Sidebar

Thứ Hai
29.04.2024

Giáo Lý Cho Người Trưởng Thành_Bài 53 đến Bài 55

Bài 53
Điều răn thứ VI
SỐNG TRONG SẠCH
(x. SGLC từ 2331 đến 2400)

"Anh em đã nghe luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi" (Mt 5, 27-28).

I. Giá trị của giới tính


"Thiên Chúa là tình yêu. Người sống nơi chính bản thân mình mầu nhiệm hiệp thông và yêu thương. Khi tạo dựng con người có nam có nữ giống hình ảnh Người (...) Người khắc ghi trong họ ơn gọi, nghĩa là khả năng và trách nhiệm tương ứng, để sống yêu thương và hiệp thông" (PC 11). Như thế loài người có hai giới nam và nữ. Mỗi giới có những đặc tính riêng gọi là giới tính. Giới tính chi phối mọi khía cạnh của con người cả hồn lẫn xác, đặc biệt là khía cạnh cảm xúc, khả năng yêu thương và sinh sản, nói tổng quát hơn là khả năng nối kết những quan hệ để hiệp thông với người khác. Mỗi người nam và nữ phải hiểu biết và chấp thuận giới tính của mình đó là những đặc tính vừa khác biệt vừa bổ túc cho nhau về thể xác, luân lý và tinh thần, cốt để mưu ích cho hôn nhân và phát huy đời sống gia đình. Sự hòa hợp trong đời sống lứa đôi và đời sống xã hội, tùy thuộc một phần vào cách sống của hai người nam nữ biết bổ túc cho nhau, biết nâng đỡ nhau và nương tựa lẫn nhau. Nam hay nữ đều có phẩm giá bình đẳng như nhau, nhưng mỗi giới phản ánh quyền năng và tình âu yếm của Thiên Chúa cách khác nhau. Đức Giêsu đã đến khôi phục mọi tạo vật trong sự tinh tuyền nguyên thủy của chúng. Người đã dạy: "Anh em đã nghe luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi" (Mt 5, 27-28). "Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, con người không được phân ly" (Mt 19,6). Và truyền thống Hội Thánh hiểu rằng, điều răn VI bao gồm toàn bộ những gì thuộc giới tính con người.


II. Ơn gọi khiết tịnh


Khiết tịnh có nghĩa là con người hòa nhập giới tính cách tốt đẹp nơi bản thân mình, nhờ có cả xác hồn được thống nhất từ bên trong. Giới tính cho thấy con người phải lệ thuộc vào thể xác và sinh lý; nhưng khi giới tính được hòa nhập trong tương quan giữa người với người, trong việc người nam người nữ hiến dâng trọn vẹn và mãi mãi cho nhau, thì giới tính lại mang giá trị cao quý. Như thế đức khiết tịnh bao gồm việc con người sống thanh khiết toàn vẹn và hiến dâng trọn vẹn.


1. Sống thanh khiết toàn vẹn:

Người khiết tịnh là người duy trì được sự sống và tình yêu của mình toàn vẹn liêm khiết, làm cho bản thân được thống nhất, chống lại những gì là giả hình gian dối. Muốn thế, phải tập tự chủ, tập hướng dẫn tự do của mình, không để mình nô lệ các đam mê, các bản năng hoặc áp lực bên ngoài (x.MV 17). Muốn tập phải dùng các phương tiện như: biết mình tự kiềm chế cho phù hợp hoàn cảnh sống, vâng theo luật Chúa, siêng năng cầu nguyện, tập các nhân đức, đặc biệt là nhân đức tiết độ, giúp ta dùng lý trí chi phối các đam mê và thèm muốn tình cảm. Việc tập tự chủ phải là công trình dài hạn không chỉ một lần là đủ, mà ở tuổi đời nào cũng phải tập đi tập lại (x.Tt 2,1-6), và phải tập khẩn trương hơn trong tuổi nhân cách đang thành hình, như tuổi trẻ và tuổi thiếu niên. Đức khiết tịnh cũng theo những định luật tăng trưởng, nghĩa là phải trải qua lúc bất toàn và nhiều khi còn tội lỗi nữa. Đức khiết tịnh được coi là chuyện riêng tư của bản thân, nhưng nó cũng đòi hỏi một số gắng phát triển văn hóa, vì "sự thăng tiến của nhân vị tùy thuộc ở sự phát triển của xã hội" (MV 25,1). Xã hội có giúp con người được biết và được giáo dục, thì họ mới dễ dàng tôn trọng các giá trị luân lý. Sau hết, đức khiết tịnh là một ơn của Chúa, là hoa trái của Thánh Thần (x. Gl 5,23).

