Lời mở
Văn hoá của một dân tộc là kết tinh của nhiều nền văn hoá trong suốt dòng lịch sử của dân tộc đó. Rồi khi nhiều người đón nhận những giá trị mới qua cuộc hội nhập văn hoá, họ lại tạo nên một nền văn hoá mới để truyền lại cho thế hệ mai sau. Từ đó, mỗi người chúng ta, tuỳ theo các hoàn cảnh và môi trường, hình thành nên các giá trị vật chất cũng như tinh thần cho chính bản thân mình.
Từ trước đến nay, chưa có nhiều người tìm hiểu về những giá trị của các nền văn hoá khác nhau đã hội nhập và kết tinh thành nền văn hoá Việt Nam hiện nay như thế nào. Vì thế, qua bài này, chúng ta muốn tìm hiểu cách khái quát cuộc hội nhập của văn hoá trong dòng lịch sử dân tộc Việt Nam để có thể xây dựng những giá trị mới và đẩy lùi những nét tiêu cực có thể có trong cuộc hội nhập này khi so sánh với nền văn hoá toàn diện và liên đới của đạo Công giáo mà chúng ta tìm hiểu ở bài trước. Chúng ta tạm chia lịch sử văn hoá dân tộc Việt Nam thành 4 thời kỳ.
1. Thời kỳ đầu tiên từ đời vua Hùng đến năm 111 TCN
1.1. Văn hoá thị tộc
Trên đất nước Việt Nam hiện nay, các nhà khảo cổ học phát hiện những di tích và hoá thạch người “Homo erectus” khoảng 500.000 năm thuộc thời Đồ Đá Cũ[1]. Người Hiện đại “Homo sapiens” biết suy tư xuất hiện cách đây khoảng 195.000 năm rồi rời khởi Đông Phi cách đây khoảng 50.000-80.000 năm để di chuyển dọc theo bờ Ấn Độ Dương đến Indonesia và cả Australia[2]. Cách đây khoảng 4.000 năm đến 5.000 năm, các lớp cư dân nguyên thuỷ từ miền đồi núi tiến xuống khai phá các vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, sông Cửu Long và các đồng bằng ven biển, phát triển nền nông nghiệp lúa nước. Nền văn hoá bộ tộc thiểu số trải dài trên những núi đồi chuyển thành nền văn hoá làng xã với những ruộng vườn cố định.
Thời kỳ Hồng Bàng, theo truyền thuyết và dã sử, bắt đầu từ năm 2879 TCN cho đến năm 258 TCN với 18 đời Vua Hùng[3]. Từ đầu thiên niên kỷ II TCN, Việt Nam bước vào thời đại kim khí, từ đồ đồng đến đồ sắt. Đời sống hoang dã, săn bắt, ở trong hang núi hay trong các nhà sàn, sống theo gia tộc được thay thế bằng đời sống ổn định, canh tác ruộng vườn, chăn nuôi gia súc, với những quy luật của làng xã. Các quận lớn hình thành nên các trung tâm văn hoá, có chính quyền trung ương là Nhà nước Quân chủ với các vua Hùng ở miền Bắc trong thời đại Hồng Bàng. Đó là văn hoá Đông Sơn với nhà nước Văn Lang-Âu Lạc, văn hoá Sa Huỳnh với nhà nước Champa ở miền Trung và văn hoá Óc Eo với nhà nước Phù Nam ở miền Nam. Ba dòng văn hoá này đã dần dần giao lưu và hội nhập vào nhau tạo thành văn hoá nguyên thuỷ của Việt Nam.
Năm 258 TCN, Thục Phán, thủ lĩnh của người Âu Việt, ở phía Bắc nước Văn Lang, hợp nhất với nước Văn Lang của người Lạc Việt, xưng là An Dương Vương, đặt quốc hiệu là Âu Lạc, đóng đô tại Cổ Loa, nay là Đông Anh, Hà Nội. Năm 218 TCN, Tần Thuỷ Hoàng huy động 50 vạn quân, sai danh tướng là Đỗ Thư đi chinh phục Bách Việt. Các lạc tướng của người Việt, do Thục Phán lãnh đạo, sau 10 năm bền bỉ kháng chiến theo kiểu chiến tranh du kích, đã bắn chết tướng Đỗ Thư và chiến thắng quân Tần. Sau đó An Dương Vương xây thành Cổ Loa.
Văn hoá thị tộc là nền văn hoá cơ sở của xã hội nguyên thuỷ, bao gồm nhiều gia đình lớn, có cùng một tổ tiên và có nền kinh tế chung: có chung tư liệu sản xuất, lao động tập thể và hưởng chung thành quả lao động. Các thị tộc của người Bách Việt sống theo tổ chức xã hội này. Hạt nhân của chế độ công xã nguyên thuỷ này là thị tộc mẫu quyền, được gặp thấy trong cả 3 nền văn hoá Bắc Trung Nam, cho đến khi người Việt sống dưới chế độ Bắc thuộc mới đổi sang chế độ phụ quyền. Nền văn hoá thị tộc ngoài việc đề cao sức mạnh cơ bắp để lao động kiếm ăn, còn mang đặc tính đề cao sự sinh sản để bảo tồn thị tộc, do đó ta thấy người Việt cả 3 miền đều có tín ngưỡng phồn thực, thờ sinh thực khí (linga và yoni) và thờ hành vi giao phối[4].
Văn hoá thị tộc theo mẫu quyền còn nổi bật với tín ngưỡng thờ thần Mẫu. Các vị thần ở Việt Nam chủ yếu là nữ giới. Đạo Mẫu này càng phát triển hơn trong nền văn hoá nông nghiệp (các bà thần Mây, Mưa, Sấm chớp), sau này hoà nhập cả với đạo Lão và đạo Phật du nhập từ Trung Hoa (với Tứ Pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện). Các vị thần Mẫu được nhiều nơi tôn kính: Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Thánh Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải ở miền Bắc; Tứ Vị Thánh Nương, Bà Ngũ Hành, Thiên Y A Na ở miền Trung; Bà Chúa Động, Bà Chúa Xứ, Bà Đen ở miền Nam. Ngày 1/12/2016, tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể, đại diện của nhân loại[5].
1.2. Nền văn hoá Nông nghiệp
Trong khi những bộ tộc người Việt ở vùng núi còn giữ nét văn hoá thị tộc thì những người Việt ở vùng đồng bằng hình thành nên nền văn hoá nông nghiệp với một số giá trị mới. Nền văn hoá này tồn tại hầu như trong suốt dòng lịch sử dân tộc bao lâu đa số dân tộc Việt còn theo nghề nông. Tuy nhiên, nó đã được chuyển hoá và biến đổi sâu sắc từ năm 1945, khi làn sóng đô thị hoá và những ý thức hệ mới tràn vào nước ta.
Có nhiều học giả nghiên cứu về nền văn hoá nông nghiệp lúa nước vùng Đông Nam Á ở phương Đông đã so sánh với nền văn hoá du mục của các nước Âu Mỹ ở phương Tây và trình bày tính đối cực giữa hai nền văn hoá[6]. Thật ra, sự so sánh này mang tính chất gò ép, thiếu tự nhiên. Lý do là những nhà nghiên cứu này bỏ qua giai đoạn văn hoá thị tộc nguyên thuỷ, khi con người còn mông muội, tôn thờ các thế lực thiên nhiên và theo chế độ mẫu hệ. Hơn nữa, kể từ khi con người thuần hoá được các giống lúa mì và lúa gạo, vào khoảng 3500-3000 năm TCN, thì cả phương Tây lẫn phương Đông đều sống theo văn hoá nông nghiệp. Cuối cùng, nếu có dịp sang các nước phương Tây, ta sẽ thấy vùng đất dành cho việc chăn nuôi với những đồng cỏ chỉ chiếm phần diện tích rất nhỏ so với các vùng trồng lúa mì và các nông sản khác.
Những giá trị của nền văn hoá nông nghiệp:
– Trọng tĩnh: nghề trồng trọt buộc con người sống định cư, chờ một thời gian lâu để cây trồng sinh hoa, kết trái và thu hoạch, nên con người trọng đời sống an tĩnh (an cư lạc nghiệp), nhà cửa ổn định, không thích di chuyển.
