Sidebar

Thứ Hai
29.04.2024

Giáo Lý Cho Người Trưởng Thành_Bài 38 đến Bài 42

Bài 38
CON NGƯỜI LÀ HÌNH ẢNH CỦA THIÊN CHÚA
(x. SGLC từ 1701 đến 1724)

"Hỡi người Kitô Hữu hãy nhận biết phẩm giá của mình vì bạn được thông phần bản tính Thiên Chúa" (Thanh Lêô Cả, Giáo hoàng). "Thực vậy, mầu nhiệm về con người chỉ thực sự sáng tỏ trong Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập thể... Bởi vì Chúa Kitô đã bày tỏ cho con người biết bản chất đích thực của chính mình và khám phá ra ơn gọi cao cả của mình" (MV 22)

I. Con người có phẩm giá cao cả


Kinh Tin Kính tuyên xưng vẻ cao cả của muôn hồng ân Thiên Chúa đã trao ban cho con người trong việc sáng tạo, và còn cao cả hơn nữa trong việc cứu độ và thánh hóa con người. Chính Chúa Kitô khi nhập thể làm người, đã mạc khải trọn vẹn cho ta về phẩm giá con người: "Con người có hồn thiêng bất tử là thụ tạo duy nhất trên trái đất được Thiên Chúa dựng nên cho chính họ" (MV 24), và ngay khi thụ thai, con người được dành cho số phận hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Thiên Chúa đã cho con người có phẩm giá là có lý trí để hiểu biết trật tự vạn vật mà Người đã sắp đặt cho, có ý chí để có thể tự mình hướng về sự thiện đích thực, và còn có tự do là "là dấu hiệu đặc sắc nhất về hình ảnh Thiên Chúa nơi họ" (x. MV 17). Nhờ các khả năng đó, con người nhận ra được tiếng nói Thiên Chúa thúc đẩy họ làm lành lánh dữ (MV 16). Tiếng nói này luôn luôn vang lên trong lương tâm họ. Vì thế khi thực thi đời sống luân lý là con người chứng tỏ phẩm giá của mình. Tuy nhiên "ngay từ đầu lịch sử, con người bị quỷ dữ dụ dỗ và họ đã lạm dụng tự do của mình" (MV 13) để làm điều xấu. Dẫu thế con người vẫn còn giữ được lòng ao ước điều thiện, nhưng vì đã bị tổn thương bởi nguyên tội, họ dễ hướng về điều ác và dễ bi sai lầm(x. Mt 13), khiến phẩm giá của họ bị hủy hoại.


II. Chúa Kitô phục hồi phẩm giá con người


Tội lỗi đã hủy hoại phẩm giá cao cả của con người, nhưng Chúa Kitô đã dùng cuộc khổ nạn và phục sinh của Người giải thoát ta khỏi tội lỗi và làm cho ta đáng được sự sống mới trong Thánh Thần. Người phục hồi những gì mà tội lỗi đã hủy hoại. Nếu ta tin vào Chúa Kitô, ta được trở thành con Thiên Chúa nghĩa là được biến đổi để sống đời sống mới trong Thánh Thần, theo gương Chúa Kitô, để luôn hành động ngay chính và thực hành điều thiện. Nhờ đó đời sống luân lý của ta được triển nở, giúp ta tiến tới đức ái toàn hảo, để đạt được vinh quang và hạnh phúc Nước Trời.


III. Con người được mời gọi hưởng hạnh phúc Nước Trời


Tâm điểm việc giảng dạy của Đức Giêsu là Nước Trời và các mối phúc thật. Nước Trời lại gắn liền với các mối phúc (x.Mt 5.3.12). Các mối phúc vừa mô tả khuôn mặt Chúa Kitô (nghèo khó, hiền lành, bị bách hại) vừa mô tả đức ái của Người (thương xót, hòa giải). Chúng cũng soi sáng cho ta hiểu đâu là hành động và thái độ tiêu biểu của đời sống Kitô hữu. Chúng nâng đỡ Kitô hữu trong những lúc gian truân và báo trước Thiên Chúa sẽ chúc phúc cũng như ban thưởng xứng đáng cho họ. Các mối phúc còn đáp ứng khát vọng tự nhiên của con người muốn được hạnh phúc. Khát vọng hạnh phúc này cũng bắt nguồn từ chính Thiên Chúa, và chỉ có mình Thiên Chúa mới có thể thỏa mãn được. Tân ước đã dùng nhiều cách để diễn tả hạnh phúc Thiên Chúa hứa ban: được nhìn thấy Thiên Chúa (Mt 5,8), được vào hưởng niềm vui (Mt 25,21,23), được vào nơi an nghỉ của Thiên Chúa (Dt 4, 7, 11), được vào Thiên đàng (Lc 23,43), được thông phần bản tính Thiên Chúa (2Pr 1,4), được sống đời đời (Ga 17,3), được vào trong vinh quang của Chúa Kitô (Rm 8,18).


IV. Các mối phúc là tiêu chuẩn để đánh giá và hướng dẫn đời sống


Các mối phúc giúp ta thấy rõ mục đích của cuộc đời và cùng đích tối hậu của mọi hành vi con người, đó là được chung hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Thiên Chúa đặt con người trước các mối phúc để họ phải chọn lựa và quyết định đời sống luân lý của mình. Họ phải nhận biết ý muốn của Thiên Chúa để thanh tẩy mình khỏi những bản năng xấu, loại bỏ quan niệm sai lầm coi hạnh phúc chỉ tại cốt giàu sang, danh vọng, quyền lực, hoặc chỉ cốt tại những công trình loài người, dẫu rất hữu ích như khoa học kỹ thuật. Các mối phúc là con đường dẫn tới Nước Trời. Chúa Kitô phải từng bước dấn thân vào con đường ấy, nhờ Lời Chúa Kitô và ân sủng Chúa Thánh Thần mà thực hiện những hành vi trong đời thường để sinh hoa kết trái tốt đẹp cho đồng loại và làm vinh danh Thiên Chúa.


V. Phẩm giá con người và hạnh phúc vĩnh cửu


Con người có phẩm giá vì được Thiên Chúa yêu thương, được dựng nên giống hình ảnh Người, nghĩa là có lý trí, có ý chí, có tự do để chọn lựa điều thiện và có thể đạt tới hạnh phúc mà mình khát vọng. Nhờ phẩm giá cao cả đó, con người có thể yêu mến Thiên Chúa, yêu thương nhau, và yêu cả vũ trụ vạn vật nữa. Khi con người sống đúng phẩm giá mình, họ chứng tỏ mình đích thực là hình ảnh của Thiên Chúa, và được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu Con của Chúa Cha (Rm 8,29), được thông phần bản tính Thiên Chúa và hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa Ba Ngôi. Ơn gọi nầy liên hệ đến bản thân riêng mỗi người trước hết, nên mỗi người phải ý thức phẩm giá và ơn gọi đó, để tự nguyện đáp trả tình thương của Thiên Chúa. Xưa các nhà hiền triết Á Đông chúng ta trực giác bằng con người "linh hơn vạn vật" và đã dạy mỗi người phải lo sống cho xứng danh làm người (chính danh). Họ cũng trực giác rằng con người sinh ra vốn có tính "thiện" (nhân chi sơ tính bản thiện) thích làm điều thiện và khao khát hạnh phúc. Nhưng trong con người vẫn có thú tính nổi lên khiến con người hung dữ, tham lam... Nay nhờ mặc khải của Chúa Kitô, và nhờ ơn cứu độ của Người, Kitô hữu biết rõ hơn chỉ có hai con đường: con đường của Chúa Kitô "dẫn đến sự sống" và con đường ngược lại "dẫn tới diệt vong" (Mt 7,13). Hơn nữa, Kitô hữu còn được ân sủng của Thánh Thần hướng dẫn, trợ lực; vì thế, mỗi người phải sử dụng tự do của mình để suy nghĩ, chọn lựa, và quyết định đi theo con đường của Chúa Kitô, đường dẫn tới hạnh phúc thật trong Nước Trời.


Bài 39
TỰ DO CỦA CON NGƯỜI
(x. SGLC từ 1730 đến 1748)

"Tự do là điều thời nay rất ngưỡng mộ và hăng say theo đuổi... vì tự do đích thực là dấu hiệu đặc sắc nhất về hình ảnh Thiên Chúa nơi con người... vì thế phẩm giá con người đòi hỏi họ phải hành động theo một chọn lựa có ý thức, và tự do, nghĩa là chính họ phải được thúc đẩy và hướng dẫn từ nội tâm chứ không do bản năng hoặc áp lực bên ngoài" (MV 17).

I. Tự do đích thực


Thiên Chúa tạo dựng con người có lý trí và tự do, nhờ đó có sáng kiến và làm chủ hành vi của mình. Tự do là khả năng hành động hoặc không hành động, làm cái nầy hay làm cái kia, chọn lựa sự thiện hoặc sự ác, tăng trưởng tới toàn thiện hoặc suy sụp trong tội lỗi. Tự do là nguồn mạch sinh ra khen thưởng hoặc quở phạt, có công hay đáng tội. Khi chọn bất tùng phục hoặc chọn sự ác là ta lạm dụng tự do, và làm cho mình "nô lệ tội lỗi" (x.ra 6,17). Trái lại, khi ta càng làm điều thiện, ta càng tự do hơn. Như vậy, con người chỉ tự do đích thực khi phục vụ điều thiện và sự công chính; và tự do ấy chỉ đạt tới hoàn hảo khi họ tìm kiếm Đấng Tạo Hóa và tự nguyện gắn bó với Người, nhờ đó họ đạt tới hạnh phúc thật. Đức Maria và các Thánh là những người tự do đích thực.


II. Tự do và trách nhiệm


Khi con người đã suy nghĩ và chủ ý hành động một cách tự do thì con người bị ràng buộc với hành động đó, nghĩa là phải chịu trách nhiệm về hành động của mình. Tất cả mọi hành động do con người đã trực tiếp muốn thì trách nhiệm qui về họ. Trách nhiệm nầy có thể giảm bớt thậm chí có thể không còn nữa, do họ đã không hiểu biết, hoặc do vô tình mà làm, do bị bạo lực hay bị sợ hãi, do quá quen hoặc do cảm xúc quá mạnh, do các nhân tố tâm thần hoặc xã hội khác... Như vậy tự do là đặc tính của các hành vi thuộc con người, được gọi là hành vi nhân linh. Vì thế mỗi người đều có quyền tự nhiên đòi người khác phải thừa nhận mình là người có tự do và trách nhiệm; và khi mỗi người hành xử quyền tự do của mình là phải hành xử trong tôn trọng quyền hành xử tự do của người khác. Quyền hành xử tự do là một đòi hỏi không thể tách rời khỏi phẩm giá con người, nhất là trong vấn đề luân lý và tôn giáo. Quyền đó đòi dân luật phải công nhận cũng như bảo vệ trong những gì liên quan đến công ích và trật tự công cộng. Con người có trách nhiệm về tự do của mình và tôn trọng tự do chính đáng của người khác.


III. Tự do và tội lỗi


Vì có ý chí tự do nên mỗi người phải tự quyết định về chính mình. Tuy nhiên tự do của con người chỉ có giới hạn và dễ lầm lẫn. Mà sự thực là họ đã lầm lẫn đã tự ý phạm tội, đã tự dối mình để chối bỏ dự án yêu thương của Thiên Chúa, và trở thành nô lệ tội lỗi. Việc con người sử dụng sai tự do của mình lúc ban đầu đã sinh ra muôn ngàn sai lầm khác khiến "từ lòng người phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp... " (Mc 7,21,23) gây nên bao điều bất hạnh và áp bức suốt dòng lịch sử. Tự do của con người chỉ giới hạn nghĩa là họ không có quyền nói và làm bất cứ điều gì. Do đó, thật là sai lầm khi "con người tự coi mình được làm chủ tự do của mình, được tự túc để thỏa mãn tư lợi trong việc hưởng thụ của cải trần gian" (Thánh bộ Đức Tin). Ngoài ra, họ còn thường bỏ qua và vi phạm cả những điều kiện để hành xử tự do cách chính đáng trong phạm vi kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa... chẳng hạn chủ trương kinh tế chỉ huy độc tài quân phiệt, độc đảng, tôn giáo độc quyền... Những mù quáng và bất công đó khiến cho kẻ mạnh cũng như người yếu đuối bị cám dỗ vi phạm luật bác ái. Làm như thế con người gây tổn thương cho chính tự do của mình, trở thành nô lệ chính mình và cắt đứt tình anh em với mọi người, cũng như nổi loạn chống Thiên Chúa.


IV. Tự do và ân sủng


Con người đã hành xử tự do sai lầm nên bị giam cầm trong nô lệ tội lỗi và sự xấu. Nhưng "Chúa Kitô đã dùng thập giá vinh quang để giải thoát cho ta được tự do" (Gl 5,1), và ban cho mỗi người quyền thống trị tội, đồng thời giúp ta tìm lại ý nghĩa của tự do, nhờ đó ta có thể đạt tới điều thiện và chu toàn ơn gọi "làm con cái Thiên Chúa" (Rm 8,21). Như thế, Chúa Kitô vừa ban khả năng vừa ban cả phương tiện để ta có thể đạt tới điều thiện cao nhất, đạt tới chí thiện "như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện" (Mt 5,48). Khả năng và phương tiện ấy, giáo lý gọi là ân sủng. Nhưng khi ban ân sủng cho ta, Thiên Chúa không cưỡng bức hay trấn áp ta, mà chỉ mời gọi ách dịu dàng êm ái. Ta luôn vẫn hoàn toàn tự do. Ta nghe theo để tiếp nhận khả năng cũng như phương tiện Thiên Chúa ban thì ta được phúc. Trái lại, ta nhất quyết từ chối hay phản đối thì ân sủng trở thành vô ích, chỉ còn lại lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa và lòng chai đá cứng cỏi của ta. Ân sủng của Chúa không cạnh tranh với tự do của ta, mà trái lại, hễ ta càng buông mình theo thúc đẩy của ân sủng thì tự do nội tâm của ta càng tăng triển, và ta càng được kiên vững trong thử thách cũng như trước mọi áp lực và cưỡng bức của trần gian; như kinh nghiệm cầu nguyện chứng tỏ. Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa sẽ dùng ân sủng để giáo dục tự do nội tâm của chúng ta, giúp ta trở thành những cộng tác viên tự nguyện cho công trình của Người trong Hội Thánh và thế giới.


