Sidebar

Thứ Năm
25.04.2024

Sấm Truyền Cũ_Truyện 121_130


SẤM TRUYỀN CŨ
Truyện Thứ Một Trăm Hai Mươi Mốt đến Thứ Một Trăm Ba Mươi

TRUYỆN THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI MỐT
ĐCT LÀM PHÉP LẠ CHỮA VUA ÊDÊ KIA

Đang khi vua Êdêkia làm những việc phước đức thờ phựơng ĐCT thể ấy, thì vua nước Axiria, tên là Xennakêríp, toan cất binh đến đánh nước Giuđêa, bắt nộp thuế nặng hơn trước nữa. Vua ấy nhắn vua Êđêkia mà rằng: Ta đã hũy diệt cả và nước Isarae, và các nước xung quanh, cùng các nước phương xa: huống chi rày còm một chúc nước Giuđêa, nào có lẻ gì cho khỏi tay ta? Vua ấy lại thêm rằng: Hoặc là Vua Giuđêa cậy thế ĐCT sẽ giúp nó chăng, nhưng bụt thần, các nước thờ phượng, chẳng có sức mà cứu các nước ấy, cho khỏi tay ta sát hại. Cũng một lẽ ấy, ĐCT chẳng có sức mà cứu vua nước Giuđêa cho khỏi phép ta, các nước phải phá tan thể nào, thì bây giờ nước Giuđêa cũng phải như vậy. Vua Êdêkia nghe những lời kêu ngạo dể ngươi làm vậy, thì vua lo buồn mặt áo nhặm, kêu thánh tiên tri Ixaia mà rằng: Tôi lo buồn lắm, chẳng biết suy lẽ nào, tôi chẳng khác chi như đờn bà đã đến giờ sinh đẻ, mà chẳng có sức chịu đặng: xin thánh tiên tri kêu van cùng ĐCT, vì chưng quân nầy để ngươi tôi thì chớ, nó lại để ngươi ĐCT quá lẽ, chịu làm sao đặng? Vậy ông thánh tiên tri Ixaia đến cùng vua mà tâu rằng: Vua chớ lo buồn sợ hãi làm chi, quân giặc nầy chẳng hề phá đặng thành Giêrusalem đâu, ĐCT phép tắc vô cùng, một ít nữa người sẽ phá và quân và khí giới nó tan tác; mà người bắt nó trở về nước nó như xỏ mũi trâu mà dắc đi vậy: thì nó sẽ phải xấu hổ nhuốc nha, mà trốn trở về đất mình. Vua Êdêkia nghe lời thánh tiên tri dạy, thì mới vào trong nhà thờ ĐCT mà cầu nguyện rằng: Lạy Chúa tôi, xưa nay Chúa trị dân Isarae; chúa tôi là chúa cả trên hết các vua chúa thế gian, tôi xin Chúa tôi lắng tai mà nghe lời kẻ hèn mọn kêu van khóc lóc; xin Chúa tôi ghé mắt xem quân nầy nó dể duôi là thể nào. Nó cậy mình vì nó đã bỏ bụt thần các nước vào lửa mà đốt cháy như củi; vì chưng giống ấy là giống hèn, tay người thế gian bày tạo mà ra song le nó dám vì Chúa tôi, là Chúa trời đất muôn vật, với giống hèn mạt làm vậy. Xin Chúa đoái thương mà cứu lấy danh thánh Chúa, kẻo nhẹ thể danh Chúa tôi và hổ cho kẻ thờ phượng Chúa tôi.

Thánh tiên tri Ixaia cùng cả và dân đều gắn vó nài xin cùng ĐCT. thì người bỏ chẳng đặng lời kẻ khiêm nhượng. Vậy nội đêm ấy vua nước Axiria cất binh đến đóng trước mặt thành Giêrusalem, chờ sớm mai thì hãm thành, chẳng ngờ ĐCT sai một Thiên Thần vào trại nước Axiria mà giết hết một vẹo tám muôn năm ngàn quân nó. Vậy sớm mai vua nước Axiria thấy muôn vàn binh đã phải giết, thì kinh khủng rụng rời, liền mới bỏ của cải đó mà chạy về kinh đô nước mình, là thành Ninivê. Mà đến đó, thì cũng phải phạt, vì chưng hai con trai vua ấy chận vua mà giết, đang khi vua tế lễ bụt trong chùa.

Ai nghe truyện nầy mà chẳng sợ? ĐCT phá muôn vàn quân ngụy, mà dùng một thánh Thiên Thần, thì thánh Thiên Thần ấy lại chẳng giết vua, để cho con cái nhà vua giết vua, cho chết xấu hổ hơn nữa.

Vậy truyện nầy dạy kẻ lớn trong thế gian, chớ có lòng kiêu ngạo, cậy sức mình, mà dể ngươi ĐCT. Thuở xưa Người phạt vua Pharao là vua nước Êgíptô, người dùng các giống sâu bọ, là vật hèn mà phạt vua; rày Người dùng Thiên Thần, mà phạt vua nước axiria. Song le Người phạt thể nào mặc lòng, sức thế gian trước tòa Người tỉ như bụi bụi tro tro vậy mà thôi!


TRUYỆN THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI HAI
ĐCT THÊM TUỔI CHO VUA EDÊKIA

Vậy khi ấy vua Êdêkia phải bịnh nặng, thánh tiên tri I-xa-i-a đến viếng vua mà rằng: Vua chẳng còn sống ở đời, vua phải dọn mình chết. Vua nghe lời ấy, bèn sợ lắm, nên than thở cùng ĐCT, xin cho khỏi chết, vì tiếc chẳng có nói dòng, ĐCT lại dạy thánh tiên tri trở vào tâu vua rằng: Bởi vì vua đã cầu xin, thì Đ C T thương xót; song vua phải sợ hằng nhớ mình là tôi tá Chúa; và đặng quờn thay mặt Người cai trị ở thế gian, đó là ơn trọng, vua phải suy gẫm luôn; vậy trong ba ngày vua sẽ đặng lành đã, thì vua phải lên nhà thờ mà tạ ơn ĐCT, Người sẽ thêm cho vua mười lăm tuổi nữa. Lại bảo rằng: Vua hãy xem cái trắc ảnh nầy, bóng mặt trời đã ế xuống, thì rày bóng ấy thoát chúc lại trở lên mười độ; khi vua thấy sự ấy thì mới tin thật, vua cũng đặng trở lại ở đời thêm tuổi như làm vậy chẳng sai. Thánh tiên tri phán bấy lời, thì vua tin vững vàng. Vậy đủ ba ngày vua đặng đã, bèn lên đền thờ, tạ ơn ĐCT, hát lời Sấm truyền, nhắc lại mọi sự khốn khó mình đã mắc phải, mà phép Chúa đã cứu chữa cho khỏi.