– Hoà hợp với thiên nhiên: nghề trồng trọt phụ thuộc hầu như hoàn toàn vào thiên nhiên (mưa thuận, gió hoà, mưa nắng nhờ Trời) nên con người tôn thờ các sức mạnh thiên nhiên, rút ra nhiều kinh nghiệm từ thiên nhiên (được mùa lúa, úa mùa cau; nhiều nắng tốt dưa, nhiều mưa tốt lúa)…
– Trọng đức, trọng tình, trọng nghĩa, trọng văn: do sống chung với nhau thành từng làng, trong một không gian tương đối hẹp, có luỹ tre bao bọc cũng như cùng làm việc chung với nhau, đổi công cho nhau, nên cộng đồng trọng những người có đức hạnh, có tình nghĩa để bảo đảm cho đời sống chung được tốt đẹp. Nhờ sống gần nhau, dễ dàng bảo vệ lẫn nhau nên người ta trọng những nét đẹp của văn hoá hơn võ thuật, tài trí. So với những dân tộc sống theo kiểu du mục: từng gia đình sống riêng rẽ, để đưa đoàn gia súc của mình đi từ đồng cỏ này sang đồi núi khác, hằng ngày phải đối mặt với thú dữ, bất kể thời tiết nắng mưa, sống thế nào cũng không bị ai kết án nên người dân du mục trọng võ, trọng tài, trọng lý, trọng vật.
Thật ra, những giá trị của văn võ, tài đức, lý tình, nghĩa vật đều lệ thuộc vào nhận thức của con người về giá trị của chúng. Khi có một nhận thức đầy đủ và toàn diện về nền văn hoá, người ta sẽ thấy cần phải văn võ song toàn, tài đức trổi vượt, tình lý trọn vẹn, nghĩa vật cân bằng.
– Ứng xử linh hoạt và khoan dung: do không thể chống lại thiên nhiên và cộng đồng bằng sức mạnh cá nhân và tài trí, nên người theo văn hoá nông nghiệp thường ứng xử linh hoạt (ở bầu thì tròn, ở ống thì dài), dễ bị hùa theo đám đông (xấu đều hơn tốt lỏi), âm thầm chịu đựng những chướng ngại vật trên đời (tránh voi chẳng xấu mặt nào), nhẫn nại làm việc và hy vọng sẽ qua được cơn hoạn nạn, thiên tai (ngày mai trời lại sáng).
– Văn hoá nông nghiệp dễ tiếp nhận sự khác biệt của các ý thức hệ, các tôn giáo như đã quen chịu đựng nắng mưa, bão lụt của trời đất. Nhưng thái độ linh hoạt này lại có thể dẫn đến thái độ ứng xử ba phải (cái gì cũng đúng), thiếu chính xác trong giờ giấc vì đã quen hành động theo con nước hay theo mùa mỗi năm, đối xử với nhau theo tình cảm nên thiếu khách quan, thiếu nguyên tắc trong tổ chức, thiếu tôn trọng pháp luật (một bồ cái lý không bằng một tí cái tình; yêu nhau cau bảy bổ ba, ghét nhau cau bảy bổ ra làm mười; yêu nhau yêu cả đường đi, ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng).
2. Văn hoá thời kỳ Bắc thuộc (111 TCN-938)
2.1. Lịch sử
Năm 179 TCN, nước Âu Lạc do An Dương Vương lập nên bị Triệu Đà, vua nước Nam Việt xâm chiếm, rồi bị nhà Hán độ hộ từ năm 111 TCN cho đến khi Ngô Quyền thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938 và lập chủ quyền cho đất nước.
Người Việt liên kết với nhau trong các cộng đồng làng xã, bảo tồn tiếng Việt và các phong tục trong cộng đồng (phép vua thua lệ làng), chống lại các chính sách đồng hoá của người Trung Quốc. Nhưng người Việt cũng biết mở lòng, mở trí đón nhận những giá trị mới mẻ của nền văn hoá phương Bắc để làm giàu nền văn hoá bản địa, tăng thêm tiềm lực cho đất nước và dự trữ sức mạnh cho những cuộc khởi nghĩa sau này.
Đó là các cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (năm 40), Bà Triệu (năm 248), Lý Bí (năm 542), Mai Thúc Loan (năm 720), Phùng Hưng (766-791) cuối thế kỷ VIII. Cuối thế kỷ II, nhân dân Chămpa cũng khởi nghĩa thành công lập nên vương quốc Chămpa độc lập. Đầu thế kỷ X, cuộc đấu tranh của người Việt dẫn đến việc thành lập chính quyền tự chủ của Khúc Thừa Dụ (905-930), Dương Diên Nghệ (931-937) và kết thúc bằng chiến thắng của Ngô Quyền mở ra thời kỳ độc lập, phục hưng dân tộc.
