Sidebar

Thứ Sáu
28.03.2025

Chúa Nhật XXI TN A_4

NGƯỜI KI-TÔ HỮU
Mt 16,13-20

Trong những dòng cuối của sứ điệp "Hòa bình dưới thế", vị cố Giáo hoàng Gioan XXIII, được mệnh danh là vị Giáo hoàng nhân từ, dễ thương, đã đưa ra cho chúng ta một định nghĩa : thế nào là một người Ki-tô hữu chân chính như sau : "Mỗi một tín hữu trong thế giới của chúng ta là một mảnh sao băng, là một tụ điểm của tình yêu, là một thứ men sống động giữa những người anh em của mình. Nếu người tín hữu đóng trọn vai trò ấy, họ sẽ là người Ki-tô hữu chân chính". 

Sống trọn những cam kết trên, quả thật người Ki-tô luôn là một thách thức, một câu hỏi, một sự hiện diện quấy rầy đối với mọi người. Một mảnh sao băng khi chợt sáng lên rồi tắt lịm, nhưng cũng đủ thu hút cái nhìn của con người về một góc trời nào đó. Một hạt men bé nhỏ, mất hút trong khối bột, nhưng cũng đủ sức làm dậy lên cả khối bột. Một thể hiện yêu thương, dù nhẹ nhàng đơn giản, cũng đủ sưởi ấm cõi lòng, đủ sức chinh phục hay cảm hóa bất cứ người nào. Như thế đó, sự hiện diện của người tín hữu luôn có sức thu hút, tạo được ảnh hưởng tốt cho người khác, với điều kiện họ phải sống đúng danh nghĩa người Ki-tô. 

Bài Tin Mừng hôm nay cũng muốn nhắc nhở chúng ta về cuộc sống ấy. Trong những việc làm của mình, và nhất là cuộc sống của mình, Chúa Giêsu đã không ngừng là một câu hỏi cho tất cả chúng ta : "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?". Câu hỏi đó Chúa không ngừng đặt ra cho chúng ta và yêu cầu chúng ta sống đúng với niềm tin của mình. Ai trong chúng ta cũng trả lời được Chúa Giêsu là ai ? Là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa đến trần gian để dạy bảo Tin Mừng, để cứu chuộc chúng ta. Rồi đến lượt chúng ta, qua cuộc sống của mình, chúng ta cũng luôn là câu hỏi cho những người chung quanh. Dù âm thầm ẩn dật đến đâu, dù bé nhỏ vô danh đến đâu, sự hiện diện của chúng ta cũng luôn là một câu hỏi cho những người chung quanh. Nghĩa là nhìn vào đời sống chúng ta, họ bảo chúng ta là ai ?

Thực vậy, giữa một xã hội đầy giành giật, đầy bon chen, lấy tiền bạc làm khuôn vàng thước ngọc, người Ki-tô sẽ vẫn là một câu hỏi, nếu chúng ta sống trong tinh thần khó nghèo, chấp nhận thua thiệt, mất mát hơn là bán đứng lương tâm để chạy theo điều phi pháp. Có một số người lấy hận thù, ăn miếng trả miếng làm luật sống, người Ki-tô sẽ mãi mãi là một câu hỏi, nếu chúng ta vẫn yêu thương với mọi người, sẵn sàng tha thứ và theo Chúa cho đến cùng. Giữa một xã hội mà nhiều người đang buông xuôi, thất vọng, người Ki-tô vẫn mãi mãi là một câu hỏi, nếu chúng ta biết sống lạc quan, tin tưởng vào một Đấng có tình yêu trong lịch sử con người. Giữa xã hội mà sự thành thật với nhau đã trở thành, một thứ xa xỉ phẩm, người Ki-tô sẽ mãi mãi là một câu hỏi, nếu chúng ta vẫn tiếp tục sống thành thật, sống tử tế, tốt đẹp với mọi người, ngay cả đối với chính kẻ thù của mình ...Sống như thế quả là không dễ, là một đòi hỏi cam go, nhưng Chúa đòi chúng ta phải cố gắng sống được như thế nếu chúng ta muốn là một Ki-tô hữu đúng danh, nếu chúng ta muốn làm chứng cho Chúa.

Trong tiểu sử của thánh Sác đơ Phu-cô kể rằng : sau khi từ Ma-rốc trở về, anh say sưa kể lại cho gia đình nghe những cuộc thám hiểm đầy kỳ thú của anh qua những khu rừng Phi châu, người chăm chú theo dõi câu chuyện hơn cả là một cô cháu gái chưa đầy 10 tuổi. Khi anh vừa kể xong, bất ngờ cô bé hỏi : "Thưa cậu, cháu thấy cậu làm được nhiều việc rất hay, thế cậu đã làm được gì cho Chúa Giêsu chưa?". Câu hỏi ấy như một luồng điện giật làm Sác đơ Phu-cô bất động. Từ bao lâu nay chưa ai đã khiến anh phải suy nghĩ nhiều như thế : anh đã làm được gì cho Chúa Giêsu ? Anh lục soát tâm hồn mình, anh chỉ thấy một lỗ hổng không đáy, anh đã phí phạm tất cả thời giờ và tuổi thanh xuân cho những cuộc ăn chơi trụy lạc và những danh vọng thấp hèn, mắt anh bỗng mở ra để thấy nỗi khốn khổ, nghèo hèn của mình. 

Ngày hôm sau, anh tìm đến xưng tội với một linh mục. Anh vào dòng khổ tu, ít lâu sau, anh xin đến Na-da-rét để sống trọn vẹn cho Chúa Giêsu. Một ngày kia, khi đang cầu nguyện sốt sắng trong phòng, bỗng anh nghe thấy từ căn nhà bên cạnh tiếng rên rỉ của một người Hồi giáo, nhớ lại gương bác ái của Chúa Giêsu, anh tự hỏi : tôi có thể giam mình cầu nguyện trong phòng trong lúc có những anh chị em chung quanh đang khốn khổ thất vọng chăng ? Thế là anh quyết định đến sống giữa họ, trở thành người anh em của họ, nhất là của những người cô đơn, lạc lõng, nghèo hèn. Những năm cuối đời, anh sống giữa sa mạc Sa-ha-ra, chia sẻ hoàn toàn cuộc sống cho những người cùng khổ, và chia sẻ đến giọt máu cuối cùng khi phát súng oan nghiệt của kẻ sát nhân bắn gục anh giữa lúc anh đang cầu nguyện. 

Mọi Ki-tô hữu chân chính đều phải tự hỏi mình : tôi đã làm được gì cho Chúa Giêsu ? Chúng ta cũng tự hỏi mình như thế. Qua bao nhiêu năm tháng cuộc đời, qua bao nhiêu nhiệm vụ lớn nhỏ đã hoặc đang đảm trách, qua bao nhiêu hồng ân đã lãnh nhận, tôi đã làm được gì cho Chúa Giêsu ? Không phải là cho Chúa Giêsu mãi đâu trên trời, nhưng là cho Chúa Giêsu đang tiếp tục ngự đến, đang tiếp tục hiện diện trong cuộc đời tôi, trong tâm hồn tôi, nơi những người anh em tôi, cũng là anh em của Ngài, nhất là những ai thấp hèn, cùng khổ. Tôi tự hỏi mình, mà chính Chúa Giêsu cũng hỏi tôi mỗi ngày : "Con đã làm được gì cho Cha ?", cũng có nghĩa là "Con đã làm được gì cho những người anh em bé mọn nhất của Cha ?". Mỗi người chúng ta hãy suy nghĩ và trả lời.

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP


GIÊSU - NGÀI LÀ AI?
Mt 16, 13 - 20

Paneion là tên gọi nguyên thuỷ của thành phố mà vào năm 2 trước công nguyên, tiểu vương Hêrôđê Philípphê II tái thiết và đặt tên là Xêdarê để kính nhớ hoàng đế Augustô. Chúng ta gọi thành này là Xêdarê Philípphê nhằm phân biệt với một thành Xêdarê khác ở miền duyên hải. Chính tại thành phố đa nguyên tôn giáo này, Phêrô - nhờ ơn mạc khải đến từ Thiên Chúa, đã dõng dạc tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kytô, Con Thiên Chúa hằng sống- một tước vị độc nhất vô nhị trong Tin mừng. 

Căn tính của Chúa Giêsu từ lâu luôn là câu hỏi lớn không chỉ đối với thời đại của Người mà còn cho mọi thời đại: "Giêsu, ông là ai?". Trên đường rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu luôn là đối tượng để mọi thành phần trong dân chúng thắc mắc và không ngừng tìm hiểu. Ngay Gioan Tẩy giả cũng không hiểu nổi người anh em của mình là người thế nào. Từ trong ngục tù, ông đã phái môn đệ đến hỏi xem ông em họ có phải là "Đấng phải đến" hay không (x. Lc 7, 20). Dân chúng thì lại thắc mắc : "Ông này là ai mà lại tha được tội" (x. Lc 7, 49). Ngay cả Hêrôđê vốn là một ông vua gian dâm, độc ác, xem thường luân thường đạo lý cũng phải suy nghĩ : " Ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế" (x. Lc 9,9). Thế nhưng sự thật về con người Giêsu vẫn chưa có câu trả lời xác đáng cho đến khi chính Chúa Giêsu đặt vấn đề này với các môn đệ. "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?". Với câu hỏi này, Chúa Giêsu muốn các môn đệ nói lên chính kiến của mình chứ không dựa theo dư luận quần chúng lúc bấy giờ. "Thầy là Đấng Kytô, Con Thiên Chúa hằng sống". 

Câu trả lời của Phêrô không chỉ là lời tuyên xưng niềm tin vào "Đấng được xức dầu", vào tôn hiệu Thiên Sai của Chúa Giêsu mà còn là chìa khoá mở vào đường chân lý cho hết những ai muốn thắc mắc và tìm hiểu cuộc đời và giáo huấn của Người. Tước hiệu "Con Thiên Chúa hằng sống" mà Phêrô tuyên tín không chỉ nói lên niềm tin của Giáo hội thời sơ khai mà còn nói lên mối dây liên hệ phụ tử giữa Chúa Cha và Chúa Giêsu, đồng thời cho thấy đó chính là sứ mệnh mà Chúa Giêsu lãnh nhận từ Thiên Chúa hầu đem ơn cứu độ cho nhân trần. 

Chúng ta thấy sở dĩ Chúa Giêsu không cho các môn đệ loan báo điều Phêrô vừa tuyên xưng không phải vì Người chối từ danh hiệu đó mà vì vào thời ấy, sử dụng tôn danh đó còn quá sớm; hơn nữa trong dân chúng, tôn hiệu đó được hiểu rất hàm hồ. Thật thế, trong quan niệm của dân chúng lúc bấy giờ, Đấng Mêsia là người được Thiên Chúa sai đến để giải phóng dân Người khỏi nô lệ, khỏi áp bức của ngoại bang, thiết lập vương quốc tại thế khởi đi từ Giêrusalem. Các môn đệ cũng hiểu như vậy. Chỉ khi chứng kiến cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Thầy, các ông mới hiểu rõ ý nghĩa "Đấng Mêsia Con Thiên Chúa hằng sống" là gì. 

Thật vậy, Đấng Mêsia của Thiên Chúa không theo nghĩa mà từ lâu dân chúng vẫn áp đặt, là đến để khôi phục vương quốc bằng sức mạnh, bằng quân sự, bằng tiền tài; trái lại, đó là Đấng luôn luôn lấy hoà bình, lấy yêu thương và lòng khiêm nhường làm kim chỉ nam cho hết những ai muốn mưu cầu xây dựng một vương quốc thánh thiện, công bình, bác ái và phục vụ tha nhân. Công dân của vương quốc đó phải là những ai biết "từ bỏ mình, vác lấy thập giá hằng ngày, liều mất mạng sống mình" bước theo Đức Vua khiêm nhường và tự hạ. Đấng Mêsia Con Thiên Chúa hằng sống là Đấng không đến để được người ta cung phụng mà là Đấng đến để phục vụ, đến để từ bỏ chính mình, để hiến dâng mạng sống mình vì nhân loại.

"Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?" vẫn là câu hỏi mà Chúa Giêsu muốn chúng ta trả lời. Đó chính là cách thế để chúng ta duyệt xét lại đời sống đức tin của mình trong tương quan với Thiên Chúa. Câu hỏi của Chúa Giêsu không ngừng vang lên trong tâm trí mỗi Kytô hữu như một lời mời gọi để họ luôn sống sao cho xứng đáng là môn đệ của Chúa ngõ hầu những ai đến với họ đều nhận ra căn tính đích thực - căn tính Kytô hữu, là hiện thân của Chúa Kytô nơi trần thế này.

Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb


CON NGƯỜI LÀ AI?
Mt 16,13-20

Một anh lính giải một nhà sư bị tù lên tỉnh. Anh ta có tính hay quên, nên vừa đi vừa lẩm bẩm, kiểm lại người và đồ đạc cho khỏi quên: "Khăn gói đây, dù đây, gông đây, lệnh toà đây, sư đây, mình đây. Khăn gói đây, dù đây, gông đây, lệnh toà đây, sư đây, mình đây..." Nhà sư biết đây là "dân thứ thiệt",nên tìm cách đánh lừa. Sư rủ anh lính vào quán uống rượu, nhậu thịt chó một bữa say mèm. Trong khi anh lăn quay ra ngủ, sư lấy dao cạo trọc đầu anh lính, tháo gông đeo vào cổ anh ta, rồi trốn mất. Khi tỉnh dậy, theo thói quen, anh lính kiểm lại hết mọi sự, miệng lẩm bẩm: "Khăn gói đây, dù đây, lệnh tòa đây, gông đây..." Đến đó anh giật mình thét lên:

- Còn nhà sư đâu mất tiêu rồi.

Anh ta cuống quít vo đầu, thấy đầu trọc lóc nên mừng rỡ la lên:

- Nhà sư đây rồi!

Anh ta chợt sực nhớ lại điều gì nên than thở:

- Quái lạ! Còn mình đâu mất rồi mà không thấy đâu?

Người lính đãng trí đã không nhớ mình là ai. Tuy nhiên trong đời sống, có nhiều lần chúng ta thật sự không nhớ mình là ai trong hành động, trong những việc chúng ta làm.

Trong bài Phúc âm, Chúa Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ qua từng giai đoạn. Đầu tiên Chúa hỏi về dư luận quần chúng, người ta gán cho Ngài biệt hiệu gì? Chung chung người ta cho rằng Chúa Giêsu là một tiên tri. Sau đó Chúa mới hỏi các môn đệ nghĩ Ngài là ai. Phêrô đã mau lẹ trả lời thay cho cả nhóm: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống." Chúa nói cho Phêrô biết, không phải tự bản thân ông biết được điều đó, nhưng chính Chúa Cha mạc khải cho ông điều đó. Dầu vậy, Phêrô hiểu biết chưa tới nơi tới chốn, tuy rằng Chúa đã trao cho ông chìa khoá Nước Trời. Chúa muốn tiếp tục tỏ cho các môn đệ thấy danh xưng Kitô đồng nghĩa với thánh giá đau khổ, tử nạn. Mạc khải này đã bị Phêrô lanh miệng từ chối, nên Chúa Giêsu đã quở mắng ông.

Chúa Giêsu không quan tâm đến điều người ta nghĩ Ngài là ai. Chúa dùng đó để mở đầu việc mạc khải chính mình cho các môn đệ. Khác với Chúa, chúng ta thường quá quan tâm đến điều người ta nghĩ về mình. Chúng ta tìm cách làm đẹp lòng người khác để được quý mến, ủng hộ. Chúng ta hùa theo đám đông để cầu an, khỏi bị để ý, chống đối. Vì thế chúng ta sống một cuộc sống giả tạo, không phù hợp với căn tính của mình. Thiên Chúa sai mỗi người vào thế giới với một sứ mệnh, cùng với những tặng ân cần thiết để hoàn thành sứ mạng. Sứ mạng và những tặng ân đó nói cho chúng ta biết mình là ai và phải làm gì. Chúng ta cần quan tâm đến điều đó, hơn là nhìn chung quanh để thấy người ta làm gì thì mình làm theo. Nếu Chúa ban cho khả năng lãnh đạo, có óc tổ chức, chúng ta cần đem tài năng đó để phục vụ giáo xứ cộng đoàn. Ngược lại, nếu Chúa chỉ ban cho chúng ta khả năng phục vụ, làm người thừa hành, chúng ta đừng ham hố danh lợi, trèo cao, giật cho được chức chủ tịch, trưởng ban nọ, ban kia, không làm được gì mà gây hại cho giáo xứ.

Chúa mạc khải cho các môn đệ rằng danh xưng Kitô mang ý nghĩa thánh giá, đau khổ, tử nạn. Danh tánh căn bản của mỗi người chúng ta là Kitô hữu. Cuộc sống của chúng ta chắc chắn không khác gì Chúa Kitô. Nếu danh xưng Kitô hữu là điều làm chúng ta hãnh diện, hy vọng, tin tưởng, thánh giá sẽ là vinh quang của chúng ta trong cuộc sống đời đời. Chúng ta hãy luôn ngước mắt chiêm ngắm Chúa Giêsu trên thánh giá, để khi đau khổ, khó khăn đến trong cuộc đời, chúng ta không lanh miệng chối bỏ như Phêrô, nhưng hân hoan reo vang như Phaolô: "Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô."

Lm Trọng Thưởng, CMC


NHẬN BIẾT VÀ YÊU MẾN THIÊN CHÚA
Mt 16,13-20

Lần dở Phúc Âm, chúng ta thấy ít nhất bốn trường hợp Chúa Giêsu được nhận biết và tuyên xưng là Con Thiên Chúa qua những người và hoàn cảnh khác nhau. Một của Nathanien khi Chúa khen ông thành thật (Ga 1,49). Một của viên đội trưởng khi thấy sự lạ giờ Chúa chịu chết (Mc 15,39). Một của các tà ma trong Phúc âm thánh Marcô (Mc 3,12); và một của Phêrô do ơn linh ứng của Thánh Linh trong bài Phúc âm hôm nay (Mt 16,16).

Qua bốn trường hợp trên chúng ta thấy ánh sáng của trời cao đã đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp con người nhận biết Thiên Chúa.

Đứng trong phòng, nhìn qua khung kính cửa sổ, chúng ta xem thấy người, vật, xe cộ qua lại và chúng ta nhận ra Thiên Chúa sống động trong những sinh hoạt đó; nhưng cũng tấm kính cửa sổ trên chỉ một lớp bạc, lớp thủy ngân được phủ lên, tấm kính cửa sổ đó đã trở nên tấm gương và thay vì nhìn thấy cảnh vật, người, sinh hoạt sống động, chúng ta sẽ chỉ nhìn thấy chúng ta.

Ngày nay con người cũng đang bị bao phủ bởi những lớp bạc đơn giản đó là tình, tiền, tài, danh giá, và tìm mình. Những lớp bạc đó đã làm con người chỉ nhìn thấy toàn là mình, mà không nhận ra Thiên Chúa trong các sự vật và hoàn cảnh chung quanh.

Như Gia-kêu xưa đã bị lớp người vây quanh Chúa làm cản trở ông không xem thấy Chúa. Ông đã biết trèo lên cây cao để nhìn xem Chúa. Chúng ta cũng cần biết vượt lên cao khỏi những ràng buộc thế tục làm cản trở chúng ta nhận biết Chúa.

Như bà Vêrônica xưa nơi chặng đường thương khó thứ sáu, đã nhận ra Chúa sau những vết bụi bặm, máu me, đất cát dính vào, chúng ta cũng biết nhìn ra Chúa sau những khuyết điểm, những lầm lỗi của anh chị em. Và như bà Vêrônica đã can đảm với lòng yêu dám lau mặt Chúa để khuôn mặt trung thực của Chúa được rõ ràng hơn; chúng ta cũng cần có can đảm và tình yêu dám giúp đỡ anh chị em sửa chữa những khuyết điểm, để hình ảnh Thiên Chúa nơi anh chị em chúng ta được thể hiện mỗi ngày một trung thực hơn.

