Sidebar

Thứ Sáu
10.05.2024

Bí tích Thánh Thể: Hiện diện, Hiệp thông và Hành động - 1

BÍ TÍCH THÁNH THỂ
Hiện diện, Hiệp thông và Hành động

 

 Dẫn nhập

Nội dung đức tin Ki-tô giáo cho chúng ta biết rằng trong thân phận con người, Chúa Giê-su vừa là Thiên Chúa, vừa là bí tích của Thiên Chúa, bởi vì, nhờ Người, khuôn mặt nhân loại của Thiên Chúa được tỏ hiện. Nhờ Người, nhân loại không chỉ nhìn thấy Thiên Chúa mà còn gặp gỡ, trò chuyện và đi vào mối tương giao thân mật với Thiên Chúa nữa. Sự hiện diện của Chúa Giê-su không chỉ kết thúc với đau khổ, chết và phục sinh. Quả thật, Người tiếp tục hiện diện theo nhiều hình thức khác, đặc biệt, Người hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể. Nhờ Chúa Giê-su Thánh Thể, với con mắt đức tin, nhân loại cảm nghiệm được rằng Người không chỉ hiện diện, mà còn trở nên Bánh Hằng Sống, Của Ăn cho tất cả mọi người trong hành trình trần thế.

Chúng ta ai cũng có kinh nghiệm rằng những người sắp lìa đời thường trối lại cho những người thân thuộc điều này điều kia hoặc phân chia tài sản của mình cho kẻ này người nọ. Theo các sách Tin Mừng, trong Bữa Ăn Tối Cuối Cùng (the Last Supper), trước khi bước vào cuộc khổ nạn và phục sinh, Chúa Giê-su đã thiết lập Bí Tích Mình và Máu Người, Bí Tích Thánh Thể, để ở lại với các môn đệ, cũng như với tất cả các mọi người trong gia đình nhân loại cho đến tận thế (Mt 26,26-29; Mc 14,22-25; Lc 22,19-20). Người cũng truyền dạy các môn đệ của mình: “Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19). Trung thành với lời dạy của Chúa Giê-su, các môn đệ Người đã luôn thực thi như vậy.

Sau Kinh Thánh Tân Ước, giáo l‎ý về Bí Tích Thánh Thể đã được đề cập khá sớm, vào khoảng thập niên 90 của thế kỷ thứ nhất, trong ‘Giáo Huấn của các Tông Đồ’ (Didache). Qua dòng lịch sử, Giáo Hội luôn cử hành bí tích huyền diệu này. Đồng thời, Giáo Hội không ngừng tìm hiểu, suy niệm, diễn tả niềm tin và truyền thống về Bí Tích Thánh Thể.

Hiến Chế Về Phụng Vụ Thánh Sacrosanctum Concilium (1963) của Công Đồng Vatican II (1962-1965) nhấn mạnh rằng Bí Tích Thánh Thể là: “Bí tích tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái, bữa tiệc ly phục sinh” (SC 47). Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium(1964) của Công Đồng Vatican II thì khẳng định Bí Tích Thánh Thể là “nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống Ki-tô giáo” (LG 11). Các bí tích khác của Giáo Hội luôn liên kết chặt chẽ với Bí Tích Thánh Thể, trung tâm của đời sống Giáo Hội, bởi vì, Bí Tích Thánh Thể tiếp nối hy tế của Chúa Giê-su trên thập giá cho phần rỗi của tất cả mọi người.

Trong bài viết này, chúng ta cùng tìm hiểu về Bí Tích Thánh Thể theo ba chiều kích chính, đó là: hiện diện, hiệp thông và hành động.

  1. Hiện diện

Theo thánh Gio-an tông đồ, Chúa Giê-su là Lời Vĩnh Cửu của Thiên Chúa, đã hiện diện trong buổi đầu Thiên Chúa sáng tạo. Nhờ Người, muôn vật được tạo thành (Ga 1,1-3). Khi thời gian tới hồi viên mãn, Người đã nhập thể và sống giữa gia đình nhân loại. Người đã rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa và thiết lập Giáo Hội. Người hiện diện trong Giáo Hội cũng như trong thế giới thụ tạo dưới nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn, Người hiện diện trong cộng đoàn cầu nguyện như Người nói: “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20). Người hiện diện trong những người sống yêu thương, hiệp thông và đùm bọc lẫn nhau. Người hiện diện trong những người loan báo Tin Mừng. Người hiện diện trong những người phục vụ Giáo Hội. Đặc biệt, Người hiện diện trong cộng đoàn cử hành Bí Tích Thánh Thể, hình thức hiện diện cao trọng nhất, bởi vì, ở đây, con cái Giáo Hội được nuôi dưỡng bằng Của Ăn Hằng Sống là Thịt và Máu Người, chứ không chỉ là ân sủng hay quyền năng của Người như các hình thức hiện diện khác.

