúp đỡ của người khác, cho nên hãy tập tinh thần nhạy bén quan tâm, giúp đỡ người khác. Muốn vậy phải bỏ bớt cái tôi ích kỷ, cái vô tâm của mình.

Mỗi người hãy nhìn lại, là thành viên của gia đình, cộng đoàn, nhóm tông đồ... nhưng chúng ta có thấu hiểu, cảm thông, chia sẻ nổi niềm đau đớn tinh thần cũng như thể xác của người thân trong gia đình, của cộng đoàn, của nhóm mình hay không ? Hay chúng ta vẫn vô tâm trước những đau khổ của người khác? Hay chúng ta thay vì xoa dịu lại còn gây thêm đau khổ cho người khác?

6. Hành động bác ái còn có tác dụng rất lớn trong việc truyền giáo. Tôi biết được nhiều người trở lại đạo vì họ cảm kích việc bác ái của người Công Giáo. Chẳng hạn như ở họ đạo mà tôi đang phục vụ, có nhiều người Công Giáo sống xa nhà thờ, xen lẫn với bà con lương dân, khi các gia đình Công Giáo hay các gia đình lương dân nầy có tang chế, những người giáo dân trong họ đạo không quản ngại xa xôi, hao tốn đến giúp về tinh thần lẫn vật chất... những việc làm như thế rất đánh động bà con lương dân và sau đó thường có những người xin học đạo. Như thế hành vi bác ái không những chứng tỏ chúng ta là môn đệ thật của Đức Giêsu, mà còn có thể qua đó giúp tha nhân đến với Chúa nữa.

7. Mến Chúa và yêu người không thể tách rời nhau. Thật vậy, yêu thương giúp đỡ người khác mà thiếu lòng yêu mến Chúa thì việc làm đó khó bền vững và thường dẫn tới tự cao tự mãn. Yêu thương giúp đỡ người khác như là dấu chỉ của lòng yêu mến Chúa, như thánh Giacôbê đã từng dạy rằng : đức tin không có việc làm là đức tin chết. Hay như mẹ Têrêsa đã nói: hoa trái của đức tin là bác ái, hoa trái của bác ái là phục vụ, hoa trái của phục vụ là bình an.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết quan tâm giúp đỡ nhau, như là giúp cho chính Chúa. Amen.

AI LÀ ANH EM?
Lc 10, 25 - 37

"Thưa Thầy, nhưng ai là anh em thật của tôi." (Lc 10, 29)

Trước năm 75, có một bài hát sinh hoạt lời như sau: "kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai?" Đúng, kẻ thù không phải là con người; bài hát kể tiếp: kẻ thù chính là sự gian ác - vô luân - hờn câm... Bởi vì nếu kẻ thù là con người, thì khi ta giết họ, ta sẽ ở với ai đây. Sau năm 75, Có một câu người ta hay lấy làm châm ngôn: "Bạn bè, phải giúp đỡ; kẻ thù, phải tiêu diệt". Câu này chắc chắn có nhiều người không nhận. đây chình là đề tài ta sẽ suy niệm trong Chúa nhật hôm nay.

a. Một vài ghi chú để hiểu rõ bài dụ ngôn này:

* con đường từ Giêrusalem xuống Giêricô: lối 20 cs, băng qua sa mạc gồ ghề khúc khủy, đến ngày hôm nay vẫn còn nhiều bọn cướp lộng hành

* Thày Tư tế: theo luật có bổn phận lo việc phụng tự lễ bái. Ông vừa làm phận sự xong và từ Giêrusalem trở về Giêricô. Hiện tại, ông không có gì ngăn trở để giúp đỡ nạn nhân này, nhưng ông né tránh vì nghĩ mình đã đủ bổn phận rồi.

* Thầy Lêvi: tuy Luật có định, ai đụng vào xác chết là bị ô uế trong ngày đó (Lv 11, 24); nhưng người bị cướp này vẫn chưa chết mà! Chúng ta cũng nên biết trong Đệ nhị Luật còn qui định (Đnl 22, 4): khi thấy bò hay lừa bị ngã, thì đỡ nó dậy... Bò hay lừa mà Luật còn định như thế, huống cho con người ta. Vậy mà Thầy Lêvi vẫn bỏ đi; đây là một thiếu sót lớn lắm...

* người Samaritanô: dân Samaria cũng gốc là người Do thái, nhưng tách lìa nhau từ năm 935 vì lý do Do thái bị chia làm hai nước nam và Bắc, thời vua Omri. Dân Samaria sống chung với dân ngoại nên bị lây nhiễm thói tục ngoại bang. Sau thời lưu đày, Nêhêmia đưa dân trở về quê hương và xây lại đền thờ Giêrusalem. Người Do thái khinh bỉ dân Samaria nên đã không cho họ góp phần vào việc xây lại đền thờ; vì thế, họ tức giận nên đã xây đền thờ riêng trên núi Garizim. Dân Samaria cũng tôn thờ một Chúa Giavê, nhưng chỉ tin vào 5 cuốn sách đầu của Cựu Ước mà thôi. Giữa người Do thái và Samaria luôn có sự kỳ thị kình chống nhau rất lớn. Chúa Kitô muốn dùng hình ảnh người Samaritanô nhân hậu không phải để đả kích người do thái, nhưng chắc chắn Chúa muốn nói lên tình yêu chân thật xuất phát từ trái tim, không phải từ nguồn gốc, địa vị hay chủng tộc...

b. Chúng ta hôm nay nghỉ gì đây? Người ta có thể nói: Dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu nói lên các hình ảnh khá rõ nét: hình ảnh người Samaritanô chính là Đức Kitô. Con đường Giêricô: là con đường ở trần gian. Quán trọ: là Hội thánh Chúa Kitô. Dầu và rượu: hình ảnh phép Thánh Thể. Người bị cướp: con người, nhân loại chúng ta...

Đây là một trong những dụ ngôn rất đẹp, Luca muốn ghi lại để gởi cho người Do thái; (vì Tin Mừng của Luca viết ra là để dành cho người Do thái đọc) nói lên lòng mến Chúa yêu người đích thực hệ tại ở đâu, phải thể hiện ra sao, để có được sự sống vĩnh cữu. Như trên ta thấy, người Samaritanô nhân hậu, đã sẵn sàng cuối xuống ôm lấy đau thương của anh em mình, dù người đó là ai: Do thái hay Samria, người đó có yêu thương kính trọng mình hay không. Tấm lòng bao dung nhân ái của người Samaritanô cao cả quá! Ngay hôm nay, nhân loại hô hào yêu thương, quảng đại, tha thứ, xóa bỏ hận thù, nhưng thực sự được mấy người. Con người ngày nay không chỉ đói lương thực, mà còn đói cả tình thương nữa!

c. Gợi ý sống và chia sẻ: Chúng ta hãy dâng lên Chúa lời cầu nguyện chân thành như sau: Lạy Chúa xin dạy cho con biết sống bao dung, quảng đại, tha thứ như người Samritanô nhân lành, để giảm đi cơn đói khát của nhân loại không phải chỉ cơm bánh hàng ngày, mà là những đau thương nước mắt, nhất là cơn đói tình thương. Amen.

BÁC ÁI KITÔ GIÁO - BÁC ÁI KIỂU MẪU
Lc 10, 25 - 37

Lm. Giuse Nguyễn Thành Long

Người ta thường chia bác ái ra làm nhiều loại tuỳ theo đặc tính của nó : bác ái đổi chác, theo nghĩa "bánh ít đi, bánh qui lại"; bác ái ngân hàng là bác ái kiểu cho vay lấy lãi một cách sòng phẳng; bác ái vị tha là bác ái hoàn toàn cho đi một cách vô vị lợi; bác ái quảng đại tức là biết sẵng sàng trao ban hơn cả những gì mà đối tượng chờ đợi, v.v... Thế còn bác ái Kitô giáo là loại bác ái nào?

Câu chuyện Dụ ngôn trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho ta biết bác ái Kitô giáo đúng nghĩa là gì. Theo trình thuật của thánh Luca, thì cả 3 nhân vật trong câu chuyện: người Samaria, thầy Tư Tế và thầy Lêvi đều trông thấy nạn nhân bên đường, nhưng chỉ có người Samaria biết "chạnh lòng thương". Tuy nhiên, ông không chỉ dừng lại ở mức độ "từ ánh mắt" (trông thấy) "đến trái tim" (chạnh lòng thương); mà còn "đến cả đôi tay", tức là bằng những hành động rất cụ thể.

Ông ta dừng lại, đến gần bên nạn nhân, cúi xuống, đổ dầu rượu (có lẽ ông đã dốc cạn dầu và rượu để làm dịu bớt sự đau đớn cho người bị nạn) và băng bó cẩn thận sau khi đã tẩy trùng cho vết thương, rồi đặt nạn nhân lên lưng lừa và đưa tới quán trọ mà săn sóc. Hơn thế nữa, ông còn ở lại với người bị nạn: "Hôm sau ông đưa ra hai quan tiền". Từ ngữ "hôm sau", mặc nhiên ta có thể hiểu ông đã ở lại với nạn nhân qua đêm để cho người đó qua khỏi cơn nguy kịch đã, rồi mới an lòng ra đi. Chưa hết, ông còn thanh toán mọi chi phí, và dặn dò cặn kẽ với người chủ quán: "Nhờ bác săn sóc người này, có tốn kém bao nhiêu, chính tôi sẽ chi trả khi trở về". "Chính tôi" sẽ chi trả chứ không phải vợ con anh ta, cha mẹ anh ta, cũng không phải nhà băng, hay dịch vụ bảo hiểm y tế. Lòng quảng đại của ông thật tuyệt vời! Ông đã không ngại hy sinh thời giờ, sức lực và cả tiền bạc. Nói cách khác, ông đã quảng đại cho đi tất cả, nhất là cho đi chính mình.

Chính cung cách cư xử của người Samaria này đã làm nỗi bật lên đức ái hoàn hảo của Tin Mừng. Dụ ngôn cũng muốn ám chỉ cho ta thấy Đức Kitô đích thực là người Samaria nhân hậu đối với nhân loại chúng ta, khi Ngài đã sống trọn hảo đức bác ái đó của Tin Mừng. Ngài đã rời bỏ mọi vinh quang Thiên Quốc để đến trần gian. Ngài đã cúi xuống trên nhân loại khổ đau để băng bó và chữa lành các vết thương do tội lỗi và sự chết gây ra. Đoạn Ngài ra đi, để nhân loại trong quán trọ là Giáo hội của Ngài, để Giáo hội trông nom và chăm sóc hộ Ngài.

Và bây giờ đến lượt chúng ta cũng phải tiếp tục nhiệm vụ của người Samaria nhân lành bên cạnh tất cả những người mà chúng ta gặp gỡ: chân tình giúp đỡ và băng bó các vết thương của họ. Vết thương của nghèo đói, đau khổ, bệnh tật, cô đơn, chết chóc,... Con đường từ Giêrusalem tới Giêricô chính là đường đời, trên đó không thiếu những con người bất hạnh, bị bỏ rơi, bị bóc lột, bị để mặc trong tình trạng sống không ra sống, chết không ra chết. Họ đang là những nạn nhân của bạo lực, bất công, bệnh tật, chiến tranh hận thù... "Hãy đi và làm như vậy" luôn là một mệnh lệnh có tính cấp bách.

Chính vì thế, sứ điệp Tin Mừng đang thôi thúc chúng ta nỗ lực mỗi ngày làm một việc bác ái cụ thể trong môi trường mà mình đang sống: nơi thôn xóm, nơi công sở, nơi trường học, trên đường đi. Hãy làm với một niềm tin tưởng rằng mỗi một cử chỉ bác ái mà ta làm cho tha nhân, dù nhỏ bé đến đâu, cũng đều góp phần làm cho tình yêu của Thiên Chúa lan toả và làm cho nền văn minh tình thương của nhân loại được thăng hoa.

Chính Chúa Giêsu đã dạy rằng: "Không phải bất cứ ai cứ kêu lên: 'Lạy Chúa, lạy Chúa' là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Chúa Cha, kẻ ấy mới được vào mà thôi" (Mt 7, 21 ). Ngài cũng đã dạy rằng Thiên Chúa chỉ tính sổ với ta về những hành động yêu thương, bác ái mà ta đã làm hoặc đã không làm cho những người anh em của ta (x. Mt 25).

Xin cho điều Chúa dạy, "hãy đi và làm như vậy" được mỗi người chúng ta ghi tâm khắc cốt và nỗ lực đem ra thực hành, để ta "được sự sống đời đời", sự sống mà Chúa đã hứa ban cho tất cả những ai biết lắng nghe và thực thi vuông tròn các huấn lệnh của Ngài. Amen.

NGƯỜI SAMAIRIA NHÂN HẬU
Lc 10, 25 - 37

Lm. Jude Siciliano, OP

Câu chuyện về người Samarita nhân hậu là một trong những câu chuyện nổi tiếng nhất trong Kinh thánh. Thậm chí những không đọc Kinh thánh cũng biết "người Samarita nhân hậu" là gì. Trong thế giới luật pháp có "luật người Samari nhân hậu," luật này yêu cầu bảo vệ hợp pháp với những ai giúp đỡ chính đáng cho người khác khi người đó bị thương tích, đau yếu hoặc trong những tình cảnh hiểm nghèo. Luật người Samarita nhân hậu này nhằm khuyến khích người khác trợ giúp những ai lâm cảnh hoạn nạn.

Dụ ngôn về người Samarita nhân hậu được thuật lại do một người kể chuyện điêu luyện và câu chuyện có những nét đặc biệt của một "chuyện kể hay." Một số đặc điểm của câu chuyện hay được chứng thực qua việc sử dụng sự tái diễn, việc chú ý đến chi tiết và một cụm từ được lặp đi lặp lại để tạo ra sức ảnh hưởng có ấn tượng. So với những yếu tố khác, thì những yếu tố này là nét đặc trưng của một dụ ngôn. Ví dụ, bên cạnh những nét đặc trưng gây ấn tượng và khung cảnh khắc nghiệt của câu chuyện, dụ ngôn còn có một cụm từ được lặp đi lặp lại, đó là một hiệu quả hùng hồn.

Chúng ta được nghe kể hai lần rằng cả hai vị kinh sư và Lêvi, khi thấy người đàn ông dở sống dở chết, đều "tránh sang một bên mà đi." Thật là một cú sốc đối với những thính giả của Đức Giêsu! Hai nhân vật đạo đức, những vị mà người khác mong đợi sẽ dừng lại để cứu giúp, nhưng rồi lại đi qua. Không những thế, họ còn "tránh qua bên kia" mà đi, như thể hai vị này tỏ một thái độ lạnh nhạt giữa mình và nạn nhân đang đau khổ quằn quại kia. Vào thời Đức Giêsu, tất cả mọi người quá quen thuộc với những vụ hành hung xảy ra dọc đường từ Giêrusalem đến Giêrikhô. Vậy, dụ ngôn của Đức Giêsu kể về một trong nhiều nạn nhân dọc con đường nguy hiểm đó. Vì thế, những ai nghe câu chuyện trên đây đều có thể hiểu tại sao hai người lữ hành đơn độc kia lại vội vã khi đi qua nơi này, vì những kẻ tấn công có thể vẫn còn ẩn nấp đâu đó, và đang chờ thời cơ để ra tay với nạn nhân khác.

