![]() |
Hàng trăm linh mục phục vụ với tư cách là những nhà truyền giáo của lòng thương xót trên khắp thế giới đến để đồng tế Thánh lễ tại Vương cung thánh đường Sant’Andrea della Valle ở Rome vào ngày 30 tháng 3 trong lễ kỷ niệm Năm Thánh dành cho những nhà truyền giáo của lòng thương xót. (Ảnh CNS/Pablo Esparza) |
Gaudium et Spes hướng Giáo Hội đến với niềm hy vọng 60 năm trước năm thánh hiện tại.
Mỗi cuộc hành hương đều cần có những khoảng dừng. Đây là thời điểm chúng ta dừng lại để đôi chân mệt mỏi của mình được nghỉ ngơi và có cơ hội phục hồi năng lượng. Chúng ta hiện đang ở giữa Năm Thánh Hy Vọng do Đức Giáo Hoàng Phanxicô công bố. Đây là thời điểm tốt để dừng lại và suy ngẫm về những gì chúng ta đang làm trong cuộc hành hương này theo lời kêu gọi của Giáo Hội là sống như những con người tràn đầy hy vọng.
Chúng ta có thể bị cám dỗ giới hạn Năm Thánh Hy vọng trong phạm vi niên lịch do Đức Giáo Hoàng Phanxicô đề xuất khi ngài công bố năm 2025 là Năm Thánh thường lệ đầu tiên kể từ thiên niên kỷ thứ ba của Kitô giáo vào năm 2000. Tuy nhiên, chúng ta nên có cái nhìn dài hạn hơn để có thể học hỏi.
Đối với thời đại hiện đại, định hướng của Giáo Hội đối với chủ đề về hy vọng bắt nguồn từ Công đồng Vaticanô II, kết thúc cách đây 60 năm, vào ngày 8 tháng 12 năm 1965. Một ngày trước khi bế mạc, vào ngày 7 tháng 12, các nghị phụ đã phê duyệt một trong những văn kiện mới lạ và nổi bật nhất của công đồng, sau đó được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI ban hành ngay lập tức. Tôi muốn nói đến Gaudium et Spes, Hiến chế Mục vụ về Giáo hội trong Thế giới Ngày nay.
Tiêu đề của văn kiện đã cung cấp định hướng phù hợp. Ba từ tiếng Latin đầu tiên của văn bản - Gaudium et spes - có nghĩa là “vui mừng và hy vọng.” Đoạn mở đầu của lời tựa từ bản dịch tiếng Anh của Vatican (với một số điều chỉnh nhỏ có tính bao hàm) đáng được trích dẫn:
Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người thời đại này, đặc biệt là những người nghèo hoặc đau khổ theo bất kỳ cách nào, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của những người theo Chúa Kitô. Thật vậy, không có gì thực sự của con người mà không tạo nên tiếng vang trong trái tim họ. Vì cộng đồng của họ bao gồm những con người. Được hợp nhất trong Chúa Kitô, họ được Chúa Thánh Thần dẫn dắt trong hành trình đến Nước Cha và họ đã chào đón Tin Mừng cứu độ dành cho mọi con người.
Lời tựa này nói lên một cách hùng hồn mong muốn của công đồng là nói với thế giới hiện đại theo cách riêng của mình. Mọi người đều có niềm vui và hy vọng, ưu sầu và lo lắng. Các môn đệ của Chúa Kitô không miễn nhiễm với những thực tế này của con người. Khi thế kỷ 21 trôi qua, chúng ta ngày càng thấy sự mong manh không chỉ của cuộc sống mà còn của chính thế giới chúng ta. Chiến tranh, xung đột, hận thù và tranh chấp đủ loại đã làm hỏng thời điểm đáng lẽ phải là thời điểm của vui mừng và hy vọng. Một số vấn đề - hãy nghĩ đến Trung Đông, đói nghèo, thiên tai, biến đổi khí hậu, hận thù, phân biệt chủng tộc, bài Do Thái, bóng ma chiến tranh hạt nhân - có vẻ khó giải quyết. Tuy nhiên, cách tiếp cận của Kitô giáo đối với những tình thế như vậy của con người là duy trì hy vọng. Chúng tôi tin rằng Chúa Thánh Thần đồng hành cùng chúng ta trên hành trình hướng tới Nước Chúa.