Ai ngờ phép lạ ĐCT chữa vua nầy khỏi chết, song không chữa đặng tánh kiêu ngạo còn núp ẩn trong lòng, dầu kẻ đã nên nhơn đức cũng khỏi chẳng đặng. Cũng là một bài dạy chúng ta: Kẻ nhơn đức khi phải bịnh mà chết, thì có phước hơn là còn sống lâu năm ở đời, phải chước ma quỉ mà sa ngã.

Vậy vua nước Babilon mắng tiến vua nầy đã khỏi giặc, lại đặng truyền bịnh, thì vua Babilon sai sứ đến mứng vua, và dâng nhiều của vật. Vua Êdêkia thấy vua phương xa, kính nể mình dường ấy, liền lo ra tặng mình, mà cho sứ xem các giống của cải châu báu đã tích để trong kho tàng, chẳng có sót vật gì, đều tỏ ra hết thảy cho sứ xem. Cho nên ĐCT sai thánh tiên tri I-xa-i-a, như thầy thuốc thiêng liêng, mà chữa tật nguyền khi đầu mới phát; thì thánh tiên tri đến tâu vua mà hỏi rằng: Bộ sứ bỡi nước nào mà đến? Thì vua phán rằng: Bộ sứ nước Babilon, là vua rất sang trọng, sai đến chầu trẫm, vậy trẫm đã cho sứ thần xem các giống quới vật trong đền mà chơi. Khi ấy thánh tiên tri mới phán cùng vua rằng: Vua muốn khoe mình vì đã nên giàu có phú quí; bỡi đền ấy vua phải biệt, ngày sau của cải cùng các vật ấy sẽ về tay vua nước Babilon chúc, mà con cháu vua ngày sau phải làm bộ hạ, gia địch trong đền vua nước Babilon,

Vua Êdêkia nghe lời đe phạt làm vậy thì chẳng dám phàn nàn, một xin theo ý Chúa mọi đàng.

Vua nầy đầy phước đức công nghiệp mà sinh thì, nên gương trọn lành, như vua thánh Đavít xưa. Song le con người, tên là Manaxê, lên trị vì, liền bỏ đàng phước đức vua cha, mà làm mọi sự xấu xa bạo ngược, trở lòng ngụy cùng ĐCT quá hơn các đời vua trước: hễ chùa nào vua cha đã phá đi, thì vua nầy lập lại: hễ việc phước đức nào vua cha đã làm, thì vua nầy lại phá đi; cho nên vua nầy phạm tội quá hơn vua nước Canaan xưa. Sau hết, vua nầy dạy giết thánh tiên tri I-xa-ia-a, chẳng kính nể tuổi tác người, vì ông thánh ấy đã hơn một trăm tuổi; cũng chẳng vì công nghiệp người, cũng chẳng vì sự sang trọng người, là dòng dõi vua Đavít. Ấy vậy ĐCT dục lòng vua nước Axiria cất binh đến đánh, bắt đặng vua Manaxê, đem về làm tôi tá, cầm trong tù lâu năm, ở nước Babilon. Bấy giờ vua dữ nầy, bỡi gặp sự khốn khó, thì mới nhìn biết tay ĐCT sửa phạt, nên đã ăn năn kêu van cùng ĐCT hết lòng. Vậy ĐCT thấy vua nầy ăn năn trở lại, thì Chúa nhơn từ đoái thương mà cứu lấy, cho khỏi làm tôi tá khốn nạn, lại đặng trở về thành Giêrusalem, mà vỗ trị như trước.

Từ đó vua ra khôn ngoan, chẳng còn ngỗ nghịch cùng Chúa nữa, lại bằng giữ nghĩa Chúa luôn cho đến chết,

Truyện nầy chỉ cho ta biết: Chúa phép tắc công bình, nhơn từ, chẳng sự gì mà Chúa làm chẳng đặng. Chúa chẳng bỏ qua tội nào mà không phạt, song Người nhơn từ, vừa khi kẻ có tội ăn năn trở lại, thì Chúa thứ tha; chẳng có tội nào mà Chúa không tha, nếu kè có tội tỏ lòng khiêm nhượng, ăn năn thống hối, như gương vua Manaxê đó. ĐCT phạt kẻ có tội là bao nhiêu, thì sau khi nó trở lại, thì Chúa xuống ơn cho nó là bấy nhiêu.


TRUYỆN THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI BA
VUA GIOXIA BẤT NHƠN ĐỨC LÊN QUỜN

Khi vua Manaxê qua đời, thì thái tử tên là Amon, lên ngôi trị đặng hai năm, mà làm các giống tội lỗi, cho nên Đ C T chẳng để sống lâu. Vậy bộ thần nội điện trở lòng phản mà giết vua ấy. Bấy giờ dân sự thấy quân gian thần đã giết vua, bèn can tầm bắt mà giết đi, và phò con vua ấy, tên là Gioxia, mới nên tám tuổi, lên thế quờn vương phụ. Vua nầy từ thuở bé đến trọn đời, nên người rất nhơn đức, chẳng hề xiêu theo đàng trái: người dạy phá các bụt thần và chùa miễu, đốt xương những kẻ dối trá trên bàn thờ bụt ở thành Bêthêlê, như lời thánh tiên tri đã phán, ba trăm năm mươi năm trước. Vậy vua ấy chẳng những là sửa lại mọi sự đồi tệ trong thành Giêrusalem, cùng cả và nước Giuđêa, mà lại sai kẻ đi phá các chùa, và các huyền vũ trên núi non khắp mọi nơi, hãy còn trong nước Isarae từ thuở xưa; lại khuyên dân trong nước phải trở lại cùng Đức Chúa Trời.

