Sidebar

Chúa Nhật

28.04.2024

Giáo Lý Cho Người Trưởng Thành_Bài 23 đến Bài 25

Bài 23
ÐỨC MARIA LÀ MẸ HỘI THÁNH
(x. SLGC từ 0963 đến 0972)

"Vì đã cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Chúa Kitô, đã dâng Chúa Kitô lên Chúa Cha trong đền thánh, và cũng đau khổ với Con mình chết trên thập giá, Ðức Maria đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của Ðấng Cứu Thế, nhờ lòng vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy và đức ái nồng nhiệt, để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn. Bởi vậy, trên bình diện ân sủng. Ngài thật là Mẹ chúng ta" (GH 61). Thiên Chúa nhân hậu và khôn ngoan khi muốn thực hiện công việc cứu chuộc thế giới vào thời cuối cùng, "đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà" (Gl 4,4), và Người Con đó "đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria" (Kinh Tin Kính). Công việc cứu chuộc vẫn tiếp tục trong Hội Thánh, là thân thể Chúa Kitô. Trong thân thể này, Ðức Maria có mặt như một chi thể trổi vượt, liên kết mật thiết với Ðầu, và hằng yêu thương, bảo vệ hướng dẫn các chi thể khác là các tín hữu, với lòng của người mẹ hiền.

I. Ðức Maria là mẹ Hội Thánh


1. "Khi sứ thần truyền tin, Ðức Trinh Nữ Maria đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong tâm hồn và thân xác, và đem Sự Sống đến cho Thế gian" (GH 53). "Như thế, Ðức Maria, con cháu Ađam, vì chấp nhận lời Thiên Chúa, đã trở nên Mẹ Ðức Giêsu" (id 56). Mẹ đã liên kết mật thiết với Con từ lúc thưa tiếng "Xin Vâng" trong ngày truyền tin, kéo dài đến lúc Chúa Kitô chết trên thập giá. "Như thế, Ðức Trinh Nữ cũng đã tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin, trung thành hiệp nhất với Con cho đến bên thập giá, là nơi mà theo ý Thiên Chúa, Ngài đã từng ở đó" (Ga 19,25). Ðức Maria đã đau đớn chịu khổ cực với Con Một của mình và dự phần vào hy lễ của Con, với tấm lòng của một người mẹ hết tình ưng thuận hiến tế hy vật do lòng mình sinh ra. Và cuối cùng chính Ðức Giêsu Kitô khi hấp hối trên thập giá, đã trối Ngài làm mẹ của môn đệ qua lời này: Thưa bà, này là con Bà" (Ga 19,36-27; GH 58).


Sau khi Ðức Giêsu lên trời, Ðức Maria đã ở giữa các Tông đồ, như người Mẹ "giữa một đàn em đông đúc" của Ðức Giêsu (Rm 8,29), Con của Mẹ. Người cùng cầu nguyện với Hội Thánh sơ khai: "Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Ðức Giêsu, và với anh em của Ðức Giêsu" (Cv 1,14). Hơn nữa: "Ðức Maria cũng tha thiết cầu xin Thiên Chúa ban Thánh Thần, là Ðấng đã bao phủ lấy Người trong ngày Truyền Tin" (GH 59), và "ai nấy được tràn đầy ơn Thánh Thần" (Cv 2-4) trong ngày lễ Ngũ Tuần. Sau cuộc đời trần thế, Ðức Maria đã được đưa lên trời cả hồn lẫn xác để hưởng vinh quang thiên quốc. Mẹ là người đầu tiên được tham dự vào cuộc Phục Sinh của Con Mẹ, và như vậy Mẹ là dấu chỉ báo trước và bảo đảm cho các Kitô hữu được sống lại với Chúa Kitô.


2. Hội Thánh chào kính Ðức Maria như chi thể cao cả nhất, có một không hai và như gương mẫu sáng ngời về niềm tin và lòng mến (GH 53). Là mẹ Chúa Kitô, Ðức Maria còn "là Mẹ các chi thể (của Thân thể Chúa Kitô), vì đã cộng tác trong đức ái để sinh ra các tín hữu trong Hội Thánh là những chi thể của Ðầu ấy" (GH 53). Mẹ đã cộng tác đặc biệt với Ðấng Cứu Thế "để đem lại sự sống siêu nhiên cho các linh hồn". Và mẹ luôn tiếp tục thiên chức làm mẹ "cho tới lúc vĩnh viễn hoàn tất việc cứu rỗi mọi người được tuyển chọn" (GH 623). Như vậy, ở trên trời Mẹ Maria không ngừng cộng tác vào chương trình cứu độ, bằng việc cầu bầu và chăm sóc các tín hữu "cho đến khi họ đạt tới hạnh phúc quê trời" (GH 62).


II. Việc tôn kính Ðức Trinh Nữ Maria


Ngay từ những thế kỷ đầu của Kitô giáo, Ðức Trinh Nữ Maria đã được tôn kính với Tước Hiệu "Mẹ Thiên Chúa", và các tín hữu thường chạy đến với Mẹ "trong cơn gian nan thiếu thốn" (Kinh Trông Cậy). Hội Thánh luôn dành cho Ðức Maria lòng yêu mến và tôn kính rất đặc biệt, vượt trên các thiên thần và các thánh. "Từ nay hết mọi đời, sẽ khen tôi diễm phúc, Ðấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả" (Lc 1, 48-49).


Việc tôn kính này hoàn toàn khác biệt với sự thờ phượng phải có đối với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, nhưng lại "khuyến khích thêm việc thờ phượng Thiên Chúa Ba Ngôi" (GH 66). Bởi vì, Mẹ Maria chẳng có sứ mệnh nào khác hơn là dẫn đưa chúng ta tới Ðức Giêsu Kitô Con của Mẹ. Vì thế "Hội Thánh khuyến khích hết mọi con cái hãy nhiệt tâm phát huy lòng sùng kính Ðức Nữ Trinh nhất là trong Phụng Vụ", một lòng sùng kính không dựa trên tình cảm hay tính dễ tin "nhưng phát sinh từ một đức tin chân thật... thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta" (GH 67). Lòng tôn kính và yêu mến này, chúng ta bày tỏ trong những ngày lễ kính Mẹ (nhất là lễ Ðức Mẹ hồn xác lên trời ngày 15 tháng 8 và lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm ngày 8 tháng 12) các ngày thứ bảy, và đặc biệt là lần hạt Mân Côi, là Kinh "tóm tắt Phúc Âm" để suy niệm về cuộc đời Ðức Giêsu cùng với Mẹ Maria.


III. Ðức Maria, hình ảnh Hội Thánh phải hoàn thành


"Như Thánh Ambrosiô đã dạy, Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Hội Thánh trên bình diện đức tin, đức ái và hiệp nhất hoàn hảo với Chúa Kitô" (GH 63). Thật vậy, Mẹ Maria là hình ảnh của Hội Thánh tại thế "Hội Thánh vì ôm ấp những kẻ có tội trong lòng" (GH 8) hướng nhìn lên Ðức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, một phần tử ưu tú của mình, đã chiến thắng tội lỗi, nhờ hồng ân Chúa Kitô. Vì thế, Hội Thánh luôn luôn kiên trì và tin tưởng trong hành trình đức tin trên trần gian. Hơn nữa Hội Thánh còn ngắm nhìn Ðức Maria như mẫu mực hoàn hảo mà mình phải đạt tới, để trở thành "một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không t#7889;, không vết nhăn, hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền" (Ep 5,27). "Sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang" (Kh 21,2). Do đó, Hội Thánh luôn hướng nhìn lên Ðức Mẹ hồn xác lên trời, như phần tử đầu tiên vượt thắng cái chết mà sống lại trong vinh quang. Mẹ được Thiên Chúa tôn vinh trên trời, là dấu chỉ báo trước và đảm bảo ơn cứu độ vinh quang cho tất cả các phần tử khác của Hội Thánh. "Ngày nay, trên trời Mẹ Ðức Giêsu đã được vinh hiển cả hồn và xác, là hình ảnh và khởi thủy của Hội Thánh phải hoàn thành đời sau; đồng thời, dưới đất này, cho tới ngày Chúa đến (2Pr. 3,10). Ngài chiếu sáng như dấu chỉ lòng cậy trông vững vàng và niềm an ủi cho dân Chúa đang lữ hành" (GH 68).


