Gương thánh nhân: Trong Hội thánh, Chúa ban cho mỗi người một khả năng riêng để phục vụ lợi ích chung: “Có nhiều đặc sũng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. ” (I cor. 12,4-6)
Thánh Phêrô Đa lúc còn ở thế gian đã được Chúa dùng làm người giúp việc nhà Chúa, thường gọi là ông Từ, là người đảm trách việc dọn đồ lễ, chưng bông, đốt nến, giữ gìn sạch sẽ trong Thánh đường. Thánh nhân siêng năng nhiệt thành chu toàn bổn phận, nên được Chúa thương ban triều thiên tử đạo.
Phêrô Đa sinh năm 1802 tại làng Ngọc Lục, xứ Lục Thủy, tỉnh Nam Định, thuộc giáo phận Trung Đàng ngoài. Cha cậu là người có đạo, nhưng mẹ lại là người ngoại giáo. Dù vậy, cậu cũng được rửa tội và giáo dục chu đáo theo giáo lý công giáo.
Vì cha mẹ nghèo, lúc nhỏ không được học chữ nghĩa nhiều, nên lớn lên cậu học nghề thợ mộc để đi làm phụ giúp gia đình. Khi đến tuổi trưởng thành, cậu lập gia đình, và trở nên gia trưởng gương mẫu về mọi phương diện, nhất là về đạo đức lương thiện. Trong việc dạy dỗ huấn luyện con cái, cậu biết rõ lời nói không bằng gương sáng đời sống hằng ngày. Thế nên, muốn con cái làm điều gì, lánh việc chi, thì chính cậu làm trước, lánh trước cho chúng noi theo bắt chước. Và kết quả thật tốt đẹp. . .
Việc đặc biệt trong đời ông Phêrô Đa nhiệt tình với nhà chung. Khi cha xứ ngỏ ý muốn tìm người làm từ, giúp việc nhà thờ, ông tình nguyện sẵn sàng ngay. Và sau khi nhận lãnh trách vụ, ông luôn cố gắng làm tròn bổn phận. Mỗi ngày, ông dậy đúng giờ, kéo chuông, dọn đồ lễ, chưng bông, quét dọn trong ngoài nhà thờ sạch sẽ, xứng đáng nơi tôn nghiêm thờ Chúa, giúp mọi người thêm lòng sốt sắng và kính trọng Nhà Chúa. Những ngày lễ cả, lễ trọng, ông luôn lo chuẩn bị chu đáo, trang hàng bông hoa, cờ xí lông lẫy. Mọi người trong xứ đạo thấy vậy thì hết sức khen ngợi và thán phục tinh thần hy sinh phục vụ của ông.
Đang lúc ông hăng say nhiệt thành lo giúp việc Nhà Chúa như thế thì năm 1862, vua Tự Đức ra chiếu chỉ PHÂN SÁP, bắt đạo gắt gao. Nhiều giáo hữu bị bắt, trong đó có ông. Lúc đó, ông đã 60 tuổi. Ông bị giam ở phủ Xuân Trường 6 ngày rồi đày đi Gia Linh. Ở đây, ông phải chịu nhiều hình khổ, ngày đêm bị gông cùm xiềng xích. Nhiều lần bị đem ra tra tấn dã man, buộc ông bước qua Thánh Giá, bỏ đạo. Nhung ông luôn luôn can đảm bền chí vượt qua tất cả vì Chúa, cương quyết một lòng trung thành theo Chúa, không bao giờ chối Chúa bỏ đạo. Ông noi gương thánh Phêrô là Quan thầy của ông : nếu bỏ Chúa thì biết theo ai; chỉ có Chúa mới có lời ban sư sống đời đời.
Các quan thầy cực hình không thể khuất phục được anh hùng đức tin, nên kết án thiêu sống. Và ngày 17 tháng 6 năm 1862, quân lính dẫn người tôi tớ trung thành của Chúa ra pháp trường. Dọc đường, ông thầm thỉ cám ơn Chúa, và khẩn khoản nài xin Chúa ban ơn giúp sức cho đủ can đảm trong giờ phút cuối cùng này.
Khi lử cháy sắp tàn, một người lính thấy ông chưa chết hẳn, liền rút gươm chém đứt đầu ông, đưa linh hôn ông về cõi muôn đời.
Ngày 29 tháng 4 năm 1951, Đức Thánh Cha Pi-ô XII phong Chân phước cho ông. Và ngày 19 tháng 6 năm 1988, Đức Giáo Hoàng Gion Phaolô II đã suy tôn ngài lên Hiển thánh.
Quyết tâm: Noi gương thánh Phêrô Đa tử đạo, hằng ngày nhiệt thành chăm lo giúp việc Chúa, và suốt đời sẵn sàng hy sinh chịu khó để làm chứng cho Chúa
Cầu nguyện: Lạy Cha, Cha đã ban cho Giáo hội Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng, biết hiến dâng mạng sống, để hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước chúng con. Xin nhận lời các ngài chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương các ngài để lại: luôn can đảm làm chứng cho Cha và trung kiên mãi đến cùng.