Sidebar

Thứ Hai
29.04.2024

Giáo Lý Cho Người Trưởng Thành_Bài 43 đến Bài 46

Bài 43
TỘI LỖI
(x. SGLC từ 1846 đến 1876).


"Nếu chúng ta nói là mình không có tội thì chúng ta tự lừa dối chính mình và sự thật không có trong ta. Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi mình thì Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho ta và thanh tẩy ta sạch mọi điều bất chính" (1Ga 1,8-9).

I. Tội lỗi và lòng Thiên Chúa thương xót


Thánh Âu tinh định nghĩa tội là "Một lời nói, một hành vi, một ước muốn trái với lề luật vĩnh cửu". Tuy nhiên phải nhìn thấy đàng sau lề luật ấy là giao ước yêu thương giữa con người và Thiên Chúa. Cũng như một người chồng khi phạm tội ngoại tình, anh ta không chỉ vi phạm Luật Hôn Nhân gia đình, nhưng chủ yếu là anh đã xúc phạm đến vợ mình, và giao ước yêu thương hai người đã ký kết. Chính vì thế, tội là sự xúc phạm đến chính Thiên Chúa, là chống lại tình yêu Thiên Chúa dành cho ta, là yêu mình đến độ khinh thị Thiên Chúa. Nhưng cho dẫu con người tội lỗi, Thiên Chúa vẫn thương xót con người. Lòng thương xót ấy được bầy tỏ cụ thể nơi Đức Giêsu, nhất là trong cuộc khổ nạn của Người. Suốt cuộc sống công khai, Đức Giêsu không ngừng rao giảng lòng thương xót của Thiên Chúa và ban ơn tha thứ cho tội nhân. Tuy nhiên chính trong cuộc khổ nạn mà tấm lòng của Thiên Chúa được bày tỏ cách trọn vẹn. Ở đó, tội lỗi bộc lộ tính hung bạo và đa dạng của nó: sự cứng lòng và thái độ thù hận của các thủ lãnh và dân chúng, sự hèn nhát của Philatô và độc ác của quân lính, sự phản bội của Giuđa và sự chối bỏ của Phêrô, cũng như thái độ bỏ rơi của các môn đệ. Nhưng cũng chính vào giờ tối tăm ấy, Chúa Kitô đã tự hiến và âm thầm trở nên nguồn mạch vô tận thông ban ơn tha tội cho chúng ta.


II. Hình thái và mức độ của tội


Tội lỗi rất đa dạng. Trong thư Rôma, Thánh Phaolô đã liệt kê các thứ tội "Dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tị, say sưa, chè chén và những điều khác như vậy" (1,28-32). Thông thường người ta phân biệt tội theo đối tượng, nghĩa là dựa vào các điều răn mà tội nhân vi phạm. Cũng có thể phân biệt tội dựa vào tương quan của ta với Thiên Chúa, với tha nhân hoặc với chính bản thân. Tuy nhiên, nguồn gốc sâu xa của mọi tội lỗi là chính lòng người "Vì tự lòng xuất phát những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống. Đó chính là những cái làm cho con người ra ô uế" (Mt 15,19-20). Tội lỗi có nhiều mức độ. Truyền thống Hội Thánh nhìn nhận cách phân biệt tội trọng và tội nhẹ như đã có trong Kinh Thánh.


1. Tội trọng:

Một tội được coi là trọng khi hội đủ ba yếu tố: Phạm một lỗi nặng, có ý thức đầy đủ và cố tình. Lỗi nặng được xác định trong mười điều răn và Đức Giêsu lập lại: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thảo kính cha mẹ (x.Mc 10,14). Giữa các tội nầy, có tội nặng hơn và tội nhẹ hơn. Mức độ tội lỗi cũng tùy thuộc vào tương quan của tội nhân với phẩm giá của người bị xúc phạm, nếu hành hung cha mẹ thì nặng tội hơn hành hung người lạ. Có ý thức đầy đủ là biết hành vi đó là tội, trái với luật Thiên Chúa. Nếu thiếu hiểu biết ngoài ý muốn, tội nhân có thể được giảm hoặc miễn trách nhiệm. Nhưng không ai được coi là không biết đến những nguyên tắc của luân lý đã được ghi khắc trong lương tâm của mỗi người. Cố tình là đã biết, suy nghĩ cặn kẽ và ưng thuận. Nó trở thành một lựa chọn cá nhân, và tội nhân phải chịu trách nhiệm về lựa chọn của mình. Khi phạm tội trọng, con người đánh mất đức mến, tự tước bỏ ơn thánh hóa, tức là tình trạng ân sủng và phần rỗi đời đời bị đe dọa. Tuy nhiên quyền phán xét một con người là quyền thuộc về Thiên Chúa, Đấng công minh và cũng là Đấng giàu lòng xót thương.

