Bài 5: CÁC NHÂN ĐỨC
Nhân bản học Kitô Giáo từ nền tảng "mến Chúa yêu người" đã chỉ ra các nhân đức (đức độ của con người) ở cả 2 chiều kích : 'đối nhân' và 'đối thần'. Có 5 nhân đức đối nhân : bác ái, khôn ngoan, công chính, can đảm, tiết độ ; và 3 nhân đức đối thần : Tin, Cậy Mến. Từ đó, giúp Kitô hữu trau giồi, củng cố, phát huy ngày một vững mạnh, trưởng thành hơn lên về nhân bản.
I. NHÂN ĐỨC ĐỐI NHÂN
Các đức tính nhân bản là những xu hướng bền vững, dẫn đến thái độ kiên định và thói quen hướng thiện của lý trí và ý chí ; nhờ đó con người điều chỉnh các hành vi và cách sống của mình theo lý trí và đức tin. Có năm đức tính căn bản : bác ái, khôn ngoan, công bình, can đảm và tiết độ.
I.1. Nhân đức bác ái :
Điều răn quan trọng nhất mà Đức Kitô thường răn dạy là : "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là : ngươi phải yêu người thân cận như chính mình" (Mt 22, 37-39). Bác ái là tình yêu thương rộng lớn giữa Thiên Chúa với loài người và giữa loài người với nhau. Có thể nói nhân đức bác ái bao trùm lên tất cả các đức tính nhân bản. Cứ nhìn vào những trẻ thơ sẽ thấy tình bác ái đẹp biết chừng nào. Chúng yêu thương tất cả mọi người, mọi sinh vật, thậm chí cả những đồ vật nữa. Chẳng thế mà khi nghe các môn đệ thắc mắc ai là người lớn nhất Nước Trời, Đức Giêsu đã trả lời : "Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời" (Mt 18, 3-4). Con người có được nhân đức bác ái như thế, vì nó được khơi nguồn từ Thiên Chúa Tình Yêu. Nó sẽ ngày càng tăng trưởng nhờ vào sự giáo dục, nhất là giáo dục đức tin.
I.2. Nhân đức khôn ngoan :
Khôn ngoan là đức tính giúp ta nhận ra đâu là điều thiện đích thực trong từng hoàn cảnh, và khi đã nhận ra thì biết chọn lựa phương thế thích hợp để đạt tới. Không nên lầm lẫn khôn ngoan với nhút nhát và sợ hãi, né tránh những cam go thử thách, lại càng không thể đồng hóa khôn ngoan với sự tráo trở, giả hình. Nhờ khôn ngoan, con người biết ứng dụng lề luật luân lý vào những hoàn cảnh cụ thể để thi hành điều thiện cách tốt đẹp nhất. ("Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hoà, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình" - Gc 3, 17). Cũng chính nhờ nhân đức khôn ngoan mà con người có thể đoán hiểu được những mạc khải chân lý từ Thiên Chúa, để từ đó có thể trở nên con cái đích thực của Người.
I.3. Nhân đức công chính :
Công bình không phải là cào bằng mọi giá trị (vật chất, tinh thần) của bản thân với tha nhân hay ngược lại. Công bình là nhân đức, nhờ đó con người biết nhận ra cái gì là của mình, cái gì là của anh em, còn cái gì là của Thiên Chúa. Công bình là trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa, và trả cho tha nhân những gì thuộc về họ. Công bình đối với Thiên Chúa được gọi là "nhân đức thờ phượng", còn đối với con người thì công bình là tôn trọng quyền lợi của mỗi người, đối xử công minh với mọi người và thực thi công ích. Con người ngay thẳng chính trực thường có một cái tâm công bình, vì thế xã hội (cả Giáo Hội nữa) coi những người ấy là người công chính (như Thánh cả Giuse, chẳng hạn). Để trở nên người công chính, con người phải biết sống công bằng, ngay thẳng, thành thật ("Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-siêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời" - Mt 5, 20 ; "Người công chính sẽ vui mừng trong Chúa, và ẩn náu bên Người. Mọi tấm lòng chính trực đều lấy thế làm vinh" - Tv 64, 11 ; "Vì trong Tin Mừng, sự công chính của Thiên Chúa được mặc khải, nhờ đức tin để đưa đến đức tin, như có lời chép : Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống" - Rm 1, 17)
I.4. Đức tính can đảm :
Can đảm là kiên trì và quyết tâm theo đuổi điều thiện cho dù có nhiều khó khăn cản lối, có nhiều thử thách cam go ("Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên ! Thầy đã thắng thế gian" - Ga 16, 33). Nhờ can đảm, con người cương quyết chống lại các cơn cám dỗ, vượt qua các chướng ngại trong đời sống luân lý, chiến thắng sự sợ hãi (kể cả cái chết), để dám sống cho chính nghĩa ("Người nói : Hỡi người được quý mến, đừng sợ. Cứ an tâm. Can đảm lên ! Can đảm nữa lên ! Trong khi người nói với tôi như thế, tôi lấy lại được can đảm và đáp lại rằng : Xin ngài cứ nói, vì ngài đã làm cho tôi nên can đảm" - Đn 10, 19). Cũng cần nhấn mạnh can đảm không phải là cứ nhắm mắt làm liều, làm bừa, mà cần phải biết kết hợp với sự khôn ngoan và ơn Chua Thánh Thần soi sáng để nhận rõ mục đích của hành động. Khi đã biết chắc chắn đó là mục đích tốt đẹp mới dũng cảm và kiên cường vượt thắng.
