Sidebar

Thứ Tư
24.04.2024

Sấm Truyền Cũ_Truyện 71_80


SẤM TRUYỀN CŨ
Truyện Thứ Bảy Mươi Mốt đến Thứ Tám Mươi

TRUYỆN THỨ BẢY MƯƠI MỐT
ĐCT PHẠT DÒNG DÕI BENGIAMIN

Các dòng con cháu ông Giacop tụ hiệp tại thành Maxipha, là nơi cất nhà thờ Đ C Trời thuở ấy, mà định phạt kẻ có tội. Khi dân đã tra hỏi người chồng đàn bà chết ấy cho cạn kẻ, đoạn mới cất binh đi đáng dòng Bengiamin. Thì dòng Bengiamin cũng sắm sửa hai muôn năm ngàn binh ra cự địch. Song dân Israe trước khi hành binh, đến tâu xin Chúa cho biết việc ấy có đẹp lòng Chúa chăng? Thì Đ C Trời phán rằng: Mặc ý: Chẳng ngờ là khi hai bên giao chiến, thì dòng Bengiamin giết đặng hai muôn ngàn quân Israe. Quân nầy vậy bèn sợ hãi, nhưng chẳng có rủn chí bỏ việc phải làm, một cầu xin khóc lóc và tâu Đ C Trời một phen nữa thì Đ C Trời cũng phán lại như lần trước. Ngày sau ra trận thì dòng Bengiamin lại thắng thế, giết đặng một muôn tám ngàn quân Israe. Cả và dân Israe thấy sự mầu làm vậy, chẳng biết ý nào, mình có lòng ngay thật mà lại thua quân ngụy đảng thì sợ lắm, mới khóc lóc than thở cùng Chúa rằng: Chúng tôi là bốn mươi muôn binh hơn ngãi, đàng kia thì chẳng đặng hai muôn năm ngàn, mà chúng tôi phải thua, là vì ý nào? Đoạn lại khuyên các thầy tâu Đ C Trời cho biết phải đánh hay là thôi, vậy các thầy tâu Đức Chúa Trời, phen này thì Chúa dạy đánh mà. Người lại hứa sẽ đặng trận chẳng sai. Quân Israe bèn vưng lịnh, đem nhau ra đối địch: Quân thành Caba, bởi vì đặng hai trận trước, nên đắc thế làm bạo dạn, chẳng ngữ thành, bèn đem binh ra hết mà đánh tràng đồng. Khi ấy quân Israe giả thua bèn chạy, thì quân Caba đuổi theo đã xa, chẳng ngờ đến nơi rập rạp, thì có binh Israe mai phục sẵn chốn để phòng quân nó theo qua khỏi. Vậy binh giả thua trước mà chạy, bỗng chúc trở lại, cánh binh mai phục sau lưng nổi dậy, hai đàng hiệp đánh. Quân dòng Bengiamin phải vây bốn bề, liền chết hết hai muôn năm ngàn. Quân Israe đặng trận, liền trở đốt hết trong thành, giết nam phụ lão ấu thảy thảy, còn sót sáu trăm người chạy trốn trên rừng mới khỏi chết mà thôi.

Đến ngày hồi trận, quân Israe xét lại thì lo buồn, vì thấy đã giết hết một dòng dân Đ C Trời, nên đi tìm sáu trăm người còn ẩn trong rừng, đem trở về , lập lại cơ nghiệp trong đất nước, để nối dòng, kẻo tàn mạt một dòng dân Chúa chăng.

Các thánh suy truện này thì sợ hãi, bởi thấy ý Đ C Trời là mầu nhiệm là thể nào: những kẻ Người chọn để phạt kẻ có tội, mà cũng phải khốn, hai phen trước thua giặc, cho ta đặng hay, sửa kẻ có tội là một việc lành; song le ai sạch tội, thì mới nên sửa kẻ có tội. Nhơn vì sự ấy, quân Israe phải thua, bởi mình chưa có sạch tội, cho đáng sửa kẻ khác. Ý Đ C Trời muốn cho ta suy trong truyện nầy, mà thảm thiết, là khi cầm gươm giết kẻ có tội, thì phải lo sợ là thể nào. Cho nên vua Xitêphanô mỗi khi phải lên án tử hình, thì trước người khóc lóc ăn năn tội thâu đêm.

Quân Giudêu thấy đã huỷ diệt hết một dòng dân Chúa, liền lo buồn, và đi tìm những kẻ còn sót trong dòng ấy mà đem về. Huống chi kẻ có đạo phải có lòng hiền lành thương kẻ có tội. Khi thấy Đ C Trời phạt kẻ ấy, thì chớ lấy làm vui, một phải thương tiếc, cùng lo liệu mà cứu linh hồn ấy.


TRUYỆN THỨ BẢY MƯƠI HAI
BÀ RÚT CHỊU ĐẠO ĐCT

Truyện người nữ nầy tốt lành lắm, nên ĐCT đã dạy chép lại, để làm gương cho kẻ đời sau bắt chước, mà biết tin cậy Chúa. Vậy đời các tướng còn trị dân Isarae, có một năm phải đại hạn đói khát lắm, thì có một người ở thành Bêlem, tên là Elimiléc, đem vợ con snag đến đất Mốap, làm ăn đỡ thì cơ cẩn. Chẳng ngờ ông Elimiléc sinh thì ở đó, để lại bà Noemi và hai con trai. Đến sau bà ấy cưới vợ cho hai con tại đất ấy. Vậy khỏi mười năm, hai con trai lại qua đời, mà chẳng có con, nên bà Noemi thấy một mình góa bụa khách đầy, đỗ nhờ đất nước người, liền dốc lòng trở về quê cũ, bèn giã từ hai nàng dâu, bảo ở lại lấy chồng khác làm ăn. Song hai nàng dâu thương mến mụ gia lắm, nhứt là bà Rút xin đi theo mẹ mà rằng: Chồng tôi đã chết, đội ơn mẹ hãy còn thương đến tôi; tôi có lòng nào bỏ mẹ cho đành; dầu mà mẹ đi đàng nào, thì tôi cũng theo đàng ấy, quyết ở cùng mẹ cho đến trọn đời; mẹ thờ phượng chúa nào, thì tôi xin thờ phượng chúa ấy; tôi muốn sinh tử một nơi cùng mẹ, có một sự chết mới làm đặng cho mẹ con ta lìa nhau mà thôi. Bà Noemi thấy dâu tận tình làm vậy, thì càng thương hơn nữa. vậy hai mẹ con đem nhau đi, đến bêlem là quê vức bà Noemi mà ở đó. Hai mẹ con nghèo khổ, nên bà Rút xin phép mẹ đi mót lúa ngoài đồng, đặng ít nhiều, đỡ thì đói khát.

Ngày kia bà Rút tình cờ đến mót nơi ruộng ông Bột, là người tuổi tác giàu có, lại là kẻ lớn trong thành Bêlem, cũng là thân tích với bà Noemi. Vã bà Rút từ sớm mai cho đến trưa, những mót lúa liền tay; lại giữ nết na nhơn đức lắm, đứng xa xa kẻ gặt, không truyện trò cùng ai sốt. Ông Bột xem thấy, liền hỏi kẻ gặt rằng: Có biết gái ấy là con ai chăng. Nó thưa rằng: Người nầy lạ mới tôi chẳng biết. Vậy ông ấy bảo và Rút lại gần cho ăn cơm cùng đầy tớ gái lại dặn rằng: Con muốn cắt lấy bao nhiêu, thì mặc ý con; nhưng mà bà ấy chẳng dám thì ông Bột bảo quân gặt, bỏ rơi nhiều lúa cho bà ấy mót đặng đem về nuôi mẹ.

Các Thánh gẫm rằng: ông Bột nầy nên ví dụ ĐCG thương xót các nước thế gian, là kẻ chưa biết đạo thánh ĐCT, cùng vào đàng rỗi linh hồn. Ấy vậy lòng ĐCG chẳng có chê kẻ ngoại đạo, còn lạy bụt thần ma quỉ, là giống hèn hạ, mà Người từ bỏ đâu. Song trước khi Người làm phước cho kẻ chịu phép Rửa tội, thì Người ban nhiều ơn mở lòng kẻ ấy, dọn mình cho đặng chịu phép ấy nên. Cũng một lẽ ấy, Người mở lòng các nước nhiều thể mầu nhiệm, dọn dẹp để phòng ngày sau chịu lấy ơn cực trọng, là phép Rửa tội, đặng kể vào sổ con thật ĐCT.

Sau nữa các Thánh gẫm rằng: bà Rút nầy là ví dụ, kẻ nào muốn theo đàng phước đức, thì chẳng còn thương tiếc họ hàng, của cải, cửa nhà và mọi sự thế gian; kẻ dứt bỏ mọi sự ấy, mà theo ĐCG, thì Người sẽ trả lại bội phần, vì mình đã chịu khó với Chúa. Lại bà Rút nầy theo bà Noemi, là kẻ khó khăn, ấy là ví dụ người nhơn đức, quyết lòng thà bỏ hết mọi sự thế gian, mà chẳng thà bỏ đạo Chúa. Vậy các Thánh mượn lấy lời bà Rút mà rằng: sống chết, tôi cũng chẳng lìa đặng đạo Chúa, tôi mến Chúa hơn mẹ đẻ tôi; dầu mà đạo Chúa trước mặt thiên hạ lấy làm hèn mạt, như bà góa mồ côi, thì tôi cũng mến mà theo. kẻ bền đỗ vững vàng theo đạo Chúa, thì chẳng những là đời sau đặng phước, lại khỏi nhiều sự khốn khó đời nầy, và đặng biết tỏ tường ĐCT thương kẻ ở hết lòng cùng Chúa là thể nào !


TRUYỆN THỨ BẢY MƯƠI BA
ÔNG BỘT LÀM BẠN CÙNG BÀ RÚT

Khi bà Rút trở về nhà thuật lại trước sau, thì bà Noemi thấy ông Bột thương dâu mình liền xét rằng: hoặc là ông nầy ngày sau sẽ làm bạn cùng dâu mình chăng. Vậy bà Noemi gởi lời cùng ông Bột, thử ý người làm sao, thì ông ấy liền nghe và trả lời rằng: tôi phải thưa các chức, và lo liệu việc ấy cho xong. Vậy đến ngày các chức tụ hiệp áp cửa thành bêlem, ông Bột liền thưa mà cưới bà Rút. Dầu ông ấy đã hơn một trăm tuổi, cũng chẳng hỗ ngươi, một vưng lịnh Chúa, mà kết bạn cùng bà Rút, là kẻ còn niên ấu, song có nhơn đức.. Kẻ lớn trong thành Bêlem đều khen ông Bột, cùng chúc cầu cho bà Rút được nên một người nữ công danh trong nước Isarae, như vợ ông Giacóp thuở xưa, nên gương cho các người nữ bắt chước. Hai ông bà nầy làm bạn cùng nhau, ngày sau sinh đặng một con trai, tên là Obéc, là ông nội vua Đavít; ai nói cho xiết khi ấy bà Noemi vui mầng là thể nào: cả và xứ khen bà nầy rằng: gặp bà Rút làm dâu, thì đặng phước hơn sinh đặng mười con trai khác.

Ông thánh Amvoloxiô Giám mục thánh Sư rằng: ĐCT muốn cho chúng tôi gẫm truyện người nữ lạ nầy, cho biết Chúa chẳng phải chuộng dòng dõi nên thánh thuở đời cha ông đâu, Chúa một xét lòng riêng mỗi người, ai có nhơn từ đức hạnh, thì kẻ ấy đặng ĐCT thương mà chớ. Như con gái nầy hèn mọn nghèo khó và ngoại đạo, song bởi có lòng khiêm nhượng, thì đặng phước trọng nhập vào dòng họ ĐCG, nên tổ tiên sinh Chúa Cứu Thế. Bởi bà ấy có lòng tin kính ĐCT, liền đặng phước làm bà cố vua Đavít, và các vua trị nước Giudêu nữa. Cho nên gương bà Rút nầy dạy dỗ chúng tôi, chớ cậy mình là kẻ có cha mẹ nhơn đức làm chi, như quân Giudêu xưa những cậy mình là dòng dõi ông thánh Abaraham. Sự làm cho ta nên thánh trước mặt ĐCT, thì chẳng phải là việc lành của kẻ khác, song chính là việc lành của ta làm mà thôi.