2. Hiến dâng trọn vẹn:

Việc tự chủ bản thân để duy trì đức khiết tịnh dẫn đến việc hiến dâng, làm cho ta trở thành nhân chứng cho người khác về lòng trung tín và tình âu yếm của Thiên Chúa. Nhờ ảnh hưởng của đức ái, đức khiết tịnh được coi là trường dạy hiến dâng. Đức khiết tịnh nảy nở trong tình bạn hữu, nó giúp ta biết noi theo bắt chước Chúa Kitô. Đấng đã chọn ta làm bạn hữu Người (x.Ga 15,15) và tận hiến cho ta để ta được làm con cái Thiên Chúa. Đức khiết tịnh được bày tỏ nhất là trong tình bạn hữu với người thân cận, dù là nam hay nữ, tình bạn ấy được coi là một ích lợi lớn lao cho mọi người, nó dẫn đến sự hiệp thông trong tâm hồn. "Đức khiết tịnh làm cho ta tổ chức lại bản thân, đem đến chỗ hiệp nhất mà ta đã đánh mất vì chính ta đã phân tán" (Âu-tinh, tự thuật 10,29). Mỗi Kitô hữu đều được mời gọi sống khiết tịnh trong bậc sống của mình. "Người thì khiết tịnh trong bậc đồng trinh hay bậc độc thân được thánh hiến, là phương thế trổi vượt để dễ dàng hiến dâng cho Thiên Chúa một con tim không chia sẻ: người khác thì khiết tịnh theo luật luân lý ấn định chung cho mọi người trong bậc sống vợ chồng hoặc ở vậy (độc thân) ". (CDF 11). Những người đã đính hôn cũng được mời gọi sống khiết tịnh bằng việc tiết dục. Việc tiết dục giúp họ tôn trọng nhau, tập giữ lòng chung thủy, và hy vọng được Chúa giúp chấp nhận nhau. Họ giúp nhau lớn lên trong khiết tịnh.

III. Những tội nghịch đức khiết tịnh


Tội dâm ô là một ước muốn hỗn loạn chỉ tìm hướng khoái lạc nhục dục mà không nhằm mục đích sinh sản và hiệp nhất với nhau. Ước muốn như vậy trái luân lý.


Tội thủ dâm là cố tình kích thích cơ quan sinh dục để tìm khoái lạc nhục dục, ngoài mục đích yêu thương và hiến dâng trọn vẹn cho nhau, để sinh sản con cái (x.CDF Persona Humana 9). Trong mục vụ, để xét đoán cho đúng tội nầy, cần lưu ý đến tình trạng chưa trưởng thành về tình cảm, đến sức mạnh của thói quen đã mắc phải, đến tình trạng xao xuyến và các nhân tố tâm lý hay xã hội làm giảm tội, và thậm chí còn xóa bỏ tội về mặt luân lý.


Tội tà dâm là quan hệ xác thịt ngoài hôn nhân giữa một người nam và người nữ. Tội nầy nghịch nặng với nhân phẩm và tính dục của con người, vì tính dục hướng tới lợi ích của vợ chồng, cũng như sinh sản và giáo dục con cái. Tội nầy gây gương xấu nặng khi phạm với thanh thiếu niên.


Tội khiêu dâm là trình bầy cho người khác những hành vi tính dục đã làm thật hoặc chỉ giả vờ. Nó làm biến chất hành vi vợ chồng hiến dâng thân mật cho nhau. Nó xúc phạm phẩm giá của những người lao mình vào nó: diễn viên, con buôn, dân chúng, vì người nầy trở thành một trò chơi thô lỗ và một mối lợi bất chính cho người kia. Nó dìm cả đôi bên trong ảo tưởng về một thế giới giả tạo. Đó là một lỗi nặng. Chánh quyền cần nghiêm cấm sản xuất và phổ biến các sản phẩm khiêu dâm.


Tội mãi dâm là xúc phạm đến phẩm giá của người hành nghề mãi dâm, vì họ chỉ là trò vui nhục dục cho người khác. Người mua dâm phạm tội nặng đến chính mình vì lỗi đức khiết tịnh đã cam kết khi được Rửa tội, và làm ô uế thân thể mình là đền thờ Chúa Thánh Thần. Đây là một tai họa trong xã hội, thường liên hệ đến phụ nữ, nhưng cũng liên hệ đến cả đàn ông, trẻ em hoặc thiếu niên. Với giới trẻ này, người ta còn phạm tội làm gương xấu nữa. Tuy nhiên sự nghèo khổ và áp lực xã hội có thể giảm đi trách nhiệm.


Tội hiếp dâm là dùng bạo lực cưỡng bức người khác phải quan hệ tình dục. Tội nầy phạm đến đức công bằng và đức ái, nghĩa là đến quyền được tôn trọng, quyền tự do và sự toàn vẹn thanh khiết cả thân xác lẫn tinh thần của con người. Nó có thể gây thương tổn nặng cho nạn nhân phải chịu ảnh hưởng suốt đời. Tội nầy đặc biệt nặng nề khi do cha mẹ hay các người giáo dục phạm đến những trẻ được trao phó cho mình.


