NHỮNG TÊN TÁ ĐIỀN SÁT NHÂN
Mt 25, 14-30
1. Ý nghĩa dụ ngôn những tá điền sát nhân
Bài Tin Mừng hôm nay là một dụ ngôn có ý nói bóng gió về tình trạng đã, đang và xảy ra trong dân Do Thái, mà trước mắt có sự góp phần của giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái là âm mưu giết Đức Giê-su. Kết cục được diễn tả trong câu cuối của bài Tin Mừng là: Dân Do Thái được Thiên Chúa dành ưu tiên trong việc vào Nước Thiên Chúa, nhưng vì họ tỏ ra không xứng đáng, nên chỗ ưu tiên của họ được nhường cho những dân tộc khác.
Thiên Chúa đã yêu quí dân Do Thái, điều này được diễn tả trong bài đọc I: Thiên Chúa cưng chiều dân Do Thái như một người có một vườn nho mà anh ta rất quí: «Anh ra tay cuốc đất nhặt đá, giống nho quý đem trồng, giữa vườn anh xây một vọng gác, rồi khoét bồn đạp nho» (Is 5,2a). Anh quí nó đến nỗi làm cho nó tất cả những gì mà anh nghĩ nó cần nó thích: «Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm?» (5,4). Anh ta kỳ vọng rất nhiều vào vườn nho đó, nhưng vườn nho đã làm anh thất vọng: «Anh những mong nó sinh trái tốt, nó lại sinh nho dại» (5,2b). Một vườn nho như thế thì người chủ nên làm gì cho nó? Thất vọng vì vườn nho ấy, anh ta đã «hàng giậu thì chặt phá cho vườn bị tan hoang, bờ tường thì đập đổ cho vườn bị giày xéo () biến thửa vườn thành mảnh đất hoang vu, không tỉa cành nhổ cỏ, gai góc mọc um tùm; truyền lệnh cho mây đừng đổ mưa tưới xuống» (5,5-6). Vườn nho đó được I-sa-i-a xác định: «Vườn nho đó chính là nhà Ít-ra-en; cây nho Chúa mến yêu quý chuộng, chính là người xứ Giu-đa. Người những mong họ sống công bình, mà chỉ thấy toàn là đổ máu; đợi chờ họ làm điều chính trực, mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc than» (5,7).
Trong dụ ngôn bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su tiếp tục khai triển chủ đề «vườn nho» của bài đọc I (Is 5,1-7), với những ám chỉ sau đây: 1. Vườn nho ám chỉ dân Do Thái; 2. Ông chủ đất ® Thiên Chúa,3. Bọn tá điền ® Các lãnh tụ tôn giáo Do Thái; 4. Các tôi tớ của chủ đất ® Các ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến; 5. Người con trai của ông chủ ® Đức Giê-su; 6. Các tá điền khác ® Dân ngoại.
Toàn bài dụ ngôn nói lên diễn tiến trong lịch sử dân Do Thái: Thiên Chúa chọn Do Thái là dân riêng của Ngài giữa mọi dân tộc. Ngài muốn họ là cầu nối giữa Ngài với mọi dân tộc khác và với toàn nhân loại. Để thực hiện mục đích ấy, Ngài đã sai các ngôn sứ đến để dạy dỗ, sửa đổi và cho họ biết ý định của Ngài. Nhưng lời nói của những ngôn sứ này thường không lọt lỗ tai các lãnh tụ tôn giáo Do Thái, vì «trung ngôn nghịch nhĩ», «lời thật mích lòng». Và kết quả là các ngôn sứ này đều bị ném đá chết dưới tay các lãnh tụ tôn giáo Do Thái. Chính ngôn sứ Ê-li-a đã phải than phiền: «Khi cầu nguyện với Thiên Chúa, ông đã tố cáo dân Ít-ra-en rằng: Lạy Chúa, các ngôn sứ của Ngài, chúng đã giết chết; bàn thờ của Ngài, chúng đã phá huỷ. Chỉ còn sót lại một mình con, thế mà chúng cũng đang tìm hại mạng sống con» (Rm 11,3; x. V 19,10.14).
Cuối cùng, Thiên Chúa sai chính Con Một của mình đến cũng để làm công việc ngôn sứ ấy, thì cũng bị họ giết chết một cách dã man và thảm hại. Dân Do Thái vì hèn nhát trước quyền lực nên cũng hùa theo các lãnh tụ của họ. Vì thế, dân Do Thái đã bị Thiên Chúa loại bỏ, mất quyền ưu tiên đối với Nước Trời. Và Nước Trời do Đức Giê-su thiết lập - gồm những người tin theo Đức Giê-su - bao gồm những người mà người Do Thái gọi là dân ngoại, gồm đủ mọi dân tộc trên thế giới.
Còn dân Do Thái đã bị đào thải khỏi lịch sử: tháng 9 năm 70, Titus, lúc ấy làm thống soái quân đội Rôma (sau làm hoàng đế năm 79-81), đã bao vây và chiếm Giê-ru-sa-lem, giết rất nhiều người Do Thái. Kể từ đó, Do Thái bị mất nước, và dân Do Thái phải tản mác khắp nơi trên thế giới. Đến thế chiến thứ hai, dân Do Thái tại Đức đã bị Hitler giết tới 6 triệu người. Mãi đến năm 1947, sau gần 19 thế kỷ bị mất nước, Do Thái đã lập quốc trở lại tại vùng đất cũ, nhưng kể từ đó, họ phải chiến tranh liên tục với dân Palestin và Ai Cập cho đến nay.
2. Dụ ngôn đó có áp dụng cho Giáo Hội chúng ta không?
Khi tôi học Cựu Ước, giáo sư dạy Kinh Thánh cho tôi thường nói: « Israel là Giáo Hội, Israel là chính tôi». Vì thế, nếu bài dụ ngôn kia có thể áp dụng cho dân Do Thái, thì cũng có thể áp dụng cho Giáo Hội và cho chính bản thân tôi.
Do Thái giáo là một tôn giáo do chính Thiên Chúa thiết lập qua các tổ phụ, Mô-sê và các ngôn sứ, với hàng giáo phẩm là các tư tế, lê-vi và các ráp-bi. Thiên Chúa đã trực tiếp can thiệp vào lịch sử của dân tộc, đã ra tay giải phóng dân tộc Do Thái khỏi ách thống trị Ai Cập, đã đích thân ban hành luật pháp cho họ, đã trực tiếp chỉ định những vì vua cai trị họ Ngay cả Ki-tô giáo hiện nay cũng chưa được Thiên Chúa trực tiếp can thiệp như thế. Có ngôn sứ nào trong Ki-tô giáo oai hùng như I-sa-i-a, khi ra lệnh cho dân Do Thái điều gì thì đều nói: « Thiên Chúa là Chúa các đạo binh phán như thế» (x. Is 1,24; 3,15; 5,9; 10,24; 14,22-24; 17,3; 19,4; v. v) Vì thế, dân Do Thái đã rất có lý khi nghĩ rằng tôn giáo của mình do Thiên Chúa thiết lập ắt sẽ vĩnh cửu, và sẽ lan tràn khắp thế giới. Nhưng lịch sử cho chúng ta thấy họ đã lầm. Do Thái giáo đã tàn lụi, và được thay thế bằng Ki-tô giáo. Có thể nói, Do Thái giáo chính là tiền thân của Ki-tô giáo.
Ki-tô giáo hiện nay cũng đang tự hào là tôn giáo duy nhất do chính Thiên Chúa thiết lập, là tôn giáo có giá trị hơn hết mọi tôn giáo trên thế giới, nên mọi Ki-tô hữu đều tin tưởng nó sẽ tồn tại muôn đời, và sẽ lan tràn khắp thế giới. Nhưng nhiều khi các Giáo Hội Ki-tô giáo chỉ biết tự hào như thế mà quên đi niềm mong ước của chính Thiên Chúa đối với mình. Liệu Thiên Chúa có phải than phiền về Ki-tô giáo như đã than về Do Thái giáo: « Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm? Tôi những mong trái tốt, sao nó sinh nho dại?» Ki-tô giáo đã hơn Do Thái giáo những gì?
Đức Giê-su đến để thiết lập một tôn giáo mới dựa trên nền tảng tình yêu thương, và luật của Ki-tô giáo là luật yêu thương: « Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,34); «Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật» (Rm 13,8.10); «Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Ki-tô» (Gl 6,2); «Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình» (Gc 2,8).
Luật của Tân Ước mới hẳn so với Cựu Ước của Do Thái giáo, nhưng các Ki-tô hữu đã coi trọng luật ấy đủ chưa? đã tập trung mọi cố gắng để thực hành luật ấy đúng mức chưa? Hay Ki-tô giáo lại đi vào vết xe đã đổ của Do Thái giáo, là thượng tôn nghi thức, quá chú trọng tới những lễ nghi và hình thức bên ngoài? Còn lề luật chính yếu là sống yêu thương thì lại lãng quên? Có phải hiện nay hình thức của Ki-tô giáo thì mới mẻ và khác hơn Do Thái giáo, nhưng tinh thần nệ luật, nệ hình thức thì chẳng khác gì những người Do Thái ngày xưa? Đã tới lúc chúng ta cần nghiêm túc tự hỏi: ngày nay, người ngoài nhìn vào cách sống của người Ki-tô hữu, có thể nhận ra đạo của chúng ta là « đạo yêu thương» như thời Ki-tô giáo sơ khai không? Ngày nay, lễ «bẻ bánh» có còn là một dấu chỉ của một sự chia sẻ có thực trong đời sống giữa những người đến tham dự không, hay nó đã trở thành một nghi thức thuần túy, cho dù đầy ý nghĩa nhưng không có gì là thực tế cho lắm?