V. Tự do của con cái Thiên Chúa


Các nhà hiền triết Á Đông chúng ta xưa, chưa được ánh sáng Thiên Chúa mặc khải, nhưng đã trực giác rằng con người thuở ban sơ vốn có tính "thiện" và vẫn ấp ủ mơ ước đạt tới chí thiện, tuy chưa rõ chí thiện là gì. Khi Chúa Kitô đến, Người đã giải thoát ta khỏi nô lệ tội lỗi và mặc khải cho biết chí thiện là "hoàn thiện như Cha trên trời"(Mt 5,48). Tuy nhiên đó là lý tưởng siêu việt, con người tội lỗi làm sao vươn tới được, nhưng ta có ơn gọi và gương mẫu vừa tầm ta hơn là Đức Giêsu Kitô, Con Chúa Cha, Đấng đã xuống thế làm người để trở nên Trưởng tử giữa một đàn em đông đúc (x.ra 8,29). Ơn gọi của ta là trở nên nghĩa tử của Chúa Cha, trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu Kitô "Đấng đã giải thoát chúng ta để chúng ta được tự do" (Gl 5,1). Do đó ta có bổn phận tự nguyện đáp trả ơn gọi ấy bằng cách luôn chiến đấu để đạt tới "tự do của con cái Thiên Chúa" (Rm 8,21). Thánh Phêrô căn dặn "Anh em hãy sống như những người tự do, không phải như những người lấy tự do làm màn che sự gian ác, nhưng như tôi tớ của Thiên Chúa" (1Pr 2,16). Thánh Phaolô cũng khuyên: "Anh em đã được gọi để hưởng tự do, có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo xác thịt, nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau" (Gl 5,13). Đó là cuộc chiến đấu thường ngày của mỗi người, cuộc chiến đấu không dễ dàng, vì Đức Giêsu cũng đã bị cám dỗ, Kitô hữu luôn phải đối diện với cám dỗ thử thách. Kitô hữu phải không ngừng chế ngự và thuần hóa cái lý trí và ý chí phàm tục, thường chống lại tự do của con cái Thiên Chúa. Chế ngự và thuần hóa bằng cách buông theo ân sủng của Chúa Thánh Thần, bởi vì "ở đâu có Thần Khí của Chúa, ở đó có tự do" (2Cr 3,17). Thần Khí của Chúa giúp ta trở nên tôi tớ để phục vụ Thiên Chúa và anh em như Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta.


Bài 40
TRÁCH NHIỆM LUÂN LÝ
(x. SGLC từ 1749 đến 1775)

"Xét theo phẩm giá, mọi người vì là những nhân vị, nghĩa là người có lý trí và ý chí tự do, nên phải chịu trách nhiệm về cá nhân mình" (Tuyên ngôn về tự do tôn giáo 2)... Vậy trước tòa án Thiên Chúa, mỗi người sẽ phải trả lẽ về đời sống của mình tùy theo chính họ đã làm điều thiện hay điều ác" (MV 17).

I. Chủ thể luân lý và hành vi nhân linh


Mỗi người là một nhân vị, nghĩa là có những đặc thù là họ khác biệt với các hữu thể khác, và làm nên phẩm giá cũng như quyền hạn của họ. Nhân vị có đặc tính nổi bật nhất là chủ thể tính, nghĩa là làm chủ nhân duy nhất của các hành vi cũng như của việc thực hiện bản thân mình. Mỗi người là một nhân vị, nên là một chủ thể, nhưng họ phải làm chủ mình và các quyền hạn của mình, sao cho nhân vị mình được triển nở phù hợp với phẩm giá; và họ còn nghĩa vụ phải tôn trọng chủ thể và quyền hạn của các nhân vị khác trong xã hội. Làm chủ như thế con người trở thành một chủ thể luân lý. Và khi con người hành xử quyền làm chủ và các nghĩa vụ của mình thì những hành vi nào phát xuất từ ý chí tự do đều được gọi là hành vi nhân linh. Như vậy khi hành xử tự do theo lý trí thì con người trở thành một chủ thể luân lý. Và hành vi phát xuất từ phán đoán và tự do chọn lựa ấy, xét về mặt luân lý, là hành vi nhân linh, hành vi có thể tốt hay xấu, có tính luân lý.


II. Tính luân lý (tốt xấu) của hành vi nhân linh


Tính luân lý của hành vi nhân linh tùy thuộc vào ba nguồn là: đối tượng được chọn, mục đích nhắm tới hay ý tưởng, và hoàn cảnh của hành vi. Ba nguồn nầy là những yếu tố làm cho hành vi nhân linh có tính luân lý.

Đối tượng được chọn là: Tiêu chuẩn đầu tiên để xét xem một hành vi tốt hay xấu. Đối tượng được chọn sẽ định loại hành vi là tốt xấu, tùy theo lý trí nhận xét và phán đoán nó có phù hợp hay không với sự thiện đích thực. Chọn một đối tượng tự bản tính là xấu thì toàn bộ hành vi là xấu, dầu ta có nhắm tới mục đích nào hoặc làm trong hoàn cảnh nào. Chẳng hạn chọn đối tượng là tà dâm, một điều tự bản chất là xấu thì dầu có nhắm tới mục đích hay ở trong hoàn cảnh nào cũng vẫn là hành vi xấu.

Mục đích nhắm tới hay ý hướng đây là yếu tố chủ chốt để đánh giá tính luân lý của hành vi, chúng có thể làm thay đổi hoàn toàn bản chất luân lý của đối tượng và khiến đối tượng tốt có thể thành xấu. Bởi vì cũng một đối tượng nhưng mục đích nhắm tới và ý hướng thúc đẩy lại khác nhau. Chẳng hạn phục vụ hay bố thí có thể vì yêu mến Chúa, vì muốn giúp đỡ tha nhân, cũng có thể để mong nhận lại một ân huệ, hoặc để khoe mình lấy tiếng... Nhưng mục đích không thể biện minh cho phương tiện.


Hoàn cảnh của hành vi, bao gồm cả các hậu quả của nó, là những yếu tố phụ thuộc vào hành vi luân lý, chúng có thể làm hành vi tốt hơn hay xấu hơn, hoặc làm cho chủ thể hành vi thêm hoặc bớt trách nhiệm. Các hoàn cảnh tự chúng không thể biến đổi tính luân lý của hành vi.


III. Đam mê và đời sống luân lý


Con người tự điều hành mình tới hạnh phúc nhờ các hành vi nhân linh, trong đó các đam mê có phần đóng góp quan trọng. Theo truyền thống Kitô giáo, đam mê là những cảm xúc hoặc những chuyển động mạnh mẽ của tình cảm, hướng con người đến hành động hoặc không hành động, tùy theo họ cảm thấy hoặc tưởng là tốt hay xấu. Đam mê là chỗ giao lưu giữa sinh hoạt cảm giác và sinh hoạt của tinh thần. Nó gồm nhiều thứ, nhưng căn bản nhất là yêu thương. Từ đam mê căn bản nầy phát xuất ra các đam mê khác: yêu thương được thỏa mãn thì vui mừng, chưa được thì ham muốn, được nhưng chưa chắc thì sợ mất, muốn mà không được thì buồn, bị phản bội thì giận ghét... Xét về mặt luân lý, đam mê tự bản chất thì không xấu cũng không tốt. Đam mê là những cảm xúc sôi nổi làm chuyển biến cơ thể con người (khóc, cười, đỏ mặt, tái xanh, run... ) và có vai trò quan trọng trong đời sống luân lý. Đam mê được đánh giá tốt hay xấu tùy theo chúng thực sự bị chi phối bởi lý trí và ý chí, và khi chúng góp phần vào một hành vi tốt hay xấu. Vì thế con người phải làm chủ để sử dụng các đam mê, không tiêu diệt chúng cũng không để chúng tung hoành phóng túng. Những đam mê được sử dụng tốt có thể trở thành nhân đức (yêu thương biến thành bác ái...) trái lại, nếu để chúng phóng túng có thể biến thành tính xấu (buồn biến thành thất vọng...). Kitô hữu còn được Chúa Thánh Thần trợ giúp để sử dụng và quy hướng đam mê tới các nhân đức Tin, Cậy, Mến để có thể hiệp thông với Thiên Chúa, với nhau và với vũ trụ vạn vật, đảm bảo cho hạnh phúc cả đời nầy lẫn đời sau.


IV. Lý trí và con tim


"Muốn đạt được sự thiện luân lý tới mức toàn hảo, con người cần được động viên không những chỉ bởi ý chí mà còn bởi cả con tim nữa" (Sách Giáo lý 1775) Thiên Chúa đã ban cho con người phẩm giá cao cả là vừa có lý trí vừa có con tim, con người phải sử dụng mọi năng lực của mình trong việc theo đuổi ơn gọi hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng con người đã bị thương tổn vì nguyên tội, nên càng phải tự mình cố gắng và cậy nhờ ân sủng Chúa Thánh Thần trợ giúp mới làm chủ các năng lực đó cách hài hòa và kiên trì được. Đó chính là trách nhiệm của Kitô hữu đối với ơn gọi của mình. Kitô giáo nói đến đam mê, còn người Á Đông chúng ta gọi là "thất tình" (bảy tình) đó là: vui (hỉ), giận (nộ), buồn (ai), sợ (cụ), yêu (ái), ghét (ố), ham muốn (dục). Kitô giáo cũng như các nhà hiền triết Á Đông chúng ta không chủ trương diệt các đam mê, nhưng mời gọi ta làm chủ và quy hướng chúng về mục đích tốt, về "chí thiện" (Sự thiện toàn hảo), chẳng hạn không ham muốn giàu sang nhưng ham muốn làm vinh danh Thiên Chúa; hoặc mời gọi ta giữ cho chúng không thái quá, không bất cập, giữ sự "trung dung" đúng nghĩa, chẳng hạn buồn mà không thất vọng, giận mà không phạm tội... Dùng lý trí để làm chủ đam mê và hướng chúng tới "chí thiện" thì trí năng được khích thích và dễ thăng tiến, ý chí được tăng cường và dễ kiên quyết. Khi lý trí và con tim cùng chung sức và nhờ ân sủng Chúa Thánh Thần trợ giúp, con người chắc chắn đạt tới chí thiện.