Tội đồng tính luyến ái là tội của những nam hay nữ bị cám dỗ về tình dục, nhưng chỉ với người cùng giới với mình thôi. Kinh Thánh vẫn lên án việc nầy là "việc suy đồi trầm trọng" (x.St 19,1-29; Rm 1,24-27) và truyền thống luôn coi đó là hành vi thác loạn, trái với luật tự nhiên, nghịch với việc trao ban sự sống, không phải là để bổ khuyết tình cảm và tính dục thực sự. Tuy nhiên đa số những người phạm tội nầy không tự chọn tình trạng đồng tính luyến ái, họ cần được đối xử kính trọng, thông cảm và tế nhị, tránh kÿ thị họ cách bất công. Họ có thể nhờ sự tự chủ để tập luyện cho mình được tự do nội tâm, nhờ bạn hữu nâng đỡ, nhờ cầu nguyện và lãnh các bí tích để trở về với đời sống Kitô hữu trọn hảo.


IV. Giá trị hôn nhân


Trong hôn nhân sự kết hợp thể xác của vợ chồng là dấu chỉ và đảm bảo cho sự hiệp thông tinh thần. "Những hành vi thể hiện sự kết hợp thân mật và thanh khiết của vợ chồng là những hành vi đức hạnh và xứng đáng, chúng bày tỏ và giúp vợ chồng hiến thân để làm cho nhau thêm phong phú trong niềm vui và biết ơn". (MV 49,2). Nhờ sự phối hợp mà vợ chồng thể hiện được mục đích kép của hôn nhân, đó là lợi ích của chính vợ chồng và việc sinh sản. Đây là hai ý nghĩa và hai giá trị của hôn nhân mà ta không thể tách rời. Tách rời là gây thiệt hại cho đời sống thiêng liêng của vợ chồng, và đe dọa lợi ích của hôn nhân và tương lai của gia đình.


Hôn nhân đòi vợ chồng phải chung thủy và sinh sản con cái.


Chung thủy giữa vợ chồng:

Vợ chồng làm thành "một cộng đồng thân mật để sống và yêu, theo những lề luật do Đấng Tạo Hóa đã thiết lập và trao ban. Cộng đồng nầy được thiết lập trên giao ước giữa hai vợ chồng, nghĩa là trên sự ưng thuận của mỗi người và không thể rút lại được" (MV 48,1). Giao ước nầy đòi họ phải duy trì một vợ một chồng và không được tháo gỡ (Giáo luật 1056). "Điều gì Thiên Chúa đã liên kết, con người không được phân ly" (Mc 10,9). Sự chung thủy giữa vợ chồng chứng tỏ lời họ hứa đã được duy trì bền vững.

Sinh sản con cái:

Sinh con là một ân huệ và là mục đích của hôn nhân. Đứa con là hoa trái và là thành tựu do tình yêu hiến dâng của vợ chồng, và vợ chồng được dự phần vào quyền sáng tạo và tình yêu phụ tử của Thiên Chúa (x.MV 50,2). Vợ chồng vừa truyền thông sự sống, vừa là người giáo dục, đó là sứ mệnh riêng của họ. Họ biết rằng chính mình cộng tác viên của Thiên Chúa Đấng Tạo Hóa và là thông ngôn của Người (MV 50,2). Nhưng trách nhiệm sinh sản con cái đòi hỏi vợ chồng phải điều hòa việc sinh sản, nghĩa là nếu có lý do chính đáng, vợ chồng có thể cách quãng việc sinh con, nhưng không được chiều theo lòng ích kỷ, mà phải theo lòng quảng đại của bậc cha mẹ có trách nhiệm. Muốn điều hòa việc sinh sản, họ phải theo những phương pháp phù hợp với luân lý như: chế dục định kỳ, phương pháp điều hòa dựa trên việc tự quan sát bản thân, và phương pháp dựa vào thời kÿ không thụ thai. Các phương pháp nầy tôn trọng thân xác vợ chồng, khích lệ tình âu yếm nhau và giúp họ tập luyện tự do đích thực. Do đó, "mọi hoạt động nào diễn ra trước hoặc đang khi vợ chồng ăn ở với nhau, hoặc là sau đó trong diễn tiến và phát triển các hiệu quả tự nhiên của nó, nếu được dùng như mục đích hay phương tiện để làm cho không thể sinh sản được, đều là xấu tự bản chất" (HV 14).

Đứa con không phải là "cục nợ", nhưng là "hồng ân tuyệt nhất của hôn nhân". Đứa con có những quyền thực sự của nó, đó là "quyền được là hoa trái cả hành vi do tình yêu hôn nhân của cha mẹ, và quyền được tôn trọng như một nhân vị ngay từ lúc mới thụ thai" (CDF Donum Vitae 2,8). Kinh Thánh và truyền thống coi những gia đình đông con là dấu hiệu Thiên Chúa chúc phúc và cha mẹ có lòng quảng đại (x.MV 50,2). Phúc Âm cho thấy việc son sẻ không con cái không phải là bất hạnh tuyệt đối (SGLC 2379). Những kỷ thuật tân tiến ngày nay như thụ tinh nhân tạo do tinh và noãn không phải của chồng hay vợ, đều là việc bất chính nghiêm trọng (CDF Don vit 2,1) Cả khi thụ tinh nhân tạo do tinh của chồng cũng không thể chấp nhận về mặt luân lý, vì nó tách biệt hành vi tính dục với hành vi sinh sản. "Kitô hữu phải ý thức rằng sự sống con người và trách nhiệm truyền sinh không bị giới hạn ở phạm vi đời nầy, và không thể đạt được đầy đủ mọi chiều kích cũng như đầy đủ ý nghĩa ở đời nầy, nhưng chúng luôn luôn phải được qui chiếu về mệnh vĩnh cửu của mọi người" (MV 51,4).


V. Những vi phạm phẩm giá hôn nhân


Ngoại tình có ý chỉ sự bất trung giữa vợ chồng. Khi ít là một trong hai người nam nữ đã có vợ chồng, mà lại quan hệ tình dục với nhau, dù chỉ chóng qua thôi, họ đã phạm tội ngoại tình. Chúa Kitô đã lên án tội ngoại tình dù chỉ là trong ước muốn (x.Mt 27-28). Điều răn thứ VI và Tân Ước tuyệt đối cấm ngoại tình (x.Mt 5,32; 19,6) là bất công, là lỗi lời cam kết và giao ước trong hôn nhân, xúc phạm đến quyền lợi của người bạn đời, và của cơ chế hôn nhân, gây nguy hại cho nhân loại và cho các trẻ em đang cần sự hiệp nhất bền vững của cha mẹ.


Ly dị. Đức Giêsu đã nhấn mạnh đến ý định của Đấng Tạo Hóa muốn hôn nhân bất khả phân ly (x.Mt 5, 31-32). Người hủy bỏ những dung thứ đã lọt vào trong luật cũ (x.Mt 19,7-9). Giữa hai người công giáo, khi đã kết hôn và ăn ở với nhau (hòa hợp) rồi thì không quyền năng nào của loài người, và không lý do nào có thể tháo gỡ, trừ sự chết (CIC luật 1141). Ly dị vi phạm nặng luật tự nhiên, và còn xúc phạm đến giao ước mà Bí tích Hôn phối là dấu hiệu. Nếu người đã ly dị còn kết hôn nữa, thì họ ở trong tình trạng ngoại tình công khai và thường xuyên. Ly dị còn vô luân nữa, vì nó gây xáo trộn trong gia đình: người bạn đời bị bỏ rơi, con cái bị tổn thương vì cha mẹ chia ly, còn trong xã hội, nó như một vết thương dễ lây nhiễm.


Ly thân giữa vợ chồng, nhưng vẫn giữ dây hôn phối, đó là điều hợp pháp trong một số trường hợp giáo luật đã dự trù, chẳng hạn một trong hai vợ chồng: 1. Gây nguy hiểm nặng nề hoặc về hồn hay xác cho người kia và cho con cái. 2. Làm cho đời sống chúng trở nên cơ cực, (CIC luật 1153).

Đa thê là tình trạng không hợp luân lý. Thật là một thảm kịch khi người đa thê muốn trở thành Kitô hữu, họ buộc lòng bỏ một hay nhiều vợ đã cùng nhau chia sẻ đời sống vợ chồng lâu năm. Dù trở thành Kitô hữu, họ bị buộc nặng phải giữ nghĩa vụ đã giao kết với các người vợ khác, và các con cái của mình.

Loạn luân có ý chỉ những quan hệ xác thịt giữa những người có máu hoặc là sui gia ở cấp bậc mà luật không cho phép kết hôn với nhau. Tội nầy phá hủy quan hệ gia đình và biểu lộ một sự thoái hóa hướng về thú tính. Người lớn phạm tội loạn luân với thiếu niên hay trẻ con được gởi gấm cho mình thì còn tội gấp đôi, vì gây gương xấu và làm cho người trẻ mang dấu vết suốt đời, và còn vi phạm trách nhiệm giáo dục nữa.


Tự do kết hôn là hai người nam nữ chung sống như vợ chồng nhưng không tuân theo một hình thức pháp lý và công cộng nào. Nó gồm nhiều tình trạng như: có vợ bé, không muốn có hôn nhân, không có khả năng cam kết sống chung lâu dài (x.FC 81). Các tình trạng nầy đều xúc phạm phẩm giá của hôn nhân, trái luật luân lý, và là một tội nặng không được rước lễ.


Hôn nhân thử nghiệm là hai bên đã có ý kết hôn nên có những quan hệ tình dục để thử, trước khi dứt khoát kết hôn với nhau. Việc thử như vậy "không bảo vệ cho họ chống lại những ngông cuồng và thói thất thường" (CDF Per Hum 7). Tình yêu con người không cho phép "thử", nó đòi hiến thân trọn vẹn và dứt khoát. (x.FC 80).


Bài 54
Điều răn VII
SỐNG CÔNG BẰNG
(x. SGLC từ 2401 đến 2463)

"Ngươi không được trộm cắp" (Xh 20,15) (Mt 19,8). "Những chênh lệch quá đáng về kinh tế và xã hội, giữa những thành phần hay giữa những dân tộc trong cùng một gia đình nhân loại, thực là gương xấu và đi ngược với công bằng xã hội" (MV 29).

"Ai yêu người thì đã chu toàn lề luật" (Rm 13,8). Nhưng tình yêu đích thực phải được xây dựng trên nền tảng công bằng. Vì thế, điều răn thứ bảy cấm không được ăn trộm, ăn cắp của người khác; và trong Kinh Thánh, còn có nghĩa là cấm bắt cóc, lường gạt và dụ dỗ người khác, để chiếm hữu cho mình hoặc bán làm nô lệ. Đây là một vấn đề rất thiết thực và quan trọng trong cuộc sống hôm nay.


I. Của chung và của riêng


Trong lịch sử nhân loại, người ta chứng kiến hai khuynh hướng đối nghịch nhau: Một đàng nhấn mạnh đến quyền làm chủ tập thể, đến nỗi khước từ quyền tư hữu, làm mất đi tự do và sáng kiến cá nhân. Đàng khác đề cao quyền tư hữu đến độ đánh mất ý thức về người khác, tạo ra tình trạng bất bình đẳng trong xã hội càng ngày càng lớn. Dựa vào Kinh Thánh, người Kitô hữu hiểu rằng "Thiên Chúa đã đặt định trái đất và mọi vật trên trái đất thuộc quyền sử dụng của mọi người, và của mọi dân tộc. Chính vì thế, của cải được tạo dựng phải được phân phối cho tất cả mọi người cách hợp lý, theo luật công bằng là luật đi liền với bác ái" (MV 69). Đồng thời "Mọi người đều có quyền có một phần của cải đầy đủ cho mình và cho gia đình" (MV 69). Quyền tư hữu là đòi hỏi hợp pháp nhằm bảo vệ tự do, bảo đảm những nhu cầu căn bản, và có thể phát triển tình liên đới tự nhiên. Hai yếu tố nầy gắn bó với nhau và bổ túc cho nhau, tạo mối quan hệ hài hòa giữa người với người trong cuộc sống chung.


II. Tôn trọng tha nhân và sở hữu của họ


1. Tôn trọng sở hữu của tha nhân:

Trên nền tảng đó, điều răn thứ bảy cấm không được trộm cắp, nghĩa là tước đoạt của cải người khác ngược với ý muốn của họ. Và bởi vì con người có liên hệ mật thiết đến cuộc sống chung trong xã hội, nên tội phạm đến điều răn nầy còn là: lấy của công làm của riêng, đầu cơ tích trữ, buôn gian bán lận, trốn tránh những thuế vụ chính yếu... Người ta cũng không được biến người khác thành món hàng để trao đổi, mua bán như dịch vụ mãi dâm, buôn bán bào thai và trẻ em, dùng người để buôn hàng lậu... Ngoài ra những giao kèo mua bán, thuê mướn lao động phải được tôn trọng và không được vi phạm. Đức công bằng đòi hỏi phải đền bù những thiệt hại đã gây cho người khác, bằng cách trả lại đồ vật đã lấy, hoặc trả lại số tiền tương đương. Những người không trực tiếp trộm cắp, nhưng có tham gia bằng cách nào đó: điều khiển, phụ giúp hay mua lại của ăn cắp, cũng phải đền bù cân xứng. Tuy nhiên có những trường hợp lấy của người khác mà không phải là trộm cắp. Đó là trường hợp "những người sống trong cảnh cùng quẫn cực độ, họ có quyền lấy ở của cải người khác những gì cần thiết cho mình" (MV 69), hoặc phỏng đoán được rằng người khác chấp thuận hành động của mình.

2. Tôn trọng thiên nhiên:

Ngày nay, ô nhiễm môi sinh đã trở thành vấn đề quan trọng của cả nhân loại. Khoáng sản, thực vật, động vật là những tài nguyên Thiên Chúa ban tặng cho tất cả mọi người. Vì thế, một đàng con người được phép khai thác những tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cuộc sống, nhưng đàng khác phải tôn trọng thiên nhiên là của cải chung, cho con người hôm nay và cho cả những thế hệ mai sau.

III. Công bằng xã hội và hoạt động kinh tế


Càng ngày kinh tế càng chiếm vai trò quan trọng hơn trong cuộc sống con người, đến nỗi "trong các quốc gia theo kinh tế tập sản, cũng như trong các quốc gia khác, hầu như cả đời sống cá nhân cũng như xã hội của họ, đều bị thấm nhiễm một thứ chủ nghĩa duy kinh tế" (MV 63). Vì thế, Hội Thánh đưa ra những hướng dẫn về đời sống kinh tế, nhằm phục vụ con người vốn là "tác giả, là tâm điểm và là cứu cánh của tất cả đời sống kinh tế xã hội" (MV 63).


1. Sinh hoạt kinh tế:

Phát triển kinh tế nhằm mục đích mục vụ nhu cầu của con người. Vì thế "phải cổ võ tất cả những yếu tố góp phần vào việc phát triển ấy" (MV 64). Tuy nhiên, mục đích căn bản của sản xuất không chỉ là gia tăng sản lượng, lợi tức hay quyền lợi, mà chính là để phục vụ con người, và là con người toàn diện. Cho nên "dù theo phương pháp và lề luật riêng, vẫn phải nằm trong giới hạn của trật tự luân lý" (MV 64). Đó là hướng dẫn căn bản cho sinh hoạt kinh tế con người. Trong sinh hoạt đó, nhà nước có trách nhiệm bảo đảm an ninh, tự do của cá nhân, quyền tư hữu và sự ổn định tiền tệ... là những điều kiện cần thiết cho sự phát triển. Các chủ xí nghiệp và các nhà đầu tư cần có được lợi nhuận để bảo đảm việc đầu tư và cung cấp việc làm cho công nhân, nhưng họ cần quan tâm đến lợi ích của con người, chứ không chỉ đến lợi nhuận.

2. Việc làm:

Đối với Kitô giáo, lao động có một giá trị cao cả: không những để nuôi sống bản thân và gia đình, mà còn liên kết với tha nhân và phục vụ họ, cộng tác vào công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa, và tham gia vào công cuộc cứu độ của Chúa Kitô qua những lao công vất vả của mình (x.MV 67). Vì thế mỗi người có quyền đòi hỏi việc làm, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, phái tính hay giai cấp nào. Khi làm việc, con người cũng cần có được đồng lương xứng đáng "đủ khả năng xây dựng cho mình và gia đình một đời sống xứng hợp cả về phương diện vật chất, xã hội, văn hóa cũng như tinh thần" (MV 67). Để bảo đảm cho quyền lợi chính đáng của mình, công nhân có quyền đình công, khi không còn phương thế nào khác, và sự thực mang lại lợi ích tương xứng (x.MV 68).

3. Liên đới giữa các dân tộc:

Ngày nay người ta chứng kiến sự cách biệt rất lớn giữa các nước giầu và các nước nghèo. Đang khi một số quốc gia càng lúc càng giàu hơn, thì nợ nần của các nước nghèo lại gia tăng. Và nhiều khi một quốc gia giàu có là vì đã tước đoạt tài nguyên thiên nhiên của các nước nghèo, bằng nhiều hình thức khác nhau. Vì thế, Hội Thánh kêu gọi xây dựng công bằng thế giới, và tình liên đới giữa các dân tộc. Sự liên đới ấy không chỉ thể hiện bằng cách giúp đỡ trực tiếp, nhưng còn phải cải tổ cả cơ cấu của nền kinh tế thế giới, và phải hướng đến việc phát triển toàn diện của gia đình nhân loại.

IV. Yêu thương người nghèo


Tiếng gọi của Thiên Chúa không chỉ ngưng lại ở đòi hỏi công bằng, mà còn đi xa hơn đến chỗ: yêu thương người nghèo. Ngay trong Cựu Ước, Dân Chúa đã có những biện pháp cụ thể để nâng đỡ người nghèo. Năm Toàn Xá với việc tha thứ nợ nần, trả lại đất đai. Đến thời Tân Ước, tiếng gọi ấy càng khẩn thiết hơn: Đức Giêsu công bố hạnh phúc cho người nghèo, chính Ngài đã sống nghèo giữa những người nghèo, để chăm sóc cho họ, và Ngài vẫn hiện diện trong những người nghèo (x.MT 25,31-36). Vì thế, trong suốt lịch sử của mình, Hội Thánh luôn dành cho người nghèo tình yêu thương đặc biệt, không chỉ nghèo vật chất mà cả về tinh thần và tôn giáo. Là người Kitô hữu, ta không thể không mang tâm tư của Đức Giêsu (x.Kh 2,5). Lòng yêu thương ấy được thể hiện qua cuộc sống tiết độ, không tham lam của cải, không tiêu xài lãng phí. Tích cực hơn, ta góp phần làm vơi đi nỗi khổ của những anh chị em nghèo khổ hơn, về tinh thần cũng như về vật chất: an ủi, khích lệ, khuyên bảo, dạy dỗ; đồng thời cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới mặc, cho kẻ không nhà được náu thân, vì "Nếu con không cho người đói khát ăn uống tức là con đã giết họ" (Các Giáo Phụ). Những công việc đó làm cho ta được nên giống Cha trên trời là Đấng nhân từ và giàu lòng thương xót.


