Sidebar

Thứ Bảy
20.04.2024

Hội Thánh Điều Luật_01


HỘI THÁNH ĐIỀU LUẬT

HỘI THÁNH ĐIỀU LUẬT ĐỆ THẬP NHỨT THIÊN


H
. Hội Thánh nghĩa là gì ?
T
. Nghĩa là các bổn đạo ở khắp thế gian vưng lời, chịu lụy đức thánh Phapha, là đại phụ Thánh Hội Tông.

H . Hội Thánh có mấy lề luật ?
T
. Có sáu :
Thứ nhứt:
Xem lễ ngày Chúa Nhựt cùng các ngày lễ buộc.
Thứ hai:
Chớ làm việc xác ngày Chúa Nhựt cùng các ngày lễ buộc.
Thứ ba:
Xưng tội trong một năm ít là một lần.
Thứ bốn:
Chịu Mình Thánh Đức Chúa Giêsu trong Mùa Phục Sinh.
Thứ năm:
Giữ chay những ngày Hội Thánh buộc.
Thứ sáu:
Kiêng thịt ngày thứ sáu cùng những ngày khác Hội Thánh dạy.

H . Kẻ chẳng giữ lề luật Hội Thánh, có phạm tội chăng ?
T
. kẻ giữ đặng mà cố ý chẳng giữ, thì phạm tội trọng.

H . Ta có giữ đặng bấy nhiêu điều răn ấy trọn chăng ?
T
. Nếu không ơn Chúa giúp, thì chẳng đặng.

H . Phải làm đí gì cho đặng ơn Chúa ?
T
. Phải siêng năng đọc kinh cầu nguyện.

 

THIÊN CHÚA KINH GIẢI
ĐỆ THẬP NHỊ THIÊN

H . Trong các kinh kinh nào trọng hơn ?
T
. Kinh Lạy Cha.
Lạy Cha chúng tôi ở trên trời, chúng tôi nguyện Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, vưng ý Cha dưới đất bằng trên trời vậy. Xin Cha cho chúng tôi rày hằng ngày dùng đủ; và tha nợ chúng tôi, như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng tôi; lại chớ để chúng tôi sa chước cám dỗ, bèn chữa chúng tôi cho khỏi sự dữ. Amen

H . Ai đặt kinh lạy Cha ?
T
. Là lời Đức Chúa Giêsu phán dạy mười hai tông đồ, mà truyền lại cho các người giáo hữu.

H . Kinh ấy dạy xin những sự gì ?
T
. Dạy xin cùng Đức Chúa Trời mọi điều thiết yếu phần linh hồn và phần xác nên hôm mai phải đọc.

H . Lạy Cha chúng tôi ở trên trời, nghĩa là làm sao ?
T
. Là lạy Đức Chúa Trời là Cha chúng tôi ở trên trời.

H . Ta là vật hèn tội lỗi sao dám gọi Đức Chúa Trời là Cha ?
T
. Vì Đức Chúa Trời dạy ta xưng Người là Cha; lại Người thương ta hơn cha mẹ thương con, nên mới dám xưng Người Cha.

H . Làm sao ta biết Đức Chúa Trời thương ta hơn cha mẹ thương con ?
T
. Vì Người sinh trời đất muôn vật, che chở dưỡng nuôi ta linh hồn và xác, lại ra đời chuộc tội chịu chết cho ta, cùng xuống nhiều ơn trọng cho ngày sau ta được hưởng phước đời đời.

H . Ta phải làm đí gì cho đáng làm con Đức Chúa Trời ?
T
. Phải vưng lời Người truyền dạy, mà giữ mười giái răn cho trọn, chớ nghe lời ma quỷ mà nghịch mạng cùng Người.

H . Đức Chúa Trời ở khắp mọi nơi, mà rằng: ở trên trời, làm sao ?
T
. Đã hay rằng vậy, song Người muốn cho ta hằng trông phước trên trời, chớ mê tội lỗi thế gian, cho nên rằng ở trên trời.

H . Trong kinh ấy có mấy lời nguyện ?
T
. Có bảy: mà ba điều trước về lòng kính Chúa; còn bốn điều sau, thì xin về phần ta.

H . Lời thứ nhứt: chúng tôi nguyện Danh Cha cả sáng, nghĩa là làm sao ?

T . Nghĩa là ta chọn Đức Chúa Trời, thì phải kính Chúa trên hết mọi sự, nên chẳng cầu giàu sang vui sướng thế gian, một trông cho thiên hạ ngợi khen Danh Chúa mà thôi.