Trong tương quan giữa Giáo Hội và Bí Tích Thánh Thể, Đức Hồng Y Henri de Lubac (1896-1991) diễn tả rất khúc chiết: Bí Tích Thánh Thể làm nên Giáo Hội và Giáo Hội làm nên Bí Tích Thánh Thể. Quả thực, theo Hiến Chế Lumen Gentium, việc Chúa Giê-su thiết lập Bí Tích Thánh Thể và chịu nạn, chịu chết trên thập giá với trái tim bị đâm thủng, máu cùng nước chảy ra, trở thành biến cố nền tảng cho sự khai nguyên Giáo Hội (LG 3). Như vậy, sự hiện diện của Giáo Hội giữa lòng nhân thế được định dạng bởi sự hiện diện của Chúa Giê-su Thánh Thể và ngược lại, sự hiện diện của Chúa Giê-su Thánh Thể được tiếp tục nhờ sự hiện diện của Giáo Hội. Khi nói ‘Bí Tích Thánh Thể làm nên Giáo Hội’, chúng ta hiểu rằng Chúa Giê-su Thánh Thể là nguyên nhân của sự quy tụ các tín hữu. Còn nói ‘Giáo Hội làm nên Bí Tích Thánh Thể’, chúng ta hiểu rằng Giáo Hội tiếp tục với giáo huấn của Chúa Giê-su ‘hãy làm việc này mà nhớ đến thầy’ để cử hành mỗi ngày, đồng thời, Giáo Hội đào sâu và quảng diễn giáo l‎ý về bí tích cao trọng này cho con cái mình.

Khi chúng ta ý thức rằng Bí Tích Thánh Thể làm nên Giáo Hội và Giáo Hội làm nên Bí Tích Thánh Thể, cũng là khi chúng ta có được sự hiểu biết đúng đắn hơn về thực tại Giáo Hội. Theo đó, Giáo Hội trước hết không phải là tòa nhà, là thể chế hay xã hội hoàn hảo, mà là thực thể sống động và không ngừng lớn lên giữa lòng nhân loại. Giáo Hội là Thân Thể Mầu Nhiệm Đức Ki-tô, trong đó, Bí Tích Thánh Thể luôn là nguồn mạch, là đỉnh cao và là trung tâm của đời sống Giáo Hội. Như thế, Giáo Hội, cộng đoàn cử hành Bí Tích Thánh Thể phân biệt với các hình thức cộng đoàn khác trong môi trường nhân loại. Thấm nhuần tư tưởng của thánh Phao-lô, trong Thông Điệp Mystici Corporis Christi (1943)Đức Thánh Cha Piô XII đã khẳng định: “Nếu chúng ta định nghĩa và diễn tả Giáo Hội thật của Chúa Giê-su Ki-tô – Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo, tông truyền và Giáo Hội Rôma – chúng ta sẽ không tìm được điều gì cao trọng hơn, uy nghi hơn, thần thiêng hơn sự diễn tả Giáo Hội là Thân Thể Mầu Nhiệm Đức Ki-tô” (Mystici Corporis Christi 13).

Chúng ta có thể khẳng định rằng ở đâu Bí Tích Thánh Thể được cử hành, ở đó có Giáo Hội. Tuy nhiên, điều này không dẫn chúng ta đến nhận thức rằng cộng đoàn cử hành Bí Tích Thánh Thể hay Giáo Hội địa phương là thực thể tự trị, là Giáo Hội theo nghĩa tròn đầy. Trong thực tế, Giáo Hội phổ quát hiện diện trong Giáo Hội địa phương và ngược lại Giáo Hội địa phương hiện diện trong Giáo Hội phổ quát. Do đó, cộng đoàn cử hành Bí Tích Thánh Thể luôn được mời gọi hướng lòng trí mình về Giáo Hội duy nhất, Giáo Hội của Chúa Giê-su, Giáo Hội qua đó Thiên Chúa quy tụ muôn vật muôn loài. Đặc biệt, cộng đoàn cử hành Bí Tích Thánh Thể luôn hướng về Kinh Thánh như là nguồn quy chiếu căn bản cho niềm tin, truyền thống và thực hành của mình.

