Tôi cũng sẽ thêm một đôi lời về Thánh bộ mới được thành lập gần đây là Thánh bộ Truyền thông. Cả ở đây, chúng ta đang nói tới việc thay đổi có tính thời đại, theo nghĩa "nhiều nhóm rộng lớn trong nhân loại đang chìm đắm trong [thế giới kỹ thuật số] một cách bình thường và liên tục. Nay không còn đơn thuần là vấn đề 'sử dụng' các công cụ truyền thông, mà là sống trong một nền văn hóa bị kỹ thuật số hóa cao độ, vốn gây tác động sâu xa đến các ý niệm thời gian và không gian, đến việc tự hiểu chính chúng ta, đến việc chúng ta hiểu biết người khác và thế giới, và đến khả năng của chúng ta trong việc truyền thông, học hỏi, được thông tri và bước vào mối liên hệ với người khác. Một cách tiếp cận với thực tại ưa thích hình ảnh hơn là lắng nghe và đọc đã ảnh hưởng đến cách người ta học hỏi và việc phát triển của ý thức phê phán của họ" (Christus Vivit, 86).
Thánh bộ Truyền thông đã được giao trách nhiệm kết hợp trong một định chế mới, chín cơ quan trước đây đã xử lý việc truyền thông, theo nhiều cách khác nhau và với các nhiệm vụ khác nhau. Ðó là Hội đồng Giáo hoàng về Truyền thông Xã hội, Văn phòng Báo chí Tòa thánh, Nhà in Vatican, Nhà xuất bản Vatican, Tờ L'Osservatore Romano, Ðài phát thanh Vatican, Trung tâm Truyền hình Vatican, Dịch vụ Internet Vatican và Dịch vụ Chụp hình. Việc củng cố này, như tôi đã nói, không chỉ đơn giản là để phối hợp tốt hơn, mà còn để tái cấu hình các thành phần khác nhau nhằm cung cấp một sản phẩm tốt hơn và duy trì một đường hướng biên tập nhất quán.
Văn hóa truyền thông mới, trong sự đa dạng và phức tạp của nó, kêu gọi sự hiện diện thích đáng của Tòa Thánh trong lĩnh vực truyền thông. Ngày nay, chúng ta đang sống trong một thế giới nhiều phương tiện truyền thông và điều này ảnh hưởng đến cách chúng ta quan niệm, thiết kế và cung cấp các dịch vụ truyền thông. Tất cả những điều này đòi hỏi không chỉ là sự thay đổi văn hóa mà cả việc hoán cải định chế và bản thân nữa, để chuyển từ việc hoạt động trong các đơn vị tự lập - những đơn vị cùng lắm chỉ có một mức độ phối hợp nhất định nào đó - để làm việc trong sự hiệp lực, một cách liên kết quan lại từ trong nội tại.
Anh chị em thân mến,
Phần lớn những gì tôi vừa nói cũng có thể áp dụng vào Thánh bộ Cổ vũ Việc Phát triển Con người Toàn diện. Nó cũng được thành lập gần đây để đáp ứng các thay đổi diễn ra ở bình diện hoàn cầu, và hợp nhất bốn Hội đồng Giáo hoàng trước đây: Công lý và Hòa bình, Cor Unum, và Chăm sóc Mục vụ cho các Di dân, và Các Nhân viên Chăm sóc Sức khỏe. Sự thống nhất tổng thể các nhiệm vụ được giao cho Thánh bộ này được tóm tắt trong những chữ đầu tiên của Tự sắc Humanam Progressionem, tự sắc đã thiết lập ra nó: "Trong trọn hữu thể và hành động của mình, Giáo hội được kêu gọi cổ vũ việc phát triển toàn diện con người dưới ánh sáng Tin Mừng. Việc phát triển này diễn ra bằng cách lưu tâm tới các thiện ích vô giá công lý, hòa bình và việc chăm sóc sáng thế". Nó diễn ra bằng cách phục vụ những người dễ bị tổn thương và bị hắt hủi nhất, nhất là những người bị buộc phải di cư, những người ngay lúc này đang đại diện cho tiếng kêu trong hoang địa của nhân loại chúng ta. Do đó, Giáo hội được kêu gọi nhắc nhở mọi người rằng đây không chỉ đơn giản là vấn đề xã hội hay di dân mà là của những con người nhân bản, của anh chị em chúng ta, những người ngày nay là biểu tượng của tất cả những ai bị xã hội hoàn cầu hóa vứt bỏ. Giáo Hội được kêu gọi làm chứng rằng đối với Chúa, không ai là "người xa lạ" hay "người bị ruồng bỏ". Giáo Hội được kêu gọi đánh thức lương tâm đang ngủ mê trong sự thờ ơ với thực tại Ðịa Trung Hải, nơi, đối với nhiều người, quá nhiều người, đã trở thành một nghĩa địa.
