Sidebar

Thứ Sáu
03.05.2024

Chúa Nhật XXIV Thường Niên B năm 2015

CHÚA GIÊSU LÀ AI TRONG CUỘC ĐỜI TÔI?
Mc 8, 27 - 35

Nhìn thấy Chúa Giêsu làm nhiều phép lạ, nhiều người Do thái đã băn khoăn tự hỏi :
- Liệu Ngài có phải là Đấng Cứu Thế hay không?
Nhất là trong hoàn cảnh họ đang phải sống dưới ách thống trị của đế quốc La mã, họ trông chờ một Đấng Cứu Thế đến giải phóng họ và đem lại cho quê hương họ sự phồn thịnh.

Theo mong ước của nhiều người Do thái thì Đấng Cứu Thế là một vị anh hùng dân tộc, đến đánh đuổi quân ngoại xâm. Ngài sẽ là người dùng quyền lực thống trị các dân, trừng phạt những người tội lỗi và quân ngoại xâm. Đàng này, Đấng Cứu Thế Giêsu đến lại tỏ ra nhân từ với hết mọi người, kể cả người tội lỗi và dân ngoại. Tuy Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền và làm những dấu lạ chưa ai từng có. Tuy nhiên, Ngài lại không chấp nhận làm vua, làm Messia theo quan niệm của họ. Và họ bất đồng quan điểm khi nhận xét về sứ mạng của CG. Người thì nói CG là Gioan Tẩy Giả sống lại, kẻ thì bảo là Elia, số khác cho là một trong số các tiên tri. Họ không nhận ra Đức Giêsu là Messia, Con Thiên Chúa làm người!

Bấy giờ, Đức Giêsu hỏi các môn đệ xem họ đã hiểu lời dạy, hiểu thân thế của Ngài đúng chưa. Thật không bỏ công khó nhọc của Đức Giêsu, Pr đã trả lời chính xác: Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống. Các Tông đồ khác cũng đồng ý với câu trả lời của Phêrô như vậy. Tuy nhiên, các Tông đồ cũng chưa thật sự hiểu rõ bản tính và sứ mạng của Đức Giêsu. Có lẽ họ cũng chịu ảnh hưởng của quan niệm dân chúng bấy giờ: Messia là vị cứu tinh Dân tộc Do thái, họ nghĩ đơn giản như vậy, họ chưa nhận ra vai trò cứu chuộc nhân loại của Đức Giêsu và những đau khổ người phải chịu để đền thay vì tội lỗi nhân gian. Bằng chứng là sau đó, khi Đức Giêsu công bố về cuộc khổ nạn thì Phêrô liền can gián: Thầy không phải như vậy đâu! Nhưng Đức Giêsu quay lại quở trách Phêrô và các môn đệ: các con không biệt việc Thiên Chúa làm mà chỉ biết việc loài người. Đã theo Đức Giêsu thì không tìm lợi danh đời này. Ai theo ta thì hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta. Ai lo cho mạng sống đời này thì sẽ mất nó, nhưng ai biết hy sinh mạng sống vì Chúa thì Người sẽ ban cho hạnh phúc vĩnh cửu bên Ngài. Ai gắn mình với vật chất chóng qua thì sẽ tàn tạ như nó. Còn ai gắn bó với Đấng Vĩnh Cửu thì được Thiên Đường làm nơi cư ngụ.

Mỗi người chúng ta hôm nay hãy thử trả lời câu hỏi của Đức Giêsu: còn con, con bảo Thầy là ai? Đối với tôi, Đức Giêsu là ai? Hiện giờ tôi theo Chúa vì lý do nào? Tôi theo Chúa vì nhận ra Chúa là Thiên Chúa duy nhất, là Đấng hứa ban cho tôi sự sống đời đời hay tôi theo Chúa đề Ngài ban cho của cải, giàu sang, địa vị đời này? Tôi theo Chúa mà tôi có sống theo Tám Mối Phúc thật: phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, hiền lành, khóc lóc, khao khát nhân đức trọn lành, biết xót thương kẻ khác… tôi có coi Chúa trên của cải vật chất, coi Chúa hơn ý riêng của mình, hay có khi nào tôi coi trọng tiền bạc, của cải hơn Chúa không?

Nhiều khi chúng ta theo Chúa, nhận ra Chúa là Đấng Cứu Thế, nhưng cũng như Phêrô và các tông đồ trong Tin Mừng hôm nay: muốn can ngăn Chúa, không muốn Ngài vác thánh giá, không muốn Ngài đau khổ. Như vậy, khi đi theo Chúa, bắt chước Chúa, chúng ta cũng không phải vác thánh giá, không phải chịu đau khổ với Ngài. Chúng ta hãy xem Đức Giêsu có đồng ý với các Tông đồ như vậy không? Ngài chẳng những không đồng ý mà còn khiển trách Phêrô nữa: Satan, con hãy lui lại đàng sau Thầy. Đức Giêsu không đồng ý với các Tông đồ vốn muốn ngài làm một Messia an nhàn. Ngài cho biết đó là cám dỗ của Satan. Ngài cũng như những người đi theo ngài phải chọn con đường thập giá. Chính thánh giá mới đem lại bình an hạnh phúc. Ai không nép mình sống theo 10 Điều Răn mà tự mình sống buông thả theo ý riêng thì sẽ gặt hậu quả rất tệ: mất hạnh phúc đời đời, vì đã không đi trên con đường Đức Giêsu đã đi.

Vậy, để hưởng ơn cứu chuộc của Đức Giêsu, chúng ta hãy tuyên xưng rõ trong lòng mình như thánh phêrô hôm nay: Thầy Đấng Kitô, Đấng Cứu Độ đời con, con xin đi theo Ngài trên mọi nẻo đường dù là đường êm ả hay đường chông gai, để mai sau, Đức Giêsu ở đâu con cũng được ở nơi đó, Chúa được hạnh phúc nào thì con cũng được tham dự vào hạnh phúc đó với Chúa.

CHỌN LỰA MỘT CON ĐƯỜNG
Mc 8, 27 - 35

Trong quyển sách “Niềm vui sống đạo”, Đức Cố Hồng Y PX. Thuận đã kể ra được 10 “khuyết điểm” của Chúa Giêsu. Và ngài nói là ngài yêu lắm 10 “khuyết điểm” ấy. Một trong 10 “khuyết điểm” mà Chúa Giêsu mắc phải Ngài “không biết làm kinh tế”. Chúa Giêsu đã coi 1=99. Khi Ngài thấy mất một con chiên trong đàn thì lại bỏ 99 con kia lại để đi tìm cho bằng được con chiên bị mất. Hơn nữa, Chúa Giêsu cũng không biết cách tiếp thị và quảng cáo. Quảng cáo mời gọi người ta đến với mình thì phải tìm cái gì đó hấp dẫn và lôi cuốn bằng cách “tô son” lên những điều mình nói một chút. Đằng này Chúa Giêsu lại nói: “Ai muốn theo tôi, thì hãy từ bỏ mình, vác thập mình mà theo” (Mc8, 34). Quảng cáo và chiêu mộ lính kiểu này thì “thua” là cái chắc! Bởi lẽ, nghe nói đến thập giá thì ai mà chẳng sợ. Chẳng ai háo hức ôm lấy thập giá vào mình bao giờ! Hơn nữa, theo Thầy tưởng đâu được cái gì hấp dẫn một chút như lãnh vài triệu đồng một tháng, được người ta kính trọng, hoặc có địa vị cao trong xã hội hay cái gì đại loại như thế. Chứ theo Thầy mà chỉ có vác thập giá thôi thì dại gì mà liều mạng như thế! Như vậy, xem ra Chúa Giêsu dở hơn con người ngày nay trong chuyện làm ăn và quảng cáo nhiều lắm!

Nhưng Chúa Giêsu không đến trần gian để làm kinh tế! Ngài cũng không biết dùng ngôn ngữ của quảng cáo của con người thường làm để tô son cho mình và sứ vụ của mình. Ngài đến trần gian với một sứ mạng duy nhất là “nói lên Sự thật, sống cho Sự thật và làm chứng cho Sự thật” (x. Ga 18,37). Ngài đã nói như thế trước mặt tổng trấn Philatô. Và đặc biệt, trong những năm tháng ra đi rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa, Ngài đã từng lớn tiếng nói rằng: “Sự thật sẽ giải phóng các ngươi” (Ga 8,32). Philatô đã hỏi Chúa Giêsu: “Sự thật là cái gì?”. Nhưng Chúa đã không trả lời ông ta câu hỏi đó. Bởi lẽ, Sự thật chính là bản thân của Ngài. Ngài là hiện thân của Sự thật. Từng lời nói, từng hành động và trọn cuộc sống của Ngài đều là Sự thật trọn hảo!

Tin mừng hôm nay chỉ cho chúng ta thấy có rất nhiều nội dung, nhiều vấn đề nói lên Sự thật nơi Thiên Chúa. Nhưng tôi xin chọn câu nói mà Chúa Giêsu xem ra rất thao thức, rất tha thiết mời gọi chúng ta thực hiện nó trong cuộc sống của chúng ta. Ngài nói rất rõ rằng: “Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35). Đó là sự thật, một Sự thật trọn hảo dành cho những ai dám dấn thân vào con đường của sự hy sinh và từ bỏ- Con đường Thập giá.

Có lẽ việc chọn lựa cho mình một con đường sống là cần kíp và chính đáng nhất trong cuộc đời của mỗi con người. Theo thói thường thì ai cũng muốn có một cuộc sống dễ dàng, một cuộc sống tiện nghi, sung túc và vui vẻ. . .Nhưng có điều là một cuộc sống dù đáng ước mơ như thế cũng không có gì đảm bảo cho con người ta được sống hạnh phúc. Vì hạnh phúc đích thực không thể tìm thấy được nơi cuộc sống ở trần gian. Thế nhưng, nhiều người lại say mê và đi ra sức tìm kiếm để sở hữu nó! Biết bao nhiêu cố gắng và khó nhọc của con người nhằm tìm kiếm và giữ lại hạnh phúc trần gian đều tan biến. Bởi vì, “con người từ đất mà ra thì cũng phải trở về với đất bụi” (x. St 3, 19). Và con người đã không mang gì vào trần gian thì cũng đừng mong đem gì ra khỏi chốn gian trần. Điều chắc chắn duy nhất là: “ba tấc đất mới thật là nhà, nơi nó ở muôn đời muôn kiếp” (Tv 49, 12).

Con đường đưa con người tới hạnh phúc thật chính là con đường “liều mất mạng sống mình vì Chúa Giêsu và vì Tin mừng”. Nói cách khác, đó là con đường của Thập giá. “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất”. Kẻ yêu mạng sống mình thì chỉ biết sống cho mình, muốn được mọi người nhìn nhận và phục vụ cho mình. Đó là con đường sống được lót bằng những chiếc thảm hoa êm ái và rực rỡ nhưng sẽ dẫn con người ích kỷ đi tới hố diệt vong. Thật bất hạnh cho những người chỉ biết yêu mình, qui hướng về mình và sống cho riêng mình!

Trong Thần thoại Hy Lạp có kể câu chuyện về một anh chàng có tên là Narcise. Narcise là một chàng trai trẻ đẹp không còn chỗ nào chê được, và cũng không có dung mạo của ai có thể so sánh với anh ta được. Anh ta cũng nhận ra điều đó nên rất tự hào về chính mình. Dần dần anh ta khám phá ra là không ai xứng đáng để anh ta kết bạn cả. Cuối cùng, anh ta chỉ còn cách là quay trở lại để yêu chính mình. Anh ta đã yêu mình cách tha thiết và say mê mình ngây ngất đến độ quên hết mọi sự. Ngày đêm lo tìm cách để nhìn ngắm mình cho đã thèm! Bất cứ nơi đâu có thể soi mình được là anh ta không tiếc thời gian để nhìn ngắm mình cho thoả lòng khao khát. Một hôm, anh ta đi ngang qua một cái giếng sâu, có nước rất trong xanh. Anh chàng Narcise liền soi mình dưới lòng giếng sâu. Tiếc thay, vì không kìm chế được lòng say mê vẻ đẹp của mình, nên anh ta đã lao mình xuống lòng giếng để ôm lấy mình. Nhưng khốn khổ thay, anh ta đã chết chìm một mình trong lòng giếng ấy.

Câu chuyện trên muốn đem đến cho chúng ta một thông điệp này là: kẻ nào quá yêu mình và say mê mình thì khó có thể tránh được cái chết trong cô đơn và tủi nhục. Đó cũng chính là sứ điệp mà Tin mừng hôm nay gửi đến chúng ta: “Ai yêumạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.

Chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta biết can đảm chọn lấy con đường “thập giá” và vui vẻ vác lấy thập giá đời mình để theo Chúa đến cùng. “Vác thập giá” theo Chúa là chu toàn việc bổn phận của mình hằng ngày, là trung tín sống niềm tin tưởng phó thác vào Chúa qua mọi biến cố buồn vui trong cuộc sống của mình.

Ước gì Lời của Chúa hôm nay luôn vang vọng mãi trong từng ngày sống của chúng ta để chúng ta để chúng ta được sáng suốt nhìn thấy con đường mà Chúa Giêsu đang mời gọi và chờ đợi ta bước theo Ngài, ngõ hầu mai sau được Chúa cho đứng vào hàng ngũ những người Chúa chọn và tìm được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Amen.

CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN.
Mc 8, 27 - 35

Có một đoàn lữ hành đặt biệt, đang vượt chặng đường dài với hành trang trên vai. Nhưng hành trang không phải bình thường, mà là, mỗi người mang một cây Thánh Giá. Địa hình của chặng đường khi thì bằng phẵng, khi thì rất khó khăn, nên mọi người đều thấm mệt. Trong số đó, có một người bổng có một suy nghĩ rất hay. Anh ta cắt bớt đi một phần của cây Thánh Giá. Cũng từ đó anh ta bước đi nhẹ nhàn thoải mái hơn bao nhiêu người khác. Anh ta rất hài lòng về sáng kiến của mình. Nhưng rồi, khi đến một con suối, không có phương tiện gì để vượt qua, mỗi người chỉ còn cách dùng cây Thánh Gia làm chiếc cầu để vượt qua, sau đó, vát Thánh Giá và tiếp tục lên đường. Còn cây Thánh Giá đã mất đi một phần, giờ đây không còn xử dụng được trong trường hợp nầy, nên chủ nhân của nó đành phải ngồi lại bên bờ vực, một mình, cô đơn mà nhìn mọi người từ từ rời xa mình.

"Mọi người chung quanh bảo Thầy là ai ?" Tất cả mọi câu trả lời đều không được Chúa Giêsu chấp nhận. "Còn các con, các con bảo Thầy là ai ?" -- "Thầy là Đức Kitô". Một câu trả lời được Chúa Giêsu chấp nhận. Nhưng rồi khi nghe Ngài nói về cuộc khổ nạn, thì cũng chính môi miệng đó, cũng chính con người đó, lại bị khiển trách nặng nề. Ngài gọi là satan có nghĩa là kẻ thù, vì đã ngăn cản việc làm của Thiên Chúa.

Phêrô đã theo Chúa Giêsu, nhìn thấy và biết những việc làm của Ngài. Oâng cũng mới vừa được khen, ông ngở rằng những gì ông suy tính đều tốt đẹp, nên ông muốn hướng dẫn Đấng ông vừa tuyên xưng là Đức Kitô đi theo con đường của ông. Oâng theo Chúa nhưng sợ con đường mà Ngài dẫn đi, sợ những hành trang mà Ngài trao cho. Theo Chúa nhưng ông muốn mang những hành trang của chính mình, đi trên con đường của riêng mình và ông đòi Chúa phải ở bên ông. May thay, lời quở trách đã làm ông thức tỉnh, bài học tiếp theo đã hướng dẫn và giúp ông đi đến nơi đến chốn bình an. "Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất".

Tâm trạng của Phêrô, cũng là tâm trạng cuả mỗi ngưới chúng ta. Trong cuộc sống hằng ngày, ai cũng muốn tìm cho mình sự thoải mái, sung sướng cho thân xác. Chúng ta vẫn tự hào là người Công giáo. Chúng ta vẫn biết vác thập giá hàng ngày theo Chúa. Chúng ta biết rất rỏ những gì Thiên Chúa muốn nơi con người chúng ta. Đôi khi chúng ta còn tự hào vì mình luôn vác Thánh giá hằng ngày theo Chúa. Chính những lúc tự hào như thế, là những lúc chúng ta có hành động như Phêrô: kéo Ngài ra để khuyên can.

Cũng nhiều lần trong cuộc sống, Chúa Giêsu khiển trách chúng ta như đã khiển trách Phêrô ngày xưa. Phêrô biết lắng nghe, còn ngày nay, chúng ta vẫn phớt lờ, vẫn sống với niềm tự hào của chính mình và bước đi trong niềm tự hào đó.

Chúng ta vẫn sống, vẫn giữ đạo, hay nói cách khác là đang vác Thánh Giá hằng ngày theo Chúa. Nhưng coi chừng cây Thánh đã bị mất đi một phần. Bao nhiêu lần nó đã bị cắt mất đi vì những luồn lách của cuộc sống. Những lần thân xác được dung dưỡng để nó được thoải mái trong những cuộc vui không chính đáng. Những lần thân xác cảm thấy thỏa mản khi đạt được mục đích lợi nhuận mà bất cần đến sự chính đáng hay không chính đáng. Những lần chúng ta không chu toàn trách nhiệm chính đáng của một người trong xã hội, trách nhiệm của một người công giáo, trách nhiệm của mình trong gia đình, và với bao nhiêu người chung quanh. Đôi lúc chúng ta cũng mĩm cười mãn nguyện, vì cảm thấy mình khôn ngoan hơn bao nhiêu người khác vì những trò vặt như thế. Đó là những lần chúng ta đã cắt bớt đi Thánh giá cuộc đời của mình, để nó được nhẹ nhàn hơn. Chính những lúc thất bại, bị người đời chỉ trích, những lúc đó nếu biết lắng nghe, đó là lúc Chúa khiển trách và bảo chúng ta vác Thánh Giá hằng ngày theo Chú; những lúc đó Chúa cũng nói với chúng ta: “ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất”. Nếu chúng ta không biết lặng thinh khiêm nhường cuối đầu nhận tội như Phêrô, thì chúng ta cũng sẽ không có được cuộc sống tốt đẹp như Ông.

Xin Chúa cho chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa, xin cho chúng ta biết chấp nhận cuộc sống để biết vác Thánh Giá hằng ngày theo Chúa cho đến cùng.

CHÚA GIÊSU LÀ AI ÐỐI VỚI TÔI?
Mc 8, 27 – 35

Giả như có một ngày, chúng ta nhận được một cú điện thoại bảo chúng ta tới một địa điểm nào đó và gặp một người như mô tả qua điện thoại để nhận một món quà lớn. Luùc ñoù chúng ta sẽ suy nghĩ và đắn đo nhiều. Bởi lẽ, chỉ qua điện thoại làm sao sự tin tưởng của chúng ta trọn vẹn được.

Ðúng vậy, ông bà chúng ta có nói vô tri bất mộ nghĩa là không biết thì không thể tin được. Ðoạn tin mừng hôm nay cho thấy sau một thời gian Chúa Giêsu công khai ra đi rao giảng, hôm nay Người muốn xem dư luận biết mình là ai. “Người hỏi các môn đệ: Người ta nói Thầy là ai? Các ông đáp: Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó." (Mc 8, 27b 28).

Ðó là cái nhìn của những người ngoài. Giờ đây Chúa Giêsu trắc nghiệm cái nhìn của các môn đệ thân tín của mình “Người lại hỏi các ông: Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? Ông Phê-rô trả lời: Thầy là Ðấng Ki-tô." (Mc 8, 29)

Chúa Giêsu chính là Ðấng Kitô của Thiên Chúa Giavê - một Ðấng Kitô tôi tớ. Chính tiên tri Isaia đã loan báo về Người trong bài đọc 1: ÐỨC CHÚA là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. Tôi đã đưa lưng cho người đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ”. (Is 50, 6)

Chúa Giêsu đến trần gian hoàn toàn do ý định của Thiên Chúa Cha. Ý định hoàn tất tình thương của Thiên Chúa dành cho con người. Do đó, Chúa Giêsu một mực vâng theo thánh ý nhiệm mầu của Cha. Ðể từ đó con người được đón nhận trọn vẹn ơn cứu chuộc.

Thánh Phêrô cũng như các Tông đồ mặc dù tuyên xưng Chúa Giêsu đúng như Người là nhưng các ông chưa cảm nghiệm thật sự về Người. Chỉ sau biến cố Phục sinh của Chúa Giêsu các ông mới cảm nhận sâu sắc về Người. Cho nên, các ông dám liều mình vì Chúa và vì Tin mừng.

Có nhiều mức độ để biết về một ai đó. Trong đó cái biết trong tim là mức độ cao nhất. Cái biết đó sẽ làm thay đổi cách sống của con người ta. Cái biết đó sẽ làm cho người ta bạo dạn hơn. Cái biết đó sẽ là cho người ta tin tưởng và dấn thân trọn vẹn hơn. Có thể từ lâu chúng ta chưa thật sự biết Chúa Giêsu đến mức độ này nên cuộc sống của mình vẫn chưa được biến đổi nhiều. Hãy xin Chúa Giêsu cho chúng ta mỗi ngày được biết Người bằng chính con tim của mình. Nhờ đó, đời sống đức tin của chúng ta sẽ ngày càng tốt hơn.

CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN B
Mc 8, 27 - 35

“Còn anh em, anh em gọi Thầy là ai”? (Mc 8, 29)

Thánh Phêrô đại diện trả lời: “Thầy là Đức Kitô”, câu trả lời mạnh mẽ và chính xác nhưng kết quả là một lời sửa dạy: tư tưởng của con người không phải là tư tưởng của Thiên Chúa và một bài học từ bỏ mình. Chúa Giêsu hỏi các môn đệ của Ngài cũng là hỏi chính bản thân mọi người theo Ngài và Ngài cần có câu trả lời. Không chỉ bản thân mình nhận ra và tuyên xưng Chúa Giêsu là ai mà còn phải trả lời cho người khác biết Ngài là ai.

Kitô hữu là người có Chúa Kitô, đương nhiên gọi Chúa là Chúa, là Thầy và là Đức Kitô; Đấng đã cứu chuộc, luôn ban ơn và yêu thương con người. Dù có gọi Chúa là ai đi nữa điều quan trọng là xác tín mạnh mẽ và sống điều mình tuyên xưng. Giữa biết và sống thường có một khoảng cách, có khi biết rất nông cạn và không rõ nên cần có ơn Chúa, nổ lực của bản thân học hỏi và gắn bó mật thiết với Chúa. Vì vậy làm sao cho hai điều này hoà hợp trở nên một thì mới có trở thành một người kitô hữu đích thực. Sống đời kitô hữu là một đòi hỏi, đó là “từ bỏ mình” để sống theo ý Chúa. Thái độ của thánh Phêrô là thái độ của nhiều người kitô hữu, tuyên xưng niềm tin của mình một cách rõ ràng và mạnh dạn nhưng khi biết được ý Chúa thì ngại ngùng, ngăn chặn và từ chối thánh ý của Thiên Chúa. Trong đời sống của người kitô hữu cũng vậy, gần Chúa hằng ngày như đọc kinh, xem lễ, làm việc bác ái….nhưng rồi có lúc lại là vật cản cho chương trình của Chúa muốn thực hiện cho bản thân mình và cho người khác. Tuyên xưng niềm tin thì dễ nhưng để sống niềm tin này đó là “thánh giá” hằng ngày.

Từ bỏ mình và vác thánh giá mình hằng ngày theo Chúa là sống ý Chúa, không phải để chịu đau khổ nhưng là con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực. Điều còn lại là làm sao cho những người xung quanh nhận ra hạnh phúc đích thực này. Có thể nói đạo Công Giáo đã quen thuộc với thế giới và xã hội ngày hôm nay. Hạnh phúc đích thực của đời người là có Chúa nhưng còn rất nhiều người đứng bên ngoài nhìn vào, không muốn vào hay ngần ngại đón nhận hạnh phúc này. Có phải Chúa quá xa lạ hay cách sống của người kitô hữu xa lạ với ý của Chúa?

Lạy Chúa, xin cho mỗi người con của Chúa sống xứng đáng với Chúa khi mang danh Hữu Kitô. Can đảm từ bỏ mình, kiên trung vác thánh giá đời mình để được hạnh phúc đích thực của Chúa và cho những người khác cũng được hưởng hạnh phúc này.

TRẢ LỜI CHO CÂU HỎI LỚN
Mc 8, 27 - 35

“CÒN ANH EM, ANH EM BẢO THẦY LÀ AI?” Đây là câu hỏi đơn giản, nhưng là câu hỏi lớn cho mỗi kitô hữu. Câu hỏi ấy như là cửa ngõ dẫn vào đời sống đức tin. Đây là câu hỏi đang chờ đợi câu trả lời mang tính quyết định cho số phận đời đời. Chúa Giêsu đòi buộc đích thân các tông đồ phải xác định dứt khoát. Có lẽ trước đây có nhiều nhận định khiến Chúa Giêsu không hài lòng. Người làng Nagiaret chỉ xem Ngài là bác thợ mộc. Gioan Tẩy Giả giới thiệu Ngài như một Đấng Mêssia uy quyền đáng sợ. Ngài muốn mỗi người có cách trả lời như Phêrô: “Thầy là Đấng kitô?” Câu trả lời đúng đắn sẽ là định hướng chắc chắn níu kéo ta dấn bước theo Ngài.

Biết  để đi theo Thầy

Sự hiểu biết  đúng đắn đòi hỏi một sự dấn thân chia sẻ  sứ mạng với Thầy. Chúa Giêsu tỏ ra rất vội vả muốn các tông đồ hiểu được sứ mạng của mình: “Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế cùng Kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại”. Chúa Giêsu mong muốn các ông chớ lầm tưởng về sứ mạng của Ngài sẽ đem đến vinh quang theo trần thế. Ngài không muốn con người khuất phục bằng chiến thắng vinh quang nhưng bằng tình yêu tận hiến.

