Sidebar

Thứ Ba
30.04.2024

Chiều Kích Nội Tâm Của Các Việc Đạo Đức - Tháng 11

  1. Lời Chủ Chăn
  2. Thư Mục Vụ
  3. Diễn Giải Thư Mục Vụ
  4. Lời Nguyện Chung
  5. Áp Dụng Thực Hành
  6. Học Kinh Thánh
  7. Tìm Hiểu Giáo Luật
  8. Sống Đạo
  9. Trang Linh Mục
  10. Trang Tu Sĩ
  11. Trang Sống Ơn Gọi
  12. Trang Thiếu Nhi
  13. Trang Giới Trẻ
  14. Trang Gia Đình
  15. Trang Giáo Lý Viên
  16. Trang Quới Chức
  17. Sống Đẹp
  18. Chuyện Thường Ngày
  19. Hỏi Đáp Mục Vụ
  20. Một Chút Tâm Tình

 

LỜI CHỦ CHĂN

Toà Giám Mục Vĩnh Long
103 đường 3/2
Vĩnh Long

24.10.2012

 

V/v Chiều kích nội tâm của các việc đạo đức

Kính gởi : Các Linh Mục,
                  Các Tu Sĩ ,
                  Và Anh Chị Em Giáo dân

'"Chúa Giêsu gọi các Tông đồ, trước hết là để ở với Chúa" (Mc 3,14)

Việc đạo đức là gì ? 

Trong các việc thờ phượng của Hội Thánh, trước tiên là cử hành Thánh Lễ và các Bí Tích, các nghi thức cung hiến, làm phép, nghi thức Khấn Dòng của các Tu sĩ, nghi thức ban các Tác Vụ, nói chung đó là những việc cử hành phụng vu, là làm theo Nghi thức của Hội Thánh và do  thừa tác viên được đề cử.

Ngoài ra còn có những việc lành khác như  Đi Đàng Thánh Giá, lần Chuỗi Môi Khôi, làm Việc kính Trái Tim Chúa Giêsu tháng sáu, làm Việc kính Đức Me tháng năm, làm việc kính Thánh Giuse tháng ba, làm việc kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Cầu Lễ cho người quá cố, Kinh hôm, kinh mai, trong gia đình, đó là những việc lành rất tốt và cần thiết cho đời sống tín hữu.

Tiếc thay nhiều nơi đã đánh mất truyền thống tốt đẹp  nầy. Nhưng may mắn là có nhiều nơi đang cổ võ việc Chầu Thánh Thể, Cử hành Lòng Chúa Thương Xót trước khủng hoảng đức tin và tình trạng suy thoái đạo đức mỗi ngày một lan rộng.

Làm sao để được gọi là việc đạo đức tốt?

Nhờ những việc lành nói trên, các tín hữu hướng về Chúa, bày tỏ lòng tin, lòng cậy trông và lòng yêu mến, để tạ ơn, để khẩn xin những ơn cần thiết, ơn tha tội, ơn che chở. Đó là những việc thờ phượng đạo đức giúp các tín hữu sống hiệp thông với Chúa, rồi cũng thông hiệp với nhau.

Do đâu mà có được sự hiệp thông như vậy? Bởi vì các tín hữu thuộc về Hội Thánh, Thân Thể của Chúa Kitô. là  Đầu, là Thủ Lãnh (1 Co 11,3; Eph 4,15; Col 1,15-20). Nhờ kết hợp với Chúa Kitô mà các tín hữu trở thành  chi thể của nhau (Rom 12,5), anh chị em cùa nhau (Rom 8,29). Sự hiệp thông là điều cốt yếu của Hội Thánh Công Giáo: Tôi tin có Hội Thánh hằng có ở khắp thế nầy, các Thánh thông công  (Kinh Tin Kính của các Tông Đồ).

Karl Rahner đã viết: "Sự thánh thiện là tham dự vào sự kết hợp mật thiết giữa Chúa Cha và Chúa Con, trong Chúa Thánh Thần". Chúng ta thường bắt đầu giờ kinh  bằng cách hướng về Chúa Thánh Thần: xin ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần. Rồi kết thúc bằng sự trông cậy vào công nghiệp Đức Chúa Giêsu Kitô .

Được mời  gọi  "ở với Chúa".

Thiên Chúa muốn gần gũi con người, nên đã ban Con Một của Chúa làm Người, Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta, đặt biệt trong Phép Thánh Thể. Thế nhưng xem ra thời đại của văn minh vật chất nầy, với những phát minh hiện đại, hấp dẫn hơn tôn giáo. Cuộc khủng hoảng đức tin là hậu quả của lòng tham muốn tiện nghi vật chất quá đáng, không còn cầu nguyện, không còn kinh lễ, xem chừng như Chúa vắng mặt, hoặc Thiên Chúa đã chết.

Chẳng lạ gì khi Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nhắc lại lời mời gọi của Chúa Cứu Thế  và thái độ đáp trả của các môn đo đầu tiên. Đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu: "Hãy đến mà xem".  Họ đã "đến xem nơi Người ở và ở lại với Người" (Ga 1, 39; xem Thư chung ngày 07.10.2011).

Chúa Giêsu là lẽ sống duy nhất của đời sống chúng ta: Mihi vivere Christus est (Phil 1,21).

"Cầu nguyện kiên trì, bền bỉ, hằng ngày là điều số một. Ở đây tôi không nói về Phụng vụ Thánh Lễ hay các Giờ Kinh Phụng Vụ, nhưng về cầu nguyện thinh lặng, cá nhân, riêng tư, những thời khắc mỗi ngày thinh lặng hiệp thông với Chúa, ý thức về sự hiện diện của Người, đón nhận tình yêu của Người, và đáp trả tình yêu ấy bằng lời chúc tụng, cầu xin và cảm tạ" (ĐHY Timothy Dolan).

"Hằng ngày hãy dành đôi lúc nhắm mắt lại trước những gì thuộc về giác quan, bịt tai trước những tiếng ồn ào của thế gian, để đi vào trong chính bạn. Ở đó, trong sự thánh thiện của linh hồn sạch tội, đền thờ của Chúa Thánh Thần, hãy nói: Lạy Chúa Thánh Thần, Bạn thân thiết của hồn con, con thờ lạy Ngài. Xin soi sáng con, hướng dẫn con,thêm sức cho con, an ủi con. Xin giúp con biết thánh ý Ngài" (ĐHY Mercier).

Được như vậy, đời bạn sẽ thanh thản, ngay cả giữa những thử thách.

Tùng phục Chúa Thánh Thần là bí quyết của sự thánh thiện.

+ Tôma Nguyện Văn Tân
          Giám Mục của Anh Chị Em

THƯ MỤC VỤ

CHỦ ĐỀ:CHIỀU KÍCH NỘI TÂM CỦA CÁC VIỆC ĐẠO ĐỨC

Chúa Giêsu đã gọi các tông đồ trước hết để các ông "ở với Chúa" rồi mới sai các ông đi rao giảng (x. Mc 3,14). Phải ở với Chúa, lắng nghe Lời Chúa, chiêm ngắm cách sống của Chúa, mang lấy tâm tư của Chúa, rồi mới có thể rao giảng Lời Chúa cho người khác. Chúng ta cũng vậy. Ước gì trong suốt năm Phụng vụ 2012, mọi thành phần Dân Chúa tại Việt Nam đều tập trung vào việc "ở với Chúa" qua cử hành Thánh Thể, qua lắng nghe Lời Chúa, để mang trong lòng mình những tâm tư của Chúa, tâm tư hiền lành và khiêm nhường, thương xót và tha thứ, dấn thân và phục vụ. Nhờ đó, trong tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể trở nên những người có lòng nhân từ như Cha chúng ta ở trên trời (x. Lc 6,36), và nên khí cụ bình an, xây đắp tình thương và sự sống trên quê hương Việt nam (Thư Chung HĐGMVN 2012, số 5).

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

Trên tờ Records của giáo phận Perth, Australia, có đăng lời tâm sự của một cựu linh mục, một nhà thần học sau gần 20 năm trong thiên chức linh mục, nay đã hoàn tục. Bài tâm sự này là một lời cảnh báo cho tất cả chúng ta không nuôi dưỡng đời sống cầu nguyện hằng ngày.

"Không có gì tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa, trong Đức Kitô. Tôi xác quyết rằng dù sống hay dù chết, dù tù đày, bắt bớ, dù khốn cùng, quẫn bách. Không có gì tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa, trong Đức Kitô".

Tôi đã nhiều lần gân cổ, mặt đanh lại khi hát những câu hát trên. Cứ tưởng như là chỉ cần gào to lên như vậy thì tôi sẽ đời đời sống trong lòng mến của Thiên Chúa. Thật ra, cũng không hoàn toàn là vô lý. Thật sự, đúng là tù đày, bắt bớ, khốn cùng, quẫn bách đã không tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa. Nhưng, đơn giản là vì những thứ ấy không xảy ra trên đất nước này. Ai dám bỏ tù tôi, ai dám kỳ thị tôi, ngược đãi tôi vì tôi là người Công giáo, tôi kiện lên họ tới Tối Cao Pháp Viện chứ chơi à.

Tuy nhiên, đã có một thứ nhẹ nhàng hơn, êm ái hơn đã không chỉ tách tôi mà thực sự là "bứng" tôi hoàn toàn khỏi lòng mến của Thiên Chúa: một đời sống bận rộn và thiếu sự cầu nguyện.

Năm 1972, sau khi tốt nghiệp tiến sĩ thần học ở Rôma, tôi đã nổi như cồn với tác phẩm đầu tay "Tiếng thở dài". Cuốn sách trình bày những suy tư thần học về ý nghĩa của sự đau khổ trong kiếp nhân sinh này, đã được bề trên, các linh mục và anh chị em giáo dân đón nhận nhiệt liệt. Có những người viết thư cho tôi cho biết họ tìm lại được đức tin sau khi đọc cuốn sách đó. Họ tìm lại được lòng trông cậy vào Chúa và khen nức nở các ý kiến của tôi. Mỗi khi có chuyện không như ý, theo lời khuyên trong cuốn sách, họ cầu nguyện với Chúa: "Lạy Chúa, con biết Chúa hằng yêu thương con. Con phó thác mọi sự trong tay Chúa. Nhưng, lạy Chúa, qua chuyện không vui này, Chúa muốn nói với con điều gì ? ".

Khốn nạn thân tôi, trong khi khuyên người ta cầu nguyện, tôi càng ngày càng ít dành thời gian cho việc cầu nguyện. Tôi miệt mài trong các thư viện, cố viết hay hơn nữa, nhiều hơn nữa. Tôi tưởng tôi đã gặp được Chúa trong những suy tư thần học, cho nên tôi xao lãng đời sống cầu nguyện, tôi đã không thực hành chính những điều tôi nói và viết hằng ngày trên bục giảng và trong các tác phẩm của tôi. Có lẽ, tôi đã cho rằng cầu nguyện chỉ là hình thức cấp thấp dành cho những người bình dân. Siêu đẳng như tôi thì không cần. Càng ngày tôi cũng càng ít  có giờ cho giáo dân và càng ngày tôi càng bướng bỉnh và kiêu căng với các đấng bề trên. Chuyện gì đến cũng đã đến. Tôi không muốn sa vào những phân tích vụn vặt. Điều tôi muốn nói với các bạn sau nhiều năm suy tư, sau những đêm dài không ngủ và trong sự hối tiếc chân thành của tôi là sự thật đơn giản này: Những hiểu biết sâu hơn về Thiên Chúa, nhiều hơn về Thiên Chúa không giúp giữ tôi trong lòng mến của Ngài. Chính đời sống cầu nguyện đơn sơ mà mẹ tôi tập cho tôi từ ngày còn bé mới giữ tôi lại trong tình yêu thương của Thiên Chúa.

Chẳng vậy, mà trong Phúc âm biết bao nhiêu lần chúng ta gặp câu này: "Sau đó, Người lui vào một nơi thanh vắng mà cầu nguyện". Chính Chúa Con mỗi ngày còn cần đến sự cầu nguyện ở nơi thanh vắng để hiểu được ý Chúa Cha. Chúng ta là ai, tư cách gì, mà đòi có thể biết được ý Chúa qua trí khôn, qua sự xét đoán nông cạn của mình trong cái náo nhiệt, bận rộn của cuộc sống quay cuồng chung quanh.

Chẳng vậy, tất cả các lần Đức Mẹ hiện ra, Mẹ đã không nói gì nhiều hơn là lặp lại tiếng kêu gọi khẩn cấp hãy cầu nguyện đó sao. Chúng ta cũng nhìn thấy điều này nơi các Thánh mà chúng ta hằng tôn kính. Chính sự cầu nguyện đã giúp các Ngài nên Thánh.

Tôi đặc biệt mong muốn lặp lại ở đây những điều Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 đã viết trong cuốn "Bước qua ngưỡng cửa hy vọng" :

"Việc cầu nguyện vừa là tìm tòi Thiên Chúa, vừa là mặc khải Thiên Chúa. Nơi việc cầu nguyện của ta, Thiên Chúa tỏ rỏ Ngài là Đấng Sáng Tạo và là Cha, là Đấng Cứu Chuộc và là Chúa Cứu Thế, là Thần Khí "dò thấu mọi sự, cả đến những gì sâu xa nhất của Thiên Chúa" (1 Cr 2, 10), cũng như dò thấu những gì bí mật của tâm hồn. Trong việc cầu nguyện, trước hết, Thiên Chúa tỏ ra Ngài là tình thương xót, nghĩa là một Tình yêu đi tới gặp con người đau khổ. Tình yêu này nâng đỡ, vực dậy và mời gọi chúng ta hãy tin tưởng".

Trên tất cả mọi sự, tôi nhận rõ rằng chính việc thiếu một đời sống cầu nguyện đã giết chết ơn gọi Linh mục trong tôi.
Đặng Tự Do

Nếu mọi người chúng ta chỉ biết làm việc cho Chúa,  mà không làm việc với Chúa, thì công việc, dù là làm cho Chúa cũng dần dà lôi cuốn chúng ta đến độ chúng ta quên Chúa lúc nào không hay, vì chúng ta không ở với Chúa (x. Ga 1,39).

Trong thực hành đạo đức có những thái độ thường gặp, nơi một số người, như sau:

Có những người không bao giờ đến nhà thờ đọc kinh,  cầu nguyện, dâng lễ, nhưng lại biện minh rằng họ chỉ cần giữ đạo tại tâm là đủ. Họ còn cho rằng Chúa  ở khắp mọi nơi, chỉ cần tin thờ Chúa trong lòng là đủ, đâu nhất thiết phải đến nhà thờ, vì ở đâu cũng có thể gặp Chúa.

Họ quên rằng "nhà thờ là một toà nhà thánh, dành riêng cho việc thờ phượng Thiên Chúa" (GL 1214), nơi có Chúa hiện diện thật sự qua Thánh Thể trong Nhà Tạm; đồng thời cũng là biểu hiện sự hiệp nhất cộng đồng, nơi quy tụ giáo dân trong Thân Thể Mầu Nhiệm của Đức Kitô, để cầu nguyện, thờ phượng, cảm tạ và xin ơn. Nhà thờ cũng là biểu tượng  sự tiếp nối truyền thống đức tin của tiền nhân với thế hệ hôm nay và mai sau.

Có những người khi thành công, khoẻ mạnh, vui vẻ, thì đến nhà thờ; khi thất bại, buồn phiền, hoặc không vừa ý với cha sở thì bỏ nhà thờ, thậm chí bỏ đạo đễ dàng. Họ hay nhanh chân chạy đến những nơi mà người ta cho là có hiện tượng lạ về đạo xảy ra, trong khi tại họ đạo nhà thì chẳng mấy khi dự lễ...Họ đòi Chúa làm phép lạ để họ tin.

Đây là lối giữ đạo hình thức, theo cảm tính, thực dụng, chưa trưởng thành về đức tin. Thích thì làm, không thì thôi. Có lợi thì giữ, khó khăn thì bỏ.  Khi gặp khó khăn, thử thách, họ dễ mất đức tin. Mối lối giữ đạo có điều kiện!

Lại có người cho rằng chỉ cần dự lễ Chúa nhật theo luật quy định, đọc kinh sớm tối, lần chuỗi hàng ngày đã là chu toàn bổn phận của người tín hữu, đủ để vào thiên đàng rồi, những bổn phận khác có cũng được, không cũng chẳng sao.

Chúa Giêsu dạy: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa! lạy Chúa  là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi" (Mt 7,21). Mà luật tối thượng Chúa dạy là yêu thương, bởi vì yêu thương thì chu toàn mọi lề luật.  Chúng ta vừa có bổn phận thực hành các việc đạo đức đối với Thiên Chúa, nhưng đồng thờ cũng phải sống bác ái phục vụ tha nhân. Tôn kính Thiên Chúa bằng việc dự lễ, đọc kinh là bổn phận phải làm, nhưng cần làm với "một trái tim mới" và một "Thần Khí mới" (x. Ed 18,31).

Việc giữ đạo với chiều sâu nội tâm đòi hỏi chúng ta trở về cái căn cơ cốt yếu của đời tín hữu là: mọi người được Thiên Chúa mời gọi nên thánh. Nhưng chỉ có Thiên Chúa là Đấng thánh tuyệt đối: "Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em, vì có lời Kinh Thánh chép: Hãy sống thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh" (1 Pr 1,15-16). Do đó, muốn nên thánh chúng ta phải gắn bó, tháp nhập  vào Chúa.

Mục đích đời đời của Thiên Chúa nơi Đức Kitô đối với chúng ta là chúng ta phải nên thánh. Thiên Chúa đã cứu độ chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần để làm cho chúng ta thành Dân Thánh của Ngài (x. 2 Tx 2:13; 1 Pr 1:2; Ep 5:25-27). Chúa Giêsu đã chết để chúng ta nên thánh. Do đó, tất cả cuộc đời và mọi hoạt động của người tín hữu mà trên hết các việc đạo đức (lãnh nhận các Bí Tích, nhất là Thánh lễ, việc đọc kinh sáng tối, sùng kính Đức mẹ và các thánh...) nhằm để đuợc Chúa thánh hoá, để ta được nên thánh,  tức là được sống kết hợp mật thiết với Chúa là Đấng thánh. Bởi vì sự thánh thiện trưởng thành là càng ngày càng nên giống Đức Kitô (x. 2 Cr 3,:18). Bổn phận của chúng ta là để cho Chúa Thánh Thần tác động và tiếp tục nên giống Ngài: "Hãy đến gần Thiên Chúa, Ngài sẽ đến gần anh em" (Gc 4,8).

