Sidebar

Thứ Bảy
27.04.2024

Linh Mục và Việc Dạy Giáo Lý - Tháng 10 năm 2010

LỜI CHỦ CHĂN

Tòa Giám Mục Vĩnh Long
103 đường 3/2
Vĩnh Long

Ngày 25.9.2010

V/v Linh Mục và Việc Dạy Giáo Lý

1. Gương cha Thánh Gioan Maria Vianney

Hội Thánh đã cử hành Năm Linh Mục khai mạc ngày Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu 19.6.2009 và kết thúc cũng vào ngày Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu 11.6.2010. Cha Gioan Maria Vianney là Linh Mục của Thánh Tâm Chúa Giêsu, là Tông Đồ của Tình Yêu , của Lòng Thương Xót Chúa.

Bằng cách nào cha Gioan Maria Vianney đã biến đổi cộng đoàn bé nhỏ tại Ars, không đầy 300 tín hữu, mà không còn mấy người đến Nhà Thờ? Vào đầu tháng 2 năm 1818, khi trao Văn Thư Bổ Nhiệm cho cha Gioan Maria Vianney, Cha Courbon nói với người: “Bên đó người ta ít kính mến Chúa lắm, cha sang đó mà lo cho con chiên yêu mến Chúa hơn”. Người đáp lại : “Sở nguyện của con là lo cho con chiên kính mến Chúa”.

Cha đến Ars ngày 9.2.1818, lúc 32 tuổi. Cha làm những việc mà mỗi Linh mục có thể làm theo chức phận của mình: cầu nguyện, cử hành các Bí Tích, dạy giáo lý, các việc bác ái đối với người nghèo khó. Ban đầu cha dành thời giờ đi thăm viếng các gia đình, có khi ra đồng để gặp gỡ những người dân quê và trao đổi với họ vài ba câu. Thấy họ nghèo, ít học và cũng ít biết giáo lý, lại thích vui chơi, lui tới các quán rược, thích nhảy, không quen đến Nhà Thờ. Cha muốn cho con chiên của mình sốt sắng ngoan đạo, nên thường gay gắt bài bác những tệ nạn. Cha nói với họ: Có hỏa ngục đó nghe anh chị em, tôi không bịa đặt đâu. Nhưng cha không thành công. Bây giờ cha dành nhiều thời giờ ở trong Nhà Thờ, cầu nguyện trước Nhà Tạm, làm nhiều việc hy sinh hãm mình. Lời dạy của cha nhẹ nhàng hơn.

Cha quan tâm nhất là dạy giáo lý cho trẻ em. Cha bắt đầu qui tụ trẻ em. Dần dần các phụ huynh cũng theo con em của họ, ngồi lại phía sau để nghe cha dạy. Sở dĩ cha thu hút được nhiều người, chắc chắn không phải bằng lời lẽ chải chuốt, cũng không phải bằng cách ngăm đe gắt gỏng nữa. Catherine Lassagne, người cộng tác với cha suốt đời, làm chứng rằng chính tình yêu đã cải thiện Họ Đạo chớ không phải gì khác. Tuổi càng cao và sức càng kiệt thì lòng mến Chúa càng gia tăng. Các bài giảng và giáo lý của cha hầu như lúc nào cũng xoay quanh tình yêu Chúa. Từ việc dạy giáo lý cha đưa con chiên của mình đến Tòa Giải Tội, đến Lòng Thương Xót Chúa.

2. Giáo huấn của Hội Thánh

Xin nghe lời nhắn nhủ của Đức Gioan Phaolô II:”‘Về phần anh em là Linh Mục, đây là địa hạt trong đó anh em là cộng tác viên trực tiếp của các Giám Mục của anh em. Công Đồng đã gọi anh em là những nhà giáo dục đức tin ( Vat. II,PO , số 6): anh em có thể nào làm người giáo dục đức tin hoàn hảo bằng phương thế khác hơn là bằng cách dành phần tối hảo trong các nỗ lực của anh em để tăng trưởng cộng đoàn của anh em trong đức tin không ? Dù anh em phụ trách các giáo xứ, làm tuyên úy trường học , Trung hay Đại học, chịu trách nhiệm mục vụ ở bất cứ cấp bực nào, hoặc là cổ võ viên của những cộng đoàn lớn hay nhỏ, nhưng nhất la những đoàn thanh niên, thì Giáo Hộicũng mong ước anh em không bỏ sót các việc nào cần thiết cho một công cuộc dạy giáo lý có tổ chức và định hướng… Tất cả những người có đức tin đều có quyền học giáo lý, tất cả các chủ chăn đều có bổn phận lo liệu việc ấy” (CT, số 64).

3. Kết :

Việc mục vụ của chúng ta ngày càng gặp nhiều trở ngại trong xã hội thế tục hóa, chỉ biết đánh giá trên lợi nhuận và cổ võ đời sống hưởng thụ, dễ dãi. Chúng ta quyết tâm thực hiện sứ mạng của mình, làm sao cho Hội Thánh luôn hiện diện và phục vụ: “Trước mặt Thiên Chúa và Đức Kitô Giêsu, Đấng sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết, vì cuộc Hiển Linh và vương quyền của Người, tôi khẩn thiết yêu cầu : Hãy rao giảng Lời Chúa, hãy ứng phó lúc thuận lúc nghịch, hãy biện bác, hãy khiển trách, hãy khuyên lơn, hết tình đại lượng và dụng tâm dạy dỗ” (2 Tim 4,1-2).

Mong sao cho các Họ Đạo chúng ta hôm nay tiếp tục truyền thống của cộng đoàn tín hữu ban đầu “Họ chuyên cần với giáo huấn của các Tông đồ và sự hiệp thông, trong việc Bẻ Bánh và Cầu Nguyện” ( Tđcv 2,42).

+ Tôma Nguyễn Văn Tân
                     Giám Mục Vĩnh Long

THƯ MỤC VỤ

CHỦ ĐỀ: LINH MỤC VÀ VIỆC DẠY GIÁO LÝ

Vai trò của các Linh Mục: hoạt động dạy Giáo Lý trong gia đình hay giáo xứ chỉ có thể thực hiện được nhờ sự quan tâm nhắc bảo và hướng dẫn của các Linh Mục nhất là Linh Mục Quản Xứ. Cộng đồng Vaticanô II gọi các ngài là thầy dạy đức tin và ĐGH Gioan Phaolô II cắt nghĩa thêm: “Không có cách nào tốt hơn cho các con để thành những thầy như thế là dồn hết nỗ lực tốt nhất để làm cho cộng đồng của các con không bỏ sót bất cứ điều gì cần thiết cho nỗ lực dạy Giáo Lý có tổ chức vững chắc và định hướng đúng đắn.” (DGL 64) (TMV số 31).

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

Người ta thường thấy một nông dân xứ Ars, mỗi ngày trước khi ra đồng, đều ghé đứng vào cuối nhà thờ cầu nguyện giây lát rồi mới đi cày. Khi trở về ông cũng ghé vào nhà thờ cầu nguyện như vậy.

Ai cũng để ý và cảm phục. Một hôm có người hỏi: "Ngày ngày ông ghé vào nhà thờ mấy bận để làm gì thế? "Lão nông dân trả lời cách đơn sơ mà đầy ý nghĩa: "Tôi bàn chuyện với Chúa và Chúa bàn chuyện với tôi".

Việc dạy Giáo lý giúp người tín hữu đào sâu đức tin và đi vào đời cầu nguyện gắn bó với Chúa. Do đó, giờ cầu nguyện là giờ tâm sự với Chúa là Cha, chứ không phải là giờ làm bài, là gìờ của quả tim, chứ không phải là giờ luận lý. Đừng nặn óc bóp trán để trình bày với Chúa.

Trước khi diễn giải Thư mục Vụ, chúng ta tóm lược một vài ý về chủ đề: Vai trò của Linh mục trong việc dạy Giáo Lý hôm nay.

- Linh mục (cha sở) đã lãnh sứ mạng dĩ nhiên là có nhiệm vụ dạy giáo lý.
- Vatican II đã gọi linh mục là Thầy dạy giáo lý, nghĩa là hành nghề thường xuyên.
- Việc dạy giáo lý cao siêu và khổ nhọc nên đòi đời linh mục phải có nhiều cố gắng (nổ lực) và chu đáo.
- Dạy giáo lý cho giáo và lương bao la quá, cha sở phải làm gì? Có thể nói đây là vai trò:
 
                                      + Chiêu mộ những người thiện nguyện cộng tác
 
                        + Đào luyện.
                        
+ Tổ chức cho họ cộng tác
                        
+ Kiểm soát, hướng dẫn.

Đó là vai trò - đúng hơn là nhiệm vụ - của cha sở, thực hiện quyền dạy giáo lý trong họ đạo.

Các linh mục - những phụ tá trực tiếp của các Giám mục - là “những thầy dạy đức tin” (Sắc Lệnh về Mục Vụ và Đời Sống Linh Mục, Presbyterorum Ordinis, số 6) cần nổ lực hết sức để làm sao cho cộng đoàn của mình được tăng trưởng trong đức tin (x. Catechesi Trasendae số 64). ĐTC Gioan Phaolô tha thiết kêu mời các linh mục: “Hội Thánh kỳ vọng rằng các con không bỏ sót bất cứ điều gì cần thiết cho nỗ lực dạy Giáo Lý có tổ chức vững chắc và định hướng đúng đắn” (CT 64).

ĐTC Bênêđictô XVI nói về trách nhiệm giảng dạy của linh mục, trong dịp tiếp kiến thứ tư hàng tuần, ngày 14.04.2010 như sau: “Là hiện thân của Chúa Kitô (in persona Christi) linh mục phải giảng dạy “Đức Kitô”, chứ không phải bản thân mình... Trong ba nhiệm vụ - giảng dạy, thánh hoá và cai quản, ba hành động của chính Chúa Kitô Phục sinh trong Giáo Hội - nhiệm vụ giảng dạy có tầm quan trọng đặc biệt: Linh mục “giảng dạy” không bao giờ giới thiệu ý nghĩ của riêng mình, nhưng phải chỉ ra cho con người về thực tại và sự hiện diện của Thiên Chúa, sinh động và đang hành động trong thế giới. Linh mục loan báo tất cả những gì Thiên Chúa đã mạc khải về chính Người, mà Truyền thống đã ghi lại và được Huấn quyền đích thực diễn giải từ hai ngàn năm nay”.

Một đạo lý như vậy, trước hết, phải trở nên sinh động nơi bản thân linh mục: “Linh mục phải biết nội tâm hóa và sống đạo lý này cũng như các chân lý của đức tin trong một cuộc sống thiêng liêng sâu đậm. Linh mục tin, đón nhận và tìm cách sống trước tiên điều Chúa đã dạy và Giáo Hội đã truyền đạt”.

Đây là nhiệm vụ thường xuyên của linh mục: “Linh mục luôn là một “nhà giáo”, với niềm xác tín khiêm tốn nhưng đầy hân hoan của kẻ đã gặp được Chân lý, đã được Chân lý tóm lấy và biến đổi và chẳng còn có thể làm gì khác ngoài việc loan báo Chân lý ấy”.

Cuối cùng, Đức Thánh Cha đã nhắc lại là phải lấy cha sở họ Ars làm gương mẫu: “Anh chị em thân mến, Chúa đã giao cho các linh mục nhiệm vụ làm những kẻ loan báo Lời của Người, Chân lý có sức cứu độ. Chớ gì sự giản dị và trung thành của Thánh Gioan Maria Vianney trong việc loan báo này là gương mẫu cho mọi linh mục!” (Theo ZENIT)

Trước đó, ngày 31-5-1925, Đức Thánh Cha Pi-ô XI đã tuyên bố ngài là bổn mạng của các cha sở, “cha sở của các cha sở” cho toàn thế giới công giáo.

Đức Piô XII đã lấy Cha Sở Ars làm gương cho các nhà giảng thuyết: “Cha Sở Ars thánh thiện chắc không có tài thiên phú như Đức Giêsu hay nhà hùng biện Bossuet, nhưng ngài có những xác tín sống động, rõ ràng, sâu xa, từ trong tâm hồn rung động ra lời nói, chói sáng trong đôi mắt, khêu gợi trì tưởng tượng và gây xúc động bằng những tư tưởng, hình ảnh, so sánh một cách thích hợp đúng lúc và hấp dẫn. những nhà rao giảng như thế chắc chắn sẽ chinh phục được các thính giả”.

Ngày 23-4-1929, dịp kỷ niệm 100 năm ngày qua đời của cha sở thánh này, Đức Thánh Cha Gio-an XXIII đã nói về ngài bằng cả một thông điệp “Sacer-dotii nostri primordia” để khuyên dụ các linh mục phải nên thánh theo gương Cha sở Ars.