Chúng ta cũng nghe nhiều về những câu chuyện bi thảm của người gặp đau khổ. Truyền thông đã cho chúng ta biết nhiều về nỗi đau trên toàn thế giới, như hậu quả của những cơn bão, lụt lội và cháy rừng, điển hình là nạn cháy rừng vừa xảy ra tại tiểu bang Arizona - Mỹ, cướp đi sinh mạng của 19 lính cứu hỏa. Chúng ta còn nghe nhiều câu chuyện đau thương khác xảy ra, không chỉ vì thiên tai, mà còn hậu quả từ những kẻ tàn bạo giáng xuống cho người khác. Con đường từ Giêrusalem đến Giêrikhô có nhiều đau khổ, như nội chiến, những xung đột diễn ra khắp nơi trên thế giới; tình trạng bất ổn ở Aicập; những vụ ném bom bên đường ở Afghanistan; các cuộc tấn công tự sát ở Iraq; và chúng ta không thể quên được nỗi kinh hoàng trong quá khứ về cuộc tàn sát và thủ tiêu của người Khơme đỏ đã gây ra cho hơn 1 triệu người Campuchia.

Quá nhiều nỗi kinh hoàng gợi lên trong tâm trí chúng ta những câu hỏi: Con người với nhau sao lại để cho những đau thương này xảy ra? Những người nhân hậu đâu cả rồi? Tại sao họ không kêu gào lên và ra tay hành động? Tại sao con người lại giữ thái độ thơ ơ lạnh nhạt với người khác như thế? Nên chăng phải để cho người ngoài cuộc không quá ngây ngô trong khi kẻ khác đang lâm vào cảnh thừa chết thiếu sống như vậy?

Mới đây Johanna Vos đã qua đời. Trong thời gian Chiến tranh thế giới II, bà và người chồng của mình là Art đã đánh cược mạng sống của mình khi cho những người hàng xóm Dothái trốn khỏi cơ quan mật vụ Đức quốc xã. Họ và những người khác có hành động anh hùng tương tự đều được biết đến như những "vị cứu tinh." Những "vị cứu tinh" này là những con người bình thường, mà họ lại lấy sự mạo hiểm lớn lao để cứu các nạn nhân "bên đường." Người ta ước tín khoảng 500.000 người Dothái được cứu sống nhờ những "vị cứu tinh" trong những ngày kinh hoàng đó.

Một cuộc nghiên cứu được thực hiện về những người như các "vị cứu tinh" này. Câu hỏi được đặt ra là: điều gì làm cho họ liều lĩnh như thế? 50 năm sau, khi được hỏi đến lý do tại sao liều lĩnh cứu người như vậy, thì Johanna và Art trả lời với một cung giọng hết sức bình thường rằng: "Chúng tôi không suy nghĩ gì về việc mình làm. Chúng tôi làm những việc mà bất cứ người nào cũng đều có thể làm." Nhưng chẳng may, lịch sử lại không xác nhận về việc làm đó; lại có quá nhiều người vẫn còn là người bàng quang khi kẻ khác đang lâm vào cảnh nguy nan. Họ không dám băng qua bên kia đường để ra tay cứu giúp kẻ gặp nạn.

Cuộc nghiên cứu kết luận rằng: những vị cứu tinh đến từ tất cả mọi tầng lớp con người, họ là những người có giáo dục hay không có giáo dục, giàu hay nghèo, những người có niềm tin hay vô thần. (Đó là những thực trạng của người Samarita, những người Dothái bị trấn lột, và bên ngoài vỏ bọc của những người đạo đức tuân thủ luật pháp). Những vị cứu tinh là những người theo chủ nghĩa cá nhân; trong khi những người khác lại chạy theo nhu cầu của xã hội, họ không biết ngượng ngùng về những việc mà người khác mong đợi họ làm. (Gia đình, bạn bè và xã hội có thể gây ra áp lực và ngăn cản những hành động tốt.) Hơn nữa, nhiều vị cứu tinh có lịch sử về những việc làm tốt, như: thăm hỏi những người trong bệnh viện; sưu tầm sách báo cho sinh viên nghèo; chăm sóc những động vật đi lạc, v.v... Bản báo cáo về những vị cứu tinh cho hay rằng: "Họ đơn thuần là có thói quen làm việc tốt. Vì vậy, khi có một nhu cầu nảy sinh, họ thường xuyên đáp ứng."

Những ai giúp đỡ cho người tuyệt vọng trong chiến tranh thì đều có ý thức về sự "phổ quát." Họ không nhìn thấy những người Dothái như thể là người Dothái ưu tiên, nhưng nhìn thấy đó là con người. (Người Samarita trong câu chuyện không nhìn thấy người Dothái hay người Samarita bên vệ đường, nhưng đã nhìn thấy một người bị nạn.) Sau cùng, các cuộc phỏng vấn với những vị cứu tinh chứng tỏ họ tin rằng, ân sủng của lòng tốt sẽ qua đi; đó chính là bản tính tự nhiên trong mỗi con người, nhưng nó phải được trau dồi và nuôi dưỡng. (Điều này khuyến khích chúng ta phải nêu gương cho con cái về việc chăm sóc người khác, đặc biệt đối với những cá nhân nằm bên lề xã hội.)
Chuyển ngữ : Anh em HV Đaminh Vò Vấp

QUÂN VÔ ĐẠO
Lc 10, 25 - 37

Lm Vũ đình Tường

Những người tự nhận là dân riêng khi nói đến người khác tôn giáo thường nói là quân vô đạo hay người thờ tà thần. Một số bất mãn cho câu nói trên là kiêu căng, khinh thường các tôn giáo khác. Số khác nhẹ nhàng hơn coi đây chỉ là thói quen khi nhắc đến tôn giáo khác mà trong tâm không có í khinh thường. Ngày nay danh từ thông dụng là các tôn giáo bạn. Riêng chữ bạn đủ nói lên í nghĩa của việc quí mến, coi trọng niềm tin khác tôn giáo.

Nhóm tự nhận là dân riêng không đồng nhất khi nói về chính họ. Người Do Thái cho rằng họ là dòng dõi tổ phụ Abraham, được Ya vê tuyển chọn và đặt Giao Ước. Như thế những ai không nằm trong Giao Ước đều không phải là dân riêng. Đế quốc Rôma thì coi những ai không là công dân của họ đều không phải là dân riêng. Tôn giáo tự nhận là thánh nhân hậu thế- The Latter Day Saints Church chỉ tín hữu của họ là dân riêng. Một số môn đệ Đức Kitô cho là những ai chưa lãnh nhận Thánh Thần thì chưa phải là dân riêng. Thánh Phaolô cho rằng những ai tin vào Đức Kitô sống lại từ cõi chết họ sẽ được ơn cứu độ. Theo Ngài thì không còn La Mã hay Hi Lạp, nô lệ hay tự do, không còn phân biệt nam trọng hay nữ khinh mà tất cả đều là con Thiên Chúa. Roman 10,9-12 và Galatian 3,28.

Đức Kitô trong cuộc đời rao giảng Ngài luôn kêu gọi mọi người xám hối và tin vào Tin Mừng. Như thế Thiên Chúa chọn tất cả và những ai đón nhận Tin Mừng trở thành dân riêng. Điều này dẫn đến tình trạng có người đón nhận lời rao giảng cũng có kẻ từ chối chấp nhận. Như thế người tự loại ra ngoài dân riêng không phải là Thiên Chúa loại họ ra mà chính họ loại họ ra khỏi dân riêng.

Những người đón nhận lời kêu gọi xám hối và tin vào Tin Mừng mang theo họ nhiều ngày lễ mừng trong năm và sau này những ngày lễ đó trở thành đại lễ trong Giáo Hội Chúa. Mặc dù đã trở thành dân riêng nhưng chúng ta chưa dứt khoát chối bỏ tâm tình phục tùng tà thần tồn tại trong con người. Tinh thần thờ tà thần bị đè nén mà chưa hoàn toàn bị tiêu huỷ vì thế khuynh hướng tham vật chất, thích lợi nhuận và bả vinh hoa phú quí trần gian luôn là những cám dỗ mãnh liệt trong cuộc lữ hành trần thế. Tinh thần đó luôn khơi dậy cuộc chiến nội tâm. Khi mãnh liệt, lúc nhẹ nhàng trong tâm hồn. Nếu không có cầu nguyện để nhận sức mạnh ân sủng Chúa thì khó có thể tự sức mình chống lại các cám dỗ, rất khó thắng sức mạnh của ma quỉ trong cơn cám dỗ. Một khi bị lệ thuộc vào trần thế chúng ta mất tự do vì luật lệ tự nó có giới hạn. Do đó luật lệ giới hạn con người. Hơn nữa luật lệ thường chú trọng nhiều đến bảo vệ vật chất là lơ là việc cổ võ đời sống tâm tinh. Một số luật còn ngăn cấm, cản trở thực hiện đời sống tâm linh.

Bởi có những giới hạn nên tình trạng bị cám dỗ càng mạnh mẽ hơn. Cám dỗ dưới nhiều dạng thức như yêu Chúa nhưng không yêu tha nhân. Chúng ta được công chính nhờ lòng tin, không phải nhờ tự biện hộ cho mình nên công chính. Chúng ta thích kết án hơn là tha thứ, làm ngơ trước bất công và coi thường công bằng.

Dân riêng Chúa luôn tìm được tự do trong cuộc sống yêu thương, mến Chúa yêu người. Tình yêu Chúa mời gọi chúng ta yêu tha nhân như chính mình. Tình yêu này vượt khỏi mọi giới hạn mầu da, ngôn ngữ và chủng tộc. Sống trong tình yêu Chúa là sống trong tự do.

YÊU THƯƠNG MỌI NGƯỜI
Lc 10, 25 - 37
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Lẽ ở đời hễ ai thương mình, thì mình thương lại, ai ghét mình thì mình ghét lại hoặc nếu không ghét họ, mình cũng chẳng mặn mà gì với người ghét mình.Đối với người Kitô hữu lại khác, họ yêu thương Thiên Chúa như một người Cha và yêu thương kẻ khác như anh em. Tuy nhiên, tình yêu đối với người khác cần phải đi xa tới đâu, cần phải trải rộng tới đâu ? Người thông luật trong đoạn Tin Mừng Lc 6, 25-37, hỏi Đức Giêsu :" Ai là người thân cận của tôi ? ".Chúa Giêsu không trả lời với Ông trực tiếp câu hỏi Ông nêu nhưng Ngài lấy dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu để trả lời cho Ông và cho hết mọi người :" Tình thương đó phải trải rộng đến tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, mầu da, ngôn ngữ vv...". Điều này cho thấy, giới răn mới, giới răn bác ái yêu thương là giới răn Chúa Giêsu đem lại hoàn toàn mới mẻ cho nhân loại...

Câu chuyện Đức Giêsu đem ra để trả lời cho người thông luật đồng thời Ngài đặt câu hỏi :" Vậy ai là người thân cận của kẻ bị cướp ?". Người thông luật trả lời :" Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót ". Đức Giêsu bảo Ông:" ...Hãy đi, và cũng hãy làm như vậy " ( Lc 10, 37 ).Người Samaritanô nhân hậu đã thực thi đức ái một cách tuyệt vời. Ông đã không chỉ nói đầu môi chóp lưỡi, và đã không chỉ nói cho qua lệ, cho qua loa rồi thôi, nhưng thực tế, Ông đã nói và đã làm. Hành đồng của người Samaritanô nhân hậu hoàn toàn khác với các vị thông luật, Pharisêu, luật sĩ vv...Các vị này nói mà không làm. Ngôn hành của họ bất nhất.Chắc chắn Đạo Do Thái đã qui định tình yêu thương đối với người khác. Nhưng các vị này vì quá tỉ mỉ, chi li nên đã giới hạn tình yêu thương đối với kẻ khác, cố bóp méo quan niệm về tình yêu thương đó. Chúa Giêsu qua dụ ngôn này đã phá tung rào cản mà những Kinh sư, Luật sĩ, Pharisêu đã núp để khỏi sống theo những đòi hỏi của luật bác ái. Ở đây, chúng ta thấy thầy tư tế và thầy Lêvi "tránh qua bên kia mà đi " khi đối diện với người bị nạn. Sở dĩ hai thầy này có thái độ đó là vì các thầy sợ nhiễm trùng, sợ ô uế khi đụng vào xác chết, sợ bọn cướp, sợ phiền hà, liên lụy tới bản thân vv...Còn người Samaritanô dù không đồng đạo, dù không phải là chức sắc, chức việc tôn giáo, nhưng ông đã biết dừng lại để làm cái điều mà tiếng lương tâm thôi thúc, đòi buộc.Ông đã biết làm một điều mà thầy tư tế và thầy Lêvi, những chức sắc cao cấp của Đạo Do Thái, những người chỉ biết nói trên đầu môi chóp lưỡi, nhưng thực tế lại sống xa đức bác ái, đức thương yêu...Hành động, cử chỉ của người Samaritanô nhân hậu thật cao quí biết bao bởi vì Ông đã vượt qua giới hạn mà các thầy tư tế, các thầy Lêvi phải làm nhưng đã không làm. Vâng, người Samaritanô đã trở nên bạn với người bị nạn. Bởi vì, tất cả đều có thể trở nên anh em với nhau khi người này người kia biết cảm thông, giúp đỡ và yêu thương nhau. Thầy tư tế và thầy Lêvi thực sự đã sống hoàn toàn xa lạ, không trở nên bạn, không trở thành anh em với người khác. Người Samaritanô tốt lành đã trở nên anh em với người bị nạn.

Chính vì thế, chúng ta có thể hiểu được rằng yêu thương không phải là cho đi một cái gì, nhưng là yêu thương với tất cả con tim, biết hy sinh, từ bỏ, cảm thông, tha thứ, quên mình, hiến thân phục vụ tha nhân. Chúa đã làm gương hy sinh, từ bỏ, hiến thân cho nhân loại :" Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu " ( Ga 15, 13 ). Con người phải biết hy sinh, từ bỏ và hiến mạng sống, bản thân để phục vụ mới có giá trị. Vì con người càng ích kỷ, hẹp hòi, càng tìm bản thân mình, càng đánh mất chính mình. Nên, con người chỉ là người khi họ dám hy sinh cho người khác. Biết bao gương của các thánh đã minh chứng hy sinh cho người khác sẽ nhận lại được nhiều, càng cho đi càng nhận lãnh. Chân phước Têrêsa Calcutta và các nữ tu bác ái của Mẹ đã hy sinh biết bao cho người khác. Nhiều vị thánh đã hy sinh cả cuộc đời để phục vụ và đem hạnh phúc cho kẻ khác. Do đó, họ cho đi và họ lại nhận lãnh được nhiều.