Đang khi vua ấy làm các việc phước đức làm vậy, lập lại đền thờ ĐCT ở thành Giêrusalem, bèn gặp đặng sách lề luật ông thánh Mosien chép thuở xưa, đã giấu để trong nhà thờ ấy. Vậy đã đem sách ấy dưng cho vua, vua đọc lời ĐCT đe phạt kẻ đời sau bỏ đạo Chúa sẽ phải khốn nạn, thì vua sợ hãi lắm, liền sai kẻ đi hỏi một người tiên tri nữ, tên là Ođa, cho biết vua phải làm thể nào cho mình và cả nước khỏi phạt. Thì bà ấy tâu rằng: Đến ngày sau ĐCT sẽ phạt chẳng sai, như lời trong sách lề luật đã chép; nhưng mà sự ấy sẽ xảy ra đời vua khác. Bỡi vì vua có lòng sợ và ở khiêm nhượng trước mặt ĐCT, thì ĐCT đã định thương một đời vua nữa. Vậy vua sẽ tạ thế bằng an và xác vua sẽ nghỉ ngơi nơi phần mộ đã sắm sẵng. Vua nghe lời bà ấy tâu làm vậy, liền tuyền cho cả và dân tụ hiệp trong đền thánh. Vua đọc sách lề luật trước mặt cả và dân, cùng khuyên bảo ai nấy phải giữ luật Chúa. Vua lại thề trước bàn thờ mà rằng: Tôi sẽ làm hết sức, mà giữ các lề luật trong sách nầy. Cả và dân phần thì nghe lời vua khuyên dạy, phần thì thấy gương lành của vua, thì đua nhau giữ đạo hết lòng, cùng sửa lại mọi nết xấu thói quen thuở trước, Khi ấy vua nước Êgíptô đánh giặc cùng vua nước Babilon, cho nên tràn vào nước Giuđêa, mượn đàng sang nước Banbilon. Nhưng mà vua Gioxa ngờ là vua ấy đánh mình, nên đem binh ngăn chống, chẳng may vua rất nhơn đức nầy phải tử trận nơi chốn chiến trường.

Ông thánh Amvoloxiô Giám mục thánh Sư gẫm rằng: Vua nầy chết sớm làm vậy vì ĐCT muốn cứu người, kẻo sống lâu năm đời, mà phải thấy trăm ngàn sự khốn khó, sẽ tuôn đến, như mưa sa xuống trên đầu cả và dân. Vua thánh Gioxa nầy dạy chúng tôi, khi muốn lập lại đàng phước đức, phải năng xem sách Sấm truyền. Song le phải xem, cùng dốc lòng làm như trong sách ấy dạy. Vua thánh Gioxa xem lại sách ông Môisen, thì đã dốc lòng giữ các lề luật trong sách ấy, cùng lo cho dân sự trong nước giữ như mình. Kẻ bề trên muốn cho bề dưới vưng lời mình, thì trước hết kẻ bề trên phải vưng lời ĐCT thì kẻ dưới sẽ noi gương đó mà vưng lời kẻ bề trên.


TRUYỆN THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI BỐN
VUA NƯỚC BABILON BẮT DÂN GIUDÊU LÀM TÔI
(Trước giáng sinh 587 năm)

Khi vua Gioxa băng hà đoạn, thì cả và dân khóc lóc thương tiếc lắm liền phò con út người, tên là Gioacát, lên quờn cũng năm ấy. Nhưng mà vua nước Êgíptô lại bắt đặng vua nầy, liền xiềng lại mà đem về nước Êgíptô, cùng đặt anh vua nầy tên là Gioatam lên kế vị. Vua Gioatam trị đặng mười hai năm; mà trong đời vua ấy có nhiều thánh tiên tri ra dạy dỗ dân sự; nhưng mà vua nầy những cứng lòng, chẳng chịu nghe lời, một sa phạm các giống tội lỗi. Có một lần tiên tri Giêremia gởi tờ tâu vua, cho vua biết các điều ĐCT đe phạt cả và nước đã hòng đến thì vua lấy dao mà rạch tờ ấy ra, lại bỏ vào lửa. ĐCT dạy ông tiên tri ấy chép một tờ khác, nhắc lại mọi lời đe phạt đã nói trong tờ trước, cùng thêm nhiều đều nặng nề hơn nữa, song vua chẳng chúc chi sợ hãi.

Vậy từ khi vua ấy lên trị vì khỏi bốn năm, thì vua Navôcô trị nước Babilon, cất binh thẳng vào trong thành Giêrusalem, bắt vua xiềng lại mà đem về cầm tù ở thành Babilon. Song le đến sau vua Babilon tha vua nầy về, mà bắt cống thuế nặng lắm.- Từ ấy khỏi ba năm, vua Giudêu lại trở lòng phản cùng vua Navôcô, thì vua nầy sai quân đến đánh, và bắt đặng vua ấy mà giết đi, bỏ xác ngoài đồng cấm chẳng cho ai chôn, như lời thành tiên tri Giêrêmia đã phán thuở trước. Vậy em vua ấy tên là Giêconia, lên trị vì, cũng bắt chước vua anh, mà phạm tội lỗi như anh vậy. Thì vua Navôcô lại sai quân đến bắt đặng vua, và mạ và vợ con cùng chư tướng với một muôn dân ở thành Giêrusalem, đem về là, tôi tá nước Babilon. Cũng một khi ấy, vua Navôcô thâu lấy của cải, cùng đồ các thầy dùng trong đền thờ ĐCT, đoạn đặt chú vua nầy, tên là Sêđêxia lên trị nước.

Ai ngờ vua Sêđêxia nầy lại trở lòng nghịch cùng ĐCT, cũng như hai đời vua trước, thì thánh tiên tri Giêrêmia, hằng ngày hằng khuyên lơn vua cùng dân; nhưng vô ích, vua ấy một ngày một phạm các giống tội lỗi quá hơn kẻ ngoại đạo, cùng dể ngươi lời thánh tiên tri và nhạo cười người. Vậy càng lâu càng thêm mất lòng ĐCT, thì ĐCT toan phạt vua nầy cho dừc hậu hoạn. Vậy vua Sêđêxia trị nước đặng mười năm, thì vua Navôcô lại đem binh đến vây thành Giêrusalem. Thành ấy phải khốn cực, vì đại hạn đói khác. Khỏi hai năm, vua Navôcô phá đặng lũy mà tràn vào trong thành. Bấy giờ quân Giudêu khiếp vía, mất người can đãm, ban đêm theo vua seđêxia, mà chạy lên rừng, ẩn mình lánh nạn. Song le vua Navôcô sai quân nả tróc vua ấy, bắt đặng gần thành Giêricô, mà đem đến trước mặt mình. vua Navôcô trở lòng rất dữ tợn, dạy giết con cái vua Giudêu trước mặt người, đoạn mới dạy khoét hai con mắt vua, mà xiềng lại đem về thành Babilon, như lời ĐCT đã phán cùng ông thánh tiên tri Giêrêmia, ngăm vua ấy ngày trước rằng: Sẽ phải đi ở thành Babilon; lại thánh tiên tri I-xa-i-a phán rằng: Vua chẳng hề thấy thành Babilon; nhưng mà thuở ấy vua Sêdêxia nầy ngờ là lời hai thánh tiên tri chẳng hiệp cùng nhau, thì dể ngươi lắm. Chẳng ngờ hai lời rất thật cả và hai vì chưng vua phải đi đến thành Babilon, và phải khoét con mắt cho nên chẳng xem thấy đi gì trong thành ấy. Đoạn vua Navôcô truyền quân phá tan tác cả và thành Giêrusalem, lại bắt cả và dân, thâu hết của cải, và đốt đền thánh, cùng lầu đài vua lại phá thành lũy xung quanh thảy thảy: còn để lại một hai xứ dân sằn dã đói khó, mà làm ruộng nương xứ ấy, kẻo bỏ đất hoang vu. Đã lâu trước tiên tri Giêrêmia than thở khóc lóc về các sự tai nạn gốm ghê thánh thánh Giêrusalem và dân ĐCT sẽ phải chịu, vì đã bỏ nghĩa Chúa mà thờ bụt thần.

Ai đọc những đoạn ấy trong sách Thánh kinh mà chẳng áo não thương tiếc thành Giêrusalem sao?

Ông thánh Augutinô Giám mục thánh Sư rằng: Chớ chi chúng tôi thấy linh hồn nào, dầu có đạo, dầu ngoại, mà đã bỏ nghĩa cùng ĐCT. phải làm tôi tá ma quỉ, mất mọi phước đức công nghiệp, trở nên hoang vu, như thành Giêrusalem thuở ấy; thì chúng tôi phải thương tiếc, kêu van cùng ĐCT, cho linh hồn ấy đặng ơn nghĩa cùng Chúa, mà hưởng mọi sự lành Chúa ban.


TRUYỆN THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI LĂM
VUA GIOAKIM KHỎI TÙ RẠC

Vua Navôcô phá thành Giêrusalem đoạn, thì cả và dân nước Giuđêu phải làm tôi đến 70 năm, như lời thánh tiên tri Giêrêmia đã phán thuở trước. Thánh tiên tri cũng bảo lâu năm trước rằng: Ngày sau bay phải làm tôi nước Babilon, thì chớ bắt chước thói phép các nước ngoại đạo, mà bỏ nghĩa cùng ĐCT dầu mà ở nước nào, lộn lạo giữa kẻ ngoại, thì cũng phải giữ đạo Chúa truyền dạy, nên cậy tin và đợi trông đến ngày ĐCT đã hẹn, thì Chúa sẽ cứu bay cho khỏi phải khốn. Khi vua Navôcô phá thành Giêrusalem rồi, thì truyền lịnh phải giữ gìn thánh tiên tri Giêrêmia, và để cho người thông thả, hoặc muốn đi cùng dân qua thành Babilon mà ở với vua, hay là ở lại thành Giêrusalem thì tự ý người chọn. Song thánh tiên tri thà ở lại quê hương cùng dân sẵn đã khó nghèo, chẳng thà theo vua mà hưởng sự sang trong phú quới nơi đất lưu đày.

Song dân Giudêu ở lại trong nước, thì cũng giữ một thói cứng cỏi, dầu mới thấy tay ĐCT phạt rất nặng nề. Dầu thánh tiên tri khuyên lơn an ủi, bảo phải ở bình an, lo làm ăn, và sẽ đặng mùa màng no đủ.

Song dân cũng còn lo sợ, một ngày kia vua Navôcô sẽ đến đánh chúng nó, bắt đi lưu đày, nên nó mới tinh trốn qua nương ngụ tại nước Êgíptô, cho khỏi nạn.

Thánh tiên tri ngăn cản và nói cùng nó: Nếu bay cải lời qua nước Êgíptô, thì ĐCT sẽ phạt bay chẳng khỏi đặng.

Song dân đã ra cứng cỏi, chẳng chịu nghe lời thánh tiên tri, một trẩy sang Êgíptô. Thánh tiên tri thấy vật rất đau lòng, song người cũng đi theo nó, đặng khuyên bảo an ủi nó.

Khi đến nước Êgíptô, ở không đặng bao lâu, kế vua Navôcô đem binh đến đánh nước Êgíptô, thì dân Giudêu cũng phải khốn, y như lời thánh tiên tri đã phán trước.

Dân Giudêu xưa kia là dân Chúa thương yêu cách riêng, song bỡi nó trở lòng cùng Chúa, nên người phạt nó, phải bị bắt làm tôi mọi các nước ngoại, và phải khổ sở trăm đàng.