Tại sao Gaudium et Spes lại quan trọng
Đối với những người trẻ tuổi ngày nay, thậm chí là các chủng sinh và linh mục trẻ tuổi, văn kiện này của công đồng có vẻ giống như lịch sử thời xa xưa. 60 năm đã trôi qua rất lâu, và thế giới thực sự đã thay đổi đáng kể. Tuy nhiên, việc nhớ lại tầm quan trọng của giáo huấn độc đáo này là rất hữu ích. Có ít nhất ba yếu tố nổi bật.
Đầu tiên, văn kiện này được dán nhãn là “hiến chế mục vụ.” Công đồng Vaticanô II có bốn hiến chế trong số 16 văn kiện. Một hiến chế - so với một sắc lệnh hoặc một tuyên bố - có thẩm quyền cao nhất của một công đồng chung. Hai hiến chế của Công đồng Vaticanô II được gọi là “tín điều” (Lumen Gentium về Giáo Hội và Dei Verbum về mặc khải của Thiên Chúa) và do đó sở hữu thẩm quyền về mặt giáo lý ở mức cao nhất. Một văn kiện (Sacrosanctum Concilium về phụng vụ) chỉ được gọi đơn giản là “hiến chế” mà không có mô tả nào khác. Chỉ có Gaudium et Spes được gọi là “hiến chế mục vụ.” Theo một cách nào đó, điều đó là do văn kiện này tiêu biểu cho mong muốn cuối cùng của Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII, người đã triệu tập công đồng vào năm 1962, để trả lời một câu hỏi quan trọng: Giáo Hội mang đến những gì cho thế giới hiện đại? Văn kiện này cố gắng giải thích lý do tại sao đức tin vẫn là điều thiết yếu trong thế giới hiện đại và những người có đức tin có thể mang lại điều gì cho những nỗi lo lắng và khó khăn dai dẳng mà chúng ta gặp phải hàng ngày.
Một khía cạnh thứ hai được tìm thấy trong bản phác thảo bao quát của Gaudium et Spes. Sau lời tựa và phần giới thiệu, văn kiện này được chia thành hai phần chính. Phần đầu tiên đề cập đến nền tảng lý thuyết cho sự hiện hữu của con người trên thế giới, giải thích về Giáo Hội và phẩm giá của con người. Điều quan trọng là văn kiện này không chỉ dựa trên những suy tư thần học mà còn dựa trên kinh nghiệm của con người. Điều đó mang lại cho văn kiện một hương vị độc đáo trong các giáo huấn của Giáo Hội. Văn kiện bắt nguồn từ nhân loại phổ quát và cố gắng phân định vai trò của Giáo Hội trong việc thúc đẩy sự phát triển và phẩm giá của nhân loại đó trong tương lai.
Định hướng này được nêu rõ trong phần thứ hai của văn kiện, tập trung vào một loạt các thách thức đáng chú ý của con người đương đại: hôn nhân và đời sống gia đình; sự phát triển của văn hóa; các mối quan tâm về kinh tế xã hội; các thách thức của đời sống chính trị; và nhu cầu thúc đẩy hòa bình và khuyến khích hợp tác quốc tế. Trong mỗi trường hợp như thế, thực tế và khó khăn không bị hạ thấp hoặc bỏ qua. Đồng thời, văn kiện chỉ ra những con đường có thể thực hiện để đạt được tiến bộ trong từng lĩnh vực nêu trên, nếu con người gạt bỏ những khác biệt cá nhân và nỗ lực hết mình.
Điều thú vị là, mặc dù Công đồng Vaticanô II không chứa đựng bất kỳ một vạ tuyệt thông (anathema) chính thức nào - tức là kết án những sai lầm - nhưng Gaudium et Spes là văn kiện duy nhất lên án sự phát triển thời hiện đại, cụ thể là cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân và vai trò của nó trong việc thúc đẩy các cuộc chiến tranh và xung đột đang diễn ra. Ngôn ngữ của văn kiện rất mạnh mẽ: “chạy đua vũ trang là một cạm bẫy vô cùng nguy hiểm đối với nhân loại và là cái bẫy khiến người nghèo sa vào ở mức độ không thể chịu đựng được.” (số 81).