Người Kitô hữu phải thể hiện cuộc sống của mình theo gương Chúa Giêsu. Đạo Công giáo là Đạo tình thương. Mọi Kitô hữu đều phải sống tình thương bằng những việc làm tỏa sáng, nếu không họ chỉ là những Kitô hữu giả hiệu.Thánh Gioan đã định nghĩa :" Thiên Chúa là Tình Yêu ". Nên, người môn đệ Chúa phải bắt chước Chúa sống tình yêu bằng những việc bác ái, hy sinh.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nêu gương cho chúng con bằng chính sự từ bỏ, bằng chính sự hiến mình trên thập giá.Xin cho chúng con hiểu được rằng Đạo của Chúa thiết lập là Đạo tình thương, cốt lõi của Đạo là tình thương.Xin cho chúng con luôn biết đón nhận, yêu thương mọi người, đừng để chúng con chỉ biết nghĩ đến lợi ích của chúng con mà quên những anh chị em đang sống xung quanh, họ rất cần đến bàn tay góp sức của chúng con. Amen.

LUẬT YÊU THƯƠNG
Lc 10, 25 - 37

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Người ta kể rằng ngày kia Chúa Giêsu đóng vai bác hành khất đi ăn xin. Chiều đến, Ngài rảo qua các biệt thự xin trọ qua đêm. Kẻ thì bảo vào chuồng ngựa mà ngủ, kẻ nói xuống vựa lúa, kẻ khác bảo chui vào gầm cầu thang...Nhưng xem ra bác hành khất không muốn nhận những tấm lòng tốt đó. Bác ra xóm lao động xin ở trọ. Bác được lối xóm tiếp đãi tử tế và cho ăn, ngủ chung nhà. Sáng sớm hôm sau thức dậy, bác ta biến đâu mất nhưng gia chủ thấy một bức thơ để lại, trong có ghi câu "Các con là bạn thân của Đức Kitô". Sau này mấy kẻ nhà giầu nghe biết rát lấy làm hổ thẹn.

Đức ái là yêu thương. Bác ái không ghen tương đố kỵ. Thiên Chúa đã phú bẩm trong lương tâm con người để biết phân biệt lành dữ, xấu tốt. Lương tâm cần được hướng dẫn và chỉ bảo hướng về đàng lành. Giống như một cây non cần được uốn nắn để mọc thẳng lên. Xưa Thiên Chúa đã chọn một dân riêng và ban lề luật cùng các huấn lệnh để hướng dẫn họ đi trong đường lối của Thiên Chúa. Sách Đệ Nhị Luật được ghi chép những điều Thiên Chúa truyền dạy, lời các tiên tri và những lề luật cần thiết để sống theo đường lối Chúa: Miễn là anh em nghe tiếng Chúa, Thiên Chúa của anh em, mà giữ những mệnh lệnh và thánh chỉ Người, ghi trong sách Luật này, miễn là anh em trở về với Thiên Chúa, Thiên Chúa của anh em hết lòng hết dạ (Đnl 30, 10). Lề Luật vừa hướng dẫn và vừa gìn giữ rào cản để mọi người khỏi rơi vào lầm lỗi. Sống theo mệnh lệnh và thánh chỉ của Chúa là sống theo Chúa.

Tất cả các lề luật đều qui về giới luật yêu thương. Luật yêu thương là căn cốt của tất cả cuộc sống. Sống để yêu và yêu để sống. Luật đó đã được in ghi sâu tận tâm can của mọi loài thụ tạo. Luật ở tại tâm: Thật vậy, lời đó ở rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành (Đnl 30, 14). Chúng ta không phải tìm kiếm đâu xa, tâm yêu thương ở sẵn trong lòng ta. Hạt giống yêu thương đã được Thiên Chúa gieo trong lòng mỗi người. Chúng ta có bổn phận tưới gội, chăm sóc và làm cho hạt giống sinh xôi nẩy nở. Trái tim yêu thương cần mở rộng để cho đi và đón nhận. Yêu như dòng nước luôn chảy, có ra có vào và có lên có xuống. Tình yêu như dòng nước nếu bị đóng khung khép kín, tình yêu sẽ cô đơn, lẻ loi và giá lạnh.

Thánh Gioan đã tuyên xưng: Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa vì Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4, 8). Vì muốn chia sẻ tình yêu, Thiên Chúa tạo dựng mọi kỳ công trong vũ trụ. Mọi vật và mọi loài được hiện hữu trong tình yêu của Thiên Chúa. Dấu ấn tình yêu được lan tỏa khắp cùng vũ trụ. Thiên Chúa đã quan phòng mọi sự theo thánh ý. Tình yêu có những cách thể hiện khác nhau giữa muôn loài. Cảm súc tình yêu được bày tỏ qua sự sống. Từ những loài có sự sống đơn sơ đến phức tạp đều được ngụp lặn trong biển tình của Thiên Chúa. Sống để yêu và được yêu. Kinh Thánh đã nói 686 lần về tình yêu 'Love, loved, loving, loves, lover', yêu Chúa và yêu người.

Truyện kể có một con chó, tên là Capitan, đã nằm ngồi bên mộ của chủ suốt quãng thời gian 6 năm. Ông Miguel Guzman đã nhận nuôi con chó như món quà cho đứa con trai trẻ vào năm 2005. Năm 2006 ông bất ngờ chết và đã được chôn cất tại nghĩa trang Villa Carlos Paz, trung tâm Argentina. Sau khi chôn táng ông xong, con chó Capitan đã ra khỏi nhà và tìm đến nghĩa trang nơi chôn cất ông. Con chó luẩn quẩn và quỳ bên mộ ông. Mỗi ngày, cứ đúng 6 giờ chiều, nó nằm xuống trên mộ suốt đêm trong vòng 6 năm trời. Chúng ta không thể hiếu thấu cái gì đã đang xảy ra trong tâm ở thế giới động vật. Tình cảm, tình yêu, cảm xúc hay một sự thần giao cách cảm nào đó.

Nhà Khoa Học đã nghiên cứu 14 cặp khỉ Rhesus Macaque tại Trung hoa. Đã học biết rằng con khỉ mẹ và các khỉ con cũng bày tỏ sự trìu mến yêu thương. Những con khỉ mẹ và khỉ con nhìn nhau với ánh mắt thân thương. Khỉ mẹ cúi xuống mơn trớn và hôn các khỉ con trên mặt, trên môi và khỉ con cũng hôn trả lại. Các con khỉ cùng chia sẻ thực phẩm và săn sóc nâng đỡ nhau giống như xã hội con người. Khỉ mẹ thường ôm con vào lòng và bảo vệ con một cách rất âu yếm. Các con khỉ cũng sống thành bày, thành đàn và yêu thương hỗ trợ nhau. Khi một con bị thương hay ốm yêu bệnh tật, các con khỉ khác cũng lo lắng chăm sóc. Qua khuôn mặt và cách biểu tỏ cảm tình, chúng ta nhận biết loài vật cũng có một mức độ yêu thương mà Tạo Hóa đã phú bẩm.

Chúng ta cũng có thể quan sát gà mẹ dẫn đàn gà con đi tìm mồi. Mẹ dẫn con ra vườn và lấy sức mình dùng đôi chân giãi đất tìm mồi, rồi cục cục gọi các gà con đến ăn mồi. Khi nghe biết có quạ đen, diều hâu hay bất cứ sự nguy hiểm nào, gà mẹ dáo giác giang cánh ra để ấp ủ con dưới cánh. Tuy cuộc sống gà vịt rất đơn sơ nhưng cũng nói lên tình liên đới bảo vệ và chia sẻ yêu thương. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh gà mẹ ấp ủ con để nói lên tình yêu của Thiên chúa với loài người: Đã bao lần Ta muốn tập họp con cái người lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh, mà các người không chịu (Mt 23, 37).

Anh em chớ mắc nợ nhau điều gì, ngoài ra tình thương mến. Câu truyện trong bài Phúc âm hôm nay nói về một người lữ hành bị tai nạn cướp bóc và bị đánh đập dọc đường. Có thầy tư tế và trợ tế đi ngang qua và thấy nạn nhân nhưng không mở lòng giúp đỡ. Một người xứ Samaria đi qua, động lòng thương và giúp đỡ nạn nhân bằng mọi cách. Người Samaria, tuy là ngoại đạo, nhưng đã biết tỏ lòng thương xót. Ông đã thực hành giới răn yêu thương bằng chính hành động của mình. Chúa Giêsu đã khuyến khích các thầy thông luật, các môn đệ và cả chúng ta nữa: Đức Giêsu bảo ông ta: "Ông hãy đi và cũng hãy làm như vậy.'(Lc 10, 37). Nói về giới luật yêu thương thì dễ, ai cũng có thể suy niệm, phát biểu và truyền rao nhưng để đưa vào áp dụng trong cuộc sống hằng ngày thì không đơn giản. Chúng ta cần thấm nhuần tinh thần bác ái và quảng đại dấn thân. Đạo của Chúa là đạo yêu thương. Không chỉ yêu bằng lời nhưng bằng hành động.

Chúa Giêsu đã nêu gương bằng tình yêu thập giá. Chúa đã cho và cho tất cả. Chúa Kitô là hiện thân của Thiên Chúa Cha: Chúa Giêsu Kitô là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo (Col 1, 15). Tình yêu Chúa cao vời, làm sao chúng ta có thể đáp đền cho cân xứng. Thiên Chúa Cha yêu thương chúng ta đến nỗi đã ban Con Một Yêu Dấu, chịu khổ hình và chết để chuộc tội chúng ta. Chúa Con đã hiến thân trên thập giá và đã đổ tới giọt máu cuối cùng để cứu độ. Chúa Thánh Thần là ngọn lửa yêu mến khơi dậy lòng yêu thương trong tâm hồn chúng ta. Mọi sự bắt đầu với tình yêu và sẽ kết thúc trong tình yêu: Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người (Col 1, 19).

Lạy Chúa, Chúa yêu thương chúng con. Tình yêu Chúa lan tỏa khắp cùng thế giới. Vũ trụ muôn loài đều mang dấu ấn tình yêu của Chúa. Xin cho nguồn tình yêu tuôn chảy trong tâm hồn chúng con, để chúng con luôn biết yêu và được yêu. Yêu Chúa và yêu tha nhân như chính mình.

THỰC THI LÒNG THƯƠNG XÓT
Lc 10, 25 - 37

Lm. Anmai, CSsR

Con người, chẳng hiểu tự bao giờ mà cái máu của ích kỷ, của ghen tương, của thù hận nó xen vào. Ai cũng biết ích kỷ, ghen tương, không biết cảm thương ấy là không tốt nhưng rồi cũng chẳng hiểu sao người ta cứ để cho cái nồng độ của ích kỷ, của ghen tương tăng lên dần dần trong đời sống thường ngày.

Đời sống con người có lúc này lúc khác, lúc sung túc và lúc ngặt nghèo. Lúc sung túc người ta cũng chia sẻ nhưng hình như không bằng lúc người ta ngặt nghèo. Cuộc sống người ta dù có nghèo đi chăng nữa những khi gặp những người khó khăn hơn thì họ dễ chia sẻ hơn là khi người ta giàu có.

Tâm lý thường thì người ta chia sẻ cho những người thân cận, đồng vai đồng vế, đồng hàng đồng xóm với họ chứ ít bao giờ họ nghĩ đến chia sẻ cho những người xa lạ. Đi xa hơn một chút nữa, để chia sẻ cho những người mà ta tạm gọi họ là người không đồng tình đồng ý hay là người đối nghịch với ta thì càng khó hơn nữa.

Vì tâm lý thường là như vậy nên khi người ta chia sẻ với những người thân thuộc, đồng vai đồng vế thì họ cũng tự nhủ rằng họ làm như thế là tốt lắm rồi nhưng Chúa Giêsu mời gọi con người đi một bước xa hơn cái bước bình thường đó là thương những người không cùng lập trường với mình, những người đối lập với mình. Lời mời gọi ấy thật sự là khó. Lời mời gọi ấy được Thánh Luca ghi lại qua câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể.

Chúa Giêsu là nhà giáo dục tài ba, Ngài hết sức tinh tế khi muốn dạy, muốn khuyên, muốn bảo những người nghe Ngài giảng dạy. Chuyện dụ ngôn là câu chuyện hết sức gần gụi và hết sức thực tế. Chuyện dụ ngôn không ám chỉ riêng tư một cá nhân, một tập thể nào cả nhưng chỉ nói chung chung. Với cách nói chung chung đó sẽ làm giảm đi phần nào đụng chạm, phần nào tự ái của người, của nhóm người được nói đến.

Dụ ngôn người Samaria nhân hậu này hết sức quen thuộc với mỗi người kitô hữu. Chúa Giêsu nói là một người kia chứ không nói người đó tên gì, nhà ở đâu. Người kia đó đi đường từ Giêrusalem xuống Giêricô đi công chuyện, đi đám cưới hay đi đám tiệc gì đó không rõ. Chuyện đáng tiếc là người này gặp cướp giữa đường. Chắc là đoạn đường Giêrusalem xuống Giêricô vắng vẻ lắm nên người khách mới ra nông nổi này. Giá như người này chết thì chẳng còn chuyện gì đển nói nhưng người này dở sống dở chết. Sống cũng chẳng ra sống mà chết cũng chẳng ra chết mới oan nghiệt. Giá mà chết thì khoẻ còn sống mà chẳng làm được gì, kêu cũng chẳng được mà la cũng chẳng xong.

Câu chuyện hết sức hấp dẫn ở cái chổ là có thầy tư tế đi ngang qua nhưng cũng bỏ đi luôn. Và rồi, đến một thầy Lêvi cũng đi ngang nhưng ông thầy này tiếp tục cái cảnh "nhắm mắt làm ngơ". Hai ông thầy đi qua và rồi một người Samari cũng đi qua đó. Thế nhưng, điều hết sức kinh ngạc, hết sức tuyệt vời đó là người Samari này đã lấy rượu để rửa vết thương, năng bó vết thương. Khi bị tai nạn, được làm như thế quả là có phúc lắm rồi nhưng người này lại có phúc hơn nữa khi mà người Samari này còn cho lên lưng lừa và đem đến quán trọ. Không chỉ đưa đến quán trọ mà còn trao tiền cho chủ quán chăm sóc. Hơn điều mà mọi người nghĩ đó lại là còn hứa là sau khi đi công chuyện về ông sẽ thanh toán phần còn lại. Tuyệt vời, hết sức tuyệt vời nơi con người Samari này.

