Sidebar

Thứ Năm
25.04.2024

Sấm Truyền Cũ_Truyện 21_30


SẤM TRUYỀN CŨ
Truyện Thứ
Hai Mươi Mốt đếnThứ Ba Mươi

TRUYỆN THỨ HAI MƯƠI MỐT
ÔNG ABARAHAM SINH THÌ; BÀ RÊBECCA
(Trước giáng sinh 1824 năm)

Từ ngày ông Egiác làm bạn cùng bà Rêbecca, thì ông Abaraham hãy còn sống lâu cho đế khi lớn tuổi mới qua đời. Ông thánh này trọn đời ở hết lòng cùng Chúa, trọn đời xưng mình là khách đày dưới thế gian, chẳng hề muốn về quê vức bà con;trọn đời trí người chịu lụy đức tin, lòng người vưng lời ĐCT dạy, chịu những sự khốn khó, hằng theo ý Chúa, chẳng sai một chút; bằng đến khi gặp việc gì rối, phần thì người khôn ngoan, phần thì có gan dạ mà làm xong mọi sự. Sau nữa, ông thánh này ở đời một trăm bảy mươi lăm tuổi, làm những việc phước đức, đặng chức đáng gọi là cha người ta, và làm gương để cho kẻ có lòng tin bắt chước, cho đặng phước vô cùng.

Khi ông thánh này đã sinh thì, thì ĐCT lại hứa cho Egiác đặng mọi sự lành. Song le bởi ĐCT hay pha sự lành làm một cùng sự khốn nạn, vậy ông Egiác chịu khốn khó, vợ chồng ở cùng nhau đã đặng hai mươi năm, mà chẳng đặng sinh mộ con nên tiếc và buồn lắm, bởi có lòng trông đợi Chúa Cứu Thế sẽ sinh ra bởi dòng dõi mình; hai ông bà càng lâu càng cầu nguyện, xin cho đặng con. Vậy lâu năm thì bà Rêbecca mới chịu thai sanh đôi, lại khi hai con còn ở trong lòng mẹ thì tông nhau, cho nên động thai chẳng an: thì bà ấy lo lắng cầu nguyện cùng Chúa, xin cho kiết ý nào ra sự lạ này. Vậy ĐCT cho biết, hai con trẻ ngày sau sẽ làm tướng trị hai xứ, mà nghịch tạc cùng nhau; song le con thứ hai lướt lấy làm đờn anh. Đoạn ngày mãn nguyệt, liền sổ một con đầu lòng ra, đặt tên là Egiau, con thứ hai đặt tên là Giacóp. Đến khi lớn khôn, Egiau làm người bạo ngược lung tặc, và có sức mạnh mẽ hay đi chơi săn bắn; ông Giacóp là người hiền lành, hay chịu luỵ, ở cùng cha mẹ. có một lần ông Giacóp nấu cháo đậu, đên tối ông Egiau đi săn mà về đã đói lắm, liền xin em bát cháo, và đòi ăn hối hả vội vàng. Ông Giacóp liền giao rằng: Anh muốn ăn cháo tôi, thì anh nhường cho tôi làm con đầu lòng, tôi sẽ cho. Vậy Egiau liền nghe, mà để cho ông Giacóp quờn trưởng nam, cho đặng bát cháo, khi đặng thì ăn lật đật, chẳng luận sự gì. Sự này nên ví dụ kẻ mê ăn uống, mà bỏ qườn chức làm con ĐCT, cho đặng no ấm phần xác một chút.

Các thánh sư rằng: hai trẻ này nên ví dụ kẻ lành kẻ dữ làm giặc cùng nhau từ thuở mới sinh cho đến chết; kẻ dữ thì đặng mọi sự ích phần xác, như con đầu lòng; song le chẳng đặng bao lâu, sẽ phải hạ xuống làm bề dưới kẻ lành; vì chưng một khi nó làm sự dữ, là một khi nó giúp kẻ lành đặng thêm nhơn đức khiêm nhượng mà chớ.

Sau nữa ai nấy nghe truyện người này bỏ quờn chức con đầu lòng, cho đặng một chút vui lổ miệng , thì phải sợ hãi, e hoặc mình bắt chước nó chăng, mà đổi nước Thiên đàng, lấy một chút vui tạm ở đời, là sự hèn hạ chóng qua chóng mất. Lại như người ấy chẳng có lo, chẳng có tiếc cho đến khi tỏ tường, mình đã mất quờn con đầu lòng cha sang trọng giàu có, thì mới sợ hãi kêu khóc, mà chẳng còn đặng ích gì, vì chưng mình đã chọn lấy phần hèn khi trước, nào phải bởi ai ép uổng? Ấy là ví dụ kẻ dữ đến ngày phán xét, thấy tỏ tường mình phải chịu phạt vô cùng, thì mới kinh khủng, và phàn nàn, tiếc quờn chức làm con ĐCT, song le chẳng đặng ích gì nữa; vì thuở xưa đã chọn lấy phần thế gian, mà bỏ nước Thiên đàng, chẳng ai ép uổng, một bởi mình mà chớ.


