- Làm Việc Ðể Tìm Kiếm Nước Trời
- Chúa Nhật 18 Thường Niên
- Hãy Tìm Bánh Hằng Sống Giêsu
- Bánh Trường Sinh
- Ý Thiên Chúa - Ý Con Người
- Bánh Đích Thực
- Chết Trong Danh Dự
- Bánh Trường Sinh
- Chúa Nhật 18 Thường Niên
- Vinh Quang Thập Tự
- Bánh Hằng Sống!
- Của Không Hư Nát
- Bánh Đức Tin
- Chúa Nhật 18 Thường Niên
- Chúa Nhật 18 Thường Niên
- Chúa Nhật 18 Thường Niên
LÀM VIỆC ÐỂ TÌM KIẾM NƯỚC TRỜI
Ga 6, 24 – 35
“Có làm thì mới có ăn
Không dưng ai dễ đem phần đến cho”
Ðúng vậy, ai ai trong chúng ta cũng công nhận rằng sống thì phải làm việc, làm việc không ngừng. Ðiều đáng nói là chúng ta phải làm những việc nào và làm với động cơ nào?
Chúa nhật tuần trước, cùng với Giáo hội chúng ta đã suy niệm đoạn Tin mừng của Thánh Gioan. Ðoạn Tin mừng này nói về phép lạ hóa bánh ra nhiều từ năm chiếc bánh và hai con cá nuôi hơn năm ngàn người ăn no nê. Kể từ phép lạ ấy dân chúng theo Chúa Giêsu ngày càng đông hơn. Thấy họ theo mình đông đảo như thế, Chúa Giêsu muốn nhắc nhở họ về động cơ đi theo Người: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê” (Ga 6, 26). Người nói tiếp: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông” (Ga 6, 27)
Có lẽ, Chúa Giêsu sợ rằng họ nghĩ là theo Người thì khỏi phải làm gì mà vẫn được no nê. Bởi lẽ, nhàn cư vi bất thiện. Do đó, Chúa Giêsu muốn họ có cái nhìn đúng đắn khi đi theo Người. Cái nhìn ấy phát xuất từ lòng tin tưởng vào Chúa. Tin tưởng vào Chúa để lo ưu tiên tìm kiếm Nước Trời là trên hết.
Có lần Chúa Giêsu đã nói: “…Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người” (Mt 6, 31 - 33)
Hằng ngày cực khổ làm việc vất vả nhưng có khi nào chúng ta tự hỏi tôi làm với động cơ gì chăng. Và rồi tôi đã làm việc như thế nào.
Có người làm việc với động cơ hại người.
Có người làm việc với động cơ hơn thua nhau
Ðể rồi họ bất chấp mọi thủ đoạn, bất chấp luân thường đạo lý miễn sao là đạt được mục tiêu đen tối của mình. Thật là nguy hiểm cho những người làm việc như thế. Hãy xin Chúa Giêsu cho chúng ta biết làm việc với động cơ thật tốt. Ðộng cơ tốt là để tìm kiếm Nước trời.
CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN
Ga. 6, 24 - 35
Thánh lễ là nơi chúng ta tham dự vào bàn tiệc Mình Máu Thánh Đức Kitô, là nơi lặp lại hy tế Núi Sọ. Nơi đó chúng ta được gặp gỡ với Thiên Chúa và hiệp thông với anh em nữa. Nên Thánh Lễ là Bí tích của sự hiệp thông
Thánh lễ còn là nơi thể hiện sự hiệp thông. Khi đi tham dự thánh lễ, chúng ta được trực tiếp găp gỡ Thiên Chúa – chính Đấng là Tình Yêu , luôn yêu thương chúng ta. Nơi Ngài ta đặt trọn vẹn tâm tư tình cảm của mình vào Ngài. Chúng ta mang theo thế giới mình đang sống như một hành trang, như một lễ vật dâng tiến Ngài. Rồi từ thánh lễ bước vào lại thế giới, để biến thế giới, biến cuộc đời thành một thánh lễ nối dài.
Khi dâng Thánh lễ, chúng ta mang nhiều tâm tư, tình cảm vào trong đó. Thánh lễ giúp chúng ta đón nhận thập giá đời thường. Bởi vì tất cả những khổ đau và bất hạnh, những thành công thất bại, những vất vả trong cuộc sống được chúng ta góp lại, trở thành lễ vật của chúng ta, kết hiệp với lễ vật của Đức Kitô mà linh mục dâng lên Thiên Chúa. Khi đã dâng cho Ngài chúng ta đón nhận được sự bình an, thư thái. Chúng ta cảm nếm hạnh phúc ngọt ngào tâm tình của người con luôn vâng theo thánh ý Cha. Chúa chính là sự bình an sẽ bồi đắp lòng ta đầy tình thương của Ngài để ta được hoan hỉ trong sự bình an ấy.
Thánh lễ còn dạy chúng ta biết bẻ bánh cho nhau, có nghĩa là biết yêu thương nhau trong đời thường, chia sẻ tình thương mà mình nhận được từ Thiên Chúa qua Thánh lễ. Bởi vì tất cả chúng ta cùng chia sẻ một tấm bánh và làm nên một thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô. Khi chúng ta cảm nhận được Thiên Chúa yêu ta thì lòng ta sẽ được Thánh Thần thúc giục để biết đem tình thương đó chia sẻ cho người khác nữa. Theo Luca ( Lc 1, 20 – 44) cho ta thấy : Có Chúa trong lòng rồi thì Mẹ Maria liền hối hả đem Chúa cho Bà Ysave, mang niềm vui ơn cứu độ cho bà chị họ.
Ngược lại, một số tín hữu ở Corintô (1Cr 11, 17 – 22) , khi tham dự nghi thức bẻ bánh, chỉ biết lo cho bữa ăn riêng của mình trước, và như thế, kẻ thì đói khát, người thì lại no say. Thái độ ích kỷ này hoàn toàn trái ngược với tinh thần hiệp thông và chia sẻ của thánh lễ.
Sống tinh thần hiệp thông và chia sẻ với người khác, chính là dấu chỉ cho thấy chúng ta đã thực sự tham dự thánh lễ và đã biến cuộc sống chúng ta thành một thánh lễ nối dài.
Xin Chúa cho chúng ta siêng năng tham dự Thánh Lễ và biết làm cho đời ta là Thánh Lễ nối dài, hữu ích cho tha nhân.
HÃY TÌM BÁNH HẰNG SỐNG GIÊSU
Ga 6, 24 – 35
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Phúc Âm chương 6 Tin Mừng Gioan được đưa vào giữa năm phụng vụ, làm gián đoạn Tin Mừng Marcô đang được đọc trong mùa thường niên B. Khởi đi từ việc thấy dân chúng theo mình rất đông, Chúa Giêsu đã "chạnh lòng thương", làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng. Họ theo Chúa vì cái bụng, Chúa không hài lòng nên trách móc : "Các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê" (Ga 6, 26). Chúa gợi lên cho họ lòng khát vọng tìm kiếm thay lương thực trường tồn là chính Chúa là tin vào Người (x. Ga 6).
Manna của ăn trong sa mạc
Nếu như vào một buổi sáng nọ, con cái Israel thấy có một thứ gì nho nhỏ mịn màng như sương muối phủ mặt đất, họ liền hỏi nhau: "Man hu? " Nghĩa là: "Cái gì đây? " (Xh 16, 14) Ngày hôm nay chúng ta cũng hỏi nhau Manna là cái gì?
Trong sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa đối với dân mà Ngài đã cưu mang và dẫn ra khỏi Ai cập. Trên hành trình về Đất Hứa để chứng tỏ tình thương và lòng thành tín của Chúa đối với dân giữa xa mạc khô cằn, Ngài đã ban cho họ Manna, theo Môsê, "Đó là bánh Thiên Chúa ban… làm của ăn" (Xh 16, 16), không chỉ làm lương thực đi đường mà còn giáo huấn họ về lòng yêu thương vô cùng của Chúa. Dân Israel vẫn quan niệm ông Môsê là người đã cho họ ăn bánh bởi trời, nhưng Chúa Giêsu đã chỉnh sửa lại là chính Thiên Chúa chứ không phải ông Môsê là Đấng cho họ của ăn trong sa mạc, đồng thời mời gọi họ nhìn nhận và tin vào chính Người là Bánh đích thực do Thiên Chúa của cha ông họ gửi đến lúc này đây.
Bánh Giêsu
Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng được no nê tùy thích, tưởng rằng thời Mêssia đã đến, họ muốn tôn Chúa làm vua, nên tìm theo Chúa. Gặp họ, Chúa muốn họ đi xa hơn, đã mất công tìm kiếm, thì hãy "ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời" (Ga 6, 27). Chúa gợi lên nơi họ lòng khát vọng trường tồn, khiến họ đặt câu hỏi : "Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?" (Ga 6, 28) Câu hỏi xem ra không có gì liên quan đến Chúa Giêsu. Tuy nhiên, vẫn có một tương quan, đó là "công việc". Chúa chỉ cho họ: "Công việc của Thiên Chúa là các người hãy tin vào Đấng mà Ngài sai đến"(Ga 6, 29).
Ðức tin là điều căn bản. Đây không phải là theo một ý tưởng, một dự án, mà là gặp gỡ Chúa Giêsu, một người sống động, để cho mình được Chúa và Tin Mừng của Chúa lôi cuốn. Chúa Giêsu mời gọi dân chúng không dừng lại ở chân trời thuần túy nhân loại, nhưng mở rộng tới chân trời của Thiên Chúa, chân trời của niềm tin. Người chỉ đòi hỏi một công việc duy nhất là : tiếp nhận chương trình của Thiên Chúa, nghĩa là "tin nơi Ðấng Thiên Chúa đã sai đến" (Ga 6, 29). Chúa Giêsu đã tự hiến chính mình, trở nên bánh đích thật, "bánh từ trời xuống", chính Người là Lời hằng sống của Chúa Cha. Gặp gỡ Người là chúng ta gặp gỡ Một Thiên Chúa hằng sống.
Thật không phải dễ để dân chúng tin vào Người, họ đòi dấu lạ, gợi nhớ manna, bánh mà cha ông họ đã ăn trong sa mạc. Để giúp họ hiểu ý nghĩa sâu xa của phép lạ Chúa Giêsu đã làm thỏa mãn một cách lạ lùng cái đói thể lý của họ, Người mời gọi họ đón nhận lời loan báo chính Người là bánh từ trời xuống (x. Ga 6, 41) làm cho họ thỏa mãn một cách vĩnh viễn. Nếu như cha ông họ trong hành trình dài trong sa mạc đã sống kinh nghiệm về thứ bánh từ trời xuống là manna dưỡng nuôi họ cho tới khi vào Đất Hứa. Giờ đây Chúa Giêsu nói về chính Người là "bánh từ trời xuống", có khả năng duy trì sự sống không phải chỉ trong một lúc hay một đoạn đường, mà luôn mãi. Người là lương thực ban sự sống vĩnh cửu, bởi vì Người là Con Một Thiên Chúa, ở trong lòng Thiên Chúa Cha, đến để trao ban cho con người sự sống tràn đầy, và đưa con người vào trong chính sự sống của Thiên Chúa. Chúa Giêsu khẳng định với họ rằng : "Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ" (Ga 6, 35). Người là bánh từ trời xuống làm no thỏa cái đói tinh thần con người. Người là Lời của Thiên Chúa nhập thể làm no thỏa cái đói khát của linh hồn con người một cách vĩnh viễn.
Theo thánh Agustinô : "Chúa Giêsu khẳng định Người là bánh từ trời xuống, và mời gọi dân chúng tin vào Người. Thật ra, ăn bánh hằng sống có nghĩa là tin vào Chúa, ai ăn thì tin và ai tin thì ăn. Trong một cách vô hình họ được no thỏa, cũng như trong một cách vô hình họ tái sinh vào một cuộc sống sâu xa hơn, đích thật hơn; họ tái sinh từ bên trong, trong nơi sâu thẳm của họ, và họ trở nên một con người mới" (Omelie su Vangelo di Giovanni, 26,1).
Thánh Thể thần lương vượt thế trần
Nếu như trong sa mạc, manna là quà tặng do lòng thương xót của Chúa dành cho dân, thì hôm nay lòng thương xót ấy là Đức Giêsu Kitô Con Một Chúa, Đấng tự hiến mình làm Thần Lương không chỉ nuôi sống linh hồn mà còn củng cố khả năng hướng thiện của người rước lấy. Manna xưa chỉ là phương tiện cứu đói tạm thời, nay Mình Máu Thánh Chúa là lương thực giúp người tín hữu có đủ sức, đủ nghị lực vượt qua trần thế về tới quê trời vinh phúc. Trong sa mạc, manna chứng tỏ Chúa không bỏ dân của Chúa, ngày nay Chúa ở giữa Hội Thánh và trong thế giới bằng chính mình trong bí tích Thánh Thể. Nhờ Bí tích ThánhThể, người cô đơn tìm được nguồn an ủi ; người yếu đuối tìm được sức mạnh; người tội lỗi tìm được ơn tha thứ ; người đau yếu tìm được sự chữa lành ; người bất hạnh tìm được nghị lực tinh thần ; người hấp hối tìm được sự đỡ nâng ; người bị bỏ rơi tìm được nguồn tình yêu chất chứa đầy sự thông cảm và âu yếm… Và còn một ý nghĩa rất quan trọng, manna ngày xưa của ăn trong sa mạc, Thánh Thể thần lương vượt thế trần.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết ra đi tìm kiếm Chúa, biết quy tụ mọi sự về Chúa, biết tìm kiếm của ăn không hư nát là chính Chúa và đón rước Chúa hầu được sống muôn đời. Amen.