Nếu thật lòng yêu mến Chúa Giêsu, chúng ta phải sống thành thiện. Nếu yêu mến Ngài, chúng ta sẽ muốn nên giống Ngài Nếu yêu mến Ngài, chúng ta sẽ vâng lời Ngài (x.Ga 14:23-24).  Chúa Kitô luôn sống vâng lời Chúa Cha và không hề phạm tội.

Tất cả các việc đạo đức đều quy về một mối là sống tâm tình cầu nguyện để được hiệp thông với Chúa. Cầu nguyện chính là ở với Chúa Giêsu, là yêu mến Chúa Giêsu. Cầu nguyện là cách tốt nhất để chúng ta giữ mối liên thông với Thiên Chúa, Đấng là nguồn mạch sức sống của chúng ta. Trong cầu nguyện, chúng ta nhận được sức mạnh từ Thiên Chúa. Chính Chúa Giê-su khi còn tại thế, dù luôn sinh hoạt trước mặt Chúa Cha, vẫn thấy cần có những giây phút dành riêng để ở với Cha. Nếu Chúa Giê-su còn cần những giây phút dành riêng để ở với Cha thì chúng ta còn cần hơn nữa. Chọn ở với Chúa, chọn lắng nghe lời Chúa, chọn làm môn đệ Chúa là chọn phần tốt nhất.

Được ở trong tay Chúa, được "ở với Chúa", được Chúa cư ngụ trong tâm hồn, đó là mục đích của cuộc sống đức tin mà người kitô hữu phải không ngừng theo đuổi. Đó cũng là điều mà  Chúa Giêsu khi kêu gọi các nôn đệ đầu tiên đã bảo họ trước tiên là đến và ở với Ngài (x. Ga 1,39).

Cầu nguyện là để thắt chặt mối thân tình với Thiên Chúa, để học hỏi nơi Chúa và sống với Chúa. Bởi vì chúng ta có thể làm việc cho Chúa, hy sinh cho Chúa, nhưng nếu không làm việc, không sống với Chúa, chúng ta chỉ tìm kiếm chính mình. "Lời cầu nguyện của chúng ta có thể thật sự là vô thần, nghĩa là cầu nguyện mà không có Thiên Chúa. Vô thần khi chúng ta cầu nguyện chỉ nhắm đến việc tìm kiếm những gì ta cần, thay vì phải tìm kiếm Thiên Chúa và ý muốn của Người. Nếu cầu nguyện chỉ là cầu xin, chỉ nhắm đến những nhu cầu, thì lối cầu nguyện này là vô thần, vì nó không tìm kiếm Thiên Chúa mà chỉ để cầu xin những ơn của Ngài mà thôi!" (Cha Slavko Barbaric (1946-2000 , dòng Phanxicô, linh hướng Mễ Du).

Nhờ mối thâm tình gần gũi với Chúa qua cầu nguyện, chúng ta dần dà biến đỗi trở nên giống Chúa, qua việc yêu mến và tuân giữ các giới răn của Chúa nghĩa là sống theo Ngài, sống với Ngài, sống bằng chính sức sống của Ngài. Chúng ta làm lan toả sự hiện diện của Thiên Chúa nơi những người chung quanh, lôi kéo họ đến với Chúa. Đó cũng chính là đòi hỏi của đức tin.

Có Chúa hiện diện sống động trong tâm hồn mọi nơi mọi lúc, tất cả cuộc sống của chúng ta trở thành lễ tế thờ phượng, không chỉ giới hạn trong nhà thờ hay trong những sinh hoạt tôn giáo, mà qua cả những việc chu toàn nhiệm vụ thường ngày trong bổn  phận mình.

Đời sống cầu nguyện, biến những việc đạo đức của chúng ta mang chiều kích nội tâm; đồng thời đáp án được mối giằng co: thời giờ nào cho Chúa, thời giờ nào dành cho công việc. Bởi vì khi chu toàn bổn phẩn hàng ngày, dù là việc đạo đức hay công việc sinh hoạt thường ngày, tất cả đều được Chúa thánh hoá nếu ta sống thân tình nghĩa thiết với Chúa.

"Đời sống cầu nguyện hệ tại luôn luôn sống trước sự hiện diện của Thiên Chúa và ý thức về điều ấy, khi sống quan hệ với Thiên Chúa cũng như ta sống những quan hệ thông thường trong cuộc sống chúng ta, những quan hệ với những người thân yêu nhất trong gia đình, các bạn hữu chân thực; đúng hơn, quan hệ với Thiên Chúa là quan hệ mang lại ánh sáng cho mọi quan hệ khác của chúng ta. Cuộc sống hiệp thông như thế với Thiên Chúa duy nhất và Ba Ngôi là điều có thể, vì nhờ phép Rửa Tội, chúng ta được tháp nhập vào Chúa Kitô, chúng ta bắt đầu trở nên một với Ngài (x. Rm 6,5) (ĐTC Bênêđictô XVI, Huấn từ trong buổi tiếp kiến chung, ngày 3.10.2012).

LỜI NGUYỆN CHUNG

Kêu mời: Anh chị em thân mến,

Mọi hành vi nhân linh con người đều được thực hiện bởi một ý thức nội tâm. Chúng ta là những người Công Giáo, khi thực hiện các việc đạo đức, chúng ta luôn làm trong ý thức mặc định có ý nội tâm. Chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện:

1.     Chúa phán: "Dân này thờ kính Ta bằng môi miệng, nhưng lòng chúng lại xa ta". Chúng ta cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh, luôn cử hành các việc thờ phượng Thiên Chúa trong ý thức, với một nội tâm thiết tha.

2.     Chúa phán: "Khi con bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm". Chúng ta cầu nguyện cho các Kitô-hữu luôn thực hiện các việc đạo đức, việc từ thiện... với ý thức nội tâm sâu xa, hướng tới Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi bí ẩn.

3.     Chúa phán: "Khi con cầu nguyện, đừng lải nhải nhiều lời như dân ngoại". Chúng ta cầu nguyện cho các kitô-hữu năng suy niệm và học hiểu Lời Chúa, ghi nhớ những sự kiện ơn Chúa trong lòng, và thi hành thánh ý Chúa.

4.     Chúa phán: "Ai bị bách hại vì lẽ công chính, là phước thật, vì Nước trời là của họ". Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong họ đạo chúng ta, luôn sống đạo thật lòng, làm việc đạo đức với một ý thức nội tâm, hướng về giá trị đời sau.

Kết thúc: Lạy Chúa, Chúa muốn ban những giá trị Nước Trời cho những ai tin thật vào tình yêu Chúa. Xin ban Thánh Thần giúp chúng con sống đạo với ý thức thật lòng tin tưởng và kính mến Chúa trên hết mọi sự. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

ÂM THẦM LÀM VIỆC THIỆN

Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông đại chúng, con người trên thế giới dường như được lôi kéo đến gần nhau hơn thì các hình thức quảng cáo cũng đua nhau phát triển không kém. Người ta quảng cáo ở khắp mọi nơi: trên internet, trên báo chí, trên tivi, trên bandron, trên những vách tường nhà, trên các cột điện... và quảng cáo về mọi thứ: các dịch vụ, các phương tiện, các thể loại giải trí... và quảng cáo cả lòng tốt nữa. Người ta mượn những hình thức tương thân tương ái để đánh bóng bản thân, quảng cáo tên tuổi của mình, của công ty mình, đánh bóng thương hiệu, mượn các hành vi bác ái để được ca tụng khen tặng... Là người Kitô hữu khi thực hiện các hành vi đạo đức, bác ái ta thực hiện với mục đích nào và đâu là động lực để ta thực hiện các hành vi ấy.

Phải xác định rõ ràng rằng, các hành vi đạo đức rất cần thiết trong đời sống đức tin của các tín hữu, những việc làm đạo đức là những cách thế hữu hiệu thể hiện niềm tin của mình vào Thiên Chúa là Cha và yêu thương anh chị em đồng loại. Nói cách khác, sống tốt toàn bộ cuộc sống Kitô giáo và thực hành các điều răn của Thiên Chúa là diễn tả lòng mến của ta đối với Người một cách cụ thể thông qua các hành vi thực tế. Thánh Giacôbê nói: "Đức tin không việc làm là đức tin chết tận gốc rễ" (Gc 2, 14 - 16). Nhưng những việc làm đạo đức cần phải được thúc đẩy và thực hiện với ý muốn ngay lành và theo thánh ý Thiên Chúa. Vậy Chúa dạy phải thực hiện các việc đạo đức thế nào?

Khi còn tại thế rất nhiều lần Chúa Giêsu đã khiển trách những người Pharisêu về thái độ giả hình của họ, nhiều lần Chúa còn nặng lời với họ khi họ giữ luật Chúa và thực hiện các việc đạo đức nhằm phô trương bản thân mình. Trong Tin mừng theo thánh Mat thêu (Mt 6, 1 - 6. 16 - 18) được đọc trong ngày Thứ Tư Lễ Tro ta thấy được lời chỉ dẫn rất cụ thể của Chúa cho các việc đạo đức.

Trước hết, Chúa Giêsu không dạy các môn đệ là bỏ các việc đạo đức hay khinh chê nó mà Người bảo hãy thực hiện nó cách cụ thể là bố thí, ăn chay và cầu nguyện. Người bảo các môn đệ, các con đừng làm như bọn đạo đức giả, họ làm mong được người ta ca tụng, người ta ngưỡng mộ... còn người môn đệ của Chúa hãy làm một cách âm thầm khiêm tốn, hãy làm để "đừng cho tay trái biết việc tay phải làm".

Thứ đến, Chúa Giêsu dạy về phần thưởng dành cho những ai làm theo ý Chúa. "Họ đã được thưởng công rồi" những người đạo đức giả, những bọn giả hình đã được thưởng công bằng sự ngưỡng mộ của người khác, họ làm việc đạo đức mong được người ta khen thì họ đã được khen rồi, ngưỡng mộ rồi, họ tìm vinh quang trần thế thì vinh quang trần thế đã thưởng công cho họ. Còn người môn đệ của Chúa khi thực hiện các việc đạo đức vì yêu mến, tôn vinh và chúc tụng Chúa, khi "vì Chúa" thì sẽ gặp được Chúa.

Sau hết, Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải biết tin tưởng vào Chúa. Mặc dù "đừng để tay trái biết việc tay phải làm" hay "vào phòng đóng cửa lại", hoặc "xức dầu thơm không để ai biết"... Nhưng Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi bí ẩn sẽ nhìn thấy hết, thấy những việc nhỏ nhặt, thấy thấu tận tâm can, thấy trong lòng mỗi người. Tin tưởng vào Thiên Chúa người môn đệ Chúa sẽ mạnh dạn tiến bước trong đức tin, không tìm danh lợi cho bản thân, hay cho bất cứ điều gì ngoài việc là làm đẹp lòng Chúa.

Lạy Chúa, với những lời dạy của Chúa, xin Chúa cho chúng con biết không đi tìm lợi danh vì tất cả chỉ là nhất thời, là hữu hạn mà chỉ mong làm đẹp lòng Chúa mỗi ngày bằng những việc đạo đức cụ thể vì chỉ có Chúa là vĩnh cửu, là cứu cánh cho cuộc đời. Xin cho chúng con siêng năng làm việc thiện để diễn tả niềm tin vào Thiên Chúa qua đó giới thiệu Chúa cho những anh chị em chung quanh hầu mọi người được hưởng ơn cứu độ mà Chúa đã tặng ban.

HỌC KINH THÁNH

BÀI 22. CÁC THƯ MỤC VỤ (tt)

7/ Các thư mục vụ nói gì về việc tổ chức Hội thánh?

Các thư ấy đề cập tới cách thức tổ chức Hội thánh, đặc biệt về cơ cấu của giáo đoàn địa phương được cắt đặt như sau:

Trước hết là các vị Giám sự (sau nầy gọi là Giám mục) (1 Tim 3, 1-7; Tit 1, 5-9) được đặt tay để truyền chức (1Tim 5, 22; 2 Tim 1, 6), có nhiệm vụ cai quản, dạy dỗ và phân xử (1 Tim 3, 5; 5, 17-19). Kế đến là các vị niên trưởng (sau nầy gọi linh mục) được thiết lập trong mỗi thành (Tit 1, 5) có nhiệm vụ rao giảng và dạy dỗ (1 Tim 5, 17). Rồi các phụ tá (sau nầy gọi là phó tế) (1 Tim 3, 8-13). Cũng có cả "Nữ phụ tá" (1 Tim 3, 11). Các vị phụ tá chuyên lo những việc từ thiện trong cộng đoàn. Cuối cùng là các quả phụ, có vai trò phục vụ công ích trong cương vị của mình.

8/ Tác gải các thư mục vụ nói gì về việc truyền chức?

Ngài đã đề tới việc truyền chức như sau:

"Đừng vội đặt tay cho ai! Đừng thông với kẻ khác" (1Tim 5,22).

"Đừng bỏ lỡ ân lộc có nơi anh em, ơn được ban cho anh em nhờ ơn tiên tri khi các vị niên trưởng (Giám mục) đặt tay trên anh em" (1 Tim 4,14).

"Cha khuyên con hãy nhớ lại ơn huệ Thiên Chúa ban xuống trên con qua việc đặt tay của cha" (2 Tim 1,6).

9/ Thái độ của tác giả thư mục vụ thế nào đối với tuổi trẻ?

"Chớ để cho người nào khinh con vì còn tuổi trẻ, nhưng con hãy tỏ cho tín hữu noi gương trong lời nói cách ăn nết ở, trong lòng mến, đức tin và sự tinh khiết" (1 Tim 4, 12).

"Trong mọi sự hãy tỏ ra mình là gương mẫu về đức hạnh, tinh toàn và đoan trang tề chỉnh, giảng dạy lời lành mạnh, không ai bắt bẻ được..." (Tit 1, 7-8).

10/ Thánh Phaolô viết thư cho Titô nhằm mục đích gì?Phaolô viết "để đem những người được Thiên Chúa chọn tới đức tin và nhận ra chân lý" (1,1).

Cũng như ngài đã viết cho Timôthêô, ở đây Phaolô viết cho Titô để chỉ vẽ những tư cách của một người lãnh đạo Giáo hội phải có, bổn phận bảo vệ chân lý, chống lại những tà thuyết.

Lời Chúa:  "Cha khuyên con hãy nhớ lại ân huệ Thiên Chúa ban xuống trên con qua việc đặt tay của Cha" (II Tim 1, 6).

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, chúng con vẫn ước muốn sống thánh thiện, nhưng quả thật chúng con thiếu bản lãnh để quyết định chấp nhận cuộc thay đổi. Xin giúp chúng con mạnh dạn bước vào hành trình mới do Thánh Thần Chúa dẫn dắt, để chúng con thuộc về Chúa và luôn tìm ý Chúa thực hiện. Amen

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

LINH MỤC QUẢN XỨ THEO CỒNG ĐỒNG VAT.II VÀ BỘ GIÁO LUẬT MỚI (tt)

4. Bổn phận của Linh Mục Quản Xứ đối với Lời Chúa.

Linh mục quản xứ phải làm sao cho Lời Chúa được rao giảng toàn diện cho tất cả mọi hạng người trong giáo xứ, vì thế, ngài phải lo lắng cho giáo dân được dạy dỗ trong chân lý của đức tin, nhất là qua bài giảng ngày Chúa nhựt và Lễ buộc (homelia) và qua công việc dạy giáo lý thường xuyên hằng tuần của ngài. Giáo luật điều 528 dạy:

Cha sở buộc phải liệu sao để Lời Chúa được rao truyền cách toàn vẹn cho những người đang sinh sống trong giáo xứ, vì thế, ngài phải lo dạy giáo dân về các chân lý đức tin, nhất là qua bài giảng trong các ngài Chúa Nhật và các ngày lễ buộc, cũng như qua việc đào tạo giáo lý; ngài phải ủng hộ những công việc cổ động tinh thần Phúc Âm, cả những việc liên quan đến công bình xã hội; ngài phải quan tâm cách riêng tới việc giáo dục trẻ em và thanh thiếu niên; ngài phải cố gắng bằng mọi cách, với sự hợp tác của  Kitô hữu, để Tin Mừng cũng được loan báo cho những người không còn thực hành việc sống đạo nữa hoặc không tuyên xưng đức tin chân thật (đ.528§1). 

Trong điều luật 528,1 nầy, Bộ Giáo Luật nói đến bổn phận của linh mục quản xứ trong vấn đề dưỡng giáo (giảng Lời Chúa trong ngày Chúa nhựt và Lễ buộc; thường xuyên dạy giáo lý cho mọi hạng người trong giáo xứ) và trong vấn đề truyền giáo (tìm đủ cách để đem Lời Chúa đến cho những kẻ xa Chúa).

Dọn bài giảng ngày Chúa nhựt (homelia) là một công việc chiếm nhiều thời giờ của linh mục quản xứ trong tuần. Có người hỏi một cha sở kia: "Cha dọn bài giảng ngày Chúa nhựt khi nào? " - "Tôi dọn ngay trong buổi tối ngày Chúa nhựt, nghĩa là vừa giảng xong bài giảng ngày Chúa nhựt nầy, thì tôi dọn ngay bài giảng ngày Chúa nhựt sau."

Dạy giáo lý là công việc của linh mục quản xứ phải làm hằng ngày, hằng tuần, hằng tháng, hằng năm với mọi thành phần giáo dân trong giáo xứ. Đừng để một thành phần nào trong giáo xứ mà không được nghe linh mục quản xứ dạy giáo lý, nếu không nghe được hằng tuần, thì phải nghe được hằng tháng, hoặc hằng tam cá nguyệt hay lục cá nguyệt, như các thành phần trung niên, lão niên.

Đến Ars, thấy giáo dân không biết giáo lý, cha Vianê bắt tay ngay vào việc dạy giáo lý, đặc biệt là ngài dạy giáo lý cho toàn thể giáo xứ lúc 13giờ mỗi ngày Chúa nhựt, và ngài luôn trung thành với việc dạy giáo lý hằng tuần nầy trong suốt 27 năm.