TRUYỆN THỨ HAI MƯƠI HAI
ÔNG GIACÓP TRỐN SANG NƯỚC MÊDOPHÔTAMIA
(Trước giáng sinh 1759 năm)

Khi ông Egiác cùng bà Rêbecca đã già cả thì ông Egiau rao qườn cho ông Giacóp làm trưởng nam; nên Egiau mất chức ấy, liền giận lắm, một khiến báo thù giết em cho bỏ. Mẹ thấy làm vậy liền khiến Giacóp lánh đi nước khác, thà lìa mặt con út là sự rất thương, chẳng thà để ở nhà, e hoặc có sự gì dữ chăng. Vậy bà ấy toan cùng ông Egiác rằng: con lớn tôi đã lấy vợ trong nước này, mà vợ nó xấu nết lắm, thì chẳng muốn cho con thứ hai bắt chước nó; xin ông khiến con út tôi đi đất nước tôi, mà lấy vợ trong dòng họ tôi. Ông Egiác liền nghe. Khi con dọn đi, thì ông Egiác chúc cho con đặng mọi sự lành. Mà ông Giacóp trẩy đi cưới vợ đàng xa, chẳng phải như kẻ phú quí, sắm sửa nhiều đầy tớ của cải; ông ấy ăn mặc khó khăn và không vật gì, đi bộ dọc đàng cũng chẳng có cữa nhà đỗ bạc, đến tối thì nằm giữa đàng, lấy hoàn đá gối đầu. Nhưng mà khi ấy ĐCT chẳng bỏ người, cho ta đặng hay, ai khó khăn trong lòng, ấy là phước thật. Vậy đêm kia ông Giacóp nằm ngủ, thấy một cái thang bắt lên từ đất cho đến trời; lại thấy những Thiên thần lên xuống, và có ĐCT ngự ở đầu thang ấy mà phán cùng người rằng: Tao là Chúa Abaraham và Chúa Egiác; cha ông mày thờ phượng Tao, mày phải ở đất này, Tao sẽ cho mày làm vua: mà con cháu mày ngày sau sinh ra nhiều lắm, như bụi bụi dưới đất; và mọi dòng thiên hạ sẽ được phước bởi Chúa Cứu Thế ngày sau sẽ sinh trong dòng dõi mày. Mày đi đàng nào, Tao cũng sẽ đi đàng ấy, cho đến nơi; bao giờ mày trở về, thì Tao sẽ làm cho mày đặng mọi sự lành, như lời Tao đã hứa. Đoạn ông Gia cóp thức dậy, liền linh khủng mà rằng: thật chốn này là cữa Thiên đàng, làm cho lòng tôi sợ là thể nào!. Đến sáng ngày ông Giacóp lấy hoàn đá gối đầu ấy, để dành ngày sau làm bàn thờ tế lễ ĐCT; lại khấn rằng: Các giống của cải ngày sau tôi làm đặng, thì lấy mà tế lễ Chúa nữa; hễ vật gì mỗi một chục, thì chọn một cái mà dưng về phần làm việc ĐCT.

Các thánh gẫm rằng; Bực thang mầu nhiệm này ông Giacóp xem thấy, nên ví dụ ơn thánh ĐCT phù hộ cứu chữa kẻ có lòng thờ phượng Người luôn. Có thánh thiên thần đưa lên những việc lành người nhơn đức làm, mà thượng tiến ĐCT ; lại có thánh Thiên thần xuống, phát ơn ĐCT cho người lành luôn, nên chẳng có lẽ gì sợ kẽ độc dữ ghen ghét mình; vì chưng người thế gian toan làm hại kẻ lành, thì ĐCT càng cứu cho khỏi. Lại gẫm lời ông Giacóp rằng: Chốn này là cữa Thiên đàng cho ta đặng biết kính chuộng nhà thờ ĐCT là thể nào. chớ chi các giáo hữu, khi vào nhà thánh, nhớ lại lời ấy, mà kinh khủng khép nép, kẻo hoặc quen lệ, mà lấy làm lờn, chẳng còn lòng sợ hãi kính Chúa ngự trên bàn thờ, khi thầy làm lễ Misa, hoặc trong nhà tạm.


TRUYỆN THỨ HAI MƯƠI BA
ÔNG GIACÓP TRỞ VỀ QUÊ NHÀ
(Trước giáng sinh 1739 năm)

Ông Giacóp đến nhà bà con bên mẹ người, ở đó đặng hai mươi năm, làm đầy tớ chăn chiên. Đoạn người cưới vợ, như lời cha mẹ đã dạy, mà làm đặng của cải; vì chưng ông ấy phần thì thật thà nhơn đức, hay chịu khó nhọc, lại có tài năng làm đặng phú quí, để cho ta biết, hễ nhiều của hay sinh sự khốn nạn. Vậy khi ông ấy làm đặng của thì bà con trong nhà mới ghen ghét phân bì mà rằng: khi trước nó khó khăn, bây giờ đã giàu bằng ta, nào có ai hơn nữa! Ông ấy thấy bà con chẳng có lòng thương mình, thì mới lo liệu đem vợ con của cải đi nơi khác. Nhưng mà chẳng dám lấy ý riêng làm điều gì, một cầu nguyện cho biết ý ĐCT dạy làm sao. Đang khi ông ấy cầu nguyện, thì ĐCT mở lòng cho biết phải trở về cùng cha mẹ, lại bảo chớ sợ anh báo thù làm chi, Egiau rày đã có lòng hiền lành, chẳng hề chi.