Bà Rút đi theo mẹ chồng nghèo khó, đến lúc nên giàu sang, bà nầy cũng còn một lòng kính yêu mẹ chồng, không hổ mặt vì mẹ chồng là người nghèo khó. Đó là một gương hiếm có trong đời: vì thường khi hễ đặng chức quờn giàu sang, thì không còn lòng kính trọng cha mẹ là kẻ khó khăn, vì sợ hổ ngươi. Song hãy coi chừng, kẻ ở thể ấy, thì chẳng khỏi tay ĐCT một ngày kia sẽ trừng trị nó !


TRUYỆN THỨ BẢY MƯƠI BỐN
ÔNG SAMUE PHÚ MÌNH Ở NHÀ THÁNH
(Trước Giáng sinh 1155 năm)

Ông Samue là người ĐCT đã chọn thuở mới sinh ra, để sau nên gương, soi sáng cả và nước Isarae. Bà Annà là mẹ người, rất nhơn đức; song le lâu năm chẳng có con, nên cầu xin khóc lóc cùng ĐCT, mới sanh đặng con; ấy là bổng lộc ĐCT thưởng lòng mẹ đạo đức, và cũng làm cho biết con mình là của ĐCT ban cho. Vậy đến ngày con nên ba tuổi, thì cha mẹ dưng cho các thầy nuôi trong nhà thờ

ĐCT. Lề luật đạo Chúa dạy thuở ấy, hễ sinh ra con đầu lòng, thì cha mẹ phải dưng trong nhà thờ ĐCT. đoạn phải lấy hai đồng bạc mà chuộc con đem về. Mà bà nầy dầu có một con song le lòng kính mến Chúa lướt lấy lòng thương, nên chẳng chuộc con, một dưng ở nhà thờ ĐCT mà thôi.

Sự bà nầy làm, nên gương cho các người nữ đặng biết, con cái chẳng phải là của riêng mình, là của ĐCT gởi cho, mai sau phải trả lại cho Người, mới theo lẽ chính. Bỡi lòng đạo đức mẹ tràn ra đầy lòng con nên ông Samue đã đặng khôn ngoan sáng láng và đặng ĐCT phù hộ cách riêng. Trẻ nầy đặng chọn làm đầy tớ thầy cả Hêli, để giúp việc trong nhà thờ Chúa. Người ở trong căn bàn thờ, gần Hòm Bia Truyền Thiên Chúa. Thủơ ông Samue nên mười hai tuổi, có một lần đang ngủ thì ĐCT gọi ông ấy lớn tiếng, bấy giờ Samue ngờ là thầy cả gọi, bèn chổi dậy chạy vào, trình người dạy việc gì, Thì Thầy cả nói rằng: Thầy chẳng kêu con bao giờ, con hãy đi nghỉ. Khỏi một giây, ông ấy lại nghe tiếng kêu như khi trước, người liền chạy đến thưa thầy cả. Thầy cả lại rằng: Thầy chẳng có gọi, bỡi con mớ mà chớ con hãy trở về nghỉ. Khỏi một giây, lại nghe tiếng gọi nữa, bèn trỗi dậy chạy đến cùng thầy cả mà thưa rằng: Phen nầy cha gọi con thật, con đã nghe rõ ràng, chẳng phải chiêm bao đâu.

Khi ấy thầy cả mới suy, âu là ĐCT muốn truyền lịnh gì, mà Người phán cho Samue hay trước. Thì thầy cả dạy người trở về mà dặn rằng: Nếu con còn nghe tiếng gọi nữa, thì con thưa rằng: lạy Chúa, xin Chúa hãy phán, vì đầy tớ Chúa sẵn lòng vưng giữ. Ông Samue bèn vưng, mà trở về nghỉ. Khỏi một giây, ĐCT lại gọi mà phán rằng: Tao toan phạt cả và nhà thầy cả Hêli nầy, phải sự nặng nề dữ tợn, để cho kẻ đời sau nghe, thì nổ tai ra chịu chẳng đặng. Tao chẳng nhịn nữa, bởi vì thầy ấy dễ ngươi Tao quá lẽ, là chẳng sửa dạy con cái, là những đứa hằng ngày hằng nhiếc Tao trong nhà thờ nầy, làm cho cả và dân Isarae lấy việc thờ phượng Tao làm hèn làm nhẹ, cho nên tội nó đã quá; dầu muôn vàn giống tế lễ, cũng chẳng có thể mà đền đặng tội nó. Ấy là lời Chúa phán cùng ông Samue thì làm vậy. - Đến sáng ngày thầy cả Hêli hỏi lại các đều, mà Samue chẳng dám nói, cho đến khi thầy cả nài nỉ lắm, thì người mới tỏ ra mà rằng: Chúa đã toan phạt ông, cùng con cái ông, một ngày kia phải chết hết: Người cất chức dòng họ ông; chẳng cho lên đến gần bàn thờ Người nữa. Thầy cả Hêli nghe bấy lời, thì hết lòng khiêm nhượng nhìn lại mình và sẵn lòng chịu Chúa phạt, mà đền tội mình.

Ông thánh Ghêlêgoriô Giáo tông gẫm rằng: trong Hội Thánh rày có nhiều người bắt chức thầy cả Hêli, phải chi thầy ấy không con, thì nên thánh trọn công; mà bỡi vì có con, mà chẳng biết dạy dỗ, nên phải khốn cùng phải hư danh xấu tiếng cho đến đời nay !

Thầy cả Hêli nầy trị dân Isarae đã lâu năm, ăn ở công chính đạo đức, phán đoán rất ngay thẳng cùng làm ích cho cả và dân. Song bỡi chẳng biết sử dạy con cái trong nhà, nên chẳng đặng công danh, lại còn phải ĐCT phạt là khác. Thuở ấy ai thấy thầy cả Hêli hiền lành thì khen, mà chẳng suy sự hiện lành ấy trở nên sự yếu đuối, vì chưng sinh ra trăm ngàn sự hỗn hào trong dân Chúa ! Bằng kẻ sửa dạy cho công thẳng, khác chi kẻ cầm lái tàu cho vững, khi phải dông tố, lại tuần túc kẻ bề dưới giữ bổn phận cho nhặt, thì tàu ấy mới đặng vào cửa, và đặng vui mầng cùng nhau thảy thảy. Bằng kẻ vô ý chẳng xem xét các việc ân cần, thì như tàu chạy giữa biển, mà ai nấy trong tàu ngủ hết; vậy khi gặp phong ba, lẽ nào cho khỏi chìm khốn nạn.


