Sidebar

Chúa Nhật

28.04.2024

Giáo Lý Cho Người Trưởng Thành _Bài 26 đến Bài 28

Bài 26
PHỤNG VỤ
(x. SGLC từ 1066 đến 1112)

"Hội Thánh long trọng tuyên xưng đức tin qua Phụng Vụ. Trong Phụng Vụ, Chúa Cha được tôn thờ là cội nguồn và cùng đích các việc cử hành. Chúa Con tái diễn mầu nhiệm Vượt Qua để ở lại với Hội Thánh, Chúa Thánh Thần soi sáng Hội Thánh trở thành Bí tích phổ quát của ơn cứu độ. Còn Hội Thánh loan báo và cử hành Mầu nhiệm Vượt qua để các tín hữu sống và làm chứng mầu nhiệm ấy trong thế giới". (SGLC 1066).

I. Tại sao có Phụng Vụ?


Con người có nhiều mối liên hệ với nhau, như: vợ chồng, cha mẹ và con cái, trong gia đình; thày cô với học trò trong học đường, người dân với tổ tiên, với các anh hùng dân tộc, với các biến cố quan trọng của đất nước; ngoài ra còn có các liên hệ do tôn giáo, do nghề nghiệp... Các mối liên hệ này, được bày tỏ và duy trì bằng lời nói, cử chỉ, hành động, và được tổ chức trong các cuộc lễ hội. Truyền thống Á Ðông chúng ta coi đó là lấy lễ nghĩa để bảo tồn tâm tình (Dĩ lễ tồn tâm). Trong Kitô giáo, thời Cựu Ước, công trình của Thiên Chúa thực hiện cho loài người và vũ trụ, được tiên báo qua những kỳcông vĩ đại của Người, như: sáng tạo, tuyển chọn dân Ít-ra-en, giải phóng dân khỏi nô lệ ai Cập. Và dân Ít-ra-en ghi nhớ các kỳ công đó để ca tụng, cảm tạ Thiên Chúa. Ðến thời Tân Ước, công trình của Thiên Chúa được Chúa Kitô hoàn thành, đặc biệt bằng cuộc khổ nạn hồng phúc, cuộc phục sinh từ cõi chết và lên trời vinh hiển (x. PV 5). Ðây chính là Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, Người thực hiện Mầu nhiệm này để cứu độ thế giới và tôn vinh Chúa Cha. Sang thời của Hội Thánh, mầu nhiệm này được loan báo và hiện tại hóa trong phụng vụ, để "các tín hữu đem cuộc sống mình diễn tả và biểu lộ cho những người khác mầu nhiệm Chúa Kitô và bản tính đích thực của Hội Thánh chân chính" (PV 2). Như vậy có Phụng vụ là để một đàng Thiên Chúa Ba ngôi tiếp tục thực hiện công trình cứu chuộc là thi ân giáng phúc cho mọi người (x. Ep. 1,9); đàng khác để Hội Thánh vừa cảm tạ Thiên Chúa về phúc lộc khôn tả của Người (2Cr. 9,15), vừa ca tụng vinh quang Người (Ep 1,6), vừa được hưởng nhờ những ân phúc ấy (PV 10).


II. Chúa Cha


Là nguồn mạch và cùng đích phụng vụ. Tân Ước tuyên xưng và tôn thờ Chúa Cha là Ðấng chúc lành và giáng phúc (x. Ep 1,3), nghĩa là Ðấng ban sự sống, sáng tạo, nguồn mạch mọi ơn phúc trong suốt lịch sử cứu độ. Thực vậy, thời Cựu Ước, Chúa Cha thực hiện những k?ông vĩ đại, giao ước với ông Abraham, cứu dân Ít-ra-en khỏi nô lệ ai cập. Vì thế, dân nhớ ơn và đáp trả bằng tôn thờ cảm tạ một mình Người. Thời Tân Ước, Chúa Cha sai Chúa Con xuống thế làm người, hoàn thành cuộc vượt qua cõi chết để sống lại vinh hiển, và đổ tràn ơn Cứu Ðộ cho mọi người. Người còn "nhờ Con của Người mà trao ban cho Hội Thánh ơn phúc chứa đựng mọi ơn phúc là Chúa Thánh Thần" (SGLC 1082). Vì thế, Hội Thánh hôm nay cử hành Phụng Vụ với Chúa Kitô, và nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, để đáp trả tình thương của Chúa Cha. Trong Phụng Vụ, Chúa Cha được tuyên xưng và tôn thờ như nguồn mạch mọi chúc phúc cho nhân loại và vũ trụ, và mọi chúc tụng, tôn vinh của toàn thể Hội Thánh đều qui về cùng đích là Chúa Cha (x. Kinh Tán Tụng: chính nhờ Chúa Kitô ....)