Trong ‘Diễn Từ Bánh Hằng Sống’ (Ga 6), Chúa Giê-su đã thực hiện dấu lạ cho hơn 5000 người ăn no thỏa với 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá của một em bé. Chúa Giê-su thực hiện dấu lạ này là để chuẩn bị cho các môn đệ của Người và dân chúng có thể tiếp cận dấu lạ lớn lao hơn, cả thể hơn, ý nghĩa hơn và linh thiêng hơn, đó là tin vào Người là Đấng Thiên Sai và sống nhờ lương thực trường tồn là chính Thịt và Máu Người. Chúa Giê-su nói với các môn đệ của mình và đám đông Dân Do Thái: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6,51). Xem ra, người Do Thái nói chung và các môn đệ Chúa Giê-su nói riêng quá ngạc nhiên, nếu không muốn nói là ‘quá sốc’, khi Chúa Giê-su nói về việc ăn Thịt và uống Máu Người hơn là việc Chúa Giê-su hóa bánh ra nhiều cho hàng ngàn người thưởng thức, bởi vì, đây là sự biến đổi nằm ngoài kinh nghiệm, sự hiểu biết và tưởng tượng của họ.

Khi Chúa Giê-su nói về việc ăn Thịt và uống Máu Người, đám đông tranh luận với nhau: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” (Ga 6,52). Người nói tiếp: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6,54-56). Sau đó, nhiều môn đệ Chúa Giê-su nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6,60). Chúng ta nhận thức rằng nếu Thịt và Máu Chúa Giê-su nói tới hiện diện dưới hình thức sinh học hay hình thức thể l‎ý, thì quả thật là khó hiểu, quả thật là chướng tai. Tuy nhiên, ở đây, Chúa Giê-su nói về thịt và máu theo nghĩa bí tích (sacramental), nghĩa hoàn toàn mới mẻ, nghĩa đòi hỏi con người cần đón nhận bằng đức tin chân thành của mình. Theo đó, bánh và rượu được thánh hiến nhờ Lời quyền năng của Chúa Giê-su, đã trở nên Mình và Máu Người, với hình thức bên ngoài vẫn là bánh và rượu.

Thần Học Kinh Viện dùng hạn từ ‘biến đổi bản thể’ (transubstantiation) để diễn tả sự biến đổi của bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Giê-su. Nghĩa là bản thể của bánh không còn nữa mà trở thành Mình Chúa Giê-su, tương tự như vậy đối với rượu. Bánh rượu là sản phẩm của hoa màu ruộng đất và công lao của con người, đã trở thành Của Ăn và Của Uống thiêng liêng cho con người. Như vậy, Của Ăn và Của Uống thiêng liêng mà con người có được nhờ ba yếu tố căn bản, đó là: (1) Hoa màu ruộng đất, (2) công lao của con người và (3) Lời quyền năng của Chúa Giê-su, trong đó Lời quyền năng của Chúa Giê-su đóng vai trò quyết định. Chúa Giê-su cầm lấy bánh và nói ‘đây là Mình Thầy’, Người cũng cầm lấy chén và nói ‘đây là Máu Thầy’. Như vậy, bánh không còn là bánh bình thường nữa mà là Mình Chúa Giê-su, và rượu không còn là rượu bình thường nữa mà là Máu Chúa Giê-su.

Trung thành với giáo l‎ý về Bí Tích Thánh Thể của công đồng Tren-tô (1545-1563), Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo khẳng định: “Trong bí tích cực thánh, có sự hiện diện đích thực, thực sự và bản thể của Mình và Máu Đức Ki-tô, cùng với linh hồn và thiên tính của Người, nghĩa là Đức Ki-tô trọn vẹn” (GLGHCG 1374). Quả thực, chúng ta không thể lĩnh hội sự hiện diện của Chúa Giê-su Thánh Thể bằng giác quan hay l‎ý trí của mình, nhưng bằng niềm tin vào Lời Chúa Giê-su ‘đây là Mình Thầy, đây là Máu Thầy’. Lời Chúa Giê-su luôn là Lời chân thật và đem lại sự sống đời đời.

