Sidebar

Thứ Bảy
20.04.2024

Sấm Truyền Cũ_Truyện 151_160


SẤM TRUYỀN CŨ
Truyện Thứ Một Trăm Năm Mươi Mốt đến Thứ Một Trăm Sáu Mươi Hai

TRUYỆN THỨ MỘT TRĂM NĂM MƯƠI MỐT
VUA NƯỚC XIRIA MUỐN ĐOẠT CỦA TRONG ĐỀN THÁNH
(Trước giáng sinh 176 năm)

Nếu ta muốn hiểu các tích truyện sau nầy, thì phải nhớ lời tiên tri Đaniê xưa cắt nghĩa cho vua navôcô mà rằng: Từ ấy về sau sẽ phân ra bốn nước mà kế tiếp nhau: Thứ nhứt là nước Babilon, thứ hai là nước Biếtxia, thứ ba là nước Grêcô, thứ bốn là nước Rôma. Vậy vua nước Grêcô tên là Alexandarô, lên trị vì tiểu quốc, mà vua ấy có sức mạnh lắm Cho nên trong sấm truyền ông Daniê gọi vua là kỳ lân có cánh bay như chim. Vì chưng vua ấy trong mười hai năm, đánh dẹp đặng các nước bên đông thảy thảy, cho đến nước Thiên Trước, cướp đặng nước Biếtxia, và các chư hầu nước Biêtxia thủơ trước; khi vua đặng 33 tuổi thì băng hà.

Vua ấy qua đời song chẳng có con kế vị thì bốn tướng cả liền chia nhau mà trị bốn xứ; mà nước Giuđêa khi ấy lại thuộc về vua Sêlơcô trị nước Xiria, nước Giuđêa chịu phục nước ấy lâu năm, trong bốn đời vua kế nhau, đến đời vua Sêlơcô thứ bốn, là vua có lòng kính thương thầy cả Ônia lắm, và hàng năm dạy ban phát bạc vàng để giúp việc tế lễ Đ C Trời trong đền thờ thành Giêrusalem.

Chẳng ngờ thủơ ấy có một thằng quái gỡ ở trong đền thánh, tên là Simong, nó ghét thầy cả Onia lắm,vì người hằng chống lẽ trái nó, nên thằng ấy đi thưa quan tướng vua Sêlơcô mà rằng: Trong đền thờ Đ C Trời ở thành Giêrusalem, có muôn vàn của cải, mà chẳng phải là của làm việc Chúa; ví bằngvua muốn lấy thì không khó gì. Vua Sêlơcô nghe, liền sai tướng Hêliôđôrô đến đền thờ thành Giêrusalem mà cướp của ấy. Vậy khi tướng nầy vào trong đền thánh, thì chào thầy cả mà rằng: có lịnh vua dạy đến lấy các của quới vật, để tích trong đền thánh, điệu về cho vua. Thầy cả Onia nghe vậy thì sợ hãi mà rằng: Tôi chẳng dám giao của ấy cho ai, vì chưng những của ấy là của kẻ goá bụa người mồ côi gởi trong chốn này cho vững chắc. Vậy tướng ấy rằng: Phải vưng lịnh vua mà thôi, chớ lo sự gì khác. Khi ấy thầy cả cùng cả và dân thành Giêrusalem kinh khủng sợ hãi, mới kêu xin Đ C Trời, cứu kẻ có lòng ngay, coi đền thờ Đ C Trời là nơi kiên cố Chẳng ai cướp đặng, vì có Chúa hằng gìn giữ. - Song tướng ấy chẳng nghe lời, một quyết lòng cường đoạt, mà vào đền thánh. Chẳng hay những quân gia theo tướng ấy, bởi phép mầu nhiệm Chúa làm, liền kinh khủng hoảng hốt mà ngã xuống hết. Tướng ấy lại thấy một người cỡi ngựa, đán mình ngã xuống, lại có hai người trai tốt đẹp đứng hai bên, cầm roi mà đánh mình cùng đuổi ra khỏi đền thánh. Vậy tướng ấy phải đòn đau đớn lắm, ngờ mình phải chết, nên thưa thầy cả, xin người cầu Đ C T cho mình. Thầy cả phần thì có lòng thương, phần thì e vua hay, mà ngờ là mình làm mưu cho quân Giudêu đánh quan tướng vua, nên thầy cả cầu xin cho ông ấy khỏi chết. Đang khi thầy cả cầu nguyện, thì hai người trai ấy lại hiện đến, bảo tướng ấy rằng: Hãy đi tạ ơn thầy cả, vì Đ C T nhậm lời người mà tha cho khỏi chết; hãy nhớ Đ C T có phép tắc là ngằn nào , và hãy cao rao cho cả và thiên hạ hay, Chúa sang trọng oai linh và phải kính sợ Người.

Tướng Hêliôdôrô trở về chầu vua, tâu hết tự sự cho vua nghe; nhưng vua chẳng tin, một quyết lòng muốn đoạt lấy của ấy mà thôi. Vậy vua tính sai kẻ thi hành việc ấy, thì tướng Hêliôđôrô tâu rằng: Vua có lòng ghét quan nào, thì hãy sai quan ấy đi; nó khỏi chết thì là hoạ, nó phải đòn nứt nở cả và mình chẳng khỏi đặng. Vì chưng Đ C T phép tắc, oai linh vô cùng ngự trong đền thánh, Người hủy diệt kẻ có lòng dễ ngươi chẳng sai.


TRUYỆN THỨ MỘT TRĂM NĂM MƯƠI HAI
NHIỀU ĐIỀM LẠ CHỈ SỰ KHỐN KHÓ
THÀNH GIÊRUSALEM PHẢI CHỊU
( Trước Chúa Giáng Sinh 170 năm)

Phe kẻ giết thầy cả Ônia thì hằng kiếm chuyện cáo người cùng vua Sêlôcô, chúng nó tâu cùng vua rằng: Thầy cả làm cho tướng Hêliôđôrô phải đòn trong đền thờ. Vậy ông Ônia phải đích thân đi thành Antiôkia, là nơi vua ngự, mà cắt nghĩa cho vua rõ tự sự. Vua nghe lời thầy cả Ônia và để người trở về bình an.

Song mấy anh em người, có lòng sâu độc, muốn giàng chức thầy cả, nên đã bày ra trăm kế mà hại thầy cả nầy.

Đó là gương cho ta nhớ: Kẻ tận tâm làm việc Chúa, cho tròn nghĩa vụ mình, thì thường gặp kẻ ghen ghét; toan mưu làm hại.

Khi vua Sêlơcô băng hà, thì Antiôcô, là em người lên trị vì; vua nầy ghét đạovà ghét quân Giudêu lắm. Đầu hết vua ấy cất chức ông Ônia; mà đặt em người tên là Giaxon, lên chức thầy cả, vì Gixon nầy cho vua nhiều vàng bạc. Song Mênêlao là em nólại dâng cho vua nhiều vàng bạc nữa, thì vua lại cho nó lên chức thầy cả thế cho Mênêlao. Chẳng may người em khác, Liđimacô lại dâng nhiều vàng bạc hơn nữa, thì vua phong nó lên làm thầy cả. Song chẳng khỏi bao lâu, Mênêlao lại gởi cho vua nhiều vàng bạc, hơn mấy người trước, thì vua liền cho nó phục chức lại. Tên khốn nạn này một phen đặng chức lại, thì nó làm nhiều điều gian ngược, hiếp đáp kẻ lành, cùng làm nhiều tội quái gở. Nó cướp các đồ quý trong đền thánh mà bán. Khi ấy ông Ônia đã phải vua cất chức thầy cả, liền lên tiếng trách kẻ gian ngược dám ăn cắp đổ trong đền thánh Đ C T.

Vậy tên Manêlao, thuê một thằng hung bạo mà giết thầy cà Onia, là đấng đạo đức ngay thẳng, cả dân đều kính phục mến yêu.

Khi vua Antiôcô mắng tin thầy cả Onia phải bị giết, thì thương tiếc, vì biết người là kẻ nhơn đức. Đoạn vua truyền xử tử thằng giết thầy cả Onia.

Khi ấy trong thành Giêrusalem, có nhiều phe đảng, ai nấy đều muốn dành chức thầy cả, cho nên tội lỗi tràn ra trong cả và thành ấy. - Khi các tai hoạ hòng đến, thì Đ C Trời cho nhiều điềm lạ như rao trước sự Người hòng phạt. Dân trong thành thấy luôn bốn mươi ngày, như có binh giặc ở trên không; thấy quân cỡi ngựa cầm gươm cầm búa, mặc áo giáp chạy rượt nhau luôn. Ai nấy đều thấy tỏ tường binh ngựa chạy đi chạy lại đánh nhau, khi thì gần khi thì xa, kẻ thì bắn tên, người thì cầm thuẫn đỡ, lại nghe tiếng khí giới khua lộn nhau, và thấy lưỡi gươm sáng chớp loà, và thuẫn chói ra như màu vàng. Ai nấy thấy sự lạ làm vậy, thì kinh khủng sợ hãi, cầu xin cùng Đ C Trời cứu cho khỏi sự khốn nạn ấy.

Song thằng Giaxon toan cướp quyền cai quản cả và thành, cùng ra lòng dữ tợn hiếp đáp dân chúng. Khi ấy vua Antiôcô sợ thằng nầy cướp quyền vua, nên vua cất binh đến bắt thành Giêrusalem và đặt một quan trấn thủ lên cai trị thay vì vua, như vậy dân Giudêu chẳng còn thế mà làm nghịch cùng vua nữa. Vua antiôcô dễ ngươi Đ C Trời lắm, lên đền thờ mà nhạo cười, coi các đồ vàng bạc để dành làm việc thờ phượng Chúa, như thể vật hèn vậy. Vua nầy thấy mình đặng những sự lành, thì ra như kẻ mê say chẳng còn nhớ, xưa kia chưa khỏi mấy năm, Đ C Trời đã phạt kẻ dễ ngươi Người trong đền thánh ấy một cách tỏ tường. - Nhưng đến đời vua nầy Đ C Trời chẳng còn phạt nữa, vì người để thành Giêrusalem và đền thánh cho quân giặc phá tan, vì tội lỗi quân Giudêu đã phạm.

Đ C Trời muốn cho ta biết, Người phù hộ nhà thờ, đền thánh, chẳng phải là vì đền thánh đâu, song là vì người đạo đức. Người bỏ nhà thánh chẳng binh vực nữa, mà phạt kẻ có tội; đến khi người để cho quân dữ phá phách phạm đến nơi thờ phượng Người, ấy là dấu Người nổi cơn thạnh nộ, muốn phạt kẻ có tội phải khốn mà chớ.


TRUYỆN THỨ MỘT TRĂM NĂM MƯƠI BA
ÔNG ÊLIADARÔ TỬ VÌ ĐẠO
(Trước giáng sinh 167 năm)

Khi vua Antiôcô bắt đặng thành Giêrusalem, thì làm nhiều sự độc đữ trong thành này, xưa nay chẳng hề thấy sự quái gở như vậy. Phải mà vua ấy muốn lấy gia tài, hay là hại phần xác người ta mà thôi, thì cũng còn dễ chịu; Song le vua ấy muốn ép trí lòng ngưới ta, bỏ đạo Chúa, bỏ lề luật ông thánh Môisen truyền, mà theo thói kẻ ngoại. Vua nầy dùng quyền phép mình mà bắt buộc dân bỏ đạo chúa.