Câu chuyện đẹp không chỉ dừng ở chỗ này mà còn đẹp hơn, ý nghĩa hơn khi người Samari và người Do Thái ngày xưa kình địch nhau, không đội trời chung với nhau. Nét đẹp của người Samari là họ đã vượt qua cái ranh giới hận thù, chia rẽ của lòng người để toả lòng thương cảm đến người bị tai nạn.

Câu chuyện này cũng đáng lưu ý nơi hình ảnh của hai ông thầy là thầy tư tế và thầy Lêvi. Hẳn ông ta có ăn, có học hơn cái người Samaria kia nhưng lòng của ông ta đã khép lại trước con người bị tai nạn. Chúa Giêsu không hề đề cập đến bằng cấp, địa vị, thân thế sự nghiệp của người Samari, Chúa Giêsu chỉ đề cập đến tấm lòng nhân hậu của người Samari dành cho người bị nạn mà là người đó lại là người ở phe đối lập của mình.

Hình ảnh của người Samaria nhân hậu hết sức dễ thương. Làm sao ông có thể làm được cái điều mà người đời khó làm này ? Chắc có lẽ trong đời thường của ông, ông đã cảm nhận được tình thương từ ơn trên dành cho đời của ông nên ông đã làm như thế với anh chị em đồng loại và anh chị em đồng loại ấy không phân biệt là kẻ ghét người thương.

Đáng trách chăng đó là hai ông thầy. Hai ông thầy được ăn được học nhất là được hòng về lòng thương xót của Thiên Chúa. Bài học về lòng thương xót ấy đã được mời gọi trong suốt dòng chảy của lịch sử cứu độ. Thiên Chúa mời gọi con người giản đơn ở cái chuyện mến Chúa và yêu người. Mệnh lệnh Chúa gửi đến cho con người có như vậy thôi.

Mệnh lệnh đó, chúng ta vừa nghe Thánh Phaolô nhắc qua thư của Ngài gửi tín hữu Côlôsê. Ngài mời gọi tín hữu Côlôsê cũng như mọi người chúng ta là khi chúng ta nghe tiếng Chúa thì chúng ta giữ những mệnh lệnh, những thánh chỉ của Ngài trong sách Luật. Ngài nhắc cho chúng ta mệnh lệnh ấy nó nằm trong lòng bàn tay của mọi người. Mệnh lệnh ấy gần và rất gần. Mệnh lệnh ấy ngay trong miệng, trong lòng của chúng ta và chúng ta hết sức dễ để đem ra thực hành.

Lời của Chúa Giêsu dạy trong dụ ngôn hết sức tế nhị. Chúa Giêsu không bắt người thông luật làm như mệnh lệnh của Chúa nhưng Chúa Giêsu mời gọi người thông luật thực thi điều mà chính ông đề ra: "Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy." Chúa Giê-su bảo ông ta: "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy."

Trang Tin mừng này kết thúc một cách bỏ ngõ. Thánh Luca không hề viết thêm cho độc giả rằng người thông luật đó đã làm gì, đã sống như thế nào sau khi nghe lời của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cũng đã mở ngõ cho nhà thông luật: "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy".

Ngày hôm nay, Chúa Giêsu cũng mở ngõ cho mỗi người chúng ta. Chắc chắn khi nghe dụ ngôn ấy xong và sau khi nghe Chúa Giêsu chất vấn chúng ta cũng sẽ trả lời như nhà thông luật đó là thực thi lòng thương xót với người ấy. Thế nhưng, nhìn vào thực tế của cuộc sống, hình như chúng ta khiếm khuyết lòng thương xót anh chị em đồng loại. Lý do khiếm khuyết đó là vì chúng ta đã không lắng đọng tâm hồn, lắng đọng cõi lòng của chúng ta. Nếu chúng ta lắng đọng tâm hồn, chúng ta để cho lòng chúng ta lắng xuống chúng ta sẽ thấy được chúng ta hạnh phúc và Chúa thương chúng ta nhiều. Khi và chỉ khi chúng ta nhìn thấy tận căn lòng Chúa thương xót thì chúng ta mới có thể thương xót anh chị em đồng loại chúng ta được.

Chúng ta vẫn bị những rào cản của vật chất, của quyền lợi để rồi chúng ta không thấy Chúa hiện diện trong cuộc đời của chúng ta. Chúng ta hãy xin với Chúa Giêsu ban cho chúng ta con mắt đức tin để chúng ta thấy lòng Chúa thương xót chúng ta để chúng ta có thể thương xót anh chị em đồng loại như lòng Chúa mong muốn.

ANH EM HÃY ĐI VÀ HÃY LÀM NHƯ VẬY
Lc 10, 25 - 37

Lm. Jude Siciliano, OP

Tôi viết một vài suy nghĩ về người Samaritano nhân hậu trong lúc đang chờ ở phòng đợi phi trường vì máy bay trễ 3 giờ. Ước gì hãng hàng không cho tôi biết trước để tôi ở nhà soạn bài giảng này với tiện nghi đầy đủ hơn. Và tôi được dùng bữa sáng nóng hổi, và được đọc báo nữa. Nhờ thế may ra tôi có được vài suy nghĩ về một người Samaritano nhân hậu hợp với thời buổi này chăng!. Trái lại, tôi phải viết trong khi ngồi trên ghế cứng ở phi trường đặt giấy viết trên đùi, không có tiện nghi gì cả. Nhưng dụ ngôn về người Samaritano không liên quan gì đến những điều bất tiện tôi vừa gặp phải, và không có ý gì đến việc phải tử tế với người khác, vì tôi vừa nóng nảy phiền trách với cô nhân viên của hãng hàng không. Và tất cả dụ ngôn đó cũng không nói gì đến việc đi đường hay làm gì trên đường đi. Đây là câu chuyện về người đi đường, và chúng ta tất cả là người đi đường. Dụ ngôn nhắc nhở chúng ta nhớ là chúng ta phải đối đãi với người khác như thế nào trong lúc chúng ta cùng đi đường với họ trong cuộc hành trình dương thế theo ý chỉ của đức tin.

"Người Samaritano nhân hậu" đó là một cụm từ để khen ngợi một người nào. Ai được gọi là Người Samaritano nhân hậu là chúng ta biết ngay là người đó có lòng thương cảm với người lạ đang cần được giúp đỡ, mặc dù phải tốn kém cho mình. Nhưng, lẽ cố nhiên, đối với người Do Thái, người Samaritano là những người không tốt, và họ bị xem là kẻ thù địch. Và cả hai bên đều không ưa nhau. Hai dân tộc thù nhau từ bao nhiêu thế hệ. Và những người Do Thái đang nghe Chúa Giêsu kể dụ ngôn này đều không cần nhắc đến việc đó. Đối với họ dụ ngôn này không làm họ hài lòng. Dụ ngôn này trở nên một cú sốc làm cho những người nghe suy nghĩ lại về những thành kiến họ đã có từ trước đến nay.

Người thông luật muốn biết ông "phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?" Ông ấy không muốn biết những chuyện gì xa lạ, nhưng chỉ muốn biết điều gì giúp ông có được sự sống trong liên hệ mật thiết với Thiên Chúa ngay từ bây giờ, một liên hệ mà ngay cả sự chết không phá huỷ được. Chúng ta nhận thấy câu trả lời cho ông ấy không chú trọng đến Thiên Chúa. Người Do Thái tốt đạo nào cũng biết thương yêu là gì. Và câu trả lời nói về thương người lân cận đều đã có sẵn trong kinh thánh (Đnl 6:4 và Lv 19:18). Điểm chính của dụ ngôn là "ai là người thân cận của tôi?" Và đó cũng là câu hỏi đối với cả chúng ta nữa?

Bài Phúc âm hôm nay nằm trong Phúc âm thánh Luca nói về "những chuyện xảy ra trên đoạn đường lên Jêrusalem" (9:51-19:27). Câu chuyện này bắt đầu khi Chúa Giêsu bắt đầu thay đổi vì "Ngài hướng về Jêrusalem" (9:51). Thánh Luca cho chúng ta thấy Chúa Giêsu biết trước việc Ngài sẽ gặp. Trước câu chuyện này, Chúa Giêsu gọi 72 môn đệ ra đi rao giảng (10:1). Các ông trở về mừng rõ vì đã được thành công (10:17-20). Chúa Giêsu cảm tạ Thiên Chúa vì sự mạc khải đã đến với các "người bé mọn", là môn đệ (10:21-22), và Chúa Giêsu chúc lành cho họ (10:23-24). Đến đây thì câu chuyện người thông luật xảy đến để hỏi Chúa Giêsu về sự sống đời đời và chúng ta nghe câu trả lời của Chúa Giêsu. Câu chuyện Chúa Giêsu gặp người thông luật, và dụ ngôn kế tiếp là những lời nói của những người đi đường. Chúng ta, những người tin nghe Chúa Giêsu hãy tự hỏi xem chúng ta đối với những người cùng đồng hành với chúng ta như thế nào, hoặc đối với những kẻ đi ngược đường với chúng ta?

Khi người thông luật hỏi "Ai là người thân cận của tôi?", ông ấy nghĩ là câu trả lời chắc sẽ là: người thân cận anh là bất kỳ người Do Thái nào. Câu trả lời như vậy sẽ chỉ rõ cho ông ta biết lề luật tôn giáo về sự yêu thương là như thế nào. Nhưng, Chúa Giêsu muốn đem hình ảnh người Samaritano ra làm câu trả lời cho người thông luật. Cho dù người bị thương năm kia có thuộc về giới "người thân cận" hay không. Điểm chính là Chúa Giêsu muốn chúng ta hãy làm như người Samaritano đã làm là: Hãy trở nên người thân cận bằng các săn sóc người cần sự giúp đỡ vì lòng bác ái. Điểm quan trọng là: tôi không còn vai vế nào trong xã hội cả?, và người cần tôi giúp đó là bất cứ ai?

Người thông luật muốn Chúa Giêsu nói rõ người thân cận là ai, nhưng, trái lại, Chúa Giêsu nói là không cần nói đến người mình giúp đỡ, mà phải nói đến người giúp đỡ: người Samaritano là người chính trong việc giúp đỡ. Ông ta là người biết yêu thương, và chúng ta cũng hãy làm như vậy. Rốt cuộc câu hỏi của người thông luật là câu hỏi sai. Và, có lẽ chúng ta cũng muốn biết yêu thương thế nào mới gọi là đủ. Hãy cho tôi biết ai là người tôi phải yêu thương và lúc nào tôi phải yêu thương họ. Nhưng, "thương người thân cận" không phải là một bài giảng chỉ định về tình thương yêu người khác. Câu hỏi không phải là "ai là người thân cận của tôi?", nhưng là "tôi là người thân cận của ai?". Đó là ý Chúa Giêsu khi Ngài hỏi "vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?"... "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy". Từ "thân cận" chỉ sự liên hệ mật thiết. Thiên Chúa làm tất cả mọi người trở nên là người "thân cận" của chúng ta, và câu trả lời của chúng ta với Chúa là con sẽ trở nên người thân cận của người cần được giúp đỡ.

Trên đường đi lên Jêrusalem Chúa Giêsu có nhiều điều để dạy các môn đệ. Một điều Chúa Giêsu dạy các ông là: Jêrusalem sẽ là nơi Ngài chịu khổ hình và chịu chết. Trên đường lên Jêrusalem, Chúa Giesu muốn cho chúng ta biết là chúng ta phải sẵn sàng hy sinh mạng sống chúng ta vì sứ vụ và tình thương. Đó là tất cả những gì mà dụ ngôn hôm nay dạy chúng ta. Người theo Chúa Giêsu phải là người như thế nào? Làm sao chúng ta biết được người đó? Người theo Chúa Giêsu thật sự là người đáp lời ngay khi gặp người cần được giúp đỡ, không so đo xem họ có tiền không, có bằng cấp gì, ăn mặc ra sao, con người đó đi học trường nào, hay người đó thuộc quốc tịch nào, và thuộc nước nào v.v...?

Hôm nay trong phụng vụ chúng ta nghe dụ ngôn người Samaritano nhân hậu. Chúng ta có tạm dừng những thói quen đố kỵ trong làm việc, trong học hành, hay vui chơi trong gia đình như dụ ngôn. Trong đó nhấn mạnh những việc Chúa đã làm, đó là việc tốt dành cho những ai đã lãnh nhận đức tin qua bí tích Thánh Thể, đó là đem Chúa Giêsu đến như người Samaritano. Hôm nay khi chúng ta ra về Chúa Giêsu nói với chúng ta "anh em hãy đi, và cũng hãy làm như vậy". Trong phụng vụ chúng ta xin Thiên Chúa cho chúng ta "lương thực hàng ngày" và lương thực đi đường đến những nơi cần chúng ta giúp đỡ để trở nên người "Samaritano nhân hậu".
Chuyển ngữ: FX Trọng Yên, OP

AI LÀ NGƯỜI THÂN CẬN?
Lc 10, 25 - 37

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Trong cuộc đời rao giảng, Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn, hay lấy những hình ảnh, sự vật, những câu chuyện hằng ngày để dạy dỗ dân chúng. Điều đó không có gì lấy làm ngạc nhiên lắm khi người thông luật đặt câu hỏi: " Ai là người thận cận của tôi ? ". Chúa Giêsu đã không trả lời trực tiếp, thay vì trả lời, Ngài đã kể dụ ngôn người Samari nhân hậu.

Chúa Giêsu đưa ra một dụ ngôn rất quen thuộc nhưng lại rất ấn tượng khi được Chúa Giêsu kể chuyện: một khách bộ hành đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, bị bọn cướp đánh nhừ tử, trấn lột và rồi chúng bỏ người bộ hành nửa sống nửa chết ở bên đường. Thầy tư tế và thầy Lêvi đi ngang qua, hai thầy này đều tránh qua bên kia mà đi, trong khi người Samari ngoại đạo lại xuống ngựa, đứng lại, băng bó vết thương và chở người bị nạn đến nhà trọ, nhờ chủ quán giúp đỡ, tốn phí bao nhiêu Ông sẽ lo lắng hết.

Đức Giêsu hỏi vị thông luật đặt câu hỏi: " Vậy ai là kẻ thân cận của kẻ bị hại ". Hỏi tức là trả lời. Thực tế ở đây người bị nạn không hề biết người Samari và ngược lại người Samari cũng không biết người bị hại. Đây là nét rất đẹp của Tin Mừng. Người thông luật đáp: " Chính là kẻ thực thi lòng thương xót ". Đức Giêsu liền bảo Ông: " Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy " ( Lc 10, 37 ).