Bài 24
ƠN THA TỘI
(x SGLC từ 0976 đến 0983)

"Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ" (Ga 20, 22-23) Chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền tha thứ tội lỗi, nhưng Chúa Kitô Phục Sinh đã ban quyền tha tội cho các Tông Ðồ, khi thông ban Chúa Thánh Thần cho các ông. Thật ra, không phải các Tông Ðồ thay thế Chúa Kitô để tha tội, nhưng chính Chúa Kitô có mặt và hoạt động trong các Tông đồ, như dụng cụ của Người, để tha thứ tội lỗi cho con người.

I. Một Phép Rửa duy nhất để tha tội


Con người cần được tha thứ tội lỗi để có thể giao hòa với Thiên Chúa và được sống đời đời. Vì thế, Chúa Kitô đã tha thiết lập bí tích Thánh tẩy, như phương thế số một và chính thức để ban ơn tha tội, "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin thì sẽ bị kết án" (Mc 16, 15-16). Qua thánh tẩy, người có tội được thông hiệp với mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, "Ðấng đã bị trao nộp vì tội lỗi chúng ta, và đã được Thiên Chúa làm cho sống lại để chúng ta được nên công chính" (Rm 4, 25) và như vậy "chúng ta cũng được sống một đời sống mới" (Rm 6,4). Bí tích Thánh Tẩy không những tha thứ tội tổ tông, mà còn tha tất cả các tội riêng và các hình phạt do tội gây ra. Tuy nhiên, người đã chịu Thánh Tẩy vẫn còn mang bản tính yếu đuối và đã bị tổn thương, vẫn còn bị dục tình lôi kéo về sự ác. Ai có thể đứng vững mà chiến thắng các cơn cám dỗ trong suốt cuộc đời? Vì thế, Chúa Kitô còn để lại cho Hội Thánh bí tích sám hối, được gọi là đệ nhị Thánh Tẩy, nhằm tha thứ tội và ban ơn hòa giải cho những người sau khi lãnh bí tích Thánh Tẩy mà còn phạm tội.


II. Quyền cầm buộc và tháo cởi của Hội thánh


Chúa Kitô đã ban "chìa khóa nước trời" cho Hội Thánh, để Hội Thánh được quyền nhận vào hay loại khỏi Nước Trời, quyền ra luật để cho phép điều này hoặc cấm đoán điều kia... trong những gì thuộc lãnh vực đức tin và luân lý - Ðó là quyền cầm buộc và tháo cởi của Hội Thánh. "Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy" (Mt 16,19). Vì thế, Hội Thánh có toàn quyền để tha thứ bất cứ tội nào dù nặng nề đến đâu. Một người dù phạm tội độc ác quái gở và có nhiều tội đến thế nào chăng nữa, vẫn có thể được tha thứ, nếu có lòng ăn năn thành thật. Trong khi dạy Giáo lý, phải làm cho người ta tin vào quyền năng tha thứ mọi tội lỗi của Hội Thánh mà Chúa Kitô Phục Sinh đã thông ban cho các Tông Ðồ cũng như những người kế vị. "Mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha thứ cho loài người" (Mt 12,31).


III. Hệ luận Mục Vụ


"Nếu trong Hội Thánh không có phép tha tội, thì sẽ không có sự trông cậy, không có hy vọng được sống muôn đời và được giải thoát vĩnh viễn. Chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa đã ban một hồng ân lớn lao như thế cho Hội Thánh của Ngài" (Thánh Âu Tinh).


• Hãy lãnh nhận bí tích Sám hối với lòng biết ơn sâu xa. Và cần năng đi xưng tội không những để được tha tội và được tẩy xóa mọi tội, mà còn để nuôi dưỡng niềm hy vọng được sống đời đời.


• Chúa đã trao quyền cầm buộc và tháo cởi cho Hội Thánh, nên các tín hữu phải lấy lòng tôn kính và yêu mến, mà vâng phục các giáo huấn cũng như tuân theo kỷ luật Hội Thánh. "Với tinh thần vâng lời của người Kitô hữu, giáo dân cũng hãy mau mắn chấp nhận những điều mà chủ chăn có nhiệm vụ đại diện Chúa Kitô, đã quyết định với tư cách những thày dạy và những nhà lãnh đạo trong Hội Thánh (GH 37). Do đó, các giáo huấn chính thức về đức tin và luân lý cũng như các qui luật Phụng vụ của Ðức Giáo Hoàng Rôma hoặc các Giám Mục thông hiệp với Ðức Giáo Hoàng, cần phải được kính cẩn tuân phục và với tinh thần đức tin (GH 25).


Bài 25
ƠN PHỤC SINH VÀ ÐỜI SỐNG VĨNH CỬU
(x. SGLC từ 0992 đến 1065)

"Chúng ta đang hành trình hướng về chung cục lịch sử nhân loại" (MV 45). "Chúng ta không biết được thời gian hoàn tất của trái đất và nhân loại... nhưng chúng ta biết Thiên Chúa đã dọn sẵn một chỗ ở mới và một đất mới... Khi ấy sự chết sẽ bị đánh bại, con cái Thiên Chúa sẽ phục sinh trong Chúa Kitô" (MV 39). "Ðấng làm cho Ðức Giêsu sống lại... cũng sẽ làm cho thân xác của anh em được sự sống mới" (Rm 3,11).

I. Ý nghĩa của sự chết theo Kitô giáo


Chết là một sự thật hiển nhiên không ai thoát khỏi và chối cãi. Người Việt Nam thường nghĩ: xác là thể phách còn hồn là tinh anh, xác là thể phách nên phải chết, hồn là tinh anh nên còn. Tin tưởng này không ai lạ với niềm tin Kitô giáo: chết là hồn lìa khỏi xác, hồn là thiêng liêng nên bất tử, xác là vật chất nên hư nát. Chết là chấm dứt cuộc sống trần gian. Nhưng tại sao chết? Ðó là bí ẩn cao nhất về thân phận con người (MV 18). Kitô giáo dạy rằng: Thiên Chúa sáng tạo con người là hồn và xác. Người không muốn con người phải chết, chết là hậu quả của tội lỗi (Rm 5,12).


Khi Chúa Kitô đến trần gian, chấp nhận chịu chết vì muốn vâng phục thánh ý Chúa Cha, rồi được sống lại và về trời, Người đã biến đổi ý nghĩ sự chết. Do đó ai tin Chúa Kitô thì:


• "Chết là một mối lợi" (Pl 1,21) vì được ở với Chúa Kitô, theo nghĩa được hiệp thông trọn vẹn với Người mãi mãi (pl 1,23).

• Chết là sự sống được biến đổi: "Ai tin Chúa Kitô thì khi chết, sự sống không bị tiêu hủy mà được biến đổi để họ về hưởng phúc vĩnh cửu trên trời" (Kinh Tiền tụng I lễ Cầu Hồn).

Như vậy, "phận con người là phải chết một lần rồi sau đó chịu phán xét" (Dt 9,27). Không có chuyện đầu thai sang kiếp khác. Nên Kitô hữu phải chuẩn bị cho giờ chết của mình để được chết lành, và xin Ðức Maria chuyển cầu cho "khi này và trong giờ lâm tử".