Thuở ấy có hai người đờn hà dân Giuđêu cắt bì cho hai con mình, thì vua dạy cột con vào cổ mẹ, mà thắt cổ con, treo trước mặt mẹ, đoạn dạy đem hai đờn bà ấy lên trên vách thành cao, xô xuống cho chết đi. Dân trong thành những lo ăn chơi, phạm các giống tội lỗi quái gỡ. Trên bàn thờ thì vua dạy đặt các hình quái dị, đạo Chúa cấm bấy lâu. Khi ấy chẳng còn ai giám xưng mình là kẻ có đạo, vì phải bắt bớ gia hình dữ tợn qúa lẽ, cho nên ai nấy sợ hãy kinh khủng . Bây giờ Đ C T cho một người rất can đãm làm gương cho những kẻ nhát gan, là ông Eliadarô, là kẻ lớn trong thành Giêrusalem, và tuổi tác già cả.Vua Atiôcô dạy người bỏ luật Chúa, ăn thịt ĐCT cấm. Song le ông nầy xét rằng: Thà chịu chết vì lẽ phải,hơn sống hèn mạc trọn đời.Người suy vậy nên vui lòng chịu chết vì đạo Chúa. Bây giờ kẻ thiết nghĩa cùng người, thấy vậy thương tiếc, xài xin ông ấy cứu lấy mình. Vậy nó đem thịt ĐCT chẳng cấm cho người ăn, để cho vua ngờ ông nầy vưng lịnh vua mà ă n thịt ĐCT cấm, cho khỏi phải chết. Song lẽ ông ấy nhớ lại mình là kẻ lớn tuổi già cả, và dòng dợi sang trọng, giữ đạo từ bé, hằng dưng cử luật ĐCT dạy luôn. Vậy người chóng cãi chẳng chịu nghe điều trái làm vậy mà rằng :Tôi thà chết chẳng thà nghe lời thương quấy làm vậy;Tôi đến đổi nầy ,mà còn đều xoa mị, là sự xấu hổ lắm; ĐCT làm chứng cho tôi, tôi thà chết, chẳng thà nên gương xấu cho kẻ hậu sinh đời sau khinh dễ mà rằng: lão Êliađarô đã gần một trăm tuổi, mà còn làm chước dối cho khỏi chết. Tôi chẳng có tham sống một đôi ngày, mà làm xấu hổ cho tóc bạc nầy. Ví bằng tôi giả dối cho khỏi người thế gian, thì phép nào cho khỏi tay ĐCT đặng? Vậy tôi quyết lòng giữ lấy danh tiếng tôi mà làm gương cho kẻ hậu lai đặng vững bền giữ đạo thánh Chúa cho đến giờ sau hết. Ông nầy nói bấy nhiêu lời, thì kẻ thương trước liền trở lòng giữ tợn trách người là kẻ: Kiêu ngạo cứng đầu.Vậy nó liền lấy dùi, mà đánh chết người tại đó.

Truyện này dạy giáo hữu, kẻ có đạo chẳng nên giả hình, hay là nói đều gì ngoan trá, kẻo người ta biết mình có đạo, cho khỏi thế gian bắt bớ; song le phải ở ngay thật, khẩu tâm như nhứt, trong lòng làm sao, thì ngoài miệng như vậy, thà chết mà trung thành cùng Chúa, hơn mà sống mà bội phản vói Người.


TRUYỆN THỨ MỘT TRĂM NĂM MƯƠI BỐN
BẢY ANH EM TỬ VÌ ĐẠO

Gương ông Êliadarô đã làm cho nhiều kẻ bắt chước người. Vã có một người mẹ và bảy con mạnh mẽ mà chịu khốn khó, vì đạo thánh cũng như ông Êliadarô, và đã nên thánh tử vì đạo. Vậy vua Antiôcô khiến ép bảy anh em nầy bỏ đạo thánh Chúa, sau bỡi thấy phô kẻ ấy, dầu còn trẻ, mà vững bền, thì vua quyết làm hết sức, cùng bày hình khổ độc dữ phi thường, mà làm cho kẻ ấy ngã lòng theo ý vua. Trước hết vua dạy da hình một khi một người, trước mặt người mẹ đang đứng đó. Đoạn dạy cắt lưỡi, chặt tay chơn, lột da đầu và mặt. đến khi bảy người ấy đã nên như gốc cây, chẳng còn phải hình người nữa, thì dạy bỏ vào trong vạc đồng mà rang, như rán dầu mỡ vậy. Khi thấy bảy thánh trẻ nầy ngợi khen ĐCT và kính lạy Chúa hay sửa phạt kẻ tội lỗi, cũng hết lòng khiêm nhượng, xưng mình đáng chịu khốn khó như vậy. Các thánh nầy dâng sự sống vắn vỏi mình cho ĐCT, trông ngày sau Chúa sẽ trả lại cho mình, sự sống lâu dài thanh nhàn chẳng cùng. Đang khi bảy thánh trẻ nầy chịu gia hình khảo lược trước mặt vua, thì đồng tâm vua có lòng độc dữ lại đe rằng: Ngay sau vua vẽ biết, vì dám làm nghịch cùng

ĐCT, thì vua sẽ phải khốn nạn cực dữ là ngằn nào. Vua đời nầy ĐCT dùng như roi mà phạt tội lỗi dân ĐCT, song đến sau vua phải chịu phạt vô cùng. Vua thấy sáu trẻ nầy can đảm như vậy thì càng tức giận, ra sức dỗ dành người em út, nên vua phú người con út cho mẹ khuyên giục theo lịnh vua. Bấy giờ người mẹ nhơn đức nầy nên gương cho các người mẹ bắt chước, đem con ra nơi vắng vẻ, nói tiếng Giudêu, mà dạy con rằng: Con ôi! hãy thương lấy mẹ: mẹ đã chịu khó cưu mang con chín tháng, cho con bú mớm ba năm, bồng ẵm, giữ gìn con cho đến tuổi nầy; mẹ xin con ngửa mặt xem trời, và ngó xem dưới đất, và mọi sự trong thế gian nầy, mà suy ĐCT đã sinh nên muôn vật cùng loài người ta. Vậy thì con chớ sợ kẻ dữ tợn độc ác làm chi, song con hãy sẵn lòng chịu chết vì Chúa, làm một cùng các anh con; mẹ thấy các anh con đi một đàng, thì mẹ vui mầng quá bội. Trẻ nầy nghe lời mẹ khuyên bảo, liền chạy vào tâu vua rằng: Tôi chẳng có theo lời trái vua đâu tôi một giữ đạo ông Môisen truyền mà thôi. Đoạn lại e rằng: Chẳng khỏi mấy năm nữa khi tôi cùng các anh tôi đổ máu ra mà chết vì đạo Chúa, thì ĐCT sẽ tah cho dân Giudêu. Còn vua thì sẽ phải ĐCT chết như các anh, còn người mẹ rất nhơn đức nầy cũng phải đổ máu ra, pha làm một cùng máu các con.Bà mẹ này sinh con hai phần: một là phần xác, hai là phần linh hồn, là làm cho các con đặng phước chịu chết vì đạo Chúa.