Chúa Giêsu thường đưa chúng ta tới một sự ngạc nhiên, bất ngờ và sự bất ngờ này là " người lân cận ". Và người anh hùng ở đây là người Samari nhân hậu. Chúng ta phải hiểu rõ: câu chuyện này được Chúa Giêsu nói với người Do Thái. Những người Do Thái coi người Samari như kẻ phản bội, người đáng bị khinh bỉ và là người thờ tà ma, tà thần. Do đó, những người nghe Đức Giêsu kể dụ ngôn này bị choáng váng, khó chịu, giận dữ khi Chúa đề nghị với họ noi gương, bắt chước người Samari nhân lành. Chúa nói: " Hãy yêu như Chúa yêu ". " Yêu rồi làm gì thì làm ". Nói rất dễ nhưng thực hành yêu thương mới khó. Những hành động, những việc làm bác ái, yêu thương cụ thể thường khác với những lời nói hoa mỹ, những lời nói suông. Chúa Giêsu muốn chúng ta thực hành hơn là chỉ nói: " Hãy đi và làm như vậy ". Thầy tư tế và thầy Lêvi tránh qua một bên mà đi vì họ giữ luật Do Thái, sợ đụng vào nạn nhân sẽ bị ô uế, sợ bọn cướp còn ẩn núp, còn rình mò đâu đây, sơ rắc rối và sợ phiền hà tới mình. Ở đời, sở dĩ, nhiều khi chúng ta không dám làm điều gì đó cho người anh em vì chúng ta sợ tốn phí, sợ mất thời giờ, sợ tốn công sức và sợ đủ thứ. Nên, thái độ của chúng ta thường thích được an thân cho khỏe, cho nhàn. Thầy tư tế và thầy Lêvi sợ lụy vào thân, sợ lỗi luật vv...Còn người Samari đã can đảm bất chấp mọi sự để chỉ biết có một việc trước mắt phải làm là cứu người bị cướp đánh bị thương, bỏ nửa sống nửa chết ở bên đường vắng. Thực tế, Chúa Giêsu đang dạy mọi người, đang dạy nhân loại bài học yêu thương. Yêu thương không có nghĩa là cho đi một cái gì, nhưng là cho đi chính bản thân của mình.

Bài học này phải là bài học mỗi người chúng ta thuộc nằm lòng trên môi và trở nên động lực mạnh mẽ khiến chúng ta luôn thực hành bác ái. Hãy bắt chước người Samari nhân hậu vì người Samari nhân lành là hình ảnh của chính Chúa Giêsu. Hãy bắt chước các vị thánh và bao nhiêu người sống tốt lành khác. Mẹ Têrêsa Calcutta để lại mẫu gương bác ái tuyệt vời vv...Yêu rồi làm gì thì làm như thánh Gioan đã rao giảng và mãi mãi rao giảng. Yêu rồi làm sẽ giúp chúng ta có rất nhiều sáng kiến để phục vụ tha nhân, phục vụ mọi người. Yêu thật sự như Chúa yêu sẽ giúp chúng ta quên đi và luôn can đảm vượt qua mọi trở ngại để đến với những người đang cần chúng ta giúp đỡ.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết yêu như Chúa yêu để cái cốt lõi của Tin Mừng là yêu thương sẽ không làm cho chúng con quên lãng. Amen.

AI LÀ ANH EM CỦA TÔI
Lc 10, 25 - 37

Linh Mục Anphong Trần Đức Phương

Chúa Nhật hôm nay nói đến luật Bác Ái là kính mến Chúa và yêu thương phục vụ tha nhân, đặc biệt trong việc giúp đỡ những người lâm cảnh khó khăn.

Bài Đọc I (Đệ Nhị Luật 30:10-14): Lề luật của Chúa đã được ghi khắc vào lòng chúng ta (Lương Tâm) để hướng dẫn chúng ta sống cho xứng đáng những con người đã được Chúa dựng nên theo hình ảnh Chúa, chúng ta cần đem ra thực hành trong cuộc sống hằng ngày. Bài đọc II (Côlôsê 1:15-20): Chúa Giêsu cũng chính là Thiên Chúa thật, Ngài mặc lấy thân xác con người, đổ máu ra trên Thánh Giá để cứu chuộc nhân loại và trở nên "trưởng tử mọi loài thọ sinh và là Đầu Giáo Hội." Bài Phúc Âm (Luca 10: 25-37): Chúng ta phải thực hành Đức Bác Ái để được sống đời đời. Đó là yêu mến Chúa hết lòng và yêu thương phục vụ tha nhân. Người Samaritano tốt lành là hình ảnh của những người biết thương cảm và hy sinh giúp đỡ mọi người, nhất là những người gặp hoạn nạn, dù người đó là ai.

Mỗi ngày khi chúng ta đọc Kinh 'Mười Điều Răn Đức Chúa Trời', chúng ta nên để ý đến lời cuối cùng "Mười điều răn Chúa tóm về hai điều này: trước hết kính mến Một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau là yêu thương tha nhân như chính mình. " Nếu chúng ta sống được hai điều căn bản này là chúng ta đã chu toàn được mọi lề luật của Chúa và các giới răn của Giáo Hội.

Luôn biết kính mến Chúa và thương yêu người khác như chính mình, chúng ta sẽ dễ dàng chu toàn các bổn phận thờ phượng Chúa, chúng ta sẽ xa tránh các dịp tội để không phạm tội làm mất lòng Chúa và xúc phạm đến nhau (những tội như tham lam tiền bạc, lỗi phép công bằng, làm chứng gian hại người khác, lộng ngôn, nói hành nói xấu, ham thú vui xác thịt, luyến ái tự do, li dị, phá thai...). Mọi tội lỗi đều xúc phạm đến Thánh Danh Chúa, và làm hoen ố hình ảnh của Chúa mà chúng ta mang trong tâm hồn khi chúng ta đã được thanh luyện qua Bí Tích Thánh Tẩy.

Hơn nữa, giữ Lề Luật Bác Ái không phải chỉ là lo xa tránh tội lỗi mà tích cực hơn, còn phải lo chu toàn các bổn phận của người tín hữu: ngoài bổn phận thờ phượng Chúa, chúng ta có bổn phận đối với Ông Bà Cha Mẹ, đó là điều răn thứ bốn: Phụng dưỡng các Ngài khi còn sống, nhất là khi các Ngài đã già yêu, bịnh tật. Hằng nhớ đến và cầu nguyện cho các vị đã qua đời.

Luật Bác Ái cũng dạy chúng ta phải duy trì tình yêu trong gia đình giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái; điều này cũng đòi buộc chúng ta phải hy sinh nhiều lắm để có thể chịu đựng lẫn nhau, tha thứ và nâng đỡ lẫn nhau trong cuộc sống.

Ngoài gia đình ruột thịt, chúng ta còn sống trong gia đình nhân loại, mà mọi người đều là con cái Chúa và anh em với nhau "Tứ Hải Giai Huynh Đệ." "Mọi người đều là anh em của tôi" trong gia đình nhân loại. Thực hành được đìều đó, chúng ta sẽ không còn xét đoán, kỳ thị chủng tộc, tiếng nói, mầu da...; nhưng biết chấp nhận mọi dị biệt để yêu thương nhau như anh em, để xây dựng hòa bình, thay vì gây chiến tranh, chém giết lẫn nhau. Người Samaritano tốt lành đã tận tâm giúp người bị kẻ cướp hành hung, ông đã không phân biệt, không xem xét người đó là ai, chủng tộc nào; nhưng thấy một người hoạn nạn cần giúp đỡ là ông hết lòng giúp đỡ không sợ bị liên lụy, không sợ mất thời giờ, tiền của. Đó là điều Chúa Giêsu đặc biệt muốn nhấn mạnh trong Dụ Ngôn trong Bài Phúc Âm hôm nay. Chính Chúa Giêsu đã thực hành điều đó, Ngài đã yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là những kẻ tội lỗi, đã hy sinh xuống thế làm người, đã chịu chết để cứu chuộc mọi người thuộc mọi 'chủng tộc và ngôn ngữ', băng bó mọi vết thương gây ra do tội lỗi và đưa chúng ta vào "Quán Trọ" là gia đình Giáo Hội để chữa lành và đưa chúng ta về quê hương thật Nước Trời.

TÌNH YÊU, CỐT LÕI CỦA KITÔ GIÁO!
Lc 10, 25 - 37

Lm. Phêrô Nguyễn Hương

Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật 15 TNC giới thiệu với chúng ta một chủ đề đáng suy nghĩ, đó là : "mến Chúa và yêu người". Đây là luật mới và cốt lõi của đời sống người kitôhữu.

Bài đọc I trích từ sách Đệ Nhị Luật, qua môi miệng của Môisen, Thiên Chúa mời gọi Dân Riêng của Người hãy tuân giữ các giới răn và huấn lệnh của Thiên Chúa. Luật này không phải ở đâu xa xôi, nhưng là ở bên cạnh chúng ta, trên môi miệng và được khắc ghi trong lòng chúng ta. Luật này đạt tới sự viên mãn nhờ và trong Đức Kitô (Bài đọc II).

Cốt lõi của Lề Luật được tìm thấy trong bài Tin Mừng: "Ngươi hãy yêu mên Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn người, và hãy yêu thương anh em như chính mình". Chúa Giêsu xác nhận đó là con đường dẫn tới sự sống đời đời.

"Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức..." có nghĩa là chúng ta phải đặt Thiên Chúa ở chổ nhất trong bậc thang giá trị của cuộc đời. Theo đó, Thiên Chúa là ưu tiên số một, là quan trọng nhất trong mỗi suy nghĩ, phán đoán, hành động của cuộc đời tôi, còn những thứ khác là thứ yếu. Và mỗi ngày tôi sống theo chọn lựa đó, trong khi có những người bên cạnh có thể chọn tiền bạc, danh dự, quyền lực, hưởng lạc là chổ nhất cho cuộc đời của họ.

Nhưng chỉ mến Chúa thôi thì không đủ, mới chỉ được một nữa, chúng ta còn phải "yêu thương Anh em như chính mình". Ở đây, chúng ta để ý chữ "như chính mình".

Yêu người khác như yêu chính mình có nghĩa là: chúng ta cũng biết chăm sóc, quan tâm, giúp đỡ và mong muốn điều tốt lành, thiện hảo cho người khác như chúng ta làm cho chính mình. Chứ không phải là thấy người khác thành công thì mình tìm cách đạp đỗ, thấy người bên cạnh gặp điều khốn khó thì lòng lấy làm vui mừng! Đức Khổng Tử dạy: "Đừng làm cho người khác những gì mà bạn không muốn cho mình". Đức Giêsu còn đi xa hơn: "Hãy làm cho người khác những gì mà bạn muốn cho mình". Nhất là đối với những người đang cần đến sự giúp đỡ của Chúng ta.

Quả thế, Mến Chúa và Yêu Người là cốt lõi của Kitôgiáo. Trong tác phẩm Quo Vadis, một người ngoại giáo hỏi Thánh Phêrô khi ngài mới đến Rôma: Hy lạp đem đến cho chúng tôi sự thông thái, Rôma đem đến quyền lực, tôn giáo của ông đem lại điều gì? Thánh Phêrô trả lời: Tình yêu!

Ở đây, chúng ta tìm thấy câu trả lời cho Marx, khi ông nói rằng tôn giáo của chúng ta chỉ lo đến sự sống mai hậu mà quên đi và sao nhãng bổn phận xây dựng cuộc sống hôm nay. Có thể Marx có lý trên bình diện thực tiễn, khi ông không thấy có những kitôhữu thực sự sống Tin Mừng vào thời ông, hay nói như Maritain là "nỗi đau của thế kỷ XIX là không phải có Marx, mà là không có những kitôhữu giống như Marx". Nhưng cốt lõi của Kitôgiáo dạy chúng ta là yêu mến Thiên Chúa và từ đó hướng tới tha nhân, không phân biệt ai, hướng tới xây dựng xã hội. Việc đến nhà thờ là để giúp chúng ta sống tốt hơn trong gia đình, nơi công sở, trong công việc. Việc đọc kinh xem lễ không phải là để ẩn náu, thoát đời một cách ích kỷ, nhưng là để tìm kiếm sự bình an cho tâm hồn mình, khi tâm hồn bình an, thì gia đình, xã hội cũng sẽ được bình an.

"Hãy đi và làm như vậy"! Lời đó Chúa nói với người thông luật và hôm nay Người cũng nói với chúng Ta. Như người Samaritanô nhân hậu, là mẫu gương tuyệt về việc biết chọn Luật Bác ái là trên hết, tất cả chúng ta cũng được mời gọi thực hành Luật Bác Ái bằng những việc làm cụ thể hành ngày của chúng ta. Và như thế là chúng ta đang yêu Chúa, đang giữ luật và đang xây dựng một thế giới bằng văn minh Tình thương. Amen!

AI LÀ NGƯỜI THÂN CẬN CỦA TÔI
Lc 10, 25 - 37

Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

Càng đồng hành với Chúa Giêsu trên hành trình tiến về Giêrusalem, chúng ta càng hiểu rõ hơn ý nghĩa mà Chúa muốn thực hiện khi cương quyết đến nơi mà Người biết chắc sẽ chịu nhiều đau khổ, sỉ nhục và bị giết chết. Tin mừng hôm nay giúp chúng ta khám phá ra rằng con đường tiến về Giêrusalem của Chúa nhất thiết phải là con đường của tình yêu, con đường của cảm thông và chia sẻ với đồng loại. Với dụ ngôn người Samari tốt lành, hẳn Chúa Giêsu muốn mở ra cho chúng ta giới luật yêu thương đồng loại cách nhưng không.