Một khía cạnh thứ ba của hiến chế mục vụ này là lập trường thực tế của nó giữa những thách thức hiện tại của trái đất. Ví dụ, khi thảo luận về viễn cảnh hòa bình khó đạt được, văn kiện này nói rằng:
Nhưng chúng ta không nên để hy vọng hão huyền lừa dối chúng ta. Vì trừ khi hiềm khích và hận thù được loại bỏ và các thỏa thuận vững chắc, trung thực về hòa bình thế giới đạt được trong tương lai, nhân loại, vốn đang ở giữa một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng, mặc dù được phú cho tri thức cao vời, vẫn có nguy cơ sẽ tiến dần đến giờ phút bi thảm nhất, lúc mà nhân loại sẽ không còn gặp được hòa bình nào khác hơn là thứ hòa bình khủng khiếp của sự chết. Nhưng, trong khi chúng ta nói điều này, Giáo Hội của Chúa Kitô, hiện diện giữa nỗi lo âu của thời đại này, lại không ngừng hy vọng một cách vững vàng nhất. Giáo Hội có ý định đề xuất với thời đại của chúng ta nhiều lần, lúc thuận tiện cũng như không thuận tiện, thông điệp này của các tông đồ: “Đây là lúc thuận tiện để thay đổi tâm hồn; đây là ngày cứu độ.” (số 82).
Một quan điểm của Thượng hội đồng
Khi phiên họp thứ hai của Thượng hội đồng về Tính Hiệp hành kết thúc vào ngày 28 tháng 10 năm 2024, và sau đó ban hành báo cáo tổng hợp cuối cùng, một điều bất ngờ là Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã ngay lập tức ban hành báo cáo này như một phần trong giáo huấn chính thức của ngài. Ngài quyết định không soạn một Tông huấn hậu Thượng hội đồng riêng biệt, mà chỉ đơn giản chấp nhận kết quả cuối cùng của Thượng hội đồng như của riêng ngài.
Gaudium et Spes chỉ được tham chiếu ở bốn nơi trong văn kiện cuối cùng (số 20, 81, 83 và 123), nhưng tinh thần của hiến chế mục vụ này vẫn thể hiện rõ ràng trong suốt văn kiện. Sự nhấn mạnh vào việc thúc đẩy các mối tương quan trong gia đình nhân loại (GS, số 3 và 42), nhấn mạnh vai trò thiết yếu của lương tâm trong việc ra quyết định (GS, số 16), thúc đẩy tầm quan trọng của việc nhận ra các dấu chỉ của thời đại dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần (GS, số 11), và nhiệm vụ cùng nhau hành động vì công bằng, đoàn kết, hòa bình và đối thoại liên tôn (GS, số 40) đều là những dấu hiệu đặc trưng từ lời kêu gọi của Thượng hội đồng nhằm thúc đẩy Giáo Hội tiến lên trong các nhiệm vụ ngôn sứ và loan báo Tin Mừng của mình.
Cả văn kiện cuối cùng của Thượng hội đồng lẫn Gaudium et Spes đều đơn thuần đề xuất rằng có thể đạt được tiến bộ một cách đơn giản và không gây tranh cãi. Việc thúc đẩy các mối quan hệ giữa con người với nhau, cũng như các mối quan hệ quốc tế giữa các quốc gia, chưa bao giờ là điều dễ dàng. Tham gia vào đối thoại và xây dựng sự hợp tác luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Tuy nhiên, cũng giống như Công đồng Vaticanô II đã cố gắng thúc đẩy sự tham gia trực tiếp của Giáo Hội vào các vấn đề của thế giới để làm cho Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô được biết đến rộng rãi và hấp dẫn hơn, thì Thượng hội đồng cũng đã cố gắng thúc đẩy Giáo Hội tiến lên trong nỗ lực thúc đẩy căn tính của mình như một nhóm các tông đồ truyền giáo không bao giờ mất đi hy vọng, bất chấp những trở ngại thường cản trở sự tiến bộ thực sự.