Và ngày 16-10-1986, Đức Gio-an Phao-lô II đã đến hành hương ở Ars. Ngài dâng lễ trên một đồng cỏ ở gần làng. Trong bài giảng ngài nói: "Đức Ki-tô đã dừng chân ở đây, xứ Ars này, trong thời mà cha Gioan Maria Vianney làm cha sở. Vâng ngài đã dừng tại đây. Ngài đã thấy nhiều đám đông đàn ông và đàn bà của thế kỷ vừa rồi, họ "mệt mỏi" như những con chiên không người chăn. Đức Ki-tô đã dừng chân ở đây như một Mục tử nhân lành."

Điều gì đã làm cho Hội Thánh vây quanh một vị linh mục miền quê với một sự tôn trọng như thế? Và điều gì đã đưa đám đông đến tôn vinh ngài, rủ nhau đến với ngài, kể ngài như một vị thánh lúc ngài còn sống?

Người ta không ngần ngại trả lời không sợ lầm rằng: vì vị linh mục này là một nhà truyền giáo vĩ đại; vì lời nói và cuộc sống của ngài đã đi vào tận đáy lòng mọi người. Và cuộc sống của Ngài phản chiếu đời sống của chính Chúa Giêsu.

Vậy đâu là cách thế Ngài thực hiện để truyền giáo? Thông thường khi nói đến kế hoặïch hay chương trình mục vụ, chúng ta nghĩ ngay đến việc lên chương trình để thúc đẩy giáo dân tham gia. Kế hoặch của cha Gioan Maria Vianney không khởi sự bằng việc bắt giáo dân phải làm gì, hay bắt ngài phải làm gì cho họ. Ngài khởi sự bằng những gì ngài phải làm cho chính đời mình: Mục Vụ Bắt Đầu Từ Mục Tử.

Trước tiên ngài chủ tâm lo việc cứu rỗi linh hồn mình, và lôi kéo người khác vào con đường thánh thiện bằng gương sáng của mình. Thật vậy, nếu muốn thánh hoá người khác, hãy bắt đầu nơi chính bạn. Cha Gioan Maria Vianney khởi sự hoán cải giáo xứ bằng hoán cải chính mình.

Khi thi hành sứ vụ, cha đặt việc cầu nguyện lên hàng đầu. Khi vừa đặt chân tới ranh giới xứ đạo lần đầu, ngài đã quỳ xuống cầu nguyện và việc cầu nguyện gắn liền suốt cuộc đời mục vụ của Ngài. Ngài ý thức sâu sắc rằng sứ mệnh giao phó cho ngài hoàn toàn vượt quá khả năng của mình. Nều sứ vụ linh mục của ngài sinh hoa trái thì đó là do Chúa Giêsu làm qua cha. Vì thế, người ta thấy cha gục đầu xuống nền nhà thờ sáng sớm và khuya tối để van nài, hay cả khóc lóc nữa để xin ơn hoán cải cho giáo xứ mình.

Bằng lối sống tự hoán cải cùng với việc phó thác cho Chúa qua những giờ cầu nguyện, cha sở Họ Ars còn quan tâm đặc biệt đến việc Dạy Giáo Lý. Thật vậy, thời gian ngồi trong tòa giải tội không miễn cho ngài việc dạy giáo lý. Bởi vì ngài rất hiểu tầm quan trọng của việc dạy giáo lý là làm cho đức tin lớn lên. Bằng thứ ngôn ngữ đơn sơ, những hình ảnh gợi cảm và sức thuyết phục của lối diễn tả, ngài dạy Giáo lý hàng ngày cho người lớn và trẻ con. Lời nói của ngài đầy sức sốngvì phản ảnh chính đời sống đạo đức của Ngài.

"Là" linh mục, cha Gioan Maria Vianney cố gắng từ từ để trở nên "linh mục" một cách hoàn hảo đến nỗi người ta đã thốt lên: "Tôi đã thấy Thiên Chúa trong một con người".

Với tinh thần tự hoán cải, khổ chế và một đời sống đạo đức, những lời rao giảng và dạy Giáo Lý của Cha đã đưa người ta đến với Chúa qua việc lãnh nhận các Bí tích.

Vào cuối đời, khi tiếng nói có yếu đi không đủ sức để Dân Chúa lắng nghe rõ ràng, thì cha còn giảng bằng những ánh mắt sốt mến, những giọt nước mắt, những tiếng kêu lên vì yêu Chúa và những cách diễn tả đau khổ khi nghĩ tới tội lỗi. Năm ngày trước khi qua đời, cha vẫn còn giảng dạy trên giường bệnh. Cha Gioan Maria Vianney chính là hình ảnh của Chúa Ki-tô, Đấng chăn chiên lành.

Từ những nhận định trên, chúng ta thử kiểm điểm cách nhìn nhận và thực hiện việc dạy Giáo lý của mỗi linh mục như thế nào?
- Cha sở có thấy mình có trọng trách dạy giáo lý không?
- Có cảm thấy mình hoàn toàn thiếu khả năng dạy giáo lý cho mọi người lương cũng như giáo?
- Có nhận định phải tìm người thiện nguyện để cùng cộng tác?
- Có quá tin tưởng, và vì thế, buông trôi, để cộng tác viên làm thế nào cũng kể là tốt?
- Có nhận thấy giáo lý viên phải được đào luyện, hướng dẫn, kiểm soát, thì việc dạy giáo lý mới đạt nhiều hiệu quả?
- Có nhớ bài giảng Chúa nhật đúng là bài dạy giáo lý không?

LỜI NGUYỆN CHUNG

Kêu mời: Anh chị em thân mến,
Bởi bí tích Truyền Chứa Thánh, các linh mục được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, phải nên một với Chúa Kitô về các sứ vụ tư tế, tiên tri và vương đế. Các linh mục có trách nhiệm dạy giáo lý. Chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện:

  1. Chúa phán: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Chúng ta cầu nguyện cho hàng giáo phẩn trong Hội Thánh, biết chuyên cần thực hành sứ vụ dạy giáo lý cho giáo dân và cho lương dân.

  2. Chúa phán: “Các con đã nhận cách nhưng không, thì cũng hãy cho cách nhưng không”. Chúng ta cầu nguyện cho các linh mục của Hội Thánh biết tận tâm tận lực, dùng mọi khả năng mình mà truyền đạt giáo lý đức tin.

  3. Chúa phán: “Các con hãy đi mà giảng dạy cho muôn dân”. Chúng ta cầu nguyện cho các linh mục của Hội Thánh quan tâm nhiều đến việc dạy giáo lý cho muôn dân, và bằng mọi cách để mọi người được nghe dạy giáo lý.

  4. Chúa phán: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong họ đạo chúng ta, biết cộng tác với hàng giáo phẩm, giúp các ngài thi hành sứ vụ dạy giáo lý cho mọi người.

Kết thúc: Lạy Chúa, Chúa mời gọi các linh mục theo sát chân Chúa trong việc dạy giáo lý. Xin cho mọi người nhận ra lời dạy của Chúa nơi môi miệng của các linh mục, để mọi người tin và nhận được ơn cứu rỗi đời đời. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

LINH MỤC VÀ VIỆC DẠY GIÁO LÝ

Linh mục, người mục tử chăm sóc đoàn chiên, một hình ảnh thật sinh động cho thấy rõ vai trò của người mục tử trong sự sống còn của đoàn chiên, vai trò của người linh mục trong việc phát triển họ đạo cũng những sự phát triển về đức tin nơi các tín hữu cũng thế. Nhờ Bí Tích Truyền Chức, các linh mục là hình dạng của Đức Kitô, là Đầu của Nhiệm Thể Người, là Hội Thánh. Thừa tác vụ của linh mục hình thành cộng đồng, và phối hợp cùng củng cố các thừa tác vụ khác trong Hội Thánh. Mục tử phải là người đi trước dẫn đường tìm những đồng cỏ xanh tươi, những dòng nước mát trong ngần, người linh mục nơi họ đạo cũng là người đi đầu hướng dẫn giáo dân bước trong hành trình đức tin.

Cũng như người cha trong gia đình, linh mục chính là người tìm ra “hướng sống” cho họ đạo. Hướng sống quan trọng cho họ đạo không phải là đời sống kinh tế mà là đời sống đức tin. Người tín hữu không thể sống đạo theo cảm tính, theo tình cảm hay theo một mớ lý thuyết suôn… nhưng họ cần được hướng dẫn để xác tín niềm tin và sống niềm tin ấy trong đời sống hằng ngày cách sống động. Để được như thế họ cần phải được đào luyện đức tin bằng việc được học hỏi giáo lý trong đời sống của họ. Nhưng ai là người sẽ hướng dẫn người tín hữu trong họ đạo đây nếu không phải là linh mục, là mục tử đang chăm sóc họ.

Linh mục có tầm quan trọng sống còn trong việc hướng dẫn giáo lý và đời sống đức tin cho người tín hữu. Vì thế, thư mục vụ dạy rằng: Hoạt động dạy giáo lý trong gia đình hay giáo xứ chỉ có thể thực hiện được nhờ sự quan tâm nhắc bảo và hướng dẫn của các linh mục nhất là linh mục quản xứ. Cộng đồng Vaticanô II gọi các ngài là thầy dạy đức tin và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cắt nghĩa thêm: “Không có cách nào tốt hơn cho các con để thành những thầy như thế là dồn hết nỗ lực tốt nhất để làm cho cộng đồng của các con không bỏ sót bất cứ điều gì cần thiết cho nỗ lực dạy giáo lý có tổ chức vững chắc và định hướng đúng đắn.” (DGL 64)

Có người than phiền rằng: Không biết các lớp đào tạo giáo lý viên dạy dỗ ra sao mà những người được gởi đi học về không biết dạy giáo lý? Nhưng nếu nhìn một cách tích cực hơn thì các giáo lý viên trong Giáo phận đều là học trò của các lớp giáo lý viên Giáo phận. Vậy tại sao ở các họ đạo khác Giáo lý viên dạy được còn tại họ đạo ấy thì không? Câu hỏi phải đặt ngược lại. Học viên các lớp giáo lý viên không thể nào đứng lớp được nếu chỉ được hướng dẫn 8 đến 10 tiết trong vòng 2 tháng. Ở các lớp giáo lý giáo phận họ chỉ được hướng dẫn cách cơ bản nên họ rất cần sự hướng dẫn thêm nơi họ đạo, nơi linh mục phụ trách của họ. Một họ đạo mà vị chủ chăn biết để tâm đến công tác giáo lý, tổ chức, khuyến khích, chọn người, hướng dẫn, đào tạo… thì họ đạo ấy được phát triển vững mạnh trong niềm tin.

Vai trò tích cực của linh mục là điều thiết yếu cho việc tông đồ Giáo Lý. Ước gì các linh mục luôn nhận ra được vai trò và trách nhiệm cao cả của mình trong công tác dạy giáo lý để đời sống đức tin nơi người tín hữu được phát triển bền vững và năng động.

HỌC KINH THÁNH

BÀI 57: SÁCH GIẢNG VIÊN

1/ Nội dung sách nầy là gì?

Đây là một tập sách nhỏ nói lên tâm trạng không th?a với thực tại trần gian.

2/ Niên biểu quyển sách

Căn cứ vào ngôn ngữ sử dụng trong cuốn sách và vào sự khám phá của ngành khảo cổ học có lẽ sách được biên soạn vào khoảng năm 150 trước công nguyên, tức vào thế kỷ thứ III.

3/ Sách Giảng Viên đối với chúng ta ngày nay thế nào?

Sách có cái nhìn sáng suốt và thực tế về cuộc đời, nhưng có vẻ hơi bi quan và tiêu cực. Sách trình bày cho ta thấy những giới hạn của con người và mời gọi ta hãy tìm kiếm cái bền bỉ không hề qua đi, đó chính là Thiên Chúa vĩnh hằng.

Lời Chúa: “Phù vân ôi phù vân, tất cả mọi sự đều phù vân.” (Gv 1, 2).

Cầu nguyện: “ Lạy Chúa, Ngài đã tạo thành nên chúng con cho Chúa, và tâm hồn con khắc khoải cho đến khi tìm được an bình nơi Chúa” (T. Augustinô).

SỐNG ĐẠO

Sống đạo là sống thờ Thiên Chúa tuyệt đối! Không có thần vật nào sánh được với Thiên Chúa. Thờ Đấng tạo dựng nên mình, thương yêu mình. Do đó, Chúa có quyền tuyệt đối trên chúng ta, là chủ tể của chúng ta, lại thương yêu chúng ta; cho nên chúng ta đối với Chúa phải hoàn toàn lệ thuộc tùng phục và thương mến.