Nhận biết Thiên Chúa là một ơn Chúa ban, nhưng để lãnh nhận được ơn đó đòi phải có những điều kiện thoả đáng. Đứng trước máy xay lúa và trong khi nhìn gạo chuyển từ máng vào bao, chúng ta rút ra được những bài học sau:

1. Một cách thông thường, bao ở bên dưới máng chuyển. Điều kiện khiêm nhường.

2. Miệng bao phải mở. Nếu miệng bao bịt kín, gạo không thể vào được. Điều kiện cởi mở sẵn lòng đón nhận.

3. Lòng bao trống rỗng. Nếu bao đầy thứ khác rồi thì không thể dồn gạo thêm được. Điều kiện trống rỗng.

Điều kiện thứ nhất: Khiêm nhường: Nói một cách tổng quát, Thiên Chúa không làm gì khác trật tự nhiên: nước mưa rớt xuống trên đỉnh đồi cũng như ở thung lũng, nhưng lưu lại ở thung lũng. Ơn Thiên Chúa cũng xuống kẻ kiêu ngạo cũng như người khiêm nhường, nhưng lưu lại nơi tâm hồn khiêm nhu.

Điều kiện thứ hai: Sẵn lòng đón nhận. Lần kia một thanh niên đến xỉ vả Đức Phật nặng lời. Đức Phật bình tĩnh lắng nghe và sau khi chàng thanh niên dứt lời, Ngài hỏi: "Cho phép tôi hỏi anh một câu nhé. Nếu một tặng vật được tặng mà không có người nhận thì tặng vật đó thuộc về ai?". Chàng thanh niên đáp: "Nó sẽ trở về với chủ của." Đức Phật liền nói: "Vậy những điều anh nói với tôi vừa rồi, tôi không nhận. Xin anh hãy giữ lại cho riêng anh." Câu truyện trên cho chúng ta bài học về đức ái: Hãy cho những gì anh chị em có thể đón nhận được. Hơn nữa, nó còn nói lên tính cách quan trọng của việc đón nhận để giúp hoàn tất việc trao ban. Theo Thomas Merton, người ta không thể cho nếu không có người nhận. Ơn Thiên Chúa tuy nhiều, nhưng nếu lòng con người không cởi mở, không đón nhận thì ơn Thiên Chúa vào sao nổi.

Điều kiện thứ ba: Trống rỗng. Một giáo sự đại học đi tìm ý nghĩa cuộc sống. Sau nhiều năm và nhiều dặm đường, cuối cùng ông tới gặp một vị ẩn sĩ xin chỉ giáo. Vị ẩn sĩ dẫn ông vào lều, và mời ông dùng trà. Vị ẩn sĩ rót đầy tách trà, và tiếp tục rót làm nước tràn xuống cả sàn nhà. Ông giáo sư chăm chú nhìn nước chảy cho tới khi không thể chịu đựng thêm được nữa, ông nói: "Dừng lại! Đầy rồi, không thể thêm nữa". Vị ẩn sĩ trả lời: "Như tách nước trà này, lòng ông đầy những tư tưởng, quan niệm, thành kiến... Nếu lòng ông trước hết không trống rỗng, làm sao tôi có thể giúp gì cho ông?". Con Thiên Chúa và tinh thần thế gian không thế sống chung hoà bình. Nếu lòng con người còn mang nặng tinh thần thế gian thì ơn Thiên Chúa đau có chỗ đứng.

Nhận biết và tuyên xưng Con Thiên Chúa là một ơn quan trọng, vì nhận biết là một trong ba yếu tố: biết, tốt và hợp để dẫn tới tình yêu. Cha ông ta thường bảo: "Vô tri bất mộ", không biết thì không mến, chúng ta không thể mến yêu một người mà chúng ta không hề quen biết, nhưng nếu chỉ nhận biết không mà thôi thì chưa đủ, chưa trọn vẹn. Vì biết thì chưa chắc đã mến, ma quỉ nhận biết Thiên Chúa rõ ràng (xem Mc 3,12), nhưng chúng đâu có mến yêu Thiên Chúa.

Hẳn không ai trong chúng ta muốn nhận biết Thiên Chúa để rồi thù ghét Ngài như ma quỉ, nhưng cũng phải nhận rằng chúng ta chưa nhận biết và yêu mến Chúa cho đủ. Vậy chúng ta cùng cầu nguyện cho nhau để sau khi nhận biết Thiên Chúa, chúng ta biết đem hết tâm hồn yêu mến Chúa là Đấng đã chết vì yêu chúng ta.

Lm Louis Minh Nhiên, CMC (nguồn vietcatholic.org)

2309    20-08-2011 20:35:04