Sidebar

Thứ Hai
29.04.2024

Giáo Lý Cho Người Trưởng Thành_Bài 32 đến Bài 34

Bài 32
THÁNH LỄ
(x. SGLC từ 1345 đến 1419)

"Điều tôi đã lãnh nhận từ Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em: trong đêm bị nộp, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: Anh em cầm lấy mà ăn... đây là Mình Thầy hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy. Cũng thế, cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói: Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao ước mới: mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm, để tưởng nhớ đến Thầy. Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết. Vì thế, bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa" (1Cr 11, 23-27). "Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết" (Ga 6, 54).

Trong Thánh Lễ, Đức Giêsu dâng Mình lên Thiên Chúa Cha làm lễ vật giao hòa, và ban Mình làm lương thực nuôi sống các tín hữu. Thánh Lễ vừa là hiến tế, vừa là Tiệc Thánh.


I. Thánh lễ là Hiến tế của Chúa Kitô.


Đức Giêsu đã hiến dâng chính mình trên thập giá, làm lễ tế hy sinh, để đền tội cho muôn dân, và "chỉ dâng một lần là đủ" (Dt 7,27). Nhưng Người muốn nối dài hiến tế thập giá trong Thánh Lễ, để liên kết chúng ta và chi thể của Người vào hiến tế độc nhất vô song của Người. Tính chất hiến tế thể hiện rõ trong những lời truyền phép: "Này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con". "Này là chén Máu Thầy, Máu Giao ước mới sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội" (Lc 22, 19-20). Chúa Kitô dâng mình trên thập giá cũng chính là Chúa Kitô được Hội Thánh hiến dâng trong Thánh Lễ, nhờ thừa tác vụ Linh mục. Chỉ khác biệt ở cách dâng: "Ngày xưa, Chúa Kitô dâng chính mình trên bàn thờ thập giá cách đẫm máu; trong Thánh Lễ, hy tế thần linh cũng là Chúa Kitô, nhưng được dâng lên không đổ máu" (DS 1743).


II. Thánh lễ là bàn tiệc Hiệp thông.


Bí tích Thánh Thể là trung tâm và cao điểm của đời sống Hội Thánh. Trong Thánh lễ, Chúa Kitô liên kết Hội Thánh và mọi chi thể của Người vào hy lễ chúc tụng và tạ ơn. Bí tích Thánh thể biểu thị và thể hiện chính thực chất của Hội Thánh, là hiệp thông vào đời sống của Thiên Chúa, và hiệp nhất dân Thiên Chúa" (Huấn thị "Mầu Nhiệm Thánh Thể" 6). Bởi vì trong Chúa Kitô "Hội Thánh là Bí tích, nghĩa là dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết giữa con người với Thiên Chúa, và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại" (GH 1). Nhờ kết hợp với Mình và Máu Chúa Kitô, tất cả mọi tín hữu trở nên một thân thể (x. 1Cr 10, 16-17). Bí tích Thánh Thể là Bí tích hiệp thông: các tín hữu hiệp thông với Chúa Kitô là Đầu, và các tín hữu hiệp thông với nhau, như những chi thể của một thân thể duy nhất. Bàn tiệc Thánh Thể chính là bàn tiệc yêu thương hiệp nhất, và nhờ cử hành Bí tích Thánh Thể, ngay từ bây giờ, chúng ta được kết hiệp với Phụng vụ trên trời, và dự trước cuộc sống vĩnh cửu.


III. Hội thánh dâng Thánh lễ vì ý nào?


Ngay từ những ngày đầu, cộng đoàn Hội Thánh đã ý thức cử hành Thánh Lễ theo như lệnh tuyền của Chúa Kitô, bao lâu còn lữ hành trên trần thế. Vì vậy trong Thánh Lễ, Hội Thánh tuyên xưng rằng: "Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết, và tuyên xưng Chúa đã sống lại, cho tới khi Chúa lại đến" (Lời tung hô sau truyền phép). Hội Thánh dâng lễ vì những ý nào?


1. Để tạ ơn và ca ngợi Thiên Chúa Cha:

Bí tích Thánh Thể trước hết là "hy tế tạ ơn". Trong hy tế Thánh Thể, nhờ Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, Hội Thánh tạ ơn Thiên Chúa vì mọi ân huệ Người đã ban qua công trình sáng tạo, cứu chuộc và thánh hóa. Bí tích Thánh Thể còn là "hy tế ca ngợi", vì "chính nhờ Chúa Kitô, cùng với Chúa Kitô, và trong Chúa Kitô", Hội Thánh dâng lời ca ngợi vinh quang Thiên Chúa, nhân danh toàn thể thọ sinh.

2. Để tưởng niệm hy tế của Chúa Kitô và của Hội Thánh:

Bí tích Thánh Thể là tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, hiện tại hóa và hiến dâng trong Phụng vụ của Hội Thánh là thân thể Người. Theo Kinh Thánh, tưởng niệm không chỉ là nhớ lại, mà còn làm cho những biến cố đã qua thành hiện tại và hiện diện sống động giữa cộng đoàn. Khi Hội Thánh cử hành Thánh Thể, cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô trở nên hiện diện giữa cộng đoàn, vì lễ tế của Chúa Kitô trên thập giá luôn sống động, để đem lại ơn cứu độ cho mọi người ở mọi thời đại. "Mỗi lần hy tế thập giá được cử hành trên bàn thờ, nhờ đó Chúa Kitô, Chiên Vượt Qua của chúng ta chịu hiến tế, thì công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện" (GH 3). Đàng khác, Thánh Lễ cũng là hy tế của Hội Thánh. Là thân thể của Chúa Kitô, Hội Thánh tham dự vào lễ tế của Chúa Kitô là Đầu. Trong Thánh lễ, hy tế của Chúa Kitô trở thành hy tế của mọi chi thể trong thân thể. Toàn thể đời sống của các tín hữu: bản thân, lời ca ngợi, đau khổ, kinh nguyện, công ăn việc làm, đều được kết hợp với Chúa Kitô trong lễ dâng toàn hiến.

3. Để chuyển cầu cho các tín hữu và toàn thể nhân loại:

Trong Thánh Lễ, toàn thể Hội Thánh kết hiệp với Chúa Kitô trong việc hiến dâng và chuyển cầu. Cộng đoàn Phụng vụ Thánh Thể nhắc nhở và cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng, Đức Giám mục giáo phận, Linh mục chủ tế cũng như mọi tín hữu. Và không phải chỉ có những tín hữu còn tại thế, mà cả những vị được hưởng vinh quang trên trời cũng được kết hiệp với hy tế của Chúa Kitô. Hội Thánh dâng lễ trong tâm tình kính nhớ "Đức Trinh Nữ Maria, Thánh Mẫu của Thiên Chúa, các tông đồ và toàn thể các Thánh". Thánh Lễ cũng được dâng lên để cầu cho các tín hữu đã qua đời, để họ chóng được vào hưởng ánh sáng và bình an của Chúa Kitô. Sau cùng toàn thể nhân loại, cũng như tất cả vũ trụ cũng được hưởng nhờ ơn phúc của Thánh Lễ.

VI. Thánh Lễ có mấy phần?


Thánh Lễ diễn tiến theo một cấu trúc cơ bản được duy trì nhiều thế kỷ cho đến nay. Thánh Lễ chia làm hai phần chính, nhưng liên kết chặt chẽ với nhau thành một thể thống nhất: Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể, được đóng khung bằng nghi thức đầu lễ và nghi thức kết lễ.

Nghi thức đầu lễ:

Cộng đoàn tín hữu tụ họp lại một nơi để cử hành Thánh Lễ. Chính Chúa Kitô triệu tập cộng đoàn, và chủ tọa buổi lễ. Đại diện hữu hình của Người là Đức Giám mục hay Linh mục chủ tọa cộng đoàn, diễn giảng các bài đọc, tiếp nhận lễ vật, và đọc kinh Tạ Ơn. Nghi thức đầu lễ bao gồm việc sám hối.


1. Phụng Vụ Lời Chúa:

  • Đọc các bài Kinh Thánh rút ra từ Cựu ước và Tân ước.
  • Bài diễn giảng giúp mọi người hiểu, đón nhận và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống.
  • Lời nguyện tín hữu (hay Lời nguyện chung) cầu cho mọi người (x. 1Tm 2,1-2).


2. Phụng vụ Thánh Thể:
a. Chuẩn bị lễ vật: bánh, rượu được đem lên bàn thờ, và chủ tế dâng lên Thiên Chúa, lễ vật sẽ trở thành Mình Máu Chúa Kitô. Cùng với bánh rượu, các tín hữu có thể mang theo tặng phẩm, để giúp đỡ những người túng thiếu.

b. Kinh Tạ Ơn (Kinh nguyện Thánh Thể): là trung tâm của cuộc cử hành Thánh Thể.

•  Kinh tiền tụng: Hội Thánh tạ ơn Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, trong Chúa Thánh Thần, về tất cả công trình sáng tạo, cứu chuộc và thánh hóa. Toàn thể cộng đoàn tung hô: Thánh, Thánh, Thánh.
•  Kinh cầu xin Chúa Thánh Thần: Hội Thánh cầu xin Chúa Thánh Thần đến, làm cho bánh rượu trở nên Mình Máu Đức Giêsu Kitô.
•  Trình thuật việc lập Bí tích Thánh Thể: nhờ hiệu lực Lời và cử chỉ của Chúa Kitô, cũng như quyền năng Chúa Thánh Thần, bánh rượu trở thành Mình Máu Chúa Kitô.

  • Kinh tưởng niệm: Hội Thánh tưởng nhớ đến cuộc khổ nạn, phục sinh và quang lâm của Đức Giêsu Kitô.

• Kinh chuyển cầu: hy lễ tạ ơn được cử hành trong sự hiệp thông với toàn thể Hội Thánh, cả thiên quốc lẫn trần gian, kẻ sống cũng như người đã qua đời. Hội Thánh địa phương cũng như Hội Thánh toàn cầu.

c. Hiệp lễ: Kinh Lạy Cha và việc bẻ bánh đi trước phần Hiệp Lễ. Các tín hữu rước lễ tức là lãnh nhận chính Mình Máu Chúa Kitô, Đấng tự hiến "để cho thế gian được sống" (Ga 6,51).

Nghi thức kết lễ:
Chủ tế ban phép lành và giải tán cộng đoàn.