TRUYỆN THỨ BẢY MƯƠI LĂM
ĐCT PHẠT THẦY CẢ HÊLI

Đ ến ngày ĐCT đã định phạt cả dòng thầy cả hêli, thì Người để cho quân Philixitinh, là quân lân cận đất nước Giuđêa, lại nổi dậy đánh dân Isarae, ĐCT để quân ấy ở đó, khác nào như roi để dành mà sửa phạt dân, ĐCT khi nó phạm tội mất lòng Người. Vậy thủơ ấy quân Philixitinh đánh phá dữ tợn, dân Isarae phải trốn chạy. Dân Isarae thấy mình đã phải khốn như vậy, mới tính cùng nhau đi rước Hòm Bia Truyền Thiên Chúa, đem đến để trong dinh trại cho vững thế mà đánh; vì ngờ là ĐCT sẽ cứu lấy Hòm Bia Truyền Thiên Chúa cho khỏi tay kẻ ngoại đạo, thì mình cũng đặng nhờ cho khỏi khốn. Khi ấy hai con thầy cả Hêli, làm thầy đạc đức, liền về khiêng Hòm Bia Truyền Thiên Chúa đem đến chốn chiến trường, thì cả và dân mừng rỡ, ngờ là mình chẳng còn phải thua nữa. Ai ngờ hai thầy quái gở ấy, là kẻ đã đáng Chúa phạt, một ít nữa sẽ làm hại cả và dân phải khốn duồng mình, và ngăn trở kẻo Chúa giúp như khi trước.

Khi quân Philixitinh nghe tiếng dân Isarae reo mừng lừng lẫy, thì nó kinh khủng mà rằng: Binh giặc đã rước Chúa có phép tắc cả đến mà đánh ta, thì ta lấy sức nào mà chống trả Người cho đặng ? Thuở xưa Người cứu quân nầy khỏi làm tôi tá nước Êgíptô, lại chiếm cứ đất nầy, gầy nên cơ nghiệp dường ấy; chúng ta là cỏ rác, toan chống trả phép Người sao đặng ? Song nó càng sợ, thì càng lấy lòng dạn dĩ mà rằng: Một là mới tôi chết, hai là chúng nó chết, vậy mới tôi phải làm hết sức, hoặc khi may rủi. Vậy nó hằm hằm thêm lòng dữ tợn, bèn liều mình huyết chiến, khác chi hùm đói xông vào bắt thịt; nó đánh trận ấy, giết đặng ba muôn binh Isarae, lại giết đặng hai con thầy cả Hêli, cùng cướp lấy Hòm Bia Truyền Thiên Chúa, còn bao nhiêu binh thì trốn đi hết. Khi ấy thầy cả Hêli đã già cả, ở nhà lo lắng sợ hãi, vì e Hòm Bia Truyền Thiên Chúa phải quân Philixitinh làm đều gì dễ duôi, mà nhẹ danh Chúa chăng.

Vậy khi ấy có một người dân Isarae trốn chạy về đem tin cho người hay, dân Isarae đã phải thất trận, và hai con người phải giết; sau nữa Hòm Bia Truyền Thiên Chúa đã về tay quân Philixitinh. Khi thầy cả Hêli nghe nói đều sau nầy, liền ngã xuống vỡ đầu ra mà chết. Lại hai dâu ông ấy, một người có nghén, khi mắng tiếng chồng mình đã phải giết, liền sút con ra mà chết nữa.

Trong cả và Sấm truyền, chẳng có chuyện nào bày tỏ sự ĐCT phạt nặng nề bằng chuyện nầy, để cho các giáo hữu đặng hay, chẳng có tội gì trọng, bằng tội kẻ làm thầy đạc đức ở trái lẽ, mà bỏ nghĩa ĐCT. Lại ĐCT muốn răn dạy các giáo hữu, chớ bắt chước quân Isarae, là những kẻ cậy mình có Hòm Bia Truyền Thiên Chúa, mà chẳng lo chừa bỏ tội lỗi mình đã phạm mất lòng ĐCT; nên kẻ muốn chịu phép Thánh Thể, thì chớ tưởng mình, hễ rước Chúa vào lòng, thì đã đặng phước; song phải dọn dẹp trong lòng mình trước đã, cho đáng rước Chúa vào lòng, là Chúa cực trọng vô cùng, thì mới nên phước thật. Bằng kẻ nào chẳng có dọn mình, một toan rước Chúa vào lòng, thì đã đáng mắt tay quân dữ là ma qủylàm hại mình mà chớ.


TRUYỆN THỨ BẢY MƯƠI SÁU
BỤT ĐAGON NGÃ XUỐNG

Quân Philixitinh cướp đặng Hòm Bia Truyền Thiên Chúa, thì nó tưởng đã thắng

ĐCT rồi, cùng làm xấu danh Chúa; chẳng ngờ nó lại làm cho danh Chúa càng sang hơn trước ngàn trùng. Vậy quân ấy đem Hòm Bia Truyền Thiên Chúa vào thành Asôtô, là chợ cả nó; mà đặt trên một bàn bụt Đagon.