Khi ấy ông Giacóp đã đến một trăm bốn tuổi, mới đề huề thê tử gia tài điều độ mà trốn lên đàng chẳng nói cho bà con hay, vì e hoặc là trở lòng dữ mà cầm lại. Chẳng ngờ bà con mắng tiếng vợ chồng người đã đi , thì giận lắm, mà đem nhiều quân đi bắt. Khi ông giacóp đã đi đặng bảy ngày đàng, mới đến ngọn núi kia, thì cha vợ theo kịp, mà trách người rằng: Nhơn sao đem cướp con tao đi, chẳng nói cho tao hay? Vì bằng bay muốn trở về nhà cha mẹ, thì tao chẳng can sự gì phải lẽ; song le trước phải nói cho tao hay, đặng từ giã con tao, kẻo lòng thương nhớ. Khi ấy ông Giacóp thưa lời dịu dàng khiêm ngường, nhắc lại sự ăn ở mấy năm cho ông ấy nhớ công nghiệp mình mà rằng: Tôi đã chịu khó nhọc bấy lâu, gìn giữ của ông; lòng tôi thật thà, ở hai mươi năm trọn, mà chăn giữ chiên ông; hễ con nào muông sói bắt đi, tôi đã chịu đền; những lo lắng tuần túc thâu ngày thâu đêm, ngủ chẳng an giấc, một thức luôn mà xem sóc, kẻo hao tổn của ông. Trộm cướp cũng chẳng làm chi đặng nhà người, vì tôi gìn giữ. Lại chiên mỗi một mẹ đã sinh đặng nhiều con. Song bấy lâu ông nói dối tôi nhiều lần, rày tôi cũng chẳng dám trách, một nói có ý cho ông thương mà chớ.

Ông thánh Avoloxiô gẫm rằng: Việc ông Giacóp chăn chiên làm vậy, ấy là gương kẻ làm thầy đạo đức phải bắt chước, mà chăn chiên của ĐCT; chụ khó giữ con trong ràn, lại chịu khó đi tìm con lạc; phải nuôi nấng cho nó sinh sản con khác, thà lao lực mà đẹp lòng ĐCT, chẳng thà phong lưu mà theo ý riêng mình.

Vậy khi ông Giacóp nói bấy nhiêu lời thì ông gia liền thương, mà làm lành cùng rể. Lại điều nguyện rằng: Dòng dõi mình ngày sau sẽ hoà thuận, chẳng hề làm giặc cùng nhau.

Ông thánh Avoloxiô khen truyện này rằng: ông Giacóp là gương người rất nhơn đức, chẳng khấng lấy của gì ai, của mình cũng giữ theo lẽ phải. Ông ấy làm giàu, nào phải là bởi có lòng gian tham, một chịu khó nhọc làm cho đặng của. Ông gia khiến người làm đầy tớ trọn đời, và tận mạt người, mà chẳng làm chi đặng; lại bởi ông Giacóp hay nhịn nhục, và lấy lẽ phải mà chữa, thì hai người đặng hoà thuận cùng nhau

Ông thánh Amvoloxiô lại khen vợ ông Giacóp, chẳng hay binh cha mẹ trái lẽ, cũng chẳng tiếc quê vức mà cầm ở lại, một thương chồng vì lẽ chính mà bỏ thói quen dối trá thuở xưa, cùng bước theo đàng ngay thật, thà mất lòng cha mẹ làm sự vậy, chẳng thà mất lòng chồng dạy dỗ lẽ công bình.


TRUYỆN THỨ HAI MƯƠI BỐN
ÔNG GIACÓP LÀM LÀNH CÙNG ANH

Ông giacóp khỏi sự rối này, thì lại kiếm lẽ làm lành cùng anh, kẻo anh nhớ tích xưa mà báo thù. Vậy ông này khi về đã gần quê vức, liền sai đầy tớ đến nhà cha mẹ, bảo tin cho người đặng hay. Thì đầy tớ ấy đi chưa đến nơi, liền gặp ông Egiau giữa đàng, đem bốn trăm quân đi ngừa. Khi ông Giacóp hay sự ấy, thì sợ mà kêu khóc cùng ĐCT, xin cứu cho khỏi tay anh thù oán.

Nguyện đoạn mới toan liệu lẽ khôn ngoan, làm cho anh đặng thương tình, mà cởi hết lòng hờn giận. Vậy người chọn lấy của lễ, là dạy đầy tớ đuổi một đoàn bò lớn đi, cách một đổi lại có một đoàn bò nhỏ, đến đoàn thứ ba lại có một đoàn Camelô, hậu đoàn lại có bầy chiên, mà truyền cho kẻ điệu các đoàn ấy rằng: bao giờ gặp anh người thì lạy bảy lạy mà thưa rằng: này là của lễ em ông dưng cho ông trước; bằng vợ chồng người thì hãy đi sau, một hai ngày nữa sẽ đến ra mắt. vậy các liền đi trước, mà làm như vậy. Khi Egiau gặp và xem thấy nhiều của lễ, một đỗi đàng lại có một giống, lâu lâu bèn bớt giận; cho đến khi anh em gặp nhau, thì Egiau mầng rỡ, chạy đến đám rước, ôm lấy em mà thương khóc. Lại xem thấy vợ con em, càng them mầng hơn nữa, chẳng khấng chịu lấy của lễ; song le ông Giacóp khuyên lơn lắm thì mới lấy. Đoạn Egiau muốn về làm một cùng ông Giacóp, mà ông Giacóp thưa rằng: tôi có trẻ yếu đuối, đi chẳng kịp, xin anh hãy về trước; ngày sau đến nhà, sẽ đi viếng nhau.

Ấy ông này làm gương cho người ta bắt chước, khi mắc phải kẻ độc dữ ghen ghét mình, thì chớ lấy lòng độc chóng trả kẻ ấy làm chi, một hải lấy lòng hiền lành nhịn nhục, và lo liệu cho khôn khéo kẻo ra sự hèn nhát; lại hải ở vững vàng tin cậy Chúa, mà làm hết lòng khiêm nhượng, cho người đặng hoà thuận cùng mình. Sau nữa hãy gẫm người nhơn đức thường lề gặp sự rối làm vậy, nhưng mà đã có ĐCT giúp, làm cho kẻ ghét mình trở lại lòng thương, chẳng còn thù hiềm lòng dữ, vì người đã lấy lòng khiêm nhượng mà hoà thuận.


TRUYỆN THỨ HAI MƯƠI LĂM
CON GÁI ÔNG GIACÓP PHẢI KHỐN
(Trước giáng sinh 1731 năm)

Khi ông Giacóp đã về đất nước cha mẹ, thì làm nhà riêng gần thành Xichiêm, lập cơ nghiệp ở đó, cho vợ con ở đó, cho vợ con nương tựa. Chẳng khỏi bao lâu người gặp sự đau đớn trong lòng lắm; cho ta đặng hay, hễ người thánh thường gặp sự lành sự dữ đắp đổi luôn. Vậy ông ấy có một con gái tên là Đina, nên mười lăm tuổi, có một lần, trộm lịnh cha mẹ mà đi chơi, thăm các đờn bà trong thành. Chẳng ngờ hoàng tử vua xứ ấy, thấy con gái có nhan sắc tốt lành, thì cướp lấy đem về. Đoạn vua cùng thái tử gởi lời kính ông Giacóp, xin người gả con cho. Ông Giacóp thấy sự xấu hổ dường ấy, liền buồn bực lắm. Mà những con cháu ông Giacóp toan lòng dữ báo thù liền nói trước rằng: em mới tôi có đạo Chúa, ví bằng lịnh thái tử cùng dân vua chịu phép cắt bì, thì sẽ kết ngãi cùng nhau và gả cho con người, đặng hiệp vầy một dân một cõi. Vậy vua cùng thái tử liền nghe, mà chịu phép cắt bì, lại cả và dân vua cũng đều chịu nữa. khỏi ba ngày, đang khi rất đau đớn, vì chịu phép ấy chưa lành, thì có hai anh em Đina lén vào thành, cầm gươm giết kẻ lớn cả và dân, những đờn ông thì giết hết. Làm sự ấy đoạn, các anh em con cháu và gia tiểu đệ tử lén vào mà phá tan tác, đuổi lấy trâu bò, thâu góp của cải hết. Ông Giacóp thấy sự trái làm vậy, thì sợ hãi, bèn quở trách con cháu, sau có làm sự bạo ngược, lấy iếng đạo mà hại người ta, liều chết cả và dòng họ mình làm chi. Bởi ông ấy sợ những kẻ phụ cận ghét mà báo thù, nên người phải trốn đi ở thành Bêthêlê.

Khi ấy ông Egiác, là cha ông Giacóp, đã đầy một trăm tám mươi tuổi mới sinh thì. Vậy ông Giacóp với ông Egiau hai anh em táng xác cha đoạn, mới lìa nhau, đi ở một người một xứ, vì đã giàu có cả và hai, cho nên ở làm một chẳng đặng nữa.

Các thánh gẫm rằng: truyện con gái ông Giacóp đi chơi lộn lạo cùng kẻ ngoại, ấy là gương các người nữ hãy còn đồng trinh phải sợ mà giữ mình nghiêm kín là thể nào. Lại người nào khấn hứa dốc lòng giữ mình sạch sẽ thì càng phải tránh thế gian hơn nữa, và lo sợ kẻo phạm tội như con gái này chăng. Vì chưng bởi một tội, thì sinh nhiều sự quái gở lắm; một là phải mất sự đồng trinh, hai là làm cho anh em phạm tội giết người, ba là làm hại cả và thành, bốn là làm cho cha mẹ phải tất tưởi trốn tránh như khách đày khốn nạn; phải mà ĐCT chẳng có thương đến; thì phải chết hết thảy thảy, chẳng còn người nào sốt.


TRUYỆN THỨ HAI MƯƠI SÁU
CÁC CON ÔNG GIACÓP BÁN EM
(Trước Giáng Sinh 1728 năm)

Ông Giacóp khỏi giặc giã bề ngoài, chẳng đặng bao lâu, lại phải giặc giã trong nhà, vì con cái chẳng hoà thuận cùng nhau. Ông Giuse khi ấy nên mười sáu tuổi, nết na khôn ngoan nên ông Giacóp thương hơn các con khác, liền may cho Giuse một cái áo tốt hơn các anh em. Lại ông Giuse thấy các anh phạm tội quái gở, thì thưa cha đặng hay, cho cha sửa dạy. Vậy ông Giacóp quở trách những đứa có lỗi. Nên từ ấy về sau các anh toan làm hại em cho bỏ. Có một đêm kia, ông Giuse nằm chiêm bao, thấy như khi gặt lúa mà bó, thì mười hai anh em bó mười hai bó; bỗng chúc mười bó kia cúi xuống mà lạy bó lúa của ông Giuse. Lại thấy có mặt trời mặt trăng cùng mười hai ngôi sao, mà mặt trời mặt trăng cùng mười một ngôi sao đều kính lạy một ngôi sao. Đoạn người thức dậy, thuật lại cùng cha và các anh làm sự vậy; bởi vì người còn ngay dạ, chẳng suy có kẻ chẳng ưa. Cho nên các anh nghe sự ấy, càng thêm ghét người hơn nữa.

Đến sau, có một lần các anh đi chăn chiên phương xa. Lâu ngày chẳng thấy về, thì ông Giacóp bèn khiến ông Giuse đi thăm viếng. Khi ông Giuse đến gần trên núi thả chiên, các anh thấy em đến, liền nói cùng nhau rằng: thằng chiêm bao nó đã đến kìa; ta giết nó, coi thử chiêm bao sẽ ra sao. Song le anh cả, tên là Ruben chẳng dám làm sự quái gở ấy, một tính cứu ông Giuse mà đem về cho cha. Ông ấy bèn bảo các em rằng: Ta đổ máu nó ra hư không làm chi? chẳng bằng ta bỏ nó xuống giếng cạn cho khuất thì thôi. Thì các anh em liền nghe, mà bỏ Giuse xuống giếng sâu. Chẳng ngờ khi ấy tình cờ có đoàn lái buôn trẩy sang nước Egíptô, vừa qua đàng đó, thì các anh bán ông Giuse cho chúng nó, giá hai mươi đồng bạc. Liền lột lấy áo người mà thấm máu chiên, đoạn gởi về cho ông Giacóp mà nhắn rằng: Mới tôi hồ nghi lắm, vì gặp cái áo trong rừng, e phải áo em chăng. Ông Giacóp thấy áo con rứt xé nhiều nơi và có máu, thì ngờ là thật con mình đi đàng phải muông dữ ăn thịt, liền thương tiếc cùng khóc kể lâu ngày.

Ông Giuse xem thấy mình ngày sau sẽ làm lớn, mà chẳng thấy mình phải làm tôi tá trước, sau mới đặng nên lớn. Ông này phải các anh ghen ghét mà bỏ xuống giếng. Nên ví dụ ĐCG chịu quân dữ đóng đinh, chịu chết mà bèn lấp trong huyệt đá. Lại ông Giuse chịu các anh bán sang nước Êgíptô, chẳng khỏi mấy năm lên quản hay cả và nước ấy , ban phát lương thực cho cả và dân, cùng các nước xung quanh: cũng là ví dụ ĐCG chịu thằng Giudà bán cho quân Giudêu. Người chết đoạn, chẳng khỏi ba ngày mà sốn lại; lại đàng sang trọng phép tắc vô cùng, mở đạo chính cho dân thiên hạ lại lấy lương thực thiêng liêng, phân phát nuôi dưỡng linh hồn chúng ta.

Ông thánh Amvoloxiô gẫm rằng: Ông Giacóp thương tiếc con như đã chết, bởi người đã thương Giuse quá lẽ, hơn các con khác, nên các anh sinh lòng ghen ghét, và làm sự quái gở. Vậy hễ cha mẹ thương con, thì phải thương cho bằng nhau; ví bằng con nào có nết na hơn, mà thương nó trong lòng thì thậm phải; song cha mẹ khôn ngoan phải giữ, kẻo tỏ ra sự thương bề ngoài như vậy, mà sau phải trăm sự khó. Lại ông Giacóp may cho Giuse một cái áo tốt hơn các anh, ấy là cội rễ sinh sự ghen ghét trong lòng các anh. Cha mẹ thương con thiệt, thì phải làm hết sức cho con cái biết thương nhau. Như vậy khi chúng nó lớn khôn, quen thói lành ấy thì sẽ tránh xa sự kình địch kiện cào, và sẽ giữ sự an hoà cùng nhau thể ấy sẽ làm cho cha mẹ khỏi trăm nỗi ưu sầu phiền muộn bởi con cái mà ra.


TRUYỆN THỨ HAI MƯƠI BẢY
ÔNG GIUSE CHUỘNG SỰ SẠCH SẼ
(Trước giáng sinh 1718 năm)

Lái buôn đem ông Giuse đến nước Êgíptô đoạn, lại bán người cho ông chưởng thái giám vua Pharao tên là Putipha. Song le ĐCT chẳng bỏ kẻ chịu oan ức cho nên quan ấy thấy trai khôn ngoan, nết na nhơn đức và thật thà, thì thương yêu lắm, bèn phú mọi việc cữa nhà cho người coi sóc. Đang khi ông Giuse an hưởng sự lành như vậy, ma quỉ bày chước độc làm cho người phải khốn. Vậy vợ quan ấy thấy trai tốt lành xinh đẹp, liền phải lòng và cám dỗ người phạm tội cùng nó. Song ông Giuse chẳng khấng nghe lời dỗ dành của đờn bà hư nết ấy.

Vậy một lần kia, đờn bà xấu xa này cầm tràng áo người mà kéo vào. Ông Giuse liền bỏ áo cho nó mà chạy; nên nó trở lòng giận dữ, dứt lác ôm xồm, cùng cáo ông Giuse rằng: thằng quái gở Hêbêrêu này, nó toan ác hiếp tôi, tôi đã lấy đặng áo nó làm chứng đây. Quan ấy nghe lời vợ thì giận lắm, chẳng kịp tra xét cho minh bạch, liền dạy bỏ ông Giuse vào tù, cùng dạy xiềng người lại.

Ông thánh Amvoloxiô gẫm rằng: thói thế gian hay nghe sự bỏ vạ mà chẳng xét, cho nên kẻ ngay lành thường phải khốn, vì chẳng đặng đôi chối cho ra lẽ. Lại trong vụ này, người đờn bà đó một lược là tiên cáo, một lược cũng là người chứng. Nó đã bỏ sự sạch sẽ ở nơi mình nó, mà lại còn ghét sự sạch sẽ ở nơi kẻ khác nữa.

Ông thánh ấy lại rằng: ấy là quân Arianô đời này lạc đạo, nó khiến cướp Hội thánh, là người nữ đồng trinh, giữ lẽ ngay ĐCG truyền; mà bởi vì dỗ dành chẳng đặng theo lẽ teaí cùng nó, thì nó trở lòng dữ, bỏ người nhơn đức vào tù rạc, lại cáo gian kẻ ngay rằng: đã bất nghĩa cùng ĐCG. Vậy ông thánh ấy rằng: ớ người nhơn đức phải chịu oan, chớ có phàn nàn làm chi; có ĐCT xuống dưới tù rạc cùng kẻ lành, mà Người cứu giúp cho khỏi. Khi đời trước ĐCT làm phép lạ tỏ tường chữa kẻ ngay đặng vô sự: mà đời nay người nhơn đức chịu hãm hiếp, chịu chết vì Chúa, thì dặng chức tử vì đạo. Cho nên người nhơn đức phải chuộng sự nhịn nhục mà suy xét rằng: sự khốn khó phần thì bởi người ta ghen ghét mà ra, phần thì bởi ý ĐCT đã định. Lại suy rằng: mình chịu oan sự này nhưng mà có lỗi nơi khác; bởi vậy mình đã đáng chịu khốn khó này thế lại tội kia, càng gặp sự khốn nạn đời này càng phải vui mầng trong lòng.

Như lời ông thánh Gióp rằng: Chúa ngự trên trời làm chừng cho tôi, tôi đợi trông một mình Người sẽ làm cho ra lẽ ngay, lại Người sẽ trả công vô cùng cho tôi mà chớ.


TRUYỆN THỨ HAI MƯƠI TÁM
ÔNG GIUSE LÊN QUỜN PHÓ QUÂN
(Trước giáng sinh 1717 năm)

Ông Giuse bị cáo gian phải tù rạc, đó là gương cho ta đăng biết ĐCT chẳng bỏ kẻ có lòng tin cậy Người.Ông Giuse nhơn đức khôn ngoan nên đang ở trong tù, thì cũng đặng quản hay các người trong ấy.Nói khi người phải giam ở đó, thì có hai quan lớn nhà vua nước Êgípto cũng bị cầm tù với mính.Quan cai tù bèn phú hai người ấy cho ông Giuse coi sóc gìn giữ.

Khỏi ít ngày, hai người nằm chiêm bao: một người thấy cây nho, có bông có trái; đến khi trái chín, thì mình ép làm rượu đưng trong chén vàng dưng cho vua; người kia thấy có ba cái thùng, đựng đầy bánh, lại có nhiều con chim bay đến tha lấy bánh ấy mà ăn. Nói đoạn, ông Giuse đoán sự phước tội cho hai người này.Cũng như ĐCG,khi chịu đóng đinh trên cây thánh giá, đã phán đoán cho hai người kẻ trộm cũng chịu đóng đinh cùng Người, một người đặng lên Thiên đàng, một đứa phải sa hoả ngục.Vậy ông Giuse liền cắt nghĩa điềm chiêm bao ấy như vầy:Người kia thấy chén đựng rượu nho dưng cho vua,ấy là chẳng khỏi bao lâu,sẽ đặng phục chức lại như xưa.Bằng kẻ thấy chim tha bánh trên đầu,ấy là kẻ chẳng khỏi ba ngày,phải đem ra xử tử.Lời ông Giuse nói thì đã đích thật mọi đàng:một người thì phải chết, một người thì đặng phục chức.Song le người đặng phục chức chẳng còn nhớ ơn ông Giuse, chóng quên kẻ đồng ngục, cho đến khi tình cờ vua Pharao cũng nằm chiêm bao, thấy bảy con bò béo tốt ăn cỏ áp bờ sông Nilô, lại thấy bảy con bò khác ốm o gầy guộc,bởi sông mà lên nuốt bảy con bò béo kia đi.Cũng một khi ấy, vua lại thấy bảy gié lúa chắc,lại thấy bảy gié lúa lép nuốt bảy gié lúa chắc kia đi.Đoạn vua hỏi,mà chẳng ai cắt nghĩa đặng điềm chiêm bao ấy cho vua hiểu.Khi ấy quan hỏi tù ngày trước,mới nhớ lại ông Giuse đã đoán sự mình rất trúng,nên tâu xin vua đòi người.Vua liền sai quân đến mở cửa ngục, đem ông Giuse vào chầu.Thì ông Giuse cắt nghĩa chiêm bao, mà tâu vua rằng: Vua thấy bảy gié lúa chắc với bảy con bò béo, nghĩa là từ nầy sấp lên bảy năm thì đặng mùa; bảy gié lúa lép và bảy con bò ốm, là kế lấy bảy năm sau,sẽ có đại hạn mất mùa.Người tâu vua cất nhiều kho để tích trữ lúa đặng mùa trong bảy năm trước, hãy cứu nhơn dân trong bảy năm sau, lúc phải thất mùa hạn hán, cho khỏi chết đói. Vua nghe lời khôn ngoan như vậy, thì làm theo cùng phong quờn Phó Quân cho ông Giuse, mà đặt người lên cai quản cả nước Êgíptô, cùng được phép ngự trên xe vua.

Vua truyền cho cả và dân quì gối kính lạy ông Giuse, lại đặt tên người là Cứu thế, nghĩa là chữa đời vực nước. Ấy ông Giuse, trước kia là tù phạm, bổn đâu đặng phong lên quờn Phó Quân nên một vị quan đại thần, đặng vua yêu dân chuộng. Song dầu vậy người chẳng chút sanh lòng kiêu căng.

Lúc bĩ cực cũng như hồi thới lai, người cũng một lòng khiêm từ, vì rõ biết các việc dầu lành dầu dữ, đều bởi tay Chúa phép tắc mà ra.

Lại nữa, ông Giuse cũng không ỷ quờn thế mà oán hại kẻ đã bỏ vạ cáo gian cho mình buổi trước.

Phép lạ nầy ĐCT làm dưới thế gian, có một lần mà thôi. Phép lạ nầy là ví dụ phép lạ khác càng lạ hơn nữa: là kẻ nhơn đức lúc ở đời này, phải bị bỏ vạ cáo gian,cùng tăm điều sỉ nhục. Song chẳng bao lâu, các sự gian nan ấy sẽ biến tan như luồng gió thổi, rồi lại đặng Chúa nhắc lên cùng ban muôn phước thanh nhàn.


TRUYỆN THỨ HAI MƯƠI CHÍN
ÔNG GIACÓP DẠY CÁC CON ĐI MUA LÚA
(Trước Giáng sinh 1708 năm)

Vua Pharao đã phong ông Giuse làm Phó quân, để cai quản cả nước Êgíptô thế vua. Ông Giuse rất trọn nghĩa vụ: trên dưới hết lòng trung thành phò vua vực nước; dưới tận dạ lo cho con dân đặng an bình sung túc. Nên đời ấy, nhờ ông Giuse, thì nước Êgíptô đặng thới thạnh cùng giàu sang hơn nhiều nước khác.

Chẳng phải một nước Êgíptô phải đại hạn mà thôi, song các xứ xung quanh cũng bị thất mùa. Nhà ông Giacóp cũng không khỏi nạn đói. Nên ông Giacóp sai các con sang nước Êgíptô, để vận lương mua lúa đem về trợ thì cơ cẩn.

Vậy 11 người con ông Giacóptrẩy sang nước Êgíptô, như lời cha dạy. Đến nơi liền ra mắt cùng thượng quan, đang vỗ trị cả nước Êgíptô. Ông Giuse thấy liền nhìn đặng các anh, còn các anh thì không biết người. Bởi không thấy mặt người em út, thì ông Giuse bắt lo sợ, hoặc là các anh đã giết như mình thuở trước chăng. Nên mới hỏi rằng: Ta chẳng biết chúng ngươi là kẻ ngat gian, ta hồ nghi lắm: biết chi lòng chúng ngươi đến nước này, hoặc là giả kế cấu lương, mà thăm binh tình lợi hại, đặng làm tiền sứ hậu binh cùng vua chăng.

Các ông ấy nghe lời ông Giuse nói vậy, thì kinh khủng sợ hãi, mới kể ra quê quán dòng họ mình, mà thưa rằng: Mới tôi là mười hai anh em, một em kia đã qua đời những thuở niên ấu, còn một em út ở nhà cùng cha già cho chúng tôi đến đất quí địa cầu thực lương, đem về nuôi cha già em dại, đỡ khi cơ cẩn mà thôi; chúng tôi chẳng biết mưu kế gì, xin quan trên lượng lại; ông là quan cao minh rộng xét, chúng tôi là dân ngu hạ, chẳng dám nói sai. Ông Giuse giả đò chẳng tin mà rằng: Ta cầm một người ở đây, bao giờ ta thấy mặt người em út, ta mới tin như lời; còn chín người, thì hãy trở về chở lúa cho cha già. Sau chừng trở sang đây, đem mgười em út sang với, thì ta sẽ cho hết thảy trở về bổn xứ.

Khi ấy các anh em mới phàn nàn cùng nhau, mà trách mình rằng: Chúng ta đã đáng chịu làm vậy, vì thuở xưa ta làm khốn em Giuse ta nên rày ĐCT phạt tỏ tường như vậy.

Đoạn ông giuse dạy phát lương cho các ông ấy và cho gánh bao nhiêu lúa tuỳ sức, lại dạy quân lấy bạc các ông ấy trả, mà giấu trong lúa các ông ấy.Khi về đến quê nhà, các ông thấy bạc trong bao lúa, thì lấy làm lạ, không hiểu đặng vì cớ nào nên các ông ấy mới để dành số bạc đó, đặng phen sau trở qua, sẽ trả lại cho nhà quan.

Ông Giacóp thấy thiếu mặt con đầu lòng, và nghe thượng quan nước Êgíptô dạy phải đem con út qua, thì ông Giacóp bối rối buồn rầu, sợ e con út đi đàng sá cũng phải rủi ro như Giuse thuở trước chăng.