V. Điều kiện rước lễ.

Việc cử hành hy tế Thánh Thể hướng đến việc các tín hữu kết hợp với Chúa Kitô nhờ rước lễ. Chúa khẩn thiết mời gọi chúng ta đón rước Người: "Thật, Tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn Thịt và uống Máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình" (Ga 6,53). Hội Thánh khuyên các tín hữu có đủ điều kiện, rước lễ mỗi khi tham dự Thánh Lễ: "Nên khuyến khích tín hữu tham dự Thánh Lễ trọn vẹn hơn, qua việc lãnh nhận Mình Thánh Chúa ngay trong Thánh Lễ, sau khi linh mục rước lễ" (PV 55). Hơn nữa, Hội Thánh buộc các tín hữu phải tham dự Thánh Lễ vào các ngày Chúa Nhật, Lễ Trọng và rước lễ mỗi năm ít là một lần vào Mùa Phục Sinh (x. G1 920).

Để chuẩn bị rước lễ cho xứng đáng, các tín hữu cần:
1. Tra vấn lại lương tâm, để khỏi rước lễ cách bất xứng là lãnh án phạt (x.1Gr 11, 27-29). Nếu mắc tội trọng, phải đi xưng tội trước khi lên rước lễ.
2. Khiêm tốn và tin tưởng như viên đại đội trưởng: "Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự đến cùng con..." (Mt 8,8).
3. Giữ chay Thánh Thể: nghĩa là không ăn hay uống (trừ nước lã và thuốc chữa bệnh) một giờ trước khi rước lễ.
4.Thái độ bên ngoài (cử chỉ, cách ăn mặc) phải biểu lộ lòng tôn kính, sự trang trọng và niềm vui được Chúa ngự đến. Ngoài ra cần làm hòa với người khác trước khi nhận lãnh Bí tích hiệp nhất yêu thương (x. Mt 5, 23-24).

VI. Hiệu quả của việc Rước Lễ.

1. Hiệu quả chính yếu của việc rước lễ là được kết hiệp thâm sâu với Chúa Kitô, sống nhờ Người và nên một với Người. "Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy" (Ga 6, 56-57). "Bởi vì việc tham dự vào Mình và Máu Chúa Kitô không có công hiệu nào khác hơn là biến đổi chúng ta thành Đấng mà chúng ta nhận lãnh" (Thánh Lêô Cả) (GH26).

2. Như của ăn vật chất mang lại sự sống cho thân xác thế nào, việc rước lấy Mình của Đấng Phục sinh cũng gìn giữ, phát triển và canh tân đời sống ân sủng đã nhận lãnh trong Bí tích Thánh Tẩy. Bánh Thánh Thể dưỡng nuôi người tín hữu trong cuộc lữ hành trần thế, và thành Của Ăn Đàng cho họ lúc lâm chung.

3. Việc rước lễ giúp chúng ta xa lánh tội lỗi, nhờ kết hợp với Chúa Kitô, Đấng tẩy xóa tội lỗi loài người. Thánh Thể khơi dậy đức mến sống động trong tâm hồn, có thể xóa đi các tội nhẹ, và gìn giữ ta khỏi phạm tội trọng.

4. Hiệp nhất các Kitô hữu trong Hội Thánh (x. GH 11). Bí tích Thánh Tẩy tháp nhập ta vào Hội Thánh; Bí tích Thánh Thể canh tân, củng cố và kiện toàn sự tháp nhập này. Việc rước lễ kết hiệp người tín hữu với Chúa Kitô, Đấng kết hiệp tất cả các tín hữu với Chúa Kitô, Đấng kết hiệp tất cả các tín hữu thành một thân thể duy nhất là Hội Thánh (x. 1Cr 10, 16-17). Hơn nữa, Bí tích Thánh Thể còn là lời mời gọi khẩn thiết các tín hữu đã ly khai, hiệp nhất trong một Hội Thánh duy nhất. Thánh Âu tinh đã thốt lên: "Ôi Bí tích Tình Yêu! Dấu chỉ Hiệp Nhất! Mối dây Bác ái!". Sau cùng việc lãnh nhận Mình Máu Chúa Kitô, đòi buộc chúng ta nhận ra Người nơi những người nghèo khổ nhất, để chăm sóc (x. Mt 25, 40).

5. Bảo chứng cho vinh quang mai sau. Chúa đã long trọng hứa: "Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi thi được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại ngày sau hết" (Ga 6, 54). Vì là lễ tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Chúa, Bí tích Thánh Thể còn là tiền dự vào vinh quang thiên quốc. Trong một Kinh Nguyện cổ, Hội Thánh ca tụng mầu nhiệm Thánh Thể như sau: "Ôi Tiệc Thánh! Chúa Kitô đã trở thành lương thực cho chúng ta: tiệc tưởng niệm cuộc khổ nạn của Người, ban cho ta hồng ân viên mãn, và bảo chứng cho vinh quang mai sau".

VII. Sống Thánh lễ trong cuộc đời.

1. Người giáo dân Việt Nam rất siêng năng "đi lễ", nhưng vì thiếu hiểu biết, họ chỉ "xem lễ" như khán giả xem kịch. Khi đi dâng lễ, người tín hữu không chỉ dâng Đức Giêsu lên Thiên Chúa Cha, mà còn phải liên kết với Đức Giêsu mà dâng chính mình thành của lễ, để lễ tế vô giá của Con Một Thiên Chúa, cũng trở thành lễ tế của mỗi tín hữu qua các thời đại: "Trong khi dâng lễ vật tinh tuyền, không chỉ nhờ tay linh mục, mà còn liên kết với ngài, họ tập dâng chính mình" (PV 48).