Vì thế, theo pháp lý, chúng ta không có quyền nhìn nhận một vị nào, một vật nào sánh bằng Thiên Chúa được. Bởi Chúa tạo dựng nên không có gì là của riêng chúng ta, chúng ta là sở hữu của Chúa, vì Chúa là Chủ Tể; cũng theo pháp lý, chúng ta phải tuân giữ luật Chúa và dĩ nhiên phải yêu mến Chúa.

*
* *

Cho được tỏ ra tôn thờ, tuân phục yêu mến, thì việc cao trọng nhứt chúng ta có thể thực hiện là Thánh lễ. Vật lễ cúng kiến để tỏ lòng tôn thờ.

Lấy gì để cúng kiến? (Chúng ta nhớ tiếng “thờ” có nghĩa là cung kính, còn tiếng thờ theo chúng ta có nghĩa là tôn trọng Đấng Tuyệt Đối). Người ta thường dùng những vật tốt như hoa quả, vật quý như vàng hương để cúng tế, có khi còn dùng của Chúa dâng lại cho Chúa (như nước lạnh hay hy sinh, sát tế).

Còn chúng ta? Có thể chúng ta sống chịu khó, theo ý Chúa (tuân phục) dâng cả cuộc đời, cả sinh mạng cho Chúa vì lệ thuộc, vì thương mến Chúa.

Trong Thánh lễ, nói được là lễ của Thiên Chúa, dâng cho Chúa mà cũng là lễ của con người dâng lên Chúa, vì Chúa giáng trần họp với con người làm nên của lễ tuyệt đối.

Chúng ta cảm nghĩ thế nào?
Có biết dâng Thánh lễ chính đáng?

VÀI CẢM NGHĨ VỀ LẦN CHUỖI MÔI KHÔI

Vài thế kỷ trước đây, phong trào lần chuỗi rất thịnh hành, tín hữu tôn sùng Đức Mẹ bằng việc lần chuỗi. Lần chuỗi để tôn kính mà cũng để xin ơn.

Gần đây, xem ra việc lần chuỗi giảm sút khá nhiều. Xưa, mỗi Chúa nhật, trong mỗi nhà thờ đều lần 3 chuỗi (trọn chuỗi môi khôi); hiện nay, may ra trong các nhà dòng có người mỗi ngày lần đủ chuỗi môi khôi, còn nơi tín hữu kể như không có hoặc có rất ít. Tại sao thế?

Có thể hiểu như thế này:
1. Vì lòng đạo đức kém.
2. Vì không biết lần chuỗi đúng cách.
3. Vì không hiểu lợi ích của lần chuỗi nhứt là ý niệm sâu xa.

Thời đại tục hoá thụ hưởng chạy theo tiền bạc danh vọng, tôn giáo dường như không có sức thuyết phục; tín hữu ít được nâng đỡ, lại gặp nhiều lôi cuốn, nên lòng đạo không còn nhiệt thành, sống đạo miễn cưỡng, chỉ còn danh nghĩa là người đạo, chỉ giữ những chi khỏi tội, khỏi sa hoả ngục là đủ, đâu cần chi những việc lành, việc tôn sùng

Đến giai đoạn lương tâm mất sáng, không thấy đạo là cần, thì chỉ còn theo lệ thói lâu nay đi lễ, bây giờ cũng đi, nhiều người đi mình cũng theo đi, không còn ý nghĩ đạo đức nào nữa

Do đó lại càng không có ý nghĩ về việc lần chuỗi. Người nguội lạnh đã không nghĩ đến việc tôn sùng thì còn nghĩ gì sâu xa hơn được.

Chúng ta có thể nghĩ: Lần chuỗi để tôn kính ca tụng Mẹ, tôn sùng Mẹ, xin Mẹ bảo vệ thương giúp.

Nhưng không mấy ai cảm nghĩ Lần Chuỗi là trường học dạy cho biết, cho thân mật và kết hợp với Chúa Kitô: Nhờ Mẹ Maria đến với Chúa Kitô.

Nhờ lần chuỗi mà Mẹ Maria, nói được là, sinh Chúa vào lòng chúng ta để chúng ta hưởng nhờ ơn cứu chuộc, thắng được tội lỗi, thắng được sự chết.

Mẹ đào luyện thì đời sống chúng ta hoàn hảo, siêu thoát thương yêu, có phần nào được tham dự vào đời sống vinh hiển với Chúa.

Hãy siêng năng lần chuỗi, Lần Chuỗi nhiệt thành với tất cả tâm tình.

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

GIÁO HỘI ĐỊA PHƯƠNG
- TỔ CHỨC NỘI BỘ CỦA GIÁO PHẬN tt–

I. Tổ chức Giáo phủ

1. Ngành Tài Chánh (x. nguyệt san tháng 5)
2. Ngành Hành Chánh (x. nguyệt san tháng 6 và 7)
3. Ngành Tư Pháp (x. nguyệt san tháng 8- )

a. Quyền tài phán
b. Các cấp toà án
c. Đối tượng xét xử
d. Đại diện tư pháp
e. Thẩm phán
f. Công tố viên/Bảo hệ viên
g. Thư ký

d. Đại Diện Tư Pháp (Vicarius iudicialis)

Trong Giáo hội Công giáo, mọi quyền bính bắt nguồn từ Chúa Giêsu Kitô, được trao cho thánh Phêrô và các thánh Tông đồ đoàn trước khi Chúa về trời (x.Mt.16,19). Các thánh Tông đồ thi hành sứ vụ Chúa trao phó (x. Mt.28,18-20), thì Giáo hội ngày một phát triển đến nhiều quốc gia, lúc đó những cơ cấu phẩm trật cũng được thể hiện và các quyền bính cũng được thi hành. Do đó, quyền bính nầy luôn gắn với chức vụ Tông đồ (Giám mục), còn phạm vi hành xử quyền bính thì theo cơ cấu phẩm trật của mình: trên toàn thể Giáo hội: Đức Giám mục Rôma (Phêrô) và toàn thể Giám mục đoàn (tông đồ đoàn); trong từng Giáo phận (Giám mục Giáo phận).

Quyền nầy được phân chia thành: lập pháp, tư pháp và hành pháp. Nơi mỗi Tông đồ (Giám mục) đều có đủ ba quyền ấy (x. đ. 391§1). Tuy nhiên, công việc cai quản Giáo phận của Giám mục thì quá đa đoan, ngài khó có thể chu toàn cùng lúc nhiều việc như thế; cũng như để tránh những điều tế nhị khác, Giáo luật dự liệu việc phân chia quyền bính cho các đại diện của ngài trong các ngành khác nhau: ngành lập pháp, một mình Giám mục Giáo phận đích thân thi hành; ngành hành pháp thuộc về giáo phủ, được trao cho Tổng đại diện và Đại diện Giám mục phụ trách, còn nhiệm vụ tư pháp được trao cho Đại Diện tư pháp (x.đ.391§2).

Đại Diện tư pháp là một trong những Đại Diện Giám mục trong Giáo phận, thi hành quyền tài phán nhân danh Giám mục Giáo phận trong những lãnh vực được luật quy đinh. Điều 1420 của Bộ Giáo Luật chỉ dẫn như sau:

§1. Bất cứ Giám mục Giáo phận nào cũng buộc phải đặt một vị Đại Diện tư pháp hay Uỷ Viên tài phán có thường quyền xét xử, vị này phải khác với Tổng Đại Diện, ngoại trừ truờng hợp giáo phận nhỏ hẹp hay số vụ án quá ít khuyên nên làm cách khác.

§2. Vị Đại Diện tư pháp thiết lập một toà án duy nhất cùng với Giám mục nhưng không được xét xử những vụ án mà Giám mục dành riêng cho mình.

§3. Có thể cấp cho vị đại diện tư pháp nhiều phụ tá gọi là phó Đại Diện tư pháp hay là phó UỶ Viên tài phán.

§4. Đại Diện tư pháp cũng như phó Đại Diện tư pháp phải là tư tế có thanh danh, có bằng tiến sĩ hay ít nhất cử nhân Giáo luật, và không dưới ba mươi tuổi.

§5. Khi toà giám mục khuyết vị, những vị ấy vẫn tiếp tục chức vụ, và không thể bị Giám quản Giáo phận giải nhiệm; nhưng khi có Giám mục mới, các vị ấy cần được xác nhận lại.

Với điều 1420 và những khoản Giáo luật liên hệ về Đại Diện tư pháp, chúng ta có thể tóm lại những điểm chính yếu như sau:

  • Bổ nhiệm: vai trò của Đại Diện tư pháp (Vicarius iudicialis) hay Uỷ Viên tài phán (Officialis) thì rất cần thiết cho mỗi Giáo phận, nên luật buộc Giám mục Giáo phận phải bổ nhiệm người vào giáo vụ nầy. Có thể cấp cho vị Đại Diện tư pháp nhiều phụ tá gọi là phó Đại diện tư pháp hay là phó Uỷ Viên tài phán (đ.1420§3).
  • Thẩm quyền: Đại Diện tư pháp cùng với Giám mục Giáo phận thành lập toà án duy nhất của Giáo phận, ngài có thường quyền tư pháp (quyền gắn liền với giáo vụ -x. đ. 131§1), ngoại trừ những trường hợp Đức Giám mục Giáo phận dành riêng cho mình. Một khi án văn đã được Đại Diện tư pháp hoặc các thẩm phán toà án của Giáo phận tuyên bố, thì không thể kháng cáo lên Đức Giám mục Giáo phận. Mọi kháng cáo chỉ được giải quyết ở toà án cấp hai.
  • Điều kiện để được bổ nhiệm vào giáo vụ Đại diện tư pháp: phải là một linh mục, có thanh danh, có bằng tiến sĩ hoặc ít là cử nhân Giáo luật, và đã đủ 30 tuổi trọn (đ.1420§4).
  • Vai trò: Đại Diện tư pháp là chủ tịch của toà án Giáo phận. Nếu toà án là hợp đoàn các thẩm phán thì Đại Diện tư pháp hoặc phó Đại Diện tư pháp phải chủ toạ toà án nói trên (đ. 1426§2); nếu toà án một thẩm phán thì Đại Diện tư pháp sắp xếp các thẩm phán theo thứ tự luân phiên xét xử từng vụ án một (x.đ.1425§3); nếu Giáo phận không có thẩm phán thì chính Đại Diện tư pháp là thẩm phán duy nhất (x. đ.1425§4).
  • Trước khi thi hành giáo vụ, Đại Diện tư pháp cũng như phó Đại Diện tư pháp phải tuyên thệ chu toàn nhiệm vụ cách chu đáo và trung thành với giáo huấn của Giáo hội (x.đ.1454).
  • Nhiệm kỳ: Đại Diện tư pháp và các phó Đại Diện tư pháp được bổ nhiệm trong một thời gian nhất định, các vị nầy không thể bị bãi nhiệm, trừ khi có lý do hợp pháp và nghiêm trọng (đ.1422). Khi toà Giám mục khuyết vị thì Đại diện tư pháp vẫn tại chức (đây là điều khác biệt với Tổng đại diện và Đại Diện Giám mục), và không bị Giám quản Giáo phận bãi chức. Khi tân Giám mục tựu chức, ngài sẽ tái bổ nhiệm hay là đặt người khác tuỳ vào sự khôn ngoan của ngài (đ.1420§5).

Hiện nay, trong Giáo phận của chúng ta có một Đại Diện tư pháp với vai trò thẩm phán duy nhất toà án Giáo phận (không có Uỷ Viên tài phán hay phó Uỷ Viên tài phán); một phó Đại Diện tư pháp với vai trò Công tố viên cho những vụ án hình sự và Bảo hệ viên cho những vụ án hộ sự.

TRANG LINH MỤC

Linh mục và trách nhiệm huấn luyện lương tâm tín hữu

Lời nhắn nhủ của Đ T C Bênêđictô XVI về vai trò của linh mục xét như nhà giáo dục lương tâm.

Ngày nay, chắc chắn một trong những ưu tiên mục vụ là huấn luyện lương tâm các tín hữu, bởi vì như tôi đã khẳng định vào nhiều dịp, khi ý thức về tội bị đánh mất thì không may, cảm giác tội lỗi lại gia tăng, và người ta tìm cách giải toả cảm giác đó bằng cách chạy đến những phương dược không thích hợp. Có nhiều phương thế mục vụ và thiêng liêng vô giá góp phần vào việc huấn luyện lương tâm và cần được phát huy. Trong số những phương thế này, hôm nay tôi chỉ muốn nhấn mạnh cách ngắn gọn đến việc dạy giáo lý, thuyết giảng, giảng lễ Chúa nhật, linh hướng, bí tích hoà giải và cử hành Thánh Thể.

Trước hết là dạy giáo lý. Cũng như các bí tích khác, bí tích Giải tội đòi phải học giáo lý trước đó cũng như giáo lý nhiệm huấn nhằm hiểu biết sâu hơn về bí tích “qua nghi thức và kinh nguyện” như Hiến chế về Phụng Vụ của Công Đồng Vaticanô II minh định (x. số 48). Dạy giáo lý cho tốt là góp phần thực tiễn vào việc huấn luyện lương tâm con người bằng cách giúp họ có ý thức đúng đắn hơn về tội, vốn là điều đang bị lu mờ ngày nay, và tệ hơn nữa, đang bị che phủ do lối nghĩ và lối sống “như thể không có Thiên Chúa”, theo cách diễn tả của Grotius. Lối sống đó đang thịnh hành và hàm chứa thứ chủ nghĩa tương đối khép kín trước ý nghĩa đích thực của đời sống.

Việc dạy giáo lý cần phải phối hợp với việc rao giảng vốn mang nhiều hình thức khác nhau trong lịch sử Giáo Hội, tuỳ theo tâm thức và nhu cầu mục vụ của các tín hữu. Ngày nay cũng thế, các cộng đoàn của chúng ta sử dụng nhiều loại hình truyền thông, vận dụng những phương thế hiện đại nhất để phục vụ cho mục đích rao giảng. Thật vậy, một đàng, nếu những phương tiện truyền thông ngày nay là một thách đố cần cân nhắc, thì đàng khác, những phương tiện đó lại cung cấp những cơ may đặc biệt cho việc loan báo chân lý vĩnh hằng và bất biến mà Vị Thầy thần linh đã trao phó cho Giáo Hội. Nhờ những phương tiện đó, chúng ta có thể loan báo chân lý một cách mới mẻ, gần gũi với cảm thức của con người hơn.

Nhờ sự canh tân của Công Đồng Vaticanô II, bài giảng lễ (homilia) đã tìm lại được vai trò “bí tích” của mình trong cùng một hành động thờ phượng duy nhất bao gồm phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể (Hiến chế Phụng Vụ, số 56). Chắc chắn đây là hình thức rao giảng phổ biến nhất nhằm huấn luyện lương tâm của hằng triệu tín hữu mỗi Chúa nhật. Trong Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới gần đây, tập trung vào Lời Chúa trong Giáo Hội, các nghị phụ đã đặc biệt nhấn mạnh đến giá trị của việc giảng lễ và tầm quan trọng của việc thích ứng bài giảng với tâm thức của người đương thời.

“Linh hướng” cũng góp phần vào việc huấn luyện lương tâm. So với quá khứ, ngày nay người ta có nhu cầu lớn hơn trong việc tìm kiếm “các bậc thầy thiêng liêng” khôn ngoan và thánh thiện. Đó là công việc phục vụ quan trọng trong Giáo Hội. Chắc chắn công việc này đòi hỏi một sinh lực nội tâm mà ta phải khấn xin như ơn ban của Thánh Thần qua cầu nguyện lâu dài và mãnh liệt, cũng như phải có sự đào tạo đặc biệt và cẩn trọng trong lãnh vực này.

Hơn nữa, mọi linh mục đều được kêu gọi phục vụ lòng Thiên Chúa thương xót trong bí tích Giải tội, qua đó linh mục tha thứ tội lỗi nhân danh Chúa Kitô và giúp hối nhân bước đi trên con đường vất vả của sự thánh thiện với lương tâm ngay chính và hiểu biết. Để có thể chu toàn tác vụ khẩn thiết này, mỗi linh mục phải chăm sóc chính đời sống thiêng liêng của mình và quan tâm theo kịp thời đại về mặt mục vụ cũng như thần học.

Cuối cùng, lương tâm của người tín hữu được thanh lọc nhờ tham dự Thánh Lễ cách sốt sắng và tích cực vì Thánh Lễ là hi tế của Chúa Kitô nhằm tha thứ tội lỗi. Bất cứ khi nào linh mục cử hành Thánh Lễ, ngài đều nhắc lại trong Kinh nguyện Thánh Thể rằng Máu Chúa Kitô đổ ra để tha thứ tội lỗi chúng ta. Chính vì thế, khi tham dự cách bí tích vào việc tưởng niệm hi tế Thập giá, sự gặp gỡ yêu thương giữa Chúa Cha và mỗi người chúng ta được hoàn thành.

Tôi thúc giục các linh mục hãy trân trọng tất cả những gì đã học về bí tích Giải tội. Các linh mục sống và làm việc trong những môi trường khác nhau, nhưng dù ở đâu, linh mục cũng phải nhớ rằng chúng ta phải là những thừa tác viên xứng đáng của lòng thương xót Chúa và là những nhà giáo dục lương tâm. Ước gì chúng ta được nâng đỡ nhờ gương mẫu của các vị giải tội thánh thiện và các bậc thầy về đường thiêng liêng. Trong số các vị đó, tôi đặc biệt nhớ đến cha thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars, mà năm nay chúng ta kỷ niệm 150 năm ngày qua đời của ngài. “Ngài đã hướng dẫn giáo xứ được trao phó cho ngài cách tuyệt vời hơn 40 năm… với sự cần mẫn giảng dạy, cầu nguyện và một đời sống đền tội. Hằng ngày, qua giờ giáo lý dạy cho trẻ em và người lớn, qua việc ngồi toà giải tội cho hối nhân, qua những công việc thấm đẫm tình yêu nồng cháy mà ngài rút lấy từ Thánh Thể như từ dòng suối, ngài đã đi rất xa đến nỗi gieo vãi lời khuyên của ngài đi khắp nơi và đem số đông về với Chúa” (Lịch Các Thánh Tử Đạo, ngày 4.8). Đây là mẫu mực cho ta noi theo và đấng bảo trợ ta cầu khấn mỗi ngày.

Cuối cùng, Đức Trinh Nữ Maria đang chăm sóc thừa tác vụ linh mục của mỗi chúng ta. Trong mùa Chay, chúng ta khẩn cầu và tôn vinh Mẹ là “Người môn đệ của Chúa” và là “Mẹ của ơn hoà giải”. Với những tâm tình này, tôi thúc giục mỗi người trong anh em hãy tận tâm tận lực với việc ngồi toà giải tội và linh hướng, và tôi ban phép lành cho anh em.”

Từ Vatican, ngày 12 tháng 3 năm 2009
ĐTC Bênêđictô XVI

TRANG TU SĨ

Dạy giáo lý là “một nhiệm vụ thánh và một quyền bất khả xâm phạm của Hội Thánh” (Catechesi Tradendue 14). Và giáo xứ là một môi trường ưu lợi nhất cho việc dạy Giáo lý. Nhưng chúng ta nhìn xem và nhận ra rằng: Một Giáo xứ có linh mục hiện diện vẫn là một giáo xứ có nhiều ưu thế sinh động và ấm cúng hơn nhiều so với một giáo xứ không có linh mục hiện diện. Do đó, vai trò dạy Giáo lý của linh mục rất quan trọng.

Thường những lớp giáo lý: Khai Tâm, Rước Lễ, Thêm Sức, Bao Đồng... là do các giáo lý viên trong Giáo xứ đảm trách. Linh mục xứ là người khảo sát lại để cho các em được rước lễ vỡ lòng hay được thêm sức. Nói như thế, không có nghĩa là linh mục xứ giao tất cả cho giáo lý viên. Nhưng là để có những lớp giáo lý quy mô và rõ ràng, có những giáo lý viên cộng tác tích cực, và có một chương trình tổ chức thống nhất của Cha Quản xứ. Trong một giáo xứ, linh mục phải đảm trách nhiều công tác mục vụ khác nhau, mục đích là cho Tin Mừng Chúa Kitô thêm triển nở. Vì thế linh mục mời gọi sự cộng tác của các phần tử trong giáo xứ. Chính giáo lý viên được phép thay thế cho linh mục xứ trong trường hợp như thế.

Tuy nhiên, nhiệm vụ dạy giáo lý hàng đầu mà không một ai có thể thay thế cho linh mục đó là dâng Thánh lễ. Thánh lễ có hai phần rõ rệt: phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể. Trong phần phụng vụ Lời Chúa, bài giảng của linh mục là một bài giáo lý sinh động và cần thiết nhất. Qua Lời Chúa đọc mỗi ngày trong Thánh lễ, linh mục giải thích cho giáo dân, hiểu ý nghĩa của Lời Chúa, hoàn cảnh và nói cho giáo dân hiểu ý Chúa muốn qua lời Chúa và áp dụng thực hành vào hoàn cảnh môi trường cụ thể.

Có rất nhiếu phương cách để linh mục dạy giáo lý cho giáo dân của mình, có thể qua cách sống, qua giao tiếp, động viên, thăm hỏi, ủi an, khuyến khích, chia sẻ...Nhưng thiết nghĩ, một bài giảng trong Thánh lễ, gắn liền với tinh thần sống, chia sẻ mục vụ chân thành vì Chúa là một Bài Giáo Lý làm sống động giáo xứ, giáo dân sống tốt đạo đẹp đời, yêu mến Chúa, kính quý mọi người

Nói đến việc dạy Giáo lý của Linh mục qua bài giảng và cách sống tôi nhớ đến một câu chuyện mà một Linh mục trong giáo xứ tôi chia sẻ: Có một anh bổn đạo cứ đến tìm gặp Cha và than thở:

- Cha ơi, vợ con hung dữ quá, nó hay mắng chửi chồng con, có việc gì không vui trong nhà thì cả xóm đều biết. Để được êm ấm cửa nhà con phải nhịn nhục nó, nhưng con tức lắm.

- Sao con không nói với Cha mẹ vợ con hay những người bà con có uy tín nhờ họ khuyên giải vợ con?

- Cha mẹ vợ con nói nó không có nghe gì cả !!!

- Vậy con muốn Cha làm gì đây?

- Con thấy Cha giảng trong Thánh Lễ rõ ràng, Cha giải nghĩa Lời Chúa, phân tích những tánh hư tật xấu người ta mắc phải và áp dụng Lời Chúa vào đời sống cụ thể hằng ngày. Nên con chỉ xin là Cha giảng cho vợ con hiểu. Vợ con thường hay đi lễ chiều Chúa nhật đó!!!

Kể xong Cha xứ mỉm cười và nói thêm, không biết bài Phúc Âm nào có thể áp dụng để khuyên bà vợ nầy không còn hung dữ, mắng chửi chồng con ?!!!

Hơn ai hết Linh mục giữ một vai trò quan trọng trong việc dạy Giáo lý ở xứ đạo, hay nói cách khác, Linh mục giữ vai trò trọng yếu trong xứ đạo thì Linh mục cũng giữ vai trò trọng yếu trong việc hướng dẫn giáo dân theo đạo lý của Chúa.

Một nữ tu MTG Cái Nhum

GƯƠNG SÁNG CỦA MỘT CHA SỞ

Họ đạo quê tôi, việc học giáo lý được tập trung vào những tháng hè. Thế nên mùa hè còn được gọi là mùa giáo lý. Thời điểm nầy, sinh hoạt giáo lý được chiếm phần ưu thế. Tôi vẫn không quên giờ học giáo lý ở lớp Bao Đồng của tôi. Có một lần cả lớp đang chú ý nghe Cha Sở cắt nghĩa bài “Mầu nhiệm Các Thánh Thông Công”.

Một em dự tu bước vào.
- Thưa Ông Cố, có Bà Nội (má của Cha sở) xuống thăm Ông Cố.
- Cha vui vẻ trả lời :
- Cám ơn con.
- Và Cha vẫn thản nhiên ngồi tiếp tục dạy giáo lý. Cha giải thích từng câu, giọng điệu rõ ràng; cả lớp chăm chú nghe Cha dạy. Bạn ngồi bên cạnh kề vai nói nhỏ với tôi:
- Sao Ông Cố không đi thăm Bà Nội?
- Em phía sau nói tiếp :
- Thế nào hôm nay lớp mình cũng được nghỉ học sớm
- Tôi thêm lời :
- Ừ, có lý! Vậy là chúng mình khỏi làm bài kiểm tra, hôm nay mình chưa thuộc bài bạn ơi.