Linh mục quản xứ đừng hoàn toàn phó mặc việc dạy giáo lý cho các tu sĩ, hoặc cho các giáo lý viên. Họ chỉ là những kẻ phụ giúp linh mục quản xứ trong việc dạy giáo lý. Linh mục quản xứ phải tự mình chủ động trong việc dạy giáo lý, phải kiểm soát gắt gao việc dạy giáo lý, phải đi thật sát và thật kiến hiệu trong việc dạy giáo lý cho giáo dân mình. Đây là vấn đề sống còn của Đức Tin, vấn đề sống còn của Giáo xứ, của Giáo phận và của Giáo Hội!

Linh mục quản xứ còn tìm đủ cách để đem Lời Chúa đến cho những ai chưa biết Chúa.

Năm 1939, tại Nữu-Ước, một tối kia, cha Hall nghe một cú điện thoại. Lạ thay, người đang nói với cha là một người mà cha chưa hề quen biết. Ông nói ông đang có chuyện buồn trong gia đình. Cho rằng ông nầy quay lầm số điện thoại, cha Hall định xin lỗi ông và gác máy. Bổng được ơn Chúa soi sáng, cha cầm chặt lấy Cây Thánh Giá trên bàn viết và dịu dàng nói tiếp: "Xin ông cứ vui lòng nói, tôi lắng nghe ông đây! " Sau một tiếng đồng hồ tâm sự, ông khóc nức nở và cám ơn cha rối rít. Và từ đó, bắt đầu một cuộc truyền giáo mới, truyền giáo bằng điện thoại. Mỗi tuần, cha Hall được gọi điện thoại đến ba ngàn lần. Cha được Giáo Quyền cho phép truyền giáo qua điện thoại để đem Lời Chúa đến cho bất kỳ ai cần được an ủi, giải sáng và hướng dẫn.

Và hiện nay, giữa thế giới bao la của tin học nầy, với  những phương tiện truyền thông rất hiện đại và đắc lực, linh mục quản xứ nào lại không say mê dạy giáo lý và tìm đủ cách để loan truyền Lời Chúa "cho đến tận cùng trái đất".

5. Bổn phận của Linh Mục Quản Xứ đối với ơn gọi linh mục

Công Đồng Vatican II và Bộ Giáo Luật mới kêu gọi tất cả cộng đoàn kitô-hữu phải ấp ủ và nuôi dưỡng các ơn gọi để có thể đáp ứng những nhu cầu cần thiết của thừa tác vụ thánh trong toàn thể Giáo-Hội. Theo Công Đồng Vatican II và Bộ Giáo Luật, đây là bổn phận đặc biệt của các gia đình công giáo, của các nhà giáo dục, và cách riêng, là bổn phận của các linh mục, nhất là các linh mục quản xứ (điều 233,1).

Chính gương tốt của linh mục trong cuộc đời tận hiến hy sinh của mình, gieo mầm ơn gọi.

Cuối Thế chiến thứ nhứt, trong một trường tiểu học ở Bỉ, giáo viên ra một đề bài: "Khi lớn lên, em sẽ làm gì? " Trong bài trả lời của mình, một em nhỏ viết: "Khi lớn lên, em muốn trở thành linh mục."

Muốn biết vì sao một em tiểu học còn nhỏ, lại có một ý tưởng lạ lùng như thế, giáo viên hỏi lý do. Em nhỏ đơn sơ cho biết: "Khi cha em đi lính, mẹ em ở nhà không có gì ăn. Một ngày kia, mẹ em, em và em em quá đói. Cha sở già đến thăm nhà em, mang tặng mấy ổ bánh mì. Nhờ đó, mẹ em, em và em em khỏi chết đói. Vậy khi lớn lên, em cũng muốn làm linh mục để mang bánh lại cho những ai đói."

Linh mục luôn thao thức về ơn gọi linh mục, nhưng linh mục không bao giờ ngã lòng về ơn gọi linh mục, vì đây là ơn Chúa gọi, chứ không phải là ơn người đời gọi, vì đây là ơn thiên triệu, chứ không phải là ơn nhân triệu. Chúa quan phòng ơn thiên triệu một cách rất diệu kỳ!

Năm 1852, cha Duffo ở New Orleans, Hoa Kỳ, đi vào tiệm bán đồ, gặp một thanh niên 17 tuổi đang đứng bán. Mua đồ xong, cha hỏi anh nầy một câu bất ngờ: "Anh muốn làm linh mục không?" - "Thưa cha, con biết làm sao được ? Con lo giúp việc đây suốt ngày. Con không rãnh được chút nào hết." - "Nhưng ban đêm, con đến, cha dạy cho.".

Thanh niên đó, sau nầy trở thành Linh mục, trở thành Giám Mục, trở thành Hồng Y Tổng Giám Mục Baltimore, với danh hiệu James Gibbons, được toàn thế giới biết tiếng.

Ơn Chúa gọi thật lạ lùng! Và hạnh phúc cho ai, trực tiếp hoặc gián tiếp, làm cho Giáo Hội có thêm một vài kẻ đi chinh phục linh hồn người ta!

Nguồn: http://tonggiaophanhue.net

SỐNG ĐẠO

Trời Sinh Trời Dưỡng, Sống Thác Nhờ Trời

Nói lên lời nầy cho thấy nhân loại đa số ít nhiều vẫn tin tưởng có trời sinh, trời dưỡng.

Không có trời sinh thì không có con người. Nhưng trời sinh ra con người để làm gì?

Chúng ta học trong Giáo lý: Chúa dựng nên con người để thờ phượng kính mến, để nên con người thiện hảo và để được hưởng hạnh phúc đời đời.

Đó là mục đích tối chung Chúa chỉ định cho chúng ta phải giữ!

Trước tiên phải nhìn nhận Chúa tuyệt đối. Tôn thờ Chúa nghĩa là nhìn nhận Chúa tuyệt đối, là Đấng cao siêu vô cùng, vì thế đòi ta phải sống thánh thiện như Chúa.

Sống theo ý Chúa hoàn toàn Chúa mới ban cho hưởng hạnh phúc chân thật.

TRANG LINH MỤC

ĐỜI SỐNG NỘI TÂM

Khi còn ngồi trên ghế nhà trường, tôi được các cha nhắc nhở: cần xây dựng cho mình một đời sống nội tâm vững mạnh, vì có đời sống nội tâm mình sẽ vượt qua được những thử thách và gặt hái được nhiều kết quả tốt đẹp mà Chúa sẽ ban cho. Tôi nghe biết vậy, nhưng chưa hiểu lắm! Càng ngày càng lớn lên, với những thành công thất bại trong đời linh mục tôi thấm thía hơn với lời khuyên năm xưa.  

Các nhà tu đức định nghĩa: Đời nội tâm là trạng thái sinh hoạt của linh hồn biết phản ứng để điều khiển các khuynh hướng tự nhiên, cố gắng tu luyện các tập quán phán đoán và điều khiển mọi hành vi theo ánh sáng Phúc Âm và gương mẫu Chúa Kytô. Như vậy để có đời sống nội tâm linh hồn cần rũ bỏ những gì ngược lại với đời sống siêu nhiên để quy hướng và sống hiệp nhất với Thiên Chúa.    

Để rũ bỏ được những gì ngược với đời sống siêu nhiên thật không dễ chút nào; nó đòi chúng ta phải chiến đấu, chiến đấu với chính mình, một cuộc chiến đấu nội tâm. Chiến đấu chống lại những khuynh hướng xấu: tính ích kỷ, ý muốn thống trị người khác, ý muốn giành quyền lợi riêng cho mình, chà đạp quyền lợi của người khác. v.v.. Thánh Phaolô đã cảm nhận được điều này: Điều tốt tôi muốn làm nhưng tôi lại không làm, còn điều xấu tôi không muốn làm nhưng cuối cùng tôi lại làm. Không những chiến đấu chống lại những khuynh hướng xấu, chúng ta luôn phải giằng co để chọn lựa giữa một bên là Chúa và một bên là công việc của Chúa. Không bao giờ được bỏ Chúa của hoạt động để tìm hoạt động của Chúa; và "Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Phúc Âm"(Cor,9,16). Chỉ khi nào chúng ta chấp nhận cuộc chiến đấu đó và chọn Chúa thì tâm hồn chúng ta mới có sự bình an nội tâm và nó được lan tỏa ra bên ngoài trong cuộc sống.  

Đời nội tâm sẽ thu hút người khác bằng gương sáng. Trong bài giảng trên núi, Chúa đã gọi các tông đồ là muối đất, là ánh sáng thế gian ( Mt 5,3 ). Vâng , chúng ta chỉ là muối đất, tùy theo mức độ thánh thiện mỗi người. Nếu muối lạt còn dùng vào việc gì? Chỉ còn việc đổ ra đường cho người ta chà đạp lên nó mà thôi.         

Chúng ta có thể nói rằng một bác sĩ có thể chữa lành người khác khi ông đau yếu. Nhưng để chữa bệnh phần hồn, chính linh mục phải có linh hồn lành mạnh trước đã. Giáo dân có quyền đòi hỏi các linh mục phải cải thiện mình trước đã. Và giáo dân sẽ chỉ tín nhiệm các linh mục khi hành động của ngài ăn khớp với những gì ngài rao giảng.

Lời linh mục giảng về sự cầu nguyện sẽ thuyết phục biết bao khi giáo dân thấy ngài thường xuyên quỳ bên Chúa Giêsu Thánh Thể! Lời của ngài giảng về sự hy sinh sẽ được tuân theo nếu ngài cũng chuyên cần làm việc và hãm mình! Là người biện hộ cho tình bác ái huynh đệ, ngài sẽ thu hút được nhiều linh hồn,nếu ngài cũng tỏa hương thơm hiền lành khiêm tốn của Chúa Giêsu trong cung cách ứng xử của mình.  Điều quan trọng không phải là linh mục làm những gì cho bằng linh mục phải là người như thế nào.     

Thánh Gioan Tẩy Giả không làm phép lạ nào mà cũng lôi kéo được quần chúng. Tiếng nói của Thánh Gioan Vianney nhỏ quá, khiến đám đông không nghe được. Nhưng họ có thể nhìn xem con người"mang Thiên Chúa", và chỉ nhìn thấy ngài cũng đủ chinh phục và cải thiện họ rồi. Một trạng sư khi được hỏi diều gì lảm ông cảm động nhất khi đến Ars, ông chỉ đáp: "Tôi đã thấy Thiên Chúa hiện thân nơi một con người".  
Ước mong chúng ta khắc ghi chân lý này: "Công việc tông đồ chỉ hiệu nghiệm tùy đời sống nội tâm siêu nhiên của họ, đời sống có Chúa là nguyên ủy, Chúa Giêsu là nguồn mạch".

TRANG TU SĨ

CÙNG SỐNG VỚI NGƯỜI

Trong đời sống người công giáo có hai hình thái cũng là hai lĩnh vực biểu lộ lòng tin và phụng thờ Thiên Chúa: Phụng Vụ Thánh và các việc Đạo Đức. Cả hai hình thái trên đều quan trọng và cần thiết. Theo Hiến Chế Phụng Vụ Thánh số 7: " Mọi việc cử hành phụng vụ đều là hành vi chí thánh và không một hành vi nào khác của Giáo Hội có hiệu lực bằng, xét cả về danh hiệu lẫn đẳng cấp". Phụng vụ Thánh bao gồm việc cử hành Bí tích Thánh Thể, các Bí tích, các Á Bí tích và các cử hành khác của Giáo Hội. Tuy nhiên "đời sống không chỉ giới hạn trong việc tham dự phụng vụ thánh. Bởi vì người Kitô hữu được mời gọi cầu nguyện chung, nhưng cũng phải vào phòng riêng âm thầm cầu nguyện cùng Chúa Cha" (Hiến Chế Phụng Vụ Thánh số 12). Những hình thức cầu nguyện riêng đó được gọi là việc đạo đức.

Lòng đạo đức được diễn tả qua nhiều hình thức đa dạng và biến đổi hoặc nẩy sinh thêm tùy theo suy tư thần học hay hoàn cảnh chính trị - xã hội của từng thời đại nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống thiêng liêng của người tín hữu: Đàng Thánh Giá, Kinh Truyền Tin, Kinh Mân Côi, Kinh cầu nguyện sớm tối, v.v... đã nuôi dưỡng và củng cố đời sống đức tin của bao thế hệ. Những việc đạo đức ấy thật đáng trân trọng và cần bảo tồn cũng như phát huy. Hẳn nhiên, lòng đạo đức cũng có những giới hạn,  dễ bị xâm nhập bởi những méo mó về tôn giáo và mê tín dị đoan. Thường nó dừng lại ở mức độ phụng tự bên ngoài mà không phải phát xuất từ lòng tin thật sự. Nhưng nếu được hướng dẫn cách đúng đắn, nó sẽ nói lên được sự khao khát Thiên Chúa cách mãnh liệt, lòng tin tưởng tuyệt đối nơi tình thương - sự hiện diện liên lỉ và quan phòng của Chúa trong mọi biến cố của cuộc đời. Từ đó làm cho người ta thêm mộ mến đạo, sống quảng đại hy sinh và rộng mở với tha nhân. 

Giáo Hội Việt Nam qua những lần cấm cách bắt đạo, khi các Nhà Thờ, Nhà Xứ, và Tu viện bị triệt hạ, thì chính những việc đạo đức nầy đã giúp cho Giáo dân duy trì lòng tin của mình, nhất là nhờ việc lần chuỗi Mân Côi người Giáo dân đã có thể suy gẫm về cuộc đời Chúa Giêsu và Mẹ Maria để hiểu biết và gắn bó mật thiết với Chúa và Mẹ hơn.

Nhìn vào đời sống của các Dì lớn tuổi trong Hội Dòng, cuộc sống thật bình lặng - an lành nhưng luôn tràn đầy sức sống của tình hiệp thông huynh đệ. Sau những năm tháng phục vụ nơi các Họ Đạo, giờ đây ở tuổi xế chiều, các Dì dành trọn thời gian còn lại cho Chúa, sống kết hợp với Người bằng đời sống âm thầm cầu nguyện. Trong nhà nguyện của Hội Dòng không lúc nào vắng bóng những chiếc áo dòng quỳ chầu Thánh Thể Chúa. Cộng với những hy sinh bác ái nho nhỏ với lời nguyện tắt: "Giêsu - Maria - Giuse, con mến yêu. Xin cứu rỗi các linh hồn" hoặc là "Cùng Mẹ Maria và Thần Linh Chúa Giêsu, con xin dâng việc này để yêu mến Chúa và cứu rỗi các linh hồn"...v.v. Với dáng đi xiêu vẹo của tuổi già nhưng các Dì luôn là những cổ thụ vững chắc, là gương sáng cho lớp trẻ noi theo nhờ đời sống gắn bó với Chúa. Có lần tôi hỏi một Dì lớn tuổi: "Bà Chín có sợ chết không?". Dì ôn tồn đáp: "Có gì mà sợ, chết là được về với Chúa mà con". Nhìn ánh mắt sáng ngời ánh lên niềm tin tưởng thì tôi hiểu rằng quý Dì đang rất sẵn sàng để được Chúa gọi về, vì các Dì đã đạt đến mức kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô và đang sống trong tình yêu Người.

Đối với người tu sĩ, đời sống đạo đức thiêng liêng được thể hiện qua chiều kích chiêm niệm trong việc lắng nghe và suy niệm Lời Chúa; trong sự hiệp thông vào sức sống thần linh được trao ban bởi các Bí tích, và cách đặc biệt bởi Thánh Thể; trong kinh nguyện phụng vụ và cá nhân; trong sự kiên trì khao khát và tìm kiếm Thiên Chúa  cũng như thấy Ngài nơi các biến cố và con người; trong việc dự phần cách ý thức vào sứ mệnh cứu thế của Ngài; trong sự hiến thân cho kẻ khác để Nước Chúa đến. Từ đó nảy sinh nơi tu sĩ một thái độ tôn thờ khiêm tốn và liên tục trước sự hiện diện nhiệm mầu của Thiên Chúa nơi con người, biến cố, sự vật; một thái độ biểu lộ nhân đức sùng hiếu, nguồn mạch nội tâm của an bình và mang bình an tới mọi môi trường của cuộc sống và của hoạt  động tông đồ.

Vì thế để được "cùng sống với Chúa Giêsu" đời sống Phụng vụ và Đạo đức của người Công Giáo phải hòa quyện với nhau, điều này cũng giúp cho sự giữ vững Đức tin cũng như việc làm chứng nhân cho Tin Mừng ngày càng hữu hiệu hơn.

MTG Cái Nhum

ĐƠN THƯỜNG NHƯNG VĨ ĐẠI

Đọc quyển sách "Một Tâm Hồn" của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, ta thấy đời sống nội tâm của Ngài thật tuyệt vời. Không phải những điều đó xa lạ gì với chúng ta hôm nay, nhưng Thánh nữ biết tận dụng một cách phong phú và đầy thánh thiện. Chính đời sống nội tâm làm cho Ngài ý thức thay đổi chính mình, thúc bách Ngài sốt sắng thi hành những việc làm đạo đức. Ngài đã làm tất cả vì lòng yêu mến Chúa Giêsu, biến tất cả những hy sinh đau khổ thành lời ca tụng Chúa, giúp Ngài biết nhìn lại mình và điều chỉnh bản thân. Qua đó, Thánh nữ đã cảm nhận chính Chúa Giêsu làm cho Ngài được hạnh phúc.

Từ gương sáng của các vị thánh nhân, nhất là đời sống đạo đức của các ngài, đã đánh động nhiều tâm hồn biết sống thánh thiện đạo đức hơn trong cuộc sống đạo của mình.  Câu chuyện có thật dưới đây đã nói lên điều đó:

Một hôm, tôi cùng với các em ca đoàn đi thăm bệnh nhân trong họ đạo. Khi đi ngang qua cánh đồng mênh mông, xa xa nghe tiếng cười reo của trẻ em, chúng tôi bước gần tới thấy căn nhà đơn sơ nhưng rộng rải mát mẻ. Tôi chưa kịp nhận ra nhà của ai, thì...a... chị Ba (bán cám). Vừa thấy tôi chị chạy ra:

- Ủa! Dì Tư đi đâu vậy? Rồi nắm tay tôi mời vô nhà uống nước.

- Dạ em và các em ca đoàn đi thăm bà Bảy gần đây nè, nghe bà Bảy bệnh nặng lắm!

- À, sáng này con có đi thăm nhưng thấy bà khá hơn rồi.

- Chị Ba, nhà chị có giữ trẻ hay sao mà đông vậy?

- Không phải đâu Dì ơi, đây là mấy em nhỏ nghèo ở trong xóm "Gò" mình nè. Chúng nó chẳng có đạo, mỗi ngày đi học về, ghé đây chừng 7, 8 đứa, con cho nó một bữa cơm trưa. Thấy nhà cha mẹ các em khổ lắm, trưa đi học về, trời khi nắng khi mưa, bụng đói lại nhà xa, con nghĩ ra làm một việc bác ái nhỏ cho các cháu vậy thôi. Ăn xong chúng nó vui chơi một chút thì đi về nhà.

- Chị làm như vậy lâu chưa?

- Dạ, khoảng 8 tháng nay.

- Một bữa ăn cũng tốn kém lắm hả Chị?

- Dạ! Nhưng con bán cám dành dụm được chút ít. Ông xã con cũng ủng hộ con trong việc nầy. Cực hơn một chút mà con thấy cuộc đời vui và có ý nghĩa hơn. Gia đình con cảm thấy hạnh phúc hơn, các con của con cũng vui, chúng nó đi học xa nhưng gọi điện hỏi thăm công việc con hoài hà.

Thăm hỏi Chị Ba đôi điều thì tôi chào chị và đi thăm Bà Bảy. Trên đường về, hình ảnh Chị Ba và đàn trẻ nhỏ làm tôi nhớ lại, cách đây vài tháng Chị là một Tân tòng, Chị theo chồng giữ đạo Công Giáo, các bạn của Chị có đạo, hay tin Chị sắp được Rửa Tội, họ tặng Chị rất nhiều quà, trong đó có quyển sách "Tiểu Sử của Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu." Chị Ba đọc xong tới gặp tôi, cứ tắm tắc khen và phục gương Thánh Nữ Têrêsa.

Trước đây tuy Chị Ba chưa theo đạo, nhưng Chị sống tốt với mọi người, hiếu thảo với cha mẹ, chồng Chị và các con rất quý Chị. Bà con trong xóm cũng thầm khen chị là người phụ nữ nhân hậu và đảm đang.  Sau này, khi đã được rửa tội, Chị bắt đầu tham gia những công tác trong họ đạo.  Mỗi ngày Chị thường đi tới nhà thờ sớm, âm thầm quét dọn lau chùi trong nhà thờ trước khi Thánh lễ bắt đầu. Chị là người giáo dân mà tôi rất cảm mến, nay nhìn thấy công việc Chị làm tôi thêm lòng quý phục Chị nhiều hơn nữa.

Đời sống nội tâm của Thánh Nữ Têrêsa đã làm thăng hoa đời sống đạo đức của Chị Ba trong câu chuyện trên đây. Tuy việc làm rất giản đơn, nhưng nếu không tập luyện và học hỏi theo gương Chúa Giêsu và các Thánh thì chúng ta khó làm được. Những việc xem ra nhỏ bé, đơn thường đó rất cần cho mỗi người chúng ta, tạo cho ta có được chiều sâu thiêng liêng, giúp ta sống gần Chúa hơn. Và từ đó, ta biết sống yêu thương, nhân hậu, cảm thông và phục vụ vô vị lợi.

Người sống nội tâm là người có đời sống đạo đức thật sự, là một người luôn ý thức có Chúa ngự trong tâm hồn. Chính khi chúng ta thực hành những công việc đạo đức một cách nghiêm túc với ý hướng ngay lành, mọi người sẽ nhìn thấy Chúa trong chúng ta.  Khi đó, chúng ta đang họa lại hình ảnh của một Thiên Chúa toàn yêu - toàn thiện - toàn mỹ. 

MTG Cái Mơn

TRANG SỐNG ƠN GỌI

Làm thế nào để phân định tiếng gọi của Chúa ?

Chủng sinh hay tập sinh là những người hoàn toàn tự do! Để có thể lắng nghe tiếng Chúa gọi, đây là một vài ý tưởng ngắn gọn chuẩn bị cho bước ngoặt quan trọng, trước hết :

1. Cần phải siêng năng lãnh nhận các Bí tích một cách đều đặn và trung thành (siêng năng lãnh nhận Bí tích Thánh Thể hàng ngày nếu có thể được và xưng tội hàng tháng). Việc lãnh nhận các Bí tích chứng tỏ rằng cuộc sống của Thiên Chúa ở trong chúng ta : đó là suối nguồn tràn đầy Ân sủng của Chúa cho phép chúng ta vượt qua những thử thách trong khi lựa chọn ơn Thiên triệu.

2. Cầu nguyện: cần phải cầu nguyện cá nhân hàng ngày. Hãy dành thời gian để chầu Thánh Thể đều đặn : đó là nơi bạn có thể gặp gỡ Thiên Chúa! Bạn nên gặp gỡ thân mật và cá nhân với Chúa Giêsu Kitô và khám phá ra tình yêu vô biên của Ngài. Thiên Chúa là một Người Bạn đích thực luôn đồng hành với mỗi chúng ta.

3. Đồng hành thiêng liêng rất cần thiết và thường xuyên ( cần tạo sự tin tưởng với người đồng hành. Nên yêu cầu rõ ràng đường thiêng liêng với người hướng dẫn : quá trình cầu nguyện, tự do cá nhân về điều này hay điều khác...). Ngoài ra, người đồng hành sẽ giúp bạn khám phá ra tác động của Thiên Chúa trong cuộc sống của bạn từ thời thơ ấu.

4. Đọc sách: cần phải siêng năng đọc Lời Chúa, gương các Thánh, sách Công Vụ Tông Đồ ... Thiên Chúa cũng nói với chúng ta qua Lời của Ngài và Tin Mừng nuôi dưỡng tình yêu của chúng ta đối với Ngài.

5. Đào tạo: Bước này không cần thiết trong thời gian đầu. Nhưng việc gặp gỡ Đức Kitô như Một Người Bạn sẽ mang lại cho chúng ta sự khao khát hiểu biết về tri thức. Nhận biết Chúa Kitô giúp chúng ta yêu mến Người nhiều hơn. Càng yêu mến Người chúng ta càng bắt chước Người và loan báo về Người!

6. Cam kết trong Giáo Hội. Tình yêu của Giáo Hội được thể hiện qua việc phục vụ vô điều kiện,  hướng về tha nhân, bằng những việc hy sinh như (tình nguyện viện, bác ái xã hội, phụng vụ, tổ chức các nhóm cầu nguyện, hành hương, tham gia Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới, phục vụ trong các giáo xứ...)

7. Làm chủ cuộc sống. Tập sống trưởng thành nhân bản và trưởng thành thiêng liêng. Biết kiểm soát cuộc sống và sư tự do của mình liên quan đến công việc, gia đình, bạn bè ... và thành kiến của mọi người!

8. Tĩnh tâm. Nên tĩnh tâm trong thời gian dài ( cuối tuần không đủ, một tuần sẽ tốt hơn). Tích cực tham dự các khóa Linh Thao của Thánh Ignatio de Loyola. Tìm kiếm sự thinh lặng, khởi hành từ "sa mạc" phụ trội để lắng nghe điều mà Thiên Chúa nói trong tâm hồn bạn. Cần phải biết tiến lui theo nhịp sống bất thường của cuộc sống đô thị.

9. Trợ giúp phụ: Nên tham gia vào các lớp ơn gọi thuộc thẩm quyền của giáo phận, tham dự các buổi tối cầu nguyện cho ơn gọi, các cuộc hành hương hoặc các bước tìm hiểu ơn gọi. Tích cực tham dự tuầnTam Nhật Vượt Qua hoặc thử nghiệm sống vài ngày trong Chủng viện hay trong Dòng tu... Thiên Chúa thường ban bình an ở những nơi đó và Người luôn chờ, gọi mỗi người chúng ta.

10. Một vài cạm bẫy :

Sợ không xứng đáng hoặc không có khả năng! Bạn cứ yên tâm vì tất cả chúng ta đều là những người tội lỗi ... Thiên Chúa biết rõ chúng ta nhất và Ngài sẽ ban cho chúng ta tất cả mọi điều cần thiết cho sứ mạng mà Ngài muốn trao phó cho chúng ta.

Đừng chờ một dấu hiệu hay sự xác nhận rõ ràng từ Thiên Chúa! Không, Thiên Chúa luôn để cho con cái của Ngài hoàn toàn tự do ... Không ai có thể cản trở sự tự do của chúng ta! Chúng ta phải tìm kiếm từ tận đáy lòng chương trình Tình Yêu mà Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta. Người luôn bao phủ chúng ta trong niềm vui.

Kiêu căng! Đó là thái độ loại trừ Thiên Chúa. Thay vào đó, bạn hãy làm tất cả cho một mình Thiên, hãy khiên tốn để nhận ra những yếu điểm của bản thân. Sau cùng, hãy để Thiên Chúa hướng dẫn cuộc đời bạn.

Sr Maria Thiệu Chuyên chuyển ngữ từ "Comment discerner l'appel de Dieu sur ma vie? " .

Nguồn: catholique.org

TRANG THIẾU NHI

Dạy trẻ em cầu nguyện cho người quá cố

Ngày 25/6/1867, Don Bosco kể cho trẻ em giấc mơ sau đây:

"Chiều kia, trước khi đi ngủ, cha đang suy nghĩ về việc sau khi chết các Linh Hồn sẽ tồn tại thế nào, cha ngủ thiếp đi. Bỗng nhiên một người xuất hiện trên đường, đứng lại gọi: "Xin cha đến coi linh hồn hữu thể thế nào sau khi chết".

Nhanh như chớp, người đó và cha đến trước một lâu đài lớn. Qua các hành lang và cầu thang, cha đi từ phòng này sang phòng khác cho đến khi tới một phòng khách rộng lớn. Cha thấy một Giám Mục ngồi trên ghế bành, đang tiếp khách. Cha tiến lại gần để chào và nhận ra ngài: đó là Đức Cha... (Don Bosco nêu tên ngài) đã chết hai năm trước. Diện mạo ngài rạng rỡ và xinh đẹp.

Cuộc nói chuyện bắt đầu. Đức Giám Mục cho cha biết là ngài đã được cứu rỗi, nhưng chưa được xem thấy Chúa, do đó ngài cần được người ta cầu nguyện cho. Cha hỏi ngài:

-   Kính thưa Đức Cha, Đức Cha còn phải chờ bao lâu mới được lên Thiên Đàng?

-  Ngài không trả lời, nhưng đưa cho cha một tờ giấy được trang hoàng bằng những bông hoa xanh, đỏ, tím. Cha không đọc thấy một chữ nào trên đó. Cha ngạc nhiên nhìn vị Giám Mục. Ngài bảo:

-  Con hãy lật ngược tờ giấy lại.

- Cha lật ngược tờ giấy và đọc thấy ở đó con số 2. Đức Giám Mục tiếp:

- Con thấy chứ, sự phán xét của Thiên Chúa hoàn toàn khác với sự phán xét của thế gian.

Khi ấy cha xin ngài vài lời khuyên để nói lại với các trẻ em của cha. Đức Giám Mục trả lời:

- Con hãy bảo chúng cứu lấy Linh Hồn, cái còn lại thì không đáng kể. Và để cứu Linh Hồn, cần phải sống tốt, vâng phục và trong sạch; phải xưng tội nên và năng rước lễ. Hãy khuyên chúng đừng để mình bị lầm lạc vì những quyến rũ giả trá của thế gian: tất cả là phù vân và cay đắng. Hãy bảo chúng vun trồng đức trong sạch, nhân đức sáng chói trên Thiên Đàng. Để vun trồng nhân đức này, phải cầu nguyện, vâng phục, tránh nhàn rỗi và biết xa lánh dịp tội.

Cha chào và vội vã trở về nhà để không quên mất một điều nào trong những lời khuyên tốt lành ấy. Nhưng rồi nhớ là còn phải hỏi vị Giám Mục những soi sáng khác, cha quay trở lại. Cha vẫn nhìn thấy ngài, nhưng trong một tình trạng đáng thương: ngài chịu đau khổ và hấp hối. Cha hỏi ngài:

-  Thưa Đức Cha, con có thể làm gì để thoa dịu nỗi đau của Đức Cha?

-  Xin con cầu nguyện và xin người khác cầu nguyện cho cha.

Nói xong, ngài liền biến mất. Đang khi mọi người vẫn giữ im lặng, Don Bosco thêm: "Khi ấy cha hiểu rất nhiều về Luyện Ngục mà trước đây cha chưa bao giờ hiểu: đó là cần phải cầu nguyện cho những người quá cố khốn khổ".

Cầu nguyện cho các người quá cố là một hành vi bác ái kỳ diệu. Cần phải dạy trẻ em nhớ tới người quá cố.

- "Họ có ở gần con không?" Một em bé đã hỏi bà mẹ đang nói về những người thân quá cố.

Bà mẹ trả lời:

- Có, dù họ không nói với chúng ta, dù ta không cảm thấy cách cụ thể lòng họ yêu mến ta, họ vẫn âm thầm ở bên cạnh ta.

Hãy dạy trẻ em đọc câu: "Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ cho các Linh Hồn được lên chốn nghỉ ngơi"  khi đi qua nghĩa địa hay gặp đám tang. Khi một người cầu nguyện: "Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ cho các Linh Hồn được lên chốn nghỉ ngơi", thì trong sự nghỉ ngơi vĩnh cửu ở bên cạnh Thiên Chúa, các Linh Hồn sẽ đáp lại: "Lạy Chúa, xin ban cho người chúng con yêu mến trong Chúa được nghỉ ngơi đời đời sau những trận chiến của cuộc sống, và xin toả chiếu trên họ ánh sáng vĩnh cửu, luồng sáng đã chiếu toả trên chúng con".

Hãy dạy cho trẻ hiểu rằng lửa Luyện Ngục là lửa đi trước niềm vui, đang khi đó lửa Hoả ngục là lửa hình phạt. Tình yêu Thiên Chúa luôn bao bọc chúng ta; còn chúng ta, qua thái độ của mình đối với Thiên Chúa, chúng ta sẽ biến nó thành lửa hay ánh sáng. Thiên Chúa là Sự Sáng, còn các Linh Hồn là màu sắc xuất phát từ Quang Phổ rực rỡ ấy.

Việc dự lễ, xin lễ và rước lễ cầu nguyện cho các người quá cố sẽ giúp họ rất nhiều. Chỉ có tình yêu mới có thể vừa lấp đầy được khoảng trống trong lòng người ở trần gian nhớ thương người quá cố, vừa xoa dịu được nỗi đau đớn và thu ngắn được thời gian phải thanh luyện của các Linh Hồn nơi Luyện Ngục. Do đó, chúng ta phải gia tăng lòng yêu mến đối với người quá cố và các Linh Hồn trong Luyện Ngục. Khi dạy trẻ em cầu nguyện cho người quá cố là dạy chúng một hình thức tuyệt diệu của đức ái.

Theo "Giáo dục theo gương Don Bosco".

TRANG GIỚI TRẺ

Bài Giáo Lý I của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin

"Giới thiệu Năm Đức Tin"

Dưới đây là bản dịch Bài Giáo Lý của ĐTC Bênêđictô XVI ban hành tại Quảng Trường Thánh Phêrô hôm thứ tư 17 tháng 10, 2012.  Hôm nay, ĐTC bắt đầu một loạt bài giáo lý mới về Kinh Tin Kính để giúp chúng ta đào sâu hơn nền tảng của Đức Tin và sống Đức Tin trong đời sống thường nhật của mình.

Anh chị em thân mến,

Hôm nay tôi muốn giới thiệu một chu kỳ giáo lý mới.  Chu kỳ này sẽ được kéo dài trong suốt Năm Đức Tin vừa bắt đầu, và tạm ngừng chu kỳ dành riêng cho trường cầu nguyện vào lúc này.  Với Tông Thư Porta Fidei, tôi đã công bố năm đặc biệt này, chính là giúp Hội Thánh canh tâm lòng nhiệt thành trong việc tin vào Đức Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của thế gian, phục hồi niềm vui đi theo con đường mà Người đã chỉ cho chúng ta, và làm nhân chứng một cách cụ thể quyền năng biến đổi của đức tin.

Dịp kỷ niệm năm mươi năm khai mạc Công đồng Vatican II là một cơ hội quan trọng để trở về với Thiên Chúa, để đào sâu và sống đức tin của chúng ta với lòng can đảm hơn, để củng cố việc là phần tử của Hội Thánh, "thầy của nhân loại", qua việc công bố Lời Chúa, cử hành các bí tích và các công việc bác ái, dẫn chúng ta đến gặp gỡ và biết Đức Kitô, là Thiên Chúa thật và là người thật. Đây không phải là cuộc gặp gỡ với một ý tưởng hoặc một kế hoạch của đời sống, nhưng một Con Người sống động, là Đấng biến đổi chúng ta tận đáy long, và tỏ cho chúng ta biết căn tính thật sự của chúng ta là con cái của Thiên Chúa.  Cuộc gặp gỡ với Đức Kitô đổi mới những liên hệ nhân loại của chúng ta, bằng cách hướng chúng, ngày này qua ngày khác, về một tình liên đới và huynh đệ to lớn hơn, theo tiêu chuẩn của tình yêu.  Có đức tin vào Chúa không phải là một điều gì chỉ ảnh hưởng đến trí tuệ của chúng ta, lãnh vực tri thức, mà còn là một sự thay đổi liên hệ đến đời sống, và toàn thể con người chúng ta: tình cảm, trái tim, trí thông minh, ý chí, thân xác, cảm xúc và những liên hệ giữa con người. Với đức tin, tất cả đều được thật sự biến đổi trong chúng ta và cho chúng ta, và như thế cho chúng ta thấy rõ định mệnh tương lai của mình, sự thật về ơn gọi của mình trong lịch sử, ý nghĩa cuộc đời, niềm vui thích được làm một khách lữ hành đang trên đường tiến về Quê Trời.

Nhưng chúng ta tự hỏi: đức tin có thực sự là sức mạnh biến đổi cuộc đời chúng ta, cuộc đời tôi hay không? Hay nó chỉ là một trong những yếu tố là một phần của cuộc đời, chứ không phải là điều quyết định liên hệ đến toàn thể cuộc đời?  Với những bài giáo lý Năm Đức Tin này, chúng ta muốn mở ra một con đường để củng cố hoặc tìm lại niềm vui của đức tin, bằng cách hiểu rằng đức tin không phải là một điều gì xa lạ, tách rời khỏi đời sống cụ thể, nhưng chính là linh hồn của đời sống.  Đức tin vào một Thiên Chúa là Tình Yêu, và là Đấng đến gần con người qua việc nhập thể và hiến mình trên Thánh Giá để cứu độ chúng ta và tái mở cửa Thiên Đàng cho chúng ta, chỉ cho chúng ta thấy một cách rạng ngời rằng sự sung mãn của con người chỉ được tìm thấy trong tình yêu.  Ngày nay, cần phải tái xác nhận điều ấy một cách rõ ràng, trong khi những biến đổi văn hóa trong việc làm thường cho thấy biết bao nhiêu hình thức dã man, đang xảy ra dưới chiêu bài "những chinh phục của nền văn minh": đức tin khẳng định rằng không có sự nhân đạo thật trừ khi ở các nơi, các cử chỉ, thời gian và những hình thức mà ở đó con người được được sinh động hóa bằng tình yêu đến từ Thiên Chúa, được diễn tả như một hồng ân, được biểu lộ bằng những liên hệ đầy bác ái, cảm thương, chú tâm và phục vụ vô vị lợi đối với tha nhân. Nơi nào có sự thống trị, chiếm hữu, lợi dụng, biến người khác thành món hàng để mưu lợi cho sự ích kỷ của mình, nơi nào có sự kiêu căng của cái tôi đóng kín nơi mình, thì con người trở nên nghèo nàn, bị mất phẩm giá và dị hình.  Đức tin Kitô giáo hoạt động trong đức ái và mạnh mẽ trong đức cậy (hy vọng), không giới hạn, nhưng nhân bản hóa đời sống, và làm cho nó hoàn toàn nhân loại.

Đức tin nghĩa là đón nhận sứ điệp có sức biến đổi này trong cuộc đời chúng ta, là đón nhận mạc khải của Thiên Chúa, Đấng làm cho chúng ta biết Ngài là ai, Ngài hoạt động ra sao và những kế hoạch của Ngài dành cho chúng ta là gì.  Đương nhiên, mầu nhiệm của Thiên Chúa luôn luôn vượt ra ngoài những quan niệm và lý lẽ, các nghi lễ và kinh nguyện của chúng ta.  Tuy nhiên, với mạc khải, chính Thiên Chúa tự truyền thông cho chúng ta, tự kể cho chúng ta về Ngài và cho chúng ta có thể đến gần Ngài. Và Chúng ta trở nên có khả năng lắng nghe Lời Chúa và đón nhận chân lý của Ngài. Và đây chính là điều kỳ diệu của đức tin: Thiên Chúa, trong tình yêu của Ngài, đã tạo ra nơi chúng ta, nhờ công trình của Chúa Thánh Thần, những điều kiện thích hợp để chúng ta có thể nhận ra Lời Ngài. Chính Thiên Chúa, trong ý muốn tự tỏ mình ra, tiếp xúc chúng ta, hiện diện trong lịch sử của chúng ta, làm cho chúng ta có khả năng lắng nghe và đón nhận Ngài.  Thánh Phaolô đã diễn tả điều đó với lòng vui mừng biết ơn khi ngài nói: "Chúng tôi không ngừng cảm tạ Thiên Chúa, bởi khi anh em đã đón nhận Lời Thiên Chúa mà anh em được nghe từ chúng tôi, thì anh em đã đón nhận không phải như lời người ta, nhưng đúng thật là Lời Thiên Chúa; và Lời đó đang hoạt động nơi anh em là những người tin" (1 Ts 2:13).

Thiên Chúa đã tỏ mình ra bằng những lời nói và việc làm trong suốt dòng lịch sử dài của tình bằng hữu với con người, và đạt đến tột đỉnh trong việc Nhập Thể của Con Thiên Chúa và trong Mầu Nhiệm Cái Chết và Phục Sinh của Người.  Thiên Chúa không những đã tỏ mình ra trong lịch sử của một dân tộc, không những đã chỉ nói qua các ngôn sứ, nhưng Người đã vượt qua ranh giới của Thiên Đình để vào thế giới của loài người, như một người, để chúng ta có thể gặp gỡ và lắng nghe Người. Và từ Giêrusalem, việc loan báo Tin Mừng cứu độ được loan truyền cho đến tận cùng trái đất. Hội Thánh, được khai sinh từ cạnh sườn Đức Kitô, trở nên sứ giả của niềm hy vọng mới và chắc chắn: Chúa Giêsu thành Nazareth, chịu đóng đanh và sống lại, Đấng Cứu Thế, đang ngự bên hữu Chúa Cha, và là Đấng phán xét kẻ sống và kẻ chết.  Đó là lời rao giảng ban đầu, là lời loan báo chính yếu và không ngừng của đức tin. Nhưng ngay từ đầu, đã có vấn đề "qui luật của đức tin", nghĩa là sự trung thành của các tín hữu với Chân Lý Tin Mừng, là điều mà họ phải tiếp tục trung thành, với chân lý cứu độ về Thiên Chúa và về loài người, được giữ gìn và được truyền lại. Thánh Phaolô viết: "Anh em được cứu độ, nếu anh em giữ [Tin Mừng] dưới hình thức mà tôi đã công bố cho anh em. Nếu không, anh em tin cách vô ích" (1 Corinthians 15:2).

Nhưng chúng ta tìm thấy công thức thiết yếu của đức tin ở đâu? Chúng ta tìm thấy chân lý được trung thành truyền lại và là ánh sáng cho đời sống hằng ngày của chúng ta ở đâu? Câu trả lời thật đơn giản: trong Credo (Kinh Tin Kính), trong bản Tuyên Xưng Đức Tin, (hay Biểu Tượng Đức Tin), trong đó chúng ta gắn liền với biến cố nguyên thủy của Con Người và lịch sử của Chúa Giêsu thành Nazareth; nó cụ thể hóa điều mà Vị Tông Đồ Dân Ngoại đã nói với các tín hữu thành Côrinthô: "Vì trước tiên, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà tôi đã cũng nhận được là, Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta theo như Thánh Kinh, đã được mai táng và sống lại trong ngày thứ ba" (1 Corinthians 15:3).

Ngày nay cũng thế, chúng ta cần phải biết, hiểu và cầu nguyện Kinh Tin Kính một cách tốt hơn.  Điều quan trọng đặc biệt có thể nói là về Kinh Tin Kính phải "lại được nhận biết".  Thực ra, nhận biết có thể là một hoạt động thuần túy tri thức, trong khi "tái nhận biết" có nghĩa là sự cần thiết để tái khám phá ra những liên hệ sâu xa giữa những chân lý mà chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính với cuộc sống hàng ngày của chúng ta, bởi vì những chân lý ấy thực sự  và cụ thể là, như chúng đã luôn luôn là, ánh sáng soi các bước đi của cuộc đời chúng ta, là nước tưới lên những đoạn đường khô cằn trong cuộc hành trình của chúng ta, là sức sống thắng vượt một số sa mạc của cuộc sống hiện đại.  Đời sống luân lý của người Kitô hữu được gắn liền với Kinh Tin Kính, và tìm thấy trong đó nền tảng và lý do biện minh cho nó.

Không phải ngẫu nhiên mà Chân Phước Gioan Phaolô II muốn rằng Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, một tiêu chuẩn vững chắc cho việc giảng dạy đức tin và nguồn tài liệu chắc chắn cho việc canh tân giáo lý, phải đặt trọng tâm vào Kinh Tin Kính.  Sách này nhằm xác nhận và bảo vệ điều cốt yếu của các chân lý đức tin, trong khi truyền đạt nó bằng một ngôn ngữ dễ hiểu hơn cho dân chúng trong thời đại của chúng ta, cho chúng ta. Nhiệm vụ của Hội Thánh là truyền thụ đức tin, thông truyền Tin Mừng, để những chân lý của Kitô giáo trở thành một ánh sáng trong những biến đổi mới về văn hoá, và các Kitô hữu có thể trả lời về niềm hy vọng mà họ đang mang nơi mình (x. 1 Proverbs 3:14). Hôm nay chúng ta đang sống trong một xã hội thay đổi sâu xa, ngay cả so với một quá khứ gần đây, và liên tục biến hóa.  Tiến trình tục hóa và sự lan tràn của một não trạng hư vô, trong đó tất cả mọi sự đều là tương đối, có một tác động mạnh mẽ đến tâm lý chung.  Vì vậy, đời sống thường bị sống một cách lơ là, không có lý tưởng rõ ràng và hy vọng chắc chắn, trong các liên hệ xã hội và gia đình lỏng lẻo và tạm thời.  Đặc biệt là những thế hệ trẻ không được giáo dục về việc tìm kiếm chân lý và ý nghĩa sâu xa của cuộc đời, là điều vượt trên những gì bất ngờ, về sự ổn định của những tình cảm, về lòng tin tưởng.  Ngược lại, chủ thuyết tương đối dẫn họ đến chỗ không có những điểm quy chiếu vững chắc, sự nghi ngờ và thiếu kiên định tạo ra những đổ vỡ trong những liên hệ giữa con người, trong khi cuộc sống được sống trong những kinh nghiệm ngắn ngủi và vô trách nhiệm.   Nếu chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tương đối dường như thống trị tâm trí của nhiều người đương thời, chúng ta không thể nói rằng các tín hữu vẫn hoàn toàn không bị lây nhiễm bởi những nguy hiểm mà chúng ta đang phải đương đầu trong việc truyền đạt đức tin.  Cuộc điều nghiên được đẩy mạnh ở tất cả các châu lục để chuẩn bị cho Thượng Hội Đồng Giám Mục về Tân Phúc Âm Hóa, đã cho thấy rõ một số điều: một đức tin được sống một cách thụ động và riêng tư, việc chối từ giáo dục đức tin, sự cách biệt giữa đời sống và đức tin.

Các Kitô hữu thường không biết cốt lõi chính của đức tin Công Giáo của họ, về Kinh Tin Kính, đến nỗi để dành chỗ cho một chủ nghĩa pha trộn và tương đối về tôn giáo, mà không có sự rõ ràng về những chân lý cần phải tin, và đặc tính cứu độ độc đáo của Kitô giáo.   Theo trào lưu ngày nay, có nguy cơ xây dựng một tôn giáo, có thể nói là "tự pha chế".   Ngược lại, chúng ta phải trở về với Thiên Chúa, Thiên Chúa của Đức Chúa Giêsu Kitô, chúng ta phải tái khám phá ra sứ điệp của Tin Mừng, để đưa nó vào sâu hơn trong tâm trí của chúng ta và trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.

Trong các bài giáo lý về Năm Đức Tin này, tôi muốn cung cấp cho anh chị em một sự trợ giúp để đi trọn cuộc hành trình này, để hiểu rõ và đào sâu những chân lý của đức tin về Thiên Chúa, về con người, về Hội Thánh, về tất cả các thực thể xã hội và vũ trụ, trong khi suy niệm và suy nghĩ về những điều xác định của Kinh Tin Kính.  Và tôi mong ước rằng nó làm sáng tỏ rằng nội dung hay chân lý của đức tin (fides quae) có liên hệ trực tiếp đến cuộc đời chúng ta. Chúng đòi buộc chúng ta phải có hoán cải đời sống, là điều mang đến cho cuộc đời một cách tin vào Thiên Chúa (fides qua) mới mẻ.   Hãy biết Thiên Chúa, hãy gặp gỡ Ngài, hãy đào sâu những nét (đặc tính) của dung nhan Ngài đang làm cho cuộc sống của chúng ta hoạt động, bởi vì Ngài đi vào những động lực thầm kín của con người.

Chớ gì cuộc hành trình mà tất cả chúng ta sẽ thực hiện năm nay giúp chúng ta lớn lên trong đức tin và trong tình yêu của Đức Kitô, để chúng ta có thể học sống, trong những lựa chọn và hành động hàng ngày của chúng ta, cuộc sống tốt lành và xinh đẹp của Tin Mừng. Cảm ơn anh chị em.

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ.  Nguồn: giaoly.org

TRANG GIA ĐÌNH

BÀI 7. CÁC THỦ TỤC VÀ NGHI LỄ HÔN PHỐI (tt)

- Cử hành bí tích Hôn phối

. Địa điểm: tại nhà thờ giáo xứ của bên nữ hoặc bên nam. Nếu cử hành tại một nhà thờ khác hay một nhà nguyện, cần có phép của cha xứ [14].

. Nhân chứng: cần có 2 người làm chứng[15].

. Chứng hôn: Người chứng hôn là người hiện diện để đòi hỏi hai bên kết ước bày tỏ sự ưng thuận lấy nhau và nhân danh Hội Thánh đón nhận sự bày tỏ ấy. Bình thường, cha xứ là người chứng hôn[16]. Ngài có thể uỷ quyền cho các linh mục khác, hoặc phó tế chứng hôn[17]. Nơi nào thiếu linh mục và phó tế, Đức Giám mục giáo phận có thể uỷ quyền chứng hôn cho một giáo dân xứng hợp[18].

- Ghi sổ: Sau khi cử hành bí tích Hôn phối, đôi tân hôn, vị chứng hôn và hai người làm chứng ký tên vào Sổ Hôn phối[19]. Sau đó ghi việc kết hôn vào sổ rửa tội của đôi tân hôn[20].

2.2. Nghi thức bí tích Hôn phối

"Vì các bí tích đều liên quan trực tiếp đến Bí tích Thánh Thể nên bình thường Bí tích Hôn phối phải được cử hành trong Thánh lễ"[21]. "Trong thánh lễ, chúng ta tưởng niệm Giao Ước mới, trong đó Đức Kitô kết hiệp vĩnh viễn với Hội Thánh là Hiền Thê được Ngài yêu mến và hiến thân để thánh hoá. Do đó, bí tích Hôn phối được cử hành trong thánh lễ thật là thích hợp: đôi hôn phối bày tỏ sự ưng thuận hiến thân cho nhau bằng việc liên kết với Đức Kitô hiến thân cho Hội Thánh, đều được hiện tại hoá trong thánh lễ, và bằng việc rước lễ để nhờ kết hợp với Mình và Máu Đức Kitô, họ "trở thành một thân thể" trong Ngài[22]."

Nghi thức hôn phối được bắt đầu sau bài Phúc âm và bài giảng, gồm ba phần:

1. Phần một: Thẩm vấn đôi tân hôn

Chủ tế lần lượt hỏi cô dâu và chú rể ba câu hỏi về sự tự do, về việc yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời và về việc đón nhận con cái. Những câu hỏi này nhằm giúp đôi tân hôn chính thức xác nhận trước mặt mọi người rằng họ thực sự ý thức và trưởng thành khi quyết định kết hôn, nghĩa là có sự tự do để lấy nhau, chấp nhận ý nghĩa và mục đích của hôn nhân là yêu thương và chung thủy với nhau, sẵn sàng đón nhận và giáo dục con cái.

2. Phần hai: Trao đổi lời thề hứa

Đây là phần chủ yếu của bí tích Hôn phối. Đôi tân hôn sẽ trao đổi lời thề hứa nhận nhau làm vợ làm chồng và cam kết trung thành với nhau suốt đời.

3. Phần ba: Làm phép và trao nhẫn cưới

Chủ tế làm phép nhẫn, sau đó anh chị trao nhẫn cho nhau, như dấu chỉ của tình yêu và lòng trung thành. Tiếp đến, đôi tân hôn, hai người chứng và linh mục cùng ký tên vào Sổ Hôn phối. Sổ này được lưu trong văn khố của giáo xứ. Việc ký tên này cũng có thể được thực hiện sau thánh lễ.

Nghi thức Hôn phối kết thúc. Thánh lễ tiếp tục. Sau kinh Lạy Cha có một lời nguyện đặc biệt cầu cho đôi tân hôn. Hội Thánh khẩn cầu Chúa ban đầy ân sủng và phúc lộc cho đôi tân hôn để bản thân họ được thánh thiện và hạnh phúc, gia đình họ được hòa thuận và bền vững. Hội Thánh cũng nguyện xin ơn Thánh Thần cho họ vì "Chúa Thánh Thần là dấu ấn hôn ước của họ, là nguồn mạch tình yêu của họ, là sức mạnh giúp họ chung thuỷ[23]."

Các bài đọc Kinh Thánh được chọn riêng cho lễ Hôn phối xoay quanh ba ý chính:

- Mục đích, ý nghĩa, bản chất của tình yêu và hôn nhân Kitô giáo.

- Những con người mẫu mực trong đời sống hôn nhân và gia đình.

- Bổn phận và trách nhiệm của vợ chồng, cha mẹ, con cái trong đời sống hôn nhân và gia đình.

Đối với việc công bố Lời Chúa (đọc bài đọc 1 và 2), nên chọn trong số những người thân thuộc của đôi tân hôn, chẳng hạn như người làm chứng, anh chị em trong gia đình hoặc bè bạn. Lúc này, đôi tân hôn trước tiên phải là những người lắng nghe và đón nhận Lời Chúa đang công bố cho mình[24].

4 GHI NHỚ :

1. H. Khi quyết định tiến tới hôn nhân, đôi bạn cần làm những thủ tục nào?

T. Khi quyết định tiến tới hôn nhân, đôi bạn cần trình cha xứ để làm những việc này:

- Một là làm tờ khai hôn phối.

- Hai là được hướng dẫn về giáo lý hôn nhân.

- Ba là rao hôn phối.

- Bốn là quyết định ngày cử hành hôn lễ.

2. H. Về mặt dân sự, cần làm thủ tục nào?

T. Về mặt dân sự, cần đăng ký kết hôn tại Uỷ ban Nhân Dân Phường hoặc Xã nơi cư ngụ.

3. H. Vì sao Hội Thánh buộc các tín hữu cử hành hôn phối theo nghi thức của Hội Thánh?

T. Hội Thánh buộc các tín hữu cử hành hôn phối theo nghi thức của Hội Thánh vì bốn lý do này:

- Một là vì Bí tích Hôn phối là hành vi phụng vu.

- Hai là vì Hôn nhân là một bậc sống trong Hội Thánh.

- Ba là vì cần phải có sự chắc chắén về sự kết hôn nên buộc phải có người làm chứng.