2. Thánh lễ là "nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Kitô hữu" (GH 11), nên mọi hoạt động của người Kitô hữu đều phải bắt nguồn nơi Thánh Lễ, và qui hướng về Thánh Lễ. Cuộc đời là Thánh Lễ nối dài, nghĩa là những ân phúc nhận được nơi Thánh Lễ qua Lời Chúa, qua việc kết hợp với Thánh Thể và hiệp thông với cộng đoàn, phải trở thành ánh sáng soi dẫn và sức mạnh nâng đỡ cho mọi hoạt động tôn giáo cũng như trần thế. Ngược lại, người Kitô hữu phải làm cho tất cả cuộc đời thành Thánh Lễ: Lễ Dâng Cuộc Đời! "Mọi hoạt động, Kinh nguyện và công cuộc tông đồ, đời sống hôn nhân và gia đình, công ăn việc làm thường ngày, việc nghỉ ngơi thể xác và tinh thần, nếu họ chu toàn trong Thánh Thần, và cả đến những thử thách của cuộc sống nếu họ kiên trì đón nhận, thì tất cả đều trở nên hiến lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô (x. 1Pr 2,5), được thành kính dâng lên Chúa Cha cùng với Mình Thánh Chúa, khi cử hành Phép Thánh Thể" (GH 34).



Bài 33
BÍ TICH HÒA GIẢI
(x. SGLC từ 1420 đến 1484)

"Những ai đến lãnh nhận bí tích Hòa giải, đều được Thiên Chúa nhân từ tha thứ những xúc phạm đến Người. Đồng thời họ được giao hòa cùng Hội Thánh mà tội lỗi họ đã làm tổn thương. Hội Thánh hằng nỗ lực lấy Đức Ái, gương lành và kinh nguyện, để hoán cải họ" (GH 11) Bí tích Hòa giải còn được gọi là Bí tích Giải tội, bí tích Cáo giải, bí tích Sám Hối. Nhưng dù tên gọi nào chăng nữa, vẫn luôn hàm chứa hai nội dung chính yếu: sự hoán cải của hối nhân và tình thương tha thứ của Thiên Chúa. Tìm hiểu bí tích Hòa giải là cơ hội giúp ta khám phá tình thương của Thiên Chúa, và cảm nghiệm đó thúc đẩy ta sám hối, mỗi ngày và mọi ngày trong suốt cuộc đời.

I. Tiếng gọi hoán cải.


"Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến. Anh em hãy ăn năn thống hối và tin vào Tin Mừng" (Mc 1,15). Tiếng gọi hoán cải là thành phần thiết yếu trong lời công bố Nước Trời. Tiếng gọi ấy trước hết được gửi đến những ai chưa nhận biết Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài. Vì thế, Thánh Tẩy là bí tích tha tội và dẫn đưa ta vào đời sống mới.


Tuy nhiên, tiếng gọi ấy vẫn tiếp tục được gửi đến cho những người đã chịu Thánh Tẩy, vì kinh nghiệm cuộc sống cho thấy ta vẫn tiếp tục phạm tội sau khi đã chịu Thánh Tẩy. "Nếu ta nói rằng mình không có tội, ta tự lừa dối mình, và sự thật không có trong ta" (1Ga 1,8). Chính Đức Giêsu cũng dạy ta cầu nguyện: "Xin Cha tha tội chúng con" (x. Lc 11,4). Bởi vì tuy bí tích Thánh Tẩy dẫn ta vào đời sống mới, nhưng không hủy diệt sự yếu đuối và hướng chiều về tội nơi con người tự nhiên. Chính vì thế, hoán cải là cả một hành trình dài và cuộc sống người tín hữu là cuộc chiến đấu liên lỉ chống lại tội lỗi. "Hội Thánh ôm ấp những kẻ có tội trong lòng mình, nên vừa thánh thiện vừa phải luôn thanh tẩy mình. Do đó, Hội Thánh luôn thực hiện việc sám hối và canh tân" (GH 8).


Sự hoán cải mà Đức Giêsu mời gọi là sự hoán cải nội tâm, hoán cải của con tim. Chỉ khi nào có sự hoán cải sâu xa đó, những việc làm bên ngoài mới có ý nghĩa: những cử chỉ, lời kinh, việc làm đền tội. Sự hoán cải ấy là sự thay đổi sâu xa hướng đi của cả cuộc đời: một đàng là buồn phiền, hối hận vì tội, và dứt khoát với cái xấu; đàng khác là quyết tâm thay đổi đời sống, trông cậy và tín thác vào Chúa. Hoán cải như thế không phải là việc dễ dàng. Vì thế, hoán cải trước hết là công việc của ân sủng Thiên Chúa. Chính Chúa nâng đỡ, để ta có thể làm lại cuộc đời. Càng khám phá tình thương của Chúa, ta càng khinh ghét tội lỗi và không muốn bị xa cách Chúa. Thánh Thần vừa là Đấng soi sáng giúp ta nhận ra con người thật và tội lỗi của mình, vừa là Đấng An ủi giúp ta ăn năn sám hối.