III. Chúa Con hoạt động trong phụng vụ


1. Khi còn sống trên trần gian,

Chúa Kitô dùng lời giảng dạy để loan báo, và dùng mọi hoạt động để thực hiện trước Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người (x. Mt 15,21 và Ga 11, 1-4). Khi đến giờ của Người, Người đã hoàn thành Mầu Nhiệm Vượt Qua bằng chịu chết, sống lại và về trời, "chỉ một lần là đủ" (Rm 6,12). Nhưng Mầu Nhiệm này không phải là một biến cố "như mọi biến cố lịch sử khác đã chìm vào quá khứ" (SGLC 1085). Trái lại, Mầu Nhiệm ấy vượt trên thời gian và luôn được Chúa Kitô hiện tại hóa trong Phụng Vụ (x.PV 6).

2. Khi về trời hưởng vinh quang bên hữu Chúa Cha,

Chúa Kitô hiện tại hóa Mầu nhiệm Vượt qua bằng cách đổ tràn Thánh Thần trong Hội Thánh là thân thể Người, và sai các Tông Ðồ, cũng như trao quyền thánh hóa cho các Ngài, để loan báo và cử hành Mầu nhiệm ấy. Rồi các Tông Ðồ lại trao ban quyền thánh hóa ấy cho những người kế vị qua Bí Tích Truyền Chức (SGLC 1087). Như vậy trong phụng vụ ở trần gian, Chúa Con luôn ở với Hội Thánh: Người hiện diện trong Thánh Lễ, trong bản thân thừa tác viên, trong hình bánh hình rượu, trong các bí tích, trong khi công bố Lời Chúa, trong khi cầu nguyện và hát thánh vịnh (x. PV 7), và Hội Thánh luôn kết thúc các lời nguyện bằng câu: "Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con".

IV. Chúa Thánh Thần và Hội Thánh trong phụng vụ.


Trong kế hoạch cứu độ, Chúa Thánh Thần luôn giữ vai trò làm cho Hội Thánh hiệp thông với sự sống và sứ mệnh của Chúa Kitô.


1. Chúa Thánh Thần chuẩn bị cho Hội Thánh tiếp nhận Chúa Kitô.

Ngay từ thời Cựu Ước, Hội Thánh đã được "tiên báo bằng hình bóng, được chuẩn bị kỳ diệu trong lịch sử dân Ít-ra-en và trong giao ước cũ" (GH 2). Do đó, Hội Thánh đã giữ lại nhiều yếu tố trong việc tế tự của dân Ít-ra-en, như đọc "Kinh Thánh Cựu Ước", cầu nguyện bằng Thánh vịnh; và nhất là tưởng niệm những biến cố lớn có liên quan đến Mầu nhiệm Chúa Kitô, như giao ước với ông Abraham, xuất hành, vượt qua biển Ðỏ... Chúa Thánh Thần đã lột màn che các hình bóng để ta hiểu: tàu ông Nôe thoát lụt hồng thủy tiên báo sự cứu độ do Bí tích Rửa Tội, Mana trong sa mạc tiên báo "bánh thật bởi trời" (Ga 6,32) là Chúa Kitô trong Bí Tích Thánh thể. Hội Thánh còn tổ chức Mùa Vọng, Mùa Chay, canh thức Phục Sinh để sống lại những biến cố lớn của Giao ước cũ.

2. Chúa Thánh Thần nhắc nhở Mầu nhiệm Chúa Kitô:

Chúa Thánh Thần "sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em" (Ga 14,26) nghĩa là trong Phụng vụ, Chúa Thánh Thần giúp cho cả người công bố hay giảng giải Lời Chúa, cũng như mọi người lắng nghe, được hiểu biết Lời Chúa và hiệp thông với Chúa Kitô hơn, để cùng nhau đáp ứng bằng một niềm tin sâu sắc hơn: "Chính lời Cứu rỗi nuôi dưỡng đức tin trong tâm hồn các tín hữu: chính đức tin này khai sinh và phát triển sự hiệp thông giữa các tín hữu" (LM 4). Người cũng giúp cả cộng đoàn nhớ lại những k công Chúa Kitô đã thực hiện cho ta, vì "kế hoạch mặc khải được thực hiện bởi cả việc làm lẫn lời nói, cả hai gắn bó chặt chẽ với nhau... Lời nói công bố việc làm và giúp khám phá ra mầu nhiệm chất chứa trong đó". (MK 2). Chúa Thánh Thần nhắc cho Hội Thánh nhớ, để Hội Thánh cảm tạ và tôn vinh Thiên Chúa. Vì thế trong Thánh Lễ, sau Kinh Truyền Phép là Kinh Tưởng Niệm (Anamnèse) và Kinh Tán tụng: Chính nhờ Chúa Kitô......

3. Chúa Thánh Thần hiện tại hóa Mầu nhiệm Chúa Kitô:

Mầu nhiệm Chúa Kitô được Hội Thánh cử hành, và mỗi khi cử hành thì Chúa Thánh Thần hiện tại hóa Mầu nhiệm đó. Trước khi truyền phép, chủ tế đọc kinh khẩn cầu (Epiclèse), Chúa Thánh Thần biến đổi lễ vật trở thành Mình Máu Chúa Kitô, để tín hữu có thể hiệp thông với Chúa Kitô, nếm trước cuộc hiệp thông viên mãn với Thiên Chúa Ba Ngôi. Sứ mệnh của Chúa Thánh Thần trong Phụng Vụ là hiệp thông. Hội Thánh cầu chúc: "Ân sủng của Ðức Giêsu Kitô, tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần" (2Cr 13,13) đầy tràn trong cộng đoàn, để mọi người trở nên đồng hành đồng dạng với Chúa Kitô, xây dựng sự hiệp nhất trong Hội Thánh, và tham gia sứ mệnh của Hội Thánh bằng chứng tá và hoạt động bác ái.

V. Phụng vụ là gì?


Phụng vụ dịch từ tiếng Hy lạp "leiturgia" nghĩa gốc là hoạt động công cộng, dịch vụ cho dân chúng. Truyền thống Kitô giáo hiểu đó là việc Dân Thiên Chúa tham gia công trình của Thiên Chúa (x. Ga 17,4). Trong Tân Ước, Phụng Vụ có ý chỉ không những việc thờ phượng Thiên Chúa, mà cả việc loan báo Phúc Âm (x.ra 15,16) và thi hành bác ái nữa (x. Rm 15,27), nghĩa là bao gồm việc phục vụ Thiên Chúa và phục vụ mọi người. Phụng vụ mang nhiều ý nghĩa và đặc tính phong phú, có thể tóm lại như sau:


1. Phụng vụ để cảm tạ tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi.

Phụng vụ là việc thờ phượng mà Hội Thánh dâng lên Chúa Cha, để cảm tạ về phúc lộc khôn tả Người đã ban trong Ðức Giêsu Kitô, và để ca tụng sự vinh hiển của Người, nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần (PV 6).

2. Phụng vụ là một hoạt động công cộng toàn hảo.

Phụng vụ là việc Hội Thánh tham dự chức tư tế (thờ phượng), ngôn sứ (loan báo Lời Chúa) và vương giả (phục vụ bác ái) của Chúa Kitô, nghĩa là không phải việc của một cá nhân hay một nhóm người, nhưng là việc của toàn thể Hội Thánh, dầu thừa tác viên của Hội Thánh chỉ cử hành một mình mà thôi, song họ cử hành nhân danh nhiệm thể Chúa Kitô, gồm cả Ðầu và các chi thể. "Không một hành vi nào khác của Hội Thánh có hiệu lực bằng" (PV 7).

3. Phụng vụ được diễn đạt

Bằng những dấu chỉ khả giác, bao gồm lời nói, cử chỉ và các biểu tượng, như: bánh, rượu, nước, dầu... và được thể hiện cách khác nhau, theo từng dấu chỉ, như: các Bí Tích, Lời Chúa, lời cầu nguyện, và hát Thánh vịnh (PV 7).

4. Phụng vụ giúp

Tăng cường đức tin, củng cố đức Cậy và phát huy đức Mến cho tín hữu, để chính đời sống họ có thể biểu hiện Hội Thánh như dấu hiệu hữu hình của mối hiệp thông giữa Thiên Chúa, với con người và với vũ trụ vạn vật, nhờ biết sống hiệp thông trong tình yêu, và ăn ở xứng đáng với ân huệ họ lãnh nhận. (PV 10).

5. Phụng vụ có tính cách chung.

Phụng vụ làm cho tín hữu đang lữ hành trên trần thế, được cảm mến trước Phụng Vụ trên trời: "Phụng vụ trần gian là nơi chúng ta hợp cùng toàn thể đạo binh trên trời đồng thanh ca ngợi tôn vinh Chúa... Chúng ta mong đợi Ðấng Cứu Thế là Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, cho đến khi chính Người là sự sống chúng ta sẽ xuất hiện với Người trong vinh quang" (PV 8).

VI. Kitô hữu với phụng vụ


Kitô hữu Việt Nam đang sống trong lòng một dân tộc có nhiều lễ hội phong phú, như: lễ Tết Nguyên Ðán, lễ Tết Trung Thu, lễ giỗ tổ Hùng Vương, lễ kỷ niệm các anh hùng dân tộc, lễ cưới, lễ giỗ, lễ an táng... Kitô hữu cũng đang sống trong Hội Thánh có nhiều lễ Phụng vụ đầy ý nghĩa sâu sắc như: lễ Giáng Sinh, nhất là Tuần Thánh và lễ Phục sinh, các lễ kính Ðức Maria, kính các Thánh... Khi Kitô hữu tham dự các lễ hội của dân tộc, hoặc lễ Phụng Vụ, cần tìm hiểu và suy nghĩ để áp dụng nguyên tắc "dĩ lễ tồn tâm" cho hợp với tinh thần Kitô giáo.


