|
Người Công Giáo ở khu vực châu Á được kêu gọi “Sống đạo theo cung cách Á châu” (Ecclesia in Asia, số 10), còn người Công Giáo Việt Nam được mời gọi: “Sống đạo theo cung cách Việt Nam” (Thư chung 2003, số 9). Chính sự sống đạo này làm thay đổi diện mạo đạo Công Giáo và cũng ảnh hưởng sâu rộng tới văn hóa xã hội của nhiều quốc gia. Chúng ta hãy cùng nghiên cứu sự ảnh hưởng của giáo lý Công Giáo đến vấn đề hôn nhân và gia đình ở Việt Nam.
1- Giáo lý Công Giáo về hôn nhân và gia đình
Hôn nhân là một vấn đề quan trọng đối với Giáo Hội Công Giáo nên đã được nâng lên thành 1 trong 7 Bí tích thánh. Sách giáo lý viết: “Hôn phối là nhiệm tích do Chúa Giêsu lập để kết hợp hai người tín hữu, một nam, một nữ thành vợ chồng trong tình yêu thương, đồng thời ban ơn cho họ để họ xây dựng gia đình hạnh phúc và sinh sản con cái, góp phần vào công cuộc tạo dựng của Thiên Chúa và xây dựng gia đình nhân loại mỗi ngày mới tốt đẹp hơn” (1).
Bộ Giáo luật năm 1983 dành hẳn một dung lượng rất lớn là đề mục 7 với 111 điều từ điều 1055 đến điều 1165, để quy định về hôn nhân và gia đình, đấy là chưa kể phần tố tụng, tòa án hôn nhân 37 điều từ 1671 đến 1707, trong khi toàn bộ Giáo luật chỉ có 1.752 điều.
Quan niệm của Giáo Hội Công Giáo cho rằng hôn nhân là một ơn gọi nên mang tính chất thánh thiêng. Là ơn gọi như các ơn gọi dâng hiến, tu trì nên người Công Giáo không được tránh né mà chỉ có thể đáp : Xin vâng. Theo giáo lý Công Giáo thì người Công Giáo không được phép trốn kết hôn, tránh sinh con cái và xây dựng một gia đình hạnh phúc (trừ những người được ơn gọi dâng hiến).
Hôn nhân Công Giáo là sự kết hợp giữa 1 người nam và 1 người nữ nên không chấp nhận hôn nhân đồng tính cùng giới hay đa thê hoặc đa phu. Giáo Hội lên án một số quốc gia cho phép kết hôn giữa những người đồng tính, mặc dù vẫn tôn trọng họ. Vì vậy đã có nhân viên công quyền sẵn sàng đi tù chứ không làm giấy hôn thú cho người đồng tính. Cũng vì không chấp thuận đa thê nên những người gia nhập đạo Công Giáo mà có nhiều vợ cũng chỉ được phép chọn một bà vợ trong số đó để sống chung. Hôn nhân Công Giáo được xây dựng trên nguyên tắc tự nguyện. Nếu có bất kỳ sự ép buộc hay lừa gạt nào thì hôn nhân đều vô hiệu. Để đảm bảo nguyên tắc này, các linh mục trước khi làm phép cưới phải cẩn thận tra xét đương sự trong tòa giải tội, xem có hoàn toàn tự nguyện không. Nếu phát hiện ra phải dừng việc chứng hôn lại.
Một đặc tính nữa của hôn nhân là sự bất khả phân ly. Điều 1056 của Giáo luật viết: “Những đặc tính chính yếu của hôn nhân là sự đơn nhất và sự bất khả phân ly, những đặc tính này có một sự bền vững đặc biệt trong hôn nhân Kitô giáo, vì có tính cách Bí tích”. Điều này có nghĩa là, hôn nhân Công Giáo buộc cặp vợ chồng phải sống chung thủy với nhau suốt đời và họ không được phép ly hôn để kết hôn với người khác. Nếu vì lý do đặc biệt, họ không thể sống chung cùng nhau thì chỉ được phép ly thân mà thôi. Giáo lý Công Giáo khuyên mọi người sống tiết dục (các bậc tu trì phải khấn khiết tịnh), cả trước, trong và sau hôn nhân để đảm bảo thủy chung suốt đời. Kinh thánh nhiều lần nhắc đến quy luật này. Chính Đức Giêsu khi trả lời những người biệt phái: có được phép ly dị vợ vì bất cứ lý do nào không? Ngài đáp: “Các ông chưa đọc thấy chép rằng: từ đầu, Tạo hóa dựng nên người nam và người nữ. Vì thế, người nam sẽ bỏ cha mẹ, mà quyến luyến vợ mình, và cả hai sẽ thành một thể xác mà thôi. Như thế, không còn là hai thể xác, nhưng là một mà thôi. Vậy điều gì Thiên Chúa đã kết hợp, thì loài người không được phân ly” (Mt 19,6).