Vậy các thánh sư khe bà này, là người nữ rất lạ vô song. Bà ấy thấy các con chịu gia hình rất độc dữ thảm thiết trước mặt mình, thì người vững bền an ủi các con chịu khó vì Chúa cho đến cùng, thì rất ngược tính các bà mẹ thế gian, thường lề dỗ dành con cái theo lẽ trái. Song le bà này hết lòng tin cậy Chúa, chẳng kẻ sự đau đớn trong lòng: một lo sợ, hoặc có con nào rủn chí nghã lòng mà chối đạo chăng. Bà này nên gương cho các người mẹ có đạo, thì phải biết dưng con lại cho Chúa, chẳng nên coi như của riêng mình lại phải dạy dỗ con cái cho nó biết liều mạng sống mình, mà giữ trọn nghĩa cùng ĐCT. Thà chết mà chẳng thà bỏ Chúa.


TRUYỆN THỨ MỘT TRĂM NĂM MƯƠI LĂM
ÔNG MATATIA CHỮA DÂN GIUDÊU
(Trước giáng sinh 167 năm)

Đang khi vua độc dữ Antiôcô đổ máu dân Giudêu khắp các thành các xứ, thì ông Matatia, là người dòng dõi ông Aaron, hằng đau đớn xót xa trong lòng, chịu chẳng đặng, nên bỏ thành Giêrusalem, đem con cái về ở thành Môđinh. Đến đó, có ý giải lòng phiền muộn, song lòng còn đau đớn luôn vì nhớ đến các sự khốn khổ cả và dân phải chịu; nhớ thành Giêrusalem rày đã nên như con thịt phải muôn sói cắn xé; nhớ của thánh đã phải lọt vào tay quân dữ, nhà thờ đã tràn ra các giống tội lỗi phi thường; các đồ dùng tế lễ Chúa, rày đã chuyển đi các nước như của hèn hạ, và các giống quới vật đã phải tay trộm cướp phân chia tan tác trong các nước. Ông này nhớ lại những sự khốn khó làm vậy, thì chẳng còn muốn sống ở đời, liền xé áo ra, mặc áo nhậm, nước mắt chảy ra cuồn cuộn, như hai dòng suối.Đang khi người than phiền làm vậy, thì vua Antiocô sai một quan đến ép dân thành Môđinh theo lịnh vua, mà tế lễ các bụt thần. Vậy có nhiều người Giudêu khốn nạn vưng lịnh vua, có một mình ông Matatia cùng con cái người vững vàng kiên cố chẳng vưng lịnh vua ấy. Vậy quan hết sức dỗ dành người, phần thì đe hình khổ dữ tợn, phần thì hứa chức quờn giàu sang, nhưng mà ông này một lòng vàng đá, mà trả lời rằng: Dầu cả và dân Giudêu vưng lịnh vua, thì tôi và con cái tôi chẳng hề chịu; chúng tôi dốc lòng giữ luật đạo thánh Chúa cho đến chết, lòng chúng tôi đã quyế theo đàng này, chẳng có ai làm cho chúng tôi bỏ đặng. Người đứng giữa sân, nói bấy nhiêu lời, trước mặt cả và dân thành Môđinh đang tựu hội đông lắm; cũng một khi ấy ông này thấy sự quái gở, là một người Giudêu hòng đến tế lễ bụt trước mặt thiên hạ, thì người đau đớn xót xa trong lòng, tức giận hết sức, vì thấy nó dễ ngươi ĐCT quá lẽ; người liền xong tới giết thằng Giudêu, lại giết luôn quan áp việc nữa. Đoạn người rao trong thành Môđinh lớn tiếng rằng: Hễ ai hãy còn có lòng kính mến đạo thánh Chúa, thì hãy bỏ thành mà theo ta.

Ban đầu ông này phải trốn ẩn cùng năm con trai người, Ximong, Gioan, Giuđa, Êliadarô và Gionatha. Lại những người Giudêu còn can đãm, và có lòng sốt sắng giữ đạo tháh Chúa, liền hiệp cùng ông Matatia, mà lập nên một đạo binh ứng ngãi, hầu đánh đuổi những kẽ thờ phượng bụt thần, và phá bàn thờ ma quỉ cho tuyệt; lại dạy hễ con trẻ thì phải chịu phép cắt bì; ĐCT phù hộ nên hễ đánh đâu, thì đặng trận đó.

Ông Matatia liệt, biết mình gần tạ thế, bèn kêu các con đến cố ngôn mà rằng: Rày đã đến kỳ kẻ kêu ngạo thừa thế, đã đến tuần ĐCT phạt thành Giêrusalem, cùng cả và dân chúng ta phải khốn. Nên cha khuyên các con, phải lấy lòng sốt sắng kính mến đạo thánh Chúa. Các con hãy nhớ lại gương các thánh tổ phụ, mà bắt chước phô đấng ấy, thì mới đặng rạng danh như phô đấng ấy xưa. Ông thánh Abaraham chịu Chúa thử thách, mà bền chí vững lòng thì mới đặng nên thánh. ông thánhh Giuse gặp sự khốn khó, mà còn giữ lời Chúa dạy, nên mới đặng lên trị vì nước Egíptô. Ông thánh Phinê, là tổ tông bay, bởi có lòng sốt sắng sửa dạy kẻ có tội, thì ĐCT ban cho người dặng chức thầy cả. Ông Calép chẳng khấn nói gian, thì đặng phước vào đất ĐCT hứa. Ông Đavít bởi có lòng hiền lành, thì đặng làm vua, truyền tử lưu tôn. Ông Êlia bởi có lòng sốt sắng như lửa, mà quở phạt kẻ có tội, thì đặng lên trời khỏi chết. Ông Anania cùng hai bạn khỏi lò lửa, vì chẳng theo lẽ trái. Ông Đaniê khỏi miệng sư tử, vì người có lòngtin cậy, và trọn bề thờ phượng Chúa. Vậy cha khuyên các con, hãy nhớ lại các truyện đời xưa, mà gẫm đi gẫm lại một lẽ này; là hễ ai có lòng tin cậy Chúa, chẳng sợ lời kẻ độc dữ thì chẳng hề phảixâú hổ bao giờ. Bằng về sự sang trọng đời này thì như áng mây mới đó liền tan, mọi sự lo ra kêu ngạo cũng phải biến tan như vậy. Cho nên cha khuyên các con ở cho vững vàng, như anh hùng hào kiệt, rán giữ đạo thánh Chúa cho bền chặt: vì đạo thánh Chúa sẽ làm cho các con đặng thơm danh muôn đời. Rày có Ximong, là anh cả qườn huynh thế phụ, sẽ thay mặt cha mà nên cha chúng con, vì cha đã biết nó là người khôn ngoan trí tuệ; các con hãy nghe lời nó luôn. Bằng thằng Giuđa Macabêu, là người mạnh mẽ những thuở bình sinh, thì sẽ làm tướng đánh giặc mà cứu cả và dân. Lại các con hãy kêu kẻ nào trong dân mà có lòng mến đạo thánh Chúa hãy đánh trả quân dữ, phạt kẻ ngoại đã dám khinh dễ đạo thánh Chúa. Ông Matatia cố chúc bấy nhiêu lời đoạn, thì người tạ thế. Các con cất xác người nơi phần mộ các thánh tổ tông, mà cả và dân Isarae đều sa nước mắt, thương tiếc người thảy thảy.