1. Nhờ lễ nghĩa để bảo tồn chân tâm:

Lễ nghĩa đây không phải chỉ là nghi lễ bề ngoài với những lời nói suông, những cử chỉ hành động theo thói quen máy móc hoặc giả tạo, những hình thức có tính dị đoan mê tín (tin tưởng mù quáng nhảm nhí). Lễ nghĩa đích thực bao gồm lời nói, cử chỉ hành động phát xuất từ lòng thành, từ chân tâm. Tâm là tim, là lòng, có ý chỉ tinh thần, tình nghĩa, tình cảm đối với người khác, với gia đình hay dân tộc... bao gồm lòng biết ơn, trân trọng, yêu thương, để đền đáp ơn đáp nghĩa. Cái tâm ấy phải chân thành và chung thủy. Chân tâm là lòng thành, và lòng thành làm cho nghi lễ có tình nghĩa chân thật, không giả dối giả hình.

2. Nhờ phụng vụ để "thờ phượng Chúa Cha trong Thần khí và sự thật" (Ga 4,23).

Phụng vụ cũng dùng những lễ nghĩa do Chúa Kitô thiết lập và chủ động, nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, để duy trì và bảo tồn cho mọi người trong Hội Thánh cùng có một tấm lòng thành, một chân tâm, vừa biết đón nhận mọi hồng ân cứu độ của Chúa Cha, với tâm tình cảm tạ tôn vinh trong Thần khí và sự thật, vừa biết thông truyền những hồng ân đó cho thế giới một cách hữu hiệu. Vì thế, Kitô hữu phải tham dự Phụng vụ "một cách có ý thức, chủ động và hữu hiệu" với "một tâm hồn chuẩn bị sẵn sàng, chân thật, hòa hợp tâm trí mình với ngôn ngữ, và cộng tác với ân sủng trên trời" (PV 11). Nhờ đó, Kitô hữu có thể "sống hiệp thông trong tình yêu với Thiên Chúa và mọi người... được nung nấu và lôi cuốn vào trong tình yêu thúc bách của Chúa Kitô" (PV 10), để trong đời sống thường ngày họ luôn "giữ trọn những điều Chúa Kitô đã dạy (Mt 25,20) và tham gia mọi công cuộc bác ái, đạo đức và tông đồ (PV 9).


Bài 27
BÍ TÍCH
(x. SGLC từ 113 đến 1134)

"Như Chúa Kitô được Chúa Cha sai đi thế nào, thì chính Người cũng sai các Tông đồ đi như vậy... để các ngài thực thi công việc cứu chuộc mà các ngài loan báo, nhờ Hiến tế Thánh Thể và các Bí tích, trung tâm điểm của toàn thể đới sống Phụng vụ" (PV 6). Bí tích chiếm vị trí quan trọng trong sinh hoạt Phụng vụ của Hội Thánh. Có 7 Bí tích: Thánh Thẩy, Thêm sức, Thánh Thể, Hòa giải, Xức dầu bệnh nhân, Truyền chức thánh và Hôn phối. Trước khi tìm hiểu từng Bí tích cần có cái nhìn tổng quát về ý nghĩa của Bí tích trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.

I. Bí Tích của Chúa Kitô


Gọi Bí Tích là Bí tích của Chúa Kitô vì "tất cả các Bí tích của luật mới đều do Ðức Giêsu Kitô thiết lập" (DS 1600-1601). Tất cả mọi lời nói và hành động của Ðức Giêsu trong cuộc sống trần thế đã mang giá trị cứu độ. Những lời nói và hành động ấy thực hiện trước năng lực của Mầu Nhiệm Vượt Qua. Và khi mọi sự được hoàn thành, Ngài trao ban năng lực ấy cho Hội Thánh, để rồi qua các thừa tác viên trong Hội Thánh, Chúa Kitô tiếp tục ban phát năng lực cứu độ cho con người khi họ lãnh nhận Bí tích. Vì thế, các Bí tích là những k?ông của Thiên Chúa trong Giao ước mới và vĩnh cửu.