II. Sự sống lại của Chúa Kitô và của chúng ta


Việc xác sẽ sống lại vẫn là một điều xưa nay khó được chấp nhận, nhất là đối với con người sống trong thời đại khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên trong Kinh Tin Kính, Kitô hữu tuyên xưng: Tôi tin xác loài người sẽ sống lại. Niềm tin này đã có từ thời Cựu Ước (2Mt ct 7,9-14) và được xác quyết mạnh mẽ khi Chúa Kitô tuyên bố: "Ta là sự sống lại và là sự sống" (Ga 11,25) "ai tin Ta"... "ai ăn thịt và uống máu Ta... Ta sẽ cho họ sống lại vào ngày sau hết" (Ga 6,54). Người cũng làm phép lạ cho một số người chết được sống lại (x. Lc7, 11-7 hoặc Ga 11) nhưng phép lạ này là dấu chỉ loan báo sự sống lại của Người, vì sự sống lại không có nghĩa là Người trở về đời sống như trước, nhưng là sau khi chết, hồn lìa xác, xác Người được an táng (x. Mt 27,5.59-60), ngày thứ ba Người sống lại với "xác vinh hiển" (Pl 3,21) để sống vĩnh cửu không bao giờ chết nữa.


• Sự sống lại của ta là gì? Khi ta chết, hồn lìa xác, xác bị hư nát, hồn gặp Chúa Kitô để được xét xử và nhận thưởng phạt, rồi đến ngày sau hết hồn được hiệp nhất với xác đã được biến đổi do quyền năng phục sinh của Chúa Kitô.


• Ai sẽ sống lại? Tất cả những ai đã chết, tuy nhiên không phải tất cả được vào Nước Trời, vì "ai đã làm điều lành thì sẽ sống lại để được sống, ai đã làm điều dữ thì sẽ sống lại để bị kết án" (Ga 5,29).


• Sống lại như thế nào? Sống lại với xác riêng của mình nhưng được biến đổi thành "xác có thần khí" (1Cr 14,44) không hư nát. Còn chuyện sống lại bằng cách nào thì vượt quá trí tưởng tượng và hiểu biết của ta.

Sống lại khi nào? Sống lại vào ngày sau hết, ngày tận thế. Ngày Chúa Kitô quang lâm (1Tx 4,16).


Vì thế, ta phải tôn trọng thân xác của mình cũng như của tất cả mọi người, đặc biệt những người đau khổ. Nghi thức an táng Kitô giáo chứng tỏ niềm tin về thân xác sẽ sống lại.

III. Phán xét riêng



Chúa Kitô là Ðấng cứu độ nên Chúa Cha trao cho Người quyền xét xử để thưởng phạt mọi người. Tân Ước nói đến việc thưởng phạt ngay sau khi con người chết, dựa vào dụ ngôn "người giàu và anh nghèo Ladarô" (x. Lc 16,22) và dựa vào lời Ðức Giêsu nói với người trộm lành (x. Lc 23,43). Ngay sau khi chết, mỗi người được phán xét riêng tùy theo việc họ sống hiệp thông với Chúa Kitô, để hiệp thông với Thiên Chúa, với mọi người và vũ trụ vạn vật. Họ sẽ được thưởng hay chịu phạt; hoặc là chịu thanh luyện , hoặc được hưởng hạnh phúc Nước Trời, hoặc chịu phạt đời đời.

IV. Trời hay Thiên Ðàng

Những người đã chết trong ơn nghĩa Chúa và được thanh luyện toàn hảo thì được ở với Chúa Kitô muôn đời, nghĩa là được vào Nước Trời hay Thiên Ðàng. Trời không phải ở bên trên tầng xanh nhưng là một tình trạng, "một cuộc sống hiệp thông trong sự sống và tình yêu với Thiên Chúa Ba Ngôi, với Ðức Trinh Nữ Maria, các Thiên Thần, và tất cả mọi người lành thánh". Ðó là cùng đích tối hậu, là sự hoàn thành mọi khát vọng sâu xa nhất của con người, là tình trạng hạnh phúc tuyệt vời và dứt khoát. Sự hiệp thông trong hạnh phúc với Thiên Chúa, trong Chúa Kitô, với mọi người lành và toàn thể tạo thành là một mầu nhiệm mà thánh Phaolô diễn tả là "mắt chưa thể thấy, tai chưa hề nghe, lòng người chưa hề nghĩ tới" 1Cr 2,9). Kinh thánh tìm cách diễn tả bằng những hình ảnh như: sự sống, ánh sáng, hòa bình, tiệc cưới, rượu trong Nước Trời, nhà của Chúa Cha, Giêrusalem trên trời....