Mỗi Ki-tô hữu - nhất là những người có trách nhiệm hướng dẫn, lãnh đạo tôn giáo - cần tự vấn: Thiên Chúa hay Đức Giê-su có hài lòng với tình trạng Ki-tô giáo hiện nay không? Còn những người lãnh đạo tôn giáo cần tự vấn thêm: Tôi có giống như những vị lãnh đạo Do Thái giáo xưa, chẳng những không thèm nghe mà còn sẵn sàng bạc đãi hoặc bách hại những tiếng nói ngôn sứ vào thời đại của mình không? Hay ít ra khi họ bị bách hại vì đã chu toàn chức năng ngôn sứ của họ, tôi đã im lặng, làm ngơ, để mặc họ bị bách hại như thể tôi cũng đồng ý với sự bách hại ấy?
Không khéo Ki-tô giáo của chúng ta chẳng hơn gì Do Thái giáo, khiến Thiên Chúa cũng sẽ phải đối xử với chúng ta như đã đối xử với dân Do Thái: « Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi»!
Cầu nguyện
Lạy Cha, Ki-tô giáo hiện nay thế nào, chính con - cũng như bất kỳ Ki-tô hữu nào - đều có phần nào trách nhiệm. Xin cho con biết sống đạo Chúa Ki-tô đúng với với tinh thần yêu thương của Ngài. Xin cho con rút ra được bài học lịch sử của dân Do Thái để tránh được vết xe đã đổ .
John Nguyễn
TẬN DỤNG TÀI NĂNG CỦA CẢI CHÚA BAN
Mt 25, 14-30
Theo truyền thống tại các nước Cận Đông, khi một người giàu có trẩy đi xa, họ thường giao tài sản cho các đày tớ, ít hay nhiều, tùy theo khả năng của mỗi người.
Dụ ngôn trong Phúc Âm hôm nay kể lại người nhận được năm nén bạc biết ông chủ mong mình đầu tư để kiếm lời. Người nhận được hai nén, mặc dù ít hơn, cũng đầu tư để sinh lời. Theo tỉ lệ phần trăm, thì người đày tớ làm lời thêm hai nén, cũng thành công như người đày tớ sinh lời thêm năm nén. Cả hai người cùng cố gắng đầu tư để sinh lời cho những nén bạc của chủ, và do đó được ơn nghĩa với chủ.
Còn người đày tớ chôn vùi nén bạc của chủ có đủ khả năng để làm việc nhỏ được trao phó. Tuy nhiên anh ta đã để cho tính lười biếng và sợ hãi chi phối. Anh ta che đậy cái cớ không thích đáng của mình bằng cách trả lại tiền vốn nguyên vẹn, không lời cũng không lỗ. Và vì thiếu tinh thần trách nhiệm, anh ta đã bị cách chức, sa thải. Anh ta không nêu lý do tại sao lại chôn vùi nén bạc của chủ, mà chỉ trách chủ là người keo kiệt, hà khắc.
Câu hỏi ta cần đề cập đến hôm nay là mỗi người đã dùng của cải tài năng, ân huệ Chúa ban như thế nào? Mỗi người hãy nhìn vào chính mình để tìm ra cái khoảng cách giữa tài năng mình có và công việc mình hoàn thành. Khi mà người ta không chịu toại nguyện và thoả hiệp với chính mình, với những của cải, tài năng mình có, người ta sẽ sinh ra phàn nàn, kêu trách và hận Chúa. Cái thái độ đó sẽ khiến người ta khó lòng vượt ra khỏi mình, và sẽ tự làm khổ mình. Nó làm tắc nghẽn cái sức vươn lên của ta với Chúa. Khi mà ta dùng quá nhiều thời giờ phàn nàn về những cái ta không có, phàn nàn về số phận hẩm hiu, mắt ta sẽ bị che đậy, không nhìn thấy những điều may mắn, những ân huệ Chúa ban. Do đó tâm trí ta bị mây đen bao phủ. Vậy chỉ khi nào ta nhìn mình từ những điểm tích cực, chỉ khi nào ta tiếp nhận của Chúa ban, lớn cũng như nhỏ, với lòng biết ơn, ta mới nhìn thấy cái chiều sáng của cuộc đời.
Cũng như người chủ mong người đầy tớ dùng tiền của đã được trao phó để sinh lời, Thiên Chúa cũng mong ta dùng của cải tài năng về thể chất cũng như tinh thần và thiêng liêng để làm vinh danh Chúa. Chúa không đòi ta phải trả nhiều hơn là của cải đã được trao ban. Chúa chỉ đòi ta trách nhiệm về của cải tài năng đã được trao phó. Đọc Thánh kinh ta thấy Chúa thường nói những điều ngạc nhiên không ai nghĩ tới, đôi khi làm rối trí ngay cả các tông đồ thân tín. Câu kết luận của dụ ngôn hôm nay thoạt nghe xem ra có vẻ bất công: " Phàm ai có thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng bị lấy đi". (Mt 25, 29)
Cái bài học mà Chúa muốn dạy ta trong dụ ngôn hôm nay là cái tầm quan trọng của việc đầu tư vào đời sống thiêng liên. Theo Thánh Phaolô thì mỗi người nhận được những ân huệ khác nhau của Chúa: người thì nhận được nhiều của cải vật chất, người nhận nhiều của cải tinh thần như có đầu óc thông minh sáng tạo. Có người giỏi về thể thao, âm nhạc. Có người có tư cách tốt đẹp về bản ngã, nhân vị. Người khác có đời sống nội tâm cao độ, có thể gợi cảm hứng thiêng liêng nơi người khác. Cái điều quan trọng là khám phá những của cải tài năng mình có và tìm cách phát triển để làm vinh danh Chúa và phục vụ nhân loại chữ không tự phụ khoe khoang. Như vậy mỗi người đều có số vốn để đầu tư: vốn về vật chất, tinh thần và đời sống thiêng liêng. Mỗi người tùy theo khả năng, cơ hội, hoàn cảnh và điều kiện khác nhau, được kêu gọi dùng những của cải, tài năng và ân huệ Chúa ban một cách khôn ngoan và với tinh thần trách nhiệm để làm vinh danh Thiên Chúa và phục vụ nhân loại.
Lm Trần Bình Trọng, USA
ĐÁNH GIÁ TRỊ CON NGƯỜI
Mt 25,14-15.19-21
Dụ ngôn ông chủ trao những nén vàng cho người đầy tớ : người năm nén, sinh lợi ra 10 nén; kẻ 2 nén sinh lợi ra 4 nén; kẻ 1 nén đem chôn vô ích. Hai người làm sinh lợi được khen là tốt lắm, tài giỏi và trung thành. Ông chủ đã thưởng cho hai đầy tớ cả vốn lẫn lời, đặt họ lên địa vị cao và cho hưởng hạnh phúc chung với chủ. Kẻ chôn nén vàng đi, bị quở trách là tồi tệ, biếng nhác, vô dụng, bị phạt ném vào chốn tối tăm, khóc lóc nghiến răng.
Xem cung cách ông chủ xử với những đầy tớ, thì đây là thuật dùng người, hay là một cuộc xử án đánh giá công và tội. Cổ nhân dùng người thì gởi đi xa để thử tài, thử đức : Tài sẽ được phát hiện khi họ được tự do, được toàn quyền phát huy sáng kiến theo khả năng của mình, không còn phải e dè, lệ thuộc cấp trên. Đức sẽ tỏ ra khi họ được tự lập, tự chủ, đúng với nhân cách và địa vị của họ.
Dụ ngôn nói đến ông chủ đi xa để cho đầy tớ toàn quyền hành động. Nhờ đó ông thấy được ai hay ai dở. Sở dĩ ông trao số vàng cho kẻ nhiều, kẻ ít là tùy theo khả năng của mỗi người. Như vậy, chủ đã biết rõ tài năng của mỗi người. Chỉ còn xem ai tốt ai xấu thôi. Kẻ tốt sẽ trung thành với sự tin tưởng của chủ, anh sẽ hết lòng hết sức làm, không thắc mắc lương bao nhiêu ? không sợ lỗ lãi nhiều ít, miễn là cố gắng làm, hoàn toàn tín nhiệm vào lòng tốt của chủ, ca dao đã nói đúng : " Kẻ có nhân mười phần chẳng khó". Kẻ xấu, sợ khó khăn, sợ lỗ lãi, chỉ vì lười biếng hay bất phục ông chủ nên không muốn làm. Tục ngữ có câu : "Kẻ bần, trí đoản" - hạng bần tiện, trí khôn chỉ nghĩ đến những cái lợi trước mắt, những điều thiển cận, bo bo ích kỷ, không thấy được những điều cao xa hữu ích rộng lớn. Nó lười biếng, còn bất trung dám nghĩ xấu, nói đổ oan cho chủ là người keo kiệt, gặt nơi không gieo, thu nơi không vãi.
Dụ ngôn cho thấy ông chủ rất tốt đối với đầy tớ. Ông hoàn toàn lo giúp đầy tớ, tạo điều kiện cho đầy tớ làm giầu. Đầy tớ nào có thiện chí làm, ông cho cả vốn lẫn lời và thưởng nhiều đặc ân ngoài sức tưởng tượng của đầy tớ tốt, có thiện chí tận tâm tận lực làm việc. Đối với kẻ xấu, bất trung, bất hiếu không thể giúp nó làm được gì, nó còn phạm thượng. Ông đành phải lấy lại của đã cho nó. Ông buộc lòng mặc cho nó tự do lao đầu vào cảnh khốn khó tối tăm khóc lóc.
Mục đích của dụ ngôn không dậy thuật dùng người cho bằng, đánh giá trị con người : có thiện chí thì thưởng, có tội thì phạt.
Thiện chí ở đây không đánh giá con người bằng lời lãi tiền của như các ông chủ ngân hàng. Các ông chủ Ngân hàng Thế giới đánh giá trị một nước theo tổng sản lượng quốc nội trên đầu người (GDP), để xét xem dân tộc đó phát triển hay kém phát triển, văn minh hay mọi rợ.
Ông chủ trong dụ ngôn không thu lời mà còn cho cả vốn. Ông không cần tiền của. Ông không đánh giá người theo tiền của, ông đánh giá con người theo tốt xấu. Ai tốt ông thưởng đặc biệt. Ai xấu, ông loại bỏ.
Đây là Ông chủ nước Trời khác với mọi chủ trần gian. Chủ trần gian bắt đầy tớ, con nợ, phải trả vốn lẫn lời. Ông chủ nước Trời không những cho cả lời, cả vốn, cho địa vị sang trọng và hạnh phúc của ông. Chủ trần gian thưởng lớn cho kẻ tài cao, thưởng nhỏ cho kẻ tài hèn. Ông chủ nước Trời khen đồng đều cho kẻ tài cao, tài hèn miễn là có lòng tốt như nhau, thiện chí như nhau, trung thành như nhau. Sự đánh giá con người của ông chủ nước Trời tương tự như sự đánh giá bà nội trợ hoàn hảo của vua Massa. Ông đánh giá bà ở sự tin tưởng của chồng, ở sự lành bà làm, sự cần mẫn và việc bố thí kẻ nghèo, hướng dẫn kẻ bần cùng và lòng kính thờ Chúa. Ông không đánh giá bà ở giầu sang phú quý và con ăn đầy tớ đông đảo. Giá trị nhân đức của bà đáng giá hơn ngọc ngà châu báu (Bài I - Cách Ngôn 31, 10-20.. . 30-31).
Của cải của ông chủ nước Trời là tất cả trời đất muôn vật, là cả hồn xác chúng ta cùng với kho tàng ân sủng vinh quang, hạnh phúc muôn thuở. Ông trao tất cả cho chúng ta. Những ai thành tâm thiện chí, hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn thực thi ý chủ, thực thi thương người như chủ thương ta. Khi chủ đến tính sổ "bất cứ thời nào, lúc nào không cần biết, miễn là nếu anh em là con cái ánh sáng, con cái ban ngày, biết sống tỉnh thức và điều độ, mặc áo giáp đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ thì Thiên Chúa không dành án thịnh nộ cho chúng ta, nhưng cho chúng ta được hưởng ơn phúc cứu độ nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".
"Lạy Chúa Trời con, con chúc tụng Ngài, Đấng răn bảo con. Tâm can con tỉ tê nhắc bảo lời Ngài thâu canh. Con đặt Ngài luôn luôn trước mặt, bởi thế lòng con hớn hở, dạ con vui mừng, thân xác con được an toàn, vì Ngài không thí mạng con cho âm phủ. Ngài không để kẻ thành tín phải thấy mồ chôn. Ngài sẽ cho con biết con đường sự sống trước tôn nhan Ngài, phúc lộc no đầy, nguồn vui thú bên Ngài muôn thuở" (Tv. 16)
Lm Vikini
Booker Washington là người Mỹ da đen vĩ đại nhất. Ông là nhà giáo dục, nhà cải cách và văn sĩ nổi tiếng. Lúc mới 16 tuổi, Booler Washington đã đi bộ gần 600 cây số từ căn nhà nô lệ của cậu tới học viện Hampton, bang Virginia. Các lớp học đều đông đủ rồi, nên cậu không được nhận vào học. Và cậu nhận một công việc tại trường là quét phòng, dọn giường và làm một số việc hèn hạ khác. Cậu đã làm mọi việc rất chu đáo, thành ra cậu kéo được sự chú ý thuận lợi của phân khoa, và họ đã cho cậu một căn phòng sinh viên. Cậu làm việc với phong cách riêng của mình suốt thời gian đi học cho tới khi trở thành một giáo viên nổi tiếng và về sau là người sáng lập Học viện Tuskegee ở Alabama. Một người đã có thời là nô lệ trở thành người lãnh đạo chủng tộc da đen. Ông qua đời năm 1915.
Đây là mẫu gương về điều mà Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng hôm nay: "Anh đã trung tín trong việc nhỏ, tôi sẽ sở cậy anh trong việc lớn". Nói cách khác, bạn hãy làm một công việc khéo léo với những điều nhỏ bé được chỉ định cho bạn, rồi những dịp thuận lợi lớn hơn, tốt hơn và phần thưởng sẽ được dành cho bạn.
Chúa Giêsu đang nói về nước trời, về những sự thiêng liêng, chỉ là chân lý hôm nay Ngài nói với chúng ta mà người trần tục phải chấp nhận, nghĩa là, bạn hãy cố gắng với những gì bạn có và cơ hội lớn hơn sẽ được cống hiến cho bạn. Điều đó chẳng phải luôn gây ấn tượng cho bạn là những qui luật, lời khuyên, những dấu chỉ dẫn mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta về phương diện thiêng liêng cũng áp dụng vào thế giới vật chất của chúng ta sao ?
Những sự nhỏ bé cũng quan trọng. Xiết chặt những đai ốc ở bánh xe ô tô có thể cứu được một mạng sống, thu nhặt rác là việc cần thiết cho sức khỏe của một cộng đồng. Rửa chén bát giết được vi trùng. Dọn giường đẹp đẽ sẽ thêm tiện nghi cho người ngủ. Hãy làm những việc này và hàng trăm phận sự khác của đời sống hàng ngày một cách tốt đẹp, và bạn sẽ làm được những điều lớn lao hơn. Câu chuyện của Booker Washington là một bằng chứng về điều đó.
Chân lý này rất quan trọng trong thế giới thiêng liêng, đặc biệt hôm nay khi gia đình Chúa xin mọi người hành động, nghĩa là làm tất cả những gì bạn có thể để giúp đỡ gia đình Chúa. Một vài thí dụ như: những giáo dân là thợ điện, thợ mộc, hay làm bất cứ ngành nghề nào, dành dụm giúp đỡ các giáo xứ. Có nhiều người trồng bông để chưng cho bàn thờ. Còn nhiều giáo dân dâng hiến tài năng, thời gian và nghị lực góp phần giáo dục tôn giáo cho các thiếu nhi. Có những người giúp đỡ bằng việc thăm viếng người bệnh tật, gia nhập những nhóm cầu nguyện, học hỏi Lời Chúa, những người đọc sách thánh, những ca viên gồm cả bạn, làm cho nghi lễ thêm sốt sắng, linh động. Đây chỉ là một vài cách mà giáo dân đang xử dụng những khả năng tài cán mà Thiên Chúa ban cho.
Hôm nay Chúa Giêsu nói với các bạn là những người đang nỗ lực làm một cái gì, dù nhỏ bé, để giúp người khác hiểu biết, yêu mến và phụng sự Thiên Chúa: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, bởi vì anh đã trung tín trong viễc nhỏ mọn, tôi sẽ sở cậy anh việc lớn, hãy vào hưởng sự vui mừng với chủ anh".
Xin Chúa chúc lành cho tất cả mọi người đang phục vụ gia đình Chúa.
Tổ chức và các cơ cấu kinh tế thời nay rất khác với thời xưa. Các hoạt động kinh tế ngày nay rất bao quát, phức tạp và chồng chéo nhau. Sự biến đổi liên tục của thị trường chứng khoán là một ví dụ. Tuy nhiên những nguyên tắc kinh tế căn bản thì không thay đổi, thời nào cũng vậy. Thời nào thì hoạt động kinh tế cũng nhằm bỏ vốn để sinh lời. Vốn đầu tư càng nhiều thì lợi càng lớn. Đầu tư càng dài hạn thì càng thu hút được nhiều lợi.
Trong dụ ngôn các nén bạc Chúa Giêsu cũng mượn các qui luật kinh tế để nói về cách sử dụng và khai thác cuộc đời chúng ta. Thiên Chúa đã trao cho mỗi người chúng ta một số bạc, nhiều ít tùy người. Hết mọi người phải dùng số bạc đó để sinh lời. Và lời phải tương xứng với số vốn mình đã nhận được
Vốn Chúa trao cho chúng ta sinh lãi là những gì ?
Trước hết là chính sự sống, là chính cuộc đời chúng ta. Là những ngày tháng chúng ta được sống. Đó là số vốn ban đầu, là vốn căn bản. Vậy chúng ta phải sử dụng vốn đó như thế nào? Chúng ta có mặt trong cuộc đời không phải chỉ để sống cho qua ngày, nhưng còn để sống thế nào cho thật hữu ích và phong phú. Vì cuộc đời chúng ta trước sau rồi cũng qua đi. Chỉ những gì thật hữu ích chúng ta đã cố gắng làm mới sẽ còn mãi.
Vốn thứ hai, rất quí giá, được ban thêm vào vốn thứ nhất là đời sống mới trong Chúa Kitô, mà ta thường gọi là ơn làm con Thiên Chúa, ơn tái sinh, hoặc ơn cứu độ. Vốn này có tính quyết định: được thua, còn mất, sống chết là tại nó. Cuộc đời ta có nghĩa lý gì nếu không nhờ nó mà ta đạt tới ơn cứu độ. Ơn cứu độ chính là sự thành tựu chung cuộc của cuộc đời.
Cùng với ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho ta đủ mọi phương thế để thực hiện ơn ấy. Đây là loại vốn thư ba. Tất cả mọi ơn Thiên Chúa ban suốt đời ta đểu trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm giúp ta sống xứng đáng cuộc đời trần thế và đạt tới cuộc sông vĩnh cửu.
Mỗi ngày, trong mỗi việc, mỗi bổn phận, mỗi khó khăn, mỗi cố gắng, đều có ơn Chúa kèm theo. Có thể nói: Vì phần rỗi của chúng ta, Thiên Chúa đầu tư đúng mức và còn quá mức cần thiết.
Vấn đề được đặt ra là chúng ta đã sử dụng những vốn đó như thế nào. Có thể chúng ta đã hành động như người lãnh một nén bạc rồi đem chôn dưới đất hơn là như người lãnh mười nén bạc rồi sinh lợi được mười nén khác.
Trước hết đối với ngày tháng của chúng ta. Nhiều lúc chúng ta than tiếc đời chúng ta quá ngắn, nhưng nhiều khi lại phung phí thời giờ như thế nó vô tận, muốn sống bao lâu cũng được. Nếu chia ngày tháng chúng ta làm ba loại tùy theo cách sử dụng: có ích - vô ích - có hại... thì có lẽ hai loại vô ích và có hại chiếm phần lớn cuộc đời. Chăng hạn một người sống bảy mươi năm có thể dùng đến hơn sáu mươi năm đời mình vào những việc vô ích hoặc có hại. Nhìn chung cuộc đời như vậy thì thật khủng khiếp.
Thời giờ không phải chỉ là tiền, như những nhà kinh tế nghĩ, nhưng còn là ơn cứu độ, theo cái nhìn đức tin. Thời giờ là vốn quý để tăng trưởng, nhưng nếu thời giờ bị phung phí thì làm cho đời ta nghèo đi thay vì làm giàu thêm.
Đối với những ơn ta nhận được mỗi ngày cũng phải tính toán xem lời lỗ thế nào.
Mỗi ngày có đưa ta đến gần Chúa hạơn không, có giúp ta sống thánh thiện hơn không? Câu nói quen thuộc "càng thêm tuổi càng thêm nhân đức thật giản dị và thật hay. Nhưng sự thật có như vậy không ? Đó là một lý tưởng mà không dễ gì có thể đạt tới.
Về cuối cuộc đời, chúng ta có thuộc về Chúa, sống với Chúa, sống cho Chúa nhiều hơn khi còn ở đầu đời không ? Nếu không thì, về mặt đức tin, đó là một thất bại không sao có thể gỡ lại. Còn nếu có thì cuộc đời chúng ta sẽ là một thành công mà mọi thất bại khác, nếu có, thì cũng chẳng quan trọng bao nhiêu. Bởi vì vốn đã sinh lời và sinh thật nhiều lời: mười nén bạc đã sinh mười nén khác. Thành công này có tính quyết định. Mọi thất bại khác, dầu lớn đến đâu, cũng không thế làm thay đổi giá trị của nó.
NHẬN LÃNH VÀ TRÁCH NHIỆM
Mt 25,14-30
Thiên Chúa là Đấng tạo dựng và cứu chuộc chúng ta. Ngài là Chủ của chúng ta. Ngài không những cho chúng ta được hiện hữu nơi trần gian mà còn tiếp tục quan phòng, ban nhiều ơn ích cho cả xác hồn chúng ta và lo cho chúng ta cảm nếm được hạnh phúc thật bên Ngài. Những ơn Chúa ban cho chúng ta được Tin mừng hôm nay nhắc tới qua hình ảnh "nén bạc" Chúa trao cho mỗi người.
Trong cuộc đời này, có người được Chúa ban cho nhiều, có người ít hơn tuỳ theo sự quan phòng của Thiên Chúa. Chúng ta không nên so đo vì tất cả những ơn Chúa ban đều do lòng yêu thương bao la của Chúa đối với từng người chúng ta. Chúa chỉ đòi chúng ta làm lợi tương xứng với tài sức Chúa ban. Người ta nói rằng, đa số chúng ta sử dụng chưa tới 10% tài năng tiềm ẩn của mình. Chúa ban cho chúng ta rất nhiều nhưng chúng ta chưa khám phá hết khả năng của mình. Ông chủ trong Tin Mừng cho những người đầy tớ của mình ít nhất là 1 nén bạc. Nén bạc thời đó có giá trị rất lớn tương đương với giá 10. 000 ngày công của một người thợ trung bình. Đó là một số tiền khá lớn. Điều này cho thấy những gì Chúa giao phó cho mỗi người lớn lao lắm. Cho nên tâm tình trước tiên của người đầy tớ là cám ơn Chủ đã tín nhiệm mình, kế đến là lo làm việc hết mình cho Chủ để sinh lời xứng với lòng tin yêu của chủ. Chúng ta phải biết ơn Chúa và tận dụng ơn Chúa ban để không phụ tình thương của Chúa. Mỗi người hãy chu toàn trách nhiệm đã lãnh nhận cách hiệu quả nhất, với tâm tình kính mến Chúa và yêu thương tha nhân cách chân thành.
Chủ đi xa, giao phó tài sản cho các đầy tớ, chứng tỏ ông chủ tín nhiệm các đầy tớ. Cũng vậy, Chúa yêu thương chúng ta và đã trao cho nhiều ơn phần hồn phần xác để chúng ta sinh lời, làm vinh danh Thiên Chúa và mưu ích cho tha nhân và được Chúa thưởng trong ngày sau hết. Để nhận ta vào Thiên đàng, Chúa không xét là ta làm lợi nhiều ít so với người khác. Đối với vua trời, 10 nén bạc chẳng là bao, số nén bạc sinh lời gấp đôi tuy là lớn đối với giá trị ở đời này, nhưng lại là nhỏ so với giá trị ở đời sau. Việc làm ở đời này tuy có lớn lao đi nữa nhưng so với phần thưởng đời đời thì vẫn là nhỏ bé. việc lớn là: vào hưởng sự vui mừng với chủ, được nâng lên hàng con cái Chúa, được đồng bàn với chủ tức là tham dự vào sự sống và hạnh phúc của Thiên Chúa. Đó là phần thưởng cao trọng lớn lao vô cùng.