II. Bí tích Hòa giải.


Tội là bẻ gãy mối hiệp thông không những với Chúa mà với cả Hội Thánh. Vì thế, ta cần được Thiên Chúa tha thứ và cần giao hòa với Hội Thánh. Ý nghĩa đó được thể hiện đầy đủ trong Bí tích Hòa giải. "Không ai có quyền tha tội ngoại trừ một mình Thiên Chúa" (Mc 2,7). Đúng như thế. Nhưng Chúa Kitô chính là Thiên Chúa nên Ngài có quyền tha tội: "Tội lỗi của con đã được tha" (Mc 2,5).


Sau đó, Ngài ban cho Hội Thánh quyền tha tội nhân danh Ngài (x. Ga 20,21-23). Đồng thời trong cuộc sống trần thế, khi Đức Giêsu tha tội cho ai, Ngài cũng đưa họ hội nhập cộng đoàn dân Chúa. Vì thế, khi trao cho các quyền tha tội, Ngài cũng trao cho các ông quyền giao hòa tội nhân với Hội Thánh: "Các con cầm buộc ai, trên trời cũng cầm buộc. Các con cởi mở cho ai, trên trời cũng cởi mở" (Mt 16,19). Hội Thánh đã thực thi quyền bính Đức Giêsu trao phó trong cử hành Bí tích Hòa giải.


Trong suốt chiều dài lịch sử, hình thức cử hành có thể thay đổi, nhưng vẫn luôn luôn giữ cơ cấu nền tảng với hai yếu tố quan trọng: một đàng là hành vi của hối nhân: thống hối, xưng tội, đền tội; đàng khác là hành động của Thiên Chúa qua Hội Thánh: Giám mục và Linh mục nhân danh Chúa mà tha tội và ra việc đền tội cho hối nhân. Công thức tha tội chứa đựng nội dung chính yếu của Bí tích: "Thiên Chúa là Cha hay thương xót đã nhờ sự chết và sống lại của Con chúa mà giao hòa thế gian với Chúa, và ban Thánh Thần để tha tội. Xin Chúa dùng tác vụ của Hội Thánh mà ban cho con ơn tha thứ và bình an. Vậy cha tha tội cho con, Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần".


III. Hành vi của hối nhân.


1. Thống hối:

Thống hối là buồn phiền, chê ghét tội đã phạm và dốc lòng không phạm tội nữa (x. CĐ Trentô). Người ta thường phân biệt: thống hối toàn vẹn và thống hối bất toàn. Thống hối toàn vẹn là thống hối vì lòng mến, mến Chúa trên hết mọi sự. Lòng thống hối đó khiến hối nhân được tha các tội nhẹ và tha cả tội trọng nếu cương quyết lãnh nhận Bí tích Hòa giải sớm hết sức có thể. Thống hối bất toàn là thống hối vì sợ, sợ án phạt đời đời và sợ các hình phạt khác. Lòng thống hối ấy cũng là ân huệ của Thiên Chúa, thúc đẩy hối nhân làm hòa với Chúa và Hội Thánh cách trọn vẹn trong Bí tích Hòa giải.

2. Xưng tội:

Bằng việc xưng tội, hối nhân nhìn thẳng vào tội lỗi của mình, nhận trách nhiệm và mở lòng ra với Chúa cũng như với Hội Thánh, để sống đời sống mới. Đây là thành phần thiết yếu của Bí tích Hòa giải. Vì thế, Hội Thánh đòi hối nhân phải xưng thú mọi tội trọng, kể cả những tội thầm kín, vì "nếu bệnh nhân mà xấu hổ nên che dấu vết thương, làm sao lương y có thể biết mà chữa lành" (x. CĐ Trentô).

Ngoài ra, còn có những đòi hỏi liên quan đến Bí tích Hòa giải:

  • Mỗi tín hữu bó buộc phải xưng các tội trọng một năm ít là một lần.

•  Khi biết mình đang mắc tội trọng, không được rước Mình Thánh Chúa nếu chưa xưng tội, trừ khi không thể đi xưng tội, có thể giục lòng ăn năn sám hối.

  • Trước khi được Rước Lễ lần đầu, trẻ em phải lãnh nhận Bí tích Hòa giải.


Hội Thánh cũng khuyên tín hữu xưng các tội nhẹ. Việc xưng tội thường xuyên giúp ta huấn luyện lương tâm, chiến đấu chống lại các khuynh hướng xấu, được Chúa Kitô nâng đỡ và tiến bước trong đời sống mới.

3. Đền tội:
Tội là hành động nằm trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Tội gây thiệt hại cho tha nhân, vì thế phải đền bù; chẳng hạn: trả lại đồ vật đã lấy cắp, khôi phục danh dự cho người khác... Ngoài ra, tội còn làm cho chính bản thân ta yếu đi và mối tương quan với Thiên Chúa và tha nhân bị tổn thương. Chính vì thế, cùng với ơn tha tội, hối nhân còn phải làm việc gì đó đền bù, và phục hồi sức mạnh thiêng liêng. Đó là ý nghĩa đền tội. Việc đền tội có thể là kinh nguyện, việc bác ái, hãm mình, phục vụ tha nhân... Cha giải tội sẽ tùy theo mức độ tội phạm của hối nhân mà ra việc đền tội cho thích hợp và ích lợi. Việc đền tội giúp ta nên giống Chúa Kitô, Đấng duy nhất đền thay tội lỗi cho ta.