Nghe tiếng lào xào, Cha Sở nghiêm mặt nhìn về phía chúng tôi rồi Ngài vẫn tiếp tục dạy. Qua phần cắt nghĩa, cả lớp cùng đọc chung những câu giáo lý. Tiếp theo, Cha cho lớp làm bài kiểm tra. Bút giấy đã sẵn nhưng miệng tôi cứ càm ràm sao Ông Cố không đi ra mừng Bà Nội. Cha về họ đạo nầy mấy năm nay, mới nghe nói Bà Nội tới thăm Cha Sở… Và những câu kiểm tra giáo lý được đọc lên, cả lớp im lặng nghiêm túc làm bài. Sau 15 phút, bài làm được trưởng lớp thu lại nộp cho Cha Sở. Chúng tôi chuẩn bị thu dọn sách vở vì nghĩ rằng Cha sẽ cho về sớm. Thế nhưng Cha lại tiếp tục kể chuyện Kinh Thánh cho chúng tôi nghe. Đúng giờ, tiếng chuông vang lên, lớp học kết thúc như thường lệ.

Lớp giáo lý tan, Cha Sở nhanh chân bước về nhà xứ. Đi bên cạnh Cha, tôi liền hỏi:

- Thưa Ông Cố, có Bà Nội xuống chơi, sao Ông cố không cho lớp chúng con nghỉ học sớm.

Cha Sở vui vẻ trả lời:

Khi dạy giáo lý, Cha chỉ nghỉ dạy khi đột xuất có người rước Cha đi xức dầu cho kẻ liệt mà thôi. Ngoài ra, không có lý do gì quan trọng hơn khiến Cha bỏ lớp giáo lý. Vì thấy rõ việc dạy giáo lý rất cần thiết và quan trọng nên Cha đã thực hành như thế. Cần thiết vì nhờ học giáo lý giúp cho đức tin người trẻ được lớn lên; chúng con được hiểu sâu hơn về đạo lý nhờ đó sống đạo tốt hơn. Hơn nữa, thời gian có hạn định nếu không tận dụng đủ thời gian thì chúng con sẽ bị thiệt thòi. Vả lại, con thấy không? Chúng con có nhiều bạn ở rất xa cho dù mưa gió hay đường trơn trợt thì vẫn siêng năng đi học giáo lý. Không vì chút tình cảm riêng tư của Cha mà để chúng con ra về sao! Con cũng vậy nhen! Giáo lý rất cần cho đời sống đạo của chúng con bây giờ và sau nầy con lớn lên trong đời sống là Kitô hữu. Thời gian nầy, con có cơ hội được đi học thì cố gắng siêng năng, chịu khó mà đi, đừng lười biếng diện lý do nầy … khác mà bỏ học nhen con!

Với trách nhiệm Cha Sở, Ngài có nhiều việc phải lo nhưng Ngài luôn quan tâm đến việc dạy giáo lý. Ngài thường xuyên nhắc nhở các giáo lý viên phải ý thức trách nhiệm và chu toàn bổn phận của mình. Ngài luôn nêu gương sáng cho họ. Ngài thường đến lớp đúng giờ và cho dù lớp học có một, hai em thì Ngài cũng dạy. Nhận thấy sự nhiệt tâm và tận tình của Cha Sở, các bậc phụ huynh thường xuyên nhắc nhở, động viên con em của mình, đưa đón con em đi học giáo lý. Các nữ tu và giáo lý viên luôn ý thức vai trò dạy giáo lý của mình. Nhờ vậy, thiếu nhi và giới trẻ họ đạo tôi sống đạo tốt hơn; nơi học đường các em luôn được tiếng khen là học sinh lễ độ, ngoan hiền.

Cha là vị mục tử được tiếng thương lo cho đàn chiên. Ngài có nhiều sáng kiến để lo cho họ đạo, cho giáo dân. Tuy bận rộn nhiều công việc cho họ đạo, nhưng Ngài rất thao thức đến việc dạy giáo lý, luôn tìm mọi cách để giúp cho các lớp giáo lý đạt hiệu quả hơn. Trong công tác mục vụ của Ngài, mục vụ giáo lý luôn chiếm phần ưu thế. Phải chăng Ngài đã ý thức vai trò ngôn sứ của mình ngay nơi việc dạy giáo lý.

Một nữ tu MTG Cái Mơn

TRANG SỐNG ƠN GỌI

ĐỜI SỐNG CHỨNG TÁ CỦA LINH MỤC

Theo Sứ Điệp ngày Thế Giới Cầu Nguyện cho Ơn Gọi lần thứ 47

Chủ đề Sứ điệp ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi lần này được Đức Thánh Cha đề nghị chúng ta suy tư về: Đời sống chứng tá khơi dậy các ơn gọi.

Xuyên suốt Sứ điệp, Đức Thánh Cha đã nêu lên vai trò và ý nghĩa của đời sống chứng tá như điểm then chốt nhằm thực thi việc cổ vũ ơn gọi một cách hiệu quả. Trong bối cảnh của Năm Thánh Linh Mục, việc đề cao và thúc đẩy chứng tá mục tử là tiêu chí trọng tâm cho định hướng phát triển gia tăng ơn gọi.

Đời sống chứng tá này được khơi nguồn từ chính lịch sử cứu độ; ở đó, Thiên Chúa đã dùng các chứng nhân như dấu chỉ của lời mời gọi thiết thực, gần gũi nhưng rất cao cả đối với con người. Đức Thánh Cha đã dẫn ra các điển chứng Tin Mừng cho thấy tầm quan trọng của chứng nhân có sức mạnh phi thường, tác động tới sự đáp trả mau mắn, nhiệt thành nơi đối tượng được mời gọi. Và theo Đức Thánh Cha, “điều này vẫn còn xảy đến hôm nay trong Giáo Hội: Thiên Chúa dùng chứng tá của các linh mục trung thành với sứ mạng của mình để khơi lên những ơn gọi linh mục và tu sĩ mới để phục vụ dân Thiên Chúa”.

Đời sống chứng tá của người linh mục ngày hôm nay không phải là lối sống tuỳ hứng, mà được khơi gợi và mời gọi hành động theo gương Đấng Chăn Nhân Lành. Đức Thánh Cha đã nhắc lại “ba khía cạnh của đời sống linh mục”, mà theo Ngài, “là thiết yếu cho một chứng tá linh mục hữu hiệu”.

Chứng tá ơn gọi được biểu hiện trước hết qua “tình bạn với Chúa Kitô là một yếu tố căn bản và có thể nhận thấy được của mọi ơn gọi linh mục và thánh hiến. Chúa Giêsu đã sống trong sự kết hiệp liên lỉ với Cha của Ngài, điều đã khơi lên nơi các môn đệ ước muốn sống chính kinh nghiệm đó, bằng cách học hỏi từ nơi Ngài sự hiệp thông và đối thoại không ngừng với Thiên Chúa”.

Sự kết hợp mật thiết với Đức Ki-tô chỉ có thể đạt mức độ lan toả tới các cá nhân và cộng đồng khi linh mục sẵn sàng “trao hiến hoàn toàn chính mình cho Thiên Chúa là một khía cạnh khác của việc thánh hiến linh mục và của đời sống thánh hiến. Thánh Gioan Tông đồ đã viết: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em.” (1Ga 3, 16)…. Lịch sử của mỗi ơn gọi hầu như luôn được liên kết với chứng tá của một linh mục đã sống cách vui tươi sự trao hiến chính mình cho anh chị em của mình vì Nước Trời”.

Thêm một khía cạnh căn bản khác được Đức Thánh Cha mời gọi các linh mục, là hãy lưu tâm, “sống hiệp thông là khía cạnh thứ ba mà không thể không làm rõ nét người linh mục và người sống đời thánh hiến. Chúa Giêsu đã chỉ ra sự hiệp thông sâu xa trong tình yêu như là dấu chỉ phân biệt của người muốn làm môn đệ của Ngài: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 35).

Những đề nghị và chỉ dẫn của Đức Thánh Cha đã đặt trọng tâm việc cổ võ ơn gọi vào đời sống chứng tá linh mục. Đây là định hướng quan trọng cho nhu cầu về lượng và phẩm giá ơn gọi đang được đặt ra cấp thiết như hiện nay.

Cuộc sống vật chất với những áp lực nhiều khi đã làm chúng ta xao nhãng đi căn tính của ơn gọi tận hiến. Nó phải được khởi đi từ chính cốt cách của Đức Ki-tô Linh Mục Thượng Phẩm. Do vậy, ơn gọi nơi những ứng sinh chỉ có thể thành toàn khi nó được hướng tới lý tưởng phục vụ như Đức Ki-tô. Bằng đời sống chứng tá của mình, linh mục giúp các người trẻ soi chiếu và nhận ra khả năng dấn thân mà họ có thể đáp trả. Đồng thời, qua chứng tá của người linh mục, những người trẻ cũng lượng định được tầm mức mà họ vươn tới để đảm lãnh sứ vụ cao cả theo lời mời gọi của Đức Ki-tô.

J.B. Nguyễn Quốc Tuấn - VietCatholic News

TRANG GIỚI TRẺ

Linh mục được ví như vị mục tử theo gương vị Mục Tử Tối Cao là Mục tử Giêsu. Bổn phận của mục tử là chăm sóc và dưỡng nuôi đoàn chiên của mình. Chúa Giêsu đã xác định rõ rằng: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10). Cho đến một lần kia khi đi rao giảng Chúa Giêsu đã phải xót xa thấy một đoàn lũ đông đảo dân chúng bơ vơ tất tưởi không người chăn dẫn (Mt 9, 35 - 38). Thấy vậy, Chúa Giêsu đã tức tốc tìm cách dạy dỗ họ nhiều điều bổ ích. Không dừng lại ở đó, Người còn sai các môn đệ lên đường cộng tác với mình. Và rồi, Chúa Giêsu cũng ban cho các ông được nhiều quyền năng. Nhờ quyền năng đó, các môn đệ an tâm lên đường đem Tin mừng đến cho nhiều anh chị em khác.

Trước khi phong chức Linh mục cho một tiến chức Đức Giám Mục hỏi: “Con có muốn chu toàn một cách xứng đáng và khôn ngoan thừa tác vụ Lời Chúa trong việc rao giảng Phúc âm và trình bày đức tin Công giáo không?” Nghĩa là thay mặt Chúa Đức Giám Mục muốn chính vị tiến chức đó xác định rõ một trong ba nhiệm vụ chính yếu của hàng Linh mục là giảng dạy. Linh mục cộng tác với Chúa để nuôi dưỡng đoàn chiên của Chúa bằng lương thực là Lời Chúa và những giáo huấn của Giáo hội. Cho nên, các Linh mục đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc dạy giáo lý.

Chúng ta thấy, Cha sở là người có trách nhiệm quán xuyến và sắp xếp tất cả các sinh hoạt trong họ đạo. Mà có thể nói trách nhiệm quan trọng hàng đầu là dạy và điều phối việc dạy giáo lý. Đây là bổn phận không ai thay thế được của ngài. Thật là một thiếu sót lớn cho ngài và nói chung là hàng linh mục. Cho dù bận nhiều công việc thế nào đi chăng nữa thì đây là bổn phận buộc các ngài phải chu toàn.

Ông bà chúng ta nói: “Không thầy đố mày làm nên” nhưng trong thời đại hôm nay có thể nói ngược lại Không trò đố thầy làm được gì. Mặc dù, ngày nay việc dạy và học giáo lý rất dễ dàng so với thời gian trước đây nhưng nhiều người vẫn còn lơ là. Đáng kể là thành phần các bạn trẻ. Họ bị chi phối quá nhiều thời gian và sức khỏe cho việc học ở trường và nhiều sinh hoạt khác. Vì vậy, họ không còn thấy cần thiết phải học giáo lý nữa. Hy vọng thấy được tầm quan trọng này các bạn trẻ biết cộng tác nhiều hơn với các linh mục trong việc siêng năng đón nhận những lời giảng dạy về Lời Chúa cũng như những giáo huấn của Giáo hội.

TUỔI TRẺ – ĐỨC TIN – CUỘC SỐNG

Đức tin có thể giúp ta thành công trong đời không?

Không có thành công nào mà chẳng có niềm tin: người nghệ sĩ tin vào nghệ thuật, người làm ăn tin vào xí nghiêp của mình.

Thế nào là thành công? Là giàu có, gia đình hạnh phúc, nổi tiếng, thành công với người khác phái ư?

Không phải thành công nào cũng đều có giá trị: tự nhiên ai cũng có thể thấy; sự thành công đích thật không nhất thiết phải lồ lộ trước mắt ta. Hơn nữa, ta không bao giờ đạt được thành công mà không vượt qua một vài thử thách. Ta cũng chẳng khi nào đạt được thành công một lần là xong.

Đức tin Kitô giáo có thể giúp ta thành công về mặt xã hội mà cũng có thể cản trở ta. Người tin thường phải bơi ngược dòng vì phải nhìn sự thành công theo thời thượng kia chỉ có giá trị tương đối, phải thấy được các giới hạn và cả những sai lầm của nó nữa. Đức tin là một sự lựa chọn và có thể là một sự lựa chọn rất bi tráng.