Bài 41
LƯƠNG TÂM
(x. SGLC từ 1776 đến 1802)

"Dân ngoại là những người không có luật Môsê, nhưng mỗi khi họ theo lẽ tự nhiên mà làm những gì luật dạy thì họ là luật cho chính mình, mặc dù họ không có luật Môsê. Họ cho thấy là điều gì luật đòi hỏi thì đã được khắc ghi trong lòng họ, lương tâm họ cũng chứng thực điều đó, vì họ tự phán đoán trong lòng, khi thì cho mình là trái, khi thì cho mình là phải" (Rm 2,14-16).

I. Lương tâm là gì?


Dù có niềm tin tôn giáo hay không, mỗi người đều khám phá ra tận đáy lòng mình có một tiếng nói, một lề luật mà chính mình không đặt ra, nhưng vẫn luôn nhắc nhở mình phải tuân theo. Tiếng nói ấy vang lên rất đúng lúc, kêu gọi con người phải yêu mến và thi hành điều thiện cũng như tránh điều ác (x.MV 16). Ta gọi tiếng nói ấy là lương tâm, và bởi vì tất cả mọi người đều nhìn nhận sự có mặt của lương tâm, nên lương tâm trở thành nền tảng để tất cả mọi người cùng tìm kiếm và giải quyết những vấn đề luân lý trong cuộc sống cá nhân cũng như trong cuộc sống xã hội. Đối với người Kitô hữu, lương tâm là tâm điểm sâu kín nhất và là nơi Thiên Chúa hiện diện trong lòng người. Ở đó "con người hiện diện một mình với Thiên Chúa và tiếng nói của Người vang dội trong thâm tâm họ" (MV 16). Chính vì thế, khi nghe theo tiếng lương tâm, ta có thể cảm nhận được Thiên Chúa đang nói với mình, và nhờ phán quyết của lương tâm, ta ý thức và nhận ra những quy luật của Thiên Chúa. Để có thể nghe được và tuân theo tiếng lương tâm, cần phải lắng đọng tâm hồn và nhìn vào phía bên trong. Cuộc sống hôm nay quá ồn ào và vội vã, con người hôm nay có khuynh hướng trốn tránh suy nghĩ, hồi tâm và kiểm điểm. Càng sống trong thời đại như thế, ta càng cần phải tập thói quen trở về với chính mình trong thinh lặng và suy niệm; nhờ đó có thể gặp gỡ Chúa là Đấng ở trong ta còn sâu hơn chính ta (Âu tinh).


II. Huấn luyện lương tâm


Lương tâm đã được Thiên Chúa đặt để nơi lòng người chứ không do con người tạo nên, tuy nhiên lương tâm ấy có thể bị biến chất do những điều kiện sống chung quanh. Vì thế, cần phải huấn luyện lương tâm, để có thể phán đoán ngay thẳng và chân thật.


Lương tâm ngay thẳng bao gồm ba yếu tố:

  • Nhận biết các nguyên tắc luân lý.
  • Ứng dụng những nguyên tắc ấy vào những hoàn cảnh cụ thể.
  • Phán quyết về các hành vi cụ thể đã làm hay sắp làm.


Huấn luyện lương tâm là nhiệm vụ phải thực hiện suốt đời. Công việc ấy phải được bắt đầu từ thuở ấu thơ, vì đây là giai đoạn rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách. Được huấn luyện tốt, lương tâm sẽ trở thành tấm bảng chỉ đường quý giá, dẫn con người đến tự do đích thực, và mang lại sự bình an cho tâm hồn. Trong việc huấn luyện lương tâm, Lời Chúa đóng vai trò rất quan trọng. Vì "lương tâm là vị đại diện thứ nhất trong các đại diện của Chúa Kitô" (Newman), nghĩa là lương tâm chính là Lời của Chúa Kitô ở mức độ khởi đầu; cho nên nhờ ánh sáng Lời Chúa, lương tâm sẽ đạt đến sự phát triển trọn vẹn.

III. Để có thể chọn lựa đúng đắn theo lương tâm

Kinh nghiệm cho thấy khi phải đứng trước một chọn lựa, lương tâm có thể phán đoán đúng, theo lý trí và luật Thiên Chúa, nhưng cũng có thể phán đoán sai.

1. Phán đoán sai:
Những lệch lạc trong phán đoán luân lý có thể xuất phát từ nhiều lý do: thiếu hiểu biết về Chúa Kitô và Tin Mừng, gương xấu của người khác, nô lệ các đam mê, quan niệm sai lầm về tự do lương tâm, khước từ quyền bính và giáo huấn của Hội Thánh, thiếu hoán cải và bác ái.