2. Tội nhẹ:

Chúng ta phạm tội nhẹ khi vi phạm luật luân lý trong điều nhẹ, hay lỗi điều nặng nhưng không hoàn toàn hiểu biết hoặc ưng thuận. Tội nhẹ không làm mất ơn thánh hóa, cũng không làm mất phúc thật vĩnh cửu. Tuy nhiên, tội nhẹ làm suy yếu Đức Ái, ngăn cản ta tiến triển trong cuộc thực hành các đức tính và điều thiện. Đồng thời người cố tình phạm tội nhẹ và không sám hối, sẽ đi dần đến chỗ phạm tội trọng và ảnh hưởng đến phần rỗi đời đời. Ngoài ra, Kinh Thánh còn nói tới tội phạm đến Thánh Thần (x.Mc 3,29). Đó là tội cố tình không hối cải và khước từ lòng thương xót của Thiên Chúa, vì thế cũng khước từ sự tha tội và ơn cứu độ do Chúa Thánh Thần ban cho. Không phải là Thiên Chúa không tha thứ, nhưng chính tội nhân tự tách mình ra khỏi lòng thương xót của Ngài, và tự kết án chính mình.

III. Những hình thức khác của tội


1. Thói xấu:

Thói xấu xuất hiện khi những hành vi xấu được lập đi lập lại nhiều lần. Hậu quả là con người nghiêng chiều về điều ác, lương tâm mờ tối và lệch lạc trong việc thẩm định giá trị luân lý. Có thể xếp loại các thói xấu dựa vào các nhân đức mà chúng đối nghịch, hoặc dựa vào bảy mối tội đầu: kiêu ngạo, hà tiện, mê dâm dục, ghen ghét, hờn giận, mê ăn uống và làm biếng.

2. Đồng lõa với tội lỗi:

Tội là một hành vi cá nhân, nhưng ta phải chịu trách nhiệm về tội của người khác, khi cộng tác với họ dưới nhiều hình thức: tham gia trực tiếp và cố tình; ra lệnh, xúi giục hoặc tán thành; không ngăn cản khi có bổn phận phải làm; bao che cho người làm điều ác.

Tội lỗi là kinh nghiệm thực tế của mỗi người và mọi người "Nếu chúng ta nói mình không có tội thì ta tự lừa dối mình" (1Ga 1,8). Nhưng đồng thời, Kinh Thánh xác quyết "Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội" (Rm 5,20). Nói như thế không phải để ta buông thả trong tội lỗi, nhưng để ta tin tưởng vào tình thương tha thứ của Thiên Chúa, và tình thương ấy thúc đẩy ta vươn lên không ngừng, sống phù hợp với ơn gọi làm con cái Chúa.


Bài 44
ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
(x. SGLC từ 1878 đến 2948)

"Thiên Chúa đã dựng nên con người không phải để sống riêng rẽ, nhưng để tạo nên sự liên kết xã hội. Cũng thế, Thiên Chúa không muốn thánh hóa và cứu rỗi loài người cách riêng rẽ, thiếu liên kết, nhưng Ngài muốn qui tụ họ thành một dân tộc, để họ nhận biết chính Ngài trong chân lý, và phụng sự Ngài trong thánh thiện" (MV 32). "Con người là sinh vật mang tính xã hội, và càng ngày mối liên hệ giữa con người và xã hội càng trở nên chặt chẽ hơn. Đời sống Đức tin cũng không thể tách ra khỏi những sinh hoạt xã hội. Hơn thế nữa, đức tin là men, là muối, là ánh sáng cho mọi sinh hoạt của con người trong xã hội. Vì thế, cần tìm hiểu đời sống xã hội để sống đức tin cách cụ thể và mang lại nhiều hoa trái" (MV 32).