Trong những thập niên hậu bán thế kỷ XX, liên quan đến sự biến đổi trong Bí Tích Thánh Thể, một số thần học gia giới thiệu những khái niệm mới, chẳng hạn, ‘biến đổi mục đích’ (transfinalisation) hay ‘biến đổi ý nghĩa’ (transignification). Đức Thánh Cha Phao-lô VI (1897–1978) đã minh định rằng sự biến đổi của bánh và rượu trong Bí Tích Thánh Thể là sự biến đổi bản thể, nghĩa là bánh và rượu trở thành Mình và Máu Chúa Giê-su, chứ không chỉ biến đổi mục đích hay biến đổi ý nghĩa mà thôi. Theo ngài, chính sự biến đổi bản thể làm cho bánh và rượu trở thành thực tại mới, với mục đích và ý nghĩa mới (Đức Thánh Cha Phao-lô VI, Mysterium Fidei 11; 46).

Theo ý Đức Thánh Cha Phao-lô VI, chúng ta có thể diễn tả thêm rằng ngôn ngữ ‘cứu cánh’, ‘ý nghĩa’ hay ‘dấu chỉ’ không đủ để diễn tả sự hiện diện của Chúa Giê-su trong Bí Tích Thánh Thể, mà là ngôn ngữ ‘biển đổi bản thể’ của bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Giê-su. Ngôn ngữ ‘cứu cánh’, ‘ý nghĩa’ hay ‘dấu chỉ’ có thể được xem như là dẫn xuất của ngôn ngữ diễn tả việc bánh và rượu trở thành Mình và Máu Chúa Giê-su trong Bí Tích Thánh Thể, chứ không thể ngược lại. Chúng ta cũng cần hiểu thêm rằng trong Bí Tích Thánh Thể, bản thể của bánh và rượu trở thành Mình và Máu Chúa Giê-su, Đấng Em-ma-nu-en (Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta), Thiên Chúa thật và con người thật, đã nhập thể, đã sống thân phận con người, đã chết và đã phục sinh để chúng ta được sống. Nếu chúng ta tin rằng ‘đối với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể’ và nhờ Chúa Giê-su, Thiên Chúa đã sáng tạo muôn loài muôn vật, thì chúng ta cũng tin rằng Chúa Giê-su thực sự hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể.

Sự hiện diện của Chúa Giê-su Thánh Thể là sự hiện diện đích thực, chứ không chỉ là sự hiện diện thuần túy thiêng liêng. Như đã đề cập ở trên, bánh và rượu sau khi được thánh hiến trở thành Mình và Máu đích thực của Chúa Giê-su, mặc dù hình thức mà chúng ta cảm nhận vẫn là bánh và rượu, sản phẩm của hoa màu ruộng đất và công lao của con người. Sự hiện diện của Chúa Giê-su trong Bí Tích Thánh Thể phân biệt với sự hiện diện của Người trong dòng lịch sử, trong Giáo Hội hay các hình thức hiện diện khác, chẳng hạn, qua Lời hay ân sủng của Người.

Tác giả Thư Gửi Tín Hữu Do Thái viết: “Chúa Giê-su Ki-tô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời” (Dt 13,8). Chúa Giê-su hôm qua là Chúa Giê-su lịch sử, Người đã nhập thể, đã sống, đã chịu muôn vàn đau khổ, đã chết và đã phục sinh. Chúa Giê-su hôm nay là Chúa Giê-su Thánh Thể. Chúa Giê-su muôn đời là Chúa Giê-su quang lâm, mà mỗi người chúng ta cũng như toàn thể nhân loại diện đối diện trong thời cánh chung. Do đó, mỗi lần cử hành Bí Tích Thánh Thể, chúng ta không chỉ tưởng nhớ Chúa Giê-su lịch sử hay sự đau khổ, sự chết và phục sinh của Người, mà còn ý thức sự hiện diện thực sự của Người trong bí tích này, đồng thời, nuôi dưỡng niềm hy vọng được gặp gỡ Người trong Gia Đình Thiên Chúa viên mãn.