Về gia đình, Giáo Hội Công Giáo cũng coi gia đình là tế bào của xã hội và là Hội thánh tại gia. Sách giáo lý viết: “Gia đình được định nghĩa là một cộng đồng hiệp thông các ngôi vị, là tổ ấm trong đó mọi người cùng chung với nhau mọi sự, mọi người cùng chung đóng góp, cùng chia sẻ và cùng chung trìu mến thông cảm sâu xa. Sở dĩ gia đình Kitô giáo được gọi là một “Hội thánh tại gia” là vì mỗi gia đình Kitô hữu là một sự bày tỏ và thể hiện niềm hiệp thông trong Hội thánh” (2). Gia đình Công Giáo có nhiệm vụ sống theo gương 5 chuyên của cộng đoàn Hội thánh nguyên thủy là chuyên cần giáo lý, vững chí hiệp thông, bền lòng phục vụ, vui thú nguyện cầu và cùng nhau làm chứng. Giáo Hội đề cao những cử chỉ âu yếm, thân mật giữa vợ chồng và buộc tội người vợ hay chồng nếu từ chối những cử chỉ đó mà không có lý do chính đáng. Bổn phận của vợ chồng là sinh sản con cái không phải theo mục đích thông thường là nói dõi tông đường mà là cộng tác với Thiên Chúa trong công trình tạo dựng vũ trụ. Hiến chế “Gaudium et Spes” (Vui mừng và Hy vọng) số 50 viết: “Hôn nhân và tình yêu gia đình tự bản tính quy hướng về sự sinh sản và giáo dục con cái. Con cái là ơn huệ cao quý nhất của hôn nhân và là sự đóng góp lớn lao kiến tạo hạnh phúc của cha mẹ…Bổn phận truyền sinh và giáo dục phải được coi là sứ mệnh riêng biệt của vợ chồng. Trong khi thi hành bổn phận ấy, họ biết rằng mình cộng tác với tình yêu của Thiên Chúa Tạo Hóa và như trở thành những kẻ diễn đạt tình yêu của Ngài” (3).
Trước đây, trong Kinh thánh có nhắc đến lời chúc phúc cho loài người là “Hãy sinh sản cho đầy mặt đất” nên Giáo Hội cũng không có giới hạn số con của một cặp vợ chồng và khoảng cách giữa các lần sinh. Nhưng sau này, Giáo Hội có hướng dẫn cụ thể cho phù hợp với thời cuộc. Thư chung năm 1992 của các Giám mục Việt Nam viết:
“Trong tình hình dân số hiện nay của thế giới nói chung và nước ta nói riêng, đối chiếu với tình hình phát triển kinh tế, không thể làm theo phương châm của người xưa “trời sinh voi, trời sinh cỏ”, phương châm ấy có giá trị trong thời kỳ nông nghiệp “đất rộng người thưa”, ngày nay, loài người đã đầy mặt đất cần phải tính đến việc nuôi sống và giáo dục những mầm non của loài người. Đàng khác, mệnh lệnh sinh sản cho đầy mặt đất gắn liền với mệnh lệnh làm chủ mặt đất. Muốn thế thì đứa con sinh ra phải được nuôi nấng giáo dục nên người. Điều này đưa chúng ta vào những vấn đề cấp bách và nghiêm trọng hiện nay là vấn đề sinh sản có trách nhiệm và vấn đề giáo dục con cái ” (số 11).
Giáo Hội đưa ra khái niệm “sinh đẻ có trách nhiệm” . Điều này ràng buộc các cặp vợ chồng tự quyết định số lần sinh, khoảng cách giữa các lần sinh chứ không phải ai khác. Họ chịu trách nhiệm điều này trước con cái và trước chính Thiên Chúa.