I. Con người và xã hội


1. Đặc tính cộng đoàn của ơn gọi làm người:

Kinh Thánh xác định rõ ràng: lòng yêu mến Thiên Chúa không thể tách rời khỏi tình yêu thương anh em (x.ra 13,9-10; 1Ga 4,10). Hơn thế nữa, khi cầu nguyện với Chúa Cha "Xin cho mọi người nên một... như Chúng Ta là một" (Ga 17,21-22), Đức Giêsu đã nói lên một sự tương tự nào đó giữa sự kết hợp của Ba Ngôi Thiên Chúa với sự kết hợp của con cái Chúa trong chân lý và Đức Ái (MV 24). Con người là hình ảnh Thiên Chúa và Thiên Chúa của chúng ta lại là cộng đoàn ba ngôi vị; vì thế, đặc tính cộng đoàn đã được in sâu vào bản tính con người. Thật vậy, con người cần được sống trong xã hội. Nhờ sự trao đổi, đối thoại với người khác và nhờ sự phục vụ lẫn nhau, con người phát triển khả năng của mình. Mỗi người đều đón nhận từ xã hội nhiều di sản làm nên nhân cách của mình, và đến lượt họ, phải góp phần xây dựng xã hội. Tuy nhiên, nếu đời sống xã hội giúp nhiều cho con người chu toàn sứ mạng của mình, kể cả sứ mạng tôn giáo thì cũng không thể phủ nhận rằng "con người vì những hoàn cảnh xã hội họ đang sống và tiêm nhiễm ngay từ thuở thiếu thời, nên nhiều khi xa cách không làm điều thiện và bị lôi kéo làm điều ác" (MV 25). Ngoài ra, sự can thiệp quá đáng của Nhà Nước có thể đe dọa tự do và sáng kiến của cá nhân. Chính vì thế phải làm sao để mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội được hài hòa và mang lại nhiều ích lợi.

2. Để xây dựng một quan hệ hài hòa:

Để xây dựng một quan hệ tốt đẹp và ích lợi giữa cá nhân và xã hội, Hội Thánh đưa ra một vài hướng dẫn:

a. Nguyên tắc hỗ trợ: Thiên Chúa đã không dành cho mình mọi quyền bính, nhưng Ngài đã trao phó cho mỗi tạo vật những chức năng phù hợp. Cũng vậy trong đời sống xã hội, một cộng đoàn lớn không thể can thiệp vào nội bộ một cộng đoàn nhỏ nhằm tước đoạt chức năng của nó; nhưng phải nâng đỡ và cùng hoạt động để mang lại công ích.


b.Thang giá trị: Để đời sống xã hội thực sự giúp con người phát triển, phải tôn trọng thang giá trị chân chính, tức là biết đặt chiều kích nội tâm và tinh thần lên trên chiều kích thể lý và bản năng. Có những cái vốn chỉ là phương tiện nhưng người ta lại coi như cứu cánh tối hậu. Và nhiều khi người ta biến con người thành phương tiện sử dụng như những phương tiện vật chất, trong khi "Nhân vị là chính và phải là nguyên lý, chủ thể và cứu cánh của mọi định chế xã hội" (MV 25).


c. Lời mời gọi hoán cải: Sống giữa xã hội, người Kitô hữu dễ dàng bị cuốn vào cơn lốc xã hội, kể cả những trào lưu xấu. Vì thế phải hoán cải, sự hoán cải sâu xa trong tâm hồn và thường xuyên. Đồng thời sự hoán cải ấy thúc đẩy ta can đảm cải thiện môi trường sống khi nó dẫn con người đến tội lỗi. "Phải có sự đổi mới tâm thức và những thay đổi sâu rộng trong xã hội" (MV 26). Trong thực tế, nhiều khi khó nhận ra được đâu là con đường phải đi, và phải có rất nhiều can đảm để dám đi con đường của Đức Ái, của Tình Thương hiến thân. Vì thế, cần cầu nguyện để đón nhận ơn Thiên Chúa nâng đỡ.


II. Tham gia đời sống xã hội


1. Quyền bính:

Mọi cộng đoàn nhân loại đều cần đến quyền bính cai trị, để duy trì trật tự và bảo vệ công ích. Với đức tin người Kitô hữu còn nhìn mọi quyền bính đều từ Thiên Chúa mà đến "Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập" (Rm 13,1). Vì thế mọi người có bổn phận phải vâng phục, tôn trọng những người thực thi quyền bính. Ngược lại, người có quyền bính cũng không thể hành xử cách độc tài. Quyền bính chỉ được thi hành cách hợp pháp khi kiếm tìm, phục vụ công ích và sử dụng những phương thế thích hợp về mặt luân lý. Trong thực tế, ta thấy có nhiều thể chế chính trị khác nhau. Điều nầy không có gì lạ, vì "Đã hẳn cộng đoàn chính trị và công quyền xây nền tảng trên bản tính con người, cho nên cũng nằm trong trật tự do Chúa an bài, nhưng việc định đoạt một thể chế chính trị hay cắt cử người cầm quyền vẫn là quyền tự do của mọi công dân" (MV 74). Điều quan trọng là dù thể chế chính trị nào, cũng phải phục vụ lợi ích hợp pháp của cộng đoàn xã hội.