Song ĐCT còn thương, chưa bỏ dân nầy, nên người mới tính cứu nó một phen nữa, là khi vua Navôcô qua đời, thì con là Êvêmêrô lên ngôi trị vì. Vua mới nầy hạ chỉ tha vua Gioakim và cho cai trị dân mình dầu còn ở thành Babilon. Vua cũng thiết đải vua Gioakim một cách rất khoan hậu, hằng ngày cho vua này ăn một bàn cùng mình. Vua Gioakim phải bị vua Navôcô bắt cầm tù ba mươi bảy năm tại thành Babilon.

Ta xem truyện vua nầy và nhiều truyện khác kể trong sách nầy, thì ta phải gẫm: mọi quờn phép thế gian nầy đều ở trong tay ĐCT. Người dùng vua chúa, đã mà làm trọn việc Người đã định: Khi thì Người nhắc vua nầy lên, lúc thì Người hạ vua kia xuống, khi thì Người thưởng vua nầy, khi thì Người phạt vua nọ phải gian nan, để cho ta hiểu: dầu phần thưởng, dầu phần phạt, mọi sự đều ở trong tay Chúa.

Ông thánh Hiêronimô thánh Sư gẫm rằng: các truyện nước Giuđêa và nước Isarae, nên ví dụ Hội Thánh bằng chịu giặc giã ở đời nầy, hoặc bởi kẻ ngoại đạo, hoặc bởi kẻ rối đạo, nhưng mà đời nào cũng có tiên tri làm phép lạ và giáo hoá thiên hạ; cũng như bây giờ có nhiều kẻ vì lòng yêu mến Hội thánh, thà đỗ máu mình ra, chẳng thà uốn lẽ đạo chính theo lẽ dối trá thế gian. Sau nữa, trong truyện nầy, thường lề ta thấy kẻ dữ thì nhiều, kẻ lành thì ít, để cho ta đặng suy, dầu xưa, dầu nay, thì lòng thiên hạ đều nghiên chìu về đàng trái hơn là đàng lành, như lời ĐCG phán rằng: Đàng thế gian đi thì rộng rãi, mà kẻ đi đàng ấy thì nhiều; còn đàng lên thiên đàng thì hẹp, mà kẻ đi đàng nầy thì ít !


TRUYỆN THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI SÁU
VUA XIRÔ CHO DÂN GIUDÊU TRỞ VỀ THÀNH GIÊRUSALEM
(Trước Giánh sinh 536 năm)

Dân Giudêu phải làm tôi nước Babion bảy mươi năm chẵn, như lời thánh tiên tri đã phán thuở trước: vậy khi đến nàgy ĐCT định cứu lấy dân khốn nạn nầy, thì trước hết ĐCT cho vua nước Biếtxia, tên là Xirô, đem binh đi đánh, và giết đặng vua nước Babilon. Khi vua Xirô phá đặng thành Babilon rồi, thì mới cho dân Giudêu trở về bổn xứ, lại dạy mở kho tàng vua Babilon lấy vàng bạc và các đồ quý báu vua Navôcô đã cướp ngày trước, mà trả lại cho dân Giudêu đem về thành Giêrusalem, để dùng việc thờ phượng Chúa, cùng lo lập đền thánh lại. Dân Giudêu đặng sắc chỉ nầy thì ai nấy vui mầng, liền đem nhau trở về trong nước Giuđêa, là bốn muôn hai ngàn người, có ông Giêrôbabê, là người dòng dõi vua Đavít, làm tướng đem dân về bổn xứ, đến thành Giêrusalem. Vậy dầu hết mới sắm sửa tái tạo đền thánh lại nơi chỗ cũ. Khi ấy ai nấy già trẻ đều khó lóc, kẻ già cả khóc vì nhớ đền thờ thuở xưa trọng vọng nguy nga dường nào, mà rày thấy đền thờ mới lập, thì kém xe chẳng bằng đền thánh cũ, nên khóc lóc thương tiếc; kẻ trẻ khóc bỡi mầng, vì thấy ngày sau sẽ đặng thong dong mà thờ phượng ĐCT, như đạo ông thánh Môisen truyền dạy.

Song le kẻ ngoại ở các xứ xung quanh, thấy dân Giudêu lập lại đền thánh, thì giận ghét mà bỏ vạ rằng: Quân Giuđêu toan trở lòng ngụy cùng vua. Vậy nó liền gởi tâu vua Biếtxia, xin cấm ngăn việc ấy, kẻo ngày sau dân quỷ quyệt nầy làm rối loạn nước vua. Vua liền nghe, nên dân Giudêu pahỉ ngưng việc cất đền thờ lại, cho đến đời vua Đariô lên trị nước Biếtxia, thì dân Giudêu mới đặng phép cất đền thánh cho hoàn tất. Bấy giờ thành tiên tri ra sức khuyên giục dân phải trông cậy Chúa mà làm cho toàn việc, chớ khá nhát sợ làm chi. Khi cất đền thánh xong, thì vua Đariô chịu lo cho các của tế lễ trong đền thờ ĐCT, và mọi đồ các thầy dùng làm việc Chúa.

Sau nữa, ông Erát, là dòng dõi các hàng đạc đức, người cũng làm thầy đạc đức ở trong nước Biếtxia trở về thành Giêrusalem mà giảng đạo. Ông nầy trước khi lên đàng, thì xin các người Giudêu còn ở trong nước Biếtxia, phải ăn chay cầu nguyện,cầu cùng ĐCT phù hộ mình, đi đàng sá cho khỏi mọi sự hoạn nạn. Vậy người đem một số dân rất đông trở về thành Giêrusalem với mình. Khi đến nơi, người thấy có nhiều kẻ trong dân Giudêu lấy vợ ngoại, thì quở trách, đoạn kêu cà và dân đến mà rằng: Anh em đã phá lề luật ĐCT dạy, đã phạm nhiều tội lỗi kể chẳng xiết; bây giờ phải lo trở lại cùng Chúa, làm cho sáng danh Chúa, là Chúa các thánh tổ tông chúng ta đã thờ phượng đời trước, mà vưng lời Người dạy, chẳng khá lấy vợ ngoại kẻo bắt chước nó mà phạm tội chăng. Ông ấy thấy con cái nhiều người Giudêu đã lấy vợ ngoại, nói nửa tiếng Giudêu nửa tiếng các nước ngoại đạo, thì người quở cùng dạy phạt cha mẹ nó là gọt tóc đi cho xấu hổ mà rằng: Ấy cũng bỡi những giống tội quái gở nầy thì vua Salômong xưa đã mất nghĩa cùng ĐCT. Trước vua ấy khôn ngoan nhơn đức, và thanh nhàn vỗ trị cả và nước Isarae: mà bỡi lòng đờn bà ngoại đạo, thì đã nên hư hốt, Vậy ta còn phá lịnh ĐCT làm chi, mà làm hại cả và dòng dõi ta phải khốn. Quân Giudêu thấy ông nầy phần thì quở, phần thì an ủi, phần thì kêu khóc cùng ĐCT, thì mới dốc lòng vâng lời, mà bỏ vợ ngoại

Các Thánh gẫm rằng: truyện nầy là ví dụ trong Hội Thánh, hằng ngày con mắt chúng tôi hằng thấy; nhiều người giáo hữu có đạo, đã nên con ĐCT bỡi máu Thánh ĐC Giêsu cứu chuộc nhưng chưa ở hết lòng cùng ĐCT: muốn giữ đạo, và cũng muốn theo tính xác thịt; bắt chước thế gian, làm như con cái người Giudêu, phần thì nói tiếng kẻ ngoại, mà chẳng nói sửa tiếng nào. Cũng một lẽ ấy, kẻ có đạo mà ăn ở như người thế gian, thì có đạo cũng chẳng phải là có đạo, mà ngoại cũng chẳng phải là ngoại, song trở nên một giống quái dị, đã chẳng đẹp lòng ĐCT mà lại thế gian cũng chê nữa.

Vậy ông Ê-rát dạy dân Giudêu rằng: Ví bằng muốn nên dân ĐCT thật, thì phải bỏ vợ ngoại. Cũng một lẽ ấy, kẻ có đạo phải nghe lời ĐCG dạy rằng: Làm tôi Chúa và làm tôi thế gian một lượt chẳng đặng, vì một người chẳng thể làm tôi hai chủ. Sau nữa, truyện nầy dạy giáo hữu, chẳng nên lấy vợ ngoại, chồng ngoại, kẻo liều mình bỏ đạo thánh Chúa. Hội Thánh cấm điều ấy vì Hội Thánh muốn gìn giữ chúng tôi kẻo xiêu lạc cùng sa phạm tội, mà phải khốn nạn đời đời.

TRUYỆN THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI BẢY
ÔNG NIHÊMIA LẬP THÀNH GIÊRUSALEM LẠI

Đ ang khi ông Ê-rát đã lập lại đền thờ ĐCT, và sửa các việc trong đạo thánh Chúa, thì có ông Nihêmua, còn ở lại trong nước Biếtxia, hầu vua nước ấy, Ông nầy mắng tiếng thành Giêrusalem chưa có thành lũy vững chắc, cho nên không thế mà chống cùng kẻ ngoại xung quanh hằng ra sức phá hại Ông ấy lo buồn cùng phiền muộn trong lòng lắm, nên ra ốm o gầy guộc. Vậy có một lần người chầu vua nước Biếtxia, vì có chức dâng rượu cho vua ngự, vua xem thấy người khó mặt, liền phán hỏi rằng: Nhơn sao ngươi ốm o làm vậy ? Lo buồn chi mà khó mặt ? Thì ông ấy mới cả lòng tâu vua rằng: Thành quê hương cha mẹ tôi hãy còn sư sơ, và đồi tệ tư bề, cho nên tôi đêm ngày tư lự phiền muộn; xin đức vua ban phép cho tôi đặng trở về bổn xứ, mà lập lại thì tôi mới an lòng. Vua nghe vậy liền ban phép cho ông nầy trở về thành Giêrusalem, lại vua hạ chỉ cấm chẳng cho ai ngăn trở việc xây thành ấy. Vua cũng dạy người khi xây lại thành Giêrusalem rồi, thì trở về chầu vua. Khi ông Nihêmia về đến thành Giêrusalem, thì chẳng cho ai hay, mình về có ý nào, liền đi một mình khắp mọi nơi, mà dọ cho biết mọi sự thể nào, Đến khi đã xem thấy hết, thì người đòi chư tướng thành Giêrusalem tụ hiệp, mà rao sắc chỉ vua truyền phải xây thành lũy xung quanh thầnh Giêrusalem. Ai nấy nghe sắc chỉ vua thì mầng rỡ lắm, liền ra tay mà làm như lịnh vua dạy.

Song le kẻ ngoại xung quanh, có lòng ghét dân Giudêu lắm, nên nó dùng các cách mà ngăn trở, chẳng cho làm việc ấy. Ông Nihêmia có lòng cam đảm và khôn ngoan, người dạy dân chia ra làm hai đoàn, một đoàn thì lo việc đắp thành xây lũy: còn một đoàn thì cầm khí giới đứng mà canh gìn cho sẵn, hòng khi quân nghịch đến phá, thì đánh trả nó lại. Nhờ lòng can đảm kiên cố, thì dân Giudêu đã làm xong công việc.

Ông Nihêmia dạy dân Giudêu và xây thành và cầm khí giới, là ví dụ các giáo hữu phải làm việc Chúa thể nào; vì chưng các giáo hữu, khi làm việc lành, thì hằng phải ma quỷ cám dỗ chẳng khi dừng; nên khi làm việc lành, thì phải làm cho sấn sướt mạnh mẽ, bền lòng tin cậy Chúa, và sốt sắng, ái mộ làm cho thành việc. Song bỡi vì ma quỷ lén xung quanh, hòng cám dỗ, chẳng để bằng an, thì ta phải sắm sửa khí giới, hầu chống trả chước nó, kẻo đang khi làm việc nữa mùa, thoát chúc nó đến thình lình mà ta phả thua cùng bỏ việc phước đức đã làm chăng.