Bài 55
Điều răn VIII

TÔN TRỌNG SỰ THẬT
(x. SGLC từ 2464 đến 2513)

"Ngươi không được làm chứng dối chống lại đồng loại". (Xh 20,16). "Thầy bảo cho anh em biết: Đừng thề chi cả... Nhưng hễ có thì phải nói có, không thì phải nói không. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ". (Mt 5,33).
"Ai yêu thương, người ấy chu toàn lề luật" (Rm 13,8). Nhưng tình yêu đích thực phải được hướng dẫn và soi sáng bởi chân lý, và chỉ có chân lý mới giải thoát chúng ta. (x.Ga 8,32).

I. Sống trong sự thật và làm chứng cho sự thật


Con người không thể sống với nhau nếu không tin tưởng lẫn nhau và thành thật với nhau. Không có sự thành thật, cuộc sống chung sẽ rất nặng nề, vì người ta phải thường xuyên cảnh giác và lo sợ. Đối với người Kitô hữu, lời mời gọi sống theo sự thật được bắt nguồn từ chính Thiên Chúa. Cựu Ước xác quyết rằng Thiên Chúa là nguồn mọi sự thật. Lời Ngài là chân lý. Vì Thiên Chúa là chân lý, nên dân của Ngài được mời gọi sống trong sự thật (Rm 3,4). Nơi Đức Giêsu Kitô, toàn bộ chân lý của Thiên Chúa được bày tỏ. Đức Giêsu là chân lý (Ga 14,6), đến trong thế gian để làm ánh sáng cho cuộc đời. Bước theo Đức Giêsu là sống trong "Thánh Thần chân lý", Đấng dẫn đưa chúng ta vào "tất cả sự thật" (Ga 16,13). Vì thế, người môn đệ Đức Giêsu phải là người yêu mến sự thật "có thì nói có, không thì nói không" (Mt 5,33); nghĩa là thành thật, chân thành trong lời nói cũng như trong việc làm, không giả hình, không gian dối. Không những sống trong sự thật, Kitô hữu còn được mời gọi làm chứng cho sự thật, theo gương Đức Giêsu, Đấng "đã đến trong thế gian để làm chứng cho sự thật" (Ga 18,37). Vì Chúa Kitô chính là sự thật, nên làm chứng cho sự thật cũng là làm chứng cho Chúa Kitô, cho niềm tin vào Ngài, cho Tin Mừng của Ngài "Đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta " (2Tm 1,8). Các vị Tử Đạo là những chứng nhân tuyệt vời. Các ngài đã làm chứng cho Chúa Kitô chết và sống lại, cho chân lý đức tin, và các ngài đã làm chứng bằng chính mạng sống của mình. Chính vì thế, Hội Thánh tôn kính các vị Tử Đạo cách đặc biệt, và ân cần lưu giữ bút tích về chứng tá của các ngài.


II. Tội phạm chống lại sự thật


Người Kitô hữu được mời gọi "mặc lấy con người mới... để sống thật công chính và thánh thiện. Và khi đã cởi bỏ sự gian dối, mỗi người trong anh em hãy nói sự thật với người thân cận" (Ep 4,24-25). Tuy nhiên trong thực tế, ta có thể sống không phù hợp với sự thật bằng nhiều cách khác nhau:


1. Thề gian, làm chứng dối:

Những hành động nầy gây thiệt hại nghiêm trọng cho người khác, vì ảnh hưởng đến phán quyết của tòa án, dẫn đến chỗ kết án người vô tội, hoặc gia tăng hình phạt cho phạm nhân; hay ngược lại, đồng lõa với tội phạm.

2. Không tôn trọng danh dự người khác:

Phán đoán liều lĩnh là kết tội người khác khi không có đủ bằng chứng. Để tránh tội nầy, phải rất cẩn thận và phải giải thích tốt hết sức có thể, tư tưởng và hành vi của người khác. Nói hành nói xấu là phơi bày lỗi phạm của người khác cho người chưa biết, mà không có lý do gì vững chắc. Vu khống, cáo gian làm thiệt hại thanh danh người khác, và dẫn đến những phán đoán sai về họ. Những lỗi phạm nầy hủy hoại danh thơm tiếng tốt của người khác, và vì thế, đi ngược lại đức công bằng và bác ái.

3. Nói dối:

Đây là lỗi phạm thường xuyên nhất. Nói dối là nói ngược với sự thật, khiến người khác bị lầm lạc, đang khi họ có quyền được biết sự thật. Mức độ tội phạm có thể khác nhau, tùy theo bản chất lời nói dối, hoàn cảnh và ý định của người nói dối, cũng như thiệt hại mà lời đó gây nên cho người khác. Vì thế ở tự nó, nói dối chỉ là tội nhẹ, nhưng trong một số trường hợp, nó trở thành tội nặng vì đi ngược lại đức công bằng và đức ái. Tất cả những lỗi phạm đi ngược lại đức công bằng và đức ái, đòi hỏi phải được đền bù, kể cả khi người có tội đã được tha thứ. Khi không thể đền bù cách công khai, phải đền bù cách kín đáo. Đó là đòi hỏi của lương tâm.