2. Công ích:

Công ích là "Toàn bộ những điều kiện của đời sống xã hội cho phép những tập thể hay những phần tử riêng rẽ có thể đạt tới sự hoàn hảo riêng một cách đầy đủ và dễ dàng hơn" (MV 26). Như thế, công ích bao gồm ba yếu tố thiết yếu: Trước hết là tôn trọng con người, với những quyền căn bản của con người và sự tự do cần thiết cho ơn gọi làm người được phát triển. Chẳng hạn "quyền hành động theo tiêu chuẩn chính thực của lương tâm, quyền bảo vệ đời sống tư và quyền tự do chính đáng cả trong phạm vi tôn giáo" (MV 26). Thứ đến là an ninh xã hội, "những gì thiết yếu mà con người phải có để thực sự sống đời sống con người, như của ăn, áo quần, chỗ ở, quyền tự do chọn lựa bậc sống và quyền lập gia đình... (MV 26). Cuối cùng là tình trạng ổn định và an ninh trong xã hội. Bằng những phương thế thích hợp, chính quyền phải bảo vệ an ninh cho toàn xã hội, cũng như các thành viên trong xã hội. Ngày nay, mối liên hệ giữa các quốc gia càng ngày càng trở nên chặt chẽ. Vì thế, phải quan tâm đến công ích ở tầm vóc quốc tế. Để đạt mục đích nầy "Các cơ quan của cộng đoàn quốc tế tùy theo phận vụ mình, phải đáp ứng những nhu cầu muôn mặt của con người trong lĩnh vực xã hội như lương thực, sức khỏe, giáo dục, việc làm... trợ giúp nỗi đau khổ của những người tị nạn rải rác trên khắp thế giới, cứu trợ những người di cư và gia đình họ" (MV 54).

3. Trách nhiệm và tham gia:

Tùy theo vị trí và vai trò của mình, mỗi người cần phải tham gia vào việc phục vụ và phát triển công ích. Sự tham gia nầy được thể hiện trước hết bằng việc chu toàn trách nhiệm cá nhân trong xã hội. Đồng thời người công dân cũng phải góp phần vào những công việc chung. "Phải ca tụng đường lối của những quốc gia đang để cho càng đông công dân càng tốt, được tham gia việc nước trong sự tự do đích thực" (MV 31). Sự tham gia với tinh thần trách nhiệm như thế chỉ có được trên nền tảng giáo dục và văn hóa. "Phải tổ chức việc giáo dục những người trẻ thuộc bất cứ thành phần nào trong xã hội, làm sao để đào tạo được những người nam và người nữ không những tài giỏi và văn hóa, mà còn có tâm hồn cao thượng" (MV 31). Đồng thời "phải trau dồi nơi chính mình những đức tính luân lý và xã hội, đồng thời đem những đức tính ấy gieo rắc ngoài xã hội. Như vậy với sự trợ giúp cần thiết của ơn thánh Chúa, sẽ có những con người mới thực sự và là những người kiến tạo nhân loại mới" (MV 30).

III. Công bằng xã hội


Gắn liền với công ích và việc thực thi quyền bính là đòi hỏi công bằng xã hội. Đòi hỏi nầy chỉ được thực hiện nhờ tôn trọng con người, xây dựng sự bình đẳng và tình liên đới nhân loại.