TRUYỆN THỨ MỘT TRĂM NĂM MƯƠI SÁU
ÔNG GIUĐA ĐÁNH GIẶC
(Trước giáng sinh 166 năm)

Khi ông Matatia sinh thì đoạn, thì con cái người tận lực mà làm cho thành việc cha đã trối lại. Ông Giuđa lấy áo đồng giáp mặc vào, tay cầm gươm một lưỡi mà che phủ muôn dân. Ông ấy ruổi đánh chúng dữ, như sư tử ra oai mà đuổi bắt con thịt; cho nên nổi danh tiếng và làm cho cả và chúng gian hùng kinh khiếp. Dầu người lo tuyền binh cho nhiều, nhưng người chẳng chịu dùng kẻ xấu nết, một chọn những người đạo đức, có lòng sốt sắng giữ đạo Chúa. Hễ kẻ nào ngày trước đã tế lễ bụt , thì ông ấy chằng cho nhập cơ, vì xét rằng: kẻ a dua theo ma quỉ, thì chẳng đáng cầm khí giới mà cứu dân ĐCT. Người lại e kẻ có tội nhập cơ mình, thì làm hại cả và đạo binh phải khốn duồng nó chăng, vì chưng người chẳng có cậy sức binh lính, cho bằng cậy phép Chúa. ẤY vậy ông Giuđa chọn khấp mọi nơi những người lương thiện; những kẽ trước ẩn lánh trong hang đá, trốn cho khỏi làm việc ma quỉ, thì người cho nhập cơ quân làm một đạo binh sáu ngàn người. Khi đặng bấy nhiêu quân lính, thì mới quyết lòng đi đánh quân ngũ nghịch khắp nơi, mà tẩy trừ cho sạch kẻ xấu. Vậy trước hết, ngưì khuyên quân mình, phải lấy lòng tin cậy Chúa, mà rằng: ĐCT có phép tắc vô cùng, dụng quả địch chúng. Người muốn dùng ít kẻ, mà phá an nhiều người; quân giặc đến đánh ta, nó có loòng kêu ngạo cậy sức mình; nhưng mà ta phải quyết lòng đánh trả nó, mà cứu linh hồn ta và linh hồn vợ con ta, thì ĐCT sẽ huỷ diệt nó trước mặt ta; vậy các anh em chớ sợ làm chi; ai ví cho bằng ĐCT đặng? Ông Giuđa lấy lời sau hết này mà đề trên cờ chư tướng có chữ Macabêu, nghĩa là cái búa, cho nên từ ấy về sau ông Giuđa có tên là Macabêu. Sau nữa, ông nầy khuyên quân mình ăn chay khóc lóc cầu xin cùng ĐCT, và xưng mình là kẻ có tội, đáng phải chịu phạt. Sau hết, người khuyên những kẻ theo người mà rằng: Nhược bằng có ai rủn chí sợ hãi, hay là toan cưới vợ, hay là nhớ cữa nhà vợ con, thì ra cho khỏi, kẻo để những đứa làm vậy, hại cả và đạo binh chăng. Đoạn người cất binh đi đánh quân nghịch.

Ông thánh Avoloxiô Giám mục thánh sư gẫm truyện này mà rằng: Ông Giuđa là gương rất tốt, để cho kẻ có chức trong Hội thánh năng xem mà bắt chước. Người lấy khí giới mà che lấy mình, ấy là ví dụ kẻ làm thầy đạo đức, phải dùng khí giới thiêng liêng, là lòng tin cậy mến Chúa, nên như áo giáp mà che mình cho khuất. Người lấy gươm mà cứu cả và dân Chúa cho khỏi kẻ nghịch, thì ông thánh Phaolô rằng: gươm đấng làm thầy đạc đức, là lời sấm truyền, mà khi các thầy biết dùng gươm ấy, thì đặng che đỡ các giáo hữu cho khỏi kẻ thù nghịch. Trong sách này lại khen ông Giuđa rằng: người là như sư tử đuổi bắt con thịt, cũng là ví dụ kẻ làm thầy đạc đức, chẳng có lẽ gì mà sợ qườn phép thế gian, vì đã có ĐCT phù hộ. Sau hết như ông này , phần thì sợ, phần thì làm, phần thì cầu nguyện, phần thì ăn chay, phần thì khuyên bảo, phần thì làm gương tốt, ấy là những việc đấng bề trên phải làm, thì mới đáng làm tướng cai trị dân ĐCT. Dầu có ít người, mà một ý một lòng cùng nhau, thì chết sẽ đặng thắng ma quỉ, cùng đặng công danh trước mặt ĐCT nữa.