Tôi muốn nhắc nhớ điều này: điều quan trọng là việc phát triển đó phải có tính toàn diện. Thánh Phaolô VI vốn nhận định rằng, "để được chân thực, sự phát triển phải toàn diện; nó phải cổ vũ sự phát triển của mọi người và toàn bộ người đó" (Populorum Progressio, 14). Tóm lại, dựa trên truyền thống đức tin của mình và việc, trong những thập niên gần đây, nại tới giáo huấn của Công đồng Vatican II, Giáo hội luôn khẳng định sự cao cả trong ơn gọi của mọi con người nhân bản, những người Thiên Chúa đã tạo ra theo hình ảnh và họa ảnh của Người để tạo thành một gia đình duy nhất. Ðồng thời, Giáo Hội cố gắng ôm lấy nhân loại trong tất cả các chiều kích của họ.
Ngày nay, chính khía cạnh toàn diện này khiến chúng ta nhìn nhận rằng nhân tính chung của chúng ta hợp nhất chúng ta như con cái của một Cha duy nhất. "Trong toàn bộ hữu thể và hành động của mình, Giáo hội được kêu gọi cổ vũ sự phát triển toàn diện con người dưới ánh sáng Tin Mừng (Humanam Progressionem). Tin Mừng luôn đưa Giáo hội trở lại với luận lý mầu nhiệm của việc nhập thể, với Chúa Kitô, Ðấng đã tự mình gánh lấy lịch sử của chúng ta, lịch sử của mỗi người chúng ta. Ðó là sứ điệp của Lễ Giáng sinh. Như thế, nhân tính là chìa khóa để giải thích cuộc cải cách. Nhân tính kêu gọi và thách thức chúng ta; tóm lại, nó kêu gọi chúng ta ra đi và không sợ thay đổi.
Chúng ta đừng quên rằng Em bé đang nằm trong máng cỏ có khuôn mặt của anh chị em đang thiếu thốn nhất, của những người nghèo "vốn là phần ưu tuyển của mầu nhiệm này; họ thường là những người đầu tiên nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa giữa chúng ta" (Admirabile Signum, 6).
Anh chị em thân mến,
Sau đó, chúng ta nói về những thách thức lớn và những sự cân bằng cần thiết thường khó đạt được, vì thực tế đơn giản là, nằm giữa một quá khứ huy hoàng và một tương lai thay đổi, đầy tính sáng tạo, chúng ta đang sống trong hiện tại. Ở đây có những người nhất thiết cần thời gian để lớn mạnh; có những tình huống lịch sử cần được xử lý hàng ngày, vì trong diễn trình cải cách thế giới và lịch sử không dừng lại; có những vấn đề pháp lý và định chế cần được giải quyết dần dần, không có công thức hoặc đường tắt ma thuật.
Cuối cùng, có chiều kích thời gian và có sai lầm nhân bản, một sai lầm phải được xem xét một cách đúng đắn. Ðây là một phần của lịch sử mỗi người chúng ta. Không lưu ý đến chúng là đi làm những điều trừu tượng, xa rời lịch sử con người. Liên kết với diễn trình lịch sử khó khăn này luôn có cơn cám dỗ muốn quay trở lại quá khứ (cũng bằng cách sử dụng các công thức mới), bởi vì nó làm ta yên tâm hơn, quen thuộc hơn và, chắc chắn, ít xung đột hơn. Ðây cũng là một phần của diễn trình và rủi ro khích động các thay đổi đáng kể [19].
Ở đây, cần phải cảnh giác đối với cơn cám dỗ cứng ngắc. Một sự cứng ngắc phát sinh từ nỗi sợ thay đổi, một nỗi sợ kết cuộc sẽ dựng lên các hàng rào và chướng ngại lên mảnh đất lợi ích chung, biến nó thành một bãi mìn không hiểu nhau và hận thù. Chúng ta hãy luôn nhớ rằng đằng sau mọi hình thức cứng ngắc là một sự mất cân bằng nào đó. Sự cứng ngắc và mất cân bằng nuôi dưỡng lẫn nhau trong một vòng luẩn quẩn. Và ngày nay cơn cám dỗ bước vào sự cứng ngắc này đã trở nên rất thật.
Anh chị em thân mến,
Giáo triều Rôma không phải là một cơ chế tách rời khỏi thực tại, mặc dù nguy cơ này luôn luôn hiện diện. Thay vào đó, nên suy nghĩ và trải nghiệm về nó trong bối cảnh cuộc hành trình của những người đàn ông và đàn bà ngày nay, và trong bức phông thay đổi có tính thời đại này. Giáo triều Rôma không phải là một cung điện hay một tủ quần áo đầy quần áo để thay đổi. Giáo triều Rôma là một cơ thể sống động, và càng như thế hơn nữa đến mức nó sống Tin Mừng trong sự toàn vẹn của nó.