Các Thánh Sư gẫm, Đức Chúa Thánh Thần dạy chép truyện này, để cho ta biết: Thánh ý ĐCT rất cao sâu mầu nhiệm, ta không thể hiểu đặng

Việc Chúa đã tiền định, thì không sức phàm nào chống nổi. Chúa đã tiền định, sau đây giuse sẽ làm lớn, sẽ ngồi trên một địa vị tối cao. Các anh ông Giuse làm hết cách mà cảng trở, tính hại ông Giuse, kẻo người đặng lên quờn cao. Song vô ích! Dè đâu, ĐCT lại lợi dụng lòng sâu độc các anh ông Giuse mà làm cho thật hành việc Người đã tiền định.

Nếu các anh ông Giuse không bán người qua nước Êgíptô, thì đâu người đặng lên chức làm quan Phó Quân, vỗ trị nước Êgíptô !

Nhờ bị bán, bị tù, thì ông Giuse mới làm quan và làm ích cho gia đình ông Giacóp là cha mình.

Bởi đó, trong các sự xảy ra ở đời này, ta chớ sờn lòng, một tin cậy ĐCT, thì Người chẳng khi nào bỏ ta.


TRUYỆN THỨ BA MƯƠI
CÁC CON ÔNG GIACÓP NHÌN ĐẶNG EM

Thuở ấy nạn thất mùa đã lán tràn khắp nơi, đâu đó nhơn dân phải đói khát đồ khổ. Nên ông Giacóp phải sai các con qua nước Êgíptô một phen nữa, mà mua lúa đem về ăn.

Song bởi ngày trước thượng quan nước ấy đã dạy đem em út qua, thì ông Giacóp cực chẳng đã phải cho Bendamin trẩy đi cùng các anh.

Khi đến nước Êgíptô, các anh em vào ra mắt thượng quan, thảy đều cúi đầu lạy hết, và dưng của lễ, lại nộp bạc ngày trước chưa trả cho người. Ông Giuse vui mặt, hỏi thăm ông già sức khoẻ thể nào; và ôm lấy em út, động lòng cầm nước mắt chẳng đặng, nên phải vào nhà trong mà lau mặt. Rồi lại dạy quân dọn tiệc ăn mừng; đoạn cho người anh cả ở lại bấy lâu ra thăm các anh em và dặn dò khi đi đàng sá phải hoà thuận cùng nhau; lại dạy phát cho nhiều lương phạn. Sau nữa người khiến đầy tớ lấy lấy cái chén bạc của người quen dùng, mà giấu vào gánh lúa Bêndaminh. Vậy đến khi các anh em đã đi khỏi thành một đỗi, ông Giuse bèn sai quân theo bắt lại mà trách rằng: Chúng ngươi thật là những đứa gian tế, vô ơn bội ngãi quan lớn đã yêu đãi dường ấy, sao lại ăn trộm chén bạc người làm chi? Các anh em nghe vậy, thì sợ hãi lắm, mà chối dài. Song le quân xét đặng quả tang trong gánh lúa Bêndaminh, bèn đem các người ấy trở lại trong thành, nộp cho thượng quan. Khi ấy ông Giuse giả đò tra việc nầy cho minh bạch; nhưng cầm lòng lâu chẳng đặng nữa, nên người dạy khách thứa lui ra hết, còn một mình người cùng các anh em, thì mới tỏ ra mà rằng: Tôi là Giuse, ông già tôi hãy còn sức khoẻ, tôi mừng lắm, đội ơn ĐCT muôn đời chẳng cùng!

Các anh ông Giuse nghe lời ấy liền rụng rời kinh hãi, khác nào tiếng sấm đánh vào tai. Vì sợ ông Giuse nhớ lại việc xưa mà làm hại mình chăng. Song le ông Giuse an ủicác anh mà nói rằng: Ý ĐCT đã định làm vậy, để cho tôi đặng lo liệu mà giúp cửa nhà cha mẹ ta. Nói đoạn người ôm lấy mỗi người mà khóc, đoạn lại dặn rằng: Xin các anh hãy trở về cho kịp, đặng thưa lại cho cha hay, tôi hãy còn sống; xin người trẩy sang đây, vì hãy còn lâu năm hạn hán.

Các thánh gẫm rằng :Truyện này dạy cho ta biết, ông Giuse hiền lành quảng đại là thể nào. Người chưa thấy ĐCG chịu chết trên thánh giá, đã thứ tha cho kẻ giết mình, lại còn cầu cùng Đức Chúa Cha, xin thứ tha cho quân khốn nạn ấy nữa. Còn chúng ta đã thấy gương ĐCG, thì ta càng phải ở hiền lành nhịn nhục hơn nữa mới phải, nhứt là đối với kẻ nghịch, người làm khốn cho ta.

Ông Giuse cũng không nhắc lại việc các anh đã làm xưa, một làm thinh bỏ qua như không còn nhớ nhữa. Ta hãy noi gương lành ấy mà ở cùng kẻ nghịch, người làm mất lòng ta.Ta hãy thú tha, thì ĐCT cũng thứ tha cho ta, như lời Người phán rằng: "Bay lấy lường nào đong cho kẻ khác, thì Tao cũng lấy lường ấy mà trả lại cho bay."


1060    17-03-2011 08:24:45