Song le ĐCT muốn cho quân ấy biết. Người chẳng phải như bụt của nó: cho nên bụt Đagon đứng chẳng đặng trước Hòm Bia Truyền Thiên Chúa, phải ngã xuống đất. Đến sớm mai quân thành Asôtô thấy bụt ngã làm vật, thì sợ lắm, liền đặt bụt lại nơi cũ cho vững vàng, kẻo lại ngã nữa chăng. Đêm sau thì bụt ấy lại ngã xuống đất, lần nầy thì gãy đầu cùng gãy chơn tay ra nữa. Lại nữa dân thành Asôtô, cũng đêm ấy, mắc phải tật thoát giang nặng nề xấu xa lắm, cùng sinh ra muôn muôn vàn vàn con chuột khuấy khỏa ngoài đồng, lại tràn vào trong nhà, mà làm hại mọi của. Vậy quân ngoại dạo này mới biết mình phải tật nguyền xấu xa làm vậy, là bởi mình dể ngươi Hòm Bia Truyền Thiên Chúa. Nên nó tính giao Hòm rất trọng ấy cho dân Isarae, Mà khi nó đem Hòm Thánh đến thành nào, thì cả và thành ấy lại phải tật như nó thảy thảy; cho nên nó sợ hãi, e phải chết hết chăng. Vậy nó mời những kẻ lớn trong nước, và các hòa thượng, đến mà tính phải làm thể nào cho khỏi tật nguyền ấy. Thì ai nấy thảy đều nói rằng: Phải giao Hòm Bia Truyền Thiên Chúa lại cho dân Isarae, cùng phải dâng cho ĐCT năm hình con chuột, với năm hình người mắc tội ấy, đều đúc bằng vàng hết; ấy là dấu tích mình phải làm vậy, cho sáng danh Chúa đời đời, thì Chúa tha. Nó tính xong, thì liền làm theo như vậy. Sau nữa, nó làm một cái xe tốt đẹp, để chở Hòm Bia Truyền Thiên Chúa, cùng những hình vàng, lại bắt hai nái bò mới đẻ mà kéo xe. Vì chưng nó suy rằng: Nếu tật nguyền ấy là bỡi ĐCT phạt, thì con bò sẽ đi ngay nước Isarae. Nhược bằng tự nhiên mà mắc tật bịnh ấy, thì con bò sẽ nhớ con nó để mà trở về, chẳng đi. Song le hai con bò ấy, như thể có trí khôn biết việc mình làm, tức thì liền bỏ con, mà kéo xe xăm xăm thẳng đàng, cho đến đất Giudêa. Hai con bò ấy kéo xe đến thành Bêsami, là chợ cả đất Isarae, thì mới đứng lại. Cả và dân thàn hấy xem thấy thì mầng lắm, mà đến rước Hòm Bia Truyền Thiên Chúa. Song quân ấy chẳng có lòng cung kính, một bỡi kiêu ngạo, mầng rỡ hoảng hốt, mà đến tọc mạch coi xem Hòm trọng ấy, như thể xem của gì lạ ở chợ, cho nên năm muôn người thành ấy cũng phải phạt. Vậy nó sợ hãi, mà than thở cùng nhau rằng: Hãy còn ai ở thế gian nầy, mà chịu đặng phép Chúa rất trọng vọng làm vậy ? Nó liền sai kẻ đi mời các thầy, ở thành Cariatiari, đến lãnh lấy Hòm Bia Truyền Thiên Chúa, mà đem về trên núi gần thành ấy, là nơi ĐCT đã chọn, mà để tạm Hòm Thánh ở đó. Bởi đó năm ấy cả và dân thành Cariatiari đặng mùa màng, cùng đặng mọi sự lành khác. Ấy vậy cho ta đặng hay, ý ĐCT chẳng muốn phạt ai, một muốn làm lành cùng kẻ thờ phượng Người nên.

Truyện quân Philixitinh cướp lấy Hòm Bia Truyền Thiên Chúa, đó là ví dụ quan quyền thế gian có phép mạnh, mà cướp lấy của nhà thờ ĐCT, cùng ngăn trở kẻ yếu đuối, chẳng cho thờ phượng ĐCT. Khi đầu nó phá đặng việc Chúa, thì nó mầng lắm, chẳng hay một ít lâu, nó phải phạt nặng nề, lại phải đền tội ấy, là phải chịu xấu hổ trước mặt cả và thiên hạ. Sau nữa truyện quân thành kia mầng rỡ vì đã đặng Hòm Bia Truyền Thiên Chúa trở về đất nước mình; sự vầy nên ví dụ kẻ có đạo, mà ra kiêu ngạo, vì mình đã khỏi tối tăm, chẳng còn phải là kẻ ngoại nữa mà cũng chẳng giữ mười Giái răn ĐCT dạy; kẻ làm vậy, càng biết lẽ đạo Chúa; thì càng mắc phải nặng nề hơn mà chớ.

Ông thánh Ghêlêgoriô Giáo tông rằng: cũng một lẽ ấy, nhiều người dạn dĩ kiêu ngạo cậy mình, mà cả gan rước Mình Thánh ĐCG ; nhưng mà chẳng có lòng sạch sẽ cho đáng, cũng chẳng lo lắng cho sạch tội, thì mắc phải chết phần linh hồn, lại phần xác có khi cũng phải khốn nữa. Bằng kẻ có lòng khiêm nhượng, vưng giữ mười Giái răn Chúa, hễ khi đặng rước Chúa vào lòng, thì đặng đầy phước đức và xác và hồn chẳng sai.


TRUYỆN THỨ BẢY MƯƠI BẢY
DÂN ISARAE THẮNG QUÂN PHILIXITINH

Khi thầy cả Hêli cùng các con cái người qua đời, thì ĐCT đặt ông Samue lên trị dân Isarae, để mà sửa lại mọi việc tồi tệ trong đất nước mình. Bởi ông nầy có lòng nhơn đức lắm, thì trước hết người đi thăm viếng các dòng họ Isarae, mà giảng dạy khuyên bảo, phải ăn năn tội, và phá việc ma quỷ trong đất nước mình, lại dốc lòng thờ phượng một Chúa, thì mới khỏi làm tôi tá quân Philixitinh và các nước nghịch đảng xung quanh. Khi dân nghe lời an ủi làm vậy, thì liền trở lại cùng ĐCT, mà đem nhau đi phá bụt Baal cùng bụt Axitarot, là giống ma quỉ, dân Isarae quen thờ lầm thay vì ĐCT, Đoạn ông Samue lại kêu dân tụ hiệp thảy thảy đến thành Maxipha, mà ăn chay khóc lóc trước mặt ĐCT; thì ông ấy tế lễ Chúa, xin tha tội cho dân. Vã khi ấy quân Philixitinh mắng tiếng dân Isarae đã tụ hiệp cùng nhau, bèn sắm sửa binh mã khí giới, quyết tiển thảo trừ căn dân Isarae cho tuyệt một phen. Song le ĐCT đã giao hòa lại cùng dân mình, nên quân nghịch chẳng làm chi đặng. Vậy quân Philixitinh khi ấy phải sấm sét và mưa đá sa xuống, như phải mũi tên bắn vậy, thì nó kinh khủng, bèn trốn ẩn, chẳng dám ra mặt. Ấy dân Isarae thấy ĐCT giúp mình làm vậy thì hết lòng đội ơn Chúa, cùng thừa cơ mà đuổi quân giặc, lại giết đặng nhiều kể chẳng xiết. Vậy ông Samue từ ấy về sau đặng công danh lớn, và cai quản dân Chúa, đặng hai mươi hai năm, như cha trị con vậy.