IV. Thừa tác viên của Bí tích Hòa giải.

Thừa tác viên của Bí tích Hòa giải là các Giám mục kế vị các Tông đồ, và các linh mục là những người cộng tác của hàng Giám mục. Nhờ ân sủng lãnh nhận qua Bí tích Truyền Chức Thánh, các ngài tha thứ mọi tội lỗi "Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần". Nhờ ơn tha thứ này, các hối nhân được giao hòa với Thiên Chúa và Hội Thánh. Khi cử hành Bí tích Hòa giải, cha giải tội đóng vai trò Người Mục tử tốt lành kiếm tìm con chiên lạc, người Samari nhân hậu băng bó vết thương, người cha giàu lòng thương xót đợi chờ và hân hoan đón tiếp đứa con hoang đàng trở về; đồng thời là vị thẩm phán công bằng và thương xót. Tóm lại linh mục là dấu chỉ và khí cụ của tình thương Thiên Chúa dành cho hối nhân. Vì là tôi tớ phục vụ cho ơn tha thứ của Thiên Chúa, cha giải tội phải mang trong mình những tâm tình và ý tưởng của Chúa Kitô. Ngài phải có hiểu biết và kinh nghiệm về cuộc sống con người, phải biết tôn trọng và nhạy cảm với những ai sa ngã; đồng thời ngài phải yêu mến sự thật, trung thành với giáo huấn của Hội Thánh, và kiên nhẫn giúp hối nhân đi lên trên con đường thánh thiện. Vì sự cao cả của Bí tích và vì lòng kính trọng đối với con người, Hội Thánh đòi buộc cha giải tội phải giữ bí mật tuyệt đối về những tội hối nhân đã xưng thú. Bí mật đó được gọi là Ấn Tòa Giải Tội và cha giải tội phải tôn trọng tuyệt đối.

V. Cử hành và hiệu quả của Bí tích Hòa giải.

1. Cử hành:
Thông thường, Bí tích Hòa giải được cử hành theo thể thức như sau: linh mục chào hỏi và chúc lành cho hối nhân, đọc Lời Chúa để soi sáng lương tâm và khơi dậy tâm tình thống hối; sau đó hối nhân xưng thú tội lỗi, rồi linh mục ra việc đền tội và giải tội. Cuối cùng là kinh tạ ơn và chúc lành của linh mục. Bí tích Hòa giải cũng có thể được cử hành trong khung cảnh sám hối cộng đồng. Cộng đoàn cùng cử hành Phụng vụ Lời Chúa, nghe giảng, xét mình và sám hối chung, nhưng sau đó mỗi người sẽ xưng tội riêng với linh mục. Việc cử hành này làm nổi bật ý nghĩa Hội Thánh của Bí tích Hòa giải. Trong trường hợp khẩn thiết như nguy tử, hoặc không đủ các linh mục giải tội, khiến giáo dân không thể Rước Lễ, có thể cử hành hòa giải cộng đồng và tha tội chung. Tuy nhiên, xưng tội và giải tội riêng vẫn là hình thức thông thường nhất; trong đó Chúa Kitô nói với từng người: "Cha tha tội cho con". Ngài là Thầy Thuốc chăm sóc từng bệnh nhân và dẫn đưa họ trở về với sự hiệp thông huynh đệ. Cho dù giải tội riêng, đừng quên rằng ở tự bản chất, cử hành bí tích là một hành vi phụng vụ, và vì thế mang tích công khai và Cộng đoàn Hội Thánh.

2. Hiệu quả
Mục đích và hiệu quả của Bí tích Hòa giải là cho ta được làm hòa với Chúa. Đây là ơn phục sinh thiêng liêng, hồi phục tư cách và phẩm giá làm con Thiên Chúa của hối nhân. Ai lãnh nhận bí tích với lòng thống hối chân thành còn cảm nhận được sự bình an và thanh thản trong tâm hồn. Cùng với hiệu quả trên, Bí tích còn hòa giải ta với Hội Thánh. Tội lỗi làm tổn thương và có khi bẻ gẫy mối hiệp thông huynh đệ. Bí tích Hòa giải khôi phục lại mối hiệp thông đó, và như thế, không những Bí tích chữa lành hối nhân mà còn ảnh hưởng tốt đẹp đến cả Hội Thánh. Đồng thời nhờ sự hiệp thông những của cải thiêng liêng trong Hội Thánh, ta được mạnh sức hơn trên đường về Quê Trời. Vào buổi xế chiều cuộc sống, mỗi chúng ta sẽ phải ra trước Tòa Chúa. Nhưng ngay từ hôm nay, khi nhận lãnh Bí tích Hòa giải, ta đã ra trước Tòa Chúa, và nhờ ơn Bí tích, ta được ngang qua cõi chết mà vào cõi sống: "Quả thật Ta bảo các ngươi: ai nghe Lời Ta và tin vào Đấng đã sai Ta thì có sự sống đời đời và khỏi đến Tòa phán xét, nhưng đã ngang qua sự chết mà vào sự sống" (Ga 5,24).