TRUYỆN THỨ MỘT TRĂM NĂM MƯƠI BẢY
ÔNG GIUĐA ĐẶNG TRẬN

Ông Giuđa sắm sửa binh khí đoạn, trước hết cất binh đến đánh Aphôlôniô, là tướng vua Antiôcô, thì đặng trận, mà ông Giuđa chém đặng tướng ấy, thì lấy bửu kiếm dùng đánh giặc trọn đời. Bấy giờ tướng Sêron đem binh tiếp chiến, thì ông Giuđa lại lấy đặng đầu nó, mà đuổi chúng tàn bạo tan tác. Khi trước nó ngờ đặng trận chẳng hay nó cũng phải bại trận, sự ấy lại thêm nổi danh cho ông Giuđa hơn nữa. Khi vua Antiôcô mắng tiếng hai tướng đã tử trận, thì vua liền xuất hết vàng bạc trong kho, mà tuyển một đạo binh vô số, toan đánh đặng ông Giuđa. Vậy vua đặt Lydia, và Philípphê làm tiết chế tổng lãnh quân sự; hai tướng ấy lại sai ba tướng khác sang nước Giuđa, là Tôlêmê, Nicanô, và Gorogia; mà ba tướng này có danh trong nước, và cai nhiều đạo binh, cho nên khi ấy quân Giudêu sợ hãi lắm. Song le ông Giuđa khuyên quân mình ở cho vững vàng, chớ sợ làm chi, hãy nhớ lại phép lạ ĐCT làm, mà cứu các thánh tổ tông đời trước. Đến ngày toan xuyất trận, thì quan quân phải dọn mình ăn chay cầu ngiyện; dầu mà người có ít quân, song cũng phá đặng đại binh kẻ nghịch, làm cho nó phải chạy trốn xấu hổ, quan tiết chế Lydia thấy giặc này trái ý vua lắm, thì người quyết năm sau sẽ thân chinh đi đánh. Đang khi ấy ông Giuđa lập lại thành Giêrusalem, người thương tiếc lắm, vì thấy mọi sự đã ra hoang vu đồ tệ. Người lo cách riêng về đền thánh, chọn trong các thầy những người chẳng có theo việc ma quỉ thuở trước, để mà lo việc Chúa. Những bàn thờ kẻ ngoại đặt bấy lâu, mà tế lễ ma quỉ, thì người huỷ hoại đi hết, kẻo để vậy thì mủi lòng, vì hằng thấy những sự xấu hổ thuở trước luôn. Lại người dạy đúc lại các đồ đồng, để dùng trong việc tế lễ ĐCT; mà khi mọi sự trong đền thánh đã sắp đặt xong, người liền dạy cả và dân tụ hiệp lại mà tế lễ ĐCT, như thói quen thuở trước. Lại khi người tái tạo các vách luỹ thành Giêrusalem đoạn, thì mới đem binh đi đánh giặc, mà đặng thắng trận luôn, vì nhờ có ĐCT làm tướng. Có một lần quân lính thấy bên mình ông Giuđa có năm tướng hiện đến mặt mũi oai nghi, hình duông mạnh mẽ; ahi tướng thì cưỡi ngựa mà giữ hai bên ông ấy, còn ba tướng thì cầm cung mà bắn luôn, cho nên trong trận này kẻ nghịch phải loà con mắt, mà ra mù quáng cùng kinh hãi, quá đỗi nên chẳng còn làm chi đặng nữa.

ĐCT làm phép lạ này một lần làm vậy, cho ta đặng suy, kẻ nhơn đức chịu khó vì đạo thánh Chúa, thì có Chúa giữ gìn nhiều cách thiêng liêng, cho nên mọi qườn phép thế gian chẳng làm hại đặng. Phải mà ĐCT cho con mắt chúng tôi xem thấy tỏ tường phép tắc Người, thì chúng tôi sợ hãi lắm, cùng nhìn biết mọi sức chúng tôi đề nhỡi ơn thiêng liêng Chúa ban mà ra. Vì chưng Thiên thần Chúa giúp chúng ta đã có nhiều và lại mạnh thế, hơn kẻ nghịch ta ngà trùng; dầu mà nó là muôn vàn, thì cũng như có một mà thôi.


TRUYỆN THỨ MỘT TRĂM NĂM MƯƠI TÁM
VUA ANTIÔCÔ QUA ĐỜI
(Trước giáng sinh 164 năm)

Ông Giuđa đặng trận, thì quan tiết chế cùng ba tướng chạy sớ về cho vua Antiôcô, khi ấy vua đang đánh giặc trong nước Biếtxia. Vậy một trật ấy vua rất kiêu ngạo này, mắc phải hai điều rất xấu hổ và hai: Một là vua trẩy đi phương xa, toan cướp lấy những đồ quý vật vua đời trước mà làm chẳng đặng; hai là mắng tiếng dân Giudêu nổi nguỵ, và đã đặng trận nhiều phen. Vậy vua giận lắm, liền hồi binh trở về, thì sẽ phá tan thành Giêrusalem, và làm cho thành ấy trở nên đống đá, cùng hoá nên hang cầm thú ẩn núp. Đang khi vua ngồi trên xe, hằm hằm chạy hoảng,