1. Tôn trọng con người:

Công bằng xã hội chỉ có được nhờ sự tôn trọng phẩm giá cao cả của con người. Việc tôn trọng phẩm giá được cụ thể hóa qua việc tôn trọng những quyền căn bản của con người. Đây chính là nền tảng cho sự hợp pháp về mặt luân lý của mọi quyền bính. Nếu không có sự tôn trọng nầy, quyền bính chỉ dựa vào bạo lực mà cai trị, và như thế làm xói mòn nền tảng hợp pháp của quyền bính về mặt luân lý. Giáo hội nhấn mạnh rằng "Mỗi người đều phải coi người đồng loại, không trừ một ai, như cái tôi thứ hai của mình... phải trở nên người lân cận của bất cứ ai và tích cực giúp đỡ họ khi họ đến với mình" (MV 27). Đòi hỏi nầy càng khẩn thiết hơn khi người lân cận đó là những người nghèo khổ, bị bỏ rơi vì "Điều gì các ngươi làm cho một trong những người hèn mọn, là làm cho chính Ta" (Mt 25,40). Hơn thế nữa, giáo lý của Chúa Kitô còn nới rộng giới răn yêu thương đến mức "yêu cả kẻ thù nghịch mình, làm ơn cho kẻ ghét mình, cầu nguyện cho kẻ bắt bớ và vu oan cho mình" (Mt 5,43-44). Vì thế, người Kitô hữu ghét sự ác nhưng không ghét bỏ người làm điều ác; trái lại vẫn yêu thương, kính trọng và cầu nguyện cho họ.

2. Bình đẳng và khác biệt:

Công bằng xã hội cũng đòi hỏi phải nhìn nhận sự bình đẳng giữa mọi người, cho dầu có những khác biệt. Mọi người đều bình đẳng với nhau vì có chung một nguồn gốc là Thiên Chúa, chung một bản tính nhân loại và chung một cùng đích là hạnh phúc Nước Trời. Trong thực tế, con người có những khác biệt nhau về tuổi tác, năng lực, trí tuệ và tinh thần. Nói theo ngôn ngữ Tin Mừng, khi bước vào cuộc đời nầy, những nén bạc được giao phó không đồng đều. (x.Mt 25,14-30). Nhưng Chúa quan phòng đã muốn như thế để dạy con người bài học về liên đới và chia sẻ: mỗi chúng ta cần đón nhận từ người khác và cũng cần chia sẻ cho người khác; nhờ đó cuộc sống chung trở thành phong phú hơn. Chính vì thế, "sự chênh lệch quá đáng về kinh tế và xã hội giữa những thành phần, hay những dân tộc trong cùng một gia đình nhân loại, thực là những gương xấu, và đi ngược với công bằng xã hội, lẽ phải, nhân phẩm và nền hòa bình xã hội cũng như quốc tế" (MV 29).

3. Tình liên đới:

Liên đới là đòi hỏi trực tiếp của tình huynh đệ nhân loại và Kitô giáo. Đối với người Kitô hữu, tình liên đới ấy bắt nguồn sâu xa từ chính Chúa Kitô, Đấng đã liên đới với ta trong thân phận tội lỗi; nhờ đó ta được chia sẻ sự sống với Ngài. Và như Đức Piô XII đã nói, trong suốt chiều dài lịch sử Hội Thánh, tình liên đới ấy đã thúc đẩy bao nhiêu Kitô hữu hy sinh, hiến dâng cuộc đời nhằm mang lại cho người khác cuộc sống xứng danh là con người và người Kitô hữu. Trong sinh hoạt xã hội, tình liên đới được biểu lộ qua việc phân phối của cải và công việc cho đồng đều. Tình liên đới cũng giúp cho con người giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội trong tinh thần hòa giải. Noi gương Chúa Kitô, người Kitô hữu nỗ lực thể hiện tình liên đới trong sự hiệp thông đức tin, cũng như trong sự chia sẻ của cải vật chất hằng ngày, vì "Trước hết hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ khác, Người sẽ thêm cho" (Mt 6,33).

Hơn ai hết, người Kitô hữu hôm nay phải ghi nhớ lời nhắn nhủ của Hội Thánh "Hoàn cảnh biến đổi sâu rộng và nhanh chóng đòi hỏi cấp bách đừng ai chủ trương một thứ luân lý duy cá nhân, mà không lưu tâm hoặc không màng chi tới diễn tiến thời cuộc" (MV 30). Đức tin không thể chỉ bó hẹp trong một số bổn phận đạo đức cá nhân, nhưng còn cần được thể hiện trong sinh hoạt xã hội; nhờ đó Tin Mừng Chúa Kitô được thấm nhập vào mọi thực tại của đời sống con người.