- Bốn là vì việc công khai bày tỏ sự ưng thuận sẽ giúp hai vợ chồng sống chung thuỷ với nhau.

4. H. Nghi thức bí tích hôn phối gồm mấy phần?

T. Nghi thức Bí tích Hôn phối gồm ba phần:

- Một là thẩm vấn đôi hôn phối về sự tự do, về việc yêu thương và tôn trọng nhau và về việc đón nhận con cái Chúa ban.

- Hai là trao đổi lời thề hứa.

- Ba là làm phép và trao nhẫn cưới.

4 GỢI Ý SUY NGHĨ :

1. Xin anh chị đọc và chia sẻ với nhau lời thề hứa mà anh chị sẽ trao đổi với nhau:

"Tôi là T., nhận anh (em) T. làm chồng (vợ), và hứa giữ lòng chung thủy với anh (em), khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng anh (em) suốt đời tôi".

4 CẦU NGUYỆN :

Lạy Chúa, khi tạo dựng loài người có nam có nữ, Chúa đã muốn cho cả hai nên một. Xin Chúa thương tuôn đổ ơn phúc dồi dào trên các đôi vợ chồng, giúp họ sống trọn tình vẹn nghĩa với nhau và biết mở rộng tình yêu thương đến mọi người, để làm chứng cho tình yêu thương vô biên của Chúa. Amen.

________________________

[14] GL 1115; 1118

[15] GL 1108

[16] GL 1108-1110

[17] GL 1108; 1111

[18] GL 1112

[19] GL 1121

[20] GL 1122

[21] GĐ 57

[22] GLHT 1621

[23] GLHT 1624

[24] x. CBHP 68

 

Nihil Obstat : Tp. Hồ Chí Minh, ngày 25.08.2004
Lm. Augustinô Nguyễn Văn Trinh


Imprimatur : Mỹ Tho, ngày 03.09.2004
+ Phaolô Bùi Văn Đọc, Giám Mục Mỹ Tho
   Chủ tịch Ủy Ban Giáo lý Đức tin

Nguồn:  UB Giáo Lý Đức Tin, HĐGMVN, giaoducconggiao.net

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

BÀI 12. MỘT SỐ CHỈ DẪN CỦA GIÁO HỘI VỀ VIỆC DẠY GIÁO LÝ

Việc dạy giáo lý luôn được Giáo Hội coi là một bổn phận rất quan trọng vì đây chính là mệnh lệnh của Đức Kitô trước khi về trời (xem Mt 28,19-20). Giáo Hội, trải qua bao thời đại và dưới sức tác động của Chúa Thánh Thần, đã không ngừng tìm tòi, nghiên cứu những cách thức truyền đạt Lời Chúa một cách có hiệu quả. Để theo sát đường hướng của Giáo Hội, giáo lý viên cần học hiểu và áp dụng những chỉ dẫn của Giáo Hội liên quan đến việc dạy giáo lý. Những chỉ dẫn này được tìm thấy trong các tài liệu giáo huấn của Giáo Hội.

Chúng ta sơ lược một vài tài liệu quan trọng hơn, trực tiếp nói đến việc dạy giáo lý đó là: Tông huấn Dạy Giáo Lý của ĐTC Gioan Phaolô II và cuốn Chỉ Nam tổng quát về việc dạy Giáo lý năm 1997.

TÔNG HUẤN DẠY GIÁO LÝ CỦA ĐTC GIOAN PHAOLÔ II

Tông huấn Dạy giáo lý được ĐTC Gioan Phaolô ban hành ngày 16 tháng 10 năm 1979. Tông huấn này là kết quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục lần thứ IV họp từ 30-9 đến 29-10-1977. Các Giám Mục đã tích cực thảo luận về đề tài : "Huấn giáo đặc biệt trong giới thiếu nhi và thanh niên" do ĐTC Phaolô VI nêu ra. Những đề nghị của các Giám Mục được khai thác rộng ra thành tài liệu chính thức về Huấn giáo, mang tên Catechesi Tradendae (Dạy giáo lý).

 1. MỘT VÀI NHẬN ĐỊNH

Trước khi tóm lược nội dung Tông Huấn, chúng ta nêu lên một vài nhận định của các quan sát viên về tình hình việc giáo lý qua những bàn bạc của các Giám Mục thế giới :

- Rất nhiều ý kiến nêu lên sự đối lập giữa hai phương pháp dạy giáo lý. Phương pháp hỏi thưa (cổ điển) do một người truyền đạt nhằm học hỏi những kiến thức tôn giáo và phương pháp quy nạp (tân tiến) chủ trương phân biệt và làm rõ những điểm chính, điểm phụ trong khi trình bày sứ điệp Kitô giáo.

- Cần nỗ lực để áp dụng một nền Huấn giáo nhắm đúng mục đích là nuôi dưỡng đời sống đức tin và giúp gặp gỡ được chính Đức Kitô vào đời sống hơn là nhồi nhét những lý thuyết, những biểu tượng lỗi thời.

- Cần làm nổi bật vai trò Đức Kitô, Ngài không phải là một tư tưởng, một ý thức hệ nhưng là một con người lịch sử. Môn huấn giáo sẽ mất ý nghĩa nếu không có Đức Kitô làm trung tâm.

- Nhiệm vụ của Giáo Hội là luôn trở về với Tin mừng Chúa Kitô để tìm ra cái "hồn sống" của con người trong mọi thời đại và qua mọi nền văn minh, chứ không nghiêng về cấp tiến hay bảo thủ, phe này hay phe kia.

- Giáo lý viên không phải là người nhắc bảo nhưng trước hết phải là một người làm chứng về Đức Kitô. Nếu Huấn Giáo có mục đích giúp người thụ huấn xác định một sự chọn lựa, thì đó chính là chọn lựa gắn bó với Chúa Kitô, Đấng cho họ sống và định cho cuộc sống của họ quy hướng về Ngài.

- Người trẻ ngày nay bị ảnh hưởng bởi một văn hóa vô thần, đụng chạm tới đủ thứ nghi ngờ. Họ cần những chứng từ sống đức tin của người lớn, của giáo lý viên. Vì thế nên dựa vào văn hóa của mỗi dân tộc để trình bày những chân lý đức tin cho sống động và dễ hiểu.

- Cần dựa vào bối cảnh sống và đời sống cụ thể của con người để trình bày đức tin.

2. NỘI DUNG TÔNG HUẤN

Nét chủ đạo của Tông Huấn Dạy giáo lý là mệnh lệnh của Đức Kitô truyền cho các tông đồ : "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy họ tuân giữ các điều Thầy đã truyền dạy cho anh em"[26]. Điều này các tông đồ đã thực hiện và Giáo Hội vẫn tiếp tục thi hành qua mọi thời đại. Ta có thể nói Tông huấn này là gia sản chung của Giáo Hội, được làm nên bằng những hiểu biết, những kinh nghiệm từ bao đời trong việc nuôi dưỡng đời sống đức tin của Dân Chúa.

Ngoài phần nhập đề và phần kết, Tông huấn chia làm 9 chương :

PHẦN NHẬP ĐỀ :

Tông huấn nhấn mạnh đến sứ vụ quan trọng của Giáo Hội là truyền giảng Tin Mừng mà khởi điểm là mệnh lệnh của Đức Kitô cho các tông đồ, đồng thời nói lên sự quan tâm của các Đức Thánh Cha qua các tài liệu hướng dẫn việc dạy giáo lý. Tiếp đến Tông huấn nhắc đến những hoa trái mà Thượng Hội đồng đã gặt hái dưới sức tác động của Chúa Thánh Thần và sau cùng là niềm mong ước của Đức Thánh Cha cho toàn thể kitô hữu được củng cố đức tin và có sáng kiến gieo rắc niềm vui ơn cứu độ cho thế giới.

CHƯƠNG I: CHÚNG TA CHỈ CÓ MỘT THẦY LÀ ĐỨC KITÔ

 Thượng Hội đồng nhấn mạnh tính "quy Kitô" của khoa Huấn giáo. Đối tượng của Đức tin không phải là một bản văn, một giáo thuyết, nhưng là một ngôi vị : Đức Giêsu Kitô, Đấng là đường, là sự thật và là sự sống[27], và mục đích của Huấn giáo là làm cho mọi người hiểu biết và thông hiệp mật thiết với Đức Kitô.

Giáo lý không phải là những ý niệm trừu tượng, nhưng là việc thông truyền những chân lý sống động của Thiên Chúa. Với tư cách là Thầy, Đức Kitô là một GLV mẫu mực, Ngài để lại cho chúng ta một tấm gương tuyệt hảo về cách thức loan báo Tin mừng qua lời nói, cử chỉ và thái độ đối với mọi người.

Do đó, giáo lý viên không thể truyền đạt những lời nói suông nhưng là người vừa rao giảng, vừa làm chứng bằng cả đời sống theo mẫu gương Đức Kitô.

CHƯƠNG II: MỘT KINH NGHIỆM CỔ XƯA NHƯ GIÁO HỘI

Tông huấn nhắc đến lịch sử việc dạy giáo lý của Giáo Hội từ Đức Kitô đến các tông đồ, và cho đến ngày nay. Điều này cho thấy tính liên tục cũng như nguồn gốc căn bản của việc dạy giáo lý đã được chính Đức Kitô khởi sự và thi hành một cách tuyệt hảo qua lời nói, cử chỉ và lối sống của Ngài.

Tông huấn nhấn mạnh việc dạy giáo lý vừa là một quyền lợi vừa là một bổn phận ưu tiên của Giáo Hội cũng như của mỗi kitô hữu. Hơn nữa giáo lý cần phải được canh tân liên tục để một mặt luôn khám phá ra tính mới mẻ của giáo lý và mặt khác luôn trung thành với Tin Mừng.

CHƯƠNG III: VIỆC DẠY GIÁO LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG MỤC VỤ VÀ TRUYỀN GIÁO CỦA GIÁO HỘI

Việc dạy giáo lý nằm trong hoạt động mục vụ và truyền giáo của Giáo Hội. Đây là một cách loan báo Tin mừng mà mỗi thành viên trong Giáo Hội đều phải học hỏi và thi hành. Việc dạy giáo lý không những cần thiết để củng cố và trưởng thành trong đức tin mà còn để làm chứng nhân cho Tin Mừng Chúa Kitô qua việc tuyên xưng niềm tin, qua những kinh nghiệm sống và qua tình liên đới hiệp thông trong một thân thể duy nhất là Giáo Hội mà Đức Kitô là Đầu.

CHƯƠNG IV: TOÀN THỂ TIN MỪNG NGAY TẠI NGUỒN MẠCH

 Nguồn suối của giáo lý là Thánh Kinh và Thánh Truyền. Lời Chúa chính là sứ điệp Tin Mừng cứu độ phải được thấm nhuần cách sâu xa trong mọi khía cạnh của giáo lý ; và Kinh Tin Kính do các tông đồ truyền lại, cũng bắt nguồn từ Kinh Thánh phải nhằm tuyên xưng đức tin và củng cố niềm tin vào Mầu nhiệm Chúa Kitô. Mầu nhiệm này cao cả và phong phú mà Giáo Hội qua mọi thời đại luôn dựa và Thánh Kinh mà khai triển cho thêm trong sáng và vững chắc.

Vì Mầu nhiệm Chúa Kitô là một Mầu nhiệm rất đa dạng, nên khoa Huấn giáo luôn tìm kiếm những phương pháp thích hợp cho mỗi trình độ, mỗi lứa tuổi để trình bày cách sống động và tốt nhất Con người Đức Kitô và Tin Mừng của Người.

CHƯƠNG V: MỌI NGƯỜI CẦN ĐƯỢC HẤP THỤ GIÁO LÝ

Tông huấn nhắc đến từng lứa tuổi, từ trẻ đến già : tất cả cần được hấp thụ giáo lý. Bởi vì giáo lý giúp hoàn thiện mọi sinh hoạt của con người và xã hội.

Trong đoạn cuối, Tông huấn nhắc : "Giáo Hội phải làm sao để không ai cảm thấy mình được miễn học giáo lý, và nhất là những người đang chuẩn bị đảm nhận việc dạy giáo lý..." Những người này cần phải học nhiều hơn cả để có đủ khả năng và bản lãnh chu toàn nhiệm vụ đón nhận từ Giáo Hội.

CHƯƠNG VI: ĐƯỜNG LỐI VÀ PHƯƠNG TIỆN DẠY GIÁO LÝ

Trong một thời đại ngày càng phát triển, môn giáo lý cũng phải vận dụng hết mọi điều kiện hiện tại để có thể đáp ứng cách đầy đủ và nhanh chóng nhu cầu của con người. Các phương tiện truyền thông là những dụng cụ thích hợp và hữu ích cho việc giảng dạy giáo lý.

Tuy nhiên, khi sử dụng những phương tiện sẵn có, giáo lý phải luôn giữ được những yếu tố căn bản của đức tin. Vì thế sách giáo lý phải có những tiêu chuẩn sau :

- Sách giáo lý phải theo sát đời sống cụ thể của lớp tuổi mà sách nhắm tới, biết rõ các nhu cầu, các vấn đề của họ.

- Ngôn ngữ diễn tả phải phù hợp với lứa tuổi và trí hiểu của họ.

- Sách giáo lý trình bày đầy đủ và chính xác sứ điệp của Chúa Kitô và của Giáo Hội Người. Không được bỏ sót hay làm méo mó một khía cạnh nào.

- Sách giáo lý phải giúp cho người học một sự hiểu biết ngày càng sâu rộng về Đức Kitô và giúp họ cải hóa thực sự và có quyết tâm thay đổi đời sống cho phù hợp với Tin Mừng.

 CHƯƠNG VII: DẠY GIÁO LÝ CÁCH NÀO

Qua mọi thời đại, nội dung giáo lý vẫn không thay đổi : đó là Mầu nhiệm Chúa Kito. Tuy nhiên, cách thế trình bày Đức Kitô phải tùy theo văn hóa, hoàn cảnh sống, trình độ hiểu biết mà dùng những phương pháp khác nhau để việc dạy giáo lý mang lại ích lợi thực sự là làm cho con người khắc cốt ghi tâm Lời của Chúa và lớn lên trong tình hiệp thông với Ngài.

Do đó, việc dạy giáo lý là một cuộc canh tân tinh thần liên tục và lâu dài, giúp con người đạt đến hạnh phúc toàn diện bằng cách trung thành với Thiên Chúa và với con người trong tình yêu.

CHƯƠNG VIII: NIỀM VUI CỦA ĐỨC TIN TRONG MỘT THẾ GIỚI KHÓ KHĂN

Thế giới mỗi ngày mỗi có thêm những khó khăn, những lo âu, dẫn đến một sự lãnh đạm và coi thường những giá trị tinh thần. Những xu hướng trần tục đang dần làm mất ý nghĩa của tôn giáo, của Phúc Âm. Chính trong thế giới ấy mà giáo lý phải cố đóng trọn vai trò của mình là huấn luyện con người trở thành muối và ánh sáng giữa trần gian. Khoa Giáo lý phải tìm kiếm những ngôn ngữ thích hợp với người nghe mà không bóp méo nội dung.

Nhờ sự quan sát, nhận định chính xác về tâm trạng cũng như những khó khăn của con người thời đại mà khoa giáo lý có thể trả lời và giúp con người tìm thấy chân lý thực sự.

CHƯƠNG IX : NHIỆM VỤ ẤY LIÊN HỆ ĐẾN TẤT CẢ CHÚNG TA

 Đức Thánh Cha khuyến khích tất cả mọi người có trách nhiệm, từ Giám Mục đến giáo dân, nghĩa là tất cả mọi kitô hữu và mọi tổ chức, từ gia đình đến các phong trào lớn nhỏ trong Giáo Hội đều phải hợp tác trong việc dạy giáo lý.

Một điều khá mới mẻ của Tông huấn là chỗ đứng của giáo dân trong việc giảng dạy giáo lý. Ngài kêu gọi họ đóng góp tích cực vào các sinh hoạt của Giáo Hội.

Đức Thánh Cha kêu gọi mọi người : tùy theo vai trò và trách nhiệm, mỗi người hãy đáp ứng nhu cầu giáo lý cho mọi người chung quanh theo mức độ mình có thể.

 PHẦN KẾT :

 Tông huấn lược tóm vai trò của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội: Ngài là người Thầy nội tâm, luôn hướng dẫn, dạy dỗ và biến đổi các kitô hữu trở thành những chứng nhân đích thực của Đức Kitô qua mọi thời, bắt đầu từ con người nội tâm đến khung cảnh gia đình, làng mạc, dân tộc và cả thế giới.

Đức Maria vừa là người dạy dỗ vừa là môn đệ đầu tiên của Đức Kitô. Mẹ vừa là một giáo lý viên sống động vừa là Mẹ và gương mẫu của các giáo lý viên, Mẹ sẽ giúp ta hiến thân trên con đường mến Chúa yêu người.

Tông huấn kết thúc bằng lời cầu xin Chúa Thánh Thần, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, ban cho Giáo Hội lòng hăng say trong việc dạy giáo lý là sứ mệnh cốt yếu của Giáo Hội.

(Còn tiếp)

TRANG QUỚI CHỨC

HIỂU ĐỂ SỐNG GIỚI  RĂN THỨ NĂM

Tôn trọng sự sống con người. Đó là nội dung tóm lược của giới răn thứ năm trong mười điều răn của Chúa.

Sau khi Thiên Chúa dựng nên con người có nam có nữ "Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: Hãy sinh sôi nãy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bà trên mặt đất. Thiên Chúa phán: Đây Ta ban cho các người mọi thứ có mang hạt giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi." (St 1,28-29).

Theo đoạn kinh thánh trên, Thiên Chúa đã ban cho con người quyền trên các tạo vật hữu hình. Quyền thống trị, quyền sử dụng để phục vụ lợi ích cho con người. Thế nhưng đối với sinh mạng của con người thì Thiên Chúa lại phán: "Ngươi sẽ không giết người" (Xh 20,13). Như vậy sinh mạng con người là mốc giới hạn về quyền sinh sát của con người đối với mọi tạo vật hữu hình mà Thiên Chúa đặt ra. Ai vượt qua giới hạn đó sẽ phải hứng chịu hậu quả rất nặng bằng chính mạng sống mình. Thiên Chúa đã nhấn mạnh điều đó khi Ngài lặp đi lặp lại: "...Ta sẽ đòi con người phải đền nợ máu, Ta sẽ đòi mỗi người phải đền mạng sống của người anh em mình. Ai đổ máu con người, thì máu nó sẽ bị con người đổ ra, vì Thiên Chúa đã làm ra con người theo hình ảnh Thiên Chúa." (St 9,5b- 6).