BÁNH TRƯỜNG SINH
Ga 6, 24 – 35
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Đề tài bánh luôn gây tò mò và thắc mắc cho con người, đặc biệt khi nói về Bánh Trường Sinh, vấn nạn ấy luôn nổi cộm đối với những người kém lòng tin, không có đức tin. Các bài đọc hôm nay cho chúng ta hiểu rõ về Bánh Trường Sinh, Bánh Ban Sự Sống mà Chúa Giêsu tặng ban cho nhân loại, cho con người…
Vâng, có lẽ người Do Thái xưa khi đi trong sa mạc vào Đất Hứa, đã cảm nghiệm sâu xa, cái đói, cái khát và Manna, chim cút qua lời khẩn cầu của Môsê, Thiên Chúa đã gửi xuống hằng ngày cho họ…Có lẽ ngày nay nhiều người sẽ tự đặt vấn đề không hiểu: Chúa Giêsu, Môsê mới có nuôi họ và giải thoát họ ra khỏi nô lệ như ông Môsê xưa không ? Trước thắc mắc đó, Chúa Giêsu càng kích thích tính tò mò của con người, gợi lên lòng tin vô điều kiện của họ vào Người. Đối với Chúa Giêsu :” của ăn đích thực của con người là đức tin “. Người Do Thái khi xưa đâu có hiểu được ! Ngày nay nhờ Lời Chúa, nhờ Giáo lý, các lời Giáo huấn của Giáo Hội và nhất là đức tin, nhiều người đã nhận ra Chúa và tin vào Chúa, tin Mình Máu Thánh của Chúa. Ngược lại dòng lịch sử, đọc lại Tin Mừng, ngay tuần trước, chúng ta nhận ra khi Chúa làm phép lạ hóa “ Bánh và Cá “ ra nhiều để nuôi nhiều ngàn người ăn, no nê, thỏa thích. Biết dân chúng muốn tôn mình lên làm vua theo ý nghĩ nhân loại, Chúa Giêsu đã lẻn lên núi môt mình để lánh mặt họ…Tuy nhiên, hôm nay khi gặp đám đông hôm trước, Chúa Giêsu đã tấn công họ ngay “…các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê “. Xem ra câu nói của Chúa Giêsu có vẻ rất cứng cỏi.
Thực ra, Chúa Giêsu đang nói với đám nông dân Galilê, đám dân chân lấm tay bùn chỉ mong được mùa để họ có thể nuôi sống họ, nuôi sống gia đình của họ. Đám nông dân đã hiểu thế nào là no, thế nào là đói, thế nào là khát…Nhu cầu vật chất luôn là nhu cầu số một đối với họ. Do đó, nói ngay về những sự mầu nhiệm, những sự cao siêu, chắc chắn họ sẽ rất khó lãnh hội được. Như người phụ nữ bên thành giếng Giacóp, Chúa Giêsu đã đi từ cái khát bình thường, đến nước uống không bao giờ khát nữa để kích thích sự ước muốn của chị và rồi Chúa đã giải thích cho chị về Nước Thiên Chúa : “ thứ nước không hề khát chỉ có Ngài mới ban được mà thôi!” Chúa đã đi từ những nhu cầu thực tế hằng ngày để dẫn họ tới mầu nhiệm mà chỉ có đức tin họ mới nhận ra được. Đối với con người ngày nay cũng vậy, cơm, bánh, gạo, tiền, danh vọng, quyền lực là những nhu cầu, khuynh hướng thực tế của con người, nếu chỉ nói tới những thực tại cao siêu mà quên đi những điều, những nhu cầu trần gian, chắc chắn nhiều người sẽ bỏ Chúa, như xưa khi nghe nói về “ Bánh Trường Sinh “, nói về Mình Máu Chúa, nhiều môn đệ đã bỏ Ngài mà đi nơi khác…
Chúa Giêsu không dạy con người biếng nhác, không chịu lao động, làm ăn, Ngài không dạy con người “ ngồi chờ sung rụng “, vì lương thực, vật chất hằng ngày vẫn luôn cần thiết…Nhưng Ngài hướng con người lên cao hơn, lương thực, vật chất cần thiết thật nhưng còn có một thứ lương thực không hề hư mất, đó là Bánh Trường Sinh : “ Mình Máu Thánh của Ngài “, chính Ngài : Đức Kitô Giêsu.
Chúa Giêsu đã không cho Manna từ trời rơi xuống để con người phải lượm, phải nhặt hằng ngày mà nuôi thân. Nhưng Chúa ban cho con người Bánh Trường Sinh, Bánh Ban Sự Sống để những ai tin và ăn Bánh ấy thì có sự sống đời đời :” Chính Ta là Bánh ban sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ “ ( Ga 6, 35 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn tin vào Chúa vì Chúa mới có Lời ban sự sống đời đời. Amen.
Ý THIÊN CHÚA - Ý CON NGƯỜI
Ga 6, 24 – 35
Anmai, CSsR
Ý muốn của một người nào đó rất quan trọng trong cuộc đời nói chung và của con người đó nói riêng. Tuỳ hoàn cảnh, tuỳ chức vụ, ý muốn ấy sẽ chi phối theo hoàn cảnh và chức vụ ấy. Một người làm lớn mà quyết định chuyện gì thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ còn một người nhỏ dù có quyết định to thế nào đi chăng nữa thì cũng chẳng ảnh hưởng là bao. Cái nghịch lý trong cuộc đời này vẫn thường xảy ra và xảy ra “như cơm bữa” đó là con người vẫn thường lấy ý của mình và áp đặt cho đó là ý của Thiên Chúa.
Các bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay xoay quanh về ý của Thiên Chúa và ý của con người.
Trang sách Xuất hành đã kể lại việc cộng đồng con cái Israel nhớ “củ hành, củ tỏi” ở quê hương để rồi ai oán với cả ân nhân của mình. Thiên Chúa đã quá yêu con người để rồi bằng mọi cách và bằng mọi giá Thiên Chúa muốn cứu nhưng con người thì ngược lại. Nghĩ đi nghĩ lại Thiên Chúa hiền từ và dễ thương thật chứ không phải ở lời của Người nói. Dân chúng Israel kêu ca than thân trách phận và rồi Thiên Chúa đã ban bánh từ trời xuống để nuôi dân. Ý của con người là cứ ở lại với quê cha đất tổ còn ý của Thiên Chúa thì Thiên Chúa muốn cứu con người còn con người thì cứ lầm lũi với những cái lợi trước mắt, với cái gì là sung sướng cho bản thân.
Đó là những gì sách Xuất Hành thuật lại, rồi kế đến là tâm tình của Thánh Phaolô tông đồ gửi giáo đoàn Êphêsô. Không chỉ nói suông mà hôm nay lại còn “có Chúa chứng giám”. Khi Ngài nói “có Chúa chứng giám” thì Ngài có ý muốn nhấn mạnh tâm tình của mình và khẳng định tâm tình ấy. Phải nói là nó rất quan trọng và ý nghĩa với cộng đoàn Êphêsô nên Ngài mới nói như vậy. Ngài nói là anh em: đừng ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ. Còn anh em, anh em đã chẳng học biết về Đức Ki-tô như vậy đâu; ấy là nếu anh em đã được nghe nói về Đức Giê-su và được dạy dỗ theo tinh thần của Người, đúng như sự thật ở nơi Đức Giê-su. Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện. (Ep 4,20-24).
Hoá ra là Ngài biết dân ngoại từ xưa đã sống theo những tư tưởng phù phiếm, họ nhìn về Thiên Chúa, họ nhìn Chúa Giêsu dưới một lăng kính khác, dưới một chiều kích khác. Nơi Thánh Phaolô, Ngài có kinh nghiệm rõ nét về chuyện này. Ngày xưa, Ngài cũng lần bước trong con người cũ của Ngài là đi tìm vinh danh cho mình và đi bắt bới những người theo Chúa, những ai mang danh là Kitô hữu. Sau một chặng đường dài sống với con người cũ, sống với ý riêng của mình, Thánh Phaolô đã nhận ra rằng Thánh ý Thiên Chúa mới là quan trọng, sống với con người mới theo sự hướng dẫn của Thần Khí mới là điều đáng quan tâm. Ngài khuyên cộng đoàn Êphêsô đừng sống theo cái nhìn như vậy, theo quan niệm như vậy về Thiên Chúa. Quan niệm về Thiên Chúa của con người mới khác con người cũ. Không chỉ thế, Ngài còn nhấn mạnh rằng hãy cởi bỏ con người cũ và mặc lấy con người mới.
Ý tưởng trang Tin mừng hôm nay đã đẩy chuyện ý Thiên Chúa và ý con người lên một mức cao hơn. Chúa Giêsu đã không ngần ngại nói thẳng với những người đang có mặt ở đó với Chúa: "Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến." (Ga 6, 29).
Vấn đề là ở chỗ đó, là ở chỗ việc Thiên Chúa muốn cho các ông chứ không phải là chuyện các ông muốn. Thường, tâm trạng của con người thì những gì mang lợi lộc, mang sự dễ dãi đến cho mình thì con người đều quy về ý của Chúa, mỗi lúc cuộc đời gặp đau khổ, khó khăn thì sẵn sàng oán trách Chúa không thương tiếc. Nếu Chúa ban cho cuộc sống đầy đủ thì không ngớt lời tôn dương và chúc tụng nhưng khi cuộc đời gặp một chút gì đó thì bỏ Chúa và không tin Chúa nữa. Điều mà Thiên Chúa muốn quá rõ: đó là tin thật vào Ngài chứ không chỉ tin bằng môi bằng miệng. Chúa Giêsu, vì biết rõ lòng dạ của những người có mặt với Chúa ngày hôm đó nên Ngài đã không ngần ngại cảnh tỉnh họ về ý của Thiên Chúa.
Trở lại với trang Tin mừng tuần trước, dân chúng sau khi được ăn bánh no nê đã tìm cách tôn vinh Chúa Giêsu làm vua. Thế nhưng, Chúa Giêsu biết tỏng tòng tong lòng dạ của họ nên Ngài lánh đi một nơi. Vì những người có mặt ngày hôm ấy cũng như nhiều người khác vẫn sống theo cái ham muốn thể xác của mình là no cơm ấm áo nên tôn vinh Chúa làm vua chứ thật sự lòng của họ không phải như vậy. Thế đấy, ý Thiên Chúa hoàn toàn khác hẳn ý của con người.
Nhắc đến ý Thiên Chúa và ý con người, ta sẽ không khỏi nhịn cười được vì trong chính đời thường của mỗi người chúng ta. Nếu ý nào đó hợp lòng ta, mang lại cho ta thì ta bảo: “ý Chúa” còn nếu ý nào phật lòng ta thì ta lồng lộn lên và thậm chí còn oán trách và bỏ rơi Chúa.
Đôi lúc ngẫm nghĩ thấy thương Chúa thật. Chúa quả là quá hiền từ và dễ thương. Dễ thương đến độ con người dù ca khen, dù oán hờn chửi bới và vu oan cho Chúa thế nào Chúa vẫn lặng lẽ và lặng lẽ. Bi đát nhất đó là những người có chức có quyền và cầm quyền trên người khác. Nhiều và nhiều quyết định mang cảm tính hết sức con người nhưng lại bảo đó là ý Chúa mới chết người.
Một cái ví dụ hết sức nhỏ nhoi và đơn giản. Dưới con mắt của các đấng bậc có trách nhiệm đào tạo và con mắt bình thường của người đời thì những ai ngoan ngoãn, dạ bảo dạ, vâng bảo vâng thì các vị cũng như mọi người đánh giá hết sức là cao về những con người ngoan ngoãn vâng dạ ấy. Mỗi khi nhận xét hay quyết định gì thì không hế ngần ngại “châu phê” là người ấy tốt và người ấy có ơn gọi. Ý Chúa là gười đó có ơn gọi, còn ngược lại, những người không biết “bẩm - dạ” thì cũng sẽ bảo rằng cũng đó là ý Chúa cho kẻ không biết “đi bằng đầu gối” là không có ơn gọi.
Thật ra, chuyện này hết sức tế nhị nhưng phải trả lẽ trước mặt Chúa về những cảm tính hết sức cá nhân mà lại gán cho là “ý Chúa” ! Chúa quá hiền đến độ người ta muốn nói gì thì nói. Người ta nói xuôi Chúa cũng chẳng nói gì và người ta nói ngược ta cũng thấy Chúa chẳng chịu nói gì.
Qua các bài đọc, đặc biệt là Tin mừng hôm nay, chúng ta có dịp dừng chân nhìn lại từng biến cố trong cuộc đời của ta, từng quyết định của ta. Những biến cố xảy đến và những quyết định của ta như thế nào ? Có phải là của Chúa thật sự hay là của ta rồi ta gán cho Chúa.
Hơn một lần Chúa Giêsu đã nói: Lương thực của ta là thi hành ý muốn của Cha ta.
Quả thế, lương thực thật sự, lương thực trường tồn của Chúa chính là ở chỗ thi hành ý của Cha chứ không phải là theo ý của ta.
Một lần nọ, vào bệnh viện thăm người quen, có một người kia không ngần ngại tâm sự rằng chị ta đã bỏ Chúa 10 năm rồi. Hỏi lý do sao bỏ Chúa thì chị nói là vì mãi mê lo làm ăn kiếm tiền. Tôi bèn hỏi chị là dư được bao nhiêu tiền gửi trong ngân hàng và chị nói là không có đồng nào mà hiện nay nằm bệnh viện còn phải đi vay mượn !?
Thì ra là 10 năm bỏ Chúa để loay hoay với đồng tiền nhưng cuối cùng không có dư đồng nào mà thậm chí còn mang nợ !
Hai vợ chồng kia cũng thật thà tự thú là bỏ Chúa 4 mùa Phục Sinh. 4 mùa Phục Sinh qua đi mà gia đình cứ mãi sống trong vất vả và nay người vợ còn mang trong mình tật bệnh nữa !
Thế đấy ! Người ta đã tước đoạt thánh ý của Chúa trên cuộc đời của người ta, người ta đã đẩy Chúa ra khỏi cuộc đời người ta để người ta làm theo ý của mình. Thế nhưng, thử hỏi trong những năm tháng dài đẩy thánh ý của Chúa ra khỏi đời mình để mình thực thi ý mình thì mình được gì ?
Quá nhiều lần và phải nói là quá nhiều lần trong cuộc đời, con người đã bỏ ý Thiên Chúa ra khỏi đời mình để thực thi ý mình. Rốt cuộc như thế nào thì con người đã rõ.
Hôm nay, một lần nữa, đứng trước lời cảnh tỉnh của Chúa với đám đông dân chúng về ý của Thiên Chúa muốn, chúng ta làm gì, chúng ta sẽ trả lời với Chúa như thế nào ? Chúng ta làm gì, trả lời với Chúa như thế nào đó chính là tuỳ thuộc tự do của mỗi người chúng ta.
BÁNH ĐÍCH THỰC
Ga 6, 24 – 35
+ TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Cách đây ít năm, tại bang Ca-li-for-ni-a bên Mỹ, có hiện tượng thanh niên tự tử hàng loạt. Tất cả đều là những thanh niên trẻ tuổi, con nhà giàu, có học thức. Nguyên nhân tự tử là vì họ mong về Thiên đàng. Năm ấy có sao chổi xuất hiện. Họ cho rằng sao chổi chính là chuyến xe về Thiên đàng. Mấy mươi năm mới có một chuyến, nên họ vội vàng ra đi, sợ nhỡ chuyến.
Tính tỉ lệ những người tự tử, ta thấy thanh niên các nước giàu tự tử nhiều hơn thanh niên các nước nghèo. Hiện nay trong nước ta, tại các thành phố lớn, đang có hiện tượng các thanh niên đua xe gắn máy, liều lĩnh coi thường mạng sống. Kết quả các cuộc điều tra cho thấy đó là những thanh niên con nhà giầu có.
Những hiện tượng đó đáng cho ta suy nghĩ. Những người nghèo đói thật vất vả khổ sở. Họ chỉ mong sao cho có đủ cơm ăn áo mặc. Có cơm ăn áo mặc đã là hạnh phúc. Nhưng khi người ta đã có đủ cơm đủ áo, đủ mọi phương tiện, người ta vẫn không hạnh phúc. Nhìn những thanh niên giầu có chán đời đi tìm cái chết; nhìn những thanh niên chán cảnh nhà cao cửa rộng, chăn êm nệm ấm đeo ba-lô đi du lịch bụi đời, ta thấy rằng vật chất không phải là tất cả. Và những khao khát của con người là vô tận. Hôm nay tôi chưa đủ ăn thì tôi mong cho có đủ ăn. Ngày mai đủ ăn rồi, tôi lại muốn ăn ngon hơn. Hôm nay còn đi bộ, tôi mong được một chiếc xe đạp. Có xe đạp rồi tôi mong có xe máy. Có xe máy rồi tôi mong có ô - tô. Có ô - tô rẻ tiền rồi, lại mong có cái tốt hơn, tiện nghi hơn, chạy nhanh hơn, êm ái hơn. Có tất cả rồi, người ta vẫn chưa hài lòng. Cuộc đời vẫn còn thiếu một cái gì đó. Bao tử hết bị hành hạ, thì lập tức tâm hồn cảm thấy những cơn đói khác dày vò: đói bình an, đói tình yêu, đói hạnh phúc, đói ý nghĩa cuộc đời, đói những điều cao thượng. Những cơn đói khát tinh thần này rất mãnh liệt. Nên con người mãi mãi khắc khoải đi tìm. Mà hạnh phúc dường như luôn luôn ở ngoài tầm tay với.
Hôm nay, đứng trước đoàn người hăm hở đi tìm lương thực, Chúa Giêsu đã cảnh báo họ: “Đừng lo tìm những thứ lương thực hay hư nát, nhưng hãy tìm lương thực đem lại hạnh phúc trường sinh”. Vì Người đã rõ giá trị tạm bợ của miếng cơm manh áo. Người cũng thấu rõ tâm hồn con người mau chán những gì đạt được. Người đã tạo dựng tâm hồn con người, nên Người hiểu lòng khao khát của con người là vô biên. Chỉ có những giá trị tuyệt đối mới có thể lấp đầy những khát khao ấy. Người đã mở đường để tâm hồn con người thoát khỏi những ràng buộc của vật chất, vươn lên tìm kiếm những giá trị thiêng liêng cao cả, xứng với tầm vóc con Thiên chúa.
Thế nhưng ta tìm đâu ra những giá trị tuyệt đối để lấp đầy nỗi khao khát vô biên ? Ta tìm đâu ra thứ bánh làm dịu được cơn đói hạnh phúc ? Hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho ta thứ bánh đó. Đó là bánh đích thực, vì ăn rồi ta sẽ không bao giờ đói nữa. Đó là bánh ban sự sống, ai ăn sẽ không chết nữa. Đó là bánh ban hạnh phúc, ăn vào sẽ không còn khao khát điều gì khác. Đó là bánh Thiên chúa ban chứ loài người không ban được. Đó là bánh từ trời chứ trần gian không sản xuất được. Tấm bánh đó là chính bản thân Người, Chúa Giêsu Ki-tô.
Những người Do thái đã sai lầm khi đi tìm Chúa Giêsu để được ăn bánh. Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh họ khi cho họ biết rằng không nên tìm bánh, vì như thế họ sẽ thất vọng. Bánh ăn rồi sẽ lại đói. Nhưng phải tìm chính Chúa Giêsu. ở đây ta nhớ tới bài học Chúa đã dậy tổ phụ áp-ra-ham. Thoạt tiên, Chúa kêu gọi tổ phụ áp-ra-ham đi theo Chúa và hứa cho ông được một đất nước chảy sữa và mật và một dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển. Nghe theo lời hứa, tổ phụ đã lên đường. Nhưng khi ông sinh được một người con trai duy nhất trong tuổi già, Chúa lại bảo ông phải sát tế dâng cho Chúa. Đây là một thử thách lớn lao, nhưng cũng là một lời mời gọi vươn lên. áp-ra ham được mời gọi thoát khỏi sự ràng buộc của lợi lộc vật chất. Theo Chúa chỉ vì Chúa chứ không phải vì lợi lộc vật chất. Ông hoàn toàn có lý vì ông đã chọn Chúa là sự Thiện tuyệt đối chứ không chỉ lựa chọn một vài sự thiện tương đối. Ông đã lựa chọn Chúa là nguồn mạch hạnh phúc chứ không đuổi theo những ảo ảnh của hạnh phúc. Đức tin của ông hoàn toàn trưởng thành, nên ông đã trở thành Cha của những kẻ tin.
Hôm nay, Chúa mời gọi tôi, hãy noi gương tổ phụ Ap-ra-ham. Đừng tìm những mảnh vụn hạnh phúc, nhưng hãy đi đến nguồn mạch hạnh phúc. Đừng lo nắm giữ những của cải phù du, nhưng hãy tìm chiếm giữ kho tàng bền vững mối mọt không đục khoét được. Đừng đuổi theo những giá trị tương đối, nhưng hãy biết tìm kiếm giá trị tuyệt đối là chính Chúa. Chính Chúa sẽ làm ta no thoả. Chính Chúa sẽ lấp đầy những khát vọng của ta. Chính Chúa ban cho ta hạnh phúc tràn đầy, vĩnh viễn.
Chúng ta hãy cùng cầu nguyện với thánh Âu-tinh: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên tâm hồn con mãi khắc khoải băn khoăn, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”. Amen.
CHẾT TRONG DANH DỰ
Ga 6, 24 – 35
Lm Jos Tạ Duy Tuyền
Người xưa vẫn thường nói: “trông vậy mà không phải vậy”. Một lời nói đơn sơ nhưng đầy triết lý cuộc sống. Có những người “đẹp người nhưng xấu nết”. Có những người bên ngoài nhỏ nhẹ, lịch sự nhưng lòng đầy gian tham xảo quyệt. Có những người miệng nói “nam mô nhưng lại một bồ dao găm”. Có biết bao điều diễn ra trước mắt nhưng thực hư lại càng khó phân biệt đúng sai. Cuộc sống thực dụng đã làm cho nhiều người biến chất trở thành kẻ lưu manh, lừa gạt hại người, hại đời. Cuộc sống đề cao vật chất đã khiến nhiều người đang tâm sống bất trung bất hiếu giữa với gia đình, với cha mẹ, với vợ, với chồng, với con. Dầu vậy, giữa cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những tấm lòng cao thượng, những trái tim trong trắng, những tâm hồn không để những tham sân si dòng đời làm băng hoại, hoen ố. Họ luôn sống cao đẹp. Họ luôn bảo vệ giá trị của tình người. Họ không bán rẻ phẩm giá vì một chút của cải mau qua. Họ đã sống đề cao giá trị vĩnh cửu hơn là những giá trị vật chất mau qua, tầm thường.
Nhà văn Pháp Pécaut đã kể một câu chuyện thật cảm động mà chính ông vẫn ân hận mỗi khi nhớ lại chuyện xưa. Ong kể rằng:
Một hôm tôi vừa ra khỏi nhà thì một em bé trai 12 tuổi chạy đến van nài tôi mua giúp em một hộp diêm quẹt. Động lòng thương tôi rút ví ra định mua, nhưng tôi lại chỉ có toàn tiền chẵn. Tôi đang ngần ngại thì thằng bé nói ngay: “Không sao ông ạ, xin ông cứ vui lòng đưa tiền cho cháu, cháu sẽ chạy đi tìm chỗ đổi tiền rồi trả lại cho ông ngay”.
Tôi nhìn thằng bé gương mặt xanh xao của nó có vẻ thành thật đến mức tự hào. Tôi liền trao cho nó một đồng tiền vàng và nó chạy biến ngay về hướng cuối phố. 5 phút trôi qua, rồi 10 phút, tôi bắt đầu hồ nghi về sự ngay thẳng của thằng bé. Và nửa giờ sau thì tôi hết kiên nhẫn, bỏ đi tiếp tục cuộc dạo phố, lòng thầm nhủ sẽ chẳng bao giờ còn tin vào những bọn lêu lổng đầu đường xó chợ như thế nữa.
Buổi trưa, khi về tới nhà, đúng chỗ ban sáng thì tôi lại thấy một đứa bé hơn nữa, chỉ độ 8, 9 tuổi, khuôn mặt giống thằng ăn cắp như tạc. Nét mặt nó bộc lộ sự lo âu tuyệt vọng. Nó thổn thức nói với tôi: “Thưa ông, có phải ông đã đưa cho anh cháu một đồng tiền vàng không ạ? Đây là chỗ tiền lẻ. Chính anh cháu nhờ gửi lại cho ông. Chúng cháu đều là trẻ mồ côi nhưng không phải là bọn ăn cắp. Anh cháu không thể trao tận tay ông ngay lúc sáng là vì anh cháu đã bị xe đụng khi vội chạy đi tìm chỗ đổi tiền. Cháu. . . cháu sợ rằng anh cháu chết mất thôi. . . ”. Tôi bàng hoàng vội hỏi thằng bé trong tiếng nghẹn ngào: “Thế bây giờ anh cháu nằm ở đâu? Dắt bác đến gặp anh cháu ngay đi”.
Tôi rảo bước gần như chạy sau em bé. Chúng tôi rời khỏi những khu phố giầu sang để lách vào những con hẻm lầy lội của một khu lao động nghèo khổ. Em bé dừng lại một căn lều xiêu vẹo. Trong một xó tối, tôi nhận ra thằng bé bán diêm quẹt ban sáng. Nó nằm dài bất động trên một đống áo quần cũ rách, mặt trắng bệch vì mất khá nhiều máu.
Tôi lặng lẽ cúi xuống hôn lên vầng trán bị giập nát vì vết thương của em. Tôi ân hận vì cái nhìn thiển cận của tôi. Tôi nuối tiếc vì sự đánh giá thiếu cân nhắc của mình. Nhưng tôi lại thầm cám ơn đời đã cho tôi gặp được một tâm hồn trẻ thơ vô cùng trong trắng ngay giữa cảnh đời nghèo khó và đau khổ đến cùng cực…
Vâng, giữa cuộc đời mà người ta đang đua nhau tranh giành miếng cơm manh áo đến nỗi coi nhẹ nhân phẩm, nhân vị thì vẫn còn đó những con người biết sống nghèo khó mà lòng thanh sạch. Giữa cuộc đời mà người ta đang loại trừ và hãm hại lẫn nhau chỉ vì một chút địa vị, bổng lộc thì vẫn còn đó những con người tìm niềm vui trong đời sống yêu thương, phục vụ một cách quảng đại và vô vị lời.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tìm kiếm giá trị Nước Trời hơn là những của ăn mau hư nát. Thắng bé trong câu chuyện đã sống cao thượng, nó không vì tiền mà đánh mất danh dự. Nó thà chết chứ không để lòng tốt bị đánh cắp trong xã hội hôm nay. Nếu xã hội mà mỗi người đều biết trọng danh dự, trọng lẽ phải thì cuộc đời đâu còn nước mắt, trần gian đâu còn đọa đầy mà là thiên đàng tại thế. Nếu cuộc đời ai cũng biết trần gian là tạm bợ, thiên đàng mới là vĩnh cửu, có lẽ họ sẽ sống cao thượng, sống thanh sạch, sống công bình bác ái hơn là gian dối, tham lam tầm thường.
Nguyện xin Chúa là Đường là sự thật và là sự sống giúp chúng ta biết đi theo đường lối vẹn tuyền, biết tìm kiếm của ăn không bao giờ hư nát, biết chọn Chúa là phần gia nghiệp đời đời. Amen
BÁNH TRƯỜNG SINH
Ga 6, 24 – 35
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Con người muôn thời vẫn bó tay trước cái chết. Do đó, khoa học, y học, khoa dinh dưỡng luôn cố gắng tìm những hướng mới, những tiến bộ hơn nhằm giúp con người kéo dài thêm cuộc sống, nhưng con người càng tìm, càng kiếm những phương pháp, những kỹ thuật, nhưng dược liệu có sức cải lão hoàn đồng,con người vẫn cảm thấy thật bất lực trước cái chết. Sự chết luôn là nỗi bế tắc của con người.Tuy nhiên, điều quan trọng hơn thể xác nhiều là tâm linh, nhưng con người hầu như cũng dửng dưng với cả đời sống mai sau. Chúa Giêsu đã giải đáp vấn nạn muôn người của con người.Ngài tuyên bố: “ Tôi là bánh trường sinh, ai đến với Tôi, không hề phải đói; ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ “ ( Ga 6,35 ).
DÂN CHÚNG TÌM CHÚA VÌ ĐƯỢC NGÀI CHO ĂN UỐNG NO NÊ: Sau phép lạ hóa bánh và cá để nuôi hơn 5.000 người ăn, dân chúng cảm thấy ấm bụng và tin tưởng vào một con người mà họ luôn ước vọng sẽ làm cho đời sống họ được thăng tiến, được ấm no hạnh phúc.Chúa Giêsu nhận ra nỗ lực tìm kiếm của họ. Bởi vì họ đã được no nê khi theo Chúa. Người nghèo ở miền Galilê luôn có nỗi lo canh cánh về cái đói hằng ngày.Và đây cũng là nỗi lo của vài tỷ người trên toàn thế giới này.Chúa Giêsu muốn hướng con người lên tầm cao mới, chiều sâu mới, bởi vì lương thực vật chất thật mau qua.Chúa muốn đưa họ lên cao hơn, lương thực trường tồn sẽ ban cho họ sự sống vĩnh cửu, sự sống muôn đời. Người Galilê chỉ dừng lại nơi cái bánh vật chất mau qua mà thôi. Họ ngừng lại nơi phép lạ và ngừng lại nơi những chiếc bánh mau qua. Họ không ước mơ gì hơn là có bánh ăn cho no, cho hết cơn đói, cơn khát. Thế giới hôm nay nhiều người cũng chỉ dừng lại nơi cơm bánh, nơi những của phù vân, mau qua. Người nghèo thì lam lũ vất vả và dừng lại nơi vật chất, nơi hũ gạo, cơm bánh. Người giầu thì mải mê tìm hưởng thụ, tiện nghi vv…Nên, người giầu và nghèo cũng rơi vào tình trạng chung là đánh mất đi cái đói khát tinh thần, bằng lòng với cơm gạo, với tiện nghi.Thực ra thì mọi người đều có những khát vọng chính đáng, người nghèo khao khát tình thương, người giầu cần lẽ sống. Chúa khơi dậy trong con người nỗi khao khát cao hơn, thứ khao khát không phải là manna mau qua, mau hết, nhưng là thứ bánh ban sự sống đời đời.
XIN CHO CHÚNG TÔI BÁNH TRƯỜNG SINH VÀ THỨ NƯỚC KHÔNG HỀ KHÁT: Chúa nói với đám đông dân chúng hãy đi tìm bánh trường sinh, hãy tìm thứ nước uống vào không hề khát.Dân chúng bỡ ngỡ, chưng hửng. Hôm nay có lẽ nhân loại nhiều người cũng chưng hửng, ngạc nhiên như dân Galilê xưa? Tuy nhiên, dân chúng vẫn khao khát và xin Chúa: ” Xin cho chúng tôi thứ bánh đó luôn.Xin ông cho tôi thứ nước ấy” (Ga 4, 15 ).Con người muôn thời vẫn đói vẫn khát về tâm linh, về tinh thần.Con người dù có đầy đủ tất cả về tiện nghi, vật chất nhưng không bao giờ có thể khỏa lấp đầy tất cả nếu họ không tới với Đức Kitô. Chúa Giêsu chính là tấm bánh trường sinh để con người được no thỏa đời đời. Ngài là cánh tay, đôi chân của con người để con người phục vụ và đi đây đi đó. Chúa là bạn đồng hành để tất cả con người được đi trong sự thật và ánh sáng. Bánh trường sinh và nước không hề khát là Đức Kitô, Đấng ban ơn cứu độ đời đời cho con người.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ: Thực tế, cái nghịch lý muôn đời vẫn là muốn được là phải cho đi, phải chịu mất đi mới chiếm lại được nó.Chúng ta chỉ no nê khi chúng ta biết quan tâm đến những người nghèo, đến những người đói, người khát đang ở xung quanh chúng ta. Chúng ta chỉ có thể hết khát khi chúng ta biết an ủi những người neo đơn, tàn tật và đau xót biết chia sẻ với những đau khổ của anh chị em đồng loại. Chính Chúa Giêsu sẽ dạy chúng ta những điều nhạy cảm đó.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con càng ngày càng yêu mến Bí Tích Thánh Thể, Bí Tích nuôi sống cả tâm hồn và thể xác chúng con.Amen.
CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN
Ga 6, 24 – 35
Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb
Những tưởng phép lạ hoá bánh ra nhiều mà Chúa Giêsu đã thực hiện sẽ mang lại nhiều ích lợi thiết thực về phần thiêng liêng cho số đông dân chúng theo Người, nhưng sự thật không như vậy. Thì ra phần đông đi theo Chúa Giêsu không phải để lắng nghe lời Người giáo huấn mà chỉ vì “cái bao tử” của họ. Thế nên, tại hội đường Caphacnaum, Chúa Giêsu đã giúp cho họ hiểu đằng sau phép lạ Người đã thực hiện là gì và đâu là ý nghĩa đích thực đằng sau sự kiện ấy.
Từ lương thực chóng hư nát… Trước thái độ vụ lợi của đám đông dân chúng, Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh họ : “Các ông tìm tôi không phải vì dấu lạ, nhưng vì được ăn no”. Thật vậy, dân chúng sau khi được ăn bánh no nê, họ lại tìm kiếm Chúa. Lần này, việc tìm kiếm Chúa không phải để hiểu biết Người, không phải khao khát được ánh sáng chiếu soi nhằm khám phá ra con Người Chúa Giêsu mà chính là “cái bao tử” soi đường dẫn lối họ. Như thế, dấu lạ hoá bánh ra nhiều chỉ khơi dậy nơi lòng dân chúng một ước muốn là có bánh ăn. Họ chỉ nghĩ đi theo Chúa Giêsu chỉ hao tốn chút thời gian nhàn rỗi, không phải làm lụng vất vả mà vẫn ăn uống thoả thuê. Thế thôi. Vì thế, Chúa Giêsu giúp họ hiểu thấu hơn nữa ý nghĩa phép lạ Người đã làm. Đến bánh trường sinh
Hơn ai hết, người Dothái hẳn biết rất rõ bánh Manna thời ông Môsê. Thật thế, bốn mươi năm trường trong sa mạc, dân Israel đã không lao tâm khổ tứ để làm ra cơm bánh mà vẫn có lương thực hằng ngày dùng đủ. Họ hiểu rõ Giavê Thiên Chúa vẫn hằng săn sóc và hướng dẫn họ trong suốt hành trình về đất hứa. Giờ đây, đứng trước đám người bước theo Chúa chỉ vì cái lợi trước mắt và chóng hư nát ấy, Chúa Giêsu đã vin vào sự kiện manna của cha ông ngày xưa để hướng họ chú tâm vào chính lương thực Thần linh là Bánh đích thực.
Môsê xưa cho cha ông họ ăn bánh bởi trời nhưng chưa phải là bánh bởi trời đích thực. Chúa Giêsu đến và Ngài cho thấy, thứ bánh manna xưa chỉ là dấu hiệu cho Manna đích thực. Và đây chính là điều quan trọng trong đạo lý của Chúa Giêsu. Hồng ân Manna xưa chỉ là một ân huệ tạm thời, chỉ là một dấu hiệu loan báo cho một thực tại đích thực. Việc hóa bánh ra nhiều cũng chỉ là một dấu chỉ. Chính Chúa Giêsu mới là Bánh Đích thực, Bánh Trường Sinh, bánh từ trời xuống để cho thế gian được sống. Vâng, Chúa Giêsu chính là bánh đích thực, là nguồn sống Thần linh đến từ Thiên Chúa. Đây là nguồn sống Thần linh vĩnh cửu, bất diệt mà bất cứ ai đều khao khát được lãnh nhận. Khi con người lãnh nhận nguồn sống Thần linh này, họ sẽ được nhận lãnh chính sự sống trong thế giới của Thiên Chúa. Sự sống đó, Chúa Giêsu chỉ chia sẻ cho những ai tin vào Thiên Chúa, tin vào giáo huấn của Người mà thôi.
Trong tâm thức của nhiều người Dothái, họ có thể chấp nhận kiếp làm tôi tớ chỉ để được sống qua ngày, để được ăn no. Chúa Giêsu không như vậy. Điều Người muốn là, họ được tự do đi theo Người và tin vào giáo huấn của Người. Đây chính là điều kiện tiên quyết để họ được hưởng “thứ bánh đem lại sự sống cho thế gian”. Ở đây có một sự khác biệt vô cùng lớn về thang giá trị. Một bên là, người Dothái chấp nhận làm tất cả những gì trong thân phận nô lệ chỉ để đảm bảo cho cuộc sống tại thế, nay còn mai mất, để thoả mãn cơn đói khát về thể xác; còn một bên là, chỉ tin vào Chúa Giêsu cùng với giáo huấn của Người, họ có thể có tất cả và, còn hơn thế nữa, họ sẽ được thừa hưởng vinh quang và phúc lộc trong ân sủng của Thiên Chúa. Người Dothái thời Chúa Giêsu và cả chúng ta nữa không dại gì chọn cho mình kiếp làm nô lệ. Vậy là đã rõ. Chúng ta đã biết phân định và tự do lựa chọn cho tương lai và cuộc sống của mình. Bước theo Chúa Giêsu và tin vào giáo huấn của Người, chúng ta sẽ lãnh nhận sự sống Thần linh trong ân sủng của Thiên Chúa. Và, điều này mới thực sự là cùng đích, là sự khao khát đích thực của kiếp người.
“Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy”. Người Dothái và cả chúng ta nữa vẫn hằng cầu xin và ước ao “thứ bánh kỳ diệu” ấy. Thật sự, thứ bánh kỳ diệu ấy đang ở rất gần trong tầm tay của chúng ta. Vấn đề ở chỗ, chúng ta có thực sự muốn hay không mà thôi.
VINH QUANG THẬP TỰ
Ga 6, 24 – 35
Lm Nguyễn Khoa Toàn
Một ông nọ mãi than phiền vợ mình chẳng làm lụng gì sất nên luôn lâm râm khấn vái cho đuợc trở thành. .. đàn bà.
Một sáng nọ, lời cầu quái gỡ kia trở thành hiện thực và khi vừa chợt thức giấc, ông ta thấy mình đã là đàn bà lao đầu ngay vào việc nội trợ. Bữa điểm tâm cho chồng con vừa lo chưa xong thì lại phải gói ghém buổi trưa, đưa con đến trường, rồi ba chân bốn cẳng về nhà giặt rũ dọn dẹp trong ngoài, rồi chợ búa, rồi thanh toán hoá đơn, rồi rước con về, rồi lo buổi ăn chiều không một phút ngơi tay.
Đến tối tuy đã rã người sau một ngày đầu tắt mặt tối nhưng rồi cũng phải làm ‘chuyện vợ chồng’ với nhau. Sáng hôm sau, giật mình sau cơn ngũ vùi mê mệt, ông ta phóng ngay ra khỏi giuờng sụp gối cầu xin: “Con có lỗi vì con đã ghen tương với vợ con. Con không ngờ công việc nội trợ lại vất vả nhiêu khê đến thế! Con biết tội con lắm nhưng xin cho con được trở thành lại đàn ông ngay lập tức.”
Đột nhiên có tiếng vang vọng trên không: “Ta vui vì con đã biết hối lỗi mình nhưng Ta không thể biến con thành lại đàn ông ngay bây giờ đuợc. Con phải chờ đến chín tháng mười ngày vì tối qua, con đã. .. mang thai!!!”
Tâm trạng Phêrô –người mà thánh Marcô đã tả là “không biết mình nói gì”-cũng từa tựa như tâm trạng của người đàn ông trong câu chuyện trên “nói năng mà không hiểu về những kỳ công vượt sức tôi” (Job 42.3). Có lẽ với Phêrô, sứ vụ cứu chuộc đã hoàn thành trên đỉnh núi cao đầy sáng láng huy hoàng này. Và phải hạ lều định cư vĩnh viễn ngay chỗ “thật là hay” đây!
Chẳng những Phêrô thôi đâu mà hình như cả Gioan và Giacôbê cũng thế. Cả ba đuợc vinh dự tuyển chọn trong số muời hai để chứng kiến sự việc biến hình lịch sử có một không hai này. Và cũng chính cả ba đuợc mời vào vuờn Cây Dầu và cầu nguyện cùng Thầy họ trong những giây phút cuối đời. Và chuyện gì đã xảy ra? Họ đã ngủ vùi say sưa. Và hình như đầu óc vẫn vương nhiều mộng tưởng đến những giây phút biến hình sáng láng vinh quang khoảng thời gian trước vì “họ vẫn bàn hỏi nhau xem câu "từ cõi chết sống lại" nghĩa là gì.”
Nhưng chính “y phục rực rỡ trắng tinh mà không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy” cũng chính là y phục bị tươi tả cấu xé phân chia trên đồi Golgotha ít lâu sau đó. Tiếng phán từ đám mây trắng "đây là Con Ta yêu dấu” cũng chính là đám mây đen vang vọng những đau đớn thở than “lạy Chúa! sao Chúa bỏ con?”
Jurgen Moltmann đã viết rằng “Chúa khóc với chúng ta để một ngày kia chúng ta có thể cùng cười với Người.” Cũng ngày này hôm nay hơn sáu mươi năm trước, trái bom nguyên tử đầu tiên đuợc thả xuống thành phố Hiroshima chấm dứt thế chiến thứ hai nhưng lại đã bắt đầu những trang sử bi thương nhất cho toàn nhân loại. Rồi những tuần qua, lò thuốc súng Trung Đông lại bùng nổ dữ dội và có nguy cơ lôi kéo những kẻ thù ‘bất cộng đái thiên’ nhảy vào ăn có dự phần.
Chúa đã không một phút giây bám víu vào sáng láng vinh quang trên đỉnh núi cao kia. Người đã xuống núi để có thể cùng khóc với nguời thiếu phụ Lebanon vừa mất đứa con thơ. Người khóc nhưng Người cũng thật rất quyền năng...
Đông lại bùng nổ dữ dội và có nguy cơ lôi kéo những kẻ thù ‘bất cộng đái thiên’ nhảy vào ăn có dự phần. Chúa đã không một phút giây bám víu vào sáng láng vinh quang trên đỉnh núi cao kia. Người đã xuống núi để có thể cùng khóc với nguời thiếu phụ Lebanon vừa mất đứa con thơ. Người khóc nhưng Người cũng thật rất quyền năng...
BÁNH HẰNG SỐNG!
Ga 6, 24 – 35
LM Nguyễn Hữu Thy
Trong bài Tin Mừng của ngày Chúa Nhật vừa qua chúng ta đã nghe tường thuật lại việc Ðức Giêsu khi thấy dân chúng lũ lượt tuôn đến với Người và Người đã động lòng thương họ. Người đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi họ. Vì thế dân chúng đã đi tìm Người để theo Người, như thánh sử Gioan đã tường thuật trong bài Tin Mừng hôm nay.
Thật vậy, con người dù sống trong thời đại nào đi nữa cũng đều là con người và đều giống nhau : Là luôn tìm mọi cách để được no đủ và để thỏa mãn được những nhu cầu thể xác của mình. Trong cuộc sống hằng ngày của một gia đình hay của một quốc gia vấn đề kinh tế và tài chính luôn luôn đóng một vai trò rất quan trọng có tính cách quyết định. Bởi vậy, tất cả mọi vấn đề, mọi kế hoạch hay mọi lo toan tính toán của một gia đình hay của một quốc gia đều tùy thuộc vào tình trạng kinh tế hay tình trạng ngân sách của gia đình cũng như của quốc gia đó. Các vấn đề có được giải quyết hay không, phần lớn đều lệ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế của đương sự.
Cả trong tôn giáo tình trạng kinh tế cũng có một ảnh huởng rất to lớn. Mọi hoạt động và mọi phương tiện thực hành đạo và sống đạo đều cần đến tài chính. Không có tiền bạc, mọi chuyện sẽ dậm chân tại chỗ hay ít ra sẽ bị giới hạn rất nhiều. Cũng như ngày xưa, động lực đã thúc đẩy người ta đến cùng Ðức Giêsu và tuôn đi tìm kiếm Người là vì Người đã cho họ ăn no nê. Ðúng là « miếng trầu là đầu chuyện » hay « Có thực mới vực được đạo » !
Nói một cách thành thật, tâm trạng đó vẫn không thay đổi cả trong thời đại của chúng ta ngày nay. Vâng, nếu người ta nghèo hay gặp phải cơn túng quẫn, người ta sẽ sống đạo sốt sắng hơn, sẽ chăm chỉ kinh nguyện hơn, sẽ siêng năng đi nhà thờ xem lễ đọc kinh hơn ! Trái lại khi sống trong giàu sang phồn thịnh, người ta sẽ dễ lơ là với vấn đề tôn giáo, sẽ coi đời sống tôn giáo là việc thứ yếu hay chỉ là việc làm trong khi rảnh rỗi. Vì theo tâm lý của những người giàu có là họ cảm thấy cuộc sống của mình đầy đủ rồi, mọi sự đã được đảm bảo rồi, nên không cần phải nhờ cậy ai nữa, không cần phải nhờ cậy đến Thiên Chúa nữa, không cần phải cầu nguyện nữa.
Nhưng đó là cả một sự lầm lẫn nguy hiểm ! Bởi vậy, Ðức Giêsu đã quá thất vọng nói với các thính giả của Người : « Các ngươi tìm Ta vì các ngươi đã được ăn bánh no nê ». Tiếp đến, Người còn thêm : « Các ngươi hãy ra công tìm kiếm không phải vì thứ lương thực mau hư nát, nhưng là thứ lương thực trường tồn đem lại hạnh phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ngươi ». Và thứ lương thực trường tồn và có thể đưa lại hạnh phúc vĩnh cửu cho con người, chính là Người : « Ta là bánh hằng sống ! »
Ðúng vậy, tôn giáo không phải là một loại ý thức hệ thuộc lãnh vực thứ yếu hay chỉ là một chuyện làm trong khi nhàn rỗi mà thôi. Tôn giáo cũng không phải là « thuốc phiện mê dân », chỉ có giá trị qua thời, cốt giúp cho con người tạm quên đi những đau khổ hiện tại, hay chỉ dùng để an ủi vuốt ve con người đang trong cơn túng quẫn, nghèo khổ.
Không, đức Giêsu đã nói : « Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Ai theo Ta sẽ không phải chết, và ai tin Ta thì dầu có chết cũng sẽ được sống lại ». Thiên Chúa Giáo không phải là một thứ phương tiện để tạm an ủi và thoa dịu nổi khổ đời này, nhưng là chân lý dẫn đưa con người tới sự cứu rỗi đời đời.
Tuy nhiên, một điều chắc chắn là con người vẫn hoàn toàn được tự do để đến cùng Thiên Chúa, nguồn cứu rỗi vĩnh cửu, hay không ! Thiên Chúa không bao giờ bó buộc ai cả. Nhưng một điều khác cũng rất chắc chắn là qua phương tiện kinh tế và tiền bạc vật chất mà thôi, con người sẽ không thể tìm được lối thoát sau cùng cho những vấn đề nan giải của cuộc sống, và, cũng không thể làm thỏa mãn hoàn toàn được những băn khoăn khắc khoải của mình bằng « cơm bánh » mà thôi. Bởi vì người Ðức cũng đã có câu châm ngôn rất sâu sắc và rất thực tế : « Viel Geld heisst nich viel Glück : Nhiều tiền không có nghĩa là nhiều hạnh phúc ».
Như vậy, chúng ta đã thấy rằng con đường duy nhất dẫn chúng ta tới hạnh phúc chân thật chính là lối đi đưa chúng ta về với Thiên Chúa, vì người chính là « Bánh hằng sống ». Dĩ nhiên, lối đi đó cũng đòi nơi chúng ta sự sẵn sàng nội tâm tự nguyện, sự đổi mới và cải thiện đời sống nội tâm. Chúng ta hãy cố gắng bước đi trên con đường đó, hãy cố gắng mỗi ngày bước đi trên con đường đó, vì nó là con đường cứu rỗi !
CỦA KHÔNG HƯ NÁT
Ga 6, 24 – 35
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
Một hôm, Na-pô-lê-ông, vị hoàng đế có đôi mắt rất sáng, nói chuyện với một người bạn của ông, người này thì lại có đôi mắt rất kém. Hai người nói chuyện với nhau về sự đời, bên cạnh một của sổ. Bất chợt, Na-pô-lê-ông chỉ tay lên trời, một bầu trời đầy sao, đang phát ra những ánh sáng lập lòe, và hỏi người bạn : “Anh có thấy những ngôi sao ở trên trời kia không ?”. Người bạn trả lời : “Không, mắt tôi kém lắm rồi, tôi không thấy gì cả”. Na-pô-lê-ông nói : “Đó là sự khác biệt giữa anh và tôi”. Rồi Na-pô-lê-ông nói tiếp : “Những người nhìn bầu trời đen mà không thấy gì thì mới sống được nửa cuộc đời mà thôi. Muốn sống trọn cả cuộc đời, thì phải thấy được những ngôi sao giữa bầu trời đen”. Lời nhận xét trên đây của Na-pô-lê-ông là một lời gián tiếp chê bai người bạn của ông có đôi mắt kém.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng đưa ra một lời chê bai những người đã tìm đến Ngài. Ngài nói : “Các ông tìm tôi không phải vì các ông đã tìm thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. Khi quả quyết điều trên đây, Chúa Giêsu phân biệt hai lý do khiến người ta tìm đến với Ngài, đó là để thấy dấu lạ và được ăn bánh nó nê. Bình thường chúng ta hiểu hai lý do đó là một, bởi vì làm sao có đủ bánh để cho hàng ngàn người ăn ở nơi vắng vẻ nếu không là một phép lạ. Nhưng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nên Ngài thấy rõ tâm tư của những người tìm đến với Ngài ở đây chỉ là vì muốn được ăn bánh no nê như đã được ăn hôm trước.
Chắc có người khi đọc đoạn Tin Mừng này sẽ cho rằng : Những người tìm đến với Chúa để được ăn bánh nữa là những người thực tế. Điều đó đúng, vấn đề cơm ăn áo mặc, vấn đề nhà ở để che nắng che mưa, đó là những vấn đề ưu tiên của con người, những vấn đề thiết thân cho cuộc sống, ở đời này ai mà không quan tâm đến những vấn đề ấy. Nhưng ở đây, khi chê bai những người tìm đến với Ngài, Chúa Giêsu muốn nói với họ rằng : ngoài sự đói khát vật chất và thể lý còn có sự đói khát thuộc tinh thần và tâm linh nữa. Vấn đề này cũng cần phải được giải quyết. Và Chúa đã đưa ra cho họ một lời khuyên : “Các ông hãy ra công làm việc, không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh”.
Vì thế, nếu về phương diện vật chất và thể lý, để thỏa mãn những nhu cầu, cần phải làm việc vất vả, thì về phương diện tinh thần và tâm linh, con người cũng phải ra công làm việc. Đúng thế, sống ở đời, chúng ta phải làm việc, và làm việc với lý do gì hay vì lý do gì chăng nữa, thì trên hết vẫn phải là lý do vì lương thực không hư nát, vì chỉ có lương thực ấy mới còn lại trong cõi vĩnh hằng, cõi hằng sống. Đó là những việc lành, việc tốt, việc bác ái yêu thương, việc thông cảm tha thứ…Chỉ có những việc ấy mới theo chúng ta về thế giới bên kia mà thôi.
Như vậy, công việc làm ăn không phải là không quan trọng. Nhưng nếu ai chỉ miệt mài làm việc mà bỏ quên nước trời, quên hạnh phúc đích thực đời sau của mình, thì Chúa bảo : họ sẽ mất tất cả. Tại Pháp, có một thương gia rất giàu, phương châm của đời ông là làm tiền, ăn nhậu và chơi bời. Nhưng chẳng bao lâu ông bị bệnh trầm trọng : thần kinh chỉ huy thanh quản bị tê liệt, làm ông bị câm. Trên giường bệnh, ông luôn thở dài chán nản. Cuối cùng, trước khi chết, ông bảo gia nhân đem bút giấy cho ông. Cầm bút, ông ghi một hàng chữ và truyền khắc nó trên bia mộ của ông : “Đây là người dại dột, đã sống mà không biết sống. Hỡi những người đang sống, chớ gì sự vô phúc của kẻ khác mở mắt các ông”.
“Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng. Thác xuống âm phủ chẳng mang được gì”. Thánh Gióp nói : “Từ lòng mẹ tôi sinh ra trần truồng và lại trần truồng để trở về đấy”. Thánh Phaolô cũng nói : “Vào thế gian ta chẳng mang gì, thì cũng không thể mang gì khi phải ra đi”. Và lời Chúa Giêsu : “Tất cả mọi sự sẽ qua đi, chỉ có việc lành mới tồn tại”.
Chúng ta đang sống, chúng ta đừng quên mối tương quan giữa cuộc sống đời này và cuộc sống đời sau. Hơn ai hết, người Kitô hữu phải luôn nhớ mối tương quan ấy. Chúng ta cần lợi dụng từng giây phút, cần hoàn tất từng công việc, dù nhỏ mọn hay to lớn, để làm giàu cho cuộc sống, để làm cho đời mình có giá trị vĩnh cữu. Chỉ sống như thế chúng ta mới có thể đón nhận được lời diễm phúc này : “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, hãy vào chung hưởng niềm hoan lạc với chủ ngươi”.
BÁNH ĐỨC TIN
Ga 6, 24 – 35
Lm. Jude Siciliano, OP.
Nếu như muốn suy niệm về Kinh thánh Do thái, thì hôm nay chúng ta có cơ hội tốt. Bài đọc 1 trích từ sách Xuất hành, là thành phần của cuộc di cư vĩ đại, lâu dài, khó khăn, dân tộc Do thái phải trải qua trong sa mạc Sin khô cằn. Tính chất biểu tượng của nó thật phong phú cho mỗi linh hồn và ngay cả cho toàn thể Hội thánh, để vượt qua biển đời trần gian. Trong suốt thời kỳ đó lòng tin của dân tộc Israel bị thử thách nặng nề qua những miền đất hoang dã, gập ghềnh, đầy thú dữ. Nghe đọc bản văn, chúng ta tưởng chừng như câu truyện mới xảy ra hôm qua. Thực sự việc đó đã xảy ra hàng ngàn năm về trước. Thiên Chúa dẫn đưa dân Do thái thoát khỏi ách nô lệ Ai cập, và vào lúc này họ thấy mình đang trên con đường trở về đất hứa. Họ được tự do, nhưng cuộc hành trình về quê cha đất tổ thì mới vừa khởi sự. Họ còn phải chịu đựng rất nhiều để học cho biết họ là dân tộc nào và Thiên Chúa là ai? Câu truyện thật hấp dẫn và biểu tượng song hành cũng thật rõ ràng. Đức tin của mỗi linh hồn cũng phải trải qua ngần ấy khó khăn để đến được bến bờ hạnh phúc.
Điểm tôi lưu ý đầu tiên là tính cộng đoàn của dân Israel. Ở đây tác giả không nói về cá nhân nào, mà về toàn thể xét như một dân tộc thoát ách nô lệ, và làm cuộc di chuyển qua sa mạc. Cả cộng đồng rời bỏ Ai cập, cả cộng đồng ăn thịt chim cút và bánh manna. Cả cộng đồng phải thử thách, khổ đau, chịu đựng và kêu ca. Như vậy bài đọc gợi ý cho chúng ta về những vật lộn cá nhân trong những cuộc hành trình khó khăn của đức tin. Xin luôn nhớ đây là truyện lòng tin của cả một khối người, không phải của riêng lẻ một ai. Một khối người duy nhất phải trải qua sa mạc. Về phần chúng ta cũng vậy các khó khăn thử thách trong cuộc sống cũng phải được nhìn trong tổng thể lòng tin của cộng đoàn giáo xứ, khi chúng ta cùng nhau tiến tới trên cuộc đời người tín hữu.
Vậy thì cứ thử đặt kinh nghiệm vượt sa mạc của dân Do thái dưới góc độ văn phạm của ngôn ngữ để thấy nội dung của nó ra sao ! Thật khủng khiếp. Nhưng xin thứ lỗi cho tôi về lối giải thích ngoại thường này. Một mệnh đề đơn giản phải có ba yếu tố: Chủ từ, động từ và túc từ. Chủ từ thực hiện hành động, động từ chuyển tải hành động và túc từ tiếp nhận hành động. Trong suốt hành trình di cư của dân Do thái, sự thật văn phạm được tôn trọng. Thiên Chúa là chủ từ và dân Israel tiếp nhận các hành động của Ngài, còn động từ thì vô số, tuỳ vào tình huống: giải cứu, trừng phạt, đe doạ, khuyên răn, ban lề luật… Trong câu truyện xuất hành Thiên Chúa thực hiện những hành động cao cả trên dân. Ngài trông thấy nỗi nhọc nhằn vất vả của kiếp sống lầm than và ra tay giải cứu. Ngài che chở, nuôi sống, dẫn đưa họ qua sa mạc. Tất cả đều là những hành động của Ngài. Dân chúng kêu ca, ta thán, thì có thể coi như những lời cầu khẩn, van xin Thiên Chúa nghe lời và quyết định giải thoát. Ngài không hề ở xa tuyển dân, ngược lại luôn ở gần, lắng nghe các ước vọng của họ. Đàng khác, tuyển dân là túc từ của mệnh đề. Họ sống trong gian khổ, trong những nhu cầu cấp thiết, nhưng chẳng có khả năng tự giải quyết. Họ tiếp nhận các hành động xót thương của Đức Chúa.
Do đó, sách Xuất hành mạc khải cho dân Do thái biết Thiên Chúa là ai và những vật lộn trong sa mạc cho họ hay mình là thế nào? Chúng ta cũng thường bộc lộ những yếu đuối, chao đảo, khó khăn, ta thán, những nỗi thống khổ. Chúng ta có cảm nhận một Thiên Chúa trung tín, hằng ra tay nâng đỡ, cứu giúp, như Ngài đã từng làm cho dân Do thái? Hơn nữa, hàng ngày chúng ta cần Thượng đế giải phóng khỏi kiếp nô lệ tội lỗi. Mặc dù do thói quen chúng ta không nhận ra thân phận mình, cứ cho là tự do mà trong thực tế không phải vậy. Nói rộng ra, phần đông nhân loại đều sống trong ách kìm kẹp của Satan. Nhân loại cần một Thiên Chúa giải thoát. Nhưng công việc của Ngài chỉ là bước đầu. Còn rất nhiều gian nan trước mắt: phá vỡ thói xấu, tập tành nhân đức, vượt khó… Vì thế ngay khi ra khỏi Ai Cập, Thiên Chúa đã truyền cho tuyển dân phải nên thánh, kẻo trở lại nếp sống nô lệ xưa. Đây là tình trạng mà Vat.II đã gặp. Sau những cố gắng đổi mới, biết bao nhiêu chống đối nổi lên, thậm chí còn có những kẻ muốn huỷ bỏ thành quả của Công đồng, trở về nếp sống bảo thủ, khép kín, ngăn cách khỏi cộng đồng nhân loại. Trên con đường thiêng liêng nếu không có Thiên Chúa hướng dẫn, thì trăm bước sai lầm, chưa chắc chúng ta đã được một bước chính xác. Vì vậy phải luôn gắn bó với Thiên Chúa trong nếp sống thánh thiện.
Nhưng cũng không nên quá bi quan, tô vẽ một Thiên Chúa dẫn đưa chúng ta vào khó khăn, thử thách. Xin luôn nhớ, dân tộc Israel đã từng sống kiếp nô lệ và Thiên Chúa là Đấng giải cứu họ. Nếu như họ gặp nhọc nhằn, đó là vì còn đang ở trong tiến trình tiến tới tự do, phải bỏ lại đằng sau những tập quán xưa, thói quen cũ. Điều này không phải dễ, nhìn vào chính bản thân, chúng ta cũng thấy cải tạo quả là khó khăn, đau xót, nói chi đến một tập thể, một cộng đoàn, một giáo xứ và ngay cả Hội thánh. Tuy nhiên, để có những cuộc khai sinh con người mới, cộng đoàn mới, thì nhất thiết chúng ta phải chết đi bằng nhiều kiểu cách. Không phải tự tử mà chết đi với tật xấu thói hư.
Giống như dân tộc Israel, Hội thánh cũng hằng đối mặt với các cuộc thanh tẩy, các thử thách do những thế lực ma quỉ gây nên. Lịch sử Giáo hội cho thấy rõ điều đó. Năm ngoái tôi được cung cấp một danh sách dài những quốc gia đang còn bách hại Hội thánh. Tất cả là hơn 20. Năm nay tôi dám chắc con số đó không giảm, có thể còn tăng lên. Bởi lẽ tình hình bài tây phương ngày một dâng cao và Hội thánh bị ảnh hưởng, tuy gián tiếp nhưng cũng rất nặng nề. Cũng không thể bỏ qua những đấu tranh nội bộ. Khi cố gắng sống nhân chứng cho Đức Ki-tô, Giáo hội phải thích nghi với nếp sống địa phương. Nhưng vô tình Giáo hội đồng hành luôn với các thể chế chính trị, văn hoá, kinh tế. Thành thử nhiều linh mục, tu sĩ, giáo dân, lây nhiễm não trạng thực dụng, cứ ngỡ ủng hộ lợi ích của chế độ là trở thành các Kitô hữu tốt. Làm ngược lại là xấu, là phản bội đức tin. Thực chất không phải vậy. Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Nước của tôi không thuộc về thế gian này.” (Ga 18, 36). Lại còn một loại khó khăn khác nữa mà Hội thánh luôn phải đấu tranh. Đó là tội lỗi trong lòng mình, đặc biệt các gương mù gương xấu của giai cấp linh mục, tu sĩ. Thí dụ như trong Hội thánh Hoa Kỳ, gương mù lạm dụng tình dục của một vài giáo sĩ đã gây nên không biết bao nhiêu thiệt hại cho mẹ Giáo hội. Về vật chất, thiệt hại quả là khổng lồ. Tiền của đền bù, đáng lý phải được dùng vào những lợi ích khác như thành lập bệnh viện, trường học, từ thiện, viện trợ cho các giáo hội nghèo khó v.v… Tất cả đều bị cắt giảm để tài trợ cho các án dân sự. Về mặt tinh thần thì vô kể. Gương xấu đã phát sinh nhiều lời phê bình gay gắt, giận dữ, bất mãn, ta thán, chế diễu, tố cáo, rời bỏ, loại trừ… Chẳng thiếu một hình thức nào. Có thể còn phải mất vài thập niên nữa vết thương mới được chữa lành. Ở đây chúng ta lại gặp kinh nghiệm sa mạc và như thế lại cần đến lương thực “man-na” mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có khả năng cung cấp. Thứ manna chữa lành, đổi mới và tái dấn thân. Giáo hội Hoa kỳ đang ở giai đoạn xuất hành gian khổ. Thử thách ập đến trong nhiều hình thức khác nhau. Giống như tuyển dân Do thái, chúng ta cũng rất dễ xa đường lạc lối.
Điều an ủi là Thiên Chúa xưa kia đã trông thấy cộng đoàn xuất hành Do thái đói khổ và gởi lương thực đến cho họ. Không phải lương thực họ đã quen dùng, cũng không phải lương thực họ tự chọn lấy. Nhưng thứ bánh mà họ phải hỏi nhau: “Cái gì đây?” (man-hu?). Cho nên bài đọc 1 cũng như bài Tin mừng kêu gọi hãy tin tưởng vào Thiên Chúa. Ngài sẽ nuôi dưỡng chúng ta trong những ngày tháng khó khăn này. Chúng ta chẳng biết được thứ bánh mà Ngài sẽ ban là gì. Có thể ngon ngọt, vui mừng. Có thể chua cay đắng đót. Nhưng mỗi ngày chúng ta được thêm sức mạnh để vượt qua thử thách. Bánh đây không loại trừ lời khích lệ của thân nhân, bà con, bạn bè, có khi của cả những người xa lạ chúng ta chưa từng một lần gặp. Đúng thế, ngoại trừ số ít lòng lang dạ thú, còn thì trái tim con người ta đa phần rất dễ rung động trước những nỗi bất hạnh của kẻ khác. Mỗi khi có thiên tai, bão lụt, lòng hảo tâm của các tầng lớp đồng bào lại mở rộng một cách hào hiệp. Thêm vào đó, nhiều cơ quan từ thiện quốc gia, tôn giáo, quốc tế thường xuyên hoạt động ở những khu vực cần giúp đỡ. Nhiều khi vì quá vô tâm, chúng ta không nhìn thấy bàn tay dịu hiền của Thiên Chúa cùng hoạt động với những cơ quan đó. Như vậy trong một cộng đoàn, bánh của Thiên Chúa có thể là vật chất, có thể là tinh thần, dưới những hình thức ngôn sứ khác nhau, kêu gọi chúng ta trở về với Hội thánh, Bí tích phổ quát của Chúa Giêsu trên thế gian.
Điểm cuối cùng sách Xuất hành mặc khải là: ngày nào đủ bánh cho ngày ấy. Người ta thu gom phần bánh cho mình hàng ngày. Nếu như họ tỏ lộ lòng tham lam, lượm hơn số cần thiết, nó sẽ tự hư nát (trừ trường hợp cho ngày Sabbath). Nghĩa là Thiên Chúa luôn có mặt để giúp đỡ con người vượt qua mọi khó khăn. Do đó, chúng ta được dậy cho biết phải cậy trông vào sự quan phòng của Đức Chúa Trời, nuôi dưỡng các tạo vật của Ngài. Chúng ta thực sự có nhu cầu sống trong đức tin như thể cá nhân hay cộng đồng mà chỉ một mình Thiên Chúa mới thoả mãn được. Trong Thánh lễ hôm nay chúng ta cử hành Bí tích Thánh Thể, bánh hàng ngày của nhân loại, bánh ban sự sống và hạnh phúc vĩnh cửu. Bánh chứng tỏ rằng mặc dù chúng ta hằng cầu xin, nhưng Thiên Chúa đã lắng nghe rồi, mà ban cho dư thừa. Tuy nhiên, còn một hình thức khác của bánh cần van xin. Đó là bánh đức tin để chúng ta can đảm làm các chứng nhân. Đó là bánh liên kết chúng ta với nhau trong bác ái. Đó là bánh bày tỏ sự hiện diện của Thiên Chúa xót thương giữa xã hội loài người. Chúng ta cầu xin thứ bánh đó. Nhưng cũng đừng quá đỗi ngạc nhiên., khi Ngài ban tặng “manna” trong muôn vàn thể thức khác nhau. Amen.
CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN
Ga 6, 24 – 35
Gm Giuse Ngô Quang Kiệt
Cách đây năm năm, tại bang California bên Mỹ, có hiện tượng thanh niên tự tử hàng loạt. Tất cả đều là những thanh niên trẻ tuổi, con nhà giàu, có học thức. Nguyên nhân tự tử là vì họ mong về Thiên đàng. Năm ấy có sao chổi xuất hiện. Họ cho rằng sao chổi chính là chuyến xe về Thiên đàng. Mấy mươi năm mới có một chuyến, nên họ vội vàng ra đi, sợ nhỡ chuyến.
Tính tỉ lệ những người tự tử, ta thấy thanh niên các nước giàu tự tử nhiều hơn thanh niên các nước nghèo. Hiện nay trong nước ta, tại các thành phố lớn, đang có hiện tượng các thanh niên đua xe gắn máy, liều lĩnh coi thường mạng sống. Kết quả các cuộc điều tra cho thấy đó là những thanh niên con nhà giầu có.
Những hiện tượng đó đáng cho ta suy nghĩ. Những người nghèo đói thật vất vả khổ sở. Họ chỉ mong sao cho có đủ cơm ăn áo mặc. Có cơm ăn áo mặc đã là hạnh phúc. Nhưng khi người ta đã có đủ cơm đủ áo, đủ mọi phương tiện, người ta vẫn không hạnh phúc. Nhìn những thanh niên giầu có chán đời đi tìm cái chết; nhìn những thanh niên chán cảnh nhà cao cửa rộng, chăn êm nệm ấm đeo ba-lô đi du lịch bụi đời, ta thấy rằng vật chất không phải là tất cả. Và những khao khát của con người là vô tận. Hôm nay tôi chưa đủ ăn thì tôi mong cho có đủ ăn. Ngày mai đủ ăn rồi, tôi lại muốn ăn ngon hơn. Hôm nay còn đi bộ, tôi mong được một chiếc xe đạp. Có xe đạp rồi tôi mong có xe máy. Có xe máy rồi tôi mong có ô - tô. Có ô - tô rẻ tiền rồi, lại mong có cái tốt hơn, tiện nghi hơn, chạy nhanh hơn, êm ái hơn. Có tất cả rồi, người ta vẫn chưa hài lòng. Cuộc đời vẫn còn thiếu một cái gì đó. Bao tử hết bị hành hạ, thì lập tức tâm hồn cảm thấy những cơn đói khác dày vò : đói bình an, đói tình yêu, đói hạnh phúc, đói ý nghĩa cuộc đời, đói những điều cao thượng. Những cơn đói khát tinh thần này rất mãnh liệt. Nên con người mãi mãi khắc khoải đi tìm. Mà hạnh phúc dường như luôn luôn ở ngoài tầm tay với.
Hôm nay, đứng trước đoàn người hăm hở đi tìm lương thực, Ðức Giêsu đã cảnh báo họ : “Ðừng lo tìm những thứ lương thực hay hư nát, nhưng hãy tìm lương thực đem lại hạnh phúc trường sinh”. Vì Người đã rõ giá trị tạm bợ của miếng cơm manh áo. Người cũng thấu rõ tâm hồn con người mau chán những gì đạt được. Người đã tạo dựng tâm hồn con người, nên Người hiểu lòng khao khát của con người là vô biên. Chỉ có những giá trị tuyệt đối mới có thể lấp đầy những khát khao ấy. Người đã mở đường để tâm hồn con người thoát khỏi những ràng buộc của vật chất, vươn lên tìm kiếm những giá trị thiêng liêng cao cả, xứng với tầm vóc con Thiên chúa.
Thế nhưng ta tìm đâu ra những giá trị tuyệt đối để lấp đầy nỗi khao khát vô biên ? Ta tìm đâu ra thứ bánh làm dịu được cơn đói hạnh phúc ? Hôm nay, Ðức Giêsu giới thiệu cho ta thứ bánh đó. Ðó là bánh đích thực, vì ăn rồi ta sẽ không bao giờ đói nữa. Ðó là bánh ban sự sống, ai ăn sẽ không chết nữa. Ðó là bánh ban hạnh phúc, ăn vào sẽ không còn khao khát điều gì khác. Ðó là bánh Thiên Chúa ban chứ loài người không ban được. Ðó là bánh từ trời chứ trần gian không sản xuất được. Tấm bánh đó là chính bản thân Người, Ðức Giêsu Kitô.
Những người Do thái đã sai lầm khi đi tìm Ðức Giê-su để được ăn bánh. Ðức Giêsu đã cảnh tỉnh họ khi cho họ biết rằng không nên tìm bánh, vì như thế họ sẽ thất vọng. Bánh ăn rồi sẽ lại đói. Nhưng phải tìm chính Ðức Giê-su. ở đây ta nhớ tới bài học Chúa đã dậy tổ phụ Ápraham. Thoạt tiên, Chúa kêu gọi tổ phụ Ápraham đi theo Chúa và hứa cho ông được một đất nước chảy sữa và mật và một dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển. Nghe theo lời hứa, tổ phụ đã lên đường. Nhưng khi ông sinh được một người con trai duy nhất trong tuổi già, Chúa lại bảo ông phải sát tế dâng cho Chúa. Ðây là một thử thách lớn lao, nhưng cũng là một lời mời gọi vươn lên. Ápraham được mời gọi thoát khỏi sự ràng buộc của lợi lộc vật chất. Theo Chúa chỉ vì Chúa chứ không phải vì lợi lộc vật chất. Ông hoàn toàn có lý vì ông đã chọn Chúa là sự Thiện tuyệt đối chứ không chỉ lựa chọn một vài sự thiện tương đối. Ông đã lựa chọn Chúa là nguồn mạch hạnh phúc chứ không đuổi theo những ảo ảnh của hạnh phúc. Ðức tin của ông hoàn toàn trưởng thành, nên ông đã trở thành Cha của những kẻ tin.
Hôm nay, Chúa mời gọi tôi, hãy noi gương tổ phụ Ápraham. Ðừng tìm những mảnh vụn hạnh phúc, nhưng hãy đi đến nguồn mạch hạnh phúc. Ðừng lo nắm giữ những của cải phù du, nhưng hãy tìm chiếm giữ kho tàng bền vững mối mọt không đục khoét được. Ðừng đuổi theo những giá trị tương đối, nhưng hãy biết tìm kiếm giá trị tuyệt đối là chính Chúa. Chính Chúa sẽ làm ta no thoả. Chính Chúa sẽ lấp đầy những khát vọng của ta. Chính Chúa ban cho ta hạnh phúc tràn đầy, vĩnh viễn.
Chúng ta hãy cùng cầu nguyện với thánh Âucơtinh : “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên tâm hồn con mãi khắc khoải băn khoăn, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”. Amen.
CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN
Ga 6, 24 – 35
Sr. Tố Nhung
Đừng lao công vì của ăn sẽ hư nát,nhưng hãy tìm kiếm của ăn dẫn tới sự sống đời đời...Ta là Bánh Sự Sống, từ Trời xuống...(Jn 6:24-35)
Khi Chúa Giêsu phán, ''Ta là Bánh Sự Sống...'' là Ngài loan báo mầu nhiệm cứu độ mà Ngài sẽ hoàn tất, để thực hiện một tấm Bánh hằng sống cứu độ - cứu con người thoát khỏi tội lỗi.
Tội không gì khác hơn là sự xa cách Thiên Chúa nguồn tình yêu, nguồn an bình, nguồn sống vĩnh cữu... xa cách một Đấng tuyệt đối thánh. Một sự sống xa cách như thế chỉ có thể dẫn người đi sâu vào tội ác, đau khổ và chết. Việc cứu độ chính là đưa con người trở lại sống trong Thiên Chúa như lúc ban đầu, trong tư cách là con Thiên Chúa và thừa hưởng hạnh phúc vĩnh cữu. Việc cứu độ như thế chỉ có thể thực hiện trong Đức Kitô. Ngài đã đến thế gian chia sẻ thân phận khốn đốn của con người đang sống trong sự trống vắng Thiên Chúa, Ngài đón nhận tất cả đau khổ do hậu quả của tội con người; Ngài giúp họ cảm nghiệm lại Thiên Chúa Cha, khao khát vương quốc Tình yêu của Cha; Ngài đồng hành với con người trong việc sám hối đối với Cha, đồng hành với con người trong việc chay tịnh, sống hãm mình, hy sinh để tập từ bỏ chính mình dần dần, để dẫn con người đến với Cha qua việc cầu nguyện, thực hiện ý Cha, tôn thờ, yêu mến và giữ giới răn của Cha...; tập nói tiếng yêu và hy sinh cho tình yêu đối với đồng loại để diễn tả tình yêu mến Cha... Và cuối cùng chấp nhận từ bỏ mình hoàn toàn trong sự chết để đón nhận Cha một cách hoàn toàn.
Nhưng việc này con người không làm được, vì con người vẫn ''nhớ tới rượu thịt ở xứ Ai cập'' dù là trong thân phận nô lệ; con người không đành lòng trút bỏ hoàn toàn sự sống của mình để đón nhận Thiên Chúa, một Đấng yêu thương đích thực mà con người đã quên mất cội nguồn; con người vẫn muốn sống cuộc sống riêng của mình cho dù sống trong nô lệ tội lỗi, khổ đau và chết dần từng ngày...
Chỉ có Chúa Giêsu, Đấng từ Cha đến, Ngài hiểu rõ giá trị tuyệt vời của việc sống với Cha, và chỉ mình Ngài có tình yêu tuyệt đối với Cha. Ngài đã từng tuyên bố, ''Lương thực của Ta là làm theo ý Cha,''và ''Ngài đã vâng phục Cha cho đến chết và chết trên thập giá'' để cuối cùng đón nhận lại Cha một cách trọn vẹn... Và Thánh Thần của Cha đã phục sinh Ngài từ cõi chết. Xác phàm mà Ngài mặc lấy đã trở nên Thân Xác Thần Thiêng, vinh hiển và hằng sống. Chính Thân xác đó làm thành tấm Bánh Sự Sống trong bí tích Thánh Thể, để Ngài tiếp tục hiện diện cách cụ thể giữa con người. Tấm Bánh ấy chứa đựng chính sự sống mầu nhiệm của Chúa Giêsu, mầm cứu rỗi; chứa đựng năng lực phục sinh của Chúa Thánh Thần, hạt giống trường sinh,... giúp tín hữu khi đón nhận Bánh ấy có thể mở ra cho Thiên Chúa để đi dần vào cõi hằng sống.
Đời sống Kitô hữu không gì khác hơn là chính Chúa Giêsu sống trong ta và ta sống trong Ngài. Một sự kết hợp kỳ diệu như thế chỉ có thể thực hiện được nhờ Chúa Thánh Thần và nhờ Chúa Giêsu phục sinh trong Thánh Thể. Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể sẽ cùng với tín hữu đến tôn thờ, yêu mến, tạ ơn và làm lễ hiến tế tình yêu cho Cha và yêu mến anh em mình...
Việc đón nhận, chiêm ngắm, tạ ơn, đền tạ, cầu nguyện với Chúa Giêsu phục sinh trong Bánh Thánh Thể sẽ làm mối dây kết hợp sự sống của Ngài với tín hữu thêm sâu đậm... đến nỗi người ta có thể nói như thánh Phaolô, ''Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi...'' Khi đó họ đã trở nên một tấm bánh sống động cho người chung quanh, trở thành lời mời họ cùng đến thưởng thức hương vị của sự sống trường sinh đang bắt đầu nơi đây, ngay lúc này. Mỗi tác động yêu thương của ta đối với đồng loại, mỗi tâm tình tự hiến cho tình yêu, mỗi lần ta chấp nhận những khiếm khuyết của người khác, mỗi lần ta tha thứ cho anh em... là ta đã diễn tả cách sống động sự sống của Chúa phục sinh đang ngự trong ta, và ta đang mang Bánh Sự Sống cho họ...
CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN
Ga 6, 24 – 35
Lm Minh Vận, CMC
Bài trích sách Xuất Hành hôm nay thuật lại việc con cái Israel kêu trách tổ phụ Maisen và tư tế Aaron: "Tại sao các ông dẫn chúng tôi lên sa mạc này, để cả lũ phải chết đói như thế này? Thà chúng tôi chết trong đất Ai Cập trong tay Chúa, khi chúng tôi còn ngồi kề bên nồi thịt và ăn bánh no nê".
Như chúng ta biết, Chúa đã thương yêu Israel, Dân Riêng của Chúa, Người đã dùng cánh tay uy quyền của Người, thực hiện những phép lạ phi thường để giải thoát họ khỏi ách nô lệ của vua Pharaon bên Ai Cập, dùng các tôi tớ trung thành của Người là Maisen và Aaron dẫn đưa họ về Đất Hứa. Vì những gian khổ trên đường tiến tới Đất Hứa, đã làm cho con cái Isarel quên bẵng những ơn lành Chúa đã ban; họ đã dám vô ơn bội nghĩa, buông ra những lời phàn nàn kêu trách các thủ lãnh của họ và hơn nữa, họ còn dám phạm thượng kêu trách cả Thiên Chúa nữa.
I. PHÉP LẠ MANNA VÀ CHIM CÚT
Thấu tỏ lòng dân vô ơn bội bạc. Lời họ kêu trách đã vọng tới tai Chúa, nhưng Chúa vốn nhân từ thương xót họ, ban Manna từ trời rơi xuống để nuôi sống họ; đồng thời, Người cũng cho chim cút bay tới rợp cả khu trại, để họ bắt giết thịt làm của ăn.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại: Sau khi Chúa làm phép lạ bánh và cá hóa nhiều để nuôi đám đông dân chúng đi theo nghe Chúa giảng. Khi gặp lại Chúa, họ thưa với Người: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ?" Chúa thừa biết tâm tư của họ, nên Người đã nói thật với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã được thấy các phép lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê". Chúa thấy họ chỉ nghĩ đến những sự tầm thường, những của ăn hay hư nát, những sự dưới đất này, nên Người muốn nâng tâm hồn họ lên cao hơn nữa, khi phán với họ lời này: "Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho cuộc sống muôn đời, là của ăn mà Con Người sẽ ban cho các ngươi".
II. TIN KÍNH CHÚA LÀ LẼ SỐNG HỒN TA
Họ thưa với Chúa: "Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?" Chúa đã quả quyết với họ: "Đây là công việc của Thiên Chúa, là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến". Dầu Chúa đã nói thẳng với họ là phải tin vào Ngài, là chính Đấng mà Chúa Cha đã sai đến, thế mà họ vốn còn cứ bám víu lấy "Của ăn phàm trần", đầu óc họ cứ vốn còn lẩn quẩn đến những nhu cầu vật chất tầm thường, nên họ đã thưa với Chúa: "Xin Ngài làm dấu lạ nào để chúng tôi thấy mà tin vào Ngài, Ngài làm được việc gì? Cha ông chúng tôi đã cho chúng tôi ăn bánh bởi trời". Chúa đáp: "Không phải Maisen đã cho các ngươi ăn bánh bởi trời, mà chính Cha Ta mới ban cho các ngươi bánh bởi trời đích thực. Vì Bánh của Thiên Chúa phải là vật từ trời xuống, và ban sự sống cho trần gian". Họ liền thưa với Ngài: "Thưa Ngài, xin ban bánh ấy cho chúng tôi luôn mãi". Nhờ cơ hội đó, Chúa Kitô đã tỏ cho họ biết chính Ngài là Bánh Thiên Chúa ban cho họ, khi Ngài trịnh trọng tuyên bố: "Chính Ta là Bánh ban Sự Sống, ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ".
Nơi khác trong Tin Mừng, Chúa cũng đã quả quyết: "Người ta không chỉ sống bằng cơm bánh, nhưng còn sống bằng mọi lời do miệng Chúa phán ra". Thực vậy, lương thực nuôi cho người ta được sống; nhưng cũng một sự thực trăm phần trăm là biết bao người có đầy tràn lương thực cũng vốn phải chết, chứ đâu có lương thực đầy đủ mà sống mãi được đâu. Vả nữa, lương thực chỉ là của ăn Chúa ban để nuôi chúng ta phần xác, bao lâu chúng ta còn sống trên trần gian này; nhưng lương thực vật chất đó không thể nuôi chúng ta trong cuộc sống vĩnh cửu, cuộc sống mãi mãi vĩnh tồn trong hạnh phúc bất diệt, mà Thiên Chúa ban cho những ai tin kính yêu mến Người.
Chính nhờ niềm tin kính vào Chúa, mới là lẽ sống nuôi dưỡng linh hồn chúng ta trong cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu.
III. THÁNH THỂ, NHIỆM TÍCH TÌNH YÊU
Manna là thứ bánh Chúa làm phép lạ để nuôi Dân Riêng trên đường tiến về Đất Hứa, cũng như phép lạ Chúa làm bánh hóa nhiều để nuôi dân chúng trong lúc họ đi theo nghe Chúa giảng. Đó là một hình bóng, một biểu tượng Chúa dùng, để dọn lòng chúng ta hiểu được mầu nhiệm Thánh Thể, một Nhiệm Tích Tình Yêu Chúa đã lập để bày tỏ lòng nhân từ Chúa yêu thương chúng ta. Nhiệm Tích Thánh Thể là một phép lạ gồm tóm mọi phép lạ, là trung tâm mọi việc tôn thờ dâng lên Thiên Chúa của Giáo Hội Công Giáo. Là một Nhiệm Tích cần thiết để được Ơn Cứu Độ. Người ta không có lương thực nuôi thân, người ta sẽ phải chết; cũng thế, nếu chúng ta không có lương thực thiêng liêng nuôi sống linh hồn chúng ta, linh hồn chúng ta cũng sẽ phải chết... Xin Chúa cho chúng ta hiểu biết giá trị đích thực và sự cần thiết phải được dưỡng nuôi bằng Bánh Thánh Thể Chúa. Phải hết lòng phụng sự tôn thờ yêu mến mầu nhiệm Chúa ngự thật trong Bí Tích Thánh Thể và siêng năng sốt sắng lãnh nhận Chúa Giêsu Thánh Thể cách xứng đáng, để chúng ta được hưởng ơn ích do Bí Tích Thánh Thể mang lại cho chúng ta, nhờ lòng nhân từ yêu thương của Chúa.
Biết bao nhiêu phép lạ Chúa đã làm để chứng minh sự hiện diện thực sự của Chúa nơi Thánh Thể. Nhiều vị Thánh và những tâm hồn thánh thiện, không những Bánh Thánh Thể đã nuôi sống linh hồn các ngài, mà còn dưỡng nuôi cả thân xác các ngài nữa, đến nỗi có nhiều vị đã sống nhờ duy một chút Bánh Thánh Thể trong nhiều năm.
Thánh Anton Padua rất khao khát được dự lễ và rước Chúa Giêsu Thánh Thể, nhưng vì ngài phải nằm liệt tại phòng bệnh, không thể tới dự lễ và rước Chúa được. Khi ngài nghe thấy tiếng chuông rung trong lúc Linh Mục chủ tế dâng Mình Thánh Chúa lên, bỗng ngài nhảy chồm xuống khỏi giường, cúi mình thờ lạy Chúa, đột nhiên bức tường phòng bệnh rẽ ra, để ngài đủ thấy rõ Linh Mục dâng Thánh Lễ. Chúa đã làm phép lạ này để thưởng lòng khát mong của Thánh Nhân... Các vị sau đây mỗi ngày chỉ chịu một tấm Bánh Thánh Thể nhỏ bé mà vẫn sống trong nhiều năm. Chân Phước Angela Foligno 12 năm, Thánh Nữ Catharina 8 năm, Chân Phước Elizabeth Reute 15 năm, Thánh Nữ Ledwina 28 năm, Chân Phước Catharina Reconnigi 10 năm, Rosa Andriani 28 năm, Louise Leteau 14 năm.
Là con cái Chúa, với tâm tình như các Thánh, chúng ta tin thật Chúa hiện diện thực tại nơi Nhiệm Tích Thánh Thể. Chúa ngự nơi đây vì yêu thương chúng ta, để nên nguồn an ủi, nên hạnh phúc, nên gia nghiệp đời đời, nên Thiên Đàng cho chúng ta trên dương thế này. Chúa khát mong được ngự vào linh hồn chúng ta để thánh hóa và biến đổi chúng ta nên giống Chúa như Chúa đã truyền dạy: "Các con hãy nên Thánh vì Ta là Thánh" (Lv 11:45). Và: "Các con hãy nên Thánh như Cha các con trên trời là Đấng Thánh" (Mt 5:48).
Kết Luận
Chúng ta hãy đáp lại lòng Chúa yêu thương bằng cách năng đến viếng thăm Chúa, đền tạ an ủi Chúa vì những tội lỗi loài người hằng xúc phạm đến Nhiệm Tích Tình Yêu Cực Thánh này, bằng những tội phạm thánh, đón rước Chúa cách bất xứng, hoặc thờ ơ nguội lạnh bất kính, hoặc chối từ không tin nhận Chúa đang ngự thật nơi đây.
Xin Chúa ban cho chúng ta Đức Tin vững mạnh và sống động mỗi khi chúng ta đến viếng thăm, tôn thờ Chúa Giêsu Thánh Thể, hoặc khi tham dự Thánh Lễ, nhất là khi chúng ta đón rước Thánh Thể Chúa ngự vào linh hồn chúng ta. Xin cho chúng ta hằng cháy lửa kính mến Chúa, cố gắng biến đổi cuộc sống chúng ta nên một Hy Lễ với Chúa, để làm vui lòng Cha Trên Trời, thánh hóa bản thân và cứu độ tha nhân.
Nguồn vietcatholic.org
1634 31-07-2015 08:42:43