Bài 45
LUẬT LUÂN LÝ
(x. SGLC từ 1949 đến 2051)

"Đức Giêsu trả lời: Điều răn đứng hàng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết tâm trí và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác quan trọng hơn các điều răn đó". (Mc 12, 29-31) "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 13, 34)

I. Lề luật luân lý là gì?


Quốc gia nào cũng có luật pháp riêng, có truyền thống riêng, và ngày nay luật pháp quốc tế cũng được đề cao. Vậy luật luân lý để làm gì? Theo Kinh Thánh, lề luật luân lý là cách thức giáo huấn, là phương pháp sư phạm Thiên Chúa sử dụng để hướng dẫn con người tránh xa điều ác, ngõ hầu được tham dự vào đời sống vĩnh cửu của Thiên Chúa hứa ban. Vì thế lề luật luân lý là những mệnh lệnh vừa có tính cách dịu dàng trong lời hứa, vừa có tính cách nghiêm khắc theo lệnh truyền. Lề luật luân lý cũng được phát triển với nhiều hình thức khác nhau như luật tự nhiên, luật mặc khải. Lề luật luân lý để giúp con người tiến tới hoàn thiện, nhưng cùng đích của lề luật luân lý là chính Chúa Kitô: "Bởi vì cùng đích của lề luật là Chúa Kitô để mọi tín hữu được ơn công chính hóa" (Rm 10,4).


II. Luật tự nhiên


Thiên Chúa luôn luôn tôn trọng quyền con người, nên Người ban cho mỗi người quyền làm chủ và quản lý mọi hành vi của mình để đạt tới chân lý và sự Thánh Thiện. Vì thế luật tự nhiên là qui luật Thiên Chúa ban cho mỗi người để họ dùng lý trí mà phân biệt những gì là thiện ác, là chân thật, là dối trá. Luật này đã được Thiên Chúa ghi tạc trong lòng mỗi người như Đức Lêô XIII đã xác quyết trong thông điệp Libertas Praestantissimum: "Luật tự nhiên đã được ghi chép trong tâm hồn mỗi người và mọi người, vì nó là lý trí của con người, truyền làm điều thiện và cấm phạt tội..." Luật tự nhiên chính là tiếng nói, là ánh sáng Thiên Chúa đã phú bẩm cho con người để sống xứng đáng là người con của Thiên Chúa: "Luật tự nhiên không gì khác ngoài ánh sáng trí tuệ được Thiên Chúa đặt trong ta. Nhờ luật tự nhiên, chúng ta biết những gì phải làm và những gì phải tránh. Ánh sáng này, tức luật này, đã được Thiên Chúa ban khi sáng tạo nên con người" (Th. Tôma). Hiện diện trong trái tim vá lý trí của mỗi người, luật tự nhiên luôn mang tính phổ quát bất biến và trường tồn: "Chắc chắn có một luật đích thực, đó là lý trí ngay thẳng, luật này phù hợp với bản tính con người và trải rộng với tất cả mọi người. Nó bất biến và vĩnh cửu: những mệnh lệnh của nó gọi ta thi hành những bổn phận, những cấm đoán của nó bắt ta tránh xa điều sai lỗi..." (Cicero). Tóm lại, luật tự nhiên là tác phẩm tuyệt vời của Đấng Tạo Hóa, nên nó luôn là nền tảng để xây dựng các luật luân lý và dân luật.


III. Luật mặc khải


1. Luật cũ:

Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và cứu độ, nên Ngài đã chọn Ít-ra-en là dân riêng vã đã mặc khải luật của Ngài để chuẩn bị cho Chúa Kitô giáng trần. Luật này cũng gọi là luật Môsê. Luật Môsê hay là luật cũ phát biểu nhiều chân lý và lý trí tự nhiên có thể hiểu được. Nội dung của luật cũ được gồm tóm trong mười giới răn. Các giới răn cấm những gì nghịch lại tình yêu Thiên Chúa và tha nhân, và dạy những gì là cốt lõi cho tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. Vì thế luật cũ là tình trạng sơ khởi của luật mặc khải và là bước đường chuẩn bị cho luật mới.