V. Luyện ngục.

Những người đã chết trong ơn nghĩa Chúa thì chắc chắn đã được cứu độ, nhưng nếu chưa được thanh luyện hoàn hảo thì phải được thanh luyện cho thật tinh tuyền. Hội Thánh quen gọi là thanh luyện nơi luyện ngục. Thực ra luyện ngục không phải là một nơi nào, nhưng là một tình trạng hồn phải thanh luyện. Giáo lý này dựa vào truyền thống thời Cựu Ước quen cầu nguyện cho những người đã chết (x. 2Mcb 12,46). Và ngay từ thời đầu, Hội Thánh đã quen kính nhớ người chết, đặc biệt là trong thánh lễ, để chuyển cầu cho họ. Hội Thánh còn khuyên ta bố thí, lãnh ân xá, và làm các việc hãm mình đền tội giúp cho họ sớm được vào Nước Trời.

VI. Hỏa ngục

Những ai đã hoàn toàn cố tình không muốn hiệp thông với Chúa Kitô, là đã tự loại mình ra khỏi hiệp thông với Thiên Chúa và với mọi người làm thánh. đó là những người cố tình phạm tội nặng, xúc phạm đến Thiên Chúa, đến mọi người khác, đến vũ trụ vạn vật, mà không chút ăn năn hối cải, sau khi chết họ phải ở trong hỏa ngục đời đời. Ðức Giêsu đã nhiều lần nhắc nhở tới hỏa ngục (x. Mt 5,22-29) đến "lửa không hề tắt" (Mt 3,12) đến nơi "khóc lóc nghiến răng" (Mt 13,42). Thực ra hỏa ngục không phải một nơi nào, mà là tình trạng con người luôn cảm nghiệm phải xa cách Thiên Chúa, là sự sống và hạnh phúc mà mình hằng khao khát, xa cách muôn trùng và muôn đời. Thiên Chúa không tiền định cho ai phải vào hỏa ngục (x. DS 397). Người luôn tôn trọng tự do mỗi người. chính mỗi người quyết định số phận vĩnh cửu của mình, nên Hội Thánh mời gọi mỗi người phải sử dụng tự do của mình với tinh thần trách nhiệm thật cao.

VII. Phán xét chung


Ðến ngày sau hết tất cả mọi người chết sẽ sống lại "người lành cũng như người dữ" (Cv 24,15). Chúa Kitô sẽ đến trong vinh quang có các Thiên Thần hộ tống để xét xử công khai mỗi người trước tất cả mọi dân mọi nước (x. Mt 25, 32-46). Người là Sự Thật nên sẽ làm cho toàn bộ sự thật về mối liên hệ của mỗi người với Thiên Chúa được phơi trần ra, cùng với mọi hậu quả tốt xấu của nó. Người sẽ cho ta hiểu biết ý nghĩa tối hậu của công trình sáng tạo và kế hoạch cứu độ, hiểu biết những đường lối kỳ diệu mà Thiên Chúa quan phòng đã dùng để dẫn đưa mọi sự tới đích tối hậu. Phán xét chung sẽ mặc khải cho biết sự công chính của Thiên Chúa toàn thắng những bất công do thụ tạo của Người đã phạm, và tình yêu của Người mạnh hơn sự chết.

VIII. Trời Mới Ðất Mới

Ðến thời sau hết, Nước Trời sẽ đạt tới mức toàn hảo, toàn thể nhân loại và vũ trụ được biến đổi thành "Trời mới đất mới" (2Pr 3,13). Ðối với con người, sự hiệp thông giữa con người với Thiên Chúa, với nhau và với vũ trụ vạn vật mà Thiên Chúa đã muốn từ khi tạo dựng, và Hội Thánh lữ hành là dấu chỉ và dụng cụ, sự hiệp thông đó nhờ Chúa Kitô sẽ đạt tới toàn hảo viên mãn "không còn chết chóc, khóc lóc, đau khổ nữa" (Kh 21,4) mà chỉ còn hiệp thông trong hạnh phúc và bình an vĩnh cửu. Còn vũ trụ vạn vật cũng được chung hưởng một số phận với những con người công chính, nghĩa là cũng đạt tới cùng đích toàn hảo viên mãn nhờ Chúa Kitô, không còn bị ô nhiễm, bị sử dụng vào chuyện xấu, "không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang" (Rm 8,21).

IX. Hạnh phúc Vĩnh cửu và Kitô hữu hôm nay

Người Việt Nam nào cũng mong được hạnh phúc, thích làm phúc, và muốn thoát khỏi vô phúc, cũng như tất cả mọi người ai cũng khao khát hạnh phúc. Chúa Kitô đã đến loan báo và bảo đảm về hạnh phúc thật, hạnh phúc ấy chỉ có trong Nước Trời. Và Nước Trời đây chính là sự hiệp thông giữa con người với Thiên Chúa Ba Ngôi, với nhau và với vũ trụ vạn vật trong tình yêu, hạnh phúc viên mãn và vĩnh cửu. Vì thế, Kitô hữu hôm nay cần quan tâm đến mấy điểm cụ thể sau đây:

1. Hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu không thể có ở đời này.
Vì con người mang khát vọng tuyệt đối, nên không có gì ở đời này có thể lắp đầy, không người nào và tập thể xã hội nào có thể mang lại hạnh phúc vĩnh cửu cho tất cả mọi người. Trái lại, chỉ một mình Chúa Kitô có thể thỏa mãn được khát vọng sâu sắc nhất của con người, vì chính Người đã chia sẻ thân phận con người, đã chết và sống lại, bước vào hạnh phúc vĩnh cửu trong Nước Trời. Người là khởi đầu và bảo đảm chắc chắn rằng có hạnh phúc đích thực vĩnh cửu trong Nước Trời.

2. Hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu không phải là ảo tưởng
Nhằm ru ngủ hay lừa dối con người sống tiêu cực thụ động, nhưng là một sự thật được Chúa Kitô mạc khải và thể hiện bằng chính cuộc sống của Người. Sự thật này không được làm suy giảm mối quan tâm của Kitô hữu để phát triển trái đất này, trái lại nó phải khơi dậy và kích thích mối quan tâm đó để họ làm cho các tiến bộ trần thế thực sự góp phần vào việc tổ chức xã hội loài người tốt đẹp hơn (x. MV 39).

3. Hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu tùy thuộc vào Amen của Kitô hữu.
Kinh Tin Kính kết thúc bằng Amen. Trong tiếng Do thái "Amen" có cùng một gốc với "tin", và gốc này có nghĩa là chắc chắn, có thật trung tín. Tôi tin là tôi Amen đối với mọi lời nói, lời hứa, và mọi điều răn của Thiên Chúa. Tôi tin chắc chắn vì Thiên Chúa là Amen (x.Is 65,16). Ðấng trung tín, đáng tin cậy. Thiên Chúa lại biểu hiệu sự trung tín ấy nơi Con của Người là Chúa Kitô, nên Chúa Kitô cũng là Ðấng Amen (x. Kh 3,14), là sự thật chắc chắn. Và Chúa Kitô đã dạy: "Tất cả những ai thấy Người Con, và tin vào Người Con thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết" (Ga ,40). Vì thế, Hội Thánh quen kết thúc mọi kinh nguyện bằng Amen, để biểu lộ và tuyên xưng niềm tin. Kitô hữu sống theo điều mình Amen là bảo đảm chắc chắn được hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu.



1681    22-03-2011 07:50:35