Nhưng nhất là đức tin giúp ta trở thành một người có chiều sâu. Người Kitô hữu vì biết rằng mình được Chúa yêu nên sẽ có thêm can đảm để không bao giờ thất vọng. Hơn thế nữa, người ấy được đức tin thúc đẩy mãnh liệt để xây dựng một thế giới huynh đệ hơn. Người ấy sẽ nhìn ra Đức Giêsu Kitô là một con người đã thành đạt, một con người đã thắng vượt được mọi thử thách, kẻ cả hận thù và cái chết.

Đức tin là một sự may mắn cho cuộc đời chăng? Dầu sao, nếu không luôn luôn giúp ta thành công trog đời thì ít ra đức tin giúp ta được thành nhân.

QUESTIONS SUR LA VIE ET LA FOI của Jacques Lacourt
Imprimatur: Đức Cha G. VANEL, Tổng Giám Mục Auch. 23.03.1990
Nguồn: dunglac.org

TRANG GIA ĐÌNH

Tôi nhớ lại Chúa Giêsu Linh Mục Thượng Phẩm đời đời đã đến thế gian theo mệnh lệnh Chúa Cha để trả lại sự thánh thiện nguyên thuỷ “hình ảnh của Thiên Chúa” cho loài người tội lỗi. Người đã dâng lễ tế yêu thương vâng phục cống hiến con người, cuộc đời và mạng sống của mình để lôi kéo mọi người đến với Thiên Chúa và chung sống với Chúa Ba Ngôi trong Nước Trời. Khi sống giữa loài người, phục vụ mọi người, đặc biệt những người đau khổ, nghèo khó, Người không để tình cảm níu kéo, chi phối, mà luôn ý thức sứ mạng rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho mọi người, “Chúa bảo các ông : Chúng con hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”. (Mc 1,38). Thực tế, “Người đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ.” (Mc 1, 39).

Chúa Giêsu chuẩn bị, đào luyện, ban quyền và sai các tông đồ, các môn đệ, và mọi tín hữu tiếp tục công việc cứu độ nhân loại của Người. Với nhóm mười hai, hạt nhân, nòng cốt của giáo hội. “Người gọi nhóm mười hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ” (Mc 6,7). Cụ thể, “ Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối” (Mc 6,12). Với nhóm bảy mươi hai : “Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông từng hai người một đi trước vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến” ( Lc 10,11). Người bảo các ông : “ Hãy chữa những người đau yếu trong thành và nói với họ: Triều đại Thiên Chúa đã đến gần các ông.” ( Lc 10,9). Với mọi người tín hữu trong hội thánh, Chúa Giêsu nói: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ (rao giảng Tin Mừng, dạy giáo lý cho họ tin Chúa Giêsu, tin một Thiên Chúa Ba Ngôi), làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền đã truyền cho anh em.” (Mt 28, 18-20 ).

Sau Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần hiện xuống, các tông đồ hăng hái đi rao giảng, Chúa qui tụ nhiều người vào Hội Thánh. Trong Hội Thánh ấy, “Các tín hữu chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng,” (Cvtđ 2,42 ). Rồi trong cuộc bách hại các tín hữu “Do Thái Hy hoá Kitô Giáo tại Giêrusalem, làm cho họ phải tản mác khắp nơi, “ Vậy những người phải tản mác này đi khắp nơi loan báo lời Chúa”. (Cvtđ 8,4 ). Riêng Phaolô và Barnaba được sai đi rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, sau cuộc hành trình thứ nhất, các ngài trở về Antiôkia Syria “ Khi tới nơi, hai vị tập họp hội Thánh và kể lại tất cả những gì Thiên Chúa đã cùng làm với hai ông, và việc Người đã mở cửa cho các dân ngoại đón nhận đức tin” (Cvtđ 14,27 ).

Tôi nhìn nhận lịch sử truyền giáo tại Việt Nam, Nam Hà 18.01.1615 và Bắc Hà 19.03.1627 với các cha dòngTên. Bước đầu các linh mục, các tu sĩ, những người cộng sự Việt Nam chỉ lo rao giảng lời Chúa, cụ thể là dạy đạo, dạy giáo lý cho mọi lớp người. Khi họ đã tin, các ngài lập nhà giảng, dựng nhà thờ, tổ chức giáo họ, họ đạo…Rồi theo nhu cầu địa phương ngày 9.91959 Toà Thánh đã thành lập hai giáo phận tông toà, cắt cử hai giám mục ( các tiến sĩ, thầy dạy đức tin đến hướng dẫn việc sống và truyền đạo trên quê hương đất nước chúng ta. Đến ngày hôm nay 10.2010, đã có trên 100 vị Giám Mục Việt Nam được tấn phong và có 26 giáo phận đang sinh hoạt trên Giang Sơn hình chữ S trải dài từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau.

Tôi sống trong họ đạo của tôi, họ đạo có trên 130 năm lịch sử, luôn bị coi là họ đạo nhỏ nên bị bỏ rơi nhất là vì chiến tranh và 15 năm sau 30.04.1975 giáo lý không được dạy dỗ liên tục, sinh hoạt đạo chết lặng, đức tin sa sút, lòng đạo lạnh lẽo, phai nhạt. Nhiều người đã quên đi phong thái của người có đức tin công giáo, nhập nhiễm trở lại nếp sống lương dân với nhiều mê tín dị đoan, mất đi tình yêu thương hiệp nhất, mất đi ý thức công bằng, không còn tôn trọng và bảo vệ của công, thậm chí ở trên đất họ đạo và coi đó như đất riêng của gia đình, của mình. Mùi nhan khói xem chừng nồng nặc và đôi lúc người tín hữu hành xử như người lương dân : mất đi ý thức thờ phượng Chúa trong ngày Chúa Nhật và các ngày lễ trọng, cha mẹ không còn làm gương và đôn đốc các con sống đạo, ham mê kiếm tiền, thích nhậu nhẹt ăn chơi, đánh mất tình Chúa và đánh mất tình người, thích được phục vụ và hưởng thụ, không còn hăng hái phục vụ. Cha sở tôi đến phục sinh họ đạo trong tình trạng lạc lõng , lơ là, lạnh lẽo, bỏ đạo vì trục trặc gia đình, vì lý do kinh tế, vì lý do chính trị mà căn bản là giáo lý nông cạn, hời hợt, nên mất đức tin.

Theo gương Chúa Kitô cứu thế, các thánh tông đồ xây dựng Hội Thánh khắp nơi, các nhà truyền giáo truyền bá và xây dựng đức tin trong môi trường mới, cha sở tôi cần cù lao động, cả tinh thần lẫn vật chất. Vật chất ngài lo cho họ đạo có đất đai, có cơ sở căn bản để sinh hoạt tôn giáo được thuận lợi, có môi trường thiên nhiên đầy sức sống và rợp mát, cho mọi người thích đến gặp gỡ Chúa và gặp gỡ nhau tìm thấy tình nghĩa, niềm vui và sự thanh thản tâm hồn. Về tinh thần, mọi người cảm nhận có nhu cầu sau giờ lao động cực nhọc suốt ngày, tối đến nhà thờ cùng nhau thờ phượng Chúa trong thánh lễ, chầu Thánh Thể, tập hát, học Kinh Thánh ngày Chúa Nhật. Lương thực thần thiêng hằng ngày nuôi dưỡng đời sống tâm linh qua các bài Kinh Thánh hướng về chủ đề của ngày Chúa Nhật hàng tuần, qua Bí Tích Thánh Thể, được sống bằng chính sức sống của Chúa Kitô. Mỗi chiều thứ bảy và Chúa Nhật, các em khai tâm (mầm non, lớp 1 và 2) qua sách giáo lý rước lễ vỡ lòng Cha sở cho, cha mẹ dạy từng câu bằng cách truyền khẩu ở nhà, giáo lý viên đọc lại và cắt nghĩa sơ sài cốt cho các em học thuộc lòng, sau lễ sáng Chúa Nhật cha sở cắt nghĩa rành rẽ, dễ hiểu , giúp các em nắm bắt theo khả năng vừa thuộc bài vừa hiểu biết mình học cái gì, và sống thế nào. Các em rước lễ vỡ lòng và các chầu nhưng, (các em người lương học dự tòng) sẽ học theo sách giáo lý rước lễ của Giáo Phận nhà, cũng theo phương pháp học thuộc lòng tại chỗ, cắt nghĩa từng câu, nhấn mạnh từng ý, phân tách và tổng hợp các ý trong câu để dễ hiểu, dễ nhớ, khó quên. dạy từng câu, khảo mỗi em trả lời từng câu tại chỗ. Sau cùng đọc toàn bài, nắm ý toàn bài, khảo cả bài tại chỗ, hướng dẫn sống ( thực hành bài giáo lý), thuộc rồi không quên.. Các em Thêm Sức và Bao Đồng cũng học mỗi ngày theo cách thức như trên, cắt nghĩa sâu theo từng cấp, hướng dẫn thực hành cụ thể để đóng góp cho sinh hoạt họ đạo.

Cha sở tôi làm việc điều đặn, bền bỉ, kiên trì, không mệt mỏi, không ngại khó. Ngài nói với chúng tôi: “ngày nay các em học tập, ngày mai các em xây đời, tương lai họ đạo là nhờ các em”. “ Phần chúng ta, có công mài sắt có ngày nên kim”. “Đối với mỗi người : can đảm, dũng cảm, kiên nhẫn, hy sinh không mệt mỏi là mẹ thành công.”

Xin Chúa cho Cha sở chúng con luôn can đảm dạy giáo lý cho các em hằng ngày theo lớp tuổi: khai tâm, rước lễ, thêm sức, bao đồng, dự tòng và cho cả họ đạo mỗi ngày Chúa Nhật trước lễ tử 3 câu đến 5 câu “ giáo lý công giáo cập nhật” để họ đạo chúng con trở nên sung túc và sống động, mở ra những ngày tươi sáng. Lạy Chúa, chúng con ước mong cho các linh mục Vĩnh Long đều hăng say dạy giáo lý, mỗi vị mỗi kiểu, mỗi cách, cùng nhau xây dựng giáo phận tốt hơn.

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

CẦU NGUYỆN TRONG BUỔI GIÁO LÝ

Cầu nguyện, nhất là cầu nguyện giữa giờ là hết sức quan trọng, không thể bỏ qua và là đỉnh cao của buổi giáo lý. Nhưng phải tổ chức thế nào cho tốt và có kết quả. Cầu nguyện lại vừa có tính cách sư phạm là huấn luyện tinh thần cầu nguyện cho học viên, lại vừa là để cầu nguyện thực sự.

Thái độ phải có đối với Chúa. Đây là thái độ của tâm hồn, tức là phải biết “hiện diện”.

- Thái độ của một tạo vật:Tất cả mọi bản thân là do Chúa, bởi Chúa mà có. Thái độ của tôi là phải cung kính, biết ơn, thờ lạy (kinh “Là Vật Phàm Hèn”). Đối với trẻ dưới 9 tuổi, thiên nhiên rất dễ khơi dậy tâm tình thờ lạy.

- Thái độ của một người con:Thiên Chúa nhận ta làm con của Ngài trong Đức Giêsu Kitô, được Thánh Thần linh hoạt, hướng dẫn ta sống tâm tình vf thái độ của một người con giống như Đức Giêsu đối với Chúa Cha.

- Thái độ của một tội nhân:Ta phải tin cậy vào tình yêu thương của Thiên Chúa mà khao khát được ơn cứu rỗi.

Điều kiện để cầu nguyện. Vì là để gặp gỡ Chúa nên ta cần phải có điều kiện sau đây:

- Đặt mình trong sự hiện diện toàn năng của Thiên Chúa: Giáo lý viên có thể dùng nhiều cách để giúp học viên hiện diện:

- Hoặc là dựa vào thiên nhiên, các thụ tạo (như: sông, núi, đồi, biển, con vật, hoa, lá, cành, cây...) dùng nơi thờ, vật thờ để gợi nhớ Thiên Chúa.

- Dùng kiểu nói cụ thể để nói về Thiên Chúa: như “Chúa đang nhìn, nghe, săn sóc, làm việc với ta”.

- Có chuyện để thưa với Chúa: (hay tâm sự với Chúa). Yếu tố “thân thưa” là yếu tố quan trọng để cầu nguyện, cho nên phải chuẩn bị trước nội dung, chuyện để thân thưa, không nên đột xuất.

- Bầu khí thuận lợi. Đó là:
* Tôn nghiêm và kính cẩn.
* “Tự do” tâm hồn, tâm trí và thể xác.
* Trầm tĩnh tức là thinh lặng, yên tĩnh chung quanh.

- Thái độ của giáo lý viên: Phải giúp các học viên tin Thiên Chúa hiện diện, bằng thái độ trang nghiêm của chính mình (càng phải trút bỏ thái độ giám sát, doạ nạt, giận dữ...).

- Hiểu biết thêm về Thiên Chúa:Dần dần tiến lên trong sự tiếp xúc thân mật với Thiên Chúa qua quá trính học hỏi, càng biết Chúa càng yêu kính Chúa và ngược lại “vô tri thì bất mộ”.

Cách diễn tả tâm tình. Qua một cử chỉ đơn giản, ta có thể bày tỏ một tâm hồn cầu nguyện phong phú:

- Làm cử điệu:Bái gối, cúi đầu, cúi mình, chắp tay, giơ tay, giang tay, ghi dấu Thánh giá; một bài thánh ca nhỏ với cử điệu.

- Lời nói: Dựa vào Thánh Thần, ta dạy học viên cầu nguyện, mà Thánh Thần lại hay dùng Thánh Kinh, Phụng vụ dạy ta thưa chuyện với Thiên Chúa. Rất nên dùng lời kinh, bài hát trong Phụng vụ, trong Thánh Vịnh, mà tạ ơn, cảm tạ, sám hối.

- Nội tâm hoá: Từ những cách cầu nguyện với cử chỉ, giáo lý viên nên dần dần tập cho học viên tự mình cầu nguyện theo khả năng, theo nhu cầu riêng của học viên, như:
* Tập cho chúng đọc thầm, đọc nhỏ lời ta nói lớn tiếng.
* Dạy chúng phải làm gì, rồi để chúng làm.
* Đưa ra nhiều kiểu diễn tả, rồi để chúng chọn một (3 kiểu là cùng. Ví dụ: giơ tay, chắp tay, tay thẳng xuống).
* Gợi tâm tình để rồi chúng tự tìm cách diễn tả.
* Giữ mình thinh lặng: Nên có vài giây thinh lặng khi cầu nguyện chung trước và sau.

Mấy cách thức cầu nguyện trong giờ giáo lý. Đây là mấy nguyên tắc hướng dẫn giáo lý viên huấn luyện cho trẻ cầu nguyện:
- Giáo lý viên nói lớn tiếng từng câu ngắn: Ví dụ: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đang ở giữa chúng con.
- Giáo lý viên nói lớn tiếng từng câu ngắn, trẻ lập lại thầm trong lòng.
- Giáo lý viên gợi lên một tâm tình, trẻ tự mình cầu nguyện theo tâm tình đó. Ví dụ: gợi lên tâm tình biết ơn Chúa quan phòng.
- Giáo lý viên đưa ra một đề tài, trẻ tự tìm ra tâm tình cho mình (trẻ phải ít nhất trên 9 tuổi, nhỏ hơn chưa làm được).

Cách soạn một lời cầu nguyện:
- Bước I: Trình bày một lý do.
- Bước II: Diễn tả một nội dung (điều ta cầu nguyện).
- Bước III: Xác định rõ chủ đích liên quan tới bản thân hoặc Hội Thánh, cộng đoàn...
- Kết thúc: Trông cậy Thiên Chúa sẽ ban nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Giêsu.

Ví dụ 1: Lời cầu nguyện trong ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, như sau:

“Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã đem hồn xác Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm, Mẹ của Con Chúa, về hưởng vinh quang Thiên quốc, chúng con nài xin Chúa cho chúng con được luôn luôn hướng tâm hồn lên những sự trên trời, và đáng được cùng Người hưởng phúc vinh quang. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Chúa chúng con. Amen”.

Ví dụ 2: Lời cầu nguyện cho mọi tín hữu qua đời:

“Lạy Chúa, xin đoái thương nhậm lời chúng con cầu nguyện, để khi chúng con tin Con Chúa từ cõi chết đã sống lại, thì cũng được vững lòng trông cậy rằng các tôi tớ Chúa cũng sống lại. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Chúa chúng con. Amen”.

Ví dụ 3: Lời cầu nguyện Chúa nhật XVIII quanh năm:

“Lạy Chúa, xin phù trợ các tôi tớ Chúa và xin tỏ lòng nhân hậu muôn đời cho những ai kêu cầu Chúa, để khi hân hạnh có Chúa Đấng sáng tạo và thống trị, họ được Chúa ban ơn cải tạo và được Chúa bảo vệ những ơn đã ban. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen”.

TRANG QUỚI CHỨC

QUỚI CHỨC LÀ AI?

“Ban Qươí Chức là những người cộng tác với Cha sở, họ là những tín hữu đã được tuyển chọn và được giáo quyền phê chuẩn, để giúp cho công trình mục vụ Họ đạo được kết quả tốt đẹp: lo cho đoàn chiên Chúa được sống dồi dào.” (Điều Lệ Quới Chức, phần mở đầu)

Như vậy, Ban Quới Chức là những người cộng tác với cha sở lo việc mục vụ của họ đạo; họ là cánh tay nối dài của cha sở đến đến với anh chị em giáo dân. Họ là cầu nối giữa cha sở, vị mục tử và người giáo dân. Do đó, họ có quyền đề bạt những ý kiến xây dựng của giáo dân đến với cha sở và truyền đạt những đường hướng mục vụ trong họ đạo, đôn đốc, yểm trợ và thực hiện chương trình của họ đạo. Bên cạnh đó, họ cũng là người phải luôn phối hợp sinh hoạt các giới, các nhóm và các hội đoàn trong họ đạo.

Sứ mệnh của Quới chức còn là giúp Linh mục cử hành các Bí Tích một cách hiệu quả nhất. Thế nên Quới chức phải có trình độ giáo lý tương đối, đời sống đạo đức tốt, gia đình có uy tín. Quới chức là người phục vụ không vì tư lợi hay địa vị. Nếp sống ngày càng cao và tiến không ngừng, nhưng khả năng của Linh mục có giới hạn nên trong nhiều lãnh vực Ban Quới chức là những cố vấn không thể thiếu đối với Cha sở.

Nhưng Quới chức không phải là những nghị viên của họ đạo chỉ biết có ý kiến trong buổi họp, yêu sách, phê bình... Ngồi ghế trên rồi không làm gì cả. Họ cũng là những người rất bận sinh kế cho gia đình như bất cứ ai, nhưng biết hy sinh thời giờ và công sức để phục vụ.

Nhưng để được là người Quới chức thì cần phải được tuyển chọn và được giáo quyền phê chuẩn. Cha sở có quyền tuyển chọn những người cộng tác với mình trong công việc mục vụ, và sự tuyển chọn này chỉ có giá trị khi được Đức Giám Mục giáo phận chuẩn nhận. Vì thế, những người được tuyển chọn cần phải thấy rằng niềm vinh dự được làm người đại diện cho giáo dân cũng như sứ mạng cao quý mà mình được trao phó để chu toàn với tất cả lòng yêu mến.

Nói tóm lại, Quới chức là người được tuyển chọn và được giáo quyền chuẩn nhận cho nên công việc họ làm khi họ cộng tác một cách đắc lực với Cha sở chính là họ đang thực hiện sứ mạng của Hội thánh. Càng nỗ lực cộng tác với sứ mạng của mình bao nhiêu trong tình yêu mến thì người Qưới chức càng gắn bó với Giáo hội là Thân Thể Chúa Kitô bấy nhiêu. Gắn bó với Chúa Kitô ngay tại thế thì chẳng lẽ Người lại không cho gắn bó với Người trong vinh quang.

CHUYỆN THƯỜNG NGÀY

2 ĐÔ LA VÀ 1 GIỜ

Một người cha đi làm về rất muộn, mệt mỏi và bực bội sau một ngày bận rộn ở cơ quan. Ông vừa về đến nhà, đứa con trai năm tuổi đã ngồi chờ từ lúc nào và hỏi:

- Bố ơi, con hỏi bố một câu được không?
- Được chứ, con hỏi gì - Ông bố đáp.
- Bố ơi, bố làm được bao nhiêu tiền một tiếng đồng hồ?
- Đó không phải là việc của con. Mà tại sao con lại hỏi một việc như thế hả ? - Ông bố hết kiên nhẫn.
- Con muốn biết mà - đứa con nài nỉ.
- Nếu con cứ khăng khăng đòi biết, thì bố sẽ nói. Bố làm được hai đôla một giờ đồng hồ.
- Ôi - đứa bé rụt rè hỏi - bố cho con vay một đôla được không?

Ông bố rất bực mình:

- Nếu lý do duy nhất con muốn biết bố làm được bao nhiêu tiền chỉ là để vay mà mua mấy thứ đồ chơi vớ vẩn, thế thì mời con đi ngay vào phòng mình và ngủ đi. Hãy nghĩ xem tại sao con lại ích kỷ đến thế! Bố làm việc vất vả cả ngày, và không có thời gian cho những chuyện ấy đâu!

Đứa bé đi vào phòng đóng cửa. Ông bố ngồi xuống càng nghĩ càng cáu. Tại sao đứa con lại dám hỏi mình một câu như thế chứ?

Một giờ sau, khi đã bình tĩnh lại, ông bố nghĩ có thể đứa con rất cần tiền để mua một thứ gì đó, và nghĩ rằng mình đã quá nghiêm khắc với nó. Ông đi vào phòng con:
- Con ngủ chưa?
- Chưa ạ, con còn thức! - cậu bé nằm trên giường đáp.
- Bố suy nghĩ rồi, có thể bố đã quá nghiêm khắc. Đây là một đôla cho con.

Cậu bé cầm lấy rồi thò tay xuống dưới gối, lôi ra thêm mấy tờ tiền lẻ nữa. Ông bố thấy con có tiền từ trước lại cáu. Khi đứa con xếp thành một xếp tiền ngay ngắn, ông bố càu nhàu:

- Tại sao con lại vay thêm tiền khi con đã có rồi?
- Vì con chưa có đủ ạ! - Bỗng đứa trẻ ngẩng lên vui sướng - Bây giờ thì con có đủ rồi! Bố ơi, đây là hai đô la, con có thể mua một giờ trong thời gian của bố không?

Cuộc sống đầy khó khăn, phải làm việc cật lực để có đủ tiền nuôi con ăn, học và bao nhiêu thứ khác nữa, khiến chúng ta – các bậc cha mẹ – quên đi một điều cơ bản: con cái cần đến sự hiện diện của chúng ta, trong buổi ăn gia đình, thời giờ buổi tối…Bổi vì điều quan trọng nhất mà trẻ cân đó là cảm nhận được sự gần gũi thân thương của cha mẹ.

SỐNG ĐẸP

PHẦN QUAN TRỌNG NHẤT

Mẹ tôi đã ra một câu đố: "Con yêu, phần nào là quan trọng nhất trên cơ thể hả con?"

Ngày nhỏ, tôi đã nói với mẹ rằng âm thanh là quan trọng đối với con người nên tai là bộ phận quan trọng nhất. Mẹ lắc đầu: "không phải đâu con. Có rất nhiều người trên thế giới này không nghe được đâu, con yêu ạ. Con tiếp tục suy nghĩ về câu đố đó đi nhé, sau này mẹ sẽ hỏi lại con."

Vài năm sau, tôi đã nói với mẹ rằng hình ảnh là quan trọng nhất, vì thế đôi mắt là bộ phận mà mẹ muốn đố tôi. Mẹ lại nhìn tôi âu yếm nói: "Con đã học được nhiều điều rồi đấy, nhưng câu trả lời của con chưa đúng bởi vi vẫn còn nhiều người trên thế gian này chẳng nhìn thấy gì."

Đã bao lần tôi muốn mẹ nói ra đáp án, và vì thế tôi toàn đoán lung tung. Mẹ chỉ trả lời tôi: "Không đúng. Nhưng con đang tiến bộ rất nhanh, con yêu của mẹ."

Rồi đến năm 1991, bà nội yêu quý của tôi qua đời. Mọi người đều khóc vì thương nhớ bà. Một mình tôi đã vừa đạp xe vừa khóc trên suốt chặng đường 26 km từ thị xã về quê trong đêm mưa rào ngày 4/5 âm lịch của năm đó. Tôi đạp thật nhanh về bệnh viện huyện để mong được gặp bà lần cuối. Nhưng tôi đến nơi thì đã muộn mất rồi.

Tôi đã thấy bố tôi gục đầu vào vai mẹ tôi và khóc. Lần đầu tiên tôi thấy bố khóc như tôi. Lúc liệm bà xong, mẹ đến cạnh tôi thì thầm: "Con đã tìm ra câu trả lời chưa?" Tôi như bị sốc khi thấy mẹ đem chuyện đó ra hỏi tôi lúc này. Tôi chỉ nghĩ đó là một trò chơi giữa hai mẹ con thôi.

Nhìn vẻ sững sờ trên khuôn mặt tôi, mẹ liền bảo cho tôi đáp án: "Con trai ạ, phần quan trọng nhất trên cơ thể con chính là cái vai."

Tôi hỏi lại: "Có phải vì nó đỡ cái đầu con không hả mẹ?"

Mẹ lắc đầu: "Không phải thế, bởi vì đó là nơi người thân của con có thể dựa vào khi họ khóc. Mỗi người đều cần có một cái vai để nương tựa trong cuộc sống. Mẹ chỉ mong con có nhiều bạn bè và nhận được nhiều tình thương để mỗi khi con khóc lại có một cái vai cho con có thể ngả đầu vào."

Từ lúc đó, tôi hiểu rằng phần quan trọng nhất của con người không phải là “phần ích kỷ”, mà là phần biết cảm thông với nỗi đau của người khác.

“Ôi Thần Linh Thánh ái xin mở rộng lòng con. Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.” (Kinh Hoà Bình của T. Phanxicô).

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

NHỮNG NIỀM VUI NHỎ

Biết tận hưởng những niềm vui nhỏ trong cuộc sống: đó là một trong những bí quyết của hạnh phúc.

Người Nhật Bản thường kể câu chuyện như sau: Một người đàn ông nọ đi qua một cánh đồng, thình lình bị cọp đuổi... Anh ta chạy bán sống bán chết mà vẫn không tìm ra chỗ dung thân. Anh chạy mãi để rồi cuối cùng thấy mình đứng bên bờ vực thẳm. Phía sau lưng, con cọp vẫn không buông tha. Không còn biết làm gì nữa, người đàn ông phải lấy sức để đu lên một cành cây bắc qua vực thẳm. Nhìn xuống dưới thung lũng, anh ta lại thấy một con cọp khác cũng đang nằm chờ chực. Người đàn ông đáng thương chỉ còn niềm hy vọng duy nhất: đó là nằm chờ đợi cho đến khi hai thú vật mệt mỏi bỏ đi... Chờ đợi trong lo sợ vẫn là cực hình lớn lao nhất đối với con người.

Giữa lúc anh ta đang phải chiến đấu với sợ hãi và mệt mỏi, thì tình cờ bỗng có hai con chuột bỗng từ đâu xuất hiện trên chính cành cây anh đang đu vào. Hai con vật bắt đầu gặm nhấm lớp vỏ xung quanh cành cây. Bình thường, chuột là một trong những loài thú mà anh gớm ghiếc nhất vì sự dơ bẩn của nó. Tiếng kêu của nó cũng là một âm thanh làm cho lỗ tai anh khó chịu. Thế nhưng, trong cơn sợ hãi tột cùng này, người đàn ông bỗng nhìn thấy hai con chuột thật đáng yêu. Những hàm răng mũm mĩm của chúng trông dễ thương làm sao! Tiếng kêu của hai con vật cũng trở thành một âm thanh êm dịu hơn tiếng gầm thét của hai con cọp.

Giữa lúc anh đang theo dõi từng động tác của hai con chuột, thì một con chim bỗng từ đâu bay lại, thả rớt trên cành cây một trái dâu rừng. Anh đưa tay nhặt lấy trái dâu và thưởng thức hương vị ngọt ngào của trái rừng bỗng nên thơ đáng yêu lạ lùng.

Bí quyết của hạnh phúc cũng chính là biết đón nhận những niềm vui nhỏ trong cuộc sống mỗi ngày. Có những ngày tù đày, chúng ta mới thấy được giá trị của hai chữ tự do. Có sống xa gia đình, chúng ta mới nhung nhớ những ngày sống bên những người thân. Có những lúc nằm quằn quại trên giường bệnh, chúng ta mới thấy được giá trị của sức khỏe... Cuộc sống của chúng ta tràn ngập những niềm vui nhỏ mà chỉ khi nào mất đi, chúng ta mới cảm thấy luyến tiếc.

(sưu tầm)

 

HỎI – ĐÁP VỀ ĐỨC TIN

1. Thuyết tiến hoá của Darwin
Lm. Phi Quang

Hỏi: Thưa Cha! Thuyết tiến hóa của Darwin cho rằng con người được tiến hóa từ khỉ (vượn) mà ra, con người cũng như các sinh vật đều tiến hóa từ hàng triệu năm trước đây. Với những dẫn chứng khoa học hùng hồn, thuyết này đã làm lung lay biết bao nhiêu người đã tin rằng Thiên Chúa tạo ra Adam và Eva là tổ tiên loài người. Vậy xin Cha có những lập luận, dẫn chứng để phản lại thuyết tiến hóa hoặc chứng minh sự sáng tạo tuyệt vời, vô biên của Thiên Chúa (hoặc chứng minh tiến hóa là ý định của Thiên Chúa nhưng con người là do Chúa tạo ra chứ không phải từ khỉ mà ra) nhằm giúp mọi người vững lòng tin vào Thiên Chúa. Chúng ta tin rằng Thiên Chúa sáng tạo ra vũ trụ và vạn vật. Xin chân thành cảm ơn Cha. (Trần T. Hiếu)

Đáp: Thuyết tiến hóa là gì? Là một lý thuyết "chủ trương rằng mọi sự hoặc đã từng hay đang ở trong tình trạng phát triển tất yếu. Theo thuyết tiến hóa duy vật, vật chất không được tạo dựng nhưng có từ đời đời, và từ đó nẩy sinh ra mọi sinh vật, thực vật, động vật, con người với linh hồn và xác qua một quá trình tiến hóa tự nhiên. Quan niệm này trái với mạc khải của Kitô giáo. Thuyết tiến hóa hữu thần có thể phù hợp với Kitô giáo, nếu biết giả thiết phải có sự quan phòng đặc biệt của Thiên Chúa đối với thân xác con người và linh hồn mỗi người được tạo dựng riêng biệt" (John A. Hardon, SJ, Từ Điển Công Giáo Phổ Thông, tập II, trg. 294).

Thuyết tiến hóa mới chỉ là một giả thuyết có nghĩa là còn cần phải có rất nhiều những chứng cớ hỗ trợ thì lý thuyết đó mới có giá trị đáng chấp nhận. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói trong bài huấn từ với Ủy Ban Giáo Hoàng về Khoa Học ngày 22 tháng 10 năm 1996: "Sự hữu hiệu của một lý thuyết lệ thuộc vào việc nó có thể kiểm chứng được hay không; nó được trắc nghiệm cách bền bỉ đối diện với sự kiện; khi nào nó không giải thích được sự kiện, nó cho thấy sự giới hạn và không thích hợp. Nó phải được suy nghĩ lại." Đức Thánh Cha còn lưu ý rằng không phải chỉ một Thuyết Tiến Hóa mà nhiều (vài ba) thuyết tiến hóa. Do đó có nhiều giải thích khác nhau tùy theo triết lý đứng đàng sau những giải thích ấy.

Sau hơn một thế kỷ sau khi Charles Darwin xuất bản cuốn "The Origin of the Species" Tiến Hóa vẫn chỉ là một giả thuyết chứ chưa phải là một sự kiện. Chúng ta không chủ trương chống lại một lý thuyết chưa có gì vững vàng. Điều quan trọng là lắng nghe những lời hướng dẫn của Giáo Hội về vấn đề này.

Đức Thánh Cha Beneđictô XVI khi được hỏi "Tín hữu Công giáo có được ngờ vực không?.. họ có thể vừa nghiên cứu thuyết Tiến hóa vừa đi nhà thờ? Bởi vì chỉ có một chân lý duy nhất mà thôi, hoặc thế giới được tạo dựng trong vòng sáu ngày, hoặc là nó hình thành sau hàng triệu năm tiến hóa?"

Ngài đã trả lời:

"Đề tài quí vị nêu ra về Darwin, sự tạo dựng vũ trụ, thuyết tiến hóa là đề tài của một cuộc bàn luận cho đến nay và với phương tiện ta hiện có vẫn là câu truyện chưa có kết thúc. Vấn đề tạo dựng trong sáu ngày không phải là điểm lấn cấn cái nan giải giữa khoa học hiện đại về việc hình thành vũ trụ và chuyện đức tin. Bởi vì trình thuật Thánh Kinh chỉ mang tính thần học, chứ không nhằm kể lại lịch sử cấu tạo vũ trụ. Kinh Thánh Cựu Ước cũng có những trình thuật khác về tạo dựng. Những câu truyện tạo dựng trong sách Gióp và sách Khôn Ngoan cũng cho thấy tín hữu thời đó đâu có nghĩ là tiến trình tạo dựng được ghi lại rõ ràng như những tấm hình chụp. Những hình ảnh Thánh Kinh đó chỉ muốn cho ta thấy một điều cơ bản: vũ trụ này hình thành do quyền năng của Chúa và chúng là sản phẩm của Ngài. Còn tiến trình hình thành nó ra sao thì lại là một vấn đề khác. Kinh Thánh hoàn toàn để ngỏ chuyện này. Riêng thuyết tiến hóa, trái lại, còn chất chứa quá nhiều giả thuyết và thường bị trộn lẫn với những triết thuyết thần bí nên còn cần rất nhiều nghiên cứu luận bàn" (Muối cho Đời, p. 32-33).

(Website Hội Thánh Công Giáo MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI)

2. Lập trường của Giáo hội về thuyết Tiến hóa (Evolutionism) như sau:
Linh mục Đoàn Quang, CMC. www.xuanha.net

- Trước hết, theo sách Sáng thế, đạo Công giáo tin nhận: Thiên Chúa đã dựng nên trời đất, vạn vật và loài người từ "không ra có", không cần vật gì (St, chương 1).

- Nhưng Thuyết Tiến hóa, Darwin lại cho rằng: Con người đi lần "Từ loại này qua loại khác". Con người ban đầu chỉ là những -Tế bào, -ở dưới nước, -rồi lên bờ, -thành loài bò sát, -bước đi khom khom, -sau cùng đứng thẳng… 

1/ Từ thế kỷ 4, thánh Agustinô đã nói: Sách Sáng thế không thể giải thích theo nghĩa đen.

2/ Đức Giáo hoàng Piô XII trong Thông điệp Humani Generis nói: Thuyết Tiến hóa chỉ là mơ hồ.

3/ Đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô II trong thư gửi cho Giáo Hoàng Học Viện Khoa Học nói: "Ngày nay, sau gần nửa thế kỷ, sau khi văn kiện Humani Generis được ấn hành, với những hiểu biết mới, dẫn chứng cho ta thấy, thuyết Tiến hóa không chỉ là mơ hồ. Nhưng ngài nói thêm:
- Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa.
- Nếu xác từ vật chất có trước, thì linh hồn con người cũng do Chúa tạo dựng.
- Linh hồn phát sinh do vật chất thì không hợp Giáo lí Công giáo.
- ĐGH không nói: người ta bởi khỉ; ngài nói: người ta bởi Chúa.

Theo ông James Stenson cố vấn gia đình ở Boston, là nhà chuyên về khoa lịch sử tiến hóa, ông nói: "Đừng lẫn lộn về sự tiến hóa (evolution) với thuyết tiến hóa (evolutionism) , Thuyết Tiến hóa cho rằng vũ trụ hoàn toàn là vật chất. Người Công giáo có thể chấp nhận tiến hóa với điều kiện, nhưng không thể chấp nhận thuyết Tiến hóa như vừa nói".

Trong Gíao Hội vẫn được tự do tranh luận về sự tiến hóa.

ĐGH không nói kiểu "ăn năn tội" vì từ xưa tới nay lầm lẫn, ngài chỉ nói lý thuyết về sự tiến hóa "không mơ hồ" (Greg Burbe).

Khoa học đặt câu hỏi: Con người được cấu tạo thế nào (How)

Kinh thánh đặt câu hỏi: Vì sao có con người (Why)

1. Kinh thánh nói: Con người được Thiên Chúa dựng nên, sinh sản theo loại mình, đã hơn 6 ngàn năm rồi (Cựu ước 4 ngàn, Tân ước 2 ngàn).

2. Khảo cổ nói (1956): Con người được hơn 100 ngàn năm. Năm 1972 Khảo cổ lại nói: Con người có gần 3 triệu năm.

- Kinh Thánh không dạy khoa học, Kinh Thánh dạy những chân lí để cứu độ con người.

- Kinh Thánh và Khoa học không mâu thuẫn, vì cả 2 cùng do Một Thiên Chúa mà phát sinh. Mỗi bên có chức năng của mình để phục vụ con người.

1980    24-04-2012 08:44:23