2. Luật mới:

Luật mới tức là luật Phúc Âm, luật toàn hảo, luật mới chính là tác phẩm của Chúa Kitô và cũng là ân sủng của Chúa Thánh Thần. Luật mới này được trình bày đặc biệt qua bài giảng trên núi, cũng gọi là Tám mối Phúc Thật: "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó vì họ sẽ được vào Nước Trời... (Mt 5, 3-12). Luật mới hoàn thành và đưa luật cũ tới chỗ hoàn hảo: "Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môsê, hoặc giáo huấn của các ngôn sứ, Thầy đến không phải là bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn" (Mt 5,17). Luật mới là luật của tình yêu, của ân sủng và tự do: "Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 15,12). Và "Thầy ban cho anh em một điều răn mới...." (Ga 23,34). Ngoài những giới răn ra, luật mới còn gồm những lời khuyên của Phúc Âm. Các lời khuyên của Phúc Âm cho thấy sự tràn đầy sống động của Đức Ái, không bao giờ được thỏa mãn vì những gì mình đã thực hiện. Nên lời khuyên Phúc Âm thúc đẩy con người đến bậc hoàn hảo hơn. Càng có nhiều người sống lời khuyên Phúc Âm, Hội Thánh càng tỏa ra sự thánh thiện: "Sự thánh thiện của Hội Thánh được đặc biệt duy trì bởi các lời khuyên khá nhiều mà Chúa đã đề ra cho các môn đệ giữ trong Phúc Âm" (LG 42).


Bài 46
ÂN SỦNG VÀ CÔNG CHÍNH HÓA
(x. SGLC từ 1987 đến 2029)

"Nhưng ngày nay, Thiên Chúa cho thấy cách Người làm cho người ta nên công chính mà không cần đến luật Môsê. Điều này sách luật và các ngôn sứ làm chứng. Quả thế, Thiên Chúa làm cho người ta nên công chính, nếu họ tin vào Đức Giêsu Kitô. Tất cả những ai tin đều được như thế, bất kể là người Do Thái hay người ngoại. Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất quyền vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban nhưng không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Kitô Giêsu. Thiên Chúa đã định cho Đức Kitô Giêsu phải đổ máu mình ra làm hy lễ đem lại ơn tha tội cho những ai tin. Như vậy Thiên Chúa cho thấy Người là Đấng công chính. Trước kia trong thời Thiên Chúa nhẫn nại, Người đã bỏ qua các tội lỗi người ta phạm. Nhưng bây giờ Người muốn cho thấy rằng Người là Đấng Công Chính, nghĩa là Người vừa công chính, vừa làm cho kẻ sống nhờ lòng tin vào Đức Giêsu được nên công chính" (Rm 3, 21-26).

I. Ý nghĩa và đặc điểm Ơn Công Chính hóa


Khát vọng sâu xa của mỗi người Kitô hữu là được ơn công chính hóa, nghĩa là nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần, ta được sạch mọi tội lỗi, và được ban sự sống của Thiên Chúa, nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô và nhờ phép Thánh Tẩy: "Quả thế, Thiên Chúa làm cho người ta nên công chính, nếu họ tin vào Đức Giêsu Kitô... " (Rm 3,22). Chính nhờ ân sủng Chúa Thánh Thần mà mỗi người được dự phần vào cuộc khổ nạn của Chúa Kitô khi biết chết cho tội lỗi nhờ bí tích Thánh Tẩy, để được gia nhập vào thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô là Hội Thánh: "Nhờ Chúa Thánh Thần chúng ta được dự phần với Thiên Chúa. Nhờ sự dự phần của Thánh Thần, chúng ta được dự phần vào bản tính thần linh... (Thánh Atanaxilô). Nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần, tiên vàn ta được ơn hoán cải, chính là điều Đức Giêsu đã rao giảng: "Các ngươi hãy hoán cải, vì Nước Thiên Chúa đã gần rồi" (Mt 4,17). Khi đã được ơn hoán cải, con người xa lìa tội lỗi, trở về với Thiên Chúa, nhờ đó được ơn tha thứ và ơn công chính. "Như vậy sự công chính hóa bao gồm ơn tha thứ các tội, ơn thánh hóa và sự đổi mới con người nội tâm" (Công đồng Trentô). Như thế nhờ cuộc khổ nạn của Đức Kitô và nhờ phép Rửa của Ngài, nhờ ân sủng của Thánh Thần, ta được công chính, nghĩa là được ơn tha tội, được tràn đầy lòng tin cậy mến Thiên Chúa, và được dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi. Do đó, ơn công chính là công cuộc tuyệt hảo của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, như lời Thánh Âu Tinh (Ev Yn 72,3): "Sự công chính hóa kẻ vô đạo là công cuộc lớn lao hơn việc tạo thành trời đất" bởi vì "Trời và đất sẽ qua đi, còn ơn cứu độ và ơn công chính hóa các kẻ được chọn sẽ tồn tại mãi mãi".