Vậy thì sao?
Đối với nhiều độc giả, câu hỏi chính còn lại có thể là, “Vậy thì sao?” Tất cả những điều này có liên quan gì đến Năm Thánh Hy vọng hiện tại?
Khi tôi đọc lại Gaudium et Spes, điều khiến tôi ấn tượng nhất là lập trường của văn kiện này vẫn thực sự mamg tính hiện đại như thế nào. 60 năm trôi qua vẫn không làm giảm đi tầm nhìn đáng kinh ngạc của văn kiện này về những gì Giáo Hội nên làm trong thế giới hiện đại. Rất nhiều chủ đề được nêu ra trong bản giáo huấn dài này vẫn là trọng tâm trong các cuộc tranh luận đang diễn ra trên cả thế giới và Giáo Hội. Hãy nghĩ đến những chủ đề đã trở thành trọng tâm của sự chú ý gần đây: phẩm giá con người, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, đói nghèo, chiến tranh và hòa bình, hôn nhân và gia đình, nhập cư, đe dọa hạt nhân, chia rẽ văn hóa, tiến bộ công nghệ nhanh chóng và những thách thức về mặt đạo đức của chúng,…
Đây là lý do tại sao Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong những giáo huấn của riêng mình, khi nhấn mạnh đến cả vui mừng và hy vọng, có thể được coi là thúc đẩy tầm nhìn của Công đồng Vaticanô II tiến lên phía trước để giúp những người có đức tin sống đúng với căn tính phát xuất từ Bí tích Rửa tội của họ. Động lực mục vụ thiết yếu từ sứ vụ giáo hoàng của ngài không hề làm suy giảm tầm quan trọng của các vấn đề về giáo lý. Gaudium et Spes với tư cách là một hiến chế mục vụ cũng không chỉ là một sự bùng nổ nhất thời. Đó là một giáo huấn hướng tới tương lai nhằm giúp các tín hữu thấy được vai trò nổi bật của họ trong thế giới hiện đại như những phương tiện để hiện thân cho đức tin, hy vọng và tình yêu trong một thế giới đang vô cùng cần đến cả ba nhân đức này.
Trong những khoảnh khắc trung thực nhất, tôi thừa nhận rằng với tư cách là một linh mục, đôi khi tôi cảm thấy chán nản và choáng ngợp khi thấy rất nhiều vấn đề của con người vẫn còn làm hoen ố thế giới của chúng ta. Đôi khi tôi cảm thấy bất lực trước tình trạng nghèo đói cùng cực, tình trạng vô gia cư lan rộng, tình trạng nghiện rượu và ma túy, tội phạm và ích kỷ, lòng căm thù và bất công. Các loại chủ nghĩa của thế giới này dường như vẫn còn thống trị: chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa bài Do Thái, chủ nghĩa dân túy. Làm thế nào chúng ta có thể vượt qua những khuynh hướng ý thức hệ như vậy, những khuynh hướng cản trở sự tiến bộ thực sự của con người?
Thực ra, Năm Thánh Hy Vọng mang đến cho chúng ta cơ hội để đưa tầm nhìn vốn được nêu ra trong Gaudium et Spes, được tăng cường bởi nhiều giáo huấn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô về vui mừng và hy vọng, vào thực hành. Thật vậy, chúng ta có thể đưa ra lời kết cho đoạn áp chót của hiến chế mục vụ này: “Kết quả là, mọi người trên khắp thế giới sẽ được khơi dậy một niềm hy vọng sống động - ơn ban của Chúa Thánh Thần - rằng một ngày nào đó cuối cùng họ sẽ được đưa vào chốn hòa bình và hạnh phúc tuyệt đối nơi quê hương rạng ngời vinh quang của Thiên Chúa.” (số 93)
Tác giả: Lm. Ronald Witherup, PSS - Nguồn: The Priest (15/5/2025)
Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên