Sidebar

Thứ Bảy
20.04.2024

Chương 23: Chân Dung Các Thánh Tử Đạo VN_phần 2


III. TỬ ĐẠO LÀ CHỨNG TỪ

Nguyên việc các vị tử đạo chấp nhận cái chết vì niềm tin đã là một chứng từ mạnh mẽ với mọi người tham dự. Thế nhưng, ngoài chứng từ bằng máu đào, các vị tử đạo còn làm chứng cho nội dung Tin Mừng bằng thái độ của mình với vua quan, bằng sự liên đới nội bộ và nhất là bằng lời nói, giải thích về đạo hoặc truyền giảng Phúc Âm ngay trong ngục thất.

3,1. Thái độ với vua quan

Nói chung tất cả các anh hùng tử đạo đều tỏ vẻ kính trọng giới quan quyền, các vị nói năng lịch sự, hòa nhã, thưa bẩm đúng qui cách. Dường như đối với các vị, phải tìm mọi cách để giúp quan quân gặp được Chân lý của Tin Mừng. Có khi các vị nói rõ ý tưởng đó, như trường hợp linh mục Trạch : "Nếu quan muốn sự sống đời đời, hãy thờ lạy Thánh giá này". Còn bình thường, các vị ôn tồn, tế nhị giải đáp những thắc mắc, biện bác những dư luận sai lầm. Vì thế các quan đôi lần biểu lộ tấm lòng mến thương cảm phục như trong vụ án linh mục Hưởng, viên quan thấy tử tội có dáng dấp một đạo sư, nên hứa hẹn nếu chịu bỏ đạo, sẽ thu xếp cho ngài đến trụ trì Chùa Non Nước ở Ninh Bình.

Thừa sai Bonnard Hương tâm sự : "Trước mặt vua quan, tôi có kinh nghiệm cụ thể lời đức Giêsu: Chúa Thánh Linh sẽ nói thay các con. Thực vậy, chưa bao giờ tôi nói tiếng Việt lưu loát và dễ dàng như thế". Trường hợp đức cha Cao cho ta thấy, các vị tử đạo có lẽ còn coi quan quyền như những tác nhân trong chương trình quan phòng của Chúa. Khi viên quan vừa đọc xong bản án tử hình, ngài nói : "Thưa quan, từ bé đến nay tôi chưa lạy ai, vì bên Âu châu đó là hành vi kính trọng chỉ dành cho Đấng Tối Cao. Nhưng điều tôi vừa nghe làm tôi quá vui mừng, xin được bày tỏ lòng tri ân của tôi theo lối Đông Phương". Rồi ngài quỳ xuống định lạy, nhưng viên quan đã kịp thời cản lại.

Hai đoạn thơ sau đây cho ta thấy rõ thái độ bất bạo động của các vị tử đạo. Một đàng cương quyết đấu tranh cho tự do lương tâm của con người, đàng khác vẫn luôn luôn muốn là trung thần của nhà vua. Bài thứ nhất của ông Lý Mỹ :

"Gông đóng xiềng mang, dạ nguyện kinh,
Những say về đạo hả về tình
Vai mang bốn điệp tai thêm ấm
Xổng xểnh ba vòng cổ lại thanh
Phép nước đành lòng không oán thán
Nghĩa Thày để dạ vẫn đinh ninh
Khiến sao nên vậy nào lo nghĩ
Phó mặc Hoàng Thiên sự tử sinh."

Đoạn thơ thứ hai của linh mục Đoàn Công Quý gởi cho mẫu thân :

"... Dầu trăng trói gông cùm tù rạc,
Chén ngục hình xiềng tỏa chi nề,
Miễn vui lòng cam chịu một bề
Cho trọn đạo trung thần hiếu tử...".