Ðức Hồng Y Martini, trong cuộc phỏng vấn cuối cùng của ngài, vài ngày trước khi qua đời, đã nói một điều khiến chúng ta phải suy nghĩ: "Giáo Hội là hai trăm năm lùi lại phía sau thời đại. Tại sao Giáo Hội không bị lay động? Có phải chúng ta sợ không? Sợ hãi, thay vì can đảm? Tuy nhiên, đức tin là nền tảng của Giáo hội. Niềm tin, niềm tin tưởng, lòng can đảm ... Chỉ có tình yêu mới chinh phục sự mệt mỏi". [20].
Giáng sinh là ngày lễ tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Tình yêu thần thiêng linh hứng, hướng dẫn và điều chỉnh sự thay đổi, và vượt qua nỗi sợ hãi của con người phải bỏ lại phía sau "sự an toàn" để một lần nữa dấn thân vào "mầu nhiệm".
Một Giáng sinh hạnh phúc cho mọi người!
Ðể chuẩn bị cho Giáng sinh, chúng ta đã lắng nghe bài giảng về Thánh Mẫu của Thiên Chúa. Chúng ta hãy hướng về ngài trước khi ban phước.
[Kính mừng Maria và ban phép lành].
Bây giờ tôi muốn tặng anh chị em một món quà nhỏ gồm hai cuốn sách. Ðầu tiên là "tài liệu" mà tôi muốn phát hành cho Tháng truyền giáo đặc biệt [tháng 10 năm 2019], và đã thực hiện dưới hình thức một cuộc phỏng vấn; Senza di Lui non possiamo fare nulla
- Không có Người Chúng ta Không thể Làm Ðược gì. Tôi lấy cảm hứng từ một câu nói, tôi không biết là của ai, rằng khi các nhà truyền giáo đến một nơi náo đó, Chúa Thánh Thần đã ở đó để chờ họ rồi. Ðó là nguồn cảm hứng cho tài liệu này. Món quà thứ hai là một cuộc tĩnh tâm được giảng cho các linh mục gần đây bởi Cha Luigi Maria Epicoco, Qualcuno a cui Guardare - Một ai đó mà chúng ta có thể nhìn lên. Tôi dành cho anh chị em những món quà này từ trái tim để chúng có thể được sử dụng cho cả cộng đồng. Cảm ơn anh chị em!
- - - - - - - - - -
[1] MATTA EL MESKEEN, L'Umanità di Dio, Qiqajon-Bose, Magnano 2015, 170-171.
[2] Quis dives salvetur 37, 1-6.
[3] Bài giảng 7,"The Mystery of Godliness", Parochial and Plain Sermons, V.
[4] Ibid.
[5] Chương 1, Mục 1, Phần 7.
[6] Trong một trong những lời cầu nguyện của ngài, Thánh Newman viết: "Lạy Chúa, không có gì vững ổn ngoài Chúa! Và Chúa là trung tâm và sự sống của tất cả những người thay đổi, những người tin cậy Chúa như Cha của họ, những người trông lên Ngài, và những người hài lòng phó mình trong tay Ngài. Lạy Chúa, con biết, con phải thay đổi, nếu con muốn được nhìn thấy mặt Ngài!" (Meditations and Devotions, XI, "God Alone Unchangeable").
[7] Newman mô tả nó như thế này: "Lúc tôi trở lại, tôi không ý thức về bản thân mình, về bất cứ thay đổi nào, tri thức hay luân lý, có trong tâm trí tôi ... nó giống như vào được bến cảng sau một vùng biển sóng gió; và niềm hạnh phúc của tôi về phương diện đó vẫn còn cho đến ngày nay mà không bị gián đoạn" (Apologia Pro Vita Sua, 1865, Chương 5, 238. Cf. J. HONORÉ, Gliaforismi di Newman, LEV, 2010, 167).
[8] J. M. BERGOGLIO, "Thông điệp Mùa chay cho các linh mục và tu sĩ", ngày 21 tháng 2 năm 2007, trong Trong Mắt Anh chị em, Tôi thấy những Lời nói của tôi: Các bài giảng và bài phát biểu từ Buenos Aires, Tập 2: 2005-2008, Nhà xuất bản Ðại học Fordham, 2020.
[9] Xem Tông Hiến Veritatis Gaudium (27 tháng 12 năm 2017), 3: "Nói tóm lại, điều này kêu gọi việc thay đổi các mô hình phát triển hoàn cầu và xác định lại ý niệm tiến bộ của chúng ta. Tuy nhiên, vấn đề là chúng ta vẫn thiếu nền văn hóa cần thiết để đương đầu với cuộc khủng hoảng này. Chúng ta thiếu tài lãnh đạo có khả năng khởi đầu các nẻo đường mới".
[10] Cuộc phỏng vấn dành cho Cha Antonio Spadaro, Civiltà Cattolica, ngày 19 tháng 9 năm 2013, tr.468.
[11] Schreiben an das Pilgernde Volk Gottes in Deutschland , ngày 29 tháng 6 năm 2019.
[12] Xem Diễn văn trước Giáo Triều, ngày 22 tháng 12 năm 2016.
[13] Tông huấn Evangelii Nuntiandi (8 tháng 12 năm 1975), 14. Thánh Gioan Phaolô II đã viết rằng truyền giảng Tin mừng truyền giáo "là việc phục vụ hàng đầu mà Giáo hội có thể cung ứng cho mọi cá nhân và toàn thể nhân loại trong thế giới hiện đại, một thế giới đã trải qua những thành tựu kỳ diệu nhưng dường như đã mất đi cảm giác về thực tại tối hậu và chính sự hiện hữu" (Thông điệp Redempdoris Missio, 7 tháng 12 năm 1990, 2).
[14] Xem Diễn văn với những Người tham dự Ðại hội Mục vụ Quốc tế về Thành phố lớn Thế giới", Consistory Hall, 27 tháng 11 năm 2014.
[15] Tự sắc Porta Fidei, 2.
[16] Ðức Bênêđíctô XVI, Bài giảng, 28 tháng 6 năm 2010; xem Tự sắc Ubicumque et Semper, 17 tháng 10 năm 2010.
[17] Một sự thay đổi có tính thời đại đã được ghi nhận ở Pháp bởi Ðức Hồng Y Suhard (chúng ta có thể nghĩ đến thư mục vụ của ngài Essor ou déclin de l'Église, 1947) và bởi Ðức Tổng Giám Mục Milan lúc đó là Giovanni Battista Montini. Vị sau cũng đặt câu hỏi liệu Ý có còn là một quốc gia Công Giáo hay không (xem Diễn văn Khai mạc tại Tuần Lễ Tòan quốc Lần thứ VIII Cập nhật Mục vụ, 22 tháng Chín, 1958, trong Discorsi e Scritti milanesi 1954-1963, vol. II, Brescia-Roma 1997, 2328).
[18] Thánh Phaolô VI, khoảng năm mươi năm trước đây, khi trình bày Sách lễ Rôma mới cho các tín hữu, đã nhắc lại sự tương ứng giữa luật cầu nguyện (lex orandi) và luật đức tin (lex credendi), và mô tả Sách lễ như "một việc chứng tỏ lòng trung thành và sức sống". Ngài kết luận bằng cách nói: "Vì vậy, chúng ta đừng nói về một 'Thánh lễ mới', mà đúng hơn là 'một thời đại mới trong đời sống Giáo Hội" (Triều kiến Chung, 19 tháng 11 năm 1969). Tương tự, chúng ta cũng có thể nói trong trường hợp này: không phải là một Giáo triều Rôma mới, mà đúng hơn một thời đại mới.
[19] Evangelii Gaudium tuyên bố quy tắc: " Dành Ưu tiên cho các hành động nào tạo ra các diễn trình mới trong xã hội và vận động những người và nhóm khác để có thể phát triển họ đến mức họ sinh hoa trái trong các biến cố lịch sử quan trọng. Không lo lắng, nhưng với các xác tín rõ ràng và sự kiên trì" (số 223).
[20] Cuộc Phỏng vấn Georg Sporschill, S.J. và Federica Radice Fossati Confalonieri: Corriere della Sera, ngày 1 tháng 9 năm 2012.
- - - - - - - - -
Chú thích của người dịch
1. Rassa Nostrana là bài thơ của Thi sĩ Á Căn Ðình , Nino Costa, tác phẩm mà Ðức Phanxicô học thuộc nhờ bà nội. Mấy câu đầu của tác phẩm này như sau:
Drit et sincer, cosa ch'a sun, a smijp:
teste quadre, puls ferm e fidic san
e parlo poc ma a san cosa ch'a diso
bele ch'a marcio adasi, a va luntan.
(Thẳng thắn và thành thực, điều họ là cũng là điều họ dường như là:
Ương ngạnh, với một mạch máu vững vàng và lá gan lành mạnh.
Họ nói ít nhưng biết điều họ nói;
Mặc dù họ bước chậm chạp, nhưng họ đi rất xa).
(Dựa theo cuốn Francis: Pope of a New World của Andrea Tornielli) Vũ Văn An
325 23-12-2019