Ông Nihêmia đời ấy mắc phải sự khốn khó, cũng như ông thánh Phaolô xưa than thở rằng: Chúng tôi bề ngoài mắc trỡ giặc giả, bề trong mắc phải khốn cực bỡi quân Giudêu, là những đứa gian trá ở trong thành Giêrusalem, nó bày mưu làm cho người sờn lòng rủn chí; bề ngoài thì mắc phải kẻ ngoại toan làm dữ mà ngăn trở việc ông ấy làm. Song le ông nầy hết lòng tin cậy Chúa, thì đã phá đặng các chước dối quân ngụy tặc ấy; cho nên thành Giêrusalem lại đặng lũy xung quanh chắn chắc vững vàng, dân sự đặng giữ đạo Chúa cần mẫn hơn khi trước nữa. Từ ấy về sau, dân Giudêu chẳng còn thờ thần như trước nữa; một ở hết lòng cùng

ĐCT, cho nên Người phù hộ cho khỏi giặc giã, lại đặng an nhàn như đời trước.

TRUYỆN THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI TÁM
ÔNG TÔBIA PHẢI TỐI MẮT
(Trước Giáng sinh 721 năm)

Cứ theo thứ tự đã có trong Sấm truyền cũ, thì nay kể đôi ba truyện riêng, là những truyện về các đời trước nầy.

Ông Tôbia là người Isarae, về dòng Néptali. Từ bé đến lớn, người hằng thờ phượng ĐCT, chẳng hề bắt chước dân, mà thờ con bò vàng, như lụnh vua Giêrôbôam truyền dạy. Hằng năm người lên thành Giêrusalem tế lễ ĐCT, như luật ông Môisen truyền. Chúa cho ông nầy sinh đặng một con trai, thì người siêng năng dạy dỗ, khuyên bảo con phải thờ phượng kính mến ĐCT trên hết mọi sự, người lấy việc dạy dỗ con về đàng nhơn đức là việc trọng nhứt hơn hết.

Dầu ông nầy nhơn đức làm vậy, thì cũng chẳng khỏi phải bắt làm tôi với vợ con bên nước Axiria, tại thành Ninivê. Ở đó người cũng chẳng hề bỏ đàng phước đức, một có lòng thương người bổn hương với mình mà phải tù rạc khốn nạn, cùng phải làm tôi tá, nên người ra sức cứu giúp nó mọi đàng. Cho nên ĐCT ban ơn cho ông nầy đặng đẹp lòng vua nước Axiria, vua ấy cho người đặng phép đi khắp mọi nơi trong nước, chẳng ai đặng ngăn trở người. Ông nầy dùng phép vua ban, mà đi an ủi kẻ đất nước mình phải làm tôi tá khắp mọi nơi. Thuở ấy người gặp một người khó khăn, dòng dõi mình, tên là Gabêlô, thì ông Tôbia cho người ấy mượn bạc, là của vua ban cho mình ngày trước; mà người bảo làm văn khế cho mượn, giao ngày sau sẽ hoàn lại, mà chẳng ăn lời.

Nhưng mà khi vua nầy băng hà đoạn, thì vua khác lên trị vì, có lòng ghết quân Giudêu lắm, nhữ hiếp đáp làm khổ sở, cùng giết người Giudêu kể chẳng xiết; cho nên ông Tôbia đi an ủi kẻ phải khốn nạn, và lo cất xác kẻ phải giết, trộm lịnh vua cấm. Vua mắng tiếng ông nầy hay lén cất xác làm vậy, thì sai quân đi bắt, mà biên phong gia tài người hết. Song le Tôbia trốm đặng, vì có nhiều kẻ thương người; song chẳng khỏi bao lâu vua dữ ấy qua đời, cho nên ông nầy lại đặng thong dong như trước và đặng giàu có. Ông Tôbia thấy ĐCT phù hộ mình thể ấy, thì đáng tin cậy Chúa và thương giúp kẻ khó khăn. Có một lần đang khi người đại tiệc trong nhà, thì mắng tiếng có một người Giudêu phải tay quân dữ mới giết, và xác hãy còn nằm giữa đàng, thjì người liền bỏ tiệc đi tìm, đoạn đem về giấu trong nhà, ban đêm mới chôn cho nhẹm. Khi ấy các bạn hữu trách móc người rằng: Ông mới khỏi chết, chưa đặng mấy ngày, bỡi vì cất xác; nhơn soa ông chẳng chừa, mà lại liều mình chết làm chi ? Nhưng mà ông Tôbia chẳng xem soa lời quấy quá làm vậy, một kính sợ Vua cả trên trời, hơn sợ vua dưới thế. Cho nên hễ ai bị giết,d ầu kẻ giàu dầu người khó, thì ông nầy đi cất xác hết thảy. Có một lần người làm việc lành ấy trót ngày đã nhọc, đến tối người dựa vào vách mà ngủ, chẳng ngờ trên vách có ổ chim én, phẩn nó rơi xuống phải tròng con mắt người liền ra mù quáng. Vậy vợ người, tên là Anna, cùng bà con mới trách và nhẻ nhún người rằng: đã bố thí, đã chôn xác, nay còn gì trông gì nữa? Song le ông nầy một lòng tin cậy Chúa, nên chẳng bỏ đàng phước đức.

Mà bởi mắc phải sự khốn nạn như vậy, nên vợ người phải đi làm thuê dệt mướn nhà người ta mà độ hồ khẩu. Có một lần bà ấy làm thuê nhà kia, họ trả công đặng một con dê, đem về nhà, ông Tôbia nghe tiếng dê kêu, người sợ e phải của người ta chạy vào nhà mình chăng, liền bảo vợ rằng: Ta chẳng nên giữ của gian, ví bằng con dê nầy là của người ta, thì hãy trả cho chủ nó. Bà vợ nghe vậy thì giận giữ, nhiếc nhóc chồng, bởi cả đời những làm việc phước đức, nên ngày nay mới phải khốn như vậy.

Ông Tôbia là gương cho ta soi lúc gian nan khốn khó phải ở thế nào. Ông nầy, hiểu biết, mọi sự đều bởi Chúa mà ra, nghèo khó hay giàu sang, thì đều bởi Chúa định. Nên lúc phú quới, người không kiêu căng; khi phải nghèo khó, người không phàn nàn năn nỉ, một bằng lòng nhịn nhục luôn.