3,2. Liên đới tập thể

Một chứng từ khá đặc biệt các tín hữu thời tử đạo nêu lên với quần chúng là việc họ luôn gắn bó, thông cảm và sẵn sàng san sẻ những khó khăn, cũng như liên đới với nhau để tuyên xưng niềm tin của mình. Không cảm động sao được, hình ảnh cô bé cháu 5 tuổi ở Tây Ban Nha mỗi ngày cầu nguyện cho bác giám mục Henares Minh : "... Trung thành phục vụ Chúa suốt đời, và nếu cần để tôn vinh và làm hiển danh Chúa hơn, xin cho bác được hiến dâng mạng sống vì yêu Ngài". Ấy thế mà em chỉ biết : "Bác tên Đa Minh, tu dòng Đa Minh, đang truyền giáo ở thật xa, nơi người ta đang bách hại các Kitô hữu".

Không cảm động sao được, cụ Án Khảm vốn là tiên chỉ làng Quần Cống, đang khi quân lính bao vây làng, cho mõ đi rao : "Trình quan viên làng nước, có lệnh cụ Án, truyền rằng : ai mà quá khóa phải phạt ba roi và bị đuỗi khỏi làng". Và ngay trước mặt quân lính, cụ Án đứng ra ngăn cản một tín hữu nhát sợ định đạp lên Thánh giá.

Không cảm động sao được, một linh mục Tuần đang ở nơi yên hàn, khi hay tin vị thừa sai Fernandez Hiền không có nơi ẩn trú, đã đến gặp để cùng nhau trên đường lưu lạc, cùng phơi nắng phơi sương nhiều ngày trong đồng lầy, cùng bị bắt và cùng bị kết án, có điều cha Tuần chết rũ tù mấy ngày trước buổi hành quyết.

Khi các vị tử đạo bị bắt, các vị vẫn tìm được nguồn khích lệ từ bên ngoài qua thư từ, thăm viếng, tiếp tế. Các linh mục tìm đủ mọi cách vào thăm các chứng nhân đức tin để đưa Thánh Thể và giải tội cho họ. Linh mục Lựu đã bị bắt khi làm mục vụ cho các tín hữu trong ngục tù Mỹ Tho. Đọc đoạn thơ sau đây của đức cha Retord Liêu gởi linh mục Khoan trong tù, chúng ta thấy phần nào nội dung những mối liên đới đó

"Sách có câu : Chết vinh hơn sống nhục. Hãy coi những kẻ bội giáo, cuộc đời họ đáng tủi hỗ biết bao. Ngược lại, khắp bốn phương thiên hạ đều vang lời ngợi khen những ai chết cho đức tin. Các vị tử đạo như tiếng kèn thiên quốc với âm điệu vang lừng muôn người lắng nghe. Những kẻ chối đạo, ở lại trần gian chỉ chờ lưỡi rìu chặtđem về tiếp lửa cho hỏa ngục...Tôi viết cho cha những lời vắn tắt vội vã này. Ước mong nó thành ngọn gió đưa cha lướt êm đến bến bờ quê hương. Ước mong nó thành bó hoa rực rỡ với làn hương thơm ngát tỏa niềm tin tô thắm tâm hồn cha trong cuộc chiến cuối cùng. Xin kính cẩn tạm biệt cha, xin kính cẩn hôn lên gông cùm xiềng xích của cha. Trong lúc cầu nguyện xin đừng quên tôi nhé".

Như vậy, chúng ta thấy cuộc đời tử đạo của mỗi người không chỉ một mình mình biết, nhưng thường mang yầm vóc tập thể. Sự bền vững của một người có tác động khích lệ đến nhiều người. Đức cha An xin quân lính đừng chém mình chết sớm, nhưng ngài yêu cầu họ chém ba nhát : "Một tạ ơn Thiên Chúa cho làm người và đến Việt Nam rao giảng Tin Mừng; một cám ơn công sinh thành dưỡng dục mẹ cha; và một để làm gương cho các tín hữu". Linh mục Tuần khẳng định : "Sao tôi lại phải bắt chước những kẻ bội giáo, mẫu gương tôi soi là hai giám mục (đức cha Y và Minh) của tôi ".

Với những chứng nhân đức tin cùng bị giam, tình liên đới của họ còn cụ thể hơn. Một người ra tòa trở về, các người khác xúm vào chăm sóc những vết thương, hỏi han về cuộc điều tra và thuật lại cho nhau những lời đáp khẳng khái khi đối diện với quan quyền. Rồi họ cùng nhau tạ ơn Chúa đã cho anh em mình vượt qua cơn thử thách. Đẹp làm sao hình ảnh linh mục Hoan tuy tuổi già tóc bạc, cổ mang gông, tay đeo xiềng xích, mỗi ngày đi từ phòng giam này qua phòng giam khác để khích lệ các tín hữu. Đẹp làm sao hình ảnh hai ông Thọ và Cỏn sẵn sàng quì xuống, liếm từng vết thương ba vị linh mục Ngân, Nghi, Thịnh theo đòi hỏi của quan. Đẹp làm sao linh mục Vinhsơn Liêm đã bênh vực cho bạn (Castaneda Gia) bằng cái giá chính mạng sống mình, khi nói : "Xin quan nếu tha thì tha cả, nếu giết thì giết cả".

Nhóm năm người, hai thày Mậu, Úy và ba anh Mới, Đệ, Vinh khi thấy linh mục Tự, chỗ dựa tinh thần của nhóm đã bị xử tử cả năm người đã thất vọng chán nản. Nhưng khi họ ngổi lại với nhau, ôn lại những lời khuyên của thày mến yêu, năm người đã tìm được can đảm. Họ gởi thư cho cha chính dòng Đa Minh để xin khấn dòng Ba ngay trong ngục, rồi hợp lực với nhau làm tông đồ tại nhà giam. Chỉ một thời gian ngắn, thày Mậu đã viết thư loan tin mình rửa tội được 44 người.

3,3. Loan báo Tin Mừng

Lời Chúa không thể bị trói buộc. Nếu nhiều chứng nhân đức tin chẳng để lại di ngôn nào ngoài thái độ quả cảm xác nhận và cương quyết : "Tôi là Kitô hữu" hoặc "Tôi không bao giờ đạp lên Thánh giá", thì trong số 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam, ta cũng thấy được nhiều mẫu gương nhiệt tâm tông đồ có tính cách sáng tạo.

Linh mục Federich Tế, chính bảy năm rưỡi trong tù, đã khéo quan hệ với cai ngục để tự do thăm viếng phục vụ các tín hữu Thăng Long, đến độ đức cha Longer Gia dự định đặt ngài làm cha sở xứ Thăng Long. Bảy tháng trước ngày xử, cùng với linh mục bạn là cha Liciniana Đậu, hai vị rửa tội được trên 100 người. Hai linh mục Gia và Liêm có cơ hội may mắn khác, trong ba ngày tham gia "Hội đồng Tứ Giáo" trao đổi ba đề tài lớn của cõi nhân sinh : Người ta bởi đâu mà có ? sống để làm gì ? và chết rồi đi đâu ? Hai ngài đã làm chứng cho sự thật và niềm tin Công giáo. Còn "đức thày" Tuấn (Hermosilla Liêm) bị giam trong cũi trong 10 ngày, tuy lom khom đứng không được mà nằm cũng chẳng đặng, nhưng ngài đã giảng đạo và rửa tội cho con trai viên Đội Bái. Về giáo dân có ông cai Lê Đăng Thị đã dạy đạo cho một phạm nhân cùng bị xử, buổi sáng ngày ra pháp trường anh đã nhận lãnh bí tích rửa tội, thế là ông Thị có một người bạn đồng hành về Thiên Quốc.

Đôi khi việc loan báo Tin Mừng không thể hiện bằng ngôn ngữ mà bằng hành động. Ông Đổng đã bị áp lực khắc lên má chữ Tả đạo, ông can đảm chịu đau lần thứ hai để rạch xóa chữ tả đạo, khi khác lại chịu đau lần thứ ba để khắc thay vào hai chữ "Chính đạo".

