Sidebar

Thứ Sáu
19.04.2024

Sấm Truyền Cũ_Truyện 11_20


SẤM TRUYỀN CŨ
Truyện Thứ
Mười Một đến Thứ Hai Mươi

TRUYỆN THỨ MƯỜI MỘT
ĐCT CHỌN ÔNG ABARAHAM LÀM ĐẦU DÒNG THÁNH
(Trước giáng sinh 1921 năm)

Sau khi loài người ta lo liệu xây tháp Babêlê, là thành luỹ kẻ ngịch cùng ĐCT, thì ĐCT toan liệu dựng nên thành luỹ cực trọng, là Hội thánh, mà chọn ông Abaraham làm đầu dòng thánh, ở hết lòng cùng ĐCT đời đời chẳng cùng. Vậy ông này ở cùng cha mẹ trong nước Calađêa, là đất kẻ ngoại; khi còn ở đó, thì ĐCT dạy người rằng: hãy đi khỏi đất này, cùng bỏ nhà cha mẹ mà đến ở đất nước Tao đã định; Tao sẽ làm cho mầy nên đầu dòng dõi cực trọng, danh tiếng mà sẽ đặng cao sáng : hễ ai chúc lành cho mày, thì tao chúc lành cho nó ; mà bởi dòng dõi mày thì cả và loài người ta sẽ đặng phước thật.

Ông Abaraham nghe lời ĐCT phán làm vậy, thì trong lòng chẳng chút hồ nghi; liền bỏ đất nước nhà, lại đem cha mẹ trẩy sang nước Mêdophôtamia; ở đó cho đến khi cha mẹ sinh thì. Đoạn ông Abaraham đem bà Sara, là bạn, và ông Lót là cháu mà trẩy đến trong đất Canaan . Khi ông Abaraham đã đến trong nước ấy, thì ĐCT hứa cho dòng dõi người sẽ làm chủ đất ấy. Cho nên ông Abaraham cám ơn ĐCT, mà tế lễ Chúa ở đó.

Khỏi mấy năm, trong đất ấy có đại hạn, thì ông Abaraham cùng vợ con gia tiểu phải qua nước Êgiptô cầu lương. Mà bởi vì bà Sara là người có nhan sắc e hoặc kẻ lớn trong đất ấy có muốn vợ mà giết mình chăng, thì ông Abaraham dặn vợ rằng: khi người ta hởi ta là ai, thì phải xưng mình là em vậy. Vì chưng hai ông bà làm bạn cùng nhau, nhưng mà hãy còn dòng họ. Vậy ai ngờ sự đã lo mà chẳng khỏi: quân nước Êgiptô thấy bà ấy tốt lành liền tâu vua; Vua bèn dạy bắt, đem vào trong đền. Song le ĐCT chẳng bỏ kẻ thật thà có lòng tin cậy Người, nên từ khi vua bắt bà ấy, thì vua cùng cả và cung phi đều mắc phải sự phạt nặng nề lắm. Lâu lâu mới biết bà Sara là vợ ông Abaraham, thì chẳng dám cầm vợ người, liền trả lại, mà trách ông Abaraham rằng: Nhơn sao dấu sự ấy làm chi, chẳng nói trước cho vua hay thậy vợ chồng, kẻo vua lầm?

Ông thánh Amvoloxiô gẫm truyện này mà rằng: Vua ấy là kẻ ngoại đạo mà biết sợ tội là thể nào! chẳng dám cướp vợ kẻ khách khứa nương ngụ trong nước mình. Vậy ngày tận thế, ĐCT sẽ lấy gương vua này, mà phán xét muôn người có đạo dám lấy vợ người ta, lại cầm tội tà dâm cùng vợ người làm tội hèn nhẹ như chơi vậy.

Sau nữa ta phải gẫm về truyện này, ông Abaraham có lòng bền tin ĐCT là bao nhiêu: người nghe một tiếng Chúa dạy, liền bỏ cửa nhà và chốn quen lớn, là nơi thanh nhàn vô sự mà trẩy đến đất lạ lùng xa xác, lền gặp khó nhọc; lại phải sang nước khác nữa, ở giữa quân dữ, chẳng gặp đặng sự gì vui vẻ phần xác, một lòng vui vẻ, vì mình đã theo lịnh Chúa dạy mà thôi. Vậy thì ĐCT cứu ông này khỏi nhiều sự nghèo nàn, có ý làm chứng cho chúng ta biết bền lòng tin cậy ĐCT, thì Người sẽ cứu chữa chúng ta, cùng khiến mọi sự khốn khó trở nên sự vui mầng mà chớ.