II. Ân sủng và đón nhận Ân sủng, Đặc sủng


Ơn công chính hóa là công cuộc tuyệt hảo của tình yêu Thiên Chúa đối với kẻ có tội. Nhưng công chính hóa là ân sủng của Thiên Chúa. Vậy ân sủng là ân huệ, là sự cứu giúp nhưng không Chúa Cha trao ban để con người đáp lại tiếng mời gọi của Ngài là trở thành người con của Thiên Chúa: "... Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa..." (Ga 1, 12-18), trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa: "Thần khí làm cho anh em nên nghĩa tử..." (Rm 8, 14-17), được dự phần bản tính Thần Linh: "Nhờ vinh quang và sức mạnh ấy, Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quí báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa..." (2Pr 1, 3-4), và được sự sống vĩnh cửu: "...Thật vậy Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân, là để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người. Mà sự sống đời đời chính là nhận biết Cha, Đấng duy nhất là Thiên Chúa thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến là Đức Giêsu Kitô" (Ga 17, 2-3). Như vậy ân sủng là hồng ân nhưng không của Thiên Chúa ban cho ta, có tính thường xuyên, ổn định và siêu nhiên, để giúp ta sống thân mật với Thiên Chúa, và hành động theo ý Ngài. Người ta cũng phân biệt Thường Sủng giúp ta sống và hành động theo tiếng gọi của Thiên Chúa, và Hiện Sủng để trợ giúp công cuộc thánh hóa. Ân sủng được ban cho ta không những để thánh hóa bản thân, mà còn giúp ta cộng tác vào việc thánh hóa người khác, và làm tăng trưởng thân thể Chúa Kitô là Hội Thánh. Đó là những ân sủng đặc biệt mà ta gọi là Đặc Sủng. Đặc sủng là ân huệ, hồng ân nhưng không đặc biệt của Chúa Thánh Thần, để xây dựng Hội Thánh vì đức bác ái. Mỗi Kitô hữu phải ý thức hồng ân Chúa ban là món quà quí giá nhất, nên tỉnh thức mau mắn đón nhận và rộng mở tâm hồn để cộng tác vào ơn của Thiên Chúa.


III. Công trạng


Mỗi khi làm được một việc lành cho tha nhân hoặc cho cộng đoàn... thường người ta coi đó là một công trạng, hay công nghiệp, hoặc công lao với Thiên Chúa. Đúng nghĩa mà nói, con người không có công lao gì với Thiên Chúa, bởi vì Ngài là Đấng sáng tạo, còn con người là thụ tạo. Hơn nữa những gì con người có đều là hồng ân Thiên Chúa ban. Nhưng nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần thúc đẩy, ta trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa, ta có thể lập công để xứng đáng nhận cho mình và cho những người khác các ân huệ có ích cho ta đạt tới sự sống vĩnh cửu, cũng như để lãnh nhận được những ơn ích trần gian cần thiết như của cải, sức khỏe, tình bạn... Các ân sủng này, các lợi ích này là đối tượng của lời cầu nguyện Kitô giáo. Nhưng chính Đức Ái của Chúa Kitô ở trong ta là nguồn mạch tất cả các công lao của ta trước mặt Thiên Chúa. Khi kết hợp với Chúa Kitô bằng tình yêu tích cực, mọi hành vi của ta đều có công trước mặt Chúa và trước mặt người ta. Tóm lại, các vị Thánh luôn ý thức sâu xa rằng công lao của các Ngài chỉ là ân sủng của Thiên Chúa.


IV. Mọi người được kêu gọi nên Thánh


Hết mọi người đều được mời gọi nên thánh như Đức Giêsu đã mời gọi: "Anh em hãy trở nên hoàn thiện như Cha anh em ở trên trời là Đấng hoàn thiện" (Mt 5,48). Muốn được thế, "các tín hữu phải nỗ lực theo mức hồng ân đã nhận từ Chúa Kitô để đạt được sự toàn thiện, để (....) trong khi chu toàn thánh ý Chúa Cha trong mọi sự, họ hiến thân với hết tâm hồn cho vinh quang Thiên Chúa và cho việc phục vụ tha nhân... " (LG 40). Lời mời gọi nên Thánh đòi hỏi người Kitô hữu phải cố gắng trong suốt cuộc đời vì "sự toàn thiện Kitô giáo chỉ có một giới hạn, giới hạn đó không có một giới hạn nào hết" (Thánh Gregôriô thành Nys), đồng thời: "nếu ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo" (Mt 16,25).



2347    22-03-2011 08:35:39