Linh mục Hiển, 71 tuổi, mỗi buổi tối chăm chú vẽ trên vải những hình thánh giá đẹp với những nét trang trí hoa văn để tặng cho các tín hữu vào thăm. Những hình thánh giá đó được chuyền tay nhau, giúp một số tội nhân thống hối, một số người nhát đảm vì tìm lại được lòng can trường, nên các tín hữu đến xin ảnh rất đông. Vị linh mục phải nhờ anh bạn tù khắc hình thánh giá trên gỗ để in hàng loạt ban phát cho họ. Thế đấy tuy ở trong tù, cha Hiển đã gây được phong trào kính thánh giá rộng rãi ở Nam Định.

Một trường hợp loan báo Tin Mừng khác cũng khá đặc biệt. Linh mục Tự đến ngày bị xử tử, đã xin phép quan được mặc áo dòng Đa Minh và ôm thánh giá ra pháp trường. Trước khi bị chém, cha xin nói đôi lời và ứng khẩu giảng gần một giờ về Đức Giêsu, về ơn Cứu độ, về tình huynh đệ mọi người là anh em.

IV. CHÂN DUNG CÁC VỊ TỬ ĐẠO

Trong các phần trên, chúng ta đã quan sát các anh hùng tử đạo trong sinh hoạt hằng ngày, nghiên cứu về tâm tư và lời nói các vị. Giờ đây chúng ta cùng nhau chiêm ngưỡng chân dung các ngài, dựa vào thái độ trong giờ phút cuối cùng cuộc đời chứng nhân, chúng ta thấy được tư thế, nét mặt và có lẽ cả ánh mắt của các ngài nữa.

4,1. Lòng anh dũng hào hùng

Một quan niệm sai lầm các tín hữu dễ mắc phải là tưởng tượng các vị thánh quá linh thiêng như những thiên thần, nghĩ rằng với ơn Chúa, các vị tử đạo chẳng còn biết đau đớn gì nữa. Thực ra, các vị vẫn mang thân phận rất người như chúng ta, cũng sợ đòn đánh tra tấn và luyến tiếc cuộc sống trần gian. Ngay trong số 117 Hiển Thánh Việt Nam, cũng không ít vị đã từng đạp lên thánh giá, có điều sau đó các vị đã hồi tâm và tiếp tục chọn Thiên Chúa.

Trong vụ án ba thánh Huy, Thể, Đạt, thì 500 binh sĩ Công giáo Nam Định, ngay hôm đầu tiên đã có 485 người nghe Tổng đốc Trịnh Quang Khanh dày đạp thánh giá. Ít bữa sau 15 người chỉ còn 9 kẻ trung thành, rồi còn 5, còn 3 và ba người cuối cùng cũng một lần chối đạo. Đến khi về nhà nghĩ lại, ba ông họp nhau nộp đơn xin tiếp tục giữ đạo và phải vào thẳng kinh đô dâng sớ tận tay Đức vua. Từ đấy các ông dũng cảm chịu mọi hình khổ cho đến chết.

Thày giảng Tôma Toán, 76 tuổi, đạp lên thánh giá những hai lần. Nhưng khi đã thông hối, thày chấp nhận mọi thử thách cách can đảm lạ thường. Có lần sau 13 ngày bị lột trần, bị trói ngoài sân phơi nắng phơi sương, bị mọi người qua lại sỉ nhục, hành hạ. Thế mà khi quan cho dọn một mâm cơm yêu cầu thày ăn rồi bỏ đạo, thày nói : "Nếu ăn mà phải bỏ đạo, tôi sẽ không bao giờ ăn". Và thày bị bỏ đói chết gục trong nhà giam.

Ông Năm Thuông bị án lưu đày xuống Vĩnh Long. sau nhiều ngày đi bộ mệt nhọc, ông không chịu dừng lại Saigon, cương quyết đi trọn hành trình đến tận nơi bản án qui định. Và rồi vừa đến Vĩnh Long, ông đã kiệt sức, trút hơi thở cuối cùng. Linh mục Hạnh từng được mệnh danh là "Laurenso Việt Nam", vì lần kia sau một trận đòn, cha đã bình thản chắp tay sau lưng và nói : "Làm quan lớn mà bất công, bắt một mông chịu cả, còn mông kia chẳng phải chịu gì hết".

Chí khí bà Đê (Lê thị Thành), vị thánh nữ Việt Nam duy nhất, cũng không thua kém các bậc nam nhi. Quan quân cho cột các ống tay áo rồi bỏ rắn vào trong người, bà vẫn bình tĩnh đứng yên không nhúc nhích, không sợ hãi. Con cái vào tù thăm, khóc lóc khi thấy thân thể mẹ bầm tím, áo bê bết những vết máu, bà mỉm cười an ủi : "Sao con lại buồn, mẹ mặc áo hoa hồng đấy con ạ". Bà coi những vết máu như vòng hoa khoác lên cổ người chiến sĩ thắng trận trở về.

Lòng anh dũng của các chứng nhân tử đạo đã được tô điểm thêm bằng sự kiên trì theo năm tháng. Chấp nhận bản án, và bình tĩnh chờ đợi, không một ai quyên sinh để tự kết liễu đời mình. Một phụ nữ ngoại giáo tặng linh mụcĐạt lọ độc dược để khỏi kéo dài những ngày bị tra tấn khổ đau; một viên quan yêu cầu đức cha Y uống thuốc độc theo kiểu những người "quân tử" Đông Phương thường làm. Nhưng các ngài lại dùng chính cơ hội ấy trình bày quan điểm Giaó hội về mạng sống con người.

4,2. Lòng bao dung thứ tha

Nếu lòng anh dũng giúp các vị tử đạo bình thản đón nhận cái chết không run rẩy, không quỵ lụy khóc than, thì lòng bao dung thứ tha mới là đặc tính phân biệt vị tử đạo với những vị anh hùng vì lý do khác.

Các tín hữu chỉ thực sự chết vì đạo nếu biểu lộ được tình yêu, lòng nhân ái, sự bao dung của Tin Mừng. Các vị chắc chắn không đồng ý với bản án bất công của triều đình nhưng như Đức Giêsu trên thánh giá vẫn cầu nguyện cho quân lính giết hại mình, các chứng nhân tử đạo vẫn tiếp tục yêu thương vua quan và chính những người hành xử mình.

- Thừa sai Gagelin Kính gửi thư cho bạn bè : "Tôi sẵn lòng tha thứ cho những kẻ áp bức tôi".
- Chuyện linh mục Théophane Vénard Ven, khi viên quan nói : "Tôi phải theo lệnh vua, đừng giận tôi nhé", ngài đáp : "Tôi chẳng ghét gì ai cả, tôi sẽ cầu nguyện nhiều cho quan".
- Cụ Hoàng Lương Cảnh làm cho quan quân phá lên cười, vì khi họ yêu cầu cụ đọc : "Cầu Chúa Giêsu, xin cho các quan trị nước cho yên càng ngày càng thịnh".
- Linh mục Minh trong tù đã giải tội cho bếp Nhẫn, kẻ đã dẫn lối cho quan quân bắt ngài. Cũng vậy, linh mục Viên, trên đường ra pháp trường, ban phép lành xá giải cho hai phụ nữ tố giác nơi cha trú ẩn.
- Ông Lê Văn Phụng tại pháp trường nhắn nhủ con trai mình : "Con ơi, hãy tha thứ, đừng tìm báo thù kẻ tố giác ba nhé". Và dặn dò thân hữu : "Hãy tha thứ các bạn ơi. Hãy tha thứ, vì chính tôi đã thứ tha".
- Linh mục Khoan và hai thày Thành, Hiếu trước lúc bị xử chém đã giơ tay lên trời cùng cẩu nguyện : "Vinh danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa, Chúa trời đất, chúng con hiến dâng mạng sống cho Ngài. Xin Chúa chúc phúc cho nhà vua được cai trị lâu dài trong an bình. Xin biến đổi trái tim vua, để vua tin theo đạo thật, đạo duy nhất đem lại cho con người hạnh phúc đích thực".

Việc chiêm ngưỡng lòng bao dung thứ tha của các vị tử đạo cho phép chúng ta mường tượng ra khuôn mặt của các ngài: không một chút bất mãn tức tối, không một chút oán ghét hận thù, ánh mắt và nụ cười của các ngài toát lên nét dịu hiền thông cảm. Thế nhưng, còn hơn thế nữa, các ngài tràn trề hân hoan ngước nhìn về trời cao vì trong thâm tâm, các ngài tin tưởng rằng : cái chết tử đạo là cái chết vinh quang, sẽ khai mở cho các ngài vào cuộc sống mới muôn đời bất diệt.

4,3. Niềm tin phục sinh 

Linh mục Xuyên trong thời gian bị giam đã phổ biến cho các tín hữu bài vè lục bát sau :

"Ai ơi giữ lấy túi khôn
Dẫy tràn tin cậy đầy lòng mến yêu
Gươm đao đe dọa dẫu nhiều
Quỉ ma cám dỗ sớm chiều đe loi
Ai mà thắng được trên đời
Mai sau hưởng phúc cõi trời cao sang."

Với các vị tử đạo, cái chết chính là cuộc thử thách cuối cùng mà họ sẵn sàng mong đợi. Thày Mậu đại diện cho anh em nói với quan : "Thưa quan, chúng tôi mong ước về bên Chúa như nai mong tìm thấy suối vậy".

Ông Án Khảm vui vẻ nói với mọi người: "Cha con chúng tôi hôm nay vào Nước Thiên Đàng đây". Linh mục Hạnh cũng tươi tỉnh đi chào mọi người : "Anh em ở lại, chúng tôi đi về Thiên đàng nhé". Ông Cỏn khi thấy người anh em sụt sùi nước mắt, ông nói : "Sao anh lại khóc, lẽ ra phải mừng cho tôi chứ".

Ngoài ra trong các bức thư trao đổi với gia đình và bạn bè, các vị tử đạo không chào vĩnh biệt mọi người mà chỉ chào tạm biệt, hẹn ngày tái ngộ. Thày Uyển trả lời thắc mắc kẻ dọa chém đầu mà thấy thày không sợ rằng : "Hãy chém đi, đến ngày phán xét, tôi lại được cái đầu khác". Linh mục Xuyên diễn tả niềm tin này bằng câu : "Thưa quan, tôi chọn cái chết để được sống đời đời, hơn là nghe quan sống thêm ít lâu rồi muôn đời bị tiêu diệt". Linh mục Lê Bảo Tịnh thì nói : "Thân xác tôi đây, các ông muốn làm gì thì làm, tôi sẵn sàng không oán thán, nó chết đi, nhưng mai này sẽ sống lại vinh quang". Niềm tin sống lại của các chứng nhân ấy được bộc lộ khá rõ nét, vì chính vua Minh Mạng cũng phải lo lắng bồn chồn trong vụ án linh mục Gagelin Kính. Chính vua ra lệnh canh mả vị tử đạo ba ngày, sợ ngài sống lại, rồi còn cho đào lên xem hài cốt có còn đó chăng, sau mới chôn lại.

Hình ảnh tuyệt đẹp về niềm tin phục sinh của các vị tử đạo là câu chuyện linh mục Khoan và hai thày Hiếu, Thành, nhưng trong những ngày bị giam bị giữ, ba vị chia bè hát kinh Tạ Ơn TE DEUM bằng tiếng Latinh. Lời kinh Te Deum ấy nối kết các vị với Giáo hội sơ khai, khi cuộc bách hại 300 năm chấm dứt. Lời kinh tràn trề tin tưởng và phó thác trong niềm tri ân Thiên Chúa. Lời kinh nối kết các vị với cộng đoàn các Thánh trên Thiên quốc :

"Tâu Thượng Đế, này thần dân xin hát mừng trước bệ
Tuyên xưng Ngài là Chúa Tể càn khôn ...

Suy tôn Chúa, bậc tông đồ hợp xướng
Tán tụng Ngài bao thế hệ tiên tri
Đoàn tử đạo quang huy hùng dũng
Máu đào đổ ra minh chứng về Ngài...

Cúi lạy Chúa xin phù hộ bề tôi
Ngài cứu chuộc bằng bửu huyết tuôn tràn
Xin được họp đoàn cùng muôn thần thánh,
Phúc miên trường vui hưởng ánh vinh quang".

Rồi ngay tại pháp trường, ba vị lại tiếp tục cầu nguyện bằng thánh ca. Như trong đêm phục sinh, cha Khoan hát ba lần lời Allêluia, mỗi lần với cung giọng cao hơn. Xen kẽ vào đó, hai thày giảng cùng hát thay cộng đoàn theo cao độ của vị chủ sự : ALLÊLUIA, ALLÊLUIA, ALLÊLUIA. Như vậy đó, các vị tử đạo đã diễn tả lại trong đời mình cuộc khổ nạn của Đức Kitô, nhưng là một Đức Kitô phục sinh. 117 hiến tế tình yêu cũng là 117 chứng tá niềm tin của những con người xác tín rằng : chết vì đức Kitô, chết đi là sống lại trong cuộc sống muôn đời.

KẾT LUẬN

Cuối cùng, bài học rút ra từ những cái chết của các vị Tử Đạo là bài học của sự sống. Cái chết nguyên nó chẳng có giá trị gì hết, chính sự sống mới làm nên muôn điều huyền diệu. Sự sống đó chính là tình yêu với con người chung quanh, tình yêu với những gì cao thượng và chân thật. Tình yêu đó bùng lên cách mãnh liệt trong mầu nhiệm tự hủy và hiến dâng.

Bài học của các vị tử đạo không phải là khơi lên máu nóng tìm đến cái chết, mà chính là sống hiến thân từng giây từng phút của đời mình cho Thiên Chúa và tha nhân. Sự sống đó luôn kêu mời chúng ta : mỗi ngày chết đi những yếu đuối tầm thường, để can đảm làm chứng tá đấu tranh cho Chân lý. Sự sống đó hứa hẹn với chúng ta một ngày sau rạng rỡ, ngày đoàn tụ với cha anh chúng ta trên cõi bất diệt.

[1] Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, XXXIII, 6B
[2] Giáo phận đàng trong 86.000; Giáo phận Tây đàng ngoài 140.000, Giáo phận Đông đàng ngoài 200.000. Xc Bùi Đức Sinh, Đa Minh Trên Đất Việt, q.I, tr. 281
[3] Bùi Đức Sinh, Đa Minh Trên Đất Việt, q.I, tr.326
[4] Chúng ta có thể so sánh với việc truyền giáo ở Châu Mỹ Latinh, dân địa phương cho đến nay vẫn dùng tiếng Tây Ban Nha làm ngôn ngữ chính, trong khi đó ở Việt Nam, các thừa sai soạn chữ quốc ngữ. Điều đó cũng đo lường lối truyền giáo của Thánh Bộ Truyền bá đức tin được thành lập năm 1622. Xc. Daniel Rops, Eglise des temps Clasiques, Fayard 1958, pp. 97-100
[5] Phép giảng tám ngày, Tinh Việt 1961, tr.11-16
[6] Thư chung các Đấng Vicario, Kẻ sặt 1903, tr.63-68
[7] Disquitio Promotoris Fidei, Roma 1917, I, tr.17-19
[8] Thư chung các Đấng Vicario II, tr.53-54
[9] Gispert, Historia de las Misiones Dominicas en Tunkin Avila 1928, tr. 428t
[10] Louvet, La Cochinchine Religieuse II, tr.204-207
[11] Louvet, Sđd II, tr.267
[12] Phép giảng tám ngày, tr.17
[13] Tân Định, 1959, tr.4-6
[14] Kỷ yếu hội nghị khoa học lịch sử đạo Thiên Chúa, 1988, t. 39-41
[15] Louvet, Sđd II, tr.264-266
[16] Louvet, Sđd II, tr.128
[17]Bùi Đức Sinh, Sđd I, tr.258. Sử ký địa phận Trung, Phú Nhai 1916, tr.74
[18] Rodriguez, Martirologio Oriental III, tr.28
[19] Thư chung các Đấng Vicario I, tr.63-68


1824    02-02-2011 09:01:29