TRUYỆN THỨ MƯỜI HAI
ÔNG LÓT LÌA KHỎI ÔNG ABARAHAM

Ông Abaraham ở nước Egiptô, mà đem bà Sara cùng ông Lót trở về nước Canaan, chẳng khỏi mấy năm mới biết tỏ tường, hễ là phú qươí sinh ra sự rối rấm; vì chưng hai ông này ở cùng nhau, thì làm đặng giàu có cả hai, trâu bò chiên dê vô hồi, cho nên kẻ chăn chiên hai nhà nó mới khích báng mắng mỏ nhau, mà giành xứ lấn ngàn, hằng làm nghịch đảng luôn. Vậy ông Abaraham hay đặng sự hỗn hào làm vậy, thì chịu chẳng đặng lại e khi đầu đầy tớ mắng nhau, đến sau chủ nhà lại mất lòng chăng thì người liệu lẽ hoà thuận, liền kêu ông Lót đến mà rằng: đầy tớ nhà ta với đầy tớ nhà cháu, nó làm nghịch cùng nhau, là sự chẳng phải lẽ; ta là anh em mà làm thinh để vậy, ắt sau sinh sự tệ, nên phải lo toan trước, rày cháu muốn chọn nơi nào, mặc ý cháu; bằng cháu đi bên tả, thì ta đi bên hữu, vì lòng ta muốn cho đặng sự thuận hoà, một ước ao bấy nhiêu mà thôi. Ông Abaraham nói lời khôn ngoan nhơn đức dường ấy, lẽ thì ông Lót phải nghe, mà sửa dạy đầy tớ mình, hơn thà lìa nhau một tấc; song le ông ấy vô tình lắm, nghe lời ông Abaraham nói vậy, liền đi đàng khác, thật là liều mình ngày sau phải trăm ngàn sự khó. Lại ông ấy chẳng có lấy trí khôn mà suy xét, chọn nơi nào nên mà ở, một ghé con mắt xem thấy đất kia có địa thế vui vẻ, liền xăm xăm tìm đến thành Sôđôma, là đất kẻ quái gở.

Ông thánh Amvoloxiô gẫm rằng: trong truyện này có hai sự trọng lắm, ta phải gẫm: một là phải ghét sự kình địch, khi đầu mới gầy, và lo liệu cho kíp, kẻo sanh ra sự lớn; hai là chủ nhà chẳng nên nghe lời đầy tớ học lại trước mà tin, một phải xét lẽ cho lắm, vì có nhiều lần đầy tớ muốn cho có sự dức lác giành xé cùng người ta làm vậy, cho chủ nhà càng yêu dùng nó.

Sau nữa, truyện ông Lót này là gương dạy dỗ kẻ còn nhỏ tuổi, thì chẳng nên bỏ kẻ khôn ngoan có lòng thương mình, như cha mẹ thương con; mà khi mình theo ý riêng làm vậy, thật trọn đời chẳng khỏi mắc phải muôn sự khốn khó. Thật ông Lót vốn là người nhơn đức, song le xem thấy ông này tìm đến ở làm một cùng quân thành Sôđôma, thì ai mà chẳng sợ hải? phải chi ông ấy ở cùng ông Abaraham trọn đời, ắt là khỏi mọi sự khốn dường ấy.


TRUYỆN THỨ MƯỜI BA
ÔNG ABARAHAM CỨU LẤY ÔNG LÓT
(Trước giáng sinh 1913 năm)

Khi ông Lót lìa khỏi ông Abaraham, mà đến ở thành Sôđôma, chẳng ngờ thuở ấy có bốn vua giáp cõi xung quanh, cất binh đến phá phách các xứ trong nước ấy; cho nên vua thành Sôđôma phải đem quân ra cự địch, và có bốn vua khác đem binh ra cứu viện, thì cũng chẳng làm chi đặng, một phải thua chạy mà chớ. Vậy bốn vua kia thắng trận đem binh thừa thế vào thành Sôđôma, thâu lấy vàng bạc quí vật kễ chẳng xiết; lại bắt đặng ông Lót làm tôi tá, và cướp lấy gia tài tận tuyệt. Đang khi hỗn độn làm vậy, có một người chạy đến cùng ông Abaraham, nói cho người đặng hay, cháu người đã phải giặc bắt làm tôi tá, thì ông Abaraham thương xót chẳng chấp sự dụng dại thuở trước, một lo lẽ nào mà cứu cháu cho kíp. Vậy ông ấy đem ba trăm mười tám người quân trong nhà, là những người mạnh mẽ có tài trí, ruổi đến cứu ông Lót. Ngày ấy quân giặc đang thì đắc thế, chẳng quan phòng, nên ông Abaraham toan mưu thiết kế xuất kì bất ý công kì vô bị, đem quân lén vào đánh áp, quân giặc trở tay chẳng kịp phải thua vỡ chạy; bởi vì ông này có lòng cậy Chúa, thì đặng trận, và giết nhiều người, lại đuổi giặc trôi như nước lụt chảy xuống. Vậy ông Lót mới khỏi tay quân dữ, lại đặng của cải mình, chẳng mất giống gì.