Khi thiết lập Lễ Mình Máu Thánh Chúa Giê-su vào năm 1264, Đức Thánh Cha U-ba-nô IV, vị Giáo Hoàng thứ 183 của Giáo Hội Công Giáo, truyền cho thánh Tô-ma A-qui-nô viết những lời nguyện phụng vụ liên quan đến Thánh Lễ này. Ngài đã viết và có một câu rất ý nghĩa như sau: “Ôi bữa tiệc thánh, trong đó Đức Ki-tô được đón nhận, sự tưởng nhớ Cuộc Vượt Qua của Người được thực hiện, tâm trí chúng ta được đầy tràn ân sủng và chúng ta nhận được bảo chứng tương lai vinh quang.” Cả ba thì quá khứ, hiện tại và tương lai xuất hiện ở lời nguyện này: Thì hiện tại là ‘Đức Ki-tô được đón nhận và tâm trí chúng ta được đầy tràn ân sủng’, thì quá khứ là ‘sự tưởng nhớ Cuộc Vượt Qua của Người được thực hiện’, và thì tương lai là ‘chúng ta nhận được bảo chứng tương lai vinh quang’.

Theo nghĩa thông thường, nói đến ‘tưởng nhớ’ là nói đến việc hướng tâm trí về sự kiện, biến cố, hiện tượng hay con người thuộc quá khứ. Trong bối cảnh Kinh Thánh, ‘tưởng nhớ’ bao gồm cả ba thì quá khứ, hiện tại, và tương lai. Bí Tích Thánh Thể cần được hiểu trong bối cảnh này. Do đó, cử hành Bí Tích Thánh Thể không chỉ là để tưởng nhớ Chúa Giê-su lịch sử hay tưởng nhớ sự đau khổ, sự chết và phục sinh của Người. Cử hành Bí Tích Thánh Thể cũng không chỉ là cử hành sự hiện diện thuần túy thiêng liêng của Chúa Giê-su. Cử hành Bí Tích Thánh Thể cũng không chỉ để làm cho mọi người ý thức về ‘dấu chỉ’ hay ‘biểu tượng’ Mình và Máu Người. Cử hành Bí Tích Thánh Thể chính là cử hành sự hiện diện đích thực của Người, bao gồm sự tưởng nhớ đến tất cả các biến cố trong cuộc sống dương thế của Người, cũng như tương lai của sự gặp gỡ Người trong thời cánh chung.

Bí Tích Thánh Thể cho phép chúng ta gặp gỡ Chúa Giê-su, gặp gỡ Giáo Hội, gặp gỡ chính mình, gặp gỡ anh chị em chúng ta. Theo nghĩa rộng hơn, Bí Tích Thánh Thể diễn tả sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người, giữa trời và đất, giữa siêu nhiên và tự nhiên, giữa thánh thiêng và thế tục, giữa vô hạn và hữu hạn, giữa vĩnh cửu và thời gian, giữa sức mạnh và yếu hèn, giữa sự sống và sự chết, giữa trường tồn và hư hoại. Với Bí Tích Thánh Thể, quá khứ và tương lai hội tụ nơi hiện tại. Trong bí tích này, người tín hữu cảm nhận được sự hiện diện của vĩnh cửu trong thời gian và hiện tại của Thiên Chúa trong hiện tại của con người. Như vậy, Bí Tích Thánh Thể diễn tả niềm hy vọng lớn lao nhất của con người, đó là niềm hy vọng được sống và sống dồi dào trong Nước Thiên Chúa.

 

Chúa Giê-su thiết lập Bí Tích Thánh Thể trong bối cảnh Bữa Ăn Vượt Qua (Passover), bữa ăn tưởng nhớ sự giải thoát của Dân Do Thái khỏi ách nô lệ người Ai Cập. Bữa Ăn Thánh Thể cũng mang nghĩa giải thoát, tuy nhiên, đây không phải là sự giải thoát khỏi quyền lực Ai Cập hay bất cứ quyền lực nào trong môi trường thế giới thụ tạo này, mà là sự giải thoát khỏi cảnh nô lệ tội lỗi và sự chết để được sống trong sự tự do của con cái Chúa. Bữa ăn vượt qua của người Do Thái là hình bóng của Bữa Ăn Vượt Qua Mới, Bữa Ăn Thánh Thể, với Của Ăn thiêng liêng là Mình và Máu Chúa Giê-su trong hành trình trần thế.

894    01-09-2018