III. Tôn trọng và phục vụ sự thật


1. Tôn trọng sự thật:

"Bác ái trong sự thật và sự thật trong bác ái". Ta có bổn phận phải nói sự thật, nhưng đồng thời, trong một vài trường hợp cụ thể. Đức Ái đòi buộc ta phải cẩn trọng xem xét có nên nói sự thật cho người khác không, vì có thể dẫn đến những hậu quả không tốt. Ích lợi và an ninh của người khác, tôn trọng đời tư, công ích: đó là những lý do đủ để ta có thể im lặng, không nói điều không nên nói, hoặc nói tránh đi. Không ai bị bó buộc phải nói cho người khác điều mà họ không có quyền biết. Chính ở đây, xuất hiện tầm quan trọng của bí mật tòa giải tội. Ấn tòa giải tội là bí mật bất khả xâm phạm. Vì thế sẽ là trọng tội nếu cha giải tội phản bội hối nhân, bằng lời hay cách thế nào khác và vì bất cứ lý do gì (x. Giáo luật 983). Ngoài ra còn có những bí mật về nghề nghiệp, hoặc những tâm sự đòi hỏi được giữ kín. Chỉ được phép nói ra vì những lý do nghiêm trọng và cân xứng, hoặc vì tai nạn có thể xãy ra nếu không nói.

2. Những phương tiện truyền thông:

Trong thời đại hiện nay, những phương tiện truyền thông phát triển rất nhanh, và đóng vai trò ngày càng quan trọng hơn trong việc thông tin, đào tạo và phát triển văn hóa. Những phương tiện truyền thông đó phải nhằm mục đích phục vụ công ích, đặt nền tảng trên sự thật, tự do, công bằng và tình liên đới. Trong thực tế, vì ảnh hưởng của lợi nhuận kinh tế và những động lực chính trị, người ta đã bóp méo sự thật, và làm cho nhiều người mất đi khả năng đón nhận chân lý (Đức Gioan Phaolô II). Vì thế, người tín hữu phải tự tạo cho mình một kỷ luật và khả năng phán đoán, dựa trên thang giá trị của Tin Mừng, để biết đánh giá đúng mức và tiếp thu những gì tốt đẹp qua các phương tiện truyền thông (x. TT 10).

3. Mỹ thuật Thánh:

Ngôn ngữ là một trong những phương thế diễn tả và truyền thông chân lý, nhưng không phải là phương thế duy nhất. Hơn thế nữa, có những chân lý mà ngôn ngữ con người không sao diễn tả nổi, nhất là chân lý về Thiên Chúa "Đấng ngự trị trong ánh sáng siêu phàm, vô phương đạt thấu". Vì thế, còn có nhiều phương thế khác để diễn tả chân lý, đặc biệt là Mỹ Thuật mà Hội Thánh quan tâm đề cao "Trong những hoạt động cao quý nhất của tài năng con người, rất đáng kể đến mỹ thuật, nhất là nghệ thuật tôn giáo, mà tột đỉnh của nghệ thuật nầy chính là nghệ thuật Thánh" (PV 122). Vì thế, từ việc xây cất nhà thờ, trưng bày ảnh tượng hay những tác phẩm tôn giáo, phải quan tâm xem xét để tất cả phục vụ cho chân lý Đức Tin "góp phần tích cực vào việc đạo đức, là hướng tâm người ta về cùng Chúa" (PV 122).

IV. Trong cuộc sống hôm nay


1. Do ảnh hưởng của sinh hoạt xã hội, và nhiều khi do cả nền giáo dục chuộng hình thức, sự gian dối đã trở thành quen thuộc trong cuộc sống hằng ngày của người dân Việt. Sự gian dối đó không những hủy hoại mối quan hệ người với người trong xã hội, mà còn hủy hoại chính ơn gọi làm người để "sống trong sự thật" (Rm 3,4). Vì thế cho dẫu khó khăn, người Kitô hữu phải cố gắng và can đảm sống ngay thẳng, thành thật, chân thành với chính mình và với mọi người.


2. Từ năm 1966, Hội Thánh Công Giáo đã chọn lễ Thăng Thiên hàng năm làm ngày Quốc Tế về Truyền thông. Việc Đức Giêsu về trời gắn liền với sứ mạng trao ban cho Hội Thánh: Ra đi loan báo Tin Mừng. Trong thời đại bùng nổ thông tin nầy, Hội Thánh phải tận dụng mọi phương tiện truyền thông để loan báo Tin Mừng (x.TT 3): Báo chí, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình. Phần đông anh chị em tín hữu ở Việt Nam là những người đón nhận chứ không phải là người sử dụng các phương tiện truyền thông. Tuy nhiên vai trò của cha mẹ rất quan trọng "Phải nhớ mình có bổn phận tận tâm coi sóc, kẻo kịch ảnh, sách báo và những thứ cùng loại, trái nghịch với Đức Tin, trái thuần phong mỹ tục, lại lọt vào ngưỡng cửa gia đình; cũng đừng để con cái gặp những thứ đó ở nơi khác" (TT 10).



2205    22-03-2011 08:58:31