Vua thành Sôđôma nghe đặng ông Abaraham dẹp giặc, vua liền ngự đến mà tạ ơn người mà rằng: ơn ông đã chữa nước nghèo khỏi loạn, cứu sinh linh khỏi nước lửa, lại thâu đặng vàng bạc của cải chẳng mất, thì bao nhiêu của ấy, xin ông hãy lấy; trẫm xin dâng mà thôi. Song le ông Abaraham chỉ tay lên mà rằng: Chúa tôi ngự trên trời làm chứng cho tôi, dầu mà một vật gì rất hèn, thì tôi cũng chẳng lấy, kẻo ngày sau người ta rằng: tôi giàu bởi của thành Sôđôma. Vậy người chẳng lấy một vật gì sốt.

Khi ấy ấy có vua thành Giêrusalem, tên là Mêchixêđét cũng là thầy đạc đức thờ phượng ĐCT, mà đến rước ông Abaraham, và đem của lễ cho người, là bánh với rượu nho (sự này nên ví dụ ĐCG ngày sau để truyền phép Thánh Thể) thì ông Abaraham kính vua ấy lắm, lại xin chúc cho mình. Thì vua ấy cám ơn ĐCT đã giúp cho ông Abaraham khỏi mọi sự dữ, lại đặng trận cực trọng trước mặt ĐCT và trước mặt thiên hạ.

Ông thánh Amvoloxiô gẫm rằng: khì ông Abaraham đánh đặng trận, chẳng phải là việc trọng lắm, bằng việc cực trọng người làm, là khi từ chối chẳng khấng lấy của lễ vua Sôđôma. Vậy gương này dạy dỗ các giáo hữu phải yêu nhau vì Chúa, chẳng phải vì của thế gian đâu: dầu mà nên công nghiệp thì phải biết nếu mình đặng giúp người thì là bởi ĐCT giúp mình trước; cho nên phải cám ơn ĐCT mà chớ, lại trông ước cho mình đặng ở hết lòng cùng Chúa trọn đời.

 

TRUYỆN THỨ MƯỜI BỐN
BÀ SARA CHỊU THAI
(Trước giáng sinh 1897 năm)

Khi ông Abaraham đánh giặc đoạn trở về nhà, thì ĐCT dạy người chịu phép cắt bì, nên dấu riêng làm chứng mình là dân ĐCT đã chọn. Một khi ấy ĐCT lại hứa cho vợ người, là bà Sara, chẳng khỏi bao lâu sẽ sinh đặng con trai, mà nên dòng dõi nhiều vua và đông thiên hạ. Ông Abaraham nghe tin mừng làm vậy, thì cúi đầu xuống mà rằng: tôi đã một trăm tuổi, vợ tôi cũng đã chín mươi tuổi, còn có lẽ gì đặng sinh con? Song khi ấy Thánh Thiên Thần nói khó cùng người mà bảo rằng: chờ có hồ nghi làm chi lời Chúa phán là lời rất thật, chẳng có lẽ hư từ đâu. Vậy khỏi mấy ngày, có một lần đang khi giờ ngọ, ông Abaraham ngồi trước cửa, nơi thanh mát, lại xem thấy ba đức thánh Thiên Thần hiện đến; người ngờ là khách thứa nào liền rước vào nhà nghỉ ngơi, mà dọn tiệc khuyên mời ăn. Đoạn ba thánh Thiên thần hỏi ông Abaraham rằng: Nào bạn ông ở đâu. Vì chưng bà ấy là người có nết na nhiệm nhặt, chẳng hay ra trước mặt khách thứa lạ lùng, một ở trong nhà, xem sóc đầy tớ; hằng sửa đang việc bề ngoài, thì để mặc chồng. Sau nữa thánh Thiên thần truyền rằng: Mùa này bà Sara sẽ sinh đặng con trai, mà mừng rỡ bội phần, phải đặt tên con là Egiác nghĩa là mừng rỡ.

Các thánh sư gẫm rằng: hai ông bà này đã nên gương phước và hai: Ông Abaraham đi rước khách vào đổ nhà lại dọn tiệc thết đãi, ấy là gương phước người đờn ông; bà Sara ở trong nhà, mà chẳng ra khi thánh Thiên thần đến, ấy là gương dạy dỗ các người nữ phải ở nghiêm kín là thể nào.


TRUYỆN THỨ MƯỜI LĂM
QUÂN THÀNH SÔĐÔMA PHẠM TỘI TRỌNG

Khi ba thánh Thiên thần hãy còn ở nhà ông Abaraham, thì nói cùng ông ấy cho đặng hay. ĐCT đã hòng phạt thành Sôđôma, vì chưng kẻ đất ấy đã phạm tội quái gở, như tiếng kêu đến tai ĐCT. Thiên thần nói đoạn, liền giã ông Abaraham, mà đi thành Sôđôma. Vậy ông Abaraham cầu xin ĐCT tha tội cho quân ấy, nhưng mà ĐCT chẳng nghe bởi cả và thành chẳng đặng mười người nhơn đức, đã cứng lòng phạm tội hết. Khi ông Abaraham mới biết ý ĐCT sai Thiên thần lấy hình người trẻ, mà hiện đến chẳng phải phàm nhơn, người đến thành Sôđôma ban hôm, để hòng phạt cả và dân ấy.

Lại nói ông Lót là kẻ đã học hành nhơn đức cùng ông Abaraham, khi nghe tin có hai người nhơn đức đã đến thành Sôđôma, thì đi đón rước về nhà mình, xin nghỉ một đêm, mai sẽ tới. Khi hai thánh Thiên thần đã vào nhà ông Lót, thì ông ấy làm tiệc lớn ăn mừng dọn dẹp nhiều đồ lịch sự, và có lòng cung kính kẻ đến nhà mình. Đoạn khi đã đi nghỉ liền có quân thành Sôđôma đến gõ cửa toan hãm hiếp làm sự gian ác hai thánh Thiên thần. Ông Lót thấy sự làm vậy, thì lo buồn lắm, mà ra khuyên nài rằng: chớ có làm sự trái hãm hiếp khách đã đến nhà tôi, nếu phô ông làm hại, ấy là làm hại tội thật. Song nó cũng chẳng nghe, một nhiếc đáp ông ấy rằng mày là khách thứa, ở đổ trong đất mới qua; mày có phép gì mà cấm mới qua đặng? đoạn nó mới khiến phá cửa ra. Vậy ông Lót liền chạy vào, tức thì hai thánh Thiên thần khoá cửa lại kín, kẻo nó vào đặng. Người lại phạt nó tối mắt, chẳng thấy đàng đi; song le nết quái gở nó chẳng chừa, một đi thơ thẩn tìm cửa mà vào.

Ông thánh Ghêlêgoriô Giáo tông gẫm rằng: quân thành Sôđôma này là ví dụ kẻ có lòng ghen ghét, bỏ vạ cáo gian người; nó lấy cả và sức trí mình, toan làm khốn cho kẻ lành; mà bởi nó có lòng u mê dại dột, càng lo chước làm hại kẻ khác, thì ra làm hại cho xác và linh hồn mình, như quân lia khiến làm hại nhà ông Lót, nhưng mà đã có cửa phên vách kín đáo bốn bề vào chẳng đặng; cũng một lẽ ấy, kẻ nào bỏ vạ cho kẻ nhơn đức, thì sự nhơn đức người là như thành luỹ chấn xung quanh; cho nên làm hại người điều gì, thì càng ra sáng danh ĐCT, lại càng ra sự xấu hổ cho kẻ bỏ vạ cáo gian mà chớ.


TRUYỆN THỨ MƯỜI SÁU
CHÚA ĐỐT THÀNH SOĐÔMA

Hai thánh Thiên thần cứu ông Lót đoạn, thì người mới nói cho ông ấy đặng hay, người là đấng ĐCT sai xuống mà phạt cả và thành Sôđôma. Người lại khiến vợ chồng ông Lót và con cái lui ra cho chóng kẻo phải khốn duồng. Bây giờ ông Lót đến nói cùng hai rể sự làm vậy cho đặng làm vậy cho đặng lo trước; song le hai rể cười rằng: ông nói những lời lẩn khuất, biết là có cùng chăng. Vậy nó chẳng nghe lời người bảo. Đến sớm mai thánh Thiên thần giục ông Lót ra cho chóng: nhưng mà ông ấy lẫn thẩn chẳng muốn ra, vì cũng có lòng triều mến của nhà.

Sự này nên ví dụ cho kẻ có tội, khi đấng thay mặt ĐCT khuyên dạy phải chừa, thì hay lần lựa, chẳng muốn chừa, một đợi ngày giờ Chúa phạt mà thôi. Khi ấy đức thánh Thiên thần kéo tay ông Lót ra, giục đi cho kíp; ấy là gương kẻ giử việc nhà ĐCT phải bắt chước mà giục bảo người ta lánh đàng trái , như ép kẻ có tội tránh cho khỏi sự tội lỗi.

Hai thánh Thiên thần dặn ông Lót rằng: chớ có trở mặt lại xem sau lưng làm chi, lời ấy cũng như một ý như lời ĐCG phán rằng: hễ ai đã cầm lấy cái cầy, thì cầy cho ngày đàng; nến trở mặt mà xem sau lưng, thì chẳng nên nghề làm ruộng; nghĩa là kẻ theo đàng phước đức, mà hãy còn theo sự thế gian, thì chẳng nên giống ngày sau đặng phước trên nước Thiên đàng.

Lại nói ông Lót đã đi theo thánh Thiên thần đến chốn khác ở nơi vắng vẻ, mà hãy còn sợ, thì xin đức thánh Thiên thần làm phép cho đặng ẩn mình nơi thành mọn kia, đoạn mới dám đến mà nương ngụ. Sự ấy là ví dụ cho nhà tu hành, kẻ có tội muốn tránh thói thế gian, thì phải đi tìm chốn vắng vẻ mà ở, kẻo ở nơi xao xuyến một mình , hoặc là giữ mình chẳng đặng chăng. Vậy đang khi ông Lót vào thành ấy, đoạn liền có mưa lửa sinh lửa diêm bởi trời xuống đốt cả và thành Sôđôma, cùng cả và xứ xung quanh đó, nhơn cùng vật tiêu tan hết. Khi ấy vợ ông Lót nghe tiếng lửa cháy nổ ra, thì quên lời thánh thiên thần dặn, liền trở mặt lại mà coi; bỗng chúc thân mình bà ấy trở nên cứng như đá, và chết đứng nơi đó. Sự này nên dấu tích cho kẻ đời sau đặng biết, phải vưng lời Chúa, chẳng nên xem xét việc Người làm là thể nào.

Mà khi ông Lót ở trong thành mọn kia, thấy đã cháy cả xứ và tan tác hết, liền e thành mọn ấy lại phải lửa tràn đến mà cháy nữa chăng, thì lại đem hai con đi ẩn mình, liền vào trong hang đá.

Bấy nhiêu phép lạ này, ĐCT làm mà cứu lấy một người nhơn đức, làm chứng cho ai nấy đặng tin cậy ĐCT, Người sẽ cứu phần xác phần hồn chúng ta cho khỏi mọi sự dữ cũng như làm vậy.

Bằng quân thành Sôđôma, là kẻ mê tà dâm xấu xa, mà ĐCT phạt nó bằng lửa cháy bởi trời xuống đốt, thì thậm phải lắm; vì chưng lửa sinh lửa diêm là giống hình lửa hoả ngục; lại Người lấy lửa mà phạt tội tà dâm, bởi tội ấy là giống tính máu sốt nóng nảy chẳng an, lại sinh ra mùi hôi hám, thì mới xứng tội ấy là sự tanh nhơ gớm ghiếc ĐCT phạt trọng hình làm vậy,nhưng mà người thế gian bao giờ nhãn tiền thì mới sợ và chịu khốn. Song le sự con mắt chưa xem thấy, dầu đã biết, thì cũng dễ ngươi, như hai rể ông Lót nhạo cười, khi ông ấy bảo sự thành Sôđôma phải khốn. Ví bằng ĐCT đã phạt quân này nặng nề làm vậy, thật là ĐCT sẽ phạt kẻ có đạo mà chẳng giữ, thì quá hơn quân này bội phần, như lời ĐCG đã phán trong Êvang. Vậy ai nấy có lẽ mà sợ lắm; nên phải suy lời ông thánh Bênađô rằng: người thế gian thấy ĐCT phạt mà chẳng hay chừa, rày hãy còn dấu tích tội quái gở này nhiều nơi: ĐCT đã phạt một lần tỏ tường cho kẻ mắc tội đặng biết, nếu chẳng chừa thật, rày mai chẳng khỏi lửa sinh diêm đốt, chẳng những đốt xác, mà lại đốt linh hồn đời đời chẳng cùng.


TRUYỆN THỨ MƯỜI BẢY
BÀ SARA SINH ĐẶNG CON
(Trước giáng sinh 1896 năm)

Đã đến kỳ ĐCT hẹn, thì bà Sara già cả mà sinh đặng con trai, đặt tên là Egiác, nghĩa là làm cho cha mẹ vui mầng. Vậy sinh ra ông Egiác khỏi tám ngày, thì chịu phép cắt bì, như lịnh ĐCT truyền dạy ông Abaraham thuở trước. Lại nói bà Sara, bởi có lòng thương mến con, thì chẳng phú cho kẻ khác nuôi; sự này để dạy dỗ các đờn bà có con phải lấy sữa mình chịu khó mà nuôi con.