VI. Để sống lòng sám hối.

1. Ngày nay nhiều người trẻ ngại đi xưng tội, và các bạn lý luận: xưng xong rồi lại tiếp tục phạm tội, thà không xưng thì hơn. Ẩn bên trong lý luận ấy lại là sự thất vọng về chính mình, và thiếu lòng cậy trông vào Chúa. Cần ý thức rằng hoán cải là cả một hành trình dài, và phải dám tin vào tình thương tha thứ của Chúa, tình thương của người cha hằng chờ đợi chúng ta.

2. Xét mình hằng ngày, chân thành thống hối và quyết tâm gắn bó với Chúa là điều ta có thể và phải làm mỗi ngày. Những việc làm đó giúp ta luôn sống trong Ơn Hòa giải, và thúc đẩy ta sống đời Kitô hữu tốt đẹp hơn.

3.Không những làm việc đền tội mỗi khi đi xưng tội, Hội Thánh còn khuyên ta thực hiện nhiều hình thức đền tội khác trong cuộc sống hằng ngày. Ba hình thức quen thuộc nhất: cầu nguyện, ăn chay và làm việc bác ái. Những hình thức này vừa giúp ta chế ngự bản thân, vừa dẫn ta vào cuộc sống hài hòa với Chúa, với mọi người.



Bài 34
Bí Tích Xức Dầu Bệnh Nhân
(x. SGLC từ 1499 đến 1532)

"Bằng Phép Xức Dầu Thánh và lời cầu nguyện của các Linh mục, toàn thể Hội Thánh phó thác bệnh nhân cho Đức Kitô đau khổ và hiển vinh, để Người an ủi và cứu rỗi họ. Hơn nữa, Hội Thánh còn thúc giục họ saün sàng kết hợp với Đức Kitô chịu đau khổ và chịu chết để mưu ích cho dân Thiên Chúa". (HT 11)

I. Ý nghĩa và hiệu quả của Bí tích Xức Dầu bệnh nhân.


1. Ý nghĩa Bí tích Xức Dầu bệnh nhân:

Bệnh tật và đau khổ luôn là những lo âu triền miên của con người. Khi bệnh tật, con người càng cảm nghiệm được giới hạn và bất lực của mình. Có khi bệnh tật đưa con người tới chỗ tuyệt vọng, nhưng bệnh tật cũng có thể dẫn đưa con người tới gặp gỡ Thiên Chúa.

Dân Thiên Chúa trong thời Cựu ước than van về bệnh tật của mình trước nhan Thiên Chúa, cầu khẩn Ngài chữa lành, vì tin tưởng Ngài là Chúa của sự sống và sự chết: "Lạy Giavê, xin dủ thương vì tôi thân tàn sức kiệt, xin chữa tôi. Lạy Giavê, vì xương tôi rã rời" (Tv 6,3). Con người thời Cựu ước còn quan niệm: tội lỗi là căn nguyên của bệnh tật và sự chết, nên họ thống hối và cầu xin Thiên Chúa cứu chữa, như trường hợp vua Ê-giê-ki-a. Ông nói: "Ôi, lạy Giavê, xin nhớ lại là tôi đi trước nhan Người cách trung tín, một lòng thành, điều đẹp mắt Ngài tôi đã làm" (Is 38,3, và Thiên Chúa đã cứu chữa ông: "Ta đã nghe lời ngươi khẩn cầu. Ta thấy nước mắt của ngươi. Này Ta sẽ thêm cho đời ngươi mười lăm năm nữa" (Is 38,5).


Tình thương của Thiên Chúa với bệnh nhân càng rõ nét nơi Chúa Kitô. Ngài chữa lành mọi loại bệnh tật: "Tiếng tăm Ngài đồn khắp xứ Syri. Người ta đem đến cho Ngài những người đau ốm mắc đủ thứ bệnh tật: những người bị quỷ ám, kinh phong, bất toại, và Ngài đã chữa lành họ" (Mt 4, 24). Chẳng những chữa lành bệnh tật, Ngài còn có quyền tha tội lỗi (x. Mc 2, 5-12). Vì Ngài đến để chữa lành con người toàn diện hồn và xác. Sự cảm thương của Ngài với bệnh nhân tới mức Ngài đã đồng hóa với họ: "Ta đau yếu và các ngươi đã đến thăm ta" (Mt 25,36); và "Ngài đã nhận lấy những tàn tật của chúng ta, và đã gánh lấy những bệnh nạn của chúng ta" (Is 53, 4). Nhưng không phải lúc nào Ngài cũng chữa lành bệnh tật, vì sự chữa lành bệnh tật chỉ là những dấu chỉ loan báo sự chữa lành triệt để: đó là chiến thắng tội lỗi và cái chết, nhờ sự phục sinh của Ngài. Vì như chúng ta đã biết, bệnh tật chỉ là một hậu quả của tội lỗi, nhưng Chúa Kitô "đã xóa tội trần gian" (Ga 1,29). Vì thế, đau khổ bệnh tật có thể làm cho con người trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô.