II. Bí Tích của Hội thánh


Chúa Kitô đã không ấn định cách minh nhiên (rõ ràng) con số 7 của Bí tích. Nhưng theo dòng thời gian, trong sự hướng dẫn của Thánh Thần và với tư cách là người quản lý trung thành các Mầu nhiệm của Thiên Chúa (1Cr 4,1), Hội Thánh đã xác định 7 Bí tích. Hội Thánh cử hành Bí tích qua các thừa tác viên của mình, nhờ Bí tích Thánh tẩy, mọi tín hữu được tham dự vào chức năng tư tế của Chúa Kitô. Ngoài ra, nhờ Bí tích Truyền Chức Thánh, còn có một số tín hữu lãnh nhận chức tư tế thừa tác, bắt nguồn từ sứ mạng Chúa Kitô trao phó cho các Tông đồ, và các Tông đồ trao lại cho các người kế vị. Vì thế, thừa tác viên cử hành là sợi dây nối kết hành động Bí tích với chính Chúa Kitô, suối nguồn và nền tảng mọi Bí tích. Ngoài ân sủng được trao ban, khi lãnh nhận ba Bí tích Thánh Tẩy, Thêm Sức và Truyền Chức Thánh, người tín hữu còn được ghi dấu đặc biệt, gọi là Tích Ấn, nhờ đó họ tham dự vào chức tư tế của Chúa Kitô và đời sống Hội Thánh, với những nhiệm vụ khác nhau. Tích Ấn là dấu không thể xóa nhòa, và vì thế, đối với 3 Bí tích này, người tín hữu chỉ lãnh nhận một lần mà thôi.


III. Bí Tích Ðức Tin


Bí tích còn được gọi là Bí tích Ðức Tin, vì lãnh nhận Bí tích giả thiết phải có đức tin, đồng thời cử hành Bí tích là diễn tả và nuôi dưỡng đức tin. Khi Chúa Kitô trao phó sứ mạng cho các tông đồ, Ngài nói: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép Rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần" (Mt 18, 18-20). Như thế, để được thanh tẩy, nghĩa là cử hành Bí tích, phải được nghe Lời Chúa và qui thuận với Lời, tức là đức tin. Ðồng thời, khi cử hành Bí tích, Hội Thánh tuyên xưng đức tin được đón nhận từ các Tông đồ, vì thế mới có câu "Lex orandi, lex credendi" (Luật cầu nguyện là Luật tin). Hội Thánh tin khi Hội Thánh cầu nguyện và cử hành Bí tích. Và khi người tín hữu lãnh nhận Bí tích Hội Thánh cử hành, đức tin của họ được nuôi dưỡng và phát triển.


IV. Bí tích ban ơn cứu độ và sự sống đời đời.


Thánh Âu Tinh định nghĩa Bí Tích là Dấu chỉ hiệu nghiệm, vì không những Bí tích là dấu chỉ hữu hình diễn tả ân sủng vô hình, mà Bí tích còn chuyển thông ân sủng nữa. có được như thế, là vì chính Chúa Kitô hành động trong Bí tích nhờ Thánh Thần của Ngài (PV 7). Cũng vì thế, hiệu quả của Bí tích được gọi là Hiệu quả do sự (ex opere operato), nghĩa là do chính việc cử hành Bí tích phù hợp với ý muốn của Hội Thánh, chứ không phải do sự thánh thiện của cá nhân thừa tác viên cử hành. Tuy nhiên hiệu quả của Bí tích cũng còn tùy thuộc vào thái độ và tình trạng của người lãnh nhận. Hội Thánh xác quyết rằng: đối với người tín hữu, các Bí tích của Giao Ước mới cần thiết để được cứu độ. Ân sủng Bí tích chính là Thánh Thần làm cho ta nên con cái Thiên Chúa, giúp ta được kết hợp với Ðấng Cứu độ, và được thần hóa, được tham dự vào sự sống của chính Thiên Chúa (x. 2Pr. 1,4). Cũng vì thế, khi nhận lãnh ân sủng Bí tích, ta đã được tham dự vào sự sống đời đời ngay từ bây giờ "trong khi mong đợi niềm hy vọng hồng phúc và ngày Ðức Giêsu Kitô, Ðấng cứu độ chúng ta ngự đến" (Tt 2,13). Maranatha, "Lạy Ðức Giêsu, xin ngự đến" (Kh 22,20).


V. Bí tích trong đời sống Kitô hữu.


Bảy Bí tích trải suốt cuộc sống con người, và thánh hóa những thời điểm quan trọng nhất của đời người: sinh ra, lớn lên, trưởng thành, lìa đời. Như thế, qua cử hành Bí tích, ở những thời điểm quyết định nhất, và mỗi ngày, Chúa Kitô nói với ta: "Cha ở với con". Ngày xưa Chúa Kitô đã ở với những người cùng thời để chữa lành bệnh tật, xoa dịu khổ đau, thứ tha tội lỗi, tặng ban sự sống. Ngày nay, Chúa Kitô vẫn tiếp tục ở với ta, và có ngài là có tất cả. "Tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Chúa Kitô, và được kết hợp với Ngài" (Phil 3,8-9). Ý thức đó thúc đẩy ta đón nhận và cử hành các Bí tích với tất cả đức tin, để đi vào cuộc gặp gỡ chính Chúa Kitô qua Hội Thánh, cuộc gặp gỡ hồng phúc, vì là cuộc gặp gỡ ban Ơn Cứu Ðộ.


Bài 28
HỘI THÁNH CỬ HÀNH PHỤNG VỤ
(x. SGLC từ 1136 đến 1209)

"Phụng vụ là tột đỉnh qui hướng mọi hoạt động của Hội Thánh, đồng thời là nguồn mạch tuôn trào mọi năng lực của Hội Thánh.... Nhưng muốn thâu đạt được hiểu năng toàn vẹn ấy, tín hữu cần đến tham dự Phụng vụ Thánh với tâm hồn chuẩn bị sẵn sàng, ngay thẳng, hòa hợp với tâm trí mình, với ngôn ngữ, và cộng tác với ân sủng trên trời, để đừng nhận lãnh ơn sủng đó cách vô ích". (PV 10.11)

I. Ai cử hành?


Phụng vụ là hành động của Chúa Kitô toàn thể, nghĩa là gồm cả Ðầu cùng các chi thể của Ngài (PV 7). Có những chi thể đang được chung hưởng hạnh phúc trọn vẹn với Thiên Chúa, ở đó, các ngài cử hành Phụng vụ Thiên quốc nhờ Chúa Kitô "đang ngự bên hữu Thiên Chúa như thừa tác viên của Cung Thánh, của Nhà Trạm đích thực" (PV 7). Còn Phụng vụ trần gian là nơi chúng ta tham dự bằng cảm mến trước Phụng vu Thiên quốc, nơi chúng ta hợp cùng toàn thể đạo binh trên trời đồng thanh ca ngợi tôn vinh Chúa. Vì Phụng vụ là hành động của Chúa Kitô toàn thể, nên sinh hoạt phụng vụ không phải là sinh hoạt riêng tư, nhưng là những cử hành của Hội Thánh. Cũng chính vì thế, Hội Thánh khuyến khích việc cử hành cộng đồng hơn là cử hành đơn độc, và có vẻ riêng tư (PV 26-27). Cộng đoàn cử hành phụng vụ là cộng đoàn những người đã được rửa tội và được chia sẻ chức năng tư tế của Chúa Kitô (GH 10). Tuy nhiên khi cử hành, không phải ai cũng có chức năng như nhau. Các Giám mục, Linh mục và phó tế là những người được tuyển chọn và thánh hiến qua Bí tích Truyền Chức Thánh; vì thế, các ngài hành động nhân danh Chúa Kitô là Ðầu, để phục vụ cho mọi chi thể. Ngoài ra, còn có các thừa tác vụ khác: đọc sách, dẫn giải, giúp lễ, ca đoàn. Tất cả mọi người "chỉ thi hành trọn những gì thuộc lãnh vực của mình tùy theo bản chất sự việc và những qui tắc phụng vụ" (28).


II. Cử hành thế nào?


1. Dấu chỉ và biểu tượng:

Dấu chỉ và biểu tượng đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống và sinh hoạt của con người. Vì vừa có tinh thần, vừa có thể xác, con người diễn tả nội dung tinh thần qua những dấu hiệu của thân xác và vật chất. Ðồng thời những dấu hiệu đó còn là phương thế để con người trao đổi, giao tiếp với tha nhân. Khi Thiên Chúa nói với con người, Ngài cũng nói qua các tạo vật hữu hình. Qua thế giới vật chất, con người nhận ra quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Cũng vì thế, những thực tại vật chất có thể trở thành phương thế diễn tả hoạt động của Thiên Chúa thánh hóa con người: dội nước, xức dầu, bẻ bánh. Trong Cựu Ước, dân Chúa lãnh nhận từ Thiên Chúa những dấu chỉ và biểu tượng đặc biệt, diễn tả giao ước cũng như k?ông của Thiên Chúa. Có thể nhắc đến những dấu chỉ và biểu tượng: cắt bì, xức dầu, đặt tay, hiến lễ, và đặc biệt là lễ Vượt Qua. Khi Chúa Kitô đến, Ngài đã dùng những hình ảnh trong sinh hoạt đời thường của con người, để giúp họ hiểu về Nước Trời; Ngài đã thực hiện các phép lạ qua những cử chỉ biểu tượng và dấu chỉ thể lý. Ðồng thời Ngài mang lại ý nghĩa mới cho những dấu chỉ thời Cựu ước. Ngày nay, Chúa Thánh Thần tiếp tục thực hiện công cuộc thánh hóa ngang qua các dấu chỉ Bí tích. Các dấu chỉ này được lấy ra từ sinh hoạt thiên nhiên và đời sống xã hội cũng như từ Cựu Ước, nhưng Hội Thánh thanh tẩy chúng để diễn tả và hiện tại hóa công cuộc cứu độ của Chúa Kitô.