Người Cũng biết, dầu nhơn đức thế nào, cũng có khi làm mất lòng Chúa, bởi đó, các sự khó Chúa gởi, là để cho ta dùng mà đền tội. Tại lẽ đó, kẻ nhơn đức cũng phải chịu khó như người có tội, vì ở đời nầy, ai ai cũng là kẻ có tội trước mặt

ĐCT. Trong truyện ông Tôbia và ông Gióp, ta thấy ĐCT để cho hai người vợ hai ông ấy còn sống. Đó là sự khốn cực hơn hết, hai ông ấy phải chịu. Hai người đờn bà nầy, đã không tìm đặng một lời lành, mà an ủi chồng trong lúc gian nan khốn khó, lại còn thốt ra những lời lộng ngôn dại dột, làm mất lòng ĐCT và làm cực cho chồng mình nữa.


TRUYỆN THÚ MỘT TRĂM HAI MƯƠI CHÍN
THIÊN THẦN RAPHAE DẪN ĐÀNG CHO ÔNG TÔBIA CON.

Ông Tôbia một lòng khiêm nhượng nhịn nhục bằng lòng chịu các sự gian nan Chúa gỡi, và trông cậy Chúa chẳng bỏ mình. Vậy người kêu con lại, cũng đặt một tên là Tôbia, mà khuyên rằng: Cha đã hòng tạ thế, nên cha bảo con việc này: khi nào ĐCT cất linh hồn cha, thì con hãy lo chôn xác cha; đoạn phải thảo kính mẹ con cho trọn đời, phải nhớ công khó mẹ con đã chịu trăm ngàn sự đau đớn vì con, từ khi con hãy còn ở trong lòng cho đến ngày nay, mà đến khi mẹ con mạng một thì con hãy cất xác người gần nơi mồ cha. Con ôi! trọn đời hãy nhớ đến ĐCT, mà giữ mình cho lắm, kẻo sa phạm tội lỗi; chớ để bỏ lời ĐCT phán dạy; con hãy lấy phần của con mà làm phước cho kẻ bần nhơn; khi con thấy kẻ khó khăn ăn mày, thì chớ hề trở mặt đi làm chi; vì chúng con có lòng thương kẻ khó khăn, thì ĐCT lại sẽ thương con như làm vậy; con có sức bao nhiêu thì hãy bố thí bấy nhiêu; ví bằng có nhiều của, thì hãy làm phước nhiều, ví bằng có ít, thì hãy lấy lòng vui mầng mà bố thí ít, thì con sẽ đặng công nghiệp chẳng sai; vì chưng sự bố thí, sẽ cứu linh hồn cho khỏi tội, và khỏi chết khốn nạn, cũng khỏi sa chốn tối tăm u ám. Hễ ai bố thí cho kẻ khó khăn thì sẽ đặng vững lòng mà đứng trước tòa Chúa phán xét. Con ôi! hãy giữ mình, chớ có lòng gian dâm, chớ hề biết sự quấy quá làm vậy: hãy giữ nhứt phu nhứt phụ cho trọn.

Con ôi! chớ hề lo ra sự kiêu ngạo, hay là nói lời kiêu ngạo, vì chưng tội ấy là cội rễ các giống tội lỗi cùng làm hại cả và thiên hạ. Hễ ai làm thuê, làm mướn cho con, thì con hãy trả tiền công cho chóng, chớ có cầm cong người lại, mà làm cho người phải đợi chờ năn nỉ. Hễ đều gì con chẳng muốn ai làm cho con, thì con chớ làm điều ấy cho kẻ khác. Khi có sự gì mắt mỏ phải lo liệu, thì hãy bàn hỏi kẻ khôn ngoan, bầu biết toan độ cho nhằm. Hằng ngày, con phải ngợi khen ĐCT, mà xin Chúa dẫn đàng chỉ nẻo cho con; lại con phải ra sức làm việc lành theo thánh ý Chúa phán định, con phải phủ mọi việc mình ở trong tay Chúa.

Sau nữa, cha nói cho con hay, xưa cha có cho ông Gabelô, ở thành Ragi, mượn bạc; vậy con lấy văn khế nầy mà đi đòi bạc ấy, cùng hườn khế lại cho người. Con ôi! chớ sợ làm chi, vốn thì ta khó khăn, nhưng mà hễ ai có lòng kính sợ ĐCT lánh đàng tội lỗi, mà làm việc lành, thì hơn là đặng của cải vàng bạc bội phần.

Ấy là lời đạo đức ông Tôbia trối lại cho con mình. Đấng làm cha mẹ cũng nên theo đó mà khuyên bảo con cái. Ông Tôbia con nghe bấy nhiêu lời cha cố ngôn thì rất cảm động cùng quyết lòng vưng giữ trọn đời. Song có một đều ông ấy lo lắng, là chẳng biết làm sao mà đi đòi nợ cho đặng, đàng sá xa xuôi, lại chẳng biết người ấy là ai, và ở chỗ nào. Song le ông Tôbia cha liền bảo con rằng: Con hãy đi kiếm người nào thật thà trong dán ta, mà thuê người dẫn đàng cho con đi kẻo lạc. Ông Tôbia con vưng lời cha dạy, ra đi kiếm kẻ đem đàng, thì liền gặp một người trai tốt đẹp, ăn mặc như kẻ hành khách đi đàng xa. Mà người trai ấy là Thiện Thần Raphae, lấy hình người ta hiện đến mà dẫn đàng cho Tôbia con. Vậy ông Tôbia liền làm quen và tỏ mọi việc cùng người. bấy giờ Thiên Thần rằng: Ta biết đàng, ta đem đi sẽ đặng bằng an vô sự. Vậy khi hai người đi đặng một ngày đàng, thì ông Tôbia con xúông rửa chơn nơi bờ sông lớn: thoát chúc có một con cá rất to, lội đến hồng nuốt người đi, thì ông Tôbia kinh hãi, kiêu thanh Thiên Thần cứu mình.

Vậy Thiên Thần dạy bắt lấy mạng nó, mà kéo lên bờ, ông Tôbia liền bắt lôi l&eci 2252    17-03-2011 09:31:48