Chính quyền Trung Quốc đưa sang Việt Nam một số quan lại, đứng đầu là Thái thú do hoàng đế bổ nhiệm, mang theo gia đình đến sống ở Việt Nam và một số binh lính, đứng đầu là Đô uý, để ổn định trật tự xã hội. Thái thú và quan lại có nhiệm vụ thu thuế và thu nạp các cống phẩm của địa phương, thường là sản vật quý, để dâng nộp về triều đình trung ương theo các hạn định được giao. Các thương nhân người Trung Quốc đi theo đoàn quân để mua những sản vật quý hiếm và bán các sản phẩm của Trung Quốc, đặc biệt là tơ lụa, giấy mực, bàn tính, thuốc Bắc chữa bệnh và các sản phẩm thủ công mỹ nghệ cho người giàu có ở Việt Nam. Nhiều nhà sư Trung quốc sang tìm những nơi an tĩnh để tu luyện và truyền đạo cho dân chúng.
Những người Trung Hoa này giới thiệu nền văn hoá Trung Quốc cho người Việt. Nhưng hầu như họ chỉ tiếp xúc được với những người giàu sang, quyền quý chứ ít ảnh hưởng được đến quần chúng nông thôn. Một số người Việt học chữ Hán để làm thông ngôn cho người Trung Hoa hoặc ra làm các nhân viên hành chính, thư lại trong tổ chức chính quyền, nhưng họ lại bị dân chúng khinh bỉ, cho là làm tay sai cho kẻ thù. Chính vì người Việt muốn bảo tồn nòi giống nên hầu như không lập gia đình với người Tàu.
2.2. Văn hoá nông nghiệp với tinh thần phản kháng
Người Việt giữ nguyên những nét căn bản của nền văn hoá nông nghiệp vì hầu hết vẫn sinh sống trong những làng xã và hành nghề nông với đời sống tự cung, tự cấp. Với ý thức phản kháng người Trung Quốc, người Việt vẫn giữ cách ăn mặc, nói năng của mình.
– Tổ chức gia đình và xã hội có sự thay đổi lớn: văn hoá dần dần nghiêng về chế độ phụ hệ, người cha là rường cột trong gia đình, gia đình trọng nam khinh nữ, xã hội theo chế độ đa thê cho phép người đàn ông có nhiều thê thiếp. Xã hội nông nghiệp cần nhiều nhân công để lao động, nên dễ dàng đón nhận các giá trị văn hoá mới này.
– Thái độ ứng xử cá nhân: chính quyền dùng chính sách chia để trị, nên gây chia rẽ giữa các địa phương, dòng họ, cá nhân với nhau khiến người Việt thường nghi ngờ, ngại ngùng với người lạ, không dám bày tỏ hay đóng góp ý kiến của mình, im lặng trước bất công khiến người khác tưởng lầm họ là kẻ đồng loã, thường tỏ thái độ bên ngoài hoà hoãn, chịu đựng, nhưng bên trong chỉ muốn ăn tươi, nuốt sống quân thù. Họ có thói quen giả vờ đồng thuận, không nói thật lòng mình, nói xấu kẻ thù vắng mặt, bao che cho đồng bào trước nỗi bất công, cùng giúp nhau lấy cắp của công vì tất cả tài sản công đều do chính tay họ làm ra. Họ thường tỏ vẻ chăm chỉ làm việc trước mắt kẻ xâm lược, nhưng khi kẻ thù quay lưng là họ ngưng làm hay chỉ làm việc cầm chừng vì không muốn làm lợi cho kẻ thù.
Nét văn hoá ứng xử này trải qua hàng ngàn năm bị đô hộ đã tạo thành bản sắc của người Việt, nên khi không còn sống dưới ách kẻ xâm lăng, nhiều người Việt vẫn giữ bản sắc đó. Thái độ này cần được sửa sai bằng những nhận thức mới về giá trị con người, về công bằng xã hội, bằng những kỹ năng làm việc chung và hợp tác với nhau vì công ích, và bằng nhận thức về một Thiên Chúa, một ông Trời nhìn thấu mọi sự và xét xử công minh.
2.3. Đón nhận một số giá trị mới của văn hoá Trung Quốc
Qua việc tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp với người Trung Quốc, người Việt nhận ra nhiều giá trị mới của văn hoá Trung Quốc.
Trước hết là sức mạnh quân sự với chiến lược, vũ khí, hoả pháo, chiến thuyền khiến người Trung Quốc thắng được Việt Nam. Tiếp theo là chữ viết và văn hoá Trung Quốc trổi vượt so với tiếng Việt còn non trẻ. Chữ Việt lúc đó có thể còn thô sơ như tài liệu các bộ chữ chữ Việt Mường còn chứng minh. Trước khi bị người Trung Quốc
đô hộ, nước Văn Lang thời Hùng Vương đã có chữ viết riêng, gọi là chữ Khoa Đẩu, giống hình con nòng nọc[7]. Nhưng sau khi các thái thú Tích Quang (khoảng năm 2-3), Nhâm Diên (khoảng năm 29) dạy văn hoá Khổng Mạnh, dạy dân làm ruộng thay vì săn bắn, dạy nghi lễ cưới gả Trung Hoa cho dân chúng, thì người dân bắt đầu theo văn hoá Trung Quốc. Nhất là sau khi thái thú Mã Viện tận thu các trống đồng (năm 43) thì chữ Việt Cổ hầu như biến mất trong cộng đồng người Việt.
Năm 187 Sĩ Nhiếp được cử giữ chức thái thú quận Giao Chỉ đưa hàng trăm trí thức người Hoa sang dạy chữ Hán cho người Việt[8]. Qua chữ Hán và văn học Trung Quốc, người Việt tiếp thu nhiều hệ thống giá trị mới, được gọi là Tam giáo Đông Phương: Nho, Phật, Lão. Phật giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với quần chúng bình dân vì tôn giáo này phù hợp với hoàn cảnh bị áp bức của dân chúng, giải nghĩa được đau khổ qua định luật nhân quả, luân hồi, tiền kiếp. Nho giáo được phổ biến hạn hẹp hơn trong giới trí thức với Tứ thư Ngũ kinh về các mối tương quan xã hội như tam cương (quân thần, phụ tử, phu phụ), ngũ luân (tam cương cộng thêm 2 mối tương quan mới: huynh đệ, bằng hữu), với ngũ thường (năm đức tính căn bản: nhân nghĩa lễ trí tín), về các cách sống để “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Lão giáo chủ trương hoà nhập với thiên nhiên, giữ lòng thanh tịnh, không cần phải làm gì (vô vi), với những hình thức biến thể phù hợp với tín ngưỡng bản địa thờ thần Mẫu, thờ các vị thần trong thiên nhiên với các hình thức chầu đồng, thẻ xâm… nên cũng phổ biến trong dân chúng.
Tuy nhiên, các giá trị văn hoá mới này bị người Việt nghi ngờ, nhiều làng xã tẩy chay, vì người Việt vẫn ý thức về ý đồ bành trướng, đồng hoá của người Trung Quốc.
3. Văn hoá thời kỳ quân chủ độc lập (938-1945)
3.1. Lịch sử: thời kỳ này kéo dài 10 thế kỷ, từ thế kỷ X đến thế kỷ XX, với ba triều đại nhỏ: Ngô (939-965), Đinh (968-979), Tiền Lê (980-1009); 4 triều đại lớn: Lý (1009-1225), Trần (1226-1400), Lê (1428-1788), Nguyễn (1802-1945); xen kẽ với 3 triều đại nhỏ là Hồ (1400-1407), Hậu Trần (1407-1414), Tây Sơn (1788-1802).
Triều Lý dời đô về thành Đại La (Hà Nội) đổi tên là Thăng Long, đặt quốc hiệu là Đại Việt. Người Việt ra sức củng cố nền độc lập bằng việc xây dựng đất nước trên mọi lĩnh vực để trở thành một quốc gia cường thịnh. Người Việt nhiều lần chống lại các cuộc xâm chiếm của người Trung Quốc ở phía Bắc: 2 lần chiến thắng quân Tống (980-981; 1076-1077), 3 lần thắng quân Mông Nguyên (1258, 1285, 1287-1288). Lê Lợi thắng quân Minh sau 10 năm chiến đấu (1418-1427), Quang Trung Nguyễn Huệ đánh bại quân Xiêm (1784-1785) ở phía Nam và đập tan quân Thanh ở phía Bắc (1788-1789).