Ông thánh Amvoloxiô gẫm rằng: hễ đờn bà chẳng muốn lấy sữa mình mà nuôi con, thì đặng nữa phần làm mẹ, hãy còn thiếu nữa phần nữa mới đủ, vì chưng hữu sinh vô dưỡng. Nhơn vì sự ấy ĐCT đã cho mình có sữa để cho biết mà nuôi con, chẳng khá làm biếng mà nấy cho kẻ khác nuôi; bởi sự ấy cho nên đến ngày sau con khôn lớn thì nó chẳng mến mẹ cho lắm, mẹ cũng chẳng thương con cho mấy, cho bằng có công khó nhọc một hai năm bồng ẵm.

Lại bà Sara mới sinh con, mà chẳng có ăn mầng, để cho đến ngày thôi bú, thì hai ông bà mới mầng tiệc lớn ăn mầng. Sự này nên ví dụ các thầy đạc đức giữ việc trong Hội thánh, khi thấy các giáo hữu hãy còn yếu đuối trong lẽ đạo, thì trong lòng các thầy những lo lắng, chẳng khi đừng. Mà khi các giáo hữu đã nên mạnh đạo, chẳng còn phải lấy những lẽ sợ hãi dạy dỗ nữa, vì đã đặng lòng kính mến Chúa trên hết mọi sự, và vững vàng tin cậy, thì các thầy mới vui mầng bội phần. Lại khi ông Egiác đã lớn, mà trong nhà ông Abaraham có một đầy tớ cũng đã sinh đặng một con trai đã lớn, thì thằng ấy chơi ác trêu chọc ông Egiác, vì nó có lòng ghen ghét con người lắm. Vậy bà Sara xin ông Abaraham đuổi hai mẹ con nó đi cho khỏi, kẻo ngày sau sinh sự tệ, mà ra hỗn ẩu trong nhà người chăng; thì ông Abaraham liền nghe mà đuổi đi.

Ông thánh Phaolô cắt nghĩa truyện này rằng: con bà Sara ấy là ví dụ kẻ có đạo, tin cậy ĐCG liền đặng phần phước đức tin, nên con ông Abaraham; thằng kia phải đuổi đi, nó là ví dụ quân Giudêu và các người dữ, những kẻ ghen ghét trêu chọc kẻ lành; nó một phải đuổi đi mà chớ, chẳng đặng phần phước gì cùng con ĐCT. Vậy kẻ có đạo xem thấy mình gặp sự gì khốn khó, bởi tay người thế gian thì phải vui mầng; ấy là dấu thật mình đã đặng phước, như lời ĐCG phán rằng: ai chịu khốn khó vì đạo ngay ấy là phước thật. Bằng những kẻ dữ, hoặc nó sẽ ghen ghét kẻ lành cho hết đời này; song le đế đời sau, nó phải đuổi đi, nghĩa là chẳng đặng vào trong nhà ĐCT. Mà kẻ lành thì đặng phước bằng an thật, ở trong nhà Chúa đời đời chẳng cùng, không còn phải sự gì khốn khó nữa.


TRUYỆN THỨ MƯỜI TÁM
ÔNG ABARAHAM TẾ LỄ CON MÌNH CHO ĐCT
(Trước giáng sinh 1859 năm)

Khi ông Egiác đã đến tuổi cả, ĐCT muốn thử lòng ông Abaraham, để cho ông ấy biết lòng mình, và cho kẻ hậu lai biết lòng nhơn đức chịu luỵ ĐCT là dường nào. Vậy ĐCT dạy đem một người con rất thương mến, là ông Egiác đi trên núi kia, hòng giết đi mà tế lễ ĐCT. Thuở ấy ông Egiác nên ba mươi bảy tuổi. Ông Ababraham nhớ lời ĐCT đã hứa ngày trước rằng: con mình sẽ nên tướng dòng dõi cực trọng ngày sau sinh Chúa Cứu Thế; mà rày lại nghe lịnh ĐCT dạy phải đem con đi giết, thì chẳng biết ý nào; song le chẳng dám phàn nàn cải lịnh Chúa, một bền tin lời Chúa hứa thuở trước, và chịu luỵ lịnh Chúa dạy bây giờ nữa: ông ấy giấu diếm việc mình toan làm, đến sớm mai hai cha con với đầy tớ, cầm gươm cùng củi và lửa, mà đem nhau đi hai ngày đàng, mới đến núi kia quyết một lòng phú mọi sự ở tay Chúa chẳng dám tiếc con, cùng chẳng dám lo ra một chút. Sáng ngày thứ ba đến nơi, thì khiến đầy tớ ở xa cho khỏi, còn hai cha con lên trên đảnh núi cao,ông Egiác thì vác củi. Sự này nên ví dụ ĐCG vác thánh giá lên trên núi Calavariô; ông Abaraham cầm gươm cùng lửa, nên ví dụ ĐC Cha có lòng thương xót chúng ta, lại có lòng sửa phạt tội lỗi, bởi ấy thì phú ĐCG chịu chết vì chúng ta.