Đi theo Thầy là bước theo lối mòn Chúa Giêsu đã qua. Lối mòn ấy được diễn tả là hy sinh, thập giá, khổ đau, cái chết. Mỗi người bước đi theo Chúa đã nhiều năm, chắc đã cảm nghiệm được bao sướng khổ của chặng đường. Ta biết rõ Ngài là Đấng kitô nhưng có khi ta cho Ngài là một quan toà quá nghiêm khắc khi phải đối diện. Có khi ta cho Ngài là một chướng ngại vật làm chậm bước tiến trên đường công danh sự nghiệp. Chúa Giêsu là Thiên Chúa còn dám từ bỏ vinh quang trời cao để sống với con người. Thế sao con người không dám từ bỏ trần đời để sống với Ngài trong tình mến?

Biết  để ở lại với Thầy

Việc ở lại là hành động muốn gắn bó với Chúa lâu dài. Dẫu trời lúc nắng lúc mưa, dẫu đường đời vui buồn sướng khổ nhưng người môn  đệ vẫn quyết tâm sống gắn bó với Thầy. Ta biết Chúa nhiều, được ban ơn nhiều, được tha thứ nhiều, ta không thể nào là thứ tông đồ hạng hai cứ đứng xa xa nhìn Chúa vác thập giá một mình. Ở lại với Thầy là biết trông cậy khi gặp khổ đau, biết quay về khi lầm đường lạc lối, biết làm hoà kịp lúc khi gặp oán trách buồn đau.

Trần gian có  quá nhiều lời mời mộc để ở lại nó: ở lại trong tội lỗi, ở lại trong những đam mê chóng qua, ở lại trong hận thù. Người môn đệ cần nhớ về một lời mời gọi khác đáng tin tưởng hơn “Anh em sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian”.

Biết  để được sống lại với Thầy

Sống lại với Thầy là cùng đích cho đời sống kitô hữu. Điều kiện để sống lại Chúa Giêsu đã nói rõ: Ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy. “Liều” được nói đến không phải nhắm mắt đưa chân cầu xin may rủi nhưng là sự quyết tâm dấn bước theo Ngà: dám sống niềm tin mạnh mẽ giữa hoàn cảnh còn nhiều cấm cách; dám sống thật giữa cuộc đời còn nhiều dối gian; dám sống theo lương tâm ngay lành giữa lúc con người chỉ biết đến “lương lẹo” và “lương tháng”.

Lời mời gọi  đi theo Chúa phải vác thập giá, muốn cứu mạng sống phải liều mất nó, khó nghe nhưng rất chân thành. Muốn có hạnh phúc con người phải kinh qua đau khổ. Hạnh phúc càng lớn thì con người càng lắm gian nan. Chấp nhận thập giá khổ đau không phải Chúa muốn con người đi vào tàn lụi nhưng đó  là điều kiện để con người khám phá  ra hạnh phúc vững bền. Cái chết cho Tin Mừng không là sự tận diệt nhưng là điều kiện để con người được tái sinh và đi vào đời sống vĩnh cửu. Chúa Giêsu là  ai? Câu hỏi vẫn cứ đặt ra và chờ đợi câu trả lời nơi từng người tín hữu. Mức độ dấn thân để chia sẻ thân phận với Thầy Giêsu sẽ là câu trả lời chính xác nhất. Bởi lẽ, câu trả lời không nằm nơi sự hiểu biết nhưng nơi cuộc sống của mỗi cá nhân.

THEO CHÚA PHẢI TỪ BỎ MÌNH, VÁC THẬP GIÁ MÌNH
Mc 8, 27 – 35
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Sau lời tuyên xưng : “Thầy là Đức Kitô” (Mc 8, 29) Phêrô cùng các môn đệ bị Thầy cấm không được nói với bất cứ ai về Thầy. Liền sau lời cấm là bài học về chính Thầy, Đấng Mêssia : “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều…bị giết đi” (Mc 8, 31). Vì không chấp nhận nên Phêrô đã bị khiển trách nặng nề bởi ông đã bày tỏ ý tưởng sai lạc của con người về Đấng Cứu Thế : “Satan, hãy lui đi, vì người không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người” (Mc 8, 33).

Quả thật, một thụ tạo sao hiểu được ý Đấng Sáng Tạo, một con người sao biết được Thiên Chúa. Chúng ta phải cám ơn các tác giả Tin Mừng đã mô tả cách chân thực về con người môn đệ Chúa Giêsu, thực sự họ không phải là nhân vật lý tưởng tuyệt vời hay là thần thánh gì hết, họ là những con người bằng xương bằng thịt với đức tính và khuyết điểm như chúng ta. Có thế họ mới gần gũi chúng ta, và giúp chúng ta nhận ra rằng tất cả chúng ta cần phải hoàn thiện mỗi ngày, bởi không ai là hoàn hảo ngay từ khi mới sinh.

Vậy, đâu là ý Thiên Chúa?

Chúa Giêsu bắt đầu dạy cho các môn đệ hiểu rằng “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ, và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8, 31). Chương trình trên làm đảo lộn tâm hồn các môn đệ. Làm sao “Ðấng Kitô” (Mc 8, ) lại có thể bị đau khổ cho tới chết được? Tông đồ Phêrô nổi loạn, không chấp nhận con đường ấy, nên mới : “Kéo Người lui ra mà can trách Người” (Mc 8, 32). Ý muốn của Thiên Chúa là chấp nhận thập giá.

Xem ra sự khác biệt giữa chương trình tình yêu của Chúa Cha và dự án, ước muốn của các môn đệ là điều hiển nhiên. Không chấp nhận thập giá là phủ nhận chương trình tình yêu của Chúa Giêsu, và hầu như ngăn cản Người thi hành ý muốn của Chúa Cha. Vì thế Chúa Giêsu mới nặng lời trách đuổi Phêrô: “Satan, hãy lui đi ” (Mc 8, 33).

Khi con người thực hiện cuộc đời mình chỉ hướng tới thành công xã hội, giầu sang vật chất và kinh tế, con người gạt bỏ Thiên Chúa sang một bên, không lý luận theo Thiên Chúa nữa, mà theo con người. Và khi nào chúng ta để cho những suy nghĩ, tình cảm hay lý luận nhân loại chiếm ưu thế, không để cho đức tin, hay Thiên Chúa dạy dỗ và hướng dẫn, lúc ấy chúng ta sẽ trở nên những tảng đá cản trở chương trình tình yêu của Người.

Theo Chúa phải từ bỏ

Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: ” Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình” (Mc 8, 34).

Chúng ta tự hỏi: “Từ bỏ” mình có nghĩa gì? Và tại sao ta phải tử bỏ mình?

Thật khó chấp nhận điều Chúa Giêsu yêu cầu là từ bỏ và hy sinh. Sống trong một xã hội được lập trình sẵn, khuyến khích thành công nhanh, tận dụng tối đa làm ít, hưởng nhiều, đỡ tốn thời giờ và sức khỏe, nên không có lạ khi chúng ta làm và nhìn mọi sự theo kiểu con người chứ không theo cái nhìn của Thiên Chúa. Chính Phêrô, chỉ sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, ông mới ý thức được rằng, ông phải qua con đường ông đi và sống trong hy vọng.

Cần phải phân biệt, Chúa Giêsu không đòi chúng ta từ bỏ “điều chúng ta là“, nhưng điều “chúng ta đã trở nên“. Chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa thấy tốt đẹp sau khi tạo dựng người nam và người nữ (x. St 1, 31). Điều chúng ta phải từ bỏ không phải là điều Chúa đã làm, nhưng điều chúng ta lạm dụng quyền tự do làm, cụ thể như: kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét và làm biếng… là những khuynh hướng xấu, tội lỗi, bao phủ trên hình ảnh Thiên Chúa. Thánh Phaolô gọi ảnh biến hình này là “ảnh dưới đất“, ngược với “ảnh trên trời“, giống như Chúa Kitô. Do đó “từ bỏ chính chúng ta“, là từ bỏ ý loài người để mặc lấy ý Chúa, hợp và giống Chúa hơn.

Kierkegaard đã lấy một ví dụ: Hai người trẻ ngôn ngữ khác nhau yêu nhau. Muốn cho tình yêu của hai người sống còn và lớn mạnh, một trong hai người phải học tiếng nói của người kia. Bằng không, họ không có khả năng truyền đạt và tình yêu của họ không bền. Và ông kết luận, điều này chỉ xảy ra giữa chúng ta và Chúa. Chúng ta nói thứ ngôn ngữ xác thịt, Chúa nói thứ ngôn ngữ thần khí; chúng ta nói ngôn ngữ tính ích kỷ, Chúa nói ngôn ngữ tình yêu.

Muốn theo Chúa, phải từ bỏ chính mình là học ngôn ngữ của Chúa để chúng ta có thể giao tiếp với Chúa. Chúng ta sẽ không có khả năng nói “vâng” với người khác nếu chúng ta trước hết không khả năng nói “không” với chúng ta.

Theo Chúa là chấp nhận thập giá

Thì ra con đường của các môn đệ là theo Chúa Giêsu, Ðấng bị đóng đinh. Con đường “chịu mất chính mình“, để tìm lại được chính mình, như Đức nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI viết: con đường “chịu mất chính mình“, là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (Ðức Giêsu thành Nagiarét 2007, 333).

Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta” (Mc 8, 34). Theo Chúa khi chấp nhận thập giá của mình với lòng yêu mến. Dưới con mắt thế gian, “chịu mất mạng sống” (Mc 8, ) là một thất bại. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết như sau: “Một cách nhiệm mầu chính Chúa Kitô chấp nhận… chết trên một thập giá để nhổ tận gốc rễ tội kiêu căng khỏi trái tim con người, và biểu lộ một sự vâng phục toàn vẹn con thảo” (Es. ap. Gaudete in Domino 9 maggio 1975, AAS 67 (1975) 300-301). Khi tự nguyện chấp nhận cái chết, Ðức Giêsu mang lấy thập giá của tất cả mọi người và trở thành suối nguồn ơn thánh cứu độ cho toàn dân. Thánh Cirillo thành Giêrusalem giải thích rằng: “Thập giá chiến thắng đã soi sáng những ai bị mù lòa vì ngu muội, đã giải thoát người bị tội lỗi giam cầm, đã đem lại ơn cứu độ cho toàn nhận loại” (Catechisis Illuminandorum XIII,1; de Christo crucifixo et sepulto: PG 33, 772 B).

Lạy Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa hằng sống đã đến thế gian chịu chết và sống lại để cứu chuộc chúng con, chúng con xin theo Chúa, nhưng xin Chúa giúp chúng con biết từ bỏ chính mình và vác thánh giá đời chúng con mỗi ngày để theo Chúa. Xin gia tăng lòng tin yêu Chúa nơi chúng con, để những gì tốt đẹp nơi chúng con ngày càng phát triển và được Chúa chăm sóc giữ gìn. Amen.

ĐƯỜNG YÊU THƯƠNG
Mc 8, 27 - 35

Lm. Giuse Nguyễn văn Nghĩa

Vì chúng ta, Chúa Kitô đã chịu khổ hình thập giá. Chúa đón nhận thập giá là để nhân loại chúng ta được thứ tha tội lỗi, được giải hòa với Chúa Cha. Nói nôm na rằng Chúa vác thập giá là để nhân loại chúng ta được hạnh phúc. Vậy thì cớ sao Chúa Kitô lại khẳng định rằng ai muốn theo Ngài thì phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Người ? ( x.Mc 8,34 ). Vác thập giá là chấp nhận hy sinh, bỏ mình, chấp nhận cả những bất công, nhục hình. Những người Macxit cũng như một vài triết gia thế kỷ ánh sáng đã vin vào điều này để kết án Kitô giáo là một loại thuốc phiện ru ngủ đám đông dân cùng khổ cam chịu cảnh bất công đàn áp với niềm hy vọng sẽ được hưởng phần phúc sau này mà vô tình tạo cớ cho bất công ngự trị, tạo dịp cho kẻ thống trị bốc lột, đàn áp. Dù kết án Kitô giáo nhưng khi đã nắm được quyền thì người ta lại giương khẩu hiệu rằng nhân dân hãy hy sinh chịu khó, chịu khổ vì một tương lai tươi sáng sau này to đẹp gấp mười lần hôm nay, một tương lai mà nhiều người nhận định rằng chỉ là một viễn ảnh khó thành hiện thực, dĩ nhiên là đối với đám dông dân chúng bị trị. Phải chăng cái khẩu hiệu ấy cũng là một thứ thuốc an thần ? Cái vòng lẩn quẩn và cũng là một nghịch lý xem ra khó có câu trả lời.

Không gì hơn là tập chú vào cuộc đời và những lời giảng dạy của Chúa Giêsu để tìm lời giải đáp cho vấn nạn nêu trên, cho dù biết rằng trong kiếp lữ hành này chúng ta không thể nào đến với sự thật toàn vẹn, vì được mấy ai dám chắc chắn là mình đã mở hết lòng để đón nhận Thần Chân Lý. Trước hết cần khẳng định rằng khi mời gọi chúng ta, mời gọi dân chúng hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo, thì Chúa Giêsu không hề và không bao giờ muốn chúng ta cúi mình cam chịu cảnh khổ, cảnh bất công cách tiêu cực, làm cớ cho những người bóc lột những kẻ gian ác lợi dụng để vinh thân phì da và ngụp lặn trong tội ác của họ. Việc tìm sự sung sướng hay hạnh phúc trong chính sự đau khổ là điều lệch lạc mà ngày nay người ta gọi đó là một dạng tâm bệnh, bệnh khổ dâm. Một điều chắc chắn không kém, là người cha thực sự thì không bao giờ muốn con cái phải khổ đau. Chúa Giêsu đã từng nói rằng dù chỉ là người cha trần thế với nhiều khiếm khuyết thế mà sự thường khi con cái xin bánh thì chẳng ai lại ném cho chúng hòn đá, như thế người cha trên mọi người, là Đấng trọn hảo chỉ muốn và làm điều tốt lành cho con cái ( x.Lc 11,9-13; 12,32 ). Vậy lý giải thế nào về sự hiện hữu của thập giá mà Chúa Giêsu đã gánh trên vai và Người đã minh nhiên mời gọi chúng ta vác lấy để đi theo Người ?

Đường yêu thương, con đường làm người chính là chìa khóa giải đáp cho vấn nạn này. Thiên Chúa là Tình yêu ( 1Ga 4,8 ). Đây không phải là một tình yêu quy ngã nhưng là tình yêu hướng tha từ trong bản thể của cộng đoàn Thiên Chúa Ba Ngôi và rồi được thông chia cho các loài thụ tạo, đặc biệt cho loài người. Yêu thương đích thực thì không sống cho chính mình mà sống cho ai đó và vì ai đó. Chính khi hướng đến tha thể là lúc ta mới thực sự là mình. Chúa Cha thực sự là mình trong tương quan với Chúa Con, trao ban tất cả cho Chúa Con. Ngược lại Chúa Con thực sự là mình khi luôn hướng về Chúa Cha, tìm kiếm và thực hiện ý Chúa Cha, trao ban lại tất cả cho Chúa Cha. Và Chúa Thánh Thần chỉ thực sự là Tình Yêu Ngôi Vị giữa Chúa Cha và Chúa Con khi luôn tìm vinh danh hai Ngôi cực trọng ấy.

Sống trong tương quan liên vị và ra khỏi chính mình là động thái từ bỏ mà Chúa Giêsu đã nhấn mạnh khi khẳng định: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy” ( Mc 8,35 ). Như thế thập giá hay những hy sinh, từ bỏ không phải là sự khổ đau ta đành phải trả giá theo nghĩa tiêu cực mà chính là dữ kiện hay điều kiện ta phải vượt qua trong tiến trình sống yêu thương, tiến trình thể hiện bản thân mình là hình ảnh và là họa ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu.

Hình ảnh con nhộng lột xác để hóa thành bướm, hình ảnh con rắn lột vỏ để lớn lên vẫn thường được gợi lên để minh họa cho ý tưởng này. Chúa Giêsu cũng đã đề cập đến hình ảnh hạt lúa mì chịu mục nát đi để nẩy mầm, thành cây, đơm bông, kết hạt, thì mới thực sự là chính nó khi thể hiện ý nghĩa hiện hữu của nó ( x. Ga 12,24 ). Mọi so sánh dù cố nhắm làm rõ một khái niệm nào đó, nhưng vẫn là khập khiễng, nghĩa là còn hạn chế. Lột xác để thành bướm hay lột vỏ để lớn lên thì vẫn có cái gì đó vì chính mình. Trong khi đó chuyện vác thập giá là vì tha nhân. Chúa Giêsu vác thập giá là vì chúng ta. Người chịu khổ hình là để chúng ta được cứu độ. Người tự nguyện nên nghèo khó là để chúng ta nên sang giàu. Và khi sống vì chúng ta, thì Người thể hiện chính Người là Giêsu, Đấng Cứu Độ, là Kitô, Đấng được Thiên Chúa xức dầu, loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, giải thoát kẻ bị giam cầm, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng ( x. Lc 4,18-19 ).

“Đức tin không có hành động, thì quả là đức tin chết” ( Gc 2, 17 ). Một trong những hành động để làm sống đức tin theo thánh Giacôbê đó là yêu thương tha nhân cách cụ thể và toàn diện, cả linh hồn lẫn thể xác. Để sống yêu thương thì chuyện vác thập giá là chuyện đương nhiên phải có. Tuy nhiên cần ý thức rằng chúng ta vác thập giá là vì tha nhân, nghĩa là để cho tha nhân được hạnh phúc, cho người nghèo khỏi cảnh khổ, cho người bị áp bức được tự do, cho người tội lỗi biết sám hối ăn năn, cho người gian ác biết quay gót trở về… Hiểu được điều này thì hy vọng chúng ta sẽ biết cách thế vác thập giá như thế nào để thực sự là theo Chúa Giêsu chứ không phải là làm cớ cho sự dữ thống trị, làm cớ cho kẻ gian ác thích chí, cười khì.

NGƯỜI TA BẢO THẦY LÀ AI?
Mc 8, 27 - 35
Lm Jos Tạ Duy Tuyền

Có một thời người ta đổ xô nhau đi tìm đọc quyển sách “Cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Giêsu”. Nhiều người cho rằng quyển sách này đã viết đúng tâm lý của con người, vì tác giả đã mô tả Chúa Giêsu như một con người thực sự, có khác chăng là người đã vượt thắng được cám dỗ cho tới giờ phút cuối cùng.

Quyển sách “cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Giêsu” mô tả về một chàng trai Giêsu đầy sức sống. Đẹp trai và nhiều tài năng. Có một thiếu nữ rất xinh đẹp đã đem lòng yêu mến chàng, tên là Madalêna. Thế nhưng, tình yêu đã không đem lại cho chàng hạnh phúc. Chàng luôn bị thôi thúc bởi một tiếng gọi cao siêu, vượt trên cuộc sống tầm thường như bao bao người khác. Chàng quyết định từ bỏ người yêu và ra đi rao giảng về một Tin mừng có thể đem lại cho con người hạnh phúc đời này và đời sau. Mađalêna thất tình đã buông trôi cuộc đời trong trốn lầu xanh tội lỗi. Còn Giêsu thì thu thập được một số đồ đệ và hăng say truyền bá lý tưởng cao siêu. Nhưng lý tưởng đó lại không phù hợp với những mục đích chính trị của các tư tế, biệt phái và luật sĩ. Cho nên cuối cùng, Giêsu bị họ bắt và kết án đóng đinh. Trong những giây phút hấp hối trên thập giá, Giêsu bị hôn mê, cơn hôn mê khiến Giêsu nhìn lại cuộc đời của mình. Chàng mơ thấy mình từ bỏ lý tưởng cao siêu, cưới Mađalêna làm vợ, sinh được một bầy con ngoan, đẹp, sống rất hạnh phúc với gia đình, nhưng bị các đồ đệ và các tín đồ nhiếc móc. Giêsu bừng tỉnh dậy lắc đầu xua đuổi cơn cám dỗ ấy. (Giêsu đã chiến thắng cơm cám dỗ cuối cùng). Và sau đó gục đầu tắt thở.

Tác giả đã dựa vào tâm lý chung của con người để viết về nhân tính của Chúa Giê-su. Một con người bình thường, sinh ra, lớn lên, rung cảm với tình yêu đầu đời, nhưng ở chàng thanh niên Giêsu đã từ khước tiếng nói của con tim để theo đuổi một lý tưởng cao siêu. Điều này đáng được con người kính trọng. Nhưng đáng tiếc, lý tưởng đó bị người đời khước từ vì không thực tế, và cho dù cuộc sống của Ngài được nhiều người kính trọng nhưng người ta lại không muốn sống theo lối sống của Ngài.

Thực vậy, con người ngày hôm qua cũng như hôm nay, luôn cần tiền, cần tiện nghi, cần địa vị và cần cuộc sống bất tử để hưởng thụ mãi hạnh phúc ở chốn gian trần. Vì thế, người ta không chấp nhận đường lối của Chúa Giêsu, vì phương thế này không thoả mãn nhu cầu vật chất của con người. Có chăng, họ chỉ kính trọng một Giêsu thánh thiện, một vĩ nhân của nhân loại, nhưng đạo của Ngài thiết lập chẳng giúp ích gì cho cuộc sống thường ngày của họ. Đôi khi còn trở thành gánh nặng khiến họ không thể tuân giữ giới răn của Người. Đôi khi họ còn coi Chúa Giêsu là nguyên nhân gây nên phiền toái cho họ.

Có người nói rằng theo đạo làm chi, phải đi lễ hằng ngày, hằng tuần, ngủ cho sướng.
Có người nói rằng theo đạo làm chi để bị ràng buộc bởi quá nhiều lề luật.
Có người cho rằng theo đạo phải giữ luật công bằng thì làm sao làm ăn có lời, có lãi.
Có những bà mẹ cho rằng nếu giữ đúng luật Chúa thì gia đình sẽ mất hạnh phúc, con cái sinh ra ai sẽ nuôi cho nổi.

Có biết bao cuộc đời là có bấy nhiêu khó khăn. Càng khó khăn người ta lại đổ tội cho Chúa. Vì Chúa mà họ thiệt thòi. Vì Chúa mà họ phải sống nghèo đói. Vì Chúa mà họ phải thua kém bạn bè. Xem ra phần đông nhân loại nhìn Chúa như một quan toà, một cảnh sát chỉ để ngăn cấm và xét đoán. Và rồi, họ nhìn biết bao nhiêu người không có đạo vẫn sống hạnh phúc, đôi khi lại giầu có hơn mình, có địa vị hơn mình. . .

Phải, phần đông nhân loại đã nhìn Chúa Giêsu như vậy. Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? Chúa Giêsu vẫn tôn trọng tự do của các môn đệ. Ngài vẫn hằng tôn trọng tự do của chúng ta hôm nay. Ngài vẫn đòi hòi triệt để những kẻ tin theo Ngài phải từ bỏ, phải hy sinh vác thập giá, phải đi qua cửa hẹp và phải sống thanh thoát với của cải trần gian. Nghĩa là Ngài vẫn đòi hỏi chúng ta phải sống vượt lên trên nhu cầu thể xác tầm thường, phải sống làm chủ bản năng của mình bằng hy sinh, khổ chế để sống như những con người tự do đích thực. Không bị những đam mê danh lợi thú ràng buộc. Không bị những cám dỗ tội lỗi làm mất lương tri, mất phẩm giá cao qúy của con người.

Với những đòi hỏi đó, phải có cái nhìn đức tin như Phêrô mới có thể bỏ mọi sự mà theo Thầy, mới có thể tuân giữ lời Thầy và sống gắn gó mật thiết với Thầy. Phêrô và các môn đệ đã nhìn thấy Thầy là Chúa, là Đấng hằng sống và các ông còn hiểu rằng: ai bước đi theo Ngài sẽ không phải chết đời đời. Các ông đã dám đánh đổi cuộc đời này để đổi lấy hạnh phúc bất diệt đời sau. Các ông đã dám khước từ vinh hoa phú qúy đời này để lãnh triều thiên vinh hiển ngày mai.

Vâng cuộc đời này sẽ đi qua. Tiền tài, danh vọng, lạc thú tất cả chỉ là phù vân. Cái chết sẽ làm chúng ta đoạn tuyệt tất cả. Nếu cuộc đời chết là hết thì chẳng có gì đáng nói. Nếu chết là hết thì cuộc đời là một thảm hoạ đối với bản thân và đồng loại. Người ta đâu cần rèn luyện tài đức. Người ta chỉ cần hơn thiên hạ. Người ta chỉ cần vun quén cho bản thân, và mặc xác đồng loại. Cuộc sống sẽ là một bãi chiến trường mà con người là nguyên nhân và cũng là hậu quả của tất cả khổ đau. Nhưng cuộc đời không dừng lại ở cái chết. Cái chết là ngưỡng cửa mở ra sự sống vĩnh cửu. Và ở cõi đời đời con người đau khổ hay hạnh phúc lại tuỳ thuộc ở cuộc đời hôm nay. Vì thế, nếu bạn chọn sự sống đời đời phải từ bỏ tham sân si, từ bỏ mọi đam mê bất chính. Từ bỏ đòi hy sinh, đòi khổ chế để vượt thắng cám dỗ. Các tông đồ đã vượt thắng tất cả vì tin rằng Chúa là Đường là sự thật, là sự sống. Các Ngài đã từ bỏ mọi sự để theo Chúa, còn chúng ta có dám vì sự sống bất diệt ngày mai bên Chúa để can đảm từ khước những đam mê bất chính, những bon chen danh lợi thú để sống theo giáo huấn của Chúa hay không? Hạnh phúc hay đau khổ còn tuỳ thuộc vào chọn lựa của chúng ta hôm nay?

Ước gì chúng ta có cái nhìn đức tin như Phêrô để làm chứng cho thế giới hưởng thụ hôm nay về một cuộc sống hạnh phúc trường sinh mai sau.
Amen

ĐẤNG KITÔ
Mc 8, 27 - 35

LM Anphong Trần Đức Phương

Sau khi Tổ Tông phạm tội, Thiên Chúa đã ra hình phạt cho hai ông bà (A-Dong và Evà); đó là tội Nguyên Tổ, nhưng Thiên Chúa cũng hứa sẽ sai một Đấng Cứu Độ đến để chuộc tội và ban ơn Cứu rỗi cho nhân loại (Sáng Thế 3: 15). Đấng được Thiên Chúa hứa sẽ sai đến người Do Thái gọi là “Messiah” (có nghĩa là Đấng Được Xức Dầu), dịch sang tiếng Hy Lạp “Christos”, chuyển âm sang tiếng Anh và tiếng Pháp là “Christ’ và sang tiếng Việt Nam là “Kitô”. Chính Chúa Giêsu cũng tự nhận mình là Đấng Ki-tô (Matcô 14: 61-62).

Sở dĩ người Do Thái gọi “Đấng Chúa Hứa” là “Đấng Được Xức Dầu” là vì theo truyền thống Do Thái, các vua được xức dầu phong vương (1Samuel 10:1), các Thày Cả Thượng Phẩm cũng được xức dầu (Xuất Hành: 29:7). Người Do Thái quan niệm Đấng Kitô là vị “Vua” trong tương lai. Ngài sẽ đến trong uy quyền để đổi mới mọi sự, để phục hồi lại nước Israel (Daniel 9: 25-26), giải phóng dân tộc Do Thái khỏi mọi áp bức, và đưa dân Chúa tiến lên trong vinh quang.

Nhưng Đấng Kitô đã đến trần gian trong khó nghèo. Ngài đã sinh bởi lòng Đức Trinh Nữ Maria (Luca 2: 10-11), và Ngài được đặt tên là Giêsu như lời Sứ Thần nói với Đức Maria (Luca 1: 31) và Thánh Giuse (Matthêu 1:21). Như vậy, Đấng mà “muôn dân mong đợi” đã đến trong trần gian, tên Ngài được gọi là Giêsu, cùng với danh hiệu Kitô ghép lại thành Giêsu Kitô.

Qua Bài Phúc Âm hôm nay (Matcô 8: 27-35) chúng ta thấy người Do Thái thời Chúa Giêsu chưa nhận ra Ngài chính là “Đấng Kitô” Thiên Chúa sai đến, nên người thì bảo Ngài là Gioan Tẩy Giả, người thì bảo là Êli, người thì bảo là một trong các Tiên Tri…” Chính vua Herôđê cũng cho Ngài là “Gioan Tẩy Giả ta đã giết, nay đã sống lại (Matcô 6:16). Nhưng khi Chúa Giêsu hỏi các Tông đồ, thì Phêrô đã đại diện anh em xác quyết “Thày là Đấng Kitô!”. Xác quyết như vậy tỏ ra Phêrô và các Tông đồ đã nhận biết được Chúa Giêsu chính là Đấng Kitô “mà muôn dân mong đợi”. Tuy nhiên, Phêrô và các Tông đồ chưa hiểu được là “Đấng Kitô sẽ phải chịu nhiều đau khổ, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế và luật sĩ chối bỏ và giết đi, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại…” (Matcô 8:31) Chính tiên tri Isaia cũng đã tiên báo trước về những đau khổ Đấng Kitô sẽ phải chịu để cứu chuộc nhân loại như trong Bài Đọc I hôm nay (Isaia 50: 5-9). Vì chưa hiểu được quan niệm “Đấng Kitô Đau Khổ”, nên khi nghe Chúa Giêsu nói như vậy, Phêrô “đã can ngăn Chúa Giêsu” và Chúa Giêsu đã quở mắng ông: “vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là tư tưởng của loài người!” Tiếp theo, Chúa Giêsu đã dạy cho các Môn đệ bài học thực tế: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình đi, vác Thánh Giá hàng ngày mà theo Ta…”

Bài học “Đấng Kitô Đau Khổ” là bài học Chúa dạy các môn đệ, nhưng cũng là bài học Chúa dạy chúng ta nữa là các tín hữu muốn bước theo Thày Chí Thánh: “Đấng Kitô phải chịu nhiều đau khổ và chết đi rồi mới sống lại trong vinh quang.” Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống và thực hành đức tin của chúng ta như Thánh Giacôbê đã nhắn nhủ chúng ta trong Bài Đọc II hôm nay (Giacôbê 2: 14-18). Xin cho chúng ta biết can đảm chịu mọi đau khổ trong cuộc sống theo Thánh Ý Chúa, vì “chỉ khi chúng ta biết chịu đau khổ với Chúa Kitô, chúng ta mới được chung hưởng vinh quang với Ngài” (Rôma 8: 17). Mỗi khi phải chịu những đau khổ nặng nề xảy ra cho chúng ta hoặc gia đình chúng ta, chúng ta luôn biết nhìn lên Thánh Giá Chúa để thêm can đảm và sức mạnh hầu tiếp tục “vác thánh giá theo chân Chúa!” Đồng thời cũng biết nhận ra những đau khổ của bao người chung quanh chúng ta “không đủ cơm ăn áo mặc” để biết “chia sẻ cơm áo cho những người thiếu thốn” ấy.

Xin Mẹ Maria đã luôn sống trong cuộc đời đau khổ, nhất là giờ phút dưới chân Thánh Giá, an ủi, nâng đỡ chúng ta. Xin các Thánh, nhất là các Thánh tử Đạo Việt Nam, tất cả đều đã “can đảm vác Thánh Giá theo chân Chúa” cầu cùng Chúa cho chúng ta luôn sẵn sàng “can đảm chịu mọi đau khổ hàng ngày cho nên.” Trong “Năm Linh Mục” chúng ta cũng nhớ cầu nguyện nhiều cho các Linh Mục, các chủ chăn cũng luôn biết suy ngắm những sự đau khổ của Chúa Giêsu để can đảm âm thầm chịu mọi đau khổ hằng ngày trong cuộc đời tận hiến phục vụ Chúa và nhân loại.

CÒN ANH EM, ANH EM BẢO THẦY LÀ AI?
Mc 8, 27 - 35

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Sau khi theo Chúa, nghe Ngài giảng dạy, chứng kiến gương lành và đối diện với những việc làm cao cả, những phép lạ lớn lao của Chúa, các môn đệ của Chúa đã hiểu phần nào về Ngài, đã thán phục Ngài.Dù rằng các môn đệ không nhất loạt nói ra những cảm nghĩ của mình về Chúa, nhưng trong thâm tâm mỗi người đều có những cảm nghiệm hết sức sâu xa về Ngài. Chúa đã nghe dân chúng nói to nói nhỏ về Ngài. Người bảo rằng Chúa là Êlia, người nói Chúa là một ngôn sứ vv…Chúa muốn biết thực sự các môn đệ nghĩ về Ngài làm sao ? Phêrô tuyên xưng đức tin. Điều này an ủi Chúa bởi Chúa đã khổ tâm vì nhiều môn đệ không hiểu Ngài. Phêrô hôm nay tuyên xưng đức tin: vậy là các môn đệ đã bắt đầu hiểu Ngài.

Chúa Giêsu đã làm nhiều phép lạ, đã chữa nhiều bệnh cho nhiều người, đã trừ quỷ, đã làm cho cả người chết sống lại, đã giảng dạy nhiều điều tốt đẹp.Uy tín và danh giá của Ngài đã vang khắp nơi, người ta đã xôn xao bàn tán về Ngài. Theo dư luận quần chúng mà các môn đệ nghe được, giờ đây trước lời tra vấn của Chúa, họ đã thưa với Ngài về dư luận của dân chúng: có người cho rằng Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả, có người nói Chúa là Êlia hay là một ngôn sứ nào đó. Tất cả những dư luận ấy đánh giá Chúa rất cao, đánh giá Chúa thật tốt nhưng chưa phải là điều Chúa muốn nghe.Nhân đi qua một vùng làng xã của Xê-da-rê Phi-lip, sau khi nghe các môn đệ thuật lại suy nghĩ của quần chúng nhân dân về Chúa Giêsu. Chúa Giêsu muốn biết ý nghĩ của các môn đệ nói về Ngài để rồi sau đó Ngài sẽ loan báo về cuộc thương khó và phục sinh của Ngài. Dư luận quần chúng thì các ông đã nói với Chúa, còn riêng các ông: ” Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ? “( Mc 8, 29 ).Ông Phêrô nhanh nhảu, thay mặt các môn đệ tuyên xưng: ” Thầy là Đấng Kitô “ ( Ga 8, 29b ).Đức Giêsu cấm các môn đệ không được nói với ai về điều đó, không phải Ngài không chấp nhận sứ mạng Mêsia, nhưng vì dân chúng chưa thể hiểu được điều đó trước khi Người chịu chết và phục sinh.

Đức Giêsu bắt đầu vén mở cho các môn đệ thấy cuộc đời cứu thế, sứ mạng cứu chuộc của Ngài đầy dẫy đau khổ, thử thách và chông gai, Ngài sẽ bị bắt, bị đánh đập, bị kết án tử hình, Ngài chịu chết và sẽ sống lại. Thánh Phêrô không làm sao chịu nổi số phận của Thầy sẽ phải chịu, cho nên Ông đã can ngăn con đường cứu thế của Chúa, nên Chúa đã mắng nhiếc ông thậm tệ. Từ Satan Chúa gán cho Phêrô nói lên sự bực bội khó chịu của Ngài bởi vì chỉ có ma quỷ mới cản ngăn con đường cứu thế của Chúa.Rồi Chúa vạch ra những tiêu chuẩn để theo Ngài, những điều kiện này không chỉ dành cho các môn đệ mà cho cả đám đông, cho cả mọi người muốn đi theo Ngài. Điều kiện ấy là hãy từ bỏ mình, vác thập giá, tức là liều mạng sống vì Đức Giêsu và Tin Mừng của Ngài.

Người môn đệ của Chúa làm tốt công việc của chính mình, lắng nghe Lời của Chúa mà thôi vẫn chưa đủ nhưng còn phải thực thi Lời Chúa và làm ích cho người khác, cho tha nhân theo tiêu chuẩn của Tin Mừng: phục vụ Chúa tôn kính Chúa và phục vụ tha nhân, dám hy sinh, dám chia sẻ, cảm thông, dám giúp đỡ người khác về vật chất cũng như tinh thần. Theo Chúa, ở với Chúa quả thực là vất vả, khó nhọc nhưng đối với Chúa: ” Thập giá là ơn cứu độ, là vinh quang “.

Thánh Giacôbê đã nói: ” Đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Do đó,tin không vẫn chưa đủ, cầu nguyện cho nhau là một việc tốt, cần thiết nhưng vẫn chưa đủ.Chúa dạy chúng ta là “Hãy yêu như Chúa “ “ Hãy làm như Chúa “. Nên, Chúa muốn chúng ta phải biết cảm thông, phải biết chia sẻ và nâng đỡ nhau.

Đức Giêsu đã hy sinh cả mạng sống của Người để cứu độ nhân loại, Người đã thực hiện công việc cứu thế của Người bằng tình yêu vô vị lợi, tình yêu hiến thân: ” Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ). Thập giá là ý muốn của Thiên Chúa dành cho Chúa Giêsu và cũng là ý muốn Thiên Chúa dành cho chúng ta: đây là con đường dẫn chúng ta tới sự sống vĩnh cửu.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn tin tưởng bước theo Chúa trên đường tử nạn để chúng con cũng được phục sinh với Chúa. Amen.

TIN VÀ SỐNG ĐỨC TIN
Mc 8, 27 - 35

Peter Nguyễn Hưởng

Sau khi đã thăm dò dư luận, Đức Giêsu trắc nghiệm các môn đệ: “Còn các con bảo Thầy là ai? Chúng ta đã có câu trả lời của Thánh Phêrô: “Thầy là Đức Kitô con Thiên Chúa hằng sống”. Tôi nghĩ rằng nếu Chúa Giêsu có mặt một hôm nay, Người sẽ đặt thêm một câu hỏi nữa: “Đối với các bạn, người Kitô hữu là ai?”

Lời Chúa của Chúa Nhật này cho chúng ta câu trả lời chính xác về câu hỏi đó.

1. Trước hết người Kitô hữu Tin vào Đức Kitô là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu độ
Đó là niềm xác tín nền tảng đức tin của chúng ta. Đức Kitô không chỉ là một con người bình thường, không chỉ là một tiên tri như mọi tiên tri mà Dân chúng đã quan niệm, nhưng Người là “Đức Kitô con Thiên Chúa hằng sống”, đúng như lời tuyên tín của Thánh Phêrô, nghĩa là Đấng Cứu Độ duy nhất và phổ quát của nhân loại. Làm người kitô hữu trước hết là người TIN vào Đức Kitô đúng như Người “LÀ”, không được thêm, không được bớt mặc khải của Thiên Chúa. Và như thánh Phaolô nói: Ai tin thì được cứu độ.

Nhưng tin ở đây không chỉ là tuân giữ một số điều luật của Giáo hội, không có nghĩa là hiểu biết một số chân lý, lý thuyết và giáo lý về Chúa. Trái lại, tin có nghĩa là sống gần gủi, gặp gỡ, gắn bó mật thiết với Đức Kitô mỗi ngày, trong mỗi biến cố cuộc sống, như với một người bạn thân (Jesus is my best friend). Tôi sống là sống “với, vì và cho” Đức Kitô và Đức Kitô sống trong tôi. Đó là một đức tin trưởng thành và mang tính cá vị. Đó là một đức tin mà Chúa chờ đợi mỗi người kitô hữu.

2. Điều kiện để làm người Kitô hữu
“Ai muốn theo Ta, thì hãy từ bỏ chính mình, và vác thập giá mỗi ngày mà theo ta”. Đây là lời khẳng đình từ môi miệng Chúa. Lời này tóm tắt tất cả mọi điều kiện để làm người Kitô hữu. Chúng ta cần dừng lại để phân tích câu nói này: “Ai muốn theo Ta”: Đấy là một lời mời gọi Chúa ngõ với hết mọi người, từ già đến trẻ, từ giáo dân đến giáo hoàng. Điều kiện trước hết của việc “theo” đó là: “hãy bỏ mình”. Tại sao phải bỏ mình?