Thông thường, mỗi người phải chịu trách nhiệm về sự thiếu hiểu biết của mình, nhất là khi họ "không lo lắng tìm kiếm chân lý và điều thiện, hoặc vì thói quen phạm tội mà lương tâm dần dần trở nên mù quáng" (x.MV 16). Tuy nhiên nếu không thể khắc phục tình trạng thiếu hiểu biết hoặc phán đoán sai lầm không phải do bản thân mình, thì người đó không phải chịu trách nhiệm về điều xấu đã làm.

2. Chọn lựa đúng:
Để có thể chọn lựa đúng đắn theo lương tâm ngay thẳng, ta phải dựa vào đức khôn ngoan, lời khuyên bảo của những người hiểu biết cũng như sự trợ lực của Chúa Thánh Thần.

Tuy nhiên có một vài nguyên tắc có thể áp dụng trong mọi hoàn cảnh:

Không được lấy mục đích tốt biện minh cho phương tiện xấu.

• Khuôn vàng thước ngọc "tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta" (Mt 7,12).

• Đức Ái Kitô giáo đòi hỏi ta phải tôn trọng tha nhân và lương tâm của họ. Vì thế không được xúc phạm đến tha nhân hoặc làm gương xấu cho người khác.



Bài 42
CÁC NHÂN ĐỨC
(x. SGLC từ 1903 đến 1845)

"Những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực, tinh tuyền, những gì đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh đáng khen thì xin anh em hãy để ý và Thiên Chúa bình an sẽ ở với anh em" (Pl 4,8-96).

Đối với người Việt Nam, chữ Đức đóng một vai trò rất quan trọng, và Đức được hiểu là "cái biểu hiện tốt đẹp của đạo lý trong tính nết, tư cách, hành động của con người" (Từ điển tiếng Việt NXB Khoa học Xã hội Hà Nội 1988). Đã biết Đạo thì phải sống Đạo, và cuộc sống ấy thể hiện qua cái Đức. Quan niệm nầy thật gần gũi với người tín hữu Kitô. Với Kitô hữu, nhân đức là một xu hướng thường xuyên và kiên định để làm điều thiện. Người nhân đức là người hướng về điều thiện với tất cả năng lực thể xác và tinh thần. Vậy đâu là những nhân đức căn bản của đời sống Kitô hữu, và phải làm gì để có được những nhân đức ấy?


I. Các đức tính nhân bản


Các đức tính nhân bản là những xu hướng bền vững, dẫn đến thái độ kiên định và thói quen hướng thiện của lý trí và ý chí; nhờ đó con người điều chỉnh các hành vi và cách sống của mình theo lý trí và đức tin. Có bốn đức tính căn bản: khôn ngoan, công bình, can đảm và tiết độ.


Khôn ngoan là đức tính giúp ta nhận ra đâu là điều thiện đích thực trong từng hoàn cảnh, và khi đã nhận ra thì biết chọn lựa phương thế thích hợp để đạt tới. Không nên lầm lẫn khôn ngoan với nhút nhát và sợ hãi, lại càng không thể đồng hóa khôn ngoan với sự tráo trở, giả hình. Nhờ khôn ngoan ta biết ứng dụng lề luật luân lý vào những hoàn cảnh cụ thể để thi hành điều thiện cách tốt đẹp nhất.


Công bình là trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa, và trả cho tha nhân những gì thuộc về họ. Công bình đối với Thiên Chúa được gọi là "nhân đức thờ phượng" còn đối với con người, công bình là tôn trọng quyền lợi của mỗi người, đối xử công minh với mọi người và thực thi công ích.


Can đảm là kiên trì và quyết tâm theo đuổi điều thiện cho dẫu có nhiều khó khăn cản lối. Nhờ đó, ta cương quyết chống lại các cơn cám dỗ, vượt qua các chướng ngại trong đời sống luân lý, chiến thắng sự sợ hãi kể cả cái chết để dám sống cho chính nghĩa.


Tiết độ là biết điều tiết sức lôi cuốn của những lạc thú và sử dụng đúng mức những của cải trần thế. Nhờ đó ta làm chủ được các bản năng tự nhiên và kiềm chế các ham muốn trong giới hạn chính đáng.


Những đức tính nầy được gọi là nhân bản nghĩa là thuộc về con người. Đã là người, phải có những đức tính căn bản đó. Nhiều người tuy không có niềm tin tôn giáo nhưng vẫn có những đức tính đáng quý nầy. Người Kitô hữu lại cần phải có những đức tính nhân bản hơn những người khác, vì muốn làm con Thiên Chúa thì trước hết phải sống cho ra người. Có được những đức tính nhân bản là nhờ giáo dục, sự kiên trì tập luyện và thực hành trong đời sống. Tuy nhiên tội lỗi đã làm con người bị tổn thương; vì thế, ngoài những nỗ lực tự nhiên, ta còn cần đến ơn Thiên Chúa nâng đỡ nhờ cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích và cộng tác với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần.