Tại sao chúng ta phải tôn trọng sự sống của con người và tại sao Thiên Chúa lại rất nghiêm khắc với những ai vi phạm giới răn này ? Điều này được Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong Thông Điệp Tin Mừng về Sự Sống viết như sau: " Thiên Chúa tự tuyên bố là Chúa tể tuyệt đối của sự sống con người, được tạo thành theo hình ảnh Ngài và giống như Ngài. Do đó, sự sống của con người biểu thị một tính chất thánh thiêng và bất khả xâm phạm, nơi đó phản chiếu chính sự bất khả xâm phạm của Đấng Tạo Hóa. Vì vậy Thiên Chúa sẽ tỏ ra là đấng thẩm phán rất nghiêm khắc đối với mọi vi phạm giới răn: Ngươi chớ giết người...."(x. Thông điệp Tin Mừng về Sự Sống số 53). Cũng trong thông điệp này tại số 57, ĐGH cũng đã tái khẳng định điều đã được Thánh bộ về Giáo lý đức tin tuyên bố: "Không gì và không ai có thể cho phép người ta giết chết con người vô tội, dù là phôi thai, trẻ em hay người lới, người già, bệnh nhân không thể chữa trị hay người hấp hối. Không ai có quyền đòi hỏi cử chỉ giết người nào đó cho mình hai cho một người khác được giao phó cho trách nhiệm của mình, thậm chí cũng không ai có quyền đồng ý việc đó, một cách rõ ràng hay không. Không một uy quyền nào được áp đặt điều đó một cách chính đáng, hoặc thậm chí cho phép điều đó" (TBGLĐT, Tuyên ngôn về việc làm chết êm dịu Jura et bona (5.5.1980),II)

Không chỉ dừng lại ở mới độ tước đoạt mạng sống con người, theo sách Giáo lý của Hội thánh công giáo, giới răn này còn đòi buộc ta phải tôn trọng phẩm giá con người bao gồm việc:

Tôn trọng linh hồn tha nhân: Đó là chớ làm gương xấu cho người khác, vì ai làm gương xấu, người đó trở thành tên cám dỗ người lân cận. Người đó làm hại đến nhân đức và sự chính trực; người đó có thể đưa anh em mình đến cái chết về phần thiêng liêng....

Tôn trọng sức khỏe của mình và người khác: Không gìn giữ, chăm sóc sức khỏe của mình và gây tổn hại đến sức khỏe của người khác cũng là trọng tội

Tôn trọng sự toàn vẹn của thân thể: bắt cóc, khủng bố đe dọa, tra tấn, hủy hoại, tổn thương cở thể con người về thể xác cũng như tinh thần đều là hành vi phạm tội.

Tôn trọng người chết: Phải lưu tâm và chăm sóc những người hấp hối để giúp họ sống những giây phút cuối đời của mình cách xứng đáng và bình an. Thi hài của những người đã qua đời phải được cư xử với lòng tôn trọng và với đức mến, trong đức tin và đức cậy vào sự phục sinh.

Nói tóm lại, sinh mạng con người là một món quà quý mà Thiên Chúa ban tặng cho con người, với một lời căn dặn : chúng ta chỉ được hưởng dùng, bảo vệ và làm cho nó được thăng tiến chứ không có quyền hủy hoại với bất kỳ hình thức nào, dù là của chính mình hay của đồng loại.

SỐNG ĐẸP

TẠI SAO TÔI CHỌN CHÚA

10 khuyết điểm tuyệt vời của Chúa Giêsu

Những chia sẻ "10 khuyết điểm tuyệt vời của Chúa Giêsu" do ĐTGM Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tại Strasbourg, Pháp trong cuộc họp mặt "Niềm Vui Sống Đạo" của các bạn trẻ Việt Nam Công Giáo sống tại Âu Châu.

4 . Chúa Giêsu không biết kinh tế tài chánh

Chúa Giêsu đến để loan báo Nước Trời ở gần con người, gần cuộc sống của họ. Thế mà khi giới thiệu Nước Trời với các môn đệ và với người nghe Ngài nói, Ngài lấy dụ ngôn về Nước Trời như người chủ vườn nho thuê thợ làm cho mình trong một ngày (xem Mt. 20, 1-16). Người chủ từ tảng sáng đã mướn thợ làm; rồi đến giờ thứ 3, giờ thứ 6, giờ 11, mỗi giờ người ấy đều đi tìm mướn thêm thợ (giờ 11 trong lối nói của người Do Thái thời của Chúa Giêsu tức là buổi cận chiều tối rồi).

Chiều tối đó, ông chủ, là hình ảnh Chúa Giêsu, bảo người quản lý kêu thợ lại và trả cho mỗi người 1 quan tiền như nhau. Những kẻ làm nhiều giờ trong ngày bực tức vì thấy ông chủ nầy không biết gì về kinh tế, tài chánh cả, hơn nữa còn bất chấp lối tính toán và sự công bình thông thường:

"Nầy bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là 1 quan tiền sao?...Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ghen tức? Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót..." (Mt. 20, 13-16).

Đức Hồng Y Px.  Nguyễn Văn Thuận

CHUYỆN THƯỜNG NGÀY

BÀN TAY MẸ

Bà lão dúi vào tay tôi mấy bó rau dền mướt mượt: "Cô mua giúp để tôi về sớm! Thằng cháu nội đang sốt". Nhìn bàn tay gầy guộc, thô ráp với những chiếc móng tay nâu đen của bà, tôi se lòng nhớ một hình ảnh quen thuộc...

Tôi thường năn nỉ cắt móng tay cho mẹ, rồi dùng chanh chà từng móng nhưng những chiếc móng vẫn cứng đen và nhuốm vàng. Chúng là minh chứng cho cuộc đời vất vả của mẹ, là kết quả của những buổi mẹ dậy từ tờ mờ sáng bón phân vài liếp rau rồi hái rau mang ra chợ bán, kiếm từng đồng tiền nuôi chị em tôi ăn học.

Bùn đất, nhựa rau bao năm tích tụ đã khiến những móng tay mẹ trở nên nâu đen. Mẹ giữ cho chúng tôi có được bàn tay trắng trẻo, xinh đẹp của những người theo nghiệp bút nghiên. Còn đôi bàn tay mẹ, thô ráp và xấu xí nhưng lại luôn ấm áp...

Khi chị em tôi vào đại học, mẹ càng gắn bó với những liếp rau sau nhà. Thấy mẹ cực, hàng xóm thương mẹ, bán rẻ cho những mớ trầu xanh để mẹ ra chợ bán kiếm lời.

Đến một ngày, mẹ đau lưng không đứng lên ngồi xuống được, bác sĩ chẩn đoán mẹ bị gai cột sống. Cả nhà không cho mẹ dậy sớm thức khuya trồng rau, hái trầu ra chợ bán nữa nhưng cứ đỡ đau một chút là mẹ lại lén ra vườn làm việc để "khỏe người và có thêm ít đồng mua quà cho cháu".

Sáng sáng thức giấc, tôi lại thấy nụ cười quen thuộc của mẹ. Dù rất lo cho mẹ nhưng tôi vẫn hỏi: "Hôm nay mẹ hái được bao nhiêu bó rau?", mẹ lại tươi cười vừa kể chuyện vừa đếm mớ tiền bán được.

Tôi mong mẹ sẽ sớm chịu nghỉ ngơi và đi đây đó vui chơi, an hưởng tuổi già.

Anh Đào, nld.com.vn

HỎI ĐÁP MỤC VỤ

Phép Rửa có đủ cứu rỗi?

Hỏi: Xin cha vui lòng giải thích: nếu phép rửa đã tha hết mọi tội rồi và nhất là Chúa đã chết để cứu chuộc cho loài người, như vậy đã đủ để được cứu rỗi chưa, hay còn phải làm gì nữa?

Đáp: Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn trả lời:

Thiên Chúa là Cha nhân lành. Ngài muốn "cho mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lý" (1 Tm 2,4). Cụ thể, Chúa Giêsu đã vâng lời Chúa Cha, xuống trần gian làm Con Người để "hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người" (Mt 20,28).

Giáo Hội cũng dạy rằng: "Chúa Kitô đã chết cho tất cả mọi người, không trừ một ai. Công Đồng Quiercy (năm 833, DS 624) đã dạy rằng: không có, đã không có và sẽ không có người nào mà không được Chúa Kitô chịu đau khổ vì mình" (x. SGLGHCG, số 605).

Như thế vấn đề cứu rỗi cho con người là điều chắc chắn mà mọi tín hữu Chúa Kitô phải tin và hy vọng căn cứ vào lời Chúa và lời dạy trên đây của Giáo Hội.

Tuy nhiên, cho được hưởng công ơn cứu chuộc của Chúa Kitô, con người cần phải có những điều kiện sau đây:

I- Trước hết, phải được tái sinh qua Phép rửa vì "ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ. Còn ai không tin sẽ bị kết án." (Mc 16,16) Lại nữa: "không ai có thể vào Nước Thiên Chúa nếu không sinh ra bởi nước và Thần khí" (Ga 3,5).

Trên đây là chính những lời Chúa Giêsu đã nới với các Tông Đồ và với ông già Ni-cô-đê-mô xưa về tầm quan trọng và sự cần thiết phải lãnh nhận Phép rửa để được tái sinh trong sự sống mới sau khi con người cũ đã chết vì hậu quả của tội Nguyên Tổ.

Tuy nhiên, cần nói thêm một lần nữa ở đây là mặc dù Chúa nói như trên, nhưng lời Chúa cũng dành cho những người không biết Chúa và không được rửa tội một lối thoát nếu họ rơi vào hoàn cảnh không được ai nói cho biết về Chúa và phép rửa mà Chúa dạy phải lãnh nhận để được vào Nước Trời. Nói rõ hơn, những người đã sinh ra và chết trước khi Chúa Cứu Thế Giêsu ra đời, hoặc ngay cả sau khi Chúa sinh ra nhưng không được ai dạy bảo cho họ biết về Chúa và về Phép rửa khiến họ không được rửa tội thì đó không phải là lỗi của họ, vì "Làm sao họ tin Đấng họ không nghe? Làm sao mà nghe nếu không có ai rao giảng? (Rm 10,14). Nói cách khác, không ai có thể tự mình nhận biết có Thiên Chúa mà không cần người khác giúp lúc khởi đầu. Nhưng nếu họ đã sống ngay lành theo tiếng nói của lương tâm hướng dẫn họ sống theo đường lối của Chúa thì họ vẫn có thể được cứu rỗi nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô, vì "Ngoài Người (Chúa Kitô) ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ." (Cv 4, 12; 1Tm 2, 5; SGLGHCG số 1281, Lumen Gentium, số 16).

Nói khác đi, công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô được áp dụng không những cho những người đã nhận biết Chúa và được rửa tội mà còn cho cả những người không được biết Chúa và không được rửa tội vì không ai dạy cho họ biết. Đó là trường hợp của tổ tiên Việt Nam và các dân tộc khác trên thế giới đã sinh ra và chết đi trước khi Chúa Cứu Thế Giêsu ra đời, rao giảng Tin Mừng Cứu Độ và chết trên thập giá để đền tội thay cho nhân loại. Những người này không biết Chúa và không được lãnh phép Rửa thì đó hoàn toàn không vì lỗi của họ, nên Chúa không thể lên án họ vì lỗi này được. Ngược lại, họ vẫn có thể được cứu rỗi nếu họ đã sống ngay lành theo sự hướng dẫn của lương tâm và có ý đi tìm Đấng Tối cao là Thiên Chúa để thi hành thánh ý Ngài như đã nói ở trên.

Phép rửa mà Chúa Giêsu dạy phải lãnh nhận rất cần thiết cho phần rỗi của con người vì nhờ đó, con người được tha mọi tội - từ tội Nguyên Tổ cho đến mọi tội cá nhân đã mắc phạm cho đến lúc được rửa tội (x. SGLGHCG số 1263). Tuy nhiên, dù được rửa sạch một lần qua Phép Rửa là bí tích phát sinh từ cạnh sườn Chúa Giêsu khi Người đang bị treo trên thập giá và bị "một tên lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra" (Ga 19,34). Nước đó chính là nước rửa cho con người sạch mọi tội một lần nhưng không tiêu diệt hết mọi mầm mống của tội và trả lại cho con người tình trạng "ngây thơ, công chính ban đầu" (original innocence and justice), một tình trạng ơn phúc đặc biệt mà Adam và Eva đã được hưởng trước ngày hai người phạm tội vì ăn trái cấm, đem lại hậu quả to lớn là "vì một người duy nhất mà tội lỗi xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế sự chết đã lan tràn tới mọi người bởi vì mọi người đã phạm tội" (Rm 5,12).

Nói khác đi, sự bất tuân của Adam và Eva đã đem tội và sự chết vào trần gian. Nhưng nhờ một người duy nhất vâng phục Thiên Chúa là Chúa Kitô mà "muôn người cũng sẽ thành người công chính" vì "nhờ Đức Giêsu là con người bằng xương bằng thịt đã chịu chết, Thiên Chúa cho anh em được hòa giải với Người để anh em trở nên thánh thiện, tinh tuyền không có gì đáng trách trước mặt Người." (Cl 1,22).

Nhưng đó chỉ là viễn ảnh của niềm tin và hy vọng chứ chưa tức khắc thành sự thật ngay bây giờ cho ai, trừ khi có ai chết ngay sau khi được rửa tội thì chắc có cơ may được hưởng ngay ơn cứu độ để vào Nước Trời như Người trộm lành trước kia. (Chúa Giêsu đã tha thứ mọi tội cho anh ta vì anh đã sám hối và xin thương xót (Lc 23,42-43). Nhưng nếu vẫn tiếp tục sống trên trần thế này, thì mọi người lại có nhiều cơ hội để phạm tội thêm nhiều lần nữa sau khi được rửa tội, vì - như đã nói ở trên - Phép Rửa, tuy xóa một lần mọi tội lỗi, nhưng không tiêu diệt hết mọi mầm mống của tội, mà vẫn còn để lại trong con người "một số những hậu quả của tội như những đau khổ, bệnh tật, sự chết hoặc những yếu đuối gắn liền với sự sống như những yếu đuối về tính tình... và nhất là sự hướng chiều về tội lỗi mà truyền thống gọi là tình dục, hay còn được gọi là "lò sinh ra tội lỗi (formes percati) được để lại đó cho con người phải chiến đấu chống lại nó." cho đến hơi thở cuối cùng của đời người trên trần thế này. (x. SGLGHCG số 1264). Ngoài ra, còn phải kể đến những gương xấu, những dịp tội đầy rẫy ở khắp trên trần gian này nhất là những cám dỗ mãnh liệt của ma quỉ là "thù địch của anh em như sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé." (1 Pr 5, 8), nhằm đẩy xa con người ra khỏi tình thương của Chúa và ơn cứu độ của Ngài.

Đó là tất cả những thách đố, những nguy cơ mà con người phải đối phó sau khi được rửa tội để sống một đời sống mới theo Thần Khí hướng dẫn để được ơn cứu độ. Vì nếu "hướng đi của xác thịt là sự chết" thì "hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an" (Rm 8,6).

II- Phải làm gì nữa để xứng đáng được ơn cứu rỗi?

Mặt khác, dù Chúa Kitô đã chết để đền tội thay cho cả loài người nhưng Chúa cũng không biến đổi con người trở thành các thánh nam nữ ngay trong trần thế này. Trái lại, con người vẫn còn ý muốn tự do (free will) để hoặc sống theo Chúa là "Đường, là Sự Thật và là sự Sống" (Ga 14, 6) hay khước từ Chúa để sống theo "văn hóa của sự chết" chối bỏ Thiên Chúa để tôn thờ vật chất và mọi vui thú vô luân, vô đạo, gian ác, độc dữ, bất công, độc tài, hà khắc... như thực trạng của thế giới ngày nay. Đặc biết là ở các nước Âu Mỹ nơi không còn gì là luân lý phổ quát (universal moral) khiến người ta coi việc giết thai nhi là hợp pháp, nhưng nếu hành hạ súc vật như chó mèo thì lại có tội với pháp luật xã hội!

Lại nữa, một tệ trạng đang được phổ biến ở các quốc gia này là việc cho hợp thức hóa hôn nhân đồng tính (same sex mariage), một suy thoái đạo đức nghiêm trọng về mục đích của hôn nhân và nền tảng gia đình mà Thiên Chúa đã thiết lập từ đầu khi tạo dựng con người và trao cho sứ mệnh "Hãy sinh sôi nẩy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất và thống trị mặt đất." (St 1, 28).

Như thế, để hưởng công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô, người tín hữu phải thực tâm tỏ thiện chí sống đức tin từ trong nội tâm ra đến hành động cụ thể bên ngoài để cộng tác với ơn thánh trong nỗ lực thánh hóa bản thân và giúp thánh hóa người khác qua gương sống chứng nhân của mình.

Thật vậy, người được rửa tội rồi cũng ví như dân Do Thái đã vượt qua Biển Đỏ dưới sự lãnh đạo của ông Mô-sê để trở về quê hương và tiến vào Đất Hứa. Nhưng họ đã không được vào đất này ngay mà còn phải sống trong sa mạc mấy chục năm để được thử thách về lòng tin yêu Thiên Chúa của họ. Khi sống trong hoang địa, họ đã chịu thiếu thốn mọi sự, từ thức ăn đến nước uống. Vì thế họ đã kêu trách ông Mô Sê và A-ha-ron như sau: "Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Ai Cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thỏa thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó để bắt chúng tôi chết đói cả lũ ở đây." (Xh 16,3).

Họ cũng kêu trách Chúa và tệ hại hơn nữa họ đã đúc Con Bê bằng vàng và quỳ lạy nó như vị thần đã đưa họ ra khỏi ách nô lệ bên Ai Cập! (Xh 32, 1-6).

Thiên Chúa đã nổi giận và muốn tiêu diệt đám dân vô ơn này, nhưng nhờ ông Mô Sê khẩn cầu thay cho họ mà Thiên Chúa "đã thương không giáng phạt dân Ngài như Ngài đã đe" (Xh 32, 14).

Ngày nay dân Tân Ước, tức dân mới của Thiên Chúa đã được tái sinh qua Phép rửa, tức là cũng đi qua nước như dân Do Thái xưa vượt qua Biển đỏ để vào đất tự do, thoát ách nô lệ bên Ai Cập. Phép rửa cũng giải phóng cho con người khỏi ách nô lệ tội lỗi để sống đời mới theo Thần Khí hướng dẫn để được cứu độ. Nhưng cũng như Dân Do Thái xưa phải sống trong hoang địa 40 năm trước khi được vào Đất Hứa là đất Ca-na-an "tràn trề sữa và mật" (Ds 13,27), dân Tân Ước ngày nay cũng phải sống trong trần thế này một thời gian dài ngắn tùy số phận của mỗi người. Nghĩa là sau khi được tái sinh qua Phép Rửa, chúng ta chưa vào ngay Đất Hứa là Thiên Đàng mà còn phải "lưu vong" trong sa mạc trần thế này để được thử thách về đức tin, đức cậy và đức mến.

Nếu đức tin đã được chứng minh cụ thể bằng đức mến nồng nàn, nghĩa là thực tâm yêu mến Chúa trên hết mọi sự và tuân giữ các Giới Răn của Ngài, yêu mến tha nhân như Chúa Kitô đã dạy cộng thêm quyết tâm xa lánh mọi tội lỗi tức là thi hành những cam kết khi được rửa tội thì: "anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì và sẽ trở nên những con người vẹn toàn của Thiên Chúa giữa một thế hệ gian tà, sa đọa. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời..." (Pl 215).

Nói khác đi, những ai đã và đang cố gắng sống theo đường lối của Chúa, chống lại những đòi hỏi bất chính của bản năng, gương xấu của trần gian và mưu chước cám dỗ của ma quỉ, thì đang cộng tác hữu hiệu với ơn thánh để được cứu rỗi nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô.

Khi sạch tội, con người sống trong ơn phúc của Thiên Chúa, nghĩa là sống ơn cứu độ ngay ở trần thế này. Ngược lại, nếu không có thiện chí cộng tác của cá nhân với ơn Chúa mà buông mình sống theo "văn hóa của sự chết" thì ơn tái sinh của Phép Rửa sẽ trở nên vô ích và Chúa cũng không thể cứu ai thiếu thiện chí đó.

Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ xưa: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, Lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên cao mới được vào mà thôi." (Mt 7,21).

Thi hành ý Cha trên trời có nghĩa là yêu mến Ngài trên hết mọi sự thể hiện cụ thể qua việc tuân thủ những Giới Răn của Chúa, vì

"Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy...
Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy
anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy
như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy
và ở lại trong tình thương của Người" (Ga 14, 23; 15, 10).

Như thế, thi hành các giới luật yêu thuơng, công bình, bác ái, xa lánh tội lỗi và sống thánh thiện là thi hành ý muốn của Cha trên trời, Đấng yêu thương con người đến nỗi đã "sai chính Con mình đến mang thân xác giống như thân xác tội lỗi chúng ta để đền tội cho chúng ta." (Rm 8,3). Và chính nhờ "máu Thánh Tử đổ ra mà chúng ta được cứu chuộc." (Ep 1,7).

Tóm lại, Phép rửa và công ơn cứu chuộc của Chúa Kitô có giá trị cứu rỗi tuyệt đối, nhưng chỉ hữu ích cho những ai có thiện chí cộng tác với ơn Chúa sau khi được rửa tội bằng quyết tâm sống ơn tái sinh của Phép Rửa là "phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để cho Thần Khí đổi mới tâm trí anh em và phải mặc lấy con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện." như Thánh Phaolô đã dạy (Ep 4, 22-24).

Nói khác đi, nếu con người không có quyết tâm chừa bỏ mọi tội lỗi và thực thi đức ái nồng nàn thì không những Phép rửa mà cả công ơn cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô cũng sẽ trở nên vô ích, vì Thiên Chúa phải tôn trọng tự do của con người chứ không bắt buộc ai phải yêu mến và nhận ơn cứu rỗi của Ngài. Ngài chỉ mời gọi và con người có tự do để đáp trả hoặc ưng thuận hay khước từ lời mời gọi đó.

Sau kết, không thể viện cớ Chúa nhân từ và hay tha thứ để cứ tự do sống theo thế gian và xác thịt.

Chúa đầy lòng xót thương: đúng. Nhưng nếu con người lợi dụng tình thương của Chúa để đi hàng hai, nửa nóng nửa lạnh thì "Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta" như lời Ngài đã cảnh cáo trong sách Khải Huyền (Kh 3,16).

Đó là tất cả những gì chúng ta cần suy niệm trong Mùa Chay là thời điểm thuận lợi mời gọi mọi tín hữu suy nghĩ thêm về tình thương bao la của Thiên Chúa, về công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô và những gì ta phải làm để cộng tác với ơn Chúa hầu được hưởng ơn cứu độ của Ngài.

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

Tưởng Nhớ Và Cầu Nguyện Cho Các Linh Hồn

Dù xa xôi cách trở, người Việt Nam vẫn có lệ về với mái nhà chung gọi là "Từ đường" của Gia tộc trong những ngày giỗ, rồi cùng nhau viếng mộ, dâng hương, đọc kinh. Những năm gần đây, điều kiện phương tiện dễ dàng hơn một chút, con cháu ở xa lại kéo nhau về để viếng mộ Ông Bà Cha Mẹ và tham dự Thánh Lễ cầu cho các linh hồn tại nghĩa trang các Giáo xứ.... Dù được an táng trên đất liền, trên rừng, dưới biển, và dù ở đất khách quê người hay nơi chôn nhau cắt rốn thì tương quan của người chết và sống, sống và chết vẫn luôn khắng khít bởi một sợi dây vô hình của niềm tin và tình yêu.

Việc tuyên xưng đức tin

Đối với các tín hữu công giáo, việc tưởng nhớ và cầu nguyện cho các linh hồn, đặc biệt là linh hồn những người thân yêu, trước tin là một việc đạo đức bắt nguồn từ Đức Tin: Tin vào sự Phục sinh của Đức Giêsu Kitô, tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa, tin Thiên Chúa cho người đã chết được Phục sinh với Đức Kitô, tin xác loài người sẽ sống lại, tin ngày đoàn viên của con cái Thiên Chúa trong Nước của Ngài, trong đó có sự đoàn viên của các gia đình. Thánh Phaolô đã nói: "Nếu Đức Kitô không sống lại, thì niềm tin của chúng ta đã trở nên vô ích". Quả thật, ngay đối với một đức tin được cho là vụ lợi, cũng hiểu được điều nầy, vì tôi muốn "tin" là "được cho tôi". Không ai muốn "tin" để rồi chịu "thiệt thòi" vì niềm tin của mình. Đức Kitô đã nói một cách dứt khoát: "Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết." (Jn 6,40).

Tiến xa hơn trong Đức tin, là tin vào lòng Thương xót của Thiên Chúa. Lòng thương xót ấy bắt nguồn từ công trình sáng tạo,và không chấp nhận cho công trình ấy hư đi, lòng thương xót thực hiện công trình cứu rỗi. Với xác tín ấy, người tín hữu hân hoan vui sống trong tình thương tuyệt vời của Thiên Chúa Cha, quan phòng và gìn giữ. Hơn thế nữa, một cách nào đó, khi cầu nguyện cho các linh hồn, không chỉ là một đức tin vụ lợi, mà các tín hữu còn xác tín niềm tín thác hoàn toàn vào lòng từ ái của Thiên Chúa Cha đối với con cái: "Như người Cha, xót thương con cái mình, Chúa xót thương đối với những kẻ kính sợ người. Vì người biết chúng ta được dựng nên bằng gì, Người vẫn nhớ chúng ta là cát bụi". (Tv 102,13-14).

Từ xác tín ấy, lời cầu xin trở thành một tuyên xưng đức tin vững chắc về việc phục sinh của người thân yêu và niềm hy vọng đoàn viên của những người sẽ chết và sẽ sống lại trong nước Thiên Chúa.

Việc của chữ Hiếu, chữ Tình

Cầu nguyện cho các người thân đã qua đời cũng là việc làm của chữ Hiếu. Trước đây, lương dân Việt Nam cho rằng khi gia nhập đạo công giáo là người ta bỏ ông bỏ bà, bỏ tổ tiên; bây giờ thì khác nhiều rồi. Họ cũng đã thấy, không những không bỏ ông bỏ bà, mà người công giáo còn nhớ đến ông bà, cha mẹ, các người thân hầu như nhiều lần hơn họ. Câu kinh "Chúng con cậy vì danh Chúa nhân từ cho ông bà cha mẹ cùng các đẳng linh hồn được lên chốn nghỉ ngơi; Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. A men" được đọc sau kinh ăn cơm, trong buổi kinh sáng tối, trong những buổi kinh cộng đoàn tại các gia đình, trong những giờ kiệu công khai, trong lễ gia tiên dịp cưới hỏi... Bàn thờ tưởng nhớ ông bà cha mẹ người có đạo cũng hương nhang đèn khói, và anh chị em bà con gia đình tập trung lại để đọc kinh cầu nguyện- chỉ trừ việc cúng kiếng có tính cách mê tín là không thực hiện. Có người lương tham dự thánh lễ và nghe rõ ràng mỗi thánh lễ đều có cầu nguyện cho những "người đã ra đi trước chúng con". Hơn nữa, dịp lễ giỗ và tháng 11, việc người công giáo xin lễ cầu cho các linh hồn không còn là xa lạ đối với lương dân. Những việc làm ấy, vừa thể hiện tinh thần của điều răn thứ tư: Thảo kính Cha Mẹ, mà còn là một việc truyền giáo, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam. Nhưng, đó mới chỉ là việc bên ngoài.

Việc quan trọng tự bên trong, là Ông Bà Cha Mẹ dù đã khuất đi, nhưng luôn là nơi gặp gỡ của anh chị em trong đại gia đình. Anh chị em, nhất là những người ở xa gia đình, xa quê hương, xa nửa vòng trái đất chẳng hạn không khỏi ngậm ngùi nhung nhớ và sống lại trong lòng họ một thuở "gia đình êm ấm bên Cha bên Mẹ" vào những ngày giỗ chạp ở Việt Nam. Tôi biết có người đã còn cùng tham dự giờ kinh cầu cho Cha Mẹ qua điện thoại, rồi khóc ngon khóc lành vì niềm thương kính Cha Mẹ. Chính vì thế, thiết tưởng, việc tưởng nhớ và cầu nguyện cho Ông Bà Cha Mẹ không chỉ là việc của chữ Hiếu bên ngoài, mà còn là việc hoàn thiện tình huynh đệ huyết nhục chí cốt ở bên trong, để nâng đỡ nhau trong cuộc đời, trên con đường lữ hành tiến về ngày đoàn viên trên trời.

Mặt khác, việc tưởng nhớ cầu nguyện cho người bạn đời đã khuất, có sức làm cho người đã khuất luôn hiện diện trong gia đình, chi phối mọi sinh hoạt, và nhất là làm cho dây ràng buộc hôn nhân công giáo có lý do để duy trì bền vững cho đến ngày tái ngộ trên thiên quốc. Vẫn biết rằng, sẽ không tái ngộ trong tình trạng hôn nhân thế gian, nhưng họ đang giữ cho nhau chu toàn bổn phận đối với con cái của họ. Quả thực, đã có không ít người đang trong tình trạng "thủ tiết" thật thánh thiện, nhờ ơn Chúa qua việc trung thành với giao ước hôn nhân khi người bạn đời đã khuất. Họ không "một thân một mình" chu toàn bổn phận đối với con cái, vì, có thể nói, luôn có sự hiện diện của người bạn đời. Có những người còn được ơn hiến dâng đoạn đời còn lại cho công việc tông đồ, truyền giáo. Họ đang sống trong hân hoan vì người chết vẫn đang sống với họ và đợi chờ đoàn viên trên thiên quốc....Như vậy, việc tưởng nhớ cầu nguyện cho người thân đã qua đời, là một việc đạo đức của niềm tin, của chữ hiếu và của cả chữ tình.

Việc của tình thương nhân loại

Có những người đang sống nhưng luôn nghĩ đến người đã chết, nhất là những người ở vào độ tuổi "ngũ thập tri thiên mệnh". Họ có một tương quan rất gần với những người đã ra đi. Đi ra đường, họ nghĩ đến những người bị tai nạn còn để lại những dấu vẽ trên đường. Tắm biển, họ nhớ tới những người chết trên biển, những người vượt biên ra đi nghìn trùng thăm thẳm. Đang lúc tiệc tùng vui chơi họ nghĩ tới những người đã chết vì quá độ. Trong bửa cơm, họ nhớ những người không còn được sống nhờ lương thực hằng ngày. Đến bệnh viện, họ nhớ tới những người ra đi từ nhà xác, nhớ đến những em bé trong thùng rác. Ở nơi nào, họ cũng có thể nhớ tới các linh hồn kể cả các linh hồn mồ côi. Không chỉ nhớ tới mà còn cầu nguyện nữa. Nghe trống đánh đâu đó, hay nghe chuông nhà thờ buông rời từng tiếng một, họ dừng công việc lại ngay và cầu nguyện cho linh hồn mới qua đời. Gặp một đám tang, họ cầu nguyện cho linh hồn mới qua đời, bất kể là lương hay giáo. Đi ngang qua nghĩa trang, họ cầu nguyện cho các linh hồn....

Đây là một việc đạo đức phát xuất tự bên trong, tự niềm tin Kitô Giáo, còn là một nét văn hóa độc đáo của Kitô Giáo: Sống và Chết một tương quan nhân sinh kỳ diệu: những người sẽ chết cầu nguyện cho những người đã chết. Từ điểm văn hóa nầy, hình thành nhân cách một Tín Hữu Chúa Kitô luôn sống trong thế giới đại đồng của loài người sẽ chết, không phân biệt dân tộc, màu da, tôn giáo, chính kiến, giai cấp. Điểm văn hóa ấy, lại chính là Giáo Lý Chúa Kitô: sống trong tình yêu thương chan hòa, sống để chuẩn bị cho cái chết và sống lại của chính mình.

Việc chuẩn bị cho sự chết của chính mình.

Việc tưởng nhớ và cầu nguyện cho các linh hồn cũng nhắc nhớ cho chúng ta về cái chết của chính mình và việc phải chuẩn bị cho cuộc vượt qua ấy một cách hoàn mỹ.

"Ai chưa qua chưa phải là người". Tôi vẫn thích câu nầy trong bài nhạc đời "Thói Đời". Và suy đi nghĩ lại, thấm thía lắm- cả hai mặt xã hội và tôn giáo. Không biết tác giả bài "Thói Đời" khi viết câu nầy, nhạc sĩ có suy tư hết chiều rộng chiều dài của nó không, có thể có, có thể không, nhưng dù sao, cũng đủ để những người nghe bài hát cảm nhận được một cuộc đời. Động từ "qua" trong câu thật tuyệt. Chỉ một động từ ấy đủ định nghĩa một cuộc đời: qua sinh, đến tử; qua lòng Mẹ, được là con; qua trườn, bò, đến ngồi; qua chập chững đến bước đi; qua trẻ đến già; qua đau khổ tới hạnh phúc, qua tủi nhục đến vinh quang; và qua sự chết mới đầy đủ một kiếp người. Và hơn thế nữa, đối với người công giáo: qua Đức Giêsu Kitô, đến Thiên Chúa, như Chúa Giêsu đã nói : "Chính Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy" (Jn 14,6).

Những người đã chết là những người đã qua đúng một kiếp người. Họ đi về đâu? Hãy hỏi họ thì biết. Hỏi thì được, nhưng không thấy họ trả lời? Vâng họ rất im lặng, nhưng quả thật, họ đã nói tất cả: "Sự chết thì cố định, thì tương đồng, nhưng giờ chết thì bất ngờ, cách chết thì tương dị"- "Sống là chuẩn bị để chết" và "chết là về với Nguồn Cội"

Vâng, những người chưa qua trọn kiếp người bằng cái chết, có thể khó hiểu. Nhưng đối với Kitô hữu, thì hẳn phải biết, vì ngay tự danh xưng Kitô hữu cũng cho thấy họ phải kết hiệp với Đức Kitô để có được danh xưng nầy cách xứng đáng. Mà đã kết hiệp với Đức Kitô, là chắc chắn phải học bài học "chết". Không chỉ xác nhận sự chết nằm ngay trong sự sống như nhịp chết giữa hai nhịp đập của trái tim, nhưng người Kitô hữu luôn chuẩn bị để tiến dần đến sự chết và vượt qua cái chết của đời mình bằng cách tập chết từng giây phút trong đời theo gương Đức Giêsu Kitô: chết ý riêng của mình, để ý của Thiên Chúa Cha được thực hiện, chết sự sống mình để người khác được sống, chết tự do mình để người khác được tự do... Vì thế, người tín hữu khi nhớ đến và cầu nguyện cho các linh hồn, cũng là lúc họ phải nghĩ đến cổ xe về vĩnh cửu đang chờ họ ở đâu đó, và họ phải chuẩn bị. Và khi đã được chuẩn bị bằng cách tập chết từng ngày với Đức Kitô, thì việc chia tay hay từ bỏ thế gian đối với họ không còn là một bận vướng đáng kể. Họ sẵn sàng về với nguồn cội là Thiên Chúa Cha, vì họ đã cùng vượt qua với Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chiến thắng sự chết bằng sự phục sinh vinh hiển.

Lạy Chúa, tương lai tuyệt vời của các Kitô hữu chúng con là được cùng Đức Giêsu Kitô chết và sống lại vinh hiển, để được hạnh phúc đời đời trong lòng yêu thương của Ba ngôi Thiên Chúa. Nhưng chúng con, cũng như các linh hồn đã ra đi trước chúng con, là vật phàm hèn yếu đuối, xin lòng thương xót Chúa tha thứ muôn tội và ban ơn cứu rỗi. Chúng con kính tin vào lòng thương xót Chúa, và tín thác vào lòng thương xót của Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, Đấng đã đổ máu mình chuộc tội chúng con. Amen. (Lm. Pm. Cao Huy Hoàng)

1686    05-11-2012 22:25:23