2. Lời và hành động:

Cử hành Bí tích là thực hiện cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa Thiên Chúa là Cha, và chúng ta là con cái. Cuộc gặp gỡ và đối thoại ấy được thể hiện qua lời nói và hành động. Vì thế, trong cử hành Bí tích, phụng vụ Lời Chúa và những cử chỉ gắn liền với nhau: lời diễn tả ý nghĩa của hành động, và hành động thực hiện nội dung của lời. Ðể nuôi dưỡng đức tin của tín hữu, cần nhấn mạnh đến những dấu chỉ kèm theo việc công bố Lời như: Rước sách Lời Chúa, Nơi công bố Lời, bài giảng của chủ tế, lời đáp trả của cộng đoàn.

3. Thánh nhạc trong Phụng vụ:

Ngay từ trong Cựu Ước, cử hành Phụng vụ đã gắn liền với việc hát Thánh vịnh, cùng với nhạc khí kèm theo; và Hội Thánh tiếp nối truyền thống tốt đẹp này. Ðể thực hiện đúng chức năng của mình, Thánh nhạc phải hội đủ ba yếu tố cần thiết: giúp phát triển lời cầu nguyện, cổ võ sự đồng thanh nhất trí của cộng đoàn, và làm cho các nghi lễ thêm phần long trọng (PV 112). Hội Thánh cũng khuyến khích việc đưa âm nhạc truyền thống của mỗi dân tộc vào cử hành phụng vụ, và nhờ đó cử hành phụng vụ sẽ sinh động và ích lợi hơn. "Phải quí trọng âm nhạc ấy đúng mức, và dành cho nó địa vị thích hợp; đồng thời đào tạo cho họ có một quan niệm tôn giáo, cũng như thích ứng năng khiếu của họ vào Phụng vu (PV 119).

4. Ảnh tượng:

Mục đích của ảnh tượng là để trình bày Chúa Kitô, Thiên Chúa làm người, và sứ điệp Tin Mừng của Ngài. Những ảnh tượng tôn kính Mẹ Maria và các Thánh cũng qui về mục đích ấy. Chiêm ngắm ảnh tượng cùng với suy gẫm Lời Chúa và hát thánh thi phụng vụ, tất cả tạo nên sự hài hòa nhằm đưa mầu nhiệm được cử hành vào sâu trong tâm khảm người tín hữu, để rồi được diễn đạt ra trong cuộc sống hằng ngày.

III. Cử hành khi nào?


1. Mùa Phụng vụ:

Ngay từ thời Cựu ước, dân Chúa đã có những ngày lễ cố định hằng năm để tưởng nhớ và tạ ơn Chúa vì những k?ông Ngài thực hiện; đồng thời giáo huấn các thế hệ sau. Hội Thánh hôm nay cũng cử hành phụng vụ vào những ngày cố định để tôn vinh mầu nhiệm Chúa Kitô, nhờ đó "Hội Thánh rộng mở cho các tín hữu sản nghiệp nhân đức và công nghiệp của Chúa, khiến cho những mầu nhiệm này có thể nói là hiện diện qua mọi thời đại, ngõ hầu các tín hữu tiếp xúc với mầu nhiệm đó sẽ được đầy tràn Ơn Cứu Chuộc" (PV 102).

2. Chúa Nhật:

Chúa Nhật là ngày của Chúa, ngày Hội Thánh cử hành mầu nhiệm Chúa Kitô phục sinh. Vì Chúa Nhật có tầm quan trọng đặc biệt nên "phải được đề cao và in sâu vào lòng đạo đức của các tín hữu để ngày ấy trở thành ngày vui mừng và ngày nghỉ việc" (PV 106). Tâm điểm của Chúa Nhật là Thánh lễ "Trong ngày đó, các tín hữu phải họp nhau lại để nghe Lời Chúa và tham dự Lễ Tạ Ơn, để kính nhớ cuộc Thương Khó, sự Sống lại và vinh quang của Ðức Giêsu; đồng thời cảm tạ Thiên Chúa vì Ngài đã dùng sự phục sinh của Ðức Giêsu Kitô từ trong cõi chết, mà tái sinh họ trong niềm hy vọng sống động" (PV 106).

3. Năm Phụng vụ:

Lễ Phục Sinh là cao điểm của năm Phụng Vụ, trong đó Hội Thánh cử hành hết sức trọng thể mầu nhiệm Chúa Kitô Phục Sinh, cùng với cuộc thương khó hồng phúc của Ngài. Ngoài ra, Hội Thánh còn "trình bày trọn mầu nhiệm Chúa Kitô qua chu k?ột năm, từ Nhập thể, Giáng Sinh đến Thăng Thiên, Hiện xuống, cùng với sự mong đợi niềm hy vọng hồng phúc và ngày Chúa lại đến" (PV 102).