Mà khi hai cha con trèo lên núi, thì ông Egiác hỏi cha rằng: gươm cùng củi và lửa đã sẳn, nào con thịt tế lễ ở đâu? Ông Abaraham rằng: con đừng lo điều ấy làm chi, hãy đến đây, ĐCT sẽ lo liệu cho có mà tế lễ. Vậy đến chốn ĐCT đã chỉ, thì ông Abaraham đặt bàn thờ đá, mà chất củi đơm, đoạn trói con lại, để nằm trên đống củi; liền rút gươm giơ lên đã hòng ra tay. Chẳng ngờ bỗng chúc có một thánh Thiên thần bởi trời hiên xuống, cầm lấy lưỡi gươm ngăn lại mà rằng: chớ giết con làm chi bấy nhiêu điều làm chứng ông đã có lòng chịu luỵ ĐCT, thì thôi. Nói đoạn khi ấy có một con chiên đang mắc gai trong bụi, vậy thánh Thiên thần dạy bắt lấy nó mà tế lễ ĐCT. Truyện này nên ví dụ ĐCG chịu chết trên cây thánh giá vì tội chúng ta, đoạn Người sống lại, thì mới nên đầu cội rễ các giáo hữu phải tin cậy, bởi công nghiệp Máu Thánh Người làm cho ta đặng mọi sự lành.

Ông thánh Gioan Kim Khẩu thánh sư dạy rằng: sự này là gương dạy kẻ đời sau, hễ cha mẹ thì phải để con mình mà tế lễ ĐCT, nghĩa là phải lo lắng cho con vâng giữ phép đạo, chớ có lấy lòng thương quá lẽ, duông con theo thói thế gian. Lại nói ông Abaraham đem con một người mà đi tế lễ ĐCT, mà muôn vàn giáo hữu thì bỏ con hay là ép lòng con nghịch ý ĐCT, cho đặng sự sang trọng vui vẻ ở đời. Hoặc con muốn giúp việc Hội Thánh, mà cha mẹ ham hố của cải, cầu quờn tước, thì chẳng chịu tế lễ con mình cho ĐCT. Ai thấy điều làm vậy mà chẳng sợ? vì chưng cha mẹ ở thói ấy, thì phạm hai tội cực trọng, một là giết linh hồn mình, hai là giết linh hồn con.


TRUYỆN THỨ MƯỜI CHÍN
BÀ SARA SINH THÌ

Ông Egiác trở về cùng cha mẹ, thì hai ông bà càng đặng mầng hơn trước, và kính mến ĐCT hơn nữa. Khỏi ít lâu bà Sara đến một trăm hai mươi bảy tuổi, mới sinh thì. Ông Abaraham thương tiếc khóc lóc, đoạn lo liệu kiếm đất mà trợ táng vợ. Vậy ông ấy đến thưa kẻ lớn trong nước, mà rằng: Tôi là khách thứa, xin phép ông cho tôi cất mồ mả bạn tôi trong đất này. Kẻ lớn nước ấy thấy người rất khiêm nhượng, liền thương, cho người chọn chốn nào đẹp ý thì mặc lòng người. Song le ông Abaraham chẳng muốn chịu lấy ơn người hư không làm vậy, một khiến trả bạc mà mua đất ấy, nài xin kẻ có đất chịu lấy của mình. Vậy mới mua đặng một vườn có hang đá, mà cất xác bạn. Đến ngày sau trối lại cùng con cái xin cất xác mình ở đó nữa.

Các thánh gẫm rằng: ông Abaraham có lòng chê bỏ mọi sự thế gian là thể nào! ĐCT đã hứa cho người làm chủ đất ấy, nhưng mà trọn đời người chẳng hề lo ra cho đặng kiếm lấy chốn nào nên vườn tược mình, một lo lắng mà chuộc một chốn đất vừa cất xác vợ chồng con cái mà thôi.

Ông thánh Phaolô khen người rằng: phần xác ông này hãy còn ở thế gian, mà phần linh hồn đã lên trời, nhìn lấy Thiên đàng làm quê vức, cầm chốn thế gian là như qua đàng vậy. Đang khi ĐCT toan liệu cho người đặng miêu duệ dòng dõi rậm rạp như ngôi sao trên trời, đầy dẫy như hột cát dưới biển, thì người những lo lẽ nào đẹp lòng ĐCT lấy làm hơn; bằng mọi sự thế gian, thì coi như rác, có một lòng ngợi khen trông ước nước Thiên đàng mà thôi.