Khi ông samue đã đến sáu mươi tuổi, thì con cái người lớn lên, song chẳng đặng nhơn đức như cha; nó ăn ở cùng dân chẳng công bình, tham của cải ăn hối lộ, cùng làm nhiều sự trái khác. Vậy dân Isarae, phàn nàn và đến thua xin ông Samue chọn một người nào trong dân và đặt lên làm vua, như các nước khác. Ông Samue buồn, vì thấy dân Chúa tỏ ý chẳng còn muốn ĐCT làm Vua, cùng gìn giữ mình như thuở trước; một muốn cho có người thế gian thế quờn Chúa, thì ông Samue than thở cùng ĐCT. Nhưng mà ĐCT bảo người rằng: Sự ấy thì mặt ý dân, nó muốn có vua, thì đến ngày sau nó sẽ chịu vua làm khốn nó; lại sẽ biết, làm tôi ĐCT và làm tôi người thế gian, hai thể ấy khác xa nhau lắm. Vậy ông Samue truyền cho dân rằng: Đến ngày sau vua bay sẽ thâu thế, bắt sưu dịch; sẽ chọn con trai bay làm quân gia, hầu hạ chịu mõi nhọc đêm ngày; sẽ đòi con gái đẹp làm tì nữ, chịu nhọc nhằn, thức khuya dậy sớm, nấu nướng làm bánh trái cùng các việc trong đền: lại ai có ruộng vườn, nào tốt, thì vua sẽ giành lấy: vậy mặc ý bây suy xét. Dân nghe những lời làm vậy, cũng chẳng nguôi lòng, một nài xin cho đặng vua mà thôi.

Khi ta nghe truyện nầy, thì ta chê dân Isarae dại lắm, vì lựa làm tôi thế gian, hơn làm con ĐCT như các tổ tông đời trước. Song khi ta xem thấy kẻ có đạo đã kết nghĩa cùng ĐCT, mà trở lòng lại, quyết làm tôi ma quỷ, chẳng thà giữ nghĩa cùng Chúa, thì ta phải lấy làm lạ hơn nữa.

Vậy truyện nầy là ví dụ quân Giudêu ngày sau bỏ ĐCG, chẳng khấng nhìn người là Chúa thiên hạ đợi trông, mà nó thưa quan Philatồ rằng: Mới tôi chẳng biết người nầy là ai, mới tôi biết một vua Cêsarê mà thôi. Kẻ có đạo, mà chọn đàng tội lỗi, bỏ đàng phước đức, thì mắc tội trọng cũng như quân Giudêu. Kẻ làm vậy, dầu mà miệng chẳng nói ra, nhưng mà trong lòng thì đoán rằng: Mình thà nhìn lấy ý riêng, làm vua chúa mình, chẳng thà vưng lịnh ĐCT dạy.


TRUYỆN THỨ BẢY MƯƠI TÁM
ĐCT CHỌN ÔNG SAO LÊ LÊN LÀM VUA
(Trước Giáng sinh 1095 năm)

Đến ngày ĐCT đã định chọn ông saolê lên làm vua: thì Người tỏ ý thể nầy: cha ông Saolê là người trưởng giả về dòng dõi Bêngiamin; một ngày kia con lừa nhà ấy đi mất, chẳng biết phương nào, nên người bảo Saolê cùng đầy tớ đi tìm kiếm khắp nơi. Vậy Saolê vưng lời cha dạy, đi tìm mà chẳng gặp, đã hòng trở về nhà, thì đầy tớ thưa rằng: Xứ nầy có một người khôn ngoan lắm, và biết mọi sự; hoặc là ta đến thưa, người sẽ chỉ cho ta tìm đặng lừa chăng. Vậy hai thầy tớ đem nhau đến nhà ông Samue; khi ấy ĐCT mở lòng cho thánh tiên tri đặng hay, kẻ đến nhà mình ấy là kẻ đặng quờn trị thiên hạ. Ông Samue vội vàng tiếp lễ, mời ông Saolê vào, dọn tiệc ăn mầng, và mời ngồi trên quới khách, và tỏ ra lòng kính trọng lắm.

Đoạn tiên tri xin khách khứa về hết, lại bảo người đầy tớ lui ra; khi còn một mình với ông Saolê, thì phán rằng: Hôm nay ĐCT đã đặt ông lên làm vua, trị lấy dân Người, cho khỏi quân Philixitinh làm khốn. Đoạn người ôm ông Saolê, mà kính chúc kẻ lên quờn đế vương. Ông Saolê thấy sự làm vậy, bèn sợ mà thưa rằng: Tôi bất tài thiểu trí, lại dòng họ tôi hèn mọn trong dân Isarae, tôi đâu đáng chịu chức trọng nầy ! Thì ông Samue bèn bảo rằng: Chớ có hồ nghi làm chi; việc ĐCT đã định, ta cãi làm sao đặng. Bằng con lừa đã mất, thì chớ lo việc ấy, nó đã chạy về nhà; xin ông hãy về cho kíp, kẻo ông già trông. Vậy ông Saolê đi tìm con lừa chẳng đặng, mà đặng làm vua, là sự mình chẳng đi tìm. Khi ông ấy về tới nhà, thì làm thinh, giấu giếm, chẳng cho cha mẹ hay điều gì sốt.

Đoạn ông Samue dạy cả và dân Isarae tụ hiệp đến thành Maxipha. Mà bắt thăm chọn vua lên trị nước. Vậy đầu hết bắt thăm mười hai dòng con cháu ông Giacóp thì đặng dòng Bêngiamin; lại bắt bắt thăm các họ trong dòng ấy, bèn đặng họ ông Saolê; lại bắt thăm các người trong họ ấy, thì trúng ông Saolê. Tức thì ai nấy bèn đi tìm người, nhưng mà người đã ẩn mình. Vậy phải tìm lâu mới gặp, ai nấy xem thấy ông ấy tướng mạo oai nghi cao lớn hơn cả và dân. Ông Samue khiến ông Saolê đứng nơi cao, đoạn chỉ cho dân xem, mà rằng: Ấy là người ĐCT đã chọn làm vua trị nước, ai nấy hãy xem hình tượng người nầy oai nghi làm vậy, có xứng quờn đế vương chăng ? Khi ấy nữa phần dân chúng phục ông Saolê, còn nữa phần chẳng chịu nhìn người làm vua, song ông Saolê làm thinh vậy bèn trở về nhà. Vậy những kẻ ĐCT đã mở lòng, thì đặng một ít người theo hầu hạ vua ấy, khi đầu vua Saolê khiêm nhượng lắm, bằng lòng chịu vậy: song le đến sau trở lòng kiêu ngạo quá lẽ, thì làm chứng sự nầy, là người thế gian, khi đã đặng sang trọng, mà còn cứ một lòng khiêm nhượng như trước thì họa hiếm là dường nào.

Vậy các thánh gẫm rằng: Vua Saolê là gương kẻ chịu chức trong Hội Thánh, phải xem luôn mà sợ hãi. Thật vua ấy là kẻ ĐCT đã chọn, song lẽ bỡi vì ngày sau cứ theo ý riêng, mà chẳng còn vưng lời ông Samue, là đấng thay mặt ĐCT, thì vua phải mất quờn, lại phải chết khốn nạn nữa. Ấy là gương làm chứng ĐCT cất ơn thánh. Người lại, chẳng cho kẻ trở lòng kiêu ngạo làm ngụy cùng Người, đặng dùng ơn cực trọng ấy cho đến trọn đời.


TRUYỆN THỨ BẢY MƯƠI CHÍN
VUA SAOLÊ ĐÁNH GIẶC CÙNG VUA NƯỚC AMMON

Đang khi dân Isarae. Vậy kẻ ở trong thành ấy bèn sai sứ đến tâu vua Ammon, xin tha phạt mà giao hòa cùng mình, thì vua ấy phán rằng: Bay xin tao làm lành cùng bay thì mặc lòng; nhưng tao định khoét con mắt bên hữu những người đờn ông bay thảy thảy, đoạn tao mới làm lành cùng bay. Quân thành ấy nghe lời độc dữ làm vậy, thì càng sợ hơn nữa, vì đã túng thế, chẳng biết lo phương nào, nên xin vua dong cho bảy ngày mà liệu. Ví bằng đến kỳ hẹn, mà vô kế khả thi, thì sẽ nộp mình chịu phép. Vậy vua Ammon liền dong cho thành ấy mười ngày nữa. Bấy giờ có kẻ đem tin cho vua Saolê hay tự sự, khi vua nghe thuật lại lời độc dữ làm vậy, bèn giận lắm. Mà lúc ấy là khi vua Saolê bởi ruộng mà về nhà, nên liền dạy bắt hai con bò cày; dứt ra làm mười hai phần, mà dạy đem đi mỗi xứ một phần, bỏ giữa chợ trong các xứ dân Isarae, lại truyền lịnh rằng: Tuần nầy ai chẳng đi đánh giặc cùng vua, thì bao nhiêu bò kẻ ấy sẽ phải chết như con bò nầy, chẳng sai. Vậy chẳng một ai dám cãi lịnh vua, bèn tụ hiệp hết thảy, kể đặng ba muôn binh, và nội dòng ông Giude đặng ba muôn nữa. Vậy vua Saolê đem binh đánh vua nước Ammon, mà thắng trận giết đặng nhiều, còn sót bao nhiêu thì chạy trốn các nơi. Từ khi đặng trận nầy về sau, thì cả và dân mới hiệp một ý lòng mà tùng phục vua Saolê.

Khi ấy vua Saolê mới nên oai quờn mạnh thế, mà đi đánh giặc cùng quân Philixitinh, là kẻ đã bắt dân Isarae làm tôi tá lâu năm, cùng đã cấm chẳng cho thợ rèn nào ở trong nước Isarae, kẻo sắm sửa khí giới mà trở lòng cùng nó. Vậy trong nước Isarae, hễ ai muốn làm nghề cày cấy; hay là làm việc gì, thì phải đến trong nước Philixitinh, mà mua lưỡi cày răng cuốc, đem về làm ăn; còn vua Saolê, tên là Gionatha, với một người cận thần cấp khí giới dẹp đàng trước, đem nhau đi ban đêm, lén vào dinh trại quân Philixitinh, mà giết trộm hai mươi người; cho nên quân Philixitinh mắng tiếng động dụng, thì nó ngờ là có nhiều binh giặc đã áp đến, bèn kinh khủng, lại bỡi trời tối, nhìn nhau chẳng đặng, nên giết lộn nhau, cùng loạn hàng thất thứ mà vở chạy. Khi ấy vua Saolê thấy vắng thái tử, lại nghe tiếng hỗn hào bên quân giặc, liền hiểu sự; bèn đem đại binh đến cứu viện thái tử. Khi ấy quân Philixitinh kinh tâm phá đãm, chạy trốn khắp nơi. Bấy giờ vua Saolê đem binh đuổi theo, và cấm chẳng cho ai ăn uống vật gì, cho đến khi đặng trận khởi hoàn, lại thề rằng: vua chúc sự dự cho kẻ nào phạm lịnh ấy.

Các thánh gẫm nhiều lẽ, vua dữ kia khiến khoét con mắt bên hữu dân Isarae, thì mới làm hòa cùng. Ấy là ví dụ ma quỷ đánh giặc cùng các giáo nhơn, nó muốn làm hòa cùng kẻ chẳng còn con mắt bên hữu mà coi, là kẻ nào chẳng có trí lòng mà nhớ sự vui vẻ đời sau, lại chẳng còn nhớ đến và chẳng sợ sự khốn nạn trong hỏa ngục; những còn có trí khôn mà biết lo sự thế gian mà thôi, ấy là kẻ còn một con mắt bên tả, mà con mắt bên hữu thì đã khoét đi. Thì ma quỷ làm hòa cùng kẻ ấy, vì thần dữ khỏi đánh giặc cùng nó.