I.5. Đức tính tiết độ :
Tiết độ là biết điều tiết sức lôi cuốn của những lạc thú và sử dụng đúng mức những của cải trần thế. Nhờ đó, con người làm chủ được các bản năng tự nhiên và kiềm chế các ham muốn lệch lạc trong giới hạn chính đáng. ("Hãy khuyên các cụ ông phải tiết độ, đàng hoàng, chừng mực, vững mạnh trong đức tin, đức mến và đức nhẫn nại" - Tt 2, 2). Đức tính tiết độ chính là cách trung hoà các cảm xúc mà Đông phương học gọi đó là thái độ 'trung dung', không thái quá cũng không bất cập, nhờ vậy mà nhận chân được đâu là những dục vọng lệch lạc cần phải kiềm chế, đâu là những lương năng tốt đẹp cần phát huy (lương năng : năng lực lương thiện).
Những đức tính nầy được gọi là nhân bản, nghĩa là thuộc về con người. Đã là người, phải có những đức tính căn bản đó. Nhiều người tuy không có niềm tin tôn giáo nhưng vẫn có những đức tính đáng quý nầy. Người Kitô hữu càng cần phải có những đức tính nhân bản hơn những người khác, vì muốn làm con Thiên Chúa thì trước hết phải sống cho ra người. Có được những đức tính nhân bản trước hết là nhờ ân sủng Thiên Chúa trao ban, sau đó là nhờ giáo dục, sự kiên trì tập luyện và thực hành trong đời sống. Tuy nhiên, tội lỗi đã làm con người bị tổn thương; vì thế, ngoài những nỗ lực tự nhiên, ta còn cần đến ơn Thiên Chúa nâng đỡ nhờ cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích và cộng tác với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần.
II. NHÂN ĐỨC ĐỐI THẦN
Gọi là nhân đức đối thần vì những nhân đức nầy quy chiếu trực tiếp về Thiên Chúa như căn nguyên (xuất phát điểm của các nhân đức), động lực (thúc đẩy thể hiện các nhân đức) và là đối tượng (để thực thi nhân đức). Đối với Kitô giáo, các nhân đức đối thần là nền tảng và linh hồn của toàn bộ đời sống luân lý. Thiên Chúa ban cho ta những nhân đức nầy, để ta có khả năng hành động như con cái Thiên Chúa và đáng hưởng sự sống đời đời. Có ba nhân đức đối thần : Tin, Cậy và Mến (1Cr 13,13).