Như vậy, mỗi năm Phụng vụ, theo thứ tự, người tín hữu sẽ đi qua các Mùa:

  • Mùa Vọng
  • Mùa Giáng Sinh
  • Mùa Chay
  • Mùa Phục Sinh
  • Mùa Thường Niên.


Ngoài ra, trong Năm Phụng vụ, Hội Thánh còn "tôn vinh Ðức Maria vinh hiển - Mẹ Thiên Chúa, Ðấng đã nối kết với công trình cứu chuộc của Con Người bằng mối dây bất khả phân ly". Ðồng thời Hội Thánh cũng kính nhớ các Thánh Tử Ðạo và các Thánh khác; qua đó, Hội Thánh công bố mầu nhiệm phục sinh nơi các ngài và trình bày cho các tín hữu những gương mẫu tuyệt vời, lôi kéo họ đến với Chúa Cha qua Chúa Kitô (PV 103-104).

4. Phụng vụ các giờ kinh:
Kinh Nhật tụng là tiếng nói của Hội Thánh, nghĩa là của toàn thể Nhiệm thể công cộng ngợi khen Thiên Chúa và cầu bầu cho phần rỗi của cả thế giới (PV 83-99). Ðồng thời Kinh Nhật tụng còn nhằm mục đích thánh hiến trọn ngày đêm bằng lời ngợi khen Thiên Chúa (PV 84), và là nguồn đạo đức, của ăn cho kinh nguyện riêng tư. Vì thế, Kinh Nhật tụng chiếm vị trí quan trọng trong sinh hoạt phụng vụ của Hội Thánh. Ðể việc cử hành phụng vụ các giờ kinh mang lại kết quả phong phú, không những người đọc cần hòa hợp tâm trí với lời mình đọc, mà còn phải trau dồi kiến thức về phụng vụ và Kinh Thánh, nhất là về các Thánh Vịnh (PV 90).

IV. Cử hành ở đâu?

"Việc thờ phượng Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý" (Ga,4,24) không bắt buộc phải gắn bó với nơi chốn cố định nào. Vì chính Thân Mình Chúa Kitô Phục Sinh là đền thờ thiêng liêng, tuôn chảy dòng nước ban sự sống, nên khi các tín hữu tụ họp lại, liên kết với Chúa Kitô nhờ Chúa Thánh Thần, họ trở thành đền thờ sống động của Thiên Chúa (x. 2Cr. 6,16). Tuy nhiên, khi hoàn cảnh cho phép, người tín hữu xây dựng các nhà thờ làm nơi thờ phượng. Nhà thờ là Nhà Cầu Nguyện, là nơi ở của Chúa, cụ thể hóa hình ảnh của Hội Thánh đang hiện diện nơi đó, và chính nơi đó Chúa Kitô hiện diện và hành động để cứu độ con người. Cuối cùng, nhà thờ mang ý nghĩa cánh chung. Nhà thờ là biểu trưng cho nhà Cha trên trời mà chúng ta đang đi tới. Bước qua ngưỡng cửa để vào bên trong, nhà thờ là biểu tượng cho việc đi từ thế giới tội lỗi mà vào đời sống mới. Vì thế, nhà thờ là nhà của mọi con cái Thiên Chúa, luôn luôn rộng mở và chào đón mọi người.

V. Sống tâm tình phụng vụ.

1. "Các hoạt động phụng vụ không phải là hoạt động riêng tư, nhưng là cử hành của Hội Thánh... phải quí chuộng việc cử hành cộng đồng hơn là cử hành đơn độc và có vẻ riêng tư" (PV 26,27) Như thế mỗi khi cử hành phụng vụ, cụ thể nhất là phụng vụ Thánh Lễ, chúng ta cần tham dự thật tích cực, bằng lời kinh, tiếng hát, những câu tung hô và cả những cử chỉ bên ngoài; để diễn tả ý nghĩa cộng đoàn của cử hành phụng vụ.

2. Thiên Chúa vẫn đến với ta qua những dấu chỉ. Hầu hết các gia đình công giáo đều trưng bày ảnh tượng Thánh trong nhà, để nhắc nhở mọi người về sự hiện diện của Chúa. Hơn thế nữa, nếu chúng ta nhậy bén, có thể nhận ra Chúa đang hiện diện qua nhiều dấu chỉ khác của đời thường: từ phong cảnh thiên nhiên đến nụ cười của trẻ thơ, nỗi đau của người nghèo... Tất cả đều có thể nhắc nhở ta về sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa.



1780    22-03-2011 07:53:13