H . kẻ phạm tội thật là phá Danh Chúa, sao còn dám đọc rằng" Nguyện Danh Cha cả sáng" ?
T
. Những kẻ ấy, mà chẳng dốc lòng chừa tội, thì ngôn hành tương phản càng tỏ mình cố ý phạm tội khinh Chúa.

H . Lời thứ hai: Nước Cha trị đến, nghĩa là làm sao ?
T
. Nghĩa là cầu xin cho các nước thế gian đều nhìn biết một Đức Chúa Trời, là Chúa tể chí tôn vô đối, mà vưng theo lịnh Người; lại xin cho đặng tới nước thiên đàng, hưởng phước đời đời.

H . Lời thứ ba: vưng ý Cha dưới đất bằng trên Trời vậy, nghĩa là làm sao ? T . Nghĩa là Thiên Thần cùng các thánh trên trời hằng vưng theo ý Chúa thế nào thì ta cũng xin vâng theo như vậy.

H . Ý Chúa muốn cho ta làm những sự gì ?
T
. Ý Người muốn cho ta làm mọi sự lành, lánh mọi sự dữ.

H . Lời thứ bốn: Xin Cha cho chúng tôi rày hằng ngày dùng đủ, nghĩa là làm sao ?
T
. Hễ con khi thiếu lương thực, thì xin cùng cha mẹ, mà ta là con Đức Chúa Trời, nên phải xin lương thực hằng ngày dùng đủ cho phần linh hồn và phần xác.

H . Lương thực phần xác là đí gì ?
T
. Là cơm áo cùng mọi vật thường dùng.

H . Có nên cầu giàu sang thề gian chăng ?
T
. Cầu sự ấy cho đặng kính Chúa yêu người, thì nên: bằng cầu có ý khác mà làm hại phần linh hồn, thì chẳng nên.

H . Lương thực linh hồn là đí gì ?
T
. Là ơn Đức Chúa Trời cùng Mình Thánh Đức Chúa Giêsu.

H . Ơn Đức Chúa Trời cùng Mình Thánh Đức Chúa Giêsu sao gọi rằng: lương thực linh hồn ?
T
. Ví như phần xác chẳng có ăn uống thì phải chết: mà linh hồn, nếu không ơn Chúa cùng Mình Thánh Đức Chúa Giêsu, ắt là chẳng hay làm lành, cũng như chết vậy: nên gọi rằng: lương thực linh hồn.

H . Hằng ngày dùng đủ nghĩa là làm sao ?
T
. Là phải hằng ngày hằng xin: chẳng nên trễ nải bữa có bữa không.

H
. Lời thứ năm: Và tha nợ chúng tôi như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng tôi,nghĩa là làm sao ?
T
. Là xin Đức Chúa Trời tha tội cho ta , như ta tha kẻ có lỗi cùng ta.

H . Ai đã làm mất lòng ta, mà ta chẳng tha lỗi người ấy Đức Chúa Trời có tha lỗi tachăng ?
T
. Đức Chúa Trời chẳng tha.

H . Sao gọi tội là tha nợ ?
T
. Hễ ai đã làm hư của ta, thì phải thường lại cho ta, bằng chẳng thường, ắt là người ấy còn mắc nợ ta: mà ta lỗi nghĩa cùng Chúa , ấy là ta phá ơn Chúa thì phải ăn năn lập công đền tội, bằng chẳng đền, cũng mắc nợ Chúa như vậy, cho nên gọi tội là nợ.

H . Lời thứ sáu: Lại chớ để chúng tôi sa chước cám dỗ, nghĩa là làm sao ?

T . Tà ma, thịt mình, thế tục, là ba thù rất dữ, hằng cám dỗ ta nhiều đàng khéo léo, hoặc dùng phú quý công danh, hoặc dùng bói khoa thuật số, hoặc dối lời lành dữ, hoặc giả kính, giả tượng, đơm tế thờ nó, vọng cầu thế phước, mặc nhơn theo thửa ta muốn; nên xin Chúa chớ để nó cám dỗ ta, bằng có để nữa, thì xin Người xuống ơn phù hộ cho ta đặng bền lòng chống trả, kẻo mà lỗi nghĩa cùng Chúa .

H . Lời thứ bảy: Bèn chữa chúng tôi cho khỏi sự dữ, nghĩa là làm sao ?
T
. Là xin cho khỏi mọi sự hoạn nạn linh hồn và xác.

H . Hoạn nạn linh hồn là đí gì ?
T
. Là nghe theo ma quỷ bỏ Chúa mà đi đàng tội lỗi, ngày sau phải khốn đời đời.

H . Hoạn nạn phần xác là đí gì ?
T
. Là đói khát, giặc giã, tật nguyền họan nạn, cùng những sự khác hại phần xác thịt: vậy giáo hữu phải cầu xin cho khỏi bấy nhiêu sự ấy, chẳng nữa thì xin Chúa xuống ơn thần lực mà chịu cho bằng lòng.

H . Amen, nghĩa là làm sao ?
T
. Là lời cặn kẽ xin cho đặng bấy nhiêu lời cấu.

 

THÁNH MẪU KINH GIẢI
ĐỆ THẬP TAM THIÊN

H . Kinh nào Hội Thánh quen dùng mà cầu cùng Đức Bà ?
T
. Kinh:

Kính mầng Maria đầy ơn phước, Đức Chúa Trời ở cùng Bà , Bà có phước lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con lòng Bà gồm phước lạ.

Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nầy và trong giờ lâm tử .Amen.

H . Ai đặt kinh Kính Mầng ?
T . Kinh ấy có ba mối: một là lời Thiên Thần mừng thưa Đức Bà khi truyền tin cho người chịu thai Con Đức Chúa Trời; hai là lời bà thánh Isave tiếp thấy Đức Bà, mà ngợi khen người; ba là lời Hội Thánh cầu cùng Đức Bà mà xin người phù hộ.

H . Mối thứ nhứt là những điều nào ?
T
. Là: Kính mầng Maria đầy ơn phước, Đức Chúa Trời ở cùng Bà.

H . Kính mầng, nghĩa là làm sao ?
T
. Là lời Thiên Chúa Gabirie chào mừng Đức Bà, khi truyền tin cho người chịu thai.

H . Maria, nghĩa là làm sao ?
T
. Là tên Đức Bà.

H . Đầy ơn phước nghĩa là làm sao ?
T . Nghĩa là Đức Bà đặng ơn Đức Chúa Trời hơn các đứng Thiên Thần cùng các người thánh thảy thảy.

H . Đức Chúa Trời ở cùng Bà nghĩa là làm sao ?
T
. Nghĩa là loài người ta đều mắc tội tổ tông, có một Đức Bà chẳng những là khỏi tội tổ tông, mà lại khỏi mọi tội mình làm, hằng đẹp lòng Chúa luôn, nên gọi rằng: Chúa Trời ở cùng Bà.

H . Mối thứ hai có phước lạ hơn mọi người nữ, nghĩa là làm sao ?
T
. Là lời bà thánh Isave ngợi khen Đức Bà mà rằng: trong mọi người nữ không có một ai khá ví cùng Đức Bà, vì Đức Chúa Trời đã chọn người làm mẹ.

H . Và Giêsu con lòng bà gồm phước lạ, nghĩa là làm sao ?
T
. Cũng là lời bà thánh ấy khong khen Chúa, vì đã giáng sinh trong lòng rất thánh Đức Bà.

H . Mối thứ ba: thánh, nghĩa là làm sao ?
T
. Nghĩa là Đức Bà đã đặng vẹn sạch các giống tội lỗi.

H . Cầu cho chúng tôi là kẻ có tội khi nầy, nghĩa là làm sao ?
T
. Khi ta còn sống ở thế gian, thì ma quỷ, thịt mình, thế tục không giờ khắc nào mà chẳng cám dỗ ta phạm tội mất lòng Đức Chúa Trời, cho nên xin Đức Bà cầu cùng Đức Chúa Trời xuống ơn cho ta đặng khỏi mọi đàng tội lỗi.

H . Trong giờ lâm tử, nghĩa là làm sao ?
T
. Là bởi khi ta gần chết, thì ma quỷ thấy đã hết giờ hại đặng linh hồn ta, cho nên nó càng ra sức cám dỗ ta khi ấy. Vậy phải xin Mẹ rất khoan nhơn, đã cứu giúp ta khi sống, thì khi ấy lại càng cần giữ hơn nữa.

Amen. Nghĩa lý như tiên.

 

NGHĨA KINH TIN KÍNH

H . Kinh nào dạy ta những sự phải tin ?
T
. Kinh:
Tôi tin kính Đức Chúa Trời, là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất . Tôi tin kính Đức Chúa Giêsu Kirixitô là con một Đức Chúa Cha cùng là Chúa chúng tôi; bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Maria đồng trinh; chịu nạn đời quan Phongxiôphilatô; chịu đóng đinh trên cây Thánh Giá, chết và táng xác xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại; lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng; ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết.

Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần. Tôi tin có Hội Thánh hằng có ở khắp thế nầy, các thánh thông công. Tôi tin phép tha tội. Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen.

H . Ai đặt kinh Tin Kính ?
T
. Các thánh tông đồ, trước khi phân nhau mà đi khằp thế giảng đạo, đã đồng đặt kinh ấy, làm mười hai điều, dạy các người giáo hữu cho đồng tin nhĩ hà nhứt thể.

H . Tin, là làm sao ?
T
. Là bởi ơn Chúa mà chịu lấy mọi lẽ trong đạo làm thật, vì Đức Chúa Trời đã phán những lẽ ấy và Hội Thánh truyền cho ta tin, dầu mắt xem không thấy, cũng chẳng dám hồ nghi, ấy gọi là tin, còn các điều trước đã giải tỏ.

H . Kinh Tin Kính là thế nào ?
T
. Kinh các thánh Tông Đồ đã truyền mà tóm lại mọi sự ta đã tin.

H . Trong kinh Tin Kính có mấy điều ?
T
. Có mười hai điều.

 

ĐIỀU THỨ NHỨT

Tôi tin kính Đức Chúa Trời, là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất.

H . Tôi tin kính Đức Chúa Trời nghĩa là làm sao ?
T
. Nghĩa là tôi tin vững vàng có một Đức Chúa Trời mà thôi, chẳng có lẽ nào mà có nhiều Đức Chúa Trời đâu.

H . Vì sao chẳng nói rằng: tôi tin có Đức Chúa Trời, mà lại nói rằng: tôi tin kính ?
T
. Vì tin có một Đức Chúa Trời, thì chưa đủ: cho nên phải xưng rằng: tôi trông cậy, và kính mến Đức Chúa Trời, cùng dưng mình làm tôi Đức Chúa Trời cho đến trọn đời.

H . Là Cha nghĩa là làm sao ?
T
. Nghĩa là một Đức Chúa Trời có ba ngôi, mà ngôi thứ nhứt là Cha.

H . Vì sao mà gọi ngôi thứ nhứt là Cha ?
T
. Vì trước vô cùng ngôi thứ nhứt sinh ngôi thứ hai là Con.

H . Phép tắc vô cùng, nghĩa là làm sao ?
T
. Nghĩa là chẳng có sự gì mà Đức Chúa Trời làm chẳng đặng.

H . Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần có phép tắc vô cùng bằng Đức ChúaCha chăng ?
T
. Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần cũng có một phép tắc vô cùng bằng Đức Chúa Cha; vì ba ngôi cũng một Đức Chúa Trời mà thôi.

H . Dựng nên trời đất nghĩa là làm sao ?
T
. Nghĩa là bởi không mà dựng nên mọi sự cho có.

 

ĐIỀU THỨ HAI

Tôi tin kính Đức Chúa Giêsu Kirixitô là con một Đức Chúa Cha cùng là Chúa chúng tôi.

H . Con một Đức Chúa Cha nghĩa là làm sao ?
T
. Nghĩa là ngôi thứ hai bởi Đức Chúa Cha mà sinh ra, và có một tính cùng Đức Chúa Cha.

H . Sao rằng: con một Đức Chúa Cha ?
T
. Vì có một ngôi thứ hai bởi bổn tính Đức Chúa Cha mà sinh ra.

H . Là Đức Chúa Giêsu, nghĩa là làm sao ?
T
. Nghĩa là Đấng Cứu Thế; mà Đức Chúa Cha đã đặt Danh cực trọng ấy cho Đức Chúa Con, vì chưng con Đức Chúa Trời ra đời cho đặng cứu hết mọi người thế gian.

H . Kirixitô, nghĩa là làm sao ?
T.
Kirixitô nghĩa là chịu xức dầu, cùng là danh chung về đứng tiên tri, cùng đấng có quờn tế lễ, và đấng làm vua nữa.

H . Vì sao Kirixitô là danh chung cho ba đấng ấy ?
T
. Vì chưng trong đạo Đức Chúa Trời quen xức dầu khi phong chức cho ba đấng ấy.

H . Đức Chúa Giêsu chịu xức dầu bao giờ, mà gọi Người là Kirixitô ?
T . Đức Chúa Giêsu chẳng chịu xức dầu thế gian bởi tay người ta đâu song le Người chịu xức dầu thiêng liêng bởi phép Đức Chúa Cha, cùng bởi ơn Đức Chúa Thánh Thần, cho linh hồn Người đặng gồm phước lạ hơn các đấng Đức Chúa Trời sinh ra; cho nên Người biết mọi sự, cùng đặng quờn tế lễ, và làm vua hằng sống hằng trị đời đời.

H . Sao rằng: là Chúa chúng tôi ?
T
. Đức Chúa Giêsu là Chúa chúng tôi, vì Người chẳng những là đã sinh ra ta, mà lại đã chuộc tội cho ta nữa.

 

ĐIỀU THỨ BA

Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà người xuống thai, sinh bởi bà Maria đồng trinh.

H . Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, nghĩa là làm sao ?
T
. Nghĩa là người nữ rất thánh, tên là Maria , đã chịu thai và sinh đẻ con đoạn mà hãy còn đồng trinh sạch sẽ cho đến trọn đời.

 

ĐIỀU THỨ BỐN

Chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng đinh trên cây Thánh Giá, chết và táng xác.

H . Chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng đinh trên cây Thánh Giá, chết và táng xác, nghĩa là làm sao ?
T
. Nghĩa là Đức Chúa Giêsu chịu trói, chịu giỗ, chịu vả, chịu đòn, chịu đội mũ gai, cùng chịu đóng đinh trên cây Thánh Giá, đời quan Philatô cai trị xứ Giuđêa thay vì vua Rôma.

H . Thánh Giá là đí gì ?
T
. Thánh Giá là hình phạt rất hèn. Vậy Đức Chúa Giêsu càng hạ mình xuống mà chịu hình phạt rất hèn dường ấy vì ta, thì ta càng phải ra sức kính mến đội ơn Người hơn nữa.

H . Chết, nghĩa là làm sao ?
T
. Nghĩa là linh hồn Người đã lìa ra khỏi xác như khi mọi người chết vậy; nhưng mà tính Đức Chúa Trời còn ở cùng xác và linh hồn Đức Chúa Giê su chẳng lìa khỏi đâu.

H . Và táng xác nghĩa là làm sao ?
T
. Nghĩa là Đức Chúa Giêsu chết đoạn, thì môn đệ lấy xác Người mà táng trong huyệt đá mới.

 

ĐIỀU THỨ NĂM

Xuống ngục tổ tông ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại.

H . Xuống ngục tổ tông nghĩa là làm sao ?
T . Nghĩa là linh hồn Đức Chúa Giêsu lìa khỏi xác đoạn, liền xuống nơi linh hồn các thánh phải giam cầm mà trông đợi Đức Chúa Giêsu rước lên Thiên Đàng.

H . Vì lẽ nào linh hồn các thánh phải giam cầm mà đợi trông làm vậy ?
T
. Vì chưng từ ông Adong phạm tội, thì cửa thiên đàng đóng lại, nếu chẳng có công nghiệp Đứng Cứu Thế, thì chẳng ai đặng lên thiên đàng.

H . Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại, nghĩa là làm sao ?
T
. Nghĩa là Đức Chúa Giêsu chết đoạn, ngày thứ ba linh hồn và xác Đức Chúa Giêsu lại hiệp cùng nhau mà sống lại, ra khỏi huyệt đá, tốt lành vang hiển sáng láng.

 

ĐIỀU THỨ SÁU

Lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng.

H . Lên Trời, nghĩa là làm sao ?
T
. Nghĩa là Đức Chúa Giêsu sống lại đoạn, khỏi bốn mươi ngày, thì Đức Chúa Giêsu lấy phép riêng Người mà lên trời.

H . Ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng, nghĩa là làm sao ?
T
. Nghĩa là Đức Chúa Giêsu về tính Đức Chúa Trời thì cũng một quờn một phép cùng Đức Chúa Cha: mà về tính người ta, thì người sang trọng phép tắc hơn các Đấng và các loài Đức Chúa Trời đã sinh ra.

 

ĐIỀU THỨ BẢY

Ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết.

H . Ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết, nghĩa là làm sao ?
T
. Nghĩa là ngày tận thế Đức Chúa Giêsu ở trên trời sẽ ngự xuống uy nghi sáng láng mà phán xét, chẳng những là kẻ chết đã lâu, mà lại phán xét kẻ còn sống khi Người hiện xuống. Vì kẻ ấy cũng phải chết, đoạn sống lại tức thì mà chịu phán xét nữa.

 

ĐIỀU THỨ TÁM

Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần

H . Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần, nghĩa là làm sao ?
T
. Nghĩa là tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là ngôi thứ ba, bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra, cũng một tính một phép cùng hai ngôi cực trọng ấy nữa.

H . Thần, nghĩa là làm sao ?
T
. Thần, nghĩa là tính thiêng liêng.

H . Ba Ngôi cũng là một tính thiêng liêng cũng là một đấng rất thánh , sao mà đặtThánh Thần cho một ngôi thứ ba mà thôi ?
T
. Vì ngôi thứ nhứt đã có tên riêng, là Cha, và ngôi thứ hai đã có tên riêng, là Con; cho nên dùng tên chung, là Thánh Thần, mà đặt cho ngôi thứ ba.

 

ĐIỀU THỨ CHÍN

Tôi tin có Hội Thánh hằng có ở khắp thế nầy, các thánh thông công.

H . Hội Thánh nghĩa là làm sao ?
T
. Nghĩa là các bổn đạo đều hiệp cùng nhau, mà chịu lụy đấng chính quờn thay mặt Đức Chúa Giêsu.

H . Các bổn đạo đều hiệp làm một cùng nhau là thế nào ?
T
. Các bổn đạo đều hiệp làm một cùng nhau, vì bốn lẽ nầy: một là các bổn đạo đều tin như nhau; hai là dùng những phép mầu nhiệm Bí Tích cũng như nhau; ba là cầu nguyện chung cho nhau; bốn là đều chịu lụy Đức Giáo Tông, là Đấng thay mặt Đức Chúa Giêsu.

H . Nếu vậy, các bổn đạo mọi nơi về một Hội sao ?
T
. Phải, vì có một Hội mà thôi.

H . Vì sao gọi là Hội Thánh ?
T
. Gọi là Hội Thánh vì ba lẽ nầy: một là Đấng làm đầu Hội Thánh, là Đức Chúa Giêsu, là mạch mọi sự thánh; hai là vì lời giảng dạy cùng những phép Hội Thánh dùng là sự thánh; ba là vì kẻ hiệp cùng Hội Thánh thì mới đặng nên thánh mà thôi.

H . Hằng có ở khắp thế nầy, nghĩa là làm sao ?
T
. Nghĩa là ở khắp mọi nơi, hằng có mọi đời.

H . Vì sao rằng; Hội Thánh hằng có ở khắp thế nầy ?
T
. Vì chưng khắp bốn phương thiên hạ đều có kẻ giữ đạo Đức Chúa Trời.

H . Sao rằng Hội Thành Hằng có mọi đời?
T
. Vì chẳng có đời nào, mà chẳng có kẻ thờ phượng Đức Chúa Trời.

H . các thánh thông công nghĩa là làm sao ?
T
. Nghĩa là các thánh ở trên trời, cùng các linh hồn ở luyện ngục, và các bổn đạo, dưới đất, đều thông công cùng nhau.

H . Các bổn đạo dưới đất thông công cùng các thánh trên trời thể nào ?
T
. Các bổn đạo kính thờ cầu xin cùng các thánh trên trời, mà các thánh bàu chữa cho bổn đạo trước mặt Đức Chúa Trời.

H . Các bổn đạo thông cùng các linh hồn nơi luyện ngục là thể nào ?
T
. Các bổn đạo dưng việc lành phước đức, cầu cho các linh hồn ở luyện ngục: mà các linh hồn ấy khi đã đặng lên thiên đàng, thì cũng bàu chữa cho các bổn đạo nữa.

H . Các bổn đạo còn ở thế gian nầy thông công cùng nhau là thể nào ?
T
. Các bổn đạo có lòng kính mến Đức Chúa Trời cùng thường yêu nhau, thì chẳng những lập công cho mình, song lại làm ích cho kẻ khác nữa.

H . Kẻ mắc tội trọng có đặng thông công thể ấy chăng ?
T
. Những kẻ ấy đã mất nghĩa cùng Đức Chúa Trời thì chẳng đặng thông công thể ấy đâu; song le kẻ ấy còn thuộc về Hội Thánh, thì cậy nhờ việc lành người nhơn đức, cho đặng ăn năn trở lại cùng Đức Chúa Trời.


1944    19-03-2011 07:55:47