Người lãnh một nén phải bị phạt đời đời vì đã không làm theo ý chủ, không đáp trả sự tín nhiệm của chủ đồi với mình. Hắn không nên thân mà cứ luôn miệng trách ông chủ ! hắn không sống thân phận đầy tớ của mình là: lệ thuộc vào ông chủ và làm theo hảo ý của chủ. Án phạt của Chủ trên người đầy tớ biếng nhác này là lời cảnh tỉnh loài người. Chúng ta đã sinh lời cho Chúa chưa, hay chúng ta cũng đổ thừa cho hoàn cảnh, người thân...và không dùng khả năng Chúa ban để sinh lời. Để nắm chắc phần thưởng đời đời, chúng ta hãy lo phát triển những khả năng Chúa ban với tất cả lòng thành cho xứng đáng với tình thương của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã tín nhiệm chúng con, cho chúng con những khả năng lớn lao. Chúng con sẽ không so bì với khả năng của người khác nhưng biết phát triển hết mức tài năng của mình để sinh lợi cho Chúa và được Ngài thưởng ban hạnh phúc đời đời trên Thiên quốc.
Trong quyển đường hy vọng Đức cố Hồng y Phanxicôsaviê đã "chê" Đức Giêsu một người không biết làm kinh tế. Nhưng trong dụ ngôn các nén bạc hôm nay Chúa Giêsu cũng dùng các qui luật kinh tế để nói về cách sử dụng và khai thác cuộc đời chúng ta. Thiên Chúa đã trao cho mỗi người chúng ta một số bạc, nhiều ít tùy người. Hết mọi người phải dùng số bạc đó để sinh lời. Và lời phải tương xứng với số vốn mình đã nhận được
Mỗi người đều được Thiên Chúa ban cho một số vốn đó chính là cuộc đời chúng ta. Là những ngày tháng chúng ta được sống. Đó là số vốn ban đầu, là vốn căn bản. Vậy chúng ta phải sử dụng vốn đó như thế nào? Chúng ta có mặt trong cuộc đời không phải chỉ để sống cho qua ngày, nhưng còn để sống thế nào cho thật hữu ích và phong phú. Vì cuộc đời chúng ta trước sau rồi cũng qua đi. Chỉ những gì thật hữu ích chúng ta đã cố gắng làm mới sẽ còn mãi.
Vốn thứ hai, rất quí giá, được ban thêm vào vốn thứ nhất là đời sống mới trong Chúa Kitô, mà ta thường gọi là ơn làm con Thiên Chúa, ơn tái sinh, hoặc ơn cứu độ. Vốn này có tính quyết định: được thua, còn mất, sống chết là tại nó. Cuộc đời ta có nghĩa lý gì nếu không nhờ nó mà ta đạt tới ơn cứu độ. Ơn cứu độ chính là sự thành tựu chung cuộc của cuộc đời. Cùng với ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho ta đủ mọi phương thế để thực hiện ơn ấy. Đây là loại vốn thư ba. Tất cả mọi ơn Thiên Chúa ban suốt đời ta để trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm giúp ta sống xứng đáng cuộc đời trần thế và đạt tới cuộc sông vĩnh cửu.
Thiên Chúa đã chuẩn bị hết cho chúng ta rồi, vốn, thời gian và phương tiện Ngài đã chuẩn bị sẵn, chỉ cần chúng ta vận hành chúng để sinh lợi mà thôi. Nhưng mỗi người chúng ta đã sử dụng những vốn đó như thế nào. Có thể chúng ta đã hành động như người lãnh một nén bạc rồi đem chôn dưới đất hơn là như người lãnh mười nén bạc rồi sinh lợi được mười nén khác. Thời giờ không phải chỉ là tiền, như những nhà kinh tế nghĩ, nhưng còn là ơn cứu độ, theo cái nhìn đức tin. Thời giờ là vốn quý để tăng trưởng, nhưng nếu thời giờ bị phung phí thì làm cho đời ta nghèo đi thay vì làm giàu thêm.
Đối với những ơn ta nhận được mỗi ngày cũng phải tính toán xem lời lỗ thế nào. Mỗi ngày có đưa ta đến gần Chúa hơn không, có giúp ta sống thánh thiện hơn không? Hay chúng ta chỉ biết sống tà tà đi tìm sự an nhàn, không có động lực, không có quyết tâm. Hay chúng ta đã chôn đi nén bạc Chúa trao rồi
Về cuối cuộc đời, chúng ta có thuộc về Chúa, sống với Chúa, sống cho Chúa nhiều hơn không? Đó là câu hỏi cho mỗi người trả lời với Chúa và với chính bản thân mình.
Lạy Chúa, trong cuộc sống có nhiều lo âu, lo cho vật chất, lo cho danh vọng trần gian... chính những điều này làm cho chúng con quên đi những nén bạc Chúa ban. Xin cho con nhận ra rằng kho tàng vĩnh cữu chính là cuộc sống mai sau để con biết sinh lợi với những nén bạc mà Chúa đã ban. Amen.
Nguồn vietcatholic.org
2298 10-11-2011 19:50:49