thì ngã xuống đất, liền giập nát cả mình gần chết. Bấy lâu vua kiêu ngạo này ngờ là mình có phép cai trị sông biển, đầu đội chín từng trời, mà chẳng ngờ thoát chúc phải tay ĐCT đá đến, cả và mình lở lói thúi tha, lại thêm đau đớn xót xa trong ruột quá lắm. Sự đau đớn trong ruột này là hình phạt vua, vì xưa vua đã làm cho lòng dạ người ta phải đau đớn; cả và mình vua sinh giòi tửa gớm ghiếc, thịt rơi xuống đất từ tấm, bay mùi hôi thúi sặc sụa. Cho nên mình lại chịu mình chẳng đặng, bộ thần hầu hạ đều nhờm gớm chẳng dám đứng gần. Bấy nhiêu sự khốn nạn một ngày một tăng thêm, cho đến khi vua kiêu ngạo ấy suy xét lại rằng: kẻ hèn mọn hay hư hay nát, thì chẳng nên sánh cùng ĐCT, là Chúa hằng có, thì thậm phải lắm. Bây giờ tôi biết tỏ tường, bởi tôi đã làm nát hại trong thành Giêrusalem, thì rày tôi lấy làm buồn bực trong lòng tôi lắm; tôi biết tỏ tường ĐCT phạt tôi nặng nề, khi tôi ở khách đày xa quê hương xứ sở làm vậy, vì thuở trước, khi tôi đặng thong dong hoan lạc trong đền, thì tôi đã dễ ngươi ĐCT. Vậy tôi dốc lòng sửa lại mọi sự trái; tôi sẽ dâng của lễ trong đền thờ, tôi sẽ cấp ngũ lộc dùng việc thờ phượng ĐCT, tôi dốc lòng chịu đạo Giudêu, và tôi sẽ đi khắp mọi nơi trong nước, mà cao rao phép tắc Chúa. Đoạn vua ấy viết một bức thơ gởi cho ông Giuđa, xin giao hoà cùng người, cùng con cháu người đời sau, và sẽ làm ơn lành cho dân Giudêu. Bởi vua gần chết, sợ Chúa phán xét, lại tiếc sự sang trọng đã mất đi vì tội phản ngày trước, thì ăn năn tội. Nhưng mà ĐCT Thần chê trách vua này mà rằng: Vua Antiôcô rất quái gở dữ tợn, khi ấy vua kêu van cùng ĐCT, xin tha tội cho mình; nhưng mà chẳng đặng khỏi tội vì vua ấy ăn năn tội, lo buồn trách mình làm vậy nhưng trong lòng hãy còn độc dữ, như khi trước.

Ấy vậy vua này phải chết khốn nạn, nên gương cho ta phải sợ cho lắm, mà suy lẽ này, là kẻ có tội chẳng khá chờ đến khi gần chết, mới chịu ăn năn trở lại cùng Chúa.

Kẻ có đạo bao lâu còn sống dưới thế, hằng nắm giữ điều răn ĐCT, cùng hết lòng kính mến Chúa, khi đến giờ lâm chung, chắc sẽ đặng ĐCT thương giúp. Vì chưng ông thánh Augutinô giám mục thánh sư nói rằng: Ai muốn đặng bằng an trong giờ chết, thì lúc còn sống phải theo đàng phước đức. Ông thánh ấy lại dạy rằng: hễ ai đã theo đàng phước đức, đên khi gần chết, chẳng có lẽ gì mà khốn đặng. Vậy ai sống lành thì sẽ chết lành, ai sống dữ thì sẽ chết dữ, như lời Chúa phán: Cây xiên phía nào sẽ ngã phía nấy chẳng sai.


TRUYỆN THỨ MỘT TRĂM NĂM MƯƠI CHÍN
ÔNG ÊLIADARÔ TỬ TRẬN

Khi vua Antiôcô qua đời đoạn, thì sự khốn khó dân Giudêu chưa dứt, và giặc giã cũng chưa đặng an; vì chưng con vua dữ ấy, cùng tên là Antiôcô, lên thế ngôi cha, vua này có lòng ghét quân Giudêu lắm, cũng như vua cha vậy; dầu mà mắt đã thấy cha mình phải phạt nặng nề dường ấy, lại tai đã nghe lời cha ăn năn hối hận, mà trối lại phải làm lành cùng dân Giudêu; song vua này cũng chẳng bớt lòng giận dữ, lại thêm lòng ghét quá hơn cha nữa. Vậy vua mới toan mưu kế, mà làm giặc cùng dân Giudêu: khi vua ấy mới lên trị vì, thì có hai ba người Giudêu có lòng hềm ghét ông Giuđa. Vậy nó liền đem nhau đi tâu vua, mà cáo ông Giuđa rằng: tâu đức vua muôn tuổi, Giuđa ức hiếp dân lắm; trong cả và dân chúng tôi, có một hai người theo Giuđa mà thôi; còn bao nhiêu, thì muốn phục qườn vua, nhưng có một mình Giuđa cầm mưu cản lại; mà người một lâu một mạnh thế, nếu vua để vậy, ắt là ngày sau chẳng còn thế gì mà làm cho xuể người.

Quân quái gở cáo gian làm vậy, thì vua liền giận lắm, tuyển mười muôn binh bộ, hai muôn binh mã, lại ba mươi hai thớt tượng, đã tập luyện đánh giặc, mà nó mạnh lắm, hay đuổi đánh phá phách dữ tợn lắm. Mỗi một thớt tượng có một cái tháp trên lưng, và ba mươi hai người núp trong tháp ấy mà bắn ra. Cho nên giặc này rất oai khí quá bội, phần thì nhiều binh mã, phần thì có nhiều khí giới lạ lùng, phần thì khéo bày binh bố trận, phân chia đội ngũ hậu vệ trước sau nghiêm nhặt, phần thì vang vầy tiếng kèn loa chiên trống, phần thì binh tướng ạnh mẽ dữ tợn, lại là giống lạ quân Giudêu xưa nay chưa hề thấy. Dầu vậy ông Giuđa cũng chẳng sờn lòng thối chí. Bằng quân người thì cũng có lòng can đảm, như sư tử, đem nhau ra liều mình quyết chiến; nên trận ất giết đặng nhiều quân giặc lắm. Mà ông Eliadarô, là em út ông Giuđa, lại lập công càng trọng hơn nữa, vì chưng thấy một thớt tượng có dấu cờ đề chữ hoàng đế, thì ngờ là vua Antiôcô ngự trên thớt tượng ấy; vậy người quyết chạy tới, giết vua Antiôcô một pen, cho đặng an thiên hạ. Cho nên ông Eliadarô xông vào giữa muôn binh giặc, dường bằng sư tử nhảy trong rừng: tay người cầm bửu kiếm, ra tài thủ đoán, tả đục hữu xông, giết vô số những quân vây bắt người.

Khi ấy bốn quân đều kinh tâm phá đãm, mà người mở nên một đàng quyết lộ, thấu vào cho đến gần thớt tượng có dấu cờ đã thấy.Đoạn người tốc vào dưới bụng nó, cầm gươm mà đâm thâu vào ruột: tượng ấy liền ngã xuống đè lấy người trở ra chẳng kịp, mà phải chết dưới tượng ấy. Người giết đặng thú này, mà nó đã nên phần mộ lấp xác người. Vua Antiôcô thấy người mạnh mẽ lạ lùng làm vậy, thì kinh hãi mới xét lại mà rằng: ta phải làm hoà cùng quân Giudêu này thì hơn. Nên vua mới hồi binh cầu hoà cùng ông Giuđa và quân Giudêu cho vững vàng trong nước, kẻo phải âu. Ấy một người can đảm đổ máu mình ra mà chuộc lấy cả và dân Chúa cho đặng bằng an.

Các thánh gẫm rằng: Ông Eliadarô lập công nghiệp trọng, vì liều mình chết, mà cứu lấy dân Chúa, cho khỏi khốn nạn phần xác, huống chi kẻ liều mình chết vì đạo thánh Chúa, thì sẽ đặng công nghiệp trọng vọng là ngằn nào.

Ông thánh Phaolồ lại rằng: người thế gian ngoại đạo đua tranh, cho đặng danh tiếng, là sự hay qua chóng hết như gió vậy, hay là cho đặng mũ triều lá hoa, là vật hèn một giây phải khô phải héo; mà còn ra sức lo lắng chịu khó lâu ngày tập rèn cho đặng. Huống chi kẻ có đạo Chúa, muốn cho đặng mũ triều thiên chẳng hay hư chẳng hay mòn, trên nước Thiên đàng, thì càng phải lo lắng chịu khó là thể nào?


TRUYỆN THỨ MỘT TRĂM SÁU MƯƠI
ÔNG GIUĐA TỬ TRẬN
(Trước giáng sinh 164 năm)

Khi vua Antiôcô thứ hai đã iao hoà cùng dân Giudêu, thì vua trở về nước mình; mà lúc ấy trong nước đã sinh nhiều sự hỗn độn, vì bà con cùng cháu vua ấy cậy thế nước Roma binh vực, thì nó tranh hoành cùng vua Antiôcô, mà cướp lấy nước Xiria. Vậy ông Đêmêtriô liền giết vua, mà lên trị nước Xiria. Khi vua này lên trị, thì kẻ ghét ông Giuđa lại đến tâu vua, mà cáo gian người;

vua liền nghe cùng dốc lòng cất binh đi đánh ông Giuđa. Vua sai hai tướng đem binh đi tuyên chiến, khi ông Giuđa bất ỳ chẳng phòng thủ trước. Nhưng ông Giuđa, phần thì khôn ngoan trí tuệ, nên khỏi chước phản gian; phần thì mạnh dạn, nên đánh đặng đạo binh quân giặc. Vua lại sai ông Nicanô làm tướng, lãnh đại binh đi tiếp chiến; mà tướng này trước muốn làm bí kế, coi có đặng việc chăng; song khi thấy làm chẳng đặng, thì mới ra măỵ làm dữ tỏ tường, chỉ tay lên trời mà thề, sẽ phá thành Giêrusalem và đền thánh chẳng tha, đoạn cất binh đến đánh ông Giuđa. Đêm ấy, thấy ông Ônia, là thầy cả đạc đức thuở trước, cùng ông tiên tri Giêrêmia hiện đến: mà ông Ônia chỉ ông Giêrêmia mà nói rằng: Này là người hằng cầu nguyện cho quân Giudêu cùng thành Giêrusalem chẳng khi đừng. Ông Giuđa thấy vậy đoạn hai ông ấy liền biến đi. Đến sáng ngày ông Giuđa nói lại cùng quân lính sự ấy, cho nó thêm lòng mạnh mẽ mà đấu chiến. Vậy đến ngày hai bên xuất trận, thì tướng Nicanô phải tử trận, cả và đạo binh nó phải vỡ chạy tan tác.

Dân Giudêu đặng trận cả thể bèn chặt đầu và bàn tay tướng Nicanô, mà treo trên vách đền thánh, vì ngày trước nó đã lấy tay chỉ lên trời thề sẽ phá đền thánh, thì rày nó phải phạt làm vậy mà đền tội. Vua Đêmêriô lại sai hai tướng khác đem bá vạn hùng binh đến đánh trả thù; thì quân lính ông GIuđa thấy binh nghịch mạnh mẽ và đông vô số, thì kinh hãi có kẻ khuyên người tháo lui, kẻo ít quân, sợ chống chẳng nổi quân nghịch chăng. Ông Giuđa thấy vậy bèn cầu xin cùng Chúa rằng: Xin Chúa tôi cứu chữa, kẻo tôi sờn lòng nghe theo lời quấy làm vậy. Tôi chưa hề trốn giặc phen nào. Ví bằng ĐCT định đến giờ này chúng tôi pải chết, thì chúng tôi chết vững lòng; nhưng mà chẳng hề làm sự gì hổ thẹn, nhơ công danh đã lập bấy nhiêu năm trước. Ông GIuđa còn tám trăm quân nhơn ngãi, chịu đặng một ngày tròn cùng muôn vàn quân giặc, cùng phá tan cánh binh tả. Bấy giờ binh hậu tiếp viện xông tới sau lưng, thì ông Giuđa phải tử trận. Ông Giuđa đầy công trận: cả đời tay cầm khí giới mà bênh vực đạo thánh ĐCT một cách mạnh mẽ lạ thường, và sau hết, đặng chết nơi chốn chiến trường vì Chúa vì dân.

Ông thánh Amvoloxiô giám mục thánh sư gẫm rằng: ông Giuđa trọn đời, nên gương cho hàng đạc đức đặng hay, phải đánh giặc cùng ma quỉ thế gian, mà bênh vực đạo thánh ĐCT cho đến trọn đời. Chớ khá vì công trận bấy lâu trước, mà hạ khí giới, xin lui về nghỉ ngơi cho rãnh ran công vụ. Song cao niên lớn tuổi, thì càng phải cố gắng hơn nữa mà chịu khó, cho đến ngày toàn công thắng trận là ngày chết, mà về nghỉ ngơi đời đời cùng Chúa..

Vậy ta chẳng nên sợ sự gì ở thế gian này, vì có ĐCT hộ phù ta luôn, và Người sẽ trả công ta vô cùng cho ta đời sau.

 

2211    17-03-2011 09:45:30