II.1. Đức tin :
Đức Tin là một nhân đức nhờ đó ta tin vào Thiên Chúa, tin tất cả những gì Người nói và mặc khải, cũng như những gì Hội Thánh dạy ta phải tin. Khởi đầu thì đó chỉ là một niềm tin trước thần linh, nhưng nhờ giáo dục và từng trải, niềm tin ngày một kiên định trở thành một nhân đức : Đức Tin. Đức Tin là một hồng ân nhưng đồng thời cũng là sự đáp trả của con người trước hồng ân của Thiên Chúa (Thánh Âu Tinh : "Nếu mạc khải là con đường Thiên Chúa đến với con người thì đức tin là con đường con người đến với Thiên Chúa, là sự đáp trả của con người trước tiếng nói của Thiên Chúa" (GLHTCG, b. 2). Sự đáp trả ấy mang tính toàn diện nghĩa là của cả lý trí, tình cảm và hành động. Vì thế, đức tin phải được biểu hiện bằng hành động cụ thể, vì "Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết" (Gc 2, 17). Hơn thế nữa, người môn đệ Chúa Kitô còn phải can đảm làm chứng và truyền bá đức tin (GH, 42). Đòi hỏi nầy xuất phát từ chính bản thân của đức tin, và là đòi hỏi cần thiết để được cứu độ. Muốn được cứu độ, phải sống chứng nhân Tin Mừng: Tuyên xưng đức tin trước mọi người, ở mọi nơi, trong mọi lúc ("Ai nhận Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời" - Mt 10, 32-33 ; "Vì trong Tin Mừng, sự công chính của Thiên Chúa được mặc khải, nhờ đức tin để đưa đến đức tin, như có lời chép: Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống" - Rm 1, 17; "Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống khổ như thế" - 1Pr 5, 9).
II.2. Đức cậy :
Cậy trông là đặt hết niềm tin vào một đối tượng, cậy nhờ đối tượng ấy trợ giúp để hoàn thành một tâm nguyện đạt đến cứu cánh vĩnh cửu. Đối tượng duy nhất để cậy nhờ ở đây là Đức Kitô, sự trợ giúp là Chúa Thánh Thần, và cứu cánh chính là hạnh phúc Nước Trời. Vì thế, đức Cậy còn gọi là sự tín thác vào Chúa quan phòng. Như vậy, Đức Cậy là nhân đức nhờ đó ta khao khát Nước Trời, và sự sống vĩnh cửu như hạnh phúc của đời mình, tin tưởng vào các lời hứa của Chúa Kitô, và phó thác vào ơn trợ lực của Chúa Thánh Thần ("Hãy tin vào Người, thì Người sẽ nâng đỡ con. Đường con đi, hãy giữ cho ngay thẳng và trông cậy vào Người" - Hc 2, 6). Con người ta sống không thể không có hy vọng, nếu không nói là người ta sống nhờ hy vọng ("Đức tin là hy vọng" - Tđ SPE SALVI, 3). Nhưng điều quan trọng là hy vọng vào ai, hy vọng cái gì ? Và làm thế nào để đạt tới ? Đối với người Kitô hữu, đích điểm của hy vọng không chỉ là hạnh phúc trần thế, nhưng chính là Thiên Chúa, là Nước Trời và sự sống vĩnh cửu ("lòng tin và lòng mến đó phát xuất từ niềm trông cậy dành cho anh em trên trời, niềm trông cậy anh em đã được nghe loan báo khi lời chân lý là Tin Mừng đến với anh em" - Cl 1, 5). Đồng thời người Kitô hữu ý thức rằng tự mình không thể đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu ấy, nhưng phải nương tựa vào Chúa. Chính vì thế, hy vọng trở thành cậy trông. Đức cậy trông là cái neo chắc chắn bền vững của tâm hồn, là vũ khí bảo vệ ta trong cuộc chiến thiêng liêng, và mang lại cho ta niềm vui ngay giữa những gian truân thử thách ("Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân... " - Rm 12,12). Lời cầu nguyện vừa diễn tả vừa nuôi dưỡng đức cậy trông ("cầu nguyện là nâng tâm hồn và trí khôn lên với Chúa" - GL/HTCG), vì thế ta cần phải đi sâu hơn mỗi ngày vào đời sống cầu nguyện ("Ai quen chịu đựng, thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là trung kiên, thì có quyền trông cậy... Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta" - Rm 5, 4, 5).
III.3. Đức mến :
Đức ái là nền tảng Kitô giáo. Đức ái là đức yêu thương không bờ bến, không giới hạn nhằm đến 2 đối tượng chính yếu : Thiên Chúa và con người ("Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là : ngươi phải yêu người thân cận như chính mình" - Mt 22, 37-39). Đức Mến (cách gọi khác của đức ái) là nhân đức nhờ đó con người yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự vì chính Chúa, và vì yêu mến Thiên Chúa, con người sẽ yêu mến anh em (người thân cận) như chính bản thân mình ("Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" - Ga 15, 12). Đức Mến thúc đẩy ta sống con thảo với Cha trên trời, và là anh em của mọi người ("Lời truyền dạy đó phải nhằm đưa tới đức mến phát xuất từ tâm hồn trong sạch, lương tâm ngay thẳng và đức tin không giả hình" - 1Tm 1, 5). Trong ngôn ngữ Việt Nam, người nhân đức là "kẻ có lòng thương người" và "lòng thương người" là một trong hai đức tính căn bản truyền thống của dân tộc : nhân-nghĩa ; nghĩa là lòng yêu thương được coi như cốt lõi của đạo đức dân tộc Việt Nam. Quan điểm nầy thật gần gũi với Kitô giáo, vì Đức Giêsu đã đặt đức mến làm điều răn mới - điều răn quan trọng nhất.