TRUYỆN THỨ HAI MƯƠI
ÔNG EGIÁC CƯỚI VỢ
(Trước giáng sinh 1856 năm)

Khi ông Abaraham đã già cả mới toan tính cưới vợ cho ông Egiác; nhưng mà chẳng khấng cưới vợ ngoại cho, nên phải đi đất nước người, kiếm con gái nhà có đạo hay thờ phượng Chúa. Vậy người khiến đầy tớ khôn ngoan thật thà, hay các việc cửa nhà bấy đã tin dạ, mà sai đi trong nước Mêdôphôtania. Song le ông Abaraham trước đã bắt đầy tớ thề rằng: sẽ lo liệu giúp việc này cho nên. Đầy tớ ấy, tên là Eliedê, liền vưng lời mà đi. Khi đến nơi, thì cầu nguyện xin cùng ĐCT soi sáng lòng mình cho biết con gái nào ĐCT đã định, lại xin làm dấu gì bề ngoài cho hản, kẻo lầm phải kẻ khác. Đang khi cầu nguyện làm vậy, thì vừa gặp bà Rêbecca là người nữ đồng trinh tốt lành lắm, hãy còn cháu ruột ông Abaraham; lại phải khi bà ấy ở trong thành ra gánh nước mà về nhà. Thì đầy tớ ông Abaraham khát nước, xin cùng bà ấy. Bà ấy liền cho dịu dàng có lòng thảo lắm. Êliedê liền lấy sự ấy làm dấu người nữ này ĐCT đã định làm bạn ông Egiác. Vậy bà ấy đặng phước vào dòng ĐCG, khi đầu hết, vì có lòng thảo thương đến kẻ khách thứa. Đoạn Êliedê hỏi rằng: Bà là con nhà ai? Bà Rêbecca thưa rằng: Tôi là con ông Bathê, hãy còn cháu ông Abaraham. Bấy giờ Êliedê mới xưng mình là đầy tớ ông Abaraham; Rêbecca nghe làm vậy, liền mời ông Êliedê về nhà. Đến nơi Êliedê mới kể những ơn ĐCT đã làm cho quan thầy mình nên kẻ trưởng giả phú quới, rài sai mình làm sứ đến đây, dám ngỏ lời cùng chủ nhà này, xin gả con ái cho con thầy mình. Vậy họ hàng bà ấy nghe đặng sự tình, liền mừng rỡ bội phần, dọn yến tiệc sinh lễ, mà gả Rêbecca cho ông Egiác. Khi ấy người sứ mới đem lễ vật, trâm chuỗi, bạc vàng của tốt, trao cho bà ấy và xin đưa dâu cho kíp. Thì chủ nhà sắm sửa đưa con trẩy về nhà chồng. Khi đã đến gần nhà, bèn gặp ông Egiác ngoài đồng nơi vắng vẻ mà nguyện gẫm. Bà Rêbecca liền biết thật ông Egiác là chồng mình, thì lấy khăn mà phủ đầu mình, làm chứng yêu chuộng sự sạch sẽ lắm.

Ông thánh Amvoloxiô rằng: truyện này là gương kẻ muốn lấy vợ chồng phải xem mà bắt chước, nhà con trai phải chịu khó đi xa tìm xứ khác cho đặng cưới vợ có đạo, chẳng thà lấy vợ gần gũi, giàu có , lịch sự, mà ngoại đạo; nhà con gái chẳng luận tài hoá ít nhều, một lo cho đặng làm bạn người nhơn đức. Vậy dầu con trai con gái, khi muốn lấy vợ chồng, cũng phải cầu nguyện cùng ĐCT cho lắm, kẻo lầm phải người nào xấu nết, mà ngày sau phải khốn nạn. Sau nữa bà Rêbecca lấy khăn che mặt, khi đã hòng đến cùng kẻ làm bạn với mình, sự này nên gương cho con gái phải ở nghiêm kín là thể nào. Chớ có muốn trau tria làm tốt, cho người ta phải lòng làm chi; một lo giữ mình sạch sẽ, chẳng những là việc làm bề ngoài, lại phải giữ tính nết bề trong nữa, thì mới đặng vào dòng dõi ĐCG, là Chúa đã muốn xuống thế bởi người nữ đống trinh. Cho nên kẻ lấy vợ chồng phải yêu chuộng sự sạch sẽ trọn đời cho đến chết.


1427    17-03-2011 08:21:52