Để duy trì luật hôn nhân và gia đình, Giáo Hội đã quy định chặt chẽ. Buổi đầu, đạo mới đến Thăng Long, lễ tối chỉ dành cho đàn ông, còn đàn bà, phụ nữ đi lễ ban ngày. Trong nhà thờ chia ra “nam tả, nữ hữu” đề không có chuyện trà trộn nam, nữ chỗ đông người hay thiếu sáng. Tiến trình trước hôn nhân như việc học giáo lý hôn nhân và gia đình cho các bạn trẻ chuẩn bị kết hôn, chuẩn bị làm cha mẹ với thời gian khá dài. Điều 1067 giáo luật nêu: “ Hội đồng giám mục phải ấn định những quy tắc về khảo hạch các đôi bạn, cũng như việc rao hôn phối và về những phương thế thích hợp khác để thực hiện những cuộc điều tra, những việc đó là cần thiết trước khi cử hành hôn nhân; một khi những quy tắc ấy đã được tuân giữ cẩn thận, cha sở có thể tiến hành việc chứng hôn”. Bởi Giáo Hội ý thức rằng, gia đình là tế bào của xã hội thì cũng là cơ sở của Giáo Hội. Nếu hôn nhân tan vỡ không chỉ đương sự rơi vào cảnh xa rời Giáo Hội mà cả đôi bên nội ngoại, con cái cũng rất dễ mất sự hiệp thông với Giáo Hội nữa.
2- Ảnh hưởng của lối sống đạo Công Giáo đến hôn nhân và gia đình
2.1 - Ảnh hưởng trong cộng đồng Công Giáo
Nếu quan sát bên ngoài, thật khó phân biệt người theo đạo Công Giáo và không Công Giáo (trừ người tu hành buộc mang y phục dòng) nhưng nếu đi sâu vào tìm hiểu đời sống của họ thì thấy những nét khác biệt lớn. Việc tuân giữ giáo lý, giáo luật Công Giáo hình thành nếp sống của người có đạo. Nếp sống này chi phối toàn bộ suy nghĩ, hành động và cả thói quen của họ nữa. Người Công Giáo thường sống quây quần trong một khu, một làng ngay cả khi chưa có lệnh phân sáp của triều nhà Nguyễn. Nếu phải di dời đi đâu thì họ giữ nguyên tên làng cũ. Vì vậy có thể thấy tên làng Cầu Cổ, Bùi Chu, Trung Lao…tại vùng đất lấn biển Nghĩa Hưng (Nam Định) hay các xứ Hà Nội, Thái Bình, Bùi Phát, Trà Cổ…tại các tỉnh Đồng Nai, Sài Gòn sau cuộc di cư 1954. Việc co cụm này không chỉ giúp cho họ giữ đạo dễ hơn mà cũng dễ cho con cái khi đến tuổi lớn khôn gặp người có đạo để thành vợ, thành chồng. Tâm sự của các bậc cha mẹ có con trưởng thành thường là “tìm được người có đạo để dễ giữ đạo sau này”. Bởi trước đây, Giáo Hội chỉ cho phép kết hôn cùng đạo. Cho nên mới có câu ca ai oán:
“Amen, lạy Đức Chúa Trời
Cầu cho bên đạo, bên đời lấy nhau”
Chắc chắn, đã có nhiều đôi không lấy được nhau chỉ vì lý do tôn giáo. Trường hợp của vua Bảo Đại được kết hôn với cô Theresa Nguyễn Thị Lan (sau là Nam Phương Hoàng hậu) năm 1934 là trường hợp đặc biệt phải được gia đình nhà gái có thế giá xin tận bên Tòa thánh. Mãi đến khi Công đồng Vatican 2 canh tân mới cho phép kết hôn với người khác đạo. Không phải chỉ ở Huế, mà khắp nơi cộng đồng cả người có đạo và ngoài đạo đều hoan hỉ:
“Quý hồ chàng có lòng thương
Amen mặc thiếp, khói hương mặc chàng”
Nhưng với các bậc cha mẹ thì lấy người đồng đạo vẫn hơn, bởi không lo lắng việc đạo nghĩa của con cháu sau này. Đấy là chưa kể thủ tục hôn phối cho người khác đạo cũng mất thời gian và phức tạp mà nếu không kiên trì, khó có thể đi đến kết quả.
Nam nữ người Công Giáo trong quan hệ yêu đương bị cấm không được quan hệ trước hôn nhân vì tội “ăn cơm trước kẻng” là tội nặng. Họ nhắc nhở nhau:
“Mẫu đơn nở cạnh nhà thờ
Đôi ta trinh tiết cùng chờ đợi nhau”
Vùng Công Giáo, khi trai gái yêu nhau, ngoài các thủ tục, nghi lễ phần đời, điều lo lắng nhất của hai bên dòng họ là chuyện thủ tục bên đạo. Phải tìm người làm chứng, phải xác nhận của linh mục nơi cư trú về tình trạng tôn giáo, hôn nhân, phải rao nhiều lần (thường là 3 tuần) cho cộng đồng biết nhằm tránh tình trạng hôn nhân cận huyết, bị ép buộc, hay đương sự không phải là đơn thân…Ai mà biết phải báo lại cho linh mục xứ để dừng chứng hôn. Ai biết mà không trình báo cũng phạm tội nặng. Linh mục chứng hôn phải kiểm tra nhiều lần về giáo lý, về tình trạng hôn nhân, giấy đăng ký kết hôn, thậm chí cả sức khỏe sinh sản rồi mới làm lễ chứng hôn. Ngày làm lễ cưới diễn ra rất trang nghiêm, trước mặt cộng đoàn và gia đình với những nghi thức mà giới trẻ hiện nay ưa thích vì có ý nghĩa. Những lời thề hứa của đôi nam nữ trước linh mục và cộng đoàn là ràng buộc họ suốt đời phải thủy chung với nhau. Một người không phải là tín đồ ngoan đạo lắm như nhà văn Nguyên Hồng vẫn phải tuân giữ. Nhà văn Lê Đại Thanh kể lại:
“Có một cô gái đẹp và lãng mạn mê anh vì đã đọc “Những ngày thơ ấu” của anh, nhưng Nguyên Hồng là một núi băng. Phạm Cao Củng, người chuyên viết chuyện kiếm hiệp cho Nhà xuất bản Mai Lĩnh đã rỉ tai Nguyên Hồng:
- Phải thương nó. Nó tương tư cậu…
Nguyên Hồng gặp cô gái xin lỗi và nói:
-Tôi là người Công Giáo đạo gốc. Tôi lại là người cầm bút viết văn dạy người đạo đức. Tôi không thể lừa dối vợ tôi và làm hại đời cô.
Cô này đã khóc và sau đó đi Nam, rồi lấy chồng trong đó nhưng càng cảm phục Nguyên Hồng hơn”(4).
Để giữ giáo luật, nhiều làng Công Giáo cổ đã xây dựng hương ước với những quy định chặt chẽ về vấn đề này. Hương ước làng Vĩnh Trị (Nam Định) viết:
“Làng toàn tòng Công Giáo chỉ được phép nhất phu nhất phụ thôi. Vậy ai còn vợ cả mà lấy vợ hai thì làng không ăn ngôi với nữa để khỏi làm gương xấu cho kẻ khác…
Ai thông dâm với vợ người có đủ chứng cớ thời hương hội lập biên bản phạt người đàn bà 1đ00. Người đàn ông cũng vậy và truất ngôi 5 năm, tái phạm sẽ truất ngôi hẳn. Ai can tội hiếp dâm đàn bà và thông dâm với con gái dưới 16 tuổi; ai thông dâm với người đàn bà đang có tang chồng; anh em họ hàng thông dâm với nhau; con cái thông dâm với cha mẹ thời hương hội lập biên bản phạt 1đ00 và truất ngôi trong làng và hương ẩm hẳn” (5).
Hương ước làng Nam An (Hải Phòng) ghi: “Lại dân toàn tòng, theo luật tôn giáo, không được phép lấy vợ lẽ. Ai phạm tội đến cũng như tội thông dâm, nếu có con thì đứa con ấy cũng như ngoại tình. Con ngoại tình, con vợ lẽ là con giai khi đến tuổi nhập bạ thì phải nộp phạt cho làng là 5đ00” (6).
Chính vì vậy, số vụ ly hôn nơi người Công Giáo không đáng kể. Theo số liệu của Tòa án nhân dân tối cao, những năm 1977-1982, mỗi năm trung bình cả nước có 5.672 vụ ly hôn. Nhưng đến năm 1991 tăng lên 22.049 vụ. Năm 1994 tăng lên 34.376 vụ. Năm 1995 là 35.684 vụ. Như vậy mỗi năm số vụ ly hôn đã tăng từ 10-12%. Tại Hà Nội, năm 2005 có 4.100 vụ ra tòa ly dị. 6 tháng đầu năm 2006 có 2.068 đôi ly hôn. Vậy mà tại làng Trung Thành (xã Hải Vân, Nam Định) nơi có 6.000 giáo dân sinh sống suốt 8 năm (1982-2000) chỉ có 2 cặp bỏ nhau. Ở xứ Hạ Hồi (Thanh Trì, Hà Nội) cũng có 1.500 nhân danh Công Giáo nhưng từ năm 1945 đến nay chỉ có 2 đôi ly thân. Điều này là quý giá và hấp dẫn của hôn nhân Công Giáo.