Bỏ mình ở đây không có nghĩa là bỏ hết những khả năng, tài cán, và nghị lực… của chúng ta. Nhưng là bỏ chính cái TÔI vị kỷ của ta. “Bỏ mình” là không còn quá chú trọng đến mình, không còn tập trung mọi sự về mình, không biến mình là trung tâm của vũ trụ và chú ý của người khác. Nhưng chỉ hướng “mình” về với Chúa, Chúa là trung tâm đời mình, không còn ai khác. Trong chiều hướng đó, Cái Tôi xuất hiện như “hòn đá vấp chân”, cản trở chúng ta. Kinh nghiệm cho thấy, thắng được “THẰNG TÔI” là thắng được kẻ thù lớn nhất. Chính vì thế, Chúa mời gọi là hãy bỏ mình, cũng như Đức Phật mời gọi môn sinh: muốn được giải thoát thì hãy diệt dục.

3. Đức Tin thể hiện bằng việc làm
Thánh Giacôbê ở bài đọc II nói rất hay về tương quan giữ TIN và SỐNG đức tin: “Đức tin không việc làm là Đức tin chết tận gốc rễ”. Rõ ràng là Tin trong lòng và tuyên xưng ngoài miệng thôi chưa đủ: như Đọc kinh, đi lễ, rước lễ, chịu các bí tích.., nhưng phải thể hiện đức tin đó bằng việc làm. Chúng ta phải thể hiện như thế nào? Thánh Giacôbê cho chúng ta một hướng dẫn rất thích hợp: “Nếu có anh chị em nào không cơm ăn áo mặc, mà có kẻ trong anh chị em lại bảo rằng: “chúc anh chị em đi bình an, và ăn no mặc ấm” mà anh chị em lại không cho họ những gì cần dùng cho thân xác, thì nào có ích gi?”. Việc làm đó chính là lòng bác ái, cảm thông, chia sẽ với tha nhân, và nhất là với người đau khổ. Đó là con đường từ nhà thờ về nhà mình, từ nhà mình tới công sở, con đường đó không có “đèn xanh đèn đỏ” để dừng lại, nhưng là liên tục và nối dài.

Như thế, làm người kitô hữu là người tin vào Đức Kitô và có Chúa Kitô trong đời, và cùng với Người hướng tới tha nhân. Đó là một cuộc sống phong phú và hạnh phúc khi được làm người kitô hữu!

Lạy Chúa, xin giúp con luôn ý thức được sự cao quí của người kitô hữu, xin Chúa giúp con Tin Chúa cách vững vàng, và cùng với Chúa vác thập giá mình mỗi ngày, cùng với Chúa con đến với tha nhân bằng một con tim rộng mở, chia sẻ và cảm thông.

THEO BẠN, CHÚA GIÊSU LÀ AI?
Mc 8, 27 - 35

Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

Xêdarê Philípphê được xem là miền đất dân ngoại- nơi có một trung tâm rộng lớn thờ thần Baan. Tương truyền đây là nơi “chôn rau cắt rốn” của thần Hylạp có tên là Panias – thần thiên nhiên. Vào năm 2 trước CN, chính quận vương Hêrôđê Philípphê đã xây dựng nơi đây thành địa danh linh thiêng đối với cư dân xứ này. Trên thành này, ông đã cho xây và đặt đầu tượng Xêda- hoàng đế Rôma được ông xem là vị thần, để tôn thờ. Chính tại “linh địa” dân ngoại này, một sự kiện độc nhất vô nhị xuất hiện. Đó là sự kiện một người con vô danh của dân làng Nazarét được tuyên xưng là Đấng Kytô. Sự kiện đó thế nào? Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cùng nhau suy chiêm.

Trước khi thăm dò các môn đệ, Chúa Giêsu cũng đã phần nào biết được dư luận bàn tán về nhân thân của Người như thế nào. Thật vậy, dư luận dân chúng xem Chúa Giêsu là một Ngôn sứ. Còn vua Hêrôđê Antipa thì khẳng định Chúa Giêsu chính là Gioan Tẩy giả – người mà ông đã ra lệnh chém đầu- đã sống lại (x. Mc 6, 16). Dư luận thì như thế, còn các môn đệ thì sao? Chúng ta thấy rõ ràng các môn đệ đã không bị cuốn hút vào thông tin từ phía dư luận. Hay nói khác hơn, lần này các ông đã “khôn hơn” chứ không còn “ngu muội” nữa. Các ông đã có cách đánh giá, cách nhìn nhận sáng suốt và đúng đắn về người thầy của mình. Phêrô đã đưa ra một nhận định đầy tính quyết đoán : “Thầy là Đấng Kytô”, nghĩa là Đấng Mêsia sứ giả của Giavê Thiên Chúa.

Khi tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kytô, có lẽ Phêrô cũng như các môn đệ chưa thật sự hiểu hết ý nghĩa của danh hiệu này. Lý do là vì, chúng ta thấy ngay sau khi Phêrô tuyên xưng, thì liền sau đó, chính ông lại là người “cản mũi kỳ đà” khi nghe Chúa Giêsu nói rằng Người sẽ phải chịu khổ hình. Như thế, đối với Phêrô, Đấng Kytô không thể như thế được. Bởi theo ông cũng như đa số dân Dothái lúc bấy giờ, Đấng Mêsia sẽ là Đấng được Giavê Thiên Chúa gìn giữ bảo vệ và Người sẽ được miễn trừ đau khổ và chết chóc. Không những thế, Phêrô và các môn đệ có thể đã hiểu danh hiệu này theo kiểu hoàn toàn thế gian. Nghĩa là danh hiệu đó gắn liền với màu sắc chính trị. Các ông mong muốn Chúa Giêsu sẽ là người có nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giành lại nền độc lập tự chủ cho quốc gia.

Sứ mệnh của Chúa Giêsu sẽ không bao giờ phù hợp với những suy nghĩ duy chính trị và tầm thường như Phêrô và dân Dothái đã quan niệm. Sứ mệnh của Người là chu toàn thánh ý của Chúa Cha, cứu độ nhân loại bằng hiến tế tình yêu thập giá. Điều này hoàn toàn mới lạ và khó hiểu với hầu hết dân chúng thời đó chứ không hẳn chỉ mình Phêrô. Chính vì thế, phản ứng của Phêrô, xét cho cùng cũng là điều dễ hiểu. Quả là trứng không khôn hơn vịt. Để rồi từ đây, khi lời tuyên bố cách chắc nịch của Chúa Giêsu gửi đến các môn đệ và dân chúng rằng “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”, các ông mới dần dần hiểu rõ danh hiệu đích thực của Đấng Kytô là gì để rồi quyết dấn thân đến cùng.

Phần chúng ta – những Kytô hữu của thời đại hôm nay, Chúa Giêsu là ai trong tâm thức tín ngưỡng của mỗi người? Rất có thể chúng ta đang vẽ một Chúa Kytô khác hẳn hoàn toàn với một Chúa Kytô là Thiên Chúa khiêm nhu và hiền hậu. Một Chúa Kytô hoàn toàn do con người tạo ra. Một Chúa Kytô quyền lực. Một Chúa Kytô đầy quyền thống trị. Một Chúa Kytô được vẽ lên do trí tưởng tượng của con người để phục vụ cho những lợi ích tầm thường của họ. Thế nên, “Chúa Giêsu là ai?” vẫn mãi là câu hỏi cần mỗi người Kytô chúng ta đi tìm lời giải đáp.

Đối với niềm tin Kytô giáo, Chúa Giêsu luôn là một hình ảnh duy nhất không đổi thay. Đó chính là hình ảnh “Chúa Kytô hôm qua, hôm nay và mãi mãi” - là hình ảnh Thiên Chúa cứu độ duy nhất của nhân loại. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta thấm nhuần chân lý này, ngõ hầu trong bất cứ nghịch cảnh nào của cuộc sống, chúng ta luôn tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa Giêsu như Phêrô đã từng tuyên xưng danh thánh Chúa giữa miền đất dân ngoại khi xưa.

NGƯỜI TÔI TỚ GIAVÊ
Mc 8, 27 - 35

Sr Mai An Linh OP

Người Tôi tớ Giavê bản thân vô tội nhưng phải chịu nhiều đau khổ, và người đương thời với Người cho đó là hình phạt của Thiên Chúa, nhưng thực chất Người chịu đau khổ vì tội lòai người (Is.50,5-9a). Đau khổ tột cùng là cái chết trên Thập Giá để cứu độ nhân lọai (Mc.8,27-35) mà Người đã thấy trước và loan báo cho các môn đệ của Người. Dù phải đau khổ nhưng Người vẫn một lòng tin tưởng Thiên Chúa (Đáp ca TV.114). Đó là tư tưởng xuyên suốt của phụng vụ Lời Chúa hôm nay.

Bài Tin Mừng của Thánh Marcô cho thấy, Chúa Giêsu không trực tiếp nói cho các môn đệ biết căn tính của mình, Người dẫn họ trên con đường để họ tự khám phá. Người đời coi Ngài chỉ là một tiên tri như Gioan Baotixita, Elia, hay một tiên tri nào khác, là tiên tri thì rao giảng một học thuyết, ai muốn theo thì theo, không thì thôi. Còn các môn đệ thì sao? - Phêrô đại diện tuyên xưng “ Thầy là Đức Kitô”, một Mêsia đau khổ – chúng con sẽ theo Thầy dù phải vác Thánh Giá và phải bỏ mình. Phêrô nói thế hoàn toàn do mạc khải chứ chính ông cũng không hiểu hết ý nghĩa của câu nói.

Con đừơng của Chúa Giêsu là chọn kiếp người, là vâng phục ý Thiên Chúa Cha và biết rõ đâu là con đường Thiên Chúa Cha muốn mình đi, và đâu là con đường thế gian đang chờ đợi. Con đường của Thiên Chúa thì vượt những toan tính của lòai người. Người nhìn thấy và thông báo cho các môn đệ về định mệnh đang chờ đợi mình, Người biết mình phải đương đầu với các nhà lãnh đạo Do Thái, và bóng dáng cái chết đang rình rập, nhưng Người không thối lui mà tiếp tục trung tín với Cha và phục vụ lòai người. Đó là sự lựa chọn để trung tín với tình yêu, nên sau lời tuyên tín của Phêrô Chúa Giêsu liền thông báo về cái chết.

Lời tiên báo về cuộc khổ nạn làm cho Phêrô bỡ ngỡ không sao hiểu được, vì ông còn mải mê với một Đức Kitô vinh quang, nên ông đã can ngăn Chúa bằng một tình yêu chân thành, nhưng Đức Kitô cảm nhận đó là một cám dỗ nên đã quở Phêrô “ Hãy đi sau Ta”, nghĩa là hãy ở đúng vị trí của người môn đệ là đi theo chứ không phải là người dẫn đường cho Người, muốn đi trước Người. Lời quở mắng cũng là lời cảnh tỉnh để các môn đệ nhận định lại việc đi theo Chúa Giêsu. Người nói “ Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mà theo tôi”, muốn làm môn đệ Người thì cũng phải đi theo con đường Người đi, đó là con đường thập giá.

Đi theo Chúa Giêsu đòi buộc phải từ bỏ, từ bỏ tận căn, là từ bỏ chính mình, từ bỏ này là gốc rễ của những từ bỏ khác. Hôm nay Chúa Giêsu cũng hỏi mỗi người chúng ta và đòi chúng ta phải trả lời, câu trả lời bắt nguồn từ kinh nghiệm sống với Người. Nếu chúng ta trả lời như Phêrô “ Thầy là Đức Kitô” thì chúng ta hãy ca đảm bỏ mình và vác thập giá đi theo Thầy. Đây là lời mời gọi hoàn toàn tự do, chúng ta có toàn quyền lực chọn, Chúa không bắt buộc nhưng mời gọi. Từ bỏ mình là từ bỏ mọi sự kể cả mạng sống, mà từ bỏ mình không phải chỉ một lần là đủ mà là thái độ sẵn sàng từ bỏ trong mọi giây phút của cuộc sống.

Từ bỏ chính mình không phải là vong thân mà trở nên giống Đức Kitô “ đồng hình đồng dạng” với Chúa Giêsu, nên giống Đức Kitô là tìm lại hình ảnh ban đầu. Từ bỏ để theo Chúa chúng ta không mất gì mà còn được tất cả, bỏ cái mau qua lấy cái vĩnh hằng, bỏ cái tương đối lấy cái tuyệt đối, bỏ cái chết để lấy cái sống. Thế nhưng, sống tận căn thân phận từ bỏ là đi theo con đường của Thầy, con đường độc đạo, con đường nhiều bấp bênh và tăm tồi, chúng ta có dám sống không? Cuộc sống của chúng ta sẽ vén mở căn tính của Đức Kitô, dung mạo của ta phải mang nét đặc trưng của Người, để chúng ta có thể nói như Phaolô “ anh em hãy bắt chước tôi như tôi đã bắt chước Chúa Giêsu”.

Lạy Chúa, Chúa đã chấp nhận cuộc sống đau thương và cái chết nhục nhã để đem lại sự sống đời đời cho chúng con. Xin Chúa luôn nhắc nhớ chúng con vấn nạn xưa “ còn con, con bảo Thầy là ai” để chúng con tăng thêm lòng mến và niềm tin vững mạnh vào Chúa. Nhờ đó, chúng con biết kiên trì theo Người trên con đường khước từ bản thân, sống nhẫn nhục, hiền hậu, xả thân theo gương Chúa.

ĐAU KHỔ, ĐAU KHỔ
Mc 8, 27 - 35

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.

 “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Đây là một điều kiện Chúa Giêsu đưa ra cho những ai muốn theo Chúa. Và ai muốn theo Chúa thì phải chấp nhận điều kiện của Chúa. Điều kiện đó là vác thập giá. Vác thập giá nghĩa là thế nào?

Thời Chúa Giêsu, vác thập giá là một cực hình khổ nhất, nhưng thông dụng nhất mà người Rôma đế quốc đã đem áp dụng ở Do thái. Vậy nói tới thập giá, đối với thời Chúa Giêsu, là một khổ hình và chắc chắn chết nhục nhã. Người nào vác thập giá là người bị đưa tới pháp trường để chịu đóng đinh mình vào thập giá đó. Vác thập giá lên vai có nghĩa là bắt đầu đi đến chỗ chết. Vác thập giá cũng có nghĩa là bắt đầu đau khổ thực sự. Vì thế, những đau khổ trong cuộc đời chính là thập giá Chúa bảo chúng ta phải vác mà đi theo Ngài. Đây chính là vấn đề chúng ta muốn hiểu biết : vấn đề đau khổ trong cuộc đời.

Từ xưa đến nay, có một vấn đề gai góc, một vấn đề nan giải, một vấn đề làm cho nhiều người thắc mắc và thất vọng. Đó là vấn đề đau khổ. Người ta sinh ra trong tiếng khóc, trải qua cuộc đời đầy nước mắt, rồi âm thầm nằm xuống trong tiếng khóc chân thật hay giả dối của người khác. Cho nên, Kinh Thánh nói : “Đời là thung lũng nước mắt”. Đã là thung lũng nước mắt thì cũng là bể khổ, vì sao vậy ? Xưa nay các nhà hiền triết đã nát óc đi tìm một câu trả lời thỏa đáng. Đức Phật Thích ca đi tu cũng vì muốn tìm một câu trả lời cho câu hỏi gai góc ấy.

Không hiểu lý do sự đau khổ, người ta tìm cách hủy diệt người đau khổ mà họ cho là chiếc gai phản tiến hóa. Đã có một thời chính phủ Nhật Bản ra lệnh tập trung tất cả những người mắc bệnh phong cùi trên một hòn đảo nằm ở giữa biển Thái Bình Dương và tưới xăng thiêu rụi cả hòn đảo chứa đầy bệnh nhân ấy. Họ mắc bệnh nan y, họ không có quyền sống. Trong thế chiến thứ hai, nhà độc tài Hít-le đã ra lệnh cho giám đốc bệnh viện Bê-then thủ tiêu tất cả mọi bệnh nhân mắc bệnh tâm thần, vì họ là thành phần vô dụng, ăn hại xã hội và quốc gia.

Không tin ở Thiên Chúa thì người ta không làm sao hiểu nổi vấn đề đau khổ. Và người ta có thể tuyệt vọng khi không làm sao tránh được đau khổ và bệnh tật. Văn hào vô thần Hen-ri đờ Mông-thơ-lan, thuộc hàn lâm viện Pháp, lúc về già, bị mù. Vì không chịu được sự đau khổ ấy, ông đã dùng súng lục bắn vào họng tự sát.

Vấn đề đau khổ, ai sẻ đem lại cho chúng ta một câu trả lời thỏa đáng ? Chỉ có một Đấng là Chúa Giêsu mới có thể trả lời cho chúng ta. Và nhờ ánh sáng Tin Mừng của Chúa chúng ta mới hiểu được nguyên do của đau khổ, đó chính là tội lỗi. Đau khổ đã xuất hiện từ khi loài người bắt đầu phạm tội và sẽ còn mãi cho đến tận thế. Mở trang đầu của Kinh Thánh, chúng ta thấy Chúa dựng nên vạn vật, chim trời, cá biển, cầm thú và con người, rồi Kinh Thánh kết luận : “Mọi sự Chúa dựng nên đều tốt đẹp, rất tốt đẹp”. Nhưng rồi chương trình tốt đẹp ấy đã bị đổ vỡ. Tội lỗi đã len vào thế gian. Và vì tội thì có sự chết nữa. Nghĩa là từ ngày nguyên tổ phạm tội thì đau khổ báo trước sự chết và sự chết đã ngự trị trên trần gian. Mỗi ngày có biết bao nhiêu tiếng khóc, có biết bao nhiêu dòng nước mắt. Mỗi ngày có hàng vạn ngườichết. Bản án còn vang lên : “Vì ngươi đã phạm tội thì trái đất sẽ sinh gai góc, ngươi phải làm ăn vất vả, đổ mồ hôi trán mới có ăn và ngươi là tro bụi thì sẽ hoàn về tro bụi”. Từ đó, đời là bể khổ, đời là thung lũng nước mắt. Đau khổ là do tội lỗi phát sinh.

Chúa Giêsu đến trần gian, Ngài gánh lấy tội lỗi nhân loại. Nhờ sự chết và sống lại, Ngài đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Nhưng Ngài không cất đi hình phạt của tội lỗi là gian nan đau khổ. Hơn nữa, Ngài dùng đau khổ làm giá cứu chuộc chúng ta. Vì thế, đời sống Chúa Giêsu là một đời đầy gian lao đau khổ. Cuộc sống ấy đi dần đến một cái chết ghê sợ nhất trên đời, nhưng Ngài chấp nhận. Ngài mong chờ nữa, vì không có máu đổ ra thì không có ơn cứu chuộc.

Chúa đã chịu đau khổ để đền tội chúng ta, thì Ngài cũng thánh hóa sự đau khổ để nêu gương sáng cho chúng ta. Hơn nữa, Ngài lấy sự nhẫn nại chịu đau khổ như là một điều kiện để theo Ngài, để làm môn đệ của Ngài : “Ai muốn theo tôi, hãy vác thập giá mình mà theo”. Từ đây không ai có thể tự hào là môn đệ Chúa mà không tham gia vào cuộc thương khó của Chúa, không vui lòng lãnh nhận phần đau khổ riêng tư của mình. Vì thế, khi gặp đau khổ, Chúa dạy chúng ta đừng buông xuôi, đừng thất vọng, đừng lồng lộn rủa trời, chửi đất mà hãy đến cầu xin với Chúa : “Hãy đến với tôi, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, tôi sẽ nâng đỡ bổ sức cho”.

NGÀI LÀ ĐỨC KITÔ
Mc 8, 27 - 35

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT

Các bài đọc Chúa nhật hôm nay, đặc biệt là đoạn Tin Mừng thường được mệnh danh là cuộc tuyên tín của Phêrô ở địa hạt Cêsarê thuộc quyền của Philíp. Chúa Giêsu sau một thời gian dài đi rao giảng, loan báo Nước Thiên Chúa, Ngài đã làm nhiều phép lạ, đã giảng dậy nhiều điều. Do đó, người ta bắt đầu đặt nghi vấn về Ngài.

Với những điều dậy mới mẻ, đi ngược lại với các Rabbi và các luật sĩ, biệt phái, với những phép lạ lừng danh, xua trừ ma quỉ, dân chúng thắc mắc về Chúa Giêsu và sứ mệnh của Ngài. Điều này không làm chúng ta ngạc nhiên vì con người cao cả của Chúa Giêsu, con người rất danh tiếng và thế giá của Ngài. Nên, có kẻ bảo Ngài là ngôn sứ Giêrêmia hay một ngôn sứ nào đó, có người bảo Ngài là Gioan tiền hô đã sống lại. Đối với Chúa Giêsu, Ngài vẫn im lặng, vẫn tiếp tục giữ kín về tông tích và sứ mạng của Ngài. Mỗi lần thực hiện một phép lạ nào đó, Chúa lại căn dặn người được lành không được nói với ai. Chúa giữ kỹ tông tích của Ngài. Theo các nhà chú giải Kinh Thánh, đây là bí mật”Mêsia”. Tuy nhiên, Chúa Giêsu muốn phá vỡ sự im lặng ấy, Ngài mới hỏi các môn đệ nghĩ gì về Ngài, dư luận quần chúng nghĩ gì về Ngài, câu trả lời của các môn đệ sẽ là phản ánh lại dư luận nhân dân, của đám đông, đồng thời là trắc nghiệm về lòng tin của các tông đồ. Lời thưa của Phêrô đại diện các tông đồ:” Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống “. Câu trả lời của Phêrô là câu giải mã về tông tích của Chúa Giêsu. Ngài là Đức Kitô có nghĩa Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến để giải phóng dân tộc, cứu vớt nhân loại khỏi tội lỗi. Lời tuyên tín của Phêrô theo cái nhìn của ông và hợp với giấc mơ của Phêrô và các tông đồ khác theo nghĩa trần gian: Đức Kitô đến giải phóng dân tộc của các ông khỏi ách thống trị của ngoại xâm và thiết lập nước các ông thành một vương quốc thịnh vượng trong đó các ông được chia chác làm lớn trong vương quốc này. Chính vì thế, khi vừa nghe Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của Ngài sẽ phải chịu theo ý Thiên Chúa Cha. Phêrô không thể nào chịu nổi. Ông đã cản ngăn ngay ý định của Thầy mình. Chấp nhận Đức Kitô là Con Thiên Chúa, nhưng Phêrô không thể chấp nhận con đường khổ gía của Ngài. Chúa Giêsu quở trách Phêrô là satan vì chỉ có satan mới dám ngăn cản con đường cứu thế của Chúa.

Con đường cứu thế của Chúa là con đường thập giá, con đường đau khổ. Sở dĩ Phêrô và các môn đệ đã chưa nhận ra được con đường của Thầy: đau khổ, chết trên thập giá và phục sinh khải hoàn là bởi các ông chưa được Thánh Thần soi sáng, tác động. Phêrô và các môn đệ khác chỉ có thể nhận ra con đường cứu độ của Chúa sau khi Ngài từ trong kẻ chết sống lại. Chữ Kitô có nghĩa gắn liền với thập giá. Mang danh hiệu Kitô hữu cũng có nghĩa gắn liền với sự đau khổ và thập giá của Đức Kitô, Phêrô và các môn đệ khác đã sống tới cùng tận lời tuyên xưng của mình; tất cả đều chết như Đức Kitô. Thập giá là tình yêu. Do đó, Chúa nói:” Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mỗi ngày mà theo Ta” ( Mc 8, 34 ). Thập giá không là cây gỗ bất động, nhưng là cây sự sống mang lại quả phúc đời đời. Lời mời gọi của Chúa có tính hoàn toàn tự do. Chúa không bắt buộc ta chọn hay khước từ thập giá, nhưng Chúa cho ta hoàn toàn tự do chọn hay khước từ lời mời gọi của Chúa. Chúa không bảo chúng ta đi tìm thập giá, nếu không, đạo công giáo chỉ là một thứ đạo đầy ải, làm khổ, đầy đoạ mình; Chúa nói chúng ta vác thập giá mình. Vác thập giá nghĩa là từ bỏ tất cả, từ bỏ mọi sự và sẵn sàng liều ngay cả mạng sống của mình. Chúa không bao giờ bắt chúng ta vác nặng quá sức chịu đựng của chúng ta. Chúng ta có thể khước từ thập giá bằng nhiều cách hoặc từ khước ân huệ sự sống là món quà vô giá Chúa ban tặng, hoặc chúng ta đóng kín cõi lòng, không biết mở ra cho người khác như kẻ đói chúng ta không cho ăn, kẻ khát chúng ta không cho uống, kẻ rách rưới, trần truồng chúng ta không cho mặc vv… Đó là cách khước từ thập giá mà con người hằng ngày và thường xuyên bị cám dỗ, thử thách. Thánh Giacôbê trong bài đọc thức hai cũng viết rõ:” Đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Đức tin gắn liền với lòng yêu mến. “ Ai liều mạng sống vì Ta sẽ được sống” ( Mc 8, 35 ). Từ bỏ, hy sinh, liều mạng sống sẽ tìm được mối lợi là Đức Kitô. Nói như thánh Phaolô:” Tôi chỉ biết có một Đức Kitô mà là Đức Kitô chịu đóng đinh thập giá“.

“Còn các con, các con bảo Thầy là ai ?”. Câu hỏi đó vẫn được đặt ra cho mỗi người chúng ta từng phút, từng giờ, từng ngày trong cuộc sống.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con chỉ một lòng mến Chúa và yêu tha nhân. Amen.

CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN
Mc 8, 27 - 35

Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn

Hàng ngày khi đọc báo, xem truyền hình và ngay cả trên đường phố, chúng ta thấy nhan nhản những bảng quảng cáo, cùng với biết bao lời hay, ý đẹp để giới thiệu cho các sản phẩm: nào là 3 trong 1, nào là ngon bổ rẻ, nào là tiện lợi, nhanh chóng, nào là số 1 thế giới… và còn nhiều rất nhiều lời khác nữa. Trong khi đó, khi mời gọi các môn đệ và từng người chúng ta theo Ngài, Đức Giêsu lại nói: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mỗi ngày mà theo Ta” (Mt 16, 24). Thật đúng là một lời mời gọi khác thường, bởi vì trước mắt mọi người, thập giá thì có gì hay đâu, hay nói theo cách nói của thánh Phaolô: “thập giá là một sự điên rồ đối với dân ngoại, và là một điều ô nhục đối với người Do thái” (1 Cr 1, 23). Thế nhưng, chính ngang qua con đường thập giá đó, Đức Giêsu đã đem lại ơn cứu độ muôn đời cho từng người chúng ta, như lời Ngài nói với Nicôđêmô: “Cũng như Môisen treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng bị treo lên như vậy, để những ai tin Người thì không bị tiêu diệt muôn đời”.

Do đó, trong giờ chia sẻ này, tôi muốn được cùng quý ông bà anh chị em dành thời giờ để suy niệm về hai khía cạnh của mầu nhiệm thập giá: Vâng phục, con đường của thánh giá và Thánh giá, con đường đưa tới sự sống, để từ đó, chúng ta rút ra bài học cho bản thân từng người chúng ta.

1. Vâng phục, con đường của thánh giá:
Thời đại hôm nay, do quá chú trọng đến tự do cá nhân, nên khi nói đến hai chữ: “Vâng phục” người ta thường nghĩ rằng điều này làm cho chúng ta mất tự do. Mặt khác, nhìn bên ngoài, vâng phục còn có vẻ như là cách sống của trẻ con, những con người yếu đuối, chưa trưởng thành. Tuy nhiên, sự vâng phục mà Lời Chúa hôm nay muốn nói đến đó là sự vâng phục trong lòng tin và tình yêu. Một sự vâng phục trong tự do mà chỉ có những tâm hồn mạnh mẽ, và thực sự trưởng thành mới có thể thực hiện được.

Đó chính là sự vâng phục mà Đức Giêsu, Chúa chúng ta đã sống suốt cuộc đời mình, như lời thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Philipphê mà chúng ta vừa nghe: “Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình … Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá”. Vâng, Đức Giêsu đã “hủy bỏ chính mình… và tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá”. Ngài đã sẵn sàng chết trên cách ô nhục trên thập giá, cho dù Ngài hoàn toàn có thể tránh khỏi được. Điều đó cho thấy sự mạnh mẽ, và tình yêu tuyệt vời mà Ngài dành cho chúng ta, một tình yêu đi cho đến cùng (x. Ga 13, 1).

Vâng phục của Đức Giêsu, chính là sự biểu hiện của những tâm hồn mạnh mẽ, tự do và trưởng thành, như lời Ngài nói: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy” (Ga 10, 18). Đức Giêsu đã hoàn toàn tự do khi vâng ý Cha, hiến dâng mạng sống của Ngài, vì Ngài biết rõ đây là con đường đem đến ơn cứu độ cho chúng ta. Và như thế, ý của Cha cũng chính là quyết định trong tự do của Đức Giêsu.

Vâng phục còn là con đường của tình yêu, bởi vì khi vâng ý Cha đi con đường thập giá, Đức Giêsu đã cho chúng ta thấy rõ tình yêu tuyệt vời mà Ngài dành cho chúng ta, bởi lẽ: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13). Chính trong tình yêu, sự vâng phục không còn là gánh nặng, nhưng trở nên nhẹ nhàng và là phương thế diễn tả chân thành, cụ thể nhất của tình yêu.

Chính nhờ sự vâng phục đó, Đức Giêsu đã biến thập giá từ một biểu tượng của sự ô nhục, và là một trong những hình phạt dã man nhất mà con người dành cho nhau, trở thành cây Thánh giá, biểu tượng cho sức mạnh của tình yêu và sự sống. Một tình yêu và sự sống phát xuất từ Thiên Chúa và tiếp tục tuôn chảy đến cho từng người chúng ta hôm nay.

2. Thánh giá, cây sự sống:
Nhờ sự vâng phục của Đức Giêsu, Thánh giá đã trở nên một biểu tượng cho sự sống. Điều này đã được báo trước qua hình ảnh con rắn đồng treo trong hoang địa thời Xuất hành. Lúc đó, trong cuộc hành trình về Đất Hứa, mặc cho Thiên Chúa đã ban biết bao nhiêu ơn lành và gìn giữ họ suốt quãng đường dài trong sa mạc, dân Do thái vẫn không ngừng kêu trách Chúa và Môisen: “Tại sao các người dẫn chúng tôi ra khỏi Ai cập, cho chúng tôi chết trong hoang địa”. Họ đã kêu trách, chống đối lại Thiên Chúa, hay nói cách khác, họ đã không còn tuân phục Thiên Chúa. Như thế, họ đã đi vào “vết xe cũ” mà Nguyên tổ đã đi trong vườn Địa đàng năm xưa, khi đưa tay hái trái cây Thiên Chúa cấm, và hậu quả của sự bất tuân thật rõ ràng: “Bởi đó Chúa đã cho rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người”.

Bất tuân đã đưa đến sự chết. Do đó, để lấy lại sự sống, con đường duy nhất là chính là sự vâng phục. Ý thức điều đó, họ đã chạy đến với Môisen, và thưa rằng: “Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi nói những lời phản nghịch Chúa và phản nghịch ông. Xin ông cầu nguyện để Chúa cho chúng tôi khỏi rắn cắn”. Lúc đó, Chúa đã phán cùng Môisen: “Ngươi hãy đúc một con rắn đồng và treo nó lên làm dấu; kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được sống”. Như thế, việc những kẻ bị rắn cắn được cứu sống không phải do sức mạnh của con rắn đồng, nhưng chính là do lòng tin tưởng và vâng phục của họ đối với Thiên Chúa, thể hiện qua việc vâng lời Người mà nhìn lên con rắn đồng. Thiên Chúa sẵn sàng bỏ qua những lỗi lầm, những bướng bỉnh, cố chấp của chúng ta, miễn là chúng ta thành tâm quay trở lại với Ngài.

3. Sống mầu nhiệm Thánh giá:
Họp nhau cùng với toàn thể Giáo Hội suy tôn Thánh Giá hôm nay, không phải chúng ta suy tôn một khúc gỗ, hay kính nhớ một hình phạt, nhưng là cơ hội để chúng ta chiêm ngắm tình yêu tuyệt vời của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Một tình yêu được thể hiện qua sự vâng phục hoàn toàn của Ngài đối với Thánh Ý Chúa Cha, một sự “vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá”. Nhờ đó, Đức Giêsu đã biến thập giá thành Thánh giá đem lại ơn cứu độ cho chúng ta.

Không chỉ chiêm ngắm, ngang qua lời Chúa hôm nay, Giáo hội cũng mời gọi từng người chúng ta đi lại con đường Đức Giêsu đã đi, con đường của sự vâng phục. Trước hết, đó là sự sẵn sàng vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa. Đứng trước mỗi một biến cố vui buồn trong cuộc sống thường ngày, chúng ta hãy suy nghĩ, cầu nguyện để tìm ra ý Chúa và can đảm thi hành. Vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa là sẵn sàng sống theo sự thật, bởi vì chính Đức Giêsu đã khẳng định rằng: “Ta là Đường, là Sự thật và là Sự sống” (Ga 14, 6a). Sự thật đó là Lời Chúa trong Kinh Thánh, là lời giáo huấn của hàng Giáo phẩm, của cha mẹ, thầy cô, những người có trách nhiệm hướng dẫn chúng ta. Sự thật đó còn có thể đến từ bạn bè, từ những em nhỏ, và cả những người không tin có Thiên Chúa nữa. Chúng ta cần sẵn sàng sống theo Sự thật, theo Chân lý, cho dù Sự thật đó đến từ nơi đâu. Chúng ta hãy khiêm tốn mở rộng cõi lòng để đón nhận Chân lý và sống công chính.

Nếu trong từng gia đình, từng cộng đoàn, mỗi người đều hết lòng vâng phục và sống theo Sự thật, tôi tin chắc rằng, gia đình và cộng đoàn của chúng ta sẽ nhận được sự sống vĩnh cửu phát xuất từ cây Thánh Giá của Đức Giêsu mà chúng ta mừng kính hôm nay. Amen.

CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN
Mc 8, 27 - 35

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Chúa Giêsu bắt đầu mạc khải giai đoạn hai về sứ mạng cứu độ của Ngài sau những lời vén lộ nước trời bằng những dụ ngôn và dấu lạ. Giờ đây, Chúa Giêsu dành riêng những lời mạc khải cho các tông đồ bằng cách nói cho các ông thấy cách thức Ngài sẽ thực hiện để cứu chuộc nhân loại, cứu chuộc con người.

Thánh Marcô trong đoạn Tin Mừng 8, 27-35 cho nhân loại hiểu rõ không úp mở là Ngài phải thực hiện sứ mạng cứu rỗi của Ngài trong sự chống đối hận thù của nhiều lớp người, đặc biệt đối với những lớp người có chức sắc trong dân Do Thái lúc đó và nói cho cùng ngay trong hàng ngũ các môn đệ mà Ngài tuyển chọn cũng hiểu lầm, cũng cản ngăn đường thập giá, đường đau khổ của Chúa. Sự chống đối và hận thù theo kiểu biệt phái đã dẫn tới cuộc thương khó và cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Hận thù, tranh chấp và chống đối của lớp cai quản dân Do Thái, của Hội đồng thượng tọa, hội đồng tư tế, kỳ lão, đầu mục không phải là tiếng nói cuối cùng của Chúa Giêsu để rồi tắt lịm luôn, nhưng Chúa Giêsu sẽ sống lại sau khi bị chôn cất trong mồ ba ngày. Con đường vinh quang của Chúa Giêsu phải kinh qua thử thách chông gai, trải qua thương khó và đau khổ. Nhưng mạc khải quan trọng và cốt yếu này không dễ được mấy ai chấp nhận và hiểu thấu. Ngay đối với các tông đồ, những đệ tử thân tín nhất cũng chỉ được Chúa Giêsu thông báo khi đòi họ tuyên xưng lòng tin vào Chúa Giêsu. Phêrô tuyên xưng thay mặt toàn thể các môn đệ:” Thầy là Đấng Kitô” ( Mc 8, 29 ). Tuy Phêrô hay nói cách nôm na, tất cả các môn đệ đã có cái nhìn của Thần khí, nhưng trước mạc khải về sự thống khổ, điều bi đát vẫn xẩy ra vì Phêrô lại có cái nhìn xác thịt để cản ngăn đường đi của Chúa Giêsu.

Phêrô và các môn đệ quả như những người Do Thái cảm thấy chói tai, khó chịu và không thể chấp nhận nổi khi nghe Chúa Giêsu loan báo về sứ mạng cứu thế của Chúa Giêsu. Phêrô đã bị Chúa Giêsu quở mắng thực sự, không khoan nhượng vì khi cản ngăn con đường cứu chuộc của Chúa, Phêrô đã giữ vai trò của Satan kẻ tìm cách cám dỗ và ngăn cản con đường cứu chuộc của Chúa:” Satan ! lui lại đàng sau Thầy ! Vì tư tưởng của anh không phải tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”( Mc 8, 33 ). Chúa Giêsu quả thực đã mạc khải cho các môn đệ và nhân loại con đường cứu thế của Ngài để tất cả những ai tin và đi theo con đường của Chúa sẽ được ơn tha thứ, được hạnh phúc và được cứu độ.

Chúa Giêsu khi loan báo cuộc thương khó ( Mc 8, 31 ) của Ngài để cứu độ nhân loại đã cho nhân loại thấy tính cách quyết liệt của Tin Mừng Ngài mang lại. Vì Ngài là Tin Mừng cứu độ. Sứ mạng và tính cách thực hiện sứ mạng cứu rỗi của Ngài:” Chúa phải đau khổ mới tới vinh quang”. Đây là điểm làm đảo lộn tất cả mọi trật tự: ơn cứu độ không chỉ dành riêng cho một số người được ưu tuyển hay được chọn lọc mà ơn cứu rỗi thuộc về mọi người. Chúa đến trần gian không để thỏa hiệp với bất cứ một ai, nhưng Ngài cương quyết, tự do hoàn toàn để loan báo, để giới thiệu nước trời. Chúa Giêsu đòi hỏi con người luôn phải trả lời cho Ngài về ý nghĩa của cuộc sống con người. Mỗi con người tự mình mà có hay con người do Đấng tạo hóa sinh ra:” Vì được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì ?”( Mc 8, 36 ). Con người chỉ có thể hiểu được nội dung Tin Mừng, sứ điệp cứu rỗi của Chúa khi con người sẵn sàng bỏ hết tất cả để theo Đức Kitô:” Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chinh mình, vác thập giá mình mà theo”( Mc 8, 34 ). Tin Mừng của Đức Kitô đòi hỏi con người phải cương quyết, dứt khoát, không thỏa hiệp mà phải thanh thản mà bước theo Chúa Giêsu. Hiểu được như thế, con người sẽ bước đi một cách tự do và thanh thoát mà theo Đức Kitô.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết lắng nghe và thực thi lời Chúa, nhận ra Chúa trong mọi trạng huống của cuộc đời.

Nguồn vietcatholic.org

 

857    10-09-2015 20:43:02