Vì tình thương xót các bệnh nhân, Chúa Kitô mời gọi các môn đệ của Ngài chia sẻ thừa tác vụ cảm thương và chữa lành của Ngài. Vì thế: "Các ông ra đi giảng dạy để người ta sám hối, và các ông xua đuổi nhiều ma quỷ, các ông xức dầu cho nhiều bệnh nhân và chữa họ lành" (Mc 6, 12-13). Sau khi phục sinh, Chúa Kitô vẫn lập lại: "Nhân danh Thầy, họ sẽ đặt tay trên các bệnh nhân, và những người này được chữa lành" (Mc 16, 17-18). Qua lời xác quyết của Marcô (Mc 6, 12-13): "Họ ra đi rao giảng cho người ta hối cải, và xua trừ nhiều ma quỷ, cùng đã xức dầu mà chữa lành nhiều kẻ ốm đau". Và lời của Giacôbê 5,14: "Ai trong anh em yếu liệt, hãy mời các vị niên trưởng của Hội Thánh, để họ cầu nguyện cho người đó. Sau khi đã xức dầu cho người đó nhân danh Chúa, lời cầu nguyện của đức tin sẽ cứu chữa người đau ốm, và Chúa sẽ vực người đó dậy... ". Nên Hội Thánh tin tưởng và tuyên xưng Xức Dầu Bệnh nhân là một trong bảy Bí tích Đức Giêsu đã thiết lập, mà Hội Thánh luôn cử hành để thêm sức mạnh cho các bệnh nhân.


2. Hiệu quả của Bí tích Xức Dầu Bệnh nhân:

Ân sủng đặc biệt của Bí tích Xức Dầu Bệnh nhân mang lại những hiệu quả sau đây:

  • Kết hợp bệnh nhân với cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, để sinh ơn ích cho chính bệnh nhân và cho Giáo Hội.

• Niềm an ủi, sự bình an và lòng can đảm, để chịu đựng những đau khổ của bệnh tật hoặc của tuổi già với tinh thần Kitô giáo.

  • Ơn tha thứ tội lỗi, nếu bệnh nhân chưa nhận được ơn tha thứ nhờ Bí tích Hòa giải.
  • Phục hồi sức khỏe, nếu điều này phù hợp với ơn cứu độ cho linh hồn bệnh nhân.
  • Chuẩn bị cho cuộc vượt qua sang đời sống vĩnh cửu (GLCG).


II. Thụ nhân và Thừa tác viên.

1. Thụ nhân của Bí tích Xức Dầu Bệnh nhân:
Xức dầu bệnh nhân không chỉ là bí tích cho những Người sắp chết, nhưng còn dành cho những ai có nguy cơ tử vong do bệnh tật hoặc vì tuổi già. Khi bệnh nhân đã được xức dầu, rồi khỏe lại, sau đó bị bệnh nặng, họ có thể lãnh Bí tích Xức Dầu Bệnh nhân lần nữa. Cả trước khi chịu cuộc giải phẫu nặng, bệnh nhân cũng nên nhận phép Xức Dầu.

2. Thừa tác viên Bí tích Xức Dầu Bệnh nhân:
Chỉ có các vị tư tế, nghĩa là Giám mục hay Linh mục mới có quyền ban Bí tích Xức Dầu Bệnh nhân. Dù cử hành tại tư gia, hay bệnh viện, Bí tích Xức Dầu Bệnh nhân luôn là một cử hành phụng vụ có tính cách cộng đoàn. Nhưng yếu tố chính của Bí tích này là: "Các Linh mục của Hội Thánh" (GL 5,14) đặt tay, cầu nguyện cho bệnh nhân trong niềm tin của Hội Thánh" (x GL 5,15), rồi linh mục xức dầu đã thánh hiến cho bệnh nhân.

III. Của Ăn Đàng.

Cùng với việc xức dầu, Hội Thánh trao cho bệnh nhân Mình Thánh Chúa như của ăn đàng. Thông hiệp với Mình Máu Chúa Kitô trong giây phút đó có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt, vì Mình Máu Chúa là sự sống và sức mạnh đặc biệt. Vì Mình Máu Chúa là sự sống và sức mạnh phục sinh, đưa bệnh nhân từ cõi chết đến cõi sống. Nếu ba Bí tích Thánh Tẩy, Thêm Sức và Thánh Thể hợp lại thành "các bí tích dẫn vào Kitô giáo" thì Bí tích Xức Dầu Bệnh nhân, Bí tích Hòa giải và ban Của Ăn Đàng hợp lại thành "các bí tích chuẩn bị về Quê Trời".

IV. Thái độ người Kitô hữu trước bệnh tật và đau khổ.

1. Nếu biết đón nhận trong lòng mến, bệnh tật có thể làm cho ta nên giống Chúa Kitô. Khi thánh Phaolô than phiền về bệnh tật của ngài, Chúa đã nói: "Sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối của con" (2CR 12,9). Chúng ta cố gắng chống trả mọi bệnh tật, nhưng khi phải đón nhận, hãy cố gắng đón nhận bằng lòng mến như thánh Phaolô diễn tả: "Tôi vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Chúa Kitô mãi trong xác tôi" (2Cr 12,9).

2. Bệnh tật có thể là sức mạnh Chúa ban, nhờ đó ta trải rộng tình thương cho người khác và giúp họ đạt đến Quê Trời. Vì thế thánh Phaolô nói: "Tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thánh Chúa Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho Thân Thể Người là Hội Thánh" (C1 1,24).



2213    22-03-2011 08:07:51