II. Các nhân đức đối thần


Gọi là nhân đức đối thần vì những nhân đức nầy quy chiếu trực tiếp về Thiên Chúa như căn nguyên, động lực và đối tượng. Đối với Kitô giáo, các nhân đức đối thần là nền tảng và linh hồn của toàn bộ đời sống luân lý. Thiên Chúa ban cho ta những nhân đức nầy, để ta có khả năng hành động như con cái Thiên Chúa và đáng hưởng sự sống đời đời. Có ba nhân đức đối thần: Tin, Cậy và Mến (x.1Cr 13,13).


1. Đức Tin:

Đức Tin là một nhân đức nhờ đó ta tin vào Thiên Chúa, tin tất cả những gì Người nói và mặc khải, cũng như những gì Hội Thánh dạy ta phải tin. Đức Tin là một hồng ân nhưng đồng thời cũng là sự đáp trả của con người trước hồng ân của Thiên Chúa. Sự đáp trả ấy mang tính toàn diện nghĩa là của cả lý trí, tình cảm và hành động. Vì thế, đức tin phải được diễn tả ra ngoài bằng việc làm cụ thể. "Đức tin không có việc làm là đức tin chết tận gốc rễ" (Gc 2,26). Hơn thế nữa, người môn đệ Chúa Kitô còn phải can đảm làm chứng và truyền bá đức tin (x.GH 42). Đòi hỏi nầy xuất phát từ chính bản thân của đức tin, và là đòi hỏi cần thiết để được cứu độ "Ai nhận Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời" (Mt 10,32-33).

2. Đức Cậy:

Đức Cậy là nhân đức nhờ đó ta khao khát Nước Trời, và sự sống vĩnh cữu như hạnh phúc của đời mình, tin tưởng vào các lời hứa của Chúa Kitô, và phó thác vào ơn trợ lực của Chúa Thánh Thần. Con người ta sống không thể không có hy vọng, nếu không nói là người ta sống nhờ hy vọng. Nhưng điều quan trọng là hy vọng vào ai, hy vọng cái gì? Và làm thế nào để đạt tới? Đối với người Kitô hữu, đích điểm của hy vọng không chỉ là hạnh phúc trần thế, nhưng chính là Chúa, là Nước trời và sự sống vĩnh cửu. Đồng thời người Kitô hữu ý thức rằng tự mình không thể đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu ấy, nhưng phải nương tựa vào Chúa. Chính vì thế hy vọng trở thành cậy trông. Đức cậy trông là cái neo chắc chắn bền vững của tâm hồn, là vũ khí bảo vệ ta trong cuộc chiến thiêng liêng, và mang lại cho ta niềm vui ngay giữa những gian truân thử thách. "Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân... " (Rm 12,12). Đời sống cầu nguyện vừa diễn tả vừa nuôi dưỡng đức cậy trông, vì thế ta cần phải đi sâu hơn mỗi ngày vào đời cầu nguyện.

3. Đức Mến:

Đức Mến là nhân đức nhờ đó ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự vì chính Chúa, và vì yêu mến Thiên Chúa, ta yêu mến người thân cận như chính bản thân. Đức Mến thúc đẩy ta sống con thảo với Cha trên trời, và là anh em của mọi người. Trong ngôn ngữ Việt Nam, người nhân đức là "kẻ có lòng thương người" (x. Từ điển tiếng Việt); nghĩa là lòng yêu thương được coi như cốt lõi của đạo đức. Quan điểm nầy thật gần gũi với đạo Kitô, vì Đức Giêsu đã đặt đức mến làm điều răn mới. Đức mến được coi là "mối dây liên kết tuyệt hảo" (Cl 3,14) là linh hồn của mọi nhân đức, sự viên mãn của lề luật, là nguồn mạch và cùng đích của việc thực hành các nhân đức: "Hiện nay đức tin, đức cậy và đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến" (1Cr 13,13). Chúa Kitô chính là gương mẫu cao cả nhất. Ngài đã chịu chết vì yêu mến ta ngay lúc ta còn thù nghịch với Thiên Chúa (x.ra 5,10). Vì thế, Ngài mời gọi ta yêu thương như Người (x.Mt 5,44) yêu cả kẻ thù và đón nhận người bé mọn nghèo hèn như đón nhận chính Ngài (Mt 25,40-45). Ngoài ba nhân đức đối thần, Chúa Thánh Thần còn ban các hồng ân và hoa trái thiêng liêng, giúp người tín hữu dễ dàng sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Bảy ơn Chúa Thánh Thần là: Ơn khôn ngoan, ơn thông minh, ơn biết lo liệu, ơn dũng cảm, ơn hiểu biết, ơn đạo đức và ơn biết kính sợ Chúa. Truyền thống của Hội Thánh cũng nói đến 12 hoa trái của Thần Thánh: "Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, hiền hòa, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ và thanh khiết" (Gl 5,22-23).



2393    22-03-2011 08:27:17