Đức mến được coi là "mối dây liên kết tuyệt hảo" (Cl 3,14), là linh hồn của mọi nhân đức, sự viên mãn của lề luật, là nguồn mạch và cùng đích của việc thực hành các nhân đức : "Hiện nay đức tin, đức cậy và đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến" (1Cr 13,13). Chúa Kitô chính là gương mẫu cao cả nhất thể hiện đức mến. Người đã chịu chết vì yêu mến con người ngay lúc con người còn thù nghịch với Thiên Chúa. Vì thế, Người mời gọi ta yêu thương như Người (Mt 5,44), yêu cả kẻ thù và đón nhận người bé mọn nghèo hèn như đón nhận chính Người (Mt 25, 40-45). Khi con người đã đón nhận nhân đức cao quý này từ Thiên Chúa, rồi duy trì và phát triển, thì cũng chính là lúc con người vươn tới tự do đich thực, để được hưởng hạnh phúc đời đời bên thánh nhan Thiên Chúa ("Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta, đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người" - 1Tm 1, 14 ; "Quả thế, thưa anh em, anh em đã được gọi để hưởng tự do. Có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt, nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau - Gl 5, 13).
Ngoài ba nhân đức đối thần, Chúa Thánh Thần còn ban các hồng ân và hoa trái thiêng liêng, giúp người tín hữu dễ dàng sống theo sự hướng dẫn của Người. Bảy ơn Chúa Thánh Thần là : Ơn khôn ngoan, ơn thông minh, ơn biết lo liệu, ơn dũng cảm, ơn hiểu biết, ơn đạo đức và ơn biết kính sợ Chúa. Truyền thống của Hội Thánh cũng nói đến 12 hoa trái của Thần Thánh ("Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, hiền hòa, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ và thanh khiết" - Gl 5,22-23).
II. KẾT LUẬN
Nhân đức là một xu hướng thường xuyên và kiên định để làm điều thiện (GL/HTCG). Các nhân đức (đối nhân & đối thần) là những căn tính biểu lộ sự giao hoà giữa Thiên Chúa với con người và ngược lại, đồng thời cũng là sự giao hoà giữa con người với nhau. Tuy tách biệt ra từng nhân đức để dễ học hỏi và phân tích, nhưng thực sự tất cả đều quy về một mối duy nhất : Đức Ái. Đức Ái là hồng ân Thiên Chúa ban tặng con người một cách nhưng không (không cần đáp trả). Khi con người đón nhận hồng ân, tuy không đòi buộc đáp trả, nhưng phải ý thức và sống sao cho xứng đáng với tình thương vô biên ấy. Cũng không phải cứ an an tự tại vui hưởng, mà còn phải tìm mọi phương cách học hỏi, trau giồi cho đức hạnh ngày một trưởng thành và hoàn thiện hơn. Sự đáp trả của con người đối với Thiên Chúa hoàn toàn tự nguyện, nên càng cần phải đem hết linh hồn, hết trí khôn và sức lực ra để thực hiện với niềm hy vọng vươn tới hạnh phúc vĩnh cửu đời sau, chính bởi vì ĐỨC TIN LÀ HY VỌNG.
CÂU HỎI GỢI Ý THẢO LUẬN
1/- Nhân đức là gì ? Những nhân đức con người có được từ đâu ?
2/- Tại sao lại gọi là nhân đức đối nhân ? Có mấy nhân đức đối nhân ?
3/- Đức mến thuộc nhân đức gì ? Đức mến có thể xếp vào nhân đức đối nhân được không ? Cho ví dụ minh hoạ.
4/- Nhân đức khôn ngoan giúp con người đạt được những gì?
5/- Tại sao trước đây ở Việt Nam người ta gọi Kitô giáo là Đạo Bác Ái ?