Từ thế kỷ X đến thế kỷ XV, công cuộc phục hưng dân tộc mở ra một kỷ nguyên mới với nền văn hoá mới mà trung tâm là Thăng Long, Hà Nội. Nhưng từ thế kỷ XVI, chế độ quân chủ tập quyền và quốc gia thống nhất bị khủng hoảng, đất nước bị phân hoá chia thành Nam – Bắc triều, Đàng Ngoài – Đàng Trong với cuộc nội chiến Lê – Mạc (1533-1592), Trịnh – Nguyễn (1627-1772). Tuy nhiên, nền kinh tế và văn hoá vẫn phát triển trong từng vùng, nhất là các cảng biển. Công cuộc mở rộng, khai phá đất nước về phía Nam cho tới đồng bằng sông Cửu Long vẫn được tiến hành.
Từ thế kỷ XVI, quan hệ giao thương với nước ngoài phát triển mạnh, dẫn đến sự phồn vinh của nhiều đô thị, cảng biển. Văn hoá dân tộc phát triển và giao lưu với các nước trong khu vực và một số nước phương Tây như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh, Pháp. Đây cũng là thời kỳ Thiên Chúa giáo bắt đầu được truyền bá tại Việt Nam. Các làng nghề thủ công phát triển ở miền Bắc với nghề ươm tơ tằm, dệt lụa và ở miền Trung, miền Nam với nghề làm đồ gốm. Đây là những sản phẩm để trao đổi với nước ngoài.
Triều đại Tây Sơn, với vua Quang Trung Nguyễn Huệ, có nhiều chính sách cải cách về ruộng đất và văn hoá (coi trọng chữ Nôm) có lợi cho người dân, nhưng chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Chúa Nguyễn Ánh, với sự giúp đỡ của người Pháp, đã đánh bại nhà Tây Sơn, mở đầu triều đại nhà Nguyễn khi lên ngôi vua năm 1802, đóng đô ở Phú Xuân, Huế, đặt quốc hiệu là Việt Nam. Trước sức mạnh quân sự, kỹ thuật vượt trội của phương Tây, triều Nguyễn không có những cải cách để khắc phục tình trạng lạc hậu của đất nước, dùng chính sách bế quan toả cảng và hệ tư tưởng Nho giáo chống lại hệ tư tưởng Thiên Chúa giáo nên dẫn đến cuộc xâm lược của thực dân Pháp (1858-1884) và nước ta rơi vào vòng nô lệ phương Tây (1884-1945).
3.2. Văn hoá
Người Việt vẫn giữ được những nét tiêu biểu của nền văn hoá nông nghiệp lúa nước: trọng tình nghĩa, trọng đức hạnh. Người Việt nhận ra giá trị cao cả, linh thiêng của đất nước vì đã phải trả giá đắt cho nền độc lập và tự do của dân tộc qua các cuộc chiến tranh nên rất có tinh thần ái quốc, chống lại mọi hình thức xâm lược của người Trung Quốc ở phía Bắc và những người Tây phương ở miền Nam. Do phải chịu những cuộc nội chiến từ thế kỷ XVI- XIX, phải đóng sưu cao thuế nặng cho các cuộc nội chiến này nên người Việt thấy đời sống có vẻ tạm bợ, nặng nề, cực khổ và thường có tâm trạng bi quan, thiếu vẻ dấn thân, yêu đời.
Phật giáo chiếm địa vị độc tôn về tín ngưỡng trong dân chúng, nhất là trong 2 triều Lý Trần, với những vị quốc sư như Khuông Việt, Pháp Thuận, Vạn Hạnh… hoặc vua Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông cũng là những nhà Phật học lỗi lạc. Làng nào hầu như cũng có chùa. Chính quyền cũng xây dựng nhiều chùa và phổ biến tư tưởng Phật giáo cho quần chúng. Hoàn cảnh phân hoá và các cuộc nội chiến càng củng cố tư tưởng chủ đạo của Phật giáo cho đời là vô thường, là bể khổ và dạy con người ăn ngay ở lành để được đầu thai vào kiếp sau tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, vì được quần chúng tôn trọng, chính quyền ưu đãi, nên nhiều vị tu hành lại đánh mất tư cách đạo đức. Ca dao Việt Nam còn để lại nhiều lời chê trách các người tu sĩ ấy (Ba cô đội gạo lên Chùa…). Từ triều Lê trở đi, Phật giáo không còn chiếm địa vị độc tôn, dân chúng quay trở về với việc thờ cúng ông bà tổ tiên, đạo Mẫu và thờ các vị Thành Hoàng.