Câu hỏi mà nhà thông luật đưa ra để thử Chúa Giêsu liên quan đến việc "phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp". Đây chính là thâm ý của viên thông luật. Ông ta muốn làm thầy dạy về đường chân lý cho Chúa Giêsu. Chúng ta biết, lối giáo dục trong xã hội Dothái cũng như Hylạp xưa theo trình tự mô phạm là thầy giáo đặt câu hỏi, trò trả lời và cuối cùng thầy đưa ra nhận định đúng sai của vấn đề. Thấy được như thế, chúng ta mới hiểu ý định thâm độc của nhà thông luật kia. Ông ta tưởng rằng, là thầy, ông có quyền hỏi Chúa Giêsu và dĩ nhiên Chúa Giêsu phải trở thành học trò trả lời điều ông muốn dạy dỗ để rồi sau đó ông sẽ đưa ra nhận định đúng sai cho vấn đề. Trả lời bằng một câu hỏi, Chúa Giêsu đã chuyển đổi vai "thầy - trò" trong cuộc đối thoại với viên thông luật. Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp, nhưng câu hỏi của Người đặt nhà thông luật vào một nước cờ không thể không trả lời và, thật hài hước làm sao, viên thông luật tưởng sẽ làm thầy Chúa Giêsu thì giờ đây đành cúi đầu làm trò, ngoan ngoãn làm bài thi vấn đáp về môn học luân lý tôn giáo. Câu hỏi của Chúa Giêsu với nhà thông luật quả là không khó đối với ông. Dựa vào sách Đệ nhị luật và Lêvi, ông đã trả lời vanh vách vấn đề Chúa nêu ra: "Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn ngươi, và người thân cận như chính mình" (x. Đnl 6,4; Lv 19,18). Nhà thông luật quả là một học trò xuất sắc. Câu trả lời của ông được Chúa Giêsu khen ngợi. Đàng sau lời nhận định theo đúng môtíp sư phạm mà Chúa Giêsu đưa ra cho nhà thông luật, chúng ta còn thấy một sự chuyển biến tâm lý đối với nhà thông luật này. Thật thế, câu hỏi tiếp theo của ông "Nhưng ai là người thân cận của tôi" làm cho chúng ta hiểu rằng nhà thông luật giờ đây không còn ý định thử Chúa nữa mà thực tâm muốn tìm hiểu vấn đề - điều không còn nằm trên bình diện lý thuyết như truyền thống đã nêu mà trên bình diện thực hành. Thế nhưng làm sao để hiểu thế nào là người thân cận của mình? Hẳn chúng ta biết, đối với người Dothái, người thân cận chỉ gồm những ai thuộc chủng tộc Dothái mà thôi. Điều này đã được nói đến trong Kinh thánh (x. Lv 19, 11.13.15.18). Dụ ngôn người Samari tốt lành sẽ giúp cho viên thông luật nhận ra cái nhìn hẹp hòi của mình, đồng thời cũng là câu trả lời cho chúng ta về điều mà nhà thông luật thắc mắc.

Đoạn đường từ Giêrusalem xuống Giêrikhô dài khoảng 25 km đi qua nhiều đoạn đèo dốc hiểm trở. Bọn cướp thường lợi dụng địa hình hiểm trở này để ra tay cướp của giết người. Một người chẳng may bị bọn cướp trấn lột, bị đánh đập nhừ tử và đang rất cần sự trợ giúp của người khác.

Cứ theo mạch văn Tin mừng, thì người lâm nạn đúng là một người Dothái. Và, cũng theo quan niệm của Dothái giáo thì con người khốn khổ này hẳn sẽ là ưu tiên hàng đầu đối với bất cứ người Dothái nào gặp phải. Thế nhưng, lạ lùng thay, những bậc vị vọng trong giới thượng tế Dothái giáo là Tư tế và Lêvi lại tỏ ra ghẻ lạnh, thờ ơ đến ngay cả đồng loại của mình! Các ông trong giới thượng tế này không phải không trông thấy đồng loại mình đang quằn quại rên xiết bên vệ đường, nhưng điều gì khiến các ông tỏ ra lạnh lùng đến thế? Đơn giản là vì các ông đã quá chú trọng đến khoản luật cấm được ghi trong sách Dân số khi nói đến việc chạm tay vào xác chết, vào người bị đả thương,... thì sẽ bị ô uế trong 7 ngày (x. Ds 19, 11-13.16). Thế nhưng thưa các ông Tư tế và Lêvi, chẳng lẽ các ông lại không nhớ lời Giavê Thiên Chúa nói qua miệng ngôn sứ Hôsê ư, rằng Người chỉ "muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế" (x. Hs 6,6)? Các ông đã quên mất điều trọng yếu này trong phần thực hành giới luật của mình.

Ngược lại với các nhà thượng tế, người Samari vốn được xem là kẻ đa nguyên về tôn giáo, lai căng về chủng tộc và được người Dothái xem là kẻ xa lạ, cần tránh xa bao có thể lại trở nên khuôn mẫu về lòng nhân từ. Có một thực tế là, điều mà mọi người cho là thân thuộc lại trở nên xa lạ và, kẻ bị xem là xa lạ lại trở thành thân thuộc. Sở dĩ có sự đảo lộn trật tự này chung quy cũng chỉ ở cách nhìn nhận vấn đề và tấm lòng yêu mến đồng loại.

Gặp người hoạn nạn, người Samari đã không suy nghĩ, không lý luận xem "ai là người thân cận, là anh em tôi" rồi mới hành động. Anh chỉ nhìn ra một con người đang đau khổ, cần được cứu giúp mà không xem xét gốc gác của người ấy có đồng chủng tộc, có đồng quan điểm, chính kiến với mình hay không. Người Samari hành động ngay lập tức là cứu giúp nạn nhân và chính hành động này, anh đã trở nên người thân cận, người anh em của nạn nhân. Đối với Chúa Giêsu, khi gặp người hoạn nạn khốn khổ không phải là lúc ngồi xuống để hỏi xem họ có phải "là người thân cận của tôi" hay không, mà là xắn tay áo lên hành động với một trái tim đầy tình yêu mến. Những động tác thuần thục của người Samari khiến chúng ta thấy dường như anh không phải làm công việc này lần đầu mà là nhiều lần, rất quen thuộc như là thói quen, như là hơi thở của mình vậy. Anh đã yêu thương người bị nạn như chính mình. Anh đã hy sinh tất cả chỉ mong sao mọi điều tốt lành sẽ đến với người kém may mắn.

Giáo huấn của Chúa Giêsu về lòng nhân ái thật rõ ràng, không cầu kỳ khó hiểu nhưng rất thực tế. Thiên Chúa không phải là Đấng ở trên cao để con người ngưỡng mộ tôn kính mà là Đấng đang ẩn mình ngay trong chính những người bị thương, khốn khó, nằm vất vưởng bên vệ đường. Tình yêu chân thành của chúng ta đối với Thiên Chúa chỉ có thể thực hiện khi và chỉ khi chúng ta yêu thương những con người gặp khốn khó, bệnh hoạn tật nguyền. Đối với Chúa Giêsu, người thân cận là người thực thi lòng nhân ái bao dung chứ không phải người chỉ biết hưởng thụ lòng xót thương.

"Hãy đi và cũng hãy làm như vậy" là lời nhắn gửi của Chúa Giêsu không chỉ cho nhà thông luật mà còn cho chính mỗi người chúng ta đang sống trong một xã hội đang mất dần lòng nhân hậu và sự bao dung. Ước gì mỗi bước chân của người Kytô sẽ vang vọng lời mời gọi của Chúa là thực thi Đức ái giữa lòng nhân loại.

TÌNH YÊU KHÔNG BIÊN GIỚI
Lc 10, 25 - 37
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT

Đạo của Chúa Giêsu thiết lập là đạo tình thương. Cái khác lạ và kỳ diệu đến ngạc nhiên của mọi người vẫn là đạo do Chúa Giêsu thành lập ở trần gian hoàn toàn dựa trên tình bác ái, yêu thương. Một thứ luật vượt ngoài sự suy nghĩ của con người. Đạo dậy yêu thương người thù địch, kẻ làm hại, người bắt bớ. Đúng là một thứ luật ở ngoài tầm hiểu biết của con người, của mỗi người. Chúa nói đạo của Ngài không chỉ yêu thương bằng môi miệng nhưng " yêu bằng việc làm ". Tin Mừng Luca 10, 25-37 và hai bài đọc Chúa Nhật XV thường niên, năm C sẽ minh chứng điều đó.

ĐẠO CỦA CHÚA GIÊSU: "ĐẠO TÌNH THƯƠNG" :

Khi thiết lập đạo tình thương, Chúa Giêsu họa lại chính con người thật của Ngài như thánh Gioan diễn tả :" Thiên Chúa là tình yêu ". Đã sống tình yêu, thờ phượng Thiên Chúa trên hết mọi sự thì cũng phải thương yêu anh em. Tình yêu thương kẻ khác phải trải rộng đến mọi người, không phân biệt mầu da, ngôn ngữ, chính kiến vv...Đạo Do Thái chắc chắn cũng đã qui định tình yêu thương đối với người khác. Tuy nhiên, những nhà lãnh đạo tôn giáo, những kinh sư, tư tế, biệt phái và pharisiêu vì bầy ra quá nhiều điều luật tỉ mỉ, chi tiết, nên đã tìm cách giới hạn điều luật đó.Do đó, một người thông luật trong Tin Mừng hôm nay đã hỏi Chúa Giêsu:" Ai là người thân cận của tôi ?". Chúa Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn, một câu chuyện để trả lời cho vị thông luật. Để dễ hiểu hơn câu chuyện này, ta hãy trở về bối cảnh của Do Thái Giáo lúc đó. Người Do Thái và người Samaria đã có mối hiềm khích từ lâu đời. Cho nên, khi Chúa Giêsu có dịp đi ngang qua xứ Samaria đến thành Sichem, Ngài mệt mỏi vì đường sá, nên ngồi phệt xuống bên bờ thành giếng Giacóp. Một người đàn bà xứ Samaria ra múc nước, Chúa liền xin bà nước uống cho đỡ khát, bà liền sửng sốt thưa Chúa:" làm sao ông là người Do Thái lại xin nước uống với tôi là người Samaria, vì người Do Thái và người xứ Samaria không bao giờ được phép giao thiệp với nhau ( Ga 4, 5-9 ). Thế mà, trong câu chuyện này, ta thấy một người Do Thái bị cướp bóc lột và đánh nửa sống nửa chết trên đường đi Giêricô, rồi có một thầy tư tế và một thầy Lêvi cũng là người Do Thái, đi ngang qua, thấy vậy tránh lối mà đi, không hề đoái hoài, thương giúp người bị nạn. Chỉ có người Samaritanô vốn là thù địch với người Do Thái, khi đi qua thấy người đó lại động lòng thương săn sóc họ hết sức tận tình. Chúa Giêsu hỏi người thông luật :" Vậy ai là người thân cận của kẻ bị cướp " ( Lc 10, 36 ). Người thông luật thưa:" Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy ". Đức Giêsu bảo ông ta :" Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy "( Lc 10, 37 ). Đây là tấm gương bác ái thật cao cả, cho nên Chúa dậy ta cũng hãy làm như vậy.

HÃY YÊU BẰNG HÀNH ĐỘNG, BẰNG GƯƠNG SÁNG, BẰNG VIỆC LÀM TỎA SÁNG :

Yêu như Chúa yêu. Yêu như người Samaritanô yêu không chỉ bằng đầu môi chóp lưỡi mà yêu bằng việc làm. Yêu bằng chính con tim. Mẹ Têrêsa Calcutta nói : " Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình". Chúa Giêsu đã nói và đã thực hiện tình yêu vô vị lợi, tình yêu phục vụ, tình yêu tự hiến của mình bằng chính mạng sống của mình :" Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình thương mến"( Ga 15, 13 ). Chúa dậy và làm gương cho ta để ta thực hiện tình thương mến thương. Sở dĩ có khi ta chưa dám thể hiện tình thương là vì ta sợ mất giờ, sợ thiệt thòi, sợ liên lụy, sợ phải trả giá, sợ đụng đến sự an tòan, sợ đụng đến tiện nghi, vật chất của mình. Tất cả những nỗi sợ ấy làm ta co cụm lại, làm ta không dám tung ra, không dám phá tan rào cản của ích kỷ, lòng tham vô đáy của ta. Yêu như Chúa yêu là dám hy sinh cho người khác dù phải thiệt thân. Yêu như người Samaritanô nhân hậu là dám phá tan cái rào cản giữa thù hiềm dân tộc, màu da, ngôn ngữ để giúp người anh em mà luật không cho phép. Yêu như người Samaritanô là dám chịu thiệt thòi về thời gian, công sức, tiền của để cứu người anh em xa lạ. Đạo Kitô là đạo tình thương. Người Kitô hữu mang danh Chúa Kitô mà không thực hành bác ái, yêu thương, không sống tình yêu, không viết lên hai chữ yêu thương bằng chính việc làm tỏa sáng của mình trong đời sống thường nhật với những người thân cận, người đó chỉ là người Kitô hữu hữu danh vô thực, giả hiệu, giả danh. Vì yêu chính là trao ban. Yêu người sẽ gặp Chúa và yêu Chúa sẽ gặp được người.

Lạy Chúa Giêsu, xin tăng thêm đức tin cho chúng con, để chúng con biết sống và biết yêu như Chúa đã yêu ( Ga 15, 12 ). Amen.

CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN
Lc 10, 25 - 37

Lm Augustine, SJ

Một câu chuyện có thật đã xảy ra tại Thụy Sĩ như sau:
Tại một tiệm ăn bình dân, sau khi đã mua thức ăn, một người đàn bà nọ bưng khay của mình đến một dãy bàn trống. Nhưng vừa ngồi xuống bàn ăn, người đàn bà mới chợt nhận ra rằng mình chưa có muỗng nĩa. Bà liền để chiếc khay xuống bàn và đứng lên đi tìm muỗng nĩa. Nhưng khi trở lại bàn ăn, bà ngạc nhiên vô cùng vì một người da đen đang ngồi ngay trước mâm của bà và đang ăn chính thức ăn mà bà đã mua.

Người đàn bà nghĩ bụng đây hẳn là một tên du thủ du thực, mặt dày mặt dạn. Nhưng nhìn kỹ, người đàn bà nhận thấy kẻ đối diện với mình không hẳn là một kẻ bất lương, trái lại còn có vẻ đàng hoàng và trí thức là khác.

Bà ta ngồi xuống bàn xin phép người đàn ông da đen và chung phần ăn còn lại trong mâm. Người đối diện với bà không lên tiếng, nhưng lại nở một nụ cười rất thân thiện. Ông giúp người đàn bà lấy thức ăn bằng một cử chỉ nhẹ nhàng, tử tế và đầy tình thân thiện. Thỉnh thoảng ông nhìn người đàn bà rồi mỉm cười. Cứ thế trong thinh lặng bà dùng hết phần ăn trong khay.

Sau đó, người đàn ông da đen đứng lên ra hiệu cho người đàn bà ngồi yên tại chỗ. Một lúc sau ông trở lại với một gói khoai tây chiên và đặt trước mặt người đàn bà. Lần này hai người cùng lặng lẽ chia nhau ăn hết gói khoai tây. Sau đó, người đàn ông đứng lên mỉm cười, ngã đầu chào người đàn bà rồi đi luôn.

Lân cận chưa phải là thân cận

Như bừng tỉnh sau một cơn mê, người đàn bà đứng dậy tìm mãi mà không thấy cái xách tay của bà đâu. "Thì ra cái tên da đen này đã đánh cắp cái xách tay của mình. Bà định hô lên cho người ta chạy đến và chặn bắt kẻ gian. Nhưng quay lại dãy bàn ăn nơi bà vừa đứng dậy, người đàn bà nhận ra một mâm thức ăn còn nguyên vẹn nhưng không có muỗng nĩa và bên cạnh đó có cả túi xách tay của bà nữa.

Người đàn bà bỗng nhận ra bà đã phạm một lầm lẫn lớn. Đó là không phải người đàn ông da đen đã ăn phần ăn của bà và đã đánh cắp xách tay của bà mà chính bà đã lầm bàn ăn và đã ăn phần ăn của ông ta.

Câu chuyện vừa kể có vẻ như chuyện tiếu lâm mà thôi chẳng ăn nhằm gì với bài Tin Mừng hôm nay. Nhưng nghĩ cho kỹ sẽ thấy nó giúp ta hiểu thêm vấn đề "ai là người thân cận của tôi." (c.29), chính là vấn đề mà bài dụ ngôn người Samari tốt lành có ý trả lời.

Vấn đề này được nêu lên với Thầy Giêsu khi Thầy nhất quyết lên Giêrusalem bởi vì sắp tới ngày Thầy được rước về trời (Lc 9,51). Thầy không lên Giêrusalem một mình. Có rất đông người cùng đi đường với Thầy. Thầy quay lại bảo họ: "Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được." (Lc 14,25-27).

Ngay ở bước đầu của cuộc hành trình lên Giêrusalem, Thầy đã đòi hỏi các môn đệ phải từ bỏ mọi sự như điều kiện để theo Thầy (Lc 9,57-62). Riêng với bối cảnh của bài Tin Mừng hôm nay, đó là lúc Thầy Giêsu hết lòng ngợi khen "Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những kẻ bé mọn" (Lc 10, 21). Chính đó là lúc một nhà thông thái về Luật đạo đứng lên hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?" Nhưng Đức Giêsu trả lời bằng một câu hỏi là: "Trong luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?" Nhà thông luật buộc phải trích sách ĐNL 6,5 và Lv 19,18 dạy rằng: Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và người thân cận như chính mình." Khi Đức Giêsu bình phẩm và nói rằng "Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống", nhà thông luật nêu thêm thắc mắc để chứng tỏ câu hỏi ông nêu với Thầy Giêsu là đáng kể. Thắc mắc đó là: "Ai là người thân cận của tôi?" Dụ ngôn người Samari tốt lành mà Thầy Giêsu kể chính là để giải đáp thắc mắc đó.

Vấn đề thiết yếu là lòng thương xót

Dụ ngôn này đặt người nghe trước cảnh một người bị cướp bóc lột và đánh nhừ tử rồi để nửa sống nửa chết trên đường từ Giêrusalem xuống Giêrikhô. Đó là một người hoàn toàn vô danh mà người kể không hề cho biết chi tiết nào khác. Một người trong tình trạng đó chẳng thể hứa hẹn gì cho người tới giúp mình ngoài sự phiền hà. Vậy thì ai là người chấp nhận bị phiền hà và chấp nhận vì lý do nào?

Dụ ngôn cho thấy xuất hiện trước hết là một thầy tư tế. Vừa trông thấy nạn nhân, ông liền tránh qua một bên mà đi. Kế đến là một Thầy Lêvi. Ông cũng vậy. Vừa thấy nạn nhân, ông liền bước qua bên kia đường mà đi. Ta không được cho biết lý do tại sao hai người vừa nói lại hành xử giống nhau như vậy đối với nạn nhân đang cần họ giúp đỡ. Có vẻ như hai người ấy có chuyện gì gấp phải lo nên buộc phải sang bên kia đường để đi tiếp cho được việc. Cũng có thể cả hai đều lo việc tế tự nên buộc phải tránh tình trạng nhơ nhớp do tiếp xúc với người ngoại đạo, nhất là với người chết. Dù sao dụ ngôn cho thấy con người được tự do hơn cả để đáp lại tiếng gọi của tình thương, không phải là người có địa vị xã hội như thầy tư tế hoặc thầy Lêvi, nhưng là một người "giáo gian" Samari! Người Do Thái không những tránh giao thiệp với người Samari mà còn khinh dễ họ vì họ vừa lai chủng tộc vừa "lai tôn giáo" theo nghĩa niềm tin của họ có nhiều dị biệt khác hẳn với Do Thái Giáo. Thế mà con người "bé mọn Samari" này lại có khả năng tỏ ra cho nhà thông luật biết thế nào là trở nên thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp (c.36). Dù sao Thầy Giêsu đã có thể nói với nhà thông luật rằng "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy" (c.37) tức là làm như người Samari đã làm!

Biểu lộ con người bên trong

Trở lại với câu chuyện có thật đã xảy ra bên Thụy Sĩ. Điều nổi bật trong câu chuyện là sự tình cờ. Chính qua sự tình cờ mà hai nhân vật biểu lộ con người bên trong của mình và cho thấy ai là người thân cận với mình.

Là người ai cũng có thể lầm lẫn. Điều quan trọng là khi xảy ra lầm lẫn, đương sự hành xử thế nào, cách hành xử ấy có thể cho thấy tính chất tốt lành của đương sự chăng hay nó cho thấy điều ngược lại. Rất tiếc rằng người đàn bà trong suốt câu chuyện đã hành xử thuần tuý theo quyền sở hữu của mình. Bà đã bỏ tiền ra mua một bữa ăn và giữ toàn quyền trên phần ăn đó. Ai mà vi phạm quyền đó của bà, người ấy sẽ lãnh đủ. Trong chốc lát bà đã nghĩ xấu về người đàn ông da đen, cho đó là tên du thủ du thực, mặt dầy mặt dạn. Thiếu chút nữa là bà đã hô to để chặn bắt ông ta vì nghĩ ông ta đã đánh cắp cái xách tay của bà, lý do cũng vì quyền sở hữu.

Coi trọng con người hơn quyền sở hữu

Ngược lại, người đàn ông da đen trong câu chuyện đã coi trọng bản vị người đàn bà lầm lẫn hơn phần ăn của ông. Ông đã giúp người đàn bà lấy thức ăn nơi phần ăn của ông bằng một cử chỉ tử tế đầy tình thân thiện. Về cuối câu chuyện, ông còn đứng lên mua thêm một gói khoai tây chiên để hai người cùng ăn. Khi từ biệt ông không quên mỉm cười và ngả đầu chào người đàn bà cách lịch sự.

Một cách nào đó, người da đen trong câu chuyện là hình ảnh nho nhỏ về người Samari tốt lành hiện đại. Ông không vội nghĩ xấu về người khác, ngược lại còn tỏ ra tử tế và thân thiện với người lầm lẫn, bỡi lẽ ông coi trọng con người hơn tất cả những điều mình sở hữu.

YÊU THIÊN CHÚA và YÊU THA NHÂN
Lc 10, 25 - 37

Lm Giuse Vũ Thái Hòa

Khi người thông luật đặt câu hỏi: "Thưa thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?" và tìm được câu trả lời trong Luật: "Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của người, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn ngươi, và người thân cận như chính mình". Chúa Giêsu trả lời: "Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống".

Vì muốn cho người thông luật này hiểu rõ hơn thế nào là "người thân cận", Chúa Giêsu kể dụ ngôn người Samari tốt lành.

Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu giúp người thông luật và giúp chúng ta vượt lên trên cái nhìn hạn hẹp của mình. Người thân cận là tất cả mọi người, dù là người mình không ưa thích, không cùng màu da, không cùng tôn giáo, không cùng lập trường chính trị. Chúng ta đến gặp tha nhân với lòng bác ái và quãng đại. Như vậy, câu hỏi không còn là "ai là người thân cận của tôi?", mà là "tôi là người thân cận của mọi người như thế nào một cách cụ thể?"

Ngày xưa, trong một làng nhỏ, tại miền Nam Trung quốc, có một em bé gái tiều tụy, đói rách và mang bệnh phong hủi. Khi biết em bị bệnh hủi, dân chúng dùng gậy gộc và gạch đá xua đuổi em ra khỏi làng.

Giữa cảnh hỗn loạn ấy, một nhà truyền giáo xông ra ẵm em bé trên tay để bảo vệ em khỏi những trận đòn và những viên gạch, hòn đá ném bừa bãi vào tấm thân bé bỏng của em.

Thấy có người mang em bé đi, dân làng mới chịu rút lui, nhưng miệng vẫn còn gào thét : " Đồ hủi! Đồ hủi!"

Với những giòng nước mắt chảy dài trên má, những lần nầy là những giọt nước mắt vui mừng chứ không phải là những giọt lệ buồn tủi, em bé hỏi vị cứu tinh của mình : "Tại sao ông lại lo lắng cho con?" Nhà truyền giáo trả lời :"Vì Ông Trời đã tạo dựng cả hai chúng ta, và cũng vì thế con sẽ là em gái của ta và ta sẽ là anh của con"

Suy nghĩ hồi lâu, em bé cất tiếng hỏi : "Con có thể làm gì để tỏ lòng biết ơn cứu giúp của ông ?" Nhà truyền giáo mĩm cười đáp : "Con hãy trao tặng lại cho những kẻ khác tình yêu này càng nhiều càng tốt."

Kể từ đó đến ba năm sau, khi em bé tắt thở cuối cùng, em đã vui vẻ băng bó các vết thương của các bệnh nhân khác trong trại cùi, đút cơm cho những người bị bệnh nặng, và nhất là em tỏ ra dễ thương và yêu mến tất cả mọi người trong trại. Lúc từ giã cõi đời, em bé chỉ mới 11 tuổi. Các bệnh nhân khác đã từng chung sống với em nói với nhau: "Bầu trời nhỏ bé của chúng ta đã về trời".

Tinh thần Kitô giáo được tóm gọn trong hai điểm : yêu Chúa và yêu người. Cả hai luôn đi đôi với nhau. Hễ mến Chúa là phải yêu người. Càng yêu mến Chúa thì càng yêu người. Công thức Phúc Âm này không thể tách rời được trong đời sống của Kitô hữu.

Thánh Gioan Tông đồ có viết : "Nếu ai nói : 'Tôi yêu mến Thiên Chúa' mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy" (1 Ga 4:20). Như thế, tình yêu tha nhân là nơi chứng minh tình yêu của mình đối với Thiên Chúa.

Câu đầu và câu cuối của bài Tin Mừng hôm nay được nhấn mạnh bởi động từ làm. Câu đầu là câu hỏi của người thông luật: "Tôi phải làm gì để được sống đời đời?". Câu cuối cùng là câu trả lời của Chúa Giêsu: "Cứ làm như vậy là sẽ được sống", nghĩa là thực thi lòng bác ái xót thương không biên giới, không điều kiện với tất cả mọi người, như người Samari trong dụ ngôn đã thực hành. Như thế, đức ái không phải là một khái niệm trừu tượng, mà là một điều rất cụ thể.

Chúng ta thường dễ dàng yêu thích những người hợp với mình. Nhưng Chúa Giêsu dạy chúng tá phải yêu thương mọi người, kể những người không hợp với mình và thù ghét mình ( Mt 5:44). Đó chính là tinh thần Kitô giáo, là giới luật mới lạ nhất mà chỉ có Chúa Giêsu truyền dạy cho chúng ta. Nếu chúng ta thực hiện được điều đó, chúng ta đích thực là con cái Chúa, và chúng ta sẽ "được sự sống đời đời làm gia nghiệp".

Nguyện xin Chúa Nhân lành luôn ban ơn cho chúng ta niềm vui, sức mạnh và can đảm để yêu Chúa và yêu tha nhân trong đời sống thường nhật của chúng ta, nơi Nước Trời đã bắt đầu.

AI LÀ THA NHÂN CỦA TÔI ?
Lc 10, 25 - 37

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

Trong bài Phúc Âm của Chúa Nhật XV Mùa Thường Niên Năm C hôm nay, qua cuộc vấn đáp giữa một nhà thông luật và Chúa Giêsu, Mạc Khải Thấn Linh cho chúng ta thấy rõ hai chân lý liên quan đến phần rỗi của chung loài nguòi và của riêng Kitô hữu chúng ta: thứ nhất là chân lý về đường lối để được sự sống đời đời, và chân lý thứ hai về chân dung của thành phần được gọi là tha nhân.

Trước hết, chân lý về đường lối để được sự sống đời đời, khi công nhận câu đối đáp của nhà thông luật "Ông đã trả lời đúng. Hãy làm như vậy thì ông sẽ được sống", Chúa Giêsu đã cho nhà thông luật thắc mắc: "Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?" biết rằng, đó là "Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng muốn, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn ngươi, cũng như hãy yêu thương tha nhân như chính bản thân ngươi". Như thế, yên mến Thiên Chúa hết mình và yêu thương tha nhân như mình chính là đường lối để được sự sống đời đời vậy. Căn cứ vào chân lý này, nói một cách phủ định hơn, nghĩa là, ai không mến Chúa hết mình và yêu người như mình chắc chắn sẽ không được sự sống đời đời, tức bị hư đi đời đời. Tuy nhiên, tới đây, nhà thông luật của chúng ta tỏ ra không có vấn đề gì với Thiên Chúa cho bằng với tha nhân. Bởi thế, ông không hỏi Chúa Giêsu "Thế nhưng Chúa là Thiên Chúa của tôi là Đấng nào?", mà lại đặt vấn đề "tha nhân của tôi là ai?" hay "ai là tha nhân của tôi?" Do đó mới có chân lý thứ hai, chân lý về chân dung của thành phần được gọi là tha nhân.

Theo quan niệm bình thường, trước hết, "tha nhân" tức là một người không phải là mình, hoàn toàn khác với mình. Sau nữa, đối với liên hệ trong gia đình huyết tộc, "tha nhân" cũng không phải là thành phần thuộc về thân nhân ruột thịt hay họ hàng nghĩa thiết với mình. Sau hết, thành phần "tha nhân" lắm khi còn bị tâm lý giao hữu loại trừ ra khỏi bờ cõi cận nhân nữa, ra khỏi phạm vi thân thiết bạn bè, nghĩa là, trở nên một thành phần hoàn toàn lạ mặt, xa cách với mình, thành phần mình không hề quen biết tí nào. Tuy nhiên, thực tế và tâm lý bình thường cũng cho thấy một sự thật không ai có thể chối cãi được là, có nhũng lúc chính thân nhân và thân hữu của mình lại là những kẻ không thể đội trời chung với mình, bị chúng ta đẩy đi lưu đầy xa khuất khỏi mắt của chúng ta, tức ở ngoài cả biên giới "tha nhân" xa lạ nữa. Trong trường hợp này, "tha nhân" đột nhiên và nghiễm nhiên trở thành gần gũi, thành cận nhân với chúng ta hơn cả thành phần vốn là thân nhân và thân hữu của chúng ta trước kia. Vào những lúc đó, một "tha nhân" nào đó tỏ ra thông cảm với chúng ta và ngả về phía của chúng ta, vị "tha nhân" ấy, dù trước kia có những bất đồng với chúng ta, thậm chí đối nghịch với chúng ta, bấy giờ họ cũng sẽ trở thành thân thiết với chúng ta. Điển hình là trường hợp của quận vương Hêrôđê với tổng trấn Philatô, sau khi Hêrôđê được Philatô cho giải Chúa Giêsu đến để Hêrôđê phân xử, thì hai nhân vật này đã được Phúc Âm Thánh Luca thuật lại ở đoạn 23 câu 12 như sau: "Hêrôđê và Philatô trước kia vốn đối nghịch với nhau từ đó lại trở thành bạn bè". Nếu cứ theo tâm lý chủ quan của con người chúng ta như thế, thì "tha nhân" phải nói là người bị tha hóa, tức thành phần không còn là họ nữa, mà là những gì chúng ta tạo ra hay biến thành tùy ý.

Nếu xẩy ra tình trạng này thì quả thực, như thực tế đã cho chúng ta thấy, nhiều khi chính những người vốn thân yêu nhất của chúng ta từ trước đột nhiên trở thành những con ma trơi, những con ma ban ngày, những con ma làm cho chúng ta sợ, lúc nào chúng ta cũng muốn tránh mặt, không dám gặp mặt, không dám đối diện và không còn thích gần gũi hay tìm đến như xưa nữa. Tình trạng "tha nhân" trở thành những con ma đối với chúng ta như thế còn chứng tỏ tâm trạng yếu bóng vía của chúng ta, nghĩa là tình trạng chúng ta chưa sống thực, tình trạng chúng ta còn trẻ con, chưa trưởng thành cả về tâm linh lẫn đức tin liên quan đến Thiên Chúa nữa. Đúng thế, nếu "tha nhân" không thực sự là một con người, mà chỉ là một cái gì do chúng ta tạo ra hay biến thành như thế, tùy theo ý nghĩ và ý thích của mình, thì quả thực chúng ta không phải chỉ có vấn đề với "tha nhân" mà còn với cả "Chúa là Thiên Chúa" nữa. Bởi vì, chỉ khi nào chúng ta tôn thờ "ngẫu tượng", tức tôn thờ vị Thiên Chúa do chúng ta chủ trương, do chúng ta tự tưởng tượng vẽ vời ra, như trường hợp dân Do Thái tôn thờ bò vàng trong sa mạc được Sách Xuất Hành thuật lại ở đoạn 32 câu 4, chứ không phải vị Thiên Chúa đích thực, như Ngài tỏ mình ra cho chúng ta biết như được Thánh Kinh ghi nhận, chúng ta mới có thái độ bóp méo hình ảnh của Ngài là "tha nhân" như thế. Lý do là vì chúng ta chưa biết Ngài thực sự, nên chúng ta cũng không nhận ra những gì thuộc về Ngài. Đó là lý do tại sao Chúa Kitô, trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 15 câu 21 hay đoạn 16 câu 3, đã vạch rõ căn nguyên thế gian bách hại môn đệ của Người như sau: "Họ làm cho các con tất cả những điều ấy là vì họ chẳng nhận biết Cha cũng không nhận biết Thày". Đó cũng là lý do chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa hết mình trước rồi mới có thể yêu thương tha nhân như bản thân mình được.

Chính vì "tha nhân" là một con người thực sự, một con người như chính chủ thể yêu và phải được chủ thể yêu yêu như chính bản thân mình mà, trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu không trực tiếp trả lời cho nhà thông luật "tha nhân của tôi là ai?", song Người đã lật ngược vấn đề, qua câu hỏi gợi ý: "Ai trong ba người này (vị tư tế, thày Lêvi, và người Samariatanô) là tha nhân của người bị rơi vào tay bọn cướp?" Thế rồi, sau khi nhà thông luật trả lời: "Chính là người tỏ lòng thương cảm hắn", Chúa Giêsu liền nói với ông ta: "Vậy thì anh hãy đi mà làm như thế". Nghĩa là, theo tinh thần Chúa Giêsu dạy trong bài Phúc Âm hôm nay, một khi yêu thương nhau và trong việc yêu thương nhau, không nên, đúng hơn, không được, đặt vấn đề phân biệt và chọn lựa: "ai là tha nhân của tôi". Bởi vì, một khi đã phân biệt và chọn lựa, thì theo tâm lý tự nhiên, mình chỉ yêu ai mình thích, thích ai hợp với mình, và mến ai làm vừa lòng mình v.v. Nếu yêu thương theo kiểu này là yêu thương mình hơn là tha nhân, và biến tha nhân thành sở hữu, thành thuộc hạ của mình hơn là coi họ như chính bản thân mình, để có thể yêu họ như chính bản thân mình. Bởi thế, vấn đề yêu thương chân chính hay Đức Ai trọn hảo theo Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay là vấn đề hòa đồng và đại kết, ở chỗ, "tôi cần phải là tha nhân của mọi người, cần phải trở nên như mọi người": "Ai trong ba người này là tha nhân của người bị rơi vào tay bọn cướp?". Chỉ có thế chúng ta mới chẳng những không có ai là kẻ thù, hay không bao giờ gặp kẻ thù, dù thực sự có bị bất cứ ai thù ghét và tác hại, trái lại, chúng ta còn có thể "trở nên mọi sự cho mọi người", như tinh thần của vị Tông Đồ Dân Ngoại chia sẻ trong thư Thứ Nhất gửi Giáo Đoàn Côrintô đoạn 9 câu 22.

Phải, chính tinh thần bác ái làm cho con người yêu thương trở thành quốc tế như thế, "trở nên mọi sự cho mọi người" như thế, họ mới thực sự là một nhà truyền giáo và mới có đủ khả năng truyền giáo. Bởi vì, nếu vai trò của nhà thừa sai, như bài Phúc Âm Chúa Nhật XIV Mùa Thuòng Niên Năm C tuần trước cho thấy họ được sai đi trước đến những nơi Chúa Giêsu sẽ đến, nghĩa là đi mở đường, để qua việc họ làm, hay qua đức ái làm nên bản chất và chân dung của người môn đệ Chúa Kitô nơi họ (xem Jn 13:35), thế gian có thể nhận biết Thày họ là Đấng Thiên Sai đến sau họ. Ý nghĩa bài Phúc Âm Chúa Nhật XV Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh Năm C hôm nay, một thời điểm Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô tỏ mình ra qua chứng tá Giáo Hội của Người trên thế gian cho đến tận thế, là ở chỗ này, ở chỗ, Chúa Kitô tỏ mình ra qua thành phần chứng nhân của Người, hay qua tình họ yêu thương trọn lành "trở nên mọi sự cho mọi người", một tình yêu thương "đi khắp thế gian (và) cho mọi tạo vật" (Mk 16:15) chứ không phải cho riêng một dân nước nào, hay cho riêng một thành phần nào, một tình yêu hoàn toàn phản ảnh Đấng "muốn chứng tỏ lòng yêu thương đến cùng của mình" (Jn 13:1), ở chỗ, Người "đã đến không phải để được phục vụ mà là phục vụ, để hiến mạng sống mình làm giá chuộc nhiều người" (Mt 20:28; xem 1Tim 2:6).

Tuy nhiên, nếu "tha nhân" trở nên mọi sự như ý nghĩ, ý muốn hay ý thích chủ quan của chúng ta, như trên đã nhận định, họ trở thành một con người bị tha hóa đối với chúng ta là chủ thể yêu thong, vậy thì, ngược lại, nếu chúng ta "trở nên mọi sự cho mọi người" thì bản thân chúng ta có bị họ tha hóa không, có bị trở thành một khối như loài vật không, có mất ngôi vị của mình không, vì chúng ta không còn là chúng ta nữa, mà là bị mọi người đồng hóa, hay bị đồng hóa với mọi người mất rồi?

Câu trả lời được tìm thấy ở đây là một đàng thì bị bắt buộc và một đàng hoàn toàn tự nguyện. Việc ép con người phải bỏ mọi sự làm của chung, ngược với quyền sở hữu của họ, hoàn toàn khác với việc các Kitô hữu tiên khởi ở Giêrusalem tự nguyện "bỏ mọi sự làm của chung", như Sách Tông Vụ thuật lại ở đoạn 2 câu 44. Sở dĩ thành phần Kitô hữu tiên khởi của chúng ta có thể thực hiện được việc này là vì họ hoàn toàn hiệp nhất với nhau, như Sách Tông Vụ còn thuật lại ở đoạn 4 câu 32: "Cộng đồng tín hữu đồng tâm nhất trí. Không ai lấy gì làm của riêng mình, mọi sự được lấy làm của chung", một tình trạng chứng tỏ cá nhân con người đã đạt đến tầm vóc hoàn toàn của mình nơi cộng đồng xã hội, và cộng đồng xã hội cũng đạt đến tầm vóc thiện hảo của mình đúng như ý muốn của Thiên Chúa, một ý muốn được bộc lộ qua Lời Nguyện Tiệc Ly của Chúa Kitô ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 17 câu 22: "Cho tất cả đuọc nên một như chúng ta là một", một mối hiệp thông có tác dụng truyền thông Thần Linh, như Người còn đề cập đến ở câu 23 ngay sau đó: "Để thế gian nhận biết rằng Cha đã sai Con".

Vấn đề thực hành sống đạo: Ai trong chúng ta cũng biết, nếu không có lòng yêu mến Thiên Chúa hết mình, chúng ta không thể nào yêu thương tha nhân như mình. Yêu thương tha nhân như mình chỉ là bản trắc nghiệm xem chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa hết mình chưa hay đã yêu mến Ngài đến đâu? Mà yêu mến Thiên Chúa hết mình, như nhà thông luật trong Phúc Âm hôm nay đã nhắc lại đoạn Sách Nhị Luật, đó là yêu mến hết lòng muốn, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn. Thế nhưng, thế nào là yêu mến Thiên Chúa hết lòng muốn, rồi đến hết linh hồn, tới hết sức lực, sau hết là hết trí khôn. Không biết tiến sĩ tâm lý Trần Mỹ Duyệt có thể chia sẻ ý nghĩa về bốn tác động yêu mến Thiên Chúa hết mình theo thứ tự này được không?

YÊU LÀ DẤN THÂN
Lc 10, 25 - 37

Br John Quốc Toản, CMC

Không có gì quí trọng trong cuộc sống con người bằng tình yêu. Tình yêu thường được nhắc đến trong văn thơ, báo chí và nhiều tác phẩm. Không phim ảnh nào mà không đề cập đến tình yêu. Con người cũng đã dùng nhiều lời lẽ khôn ngoan để định nghĩa tình yêu. Tuy nhiên, cũng có nhiều cuộc tự vẫn và chém giết xảy ra vì thất bại trong tình yêu. Kinh thánh cũng không thua kém trong việc đề cập đến tình yêu trong ý nghĩa sâu đậm nhất, tình yêu Thiên Chúa.

Các tác giả Tân Ước, nhất là thánh Luca trong Tin mừng hôm nay, luôn nhắc nhở ta rằng tình yêu mến Chúa và tha nhân không thể tách rời. Hơn nữa, thánh Gioan còn nhấn mạnh : "Ai nói mình yêu Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình" (s Gn 4:21). Tình mến Chúa yêu người có thể biểu lộ qua nhiều khía cạnh trong cuộc sống. Một trong những khía cạnh đó là dấn thân cho tha nhân.

Chúng ta có thể dấn thân phục vụ tha nhân tại trường học, xưởng làm, trong cộng đồng, xóm đạo hoặc ngay trong gia đình. Nhưng đặt biệt nhất là cần phải dấn thân phục vụ những người bất hạnh đang bị xã hội quên lãnh. Tin mừng hôm nay tả lại một gương dân thân : người Samaritanô, vì dấn thân, đã cứu sống một người bị bọn cướp đả thương nằm nửa sống nửa chết bên lề đường. Thầy Lêvi và Tư tế đã đi qua nạn nhân cách vô ý thức vì họ không muốn dấn thân. Nhìn vào cuộc sống, chắc nhiều lần chúng ta có thái độ như thầy Lêvi và Tư tế. Ông này nên giúp đỡ gia đình nghèo đó. Bà kia nên nâng đỡ những người đang gặp khó khăn trong giáo xứ. Anh nọ nên tìm cách giúp đỡ giới trẻ đang bị hư hỏng trong cộng đồng. Luôn luôn là ông này, bà kia, anh nọ, nhưng không bao giờ là tôi. Tôi không muốn dấn thân. Tôi không muốn mất thời giờ, khả năng, sự tiện nghi và thoải mái của tôi cho người khác.

Chúa Kitô, gương mẫu của mọi Kitô hữu, đã dạy và nhiều lần làm gương dấn thân cho nhân loại. Chúa Kitô đã dấn thân cho nhân loại ngay từ đầu lịch sử cứu độ. Ngài đã hiện diện bên cạnh ta khi ta được dựng nên từ hư vô. Ngài đã hóa thành nhục thể và sống giữa chúng ta. Ngài đã trở nên giống ta mọi sự trừ tội lỗi. Chúa Kitô đã dùng bữa với bọn đàng điếm, thu thuế và nhất là đã chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta. Là những Kitô hữu, chúng ta có dám theo gương Chúa Kitô để dấn thân cho kẻ khác không? Dấn thân đòi ta phải hy sinh thời giờ, khả năng, sức lực, sự thoải mái và đôi khi cả đến tánh mạng.

Hãy nhìn vào xã hội ta đang sống. Xã hội ngày nay có rất nhiều nghèo đói và vô gia cư sống rất tất tưởi trên những hè phố. Nhiều người bị những cơn bệnh ác nghiệt hành hạ và nhiều kẻ bị áp bức, quên lãng. Họ là những người đang bị bóc lột về những sự cần thiết tối thiểu, sự tự do và nhân vị. Họ là anh chị em của chúng ta trong Nhiệm thể Chúa Kitô. Là những thành phần trong Nhiệm thể Chúa Kitô, chúng ta cần phải dấn thân. Đừng ngần ngại mở rộng tầm tay để phân phát khả năng, thời giờ và nhất là chính con nguời của ta cho tha nhân.

Nhờ dấn thân, người Samaritanô đã cứu sống nạn nhân bị bóc lột bên lề đường; nhờ dấn thân Chúa Giêsu đã cứu chuộc chúng ta. Chúng ta có thật sự yêu Chúa? Nếu có, ta cần phải dấn thân để cứu giúp anh chị em bất hạnh trong xã hội vì Thánh Gioan đã dạy: "Ai nói mình yêu Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình" (1 Gn 4:21). Mỗi khi tham dự Tiệc Thánh thể, kỷ niệm việc Chiên Thiên Chúa đã dấn thân chịu chết để cứu chuộc nhân loại, chúng ta hãy suy về ý tưởng này.

(Nguồn vietcatholic.org)

1963    13-07-2013 06:27:27