Bằng quân Philixitinh chẳng cho một người nào làm nghề thợ rèn ở trong nước Isarae, cũng là ví dụ ma quỷ, muốn cho cả và dân ĐCT dốt nát u ám, chẳng biết rèn khí giới thiêng liêng, là dùng sách Sấm truyền và lẽ đạo thánh ĐCT dạy, song bó tay lại, để cho nó phỉnh dỗ thể nào, thì đặng thể ấy, bỡi sự dốt nát mê muội. Sau nữa quân Philixitinh chẳng cấm mua lưỡi cày răng cuốc trong nước nó, ấy là ví dụ ma quỷ, chẳng ngăn trở kẻ nào muốn rèn khí giới khôn ngoan, sắm sửa lẽ khéo léo phần xác, về sự làm ăn. Học hành chữ nghĩa theo thói quen thế gian, thì mặt ý, nó chẳng ngăn cấm sự ấy, một cấm thợ rèn khí giới thiêng liêng mà thôi. Nghĩa là nó muốn cấm chẳng cho các đấng khôn ngoan sáng láng ở cùng dân

ĐCT, kẻo tập rèn nhau mà đánh giặc cùng nó. Vì vậy kẻ lơn trong giáo hữu phải bắt chước vua Saolê, khôn ngoan trong việc nầy cho lắm. Vua ấy đe phạt những kẻ ở nhưng trọn đời, bó tay chịu hãm hiếp, lại giục bảo dân đi đánh giặc. Dầu mà chưa kịp sắm sửa khí giới bề ngoài, thì vua cùng thái tử cũng đã có khí giới bền chắc là lòng tin cậy Chúa, sẽ ban cho đặng trận.

TRUYỆN THỨ TÁM MƯƠI
VUA SAOLÊ PHẠM TỘI CÃI LỊNH ĐCT

Quân Amaléc là dân thủơ trước ngăn trở, chẳng cho dân Isarae vào đất Canaan, mà từ khi ấy đến rày, nó một lâu một thêm phạm tội quá lẽ; song ĐCT đã duông thứ lâu năm, đoạn người mới phạt nó phải chết tuyện dòng, chẳng còn dấu tích đân quái gở ấy nữa, Vậy ông Samue bèn truyền lịnh ĐCT cho vua Saolê đặng hay; thì vua điểm đặng hai muôn binh, mà đi đánh quân Amaléc, cho đến khi hủy diệt quan giặc ấy cho tận tuyệt. Song le vua Saolê theo ý riêng mình, mà cắt nghĩa trái lịnh ĐCT dạy, vì chưng ĐCT đã dạy hũy quân ấy, giết nhơn cùng vật, và mọi sự thảy thảy, thì vua Saolê để dành nhiều trâu bò chiên dê mà rằng: Để ngày sau hầu tế lễ ĐCT; lại để sống vua giặc nữa.

Khi vua Saolê đặng trận khởi hoàn, thì ông Samue đến viếng vua; vua liền tỏ lòng mừng rỡ, rước người mà khen mình rằng: Trẫm đã vưng lịnh ĐCT, chẳng thiếu phần nào sốt. Tức thì ông Samue bắt lẽ mà rằng: Nhơn sao tôi nghe tiếng trâu bò kêu rống xung quanh xứ nầy, giống ấy bởi đâu mà đến đay. Vậy vua Saolê thưa rằng: Dân để lại một hai chục trâu bò tốt, hầu tế lễ mà tạ ơn ĐCT. Khi ông Samue nghe nói lời ấy, thì người liền lấy lời Chúa mà quở rằng: Ấy lòng ĐCT chẳng muốn của tế lễ, cho bằng Người muốn ta vưng lịnh Người; ai mà bỏ ý riêng mình cùng theo ý Người, ấy là của lễ trọng hơn muôn vàn trâu bò. Bằng kẻ nào cãi lịnh Người, thì phạm tội trọng như lạy bụt thần vậy. Vì chưng kẻ theo ý riêng thì nó coi mình lớn bằng ĐCT, và chẳng còn xem sao đến Chúa nữa. Đoạn ông Samue phán cùng vua rằng: Vua giết dân Amaléc, là dân dại dột, mà để dành vua nó làm chi ? Lẽ thì phải phạt kẻ lớn làm đầu trước đã, còn kẻ nhỏ thì phạt sau. Vậy ĐCT chẳng còn dùng vua nữa. Người sẽ kiếm người khác, là kẻ khiêm nhượng, biết vưng lịnh Người cho trọn. Vua Saolê nghe lời ấy, bèn sợ mà thưa rằng: Dầu tôi đã lầm lỗi, song xin thánh tiên tri bớt lời qủơ, kẻo dân sự dễ duôi tôi.

Các Thánh gẫm rằng: vua nầy là ví dụ kẻ phạm tội, thì biết suy mình đã có lỗi; nhưng mà chẳng sợ vì đã mất lòng ĐCT, một sợ sự xấu mặt cùng thế gian; cho nên kẻ ăn năn tội cách ấy, càng thêm mất lòng ĐCT hơn nữa. Sau nữa vua ấy giết muôn binh giặc, mà tha vua giặc, cũng là ví dụ kẻ phạm tội nhiều, mà dốt lòng chừa các tội thường; còn một tội rất ưa tính, quen phạm lâu năm, thì kiếm lẽ mà giữ lại, chẳng chịu chừa tội ấy, chẳng suy tội ấy là đầu cội rễ muôn vàn tội khác; nếu mà còn để dành nó thì muôn tội khác lại trở về như trước chẳng sai.

Ông Samue, là đấng biết kính sợ ĐCT, bèn dạy đem vua Amaléc ra mà giết cùng phân thây; đó là gương kẻ bề trên phạt có lòng công chánh mà xử cùng kẻ có lỗi, chẳng nên vì lẽ hèn mà dung thứ kẻo sau phải trả lẽ cùng Chúa chăng.


1164    17-03-2011 09:12:37