![]() |
Từ trái sang phải: Karol Wojtyla Sr., Joseph Ratzinger Sr., Mario Jose Bergoglio, Louis Marius Prevost. Credit: Public domain; vourtesy of Ignatius Press; vourtesy of The Society of Jesus Argentina; fair use |
Bốn vị Giáo hoàng gần đây nhất của Giáo hội Công giáo - Thánh Gioan Phaolô II, Đức Bênêđictô XVI, Đức Phanxicô và Tân Giáo hoàng của chúng ta, Đức Lêô XIV - có những người cha chuyên cần đã thông truyền cho các ngài những đức tính và giá trị quan trọng, nhiều trong số đó có thể được nhận thấy trong cách các ngài sống trọn vẹn thiên chức linh mục và chu toàn triều đại giáo hoàng của mình.
Sau đây là cái nhìn về những người cha của bốn vị Giáo hoàng gần đây nhất:
Cha của Đức Giáo Hoàng Lêô XIV: Louis Marius Prevost
Louis Marius Prevost sinh ra tại Chicago vào ngày 28 tháng 7 năm 1920, mang dòng máu Ý và Pháp. Ngay sau khi tốt nghiệp đại học, ông đã phục vụ trong hải quân vào Thế chiến II và vào tháng 11 năm 1943 đã trở thành sĩ quan điều hành của một tàu đổ bộ xe tăng. Prevost cũng tham gia vào cuộc đổ bộ D-Day ở Normandy vào ngày 6 tháng 6 năm 1944, như một phần của Chiến dịch Overlord. Ông đã dành 15 tháng ở nước ngoài và đạt được cấp bậc trung úy hải quân trước khi chiến tranh kết thúc.
Sau khi trở về nhà, Prevost trở thành giám thị của Học khu Brookwood 167, một học khu tiểu học ở Glenwood, Illinois. Năm 1949, ông kết hôn với Mildred Agnes Martinez, một người Chicago khác và là thủ thư trường học. Prevost qua đời vào ngày 8 tháng 11 năm 1997, ở tuổi 77 vì ung thư ruột kết và bệnh tim xơ vữa động mạch.
Theo tờ New York Times, trong một cuộc phỏng vấn năm 2024 trên truyền hình Ý, vị Giáo hoàng tương lai đã nhớ lại một thời điểm mà ngài tâm sự với cha mình về việc rời khỏi tiểu chủng viện mà ông đang theo học để kết hôn và có một gia đình.
“Có lẽ sẽ tốt hơn nếu con rời khỏi đời sống này và kết hôn; con muốn có con, một cuộc sống bình thường,” Đức Hồng Y Prevost khi đó nhớ lại những lời đã nói với cha mình vào thời điểm đó.
Cha của ngài đáp lại bằng cách nói với ngài rằng “sự gần gũi giữa cha và mẹ con” là quan trọng, nhưng sự gần gũi giữa một linh mục và tình yêu của Thiên Chúa cũng quan trọng không kém.
“Có điều gì đó đáng để lắng nghe ở đây,” vị Giáo hoàng tương lai nhớ lại ý nghĩ này.
Cha của Đức Giáo Hoàng Phanxicô: Mario Jose Bergoglio
Mario Jose Bergoglio sinh ngày 2 tháng 4 năm 1908 tại Turin, Ý. Năm 1929, ông và gia đình di cư từ Ý sang Argentina để chạy trốn khỏi chế độ phát xít của Benito Mussolini. Ở Argentina, ông làm kế toán và được Cục Đường sắt Argentina tuyển dụng với một vị trí ổn định và được kính trọng vào thời điểm đó. Ông kết hôn với Regina María Sívori vào năm 1935 và họ có năm người con - người lớn tuổi nhất là Đức Giáo Hoàng Phanxicô tương lai. Mario Jose Bergoglio qua đời ở tuổi 51 vào năm 1959.
Gia đình Bergoglio sống ở một khu vực lao động của Buenos Aires, nơi mà công việc từ người cha của Đức Phanxicô chắc chắn đã định hình nên quan điểm của riêng ngài về tình phụ tử và đời sống gia đình. Mặc dù Đức cố Giáo hoàng không nói nhiều về mối quan hệ của mình với cha, nhưng ngài thường nói về tầm quan trọng của người cha và sự cần thiết phải có mặt trong cuộc sống của con cái, khuyên nhủ họ phải kiên nhẫn, tha thứ và sửa dạy con cái mà không làm bẽ mặt chúng. Đức Phanxicô thường trưng dẫn Thánh Giuse là hình mẫu cho tất cả những người cha.
Cha của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI: Joseph Ratzinger Sr.
Joseph Ratzinger Sr. sinh ngày 6 tháng 3 năm 1877 tại Winzer, Đức. Từ năm 1902, ông làm cảnh sát. Năm 1920, ở tuổi 43, ông kết hôn với Maria Peintner. Joseph Alois Ratzinger, người lớn lên trở thành Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, là người con thứ ba và là con út trong gia đình.
Ratzinger Sr. là một người Công giáo sùng đạo và phản đối mạnh mẽ chế độ Đức Quốc xã. Ông thường từ chối tuân theo lệnh đàn áp những người đối lập và do đó bị giới cầm quyền Đức Quốc xã quấy nhiễu. Để tránh bị trừng phạt, ông thường xuyên phải thay đổi chỗ ở. Ngày 25 tháng 8 năm 1959, ngài qua đời ở tuổi 82.
Trong Đại hội Gia đình Thế giới năm 2012, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô đã nói về những kỷ niệm ngài có được với cha mình và gia đình khi còn nhỏ.
“Khoảnh khắc quan trọng nhất đối với gia đình chúng tôi luôn là Chúa nhật, nhưng Chúa nhật thực sự bắt đầu vào chiều thứ Bảy,” ngài nhớ lại. “Cha tôi sẽ đọc các bài đọc Chúa nhật từ một cuốn sách rất phổ biến ở Đức vào thời điểm đó, trong đó cũng có giải thích về các văn bản. Đó là cách chúng tôi bắt đầu Chúa nhật của mình, bước vào phụng vụ trong bầu không khí vui tươi.”
Cha của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: Karol Wojtyla Sr.
Karol Wojtyla Sr. sinh ngày 18 tháng 7 năm 1879, tại Bielsko-Biała, Ba Lan. Ông là một thợ may theo nghề phụ nhưng vào năm 1900 đã được gọi vào Quân đội Astro-Hungarian, nơi ông đã dành tổng cộng 28 năm. Sau khi Ba Lan giành lại độc lập, ông được nhận vào Quân đội Ba Lan, nơi ông phục vụ với tư cách là trung úy cho đến khi nghỉ hưu vào năm 1928.
Wojtyla Sr. kết hôn với Emilia Kaczorowska và họ có với nhau ba người con - Edmund, Olga (mất khi còn nhỏ) và Karol, người sau này trở thành Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Năm 1929, Emilia qua đời vì bệnh tim và thận; ba năm sau, Edmund qua đời vì sốt ban đỏ. Điều này khiến Wojtyla Sr. phải tự mình chăm sóc con trai Karol. Năm 1938, ông và Karol chuyển đến Kraków để cậu bé có thể theo học tại Đại học Jagiellonian. Wojtyla Sr. qua đời vào ngày 18 tháng 2 năm 1941, ở tuổi 61.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thường nói về đức tin của cha mình và cách đức tin đó truyền cảm hứng cho ơn gọi làm linh mục của ngài.
Vị Giáo hoàng người Ba Lan đã từng nói về cha mình rằng: “Ngày này qua ngày khác, tôi có thể quan sát cách sống khắc khổ của cha. Theo nghề nghiệp, cha là một quân nhân và sau cái chết của mẹ tôi, cuộc sống của cha trở thành một cuộc sống cầu nguyện liên tục. Đôi khi tôi thức dậy vào ban đêm và thấy cha tôi quỳ gối, giống như tôi luôn thấy cha quỳ gối trong nhà thờ giáo xứ. Chúng tôi không bao giờ nói về ơn gọi làm linh mục, nhưng theo một cách nào đó, tấm gương của cha là chủng viện đầu tiên của tôi, một loại chủng viện tại gia.”
Tác giả: Francesca Pollio Fenton - Nguồn: Catholic News Agency (15/6/2025)
Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên