Sidebar

Thứ Bảy
27.04.2024

Sám Hối và Canh Tân - Tháng 03 năm 2001

Chủ đề: SÁM HỐI & CANH TÂN

 

I. LỜI CHÚA : Lc. 13, 1 - 9

Khi ấy, có những kẻ thuật lại cho Chúa Giêsu về việc quan Philatô giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hòa lẫn với máu các vật họ tế sinh. Ngài lên tiếng bảo: “các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Galilê bị ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở xứ Galilêa sao? Ta bảo các ngươi : không phải thế. Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị hủy diệt như vậy. Cũng như mười tám người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết, các ngươi tưởng họ tội lỗi hơn những người khác ở Giêrusalem ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị hủy diệt như vậy ” . Người còn nói với họ dụ ngôn nầy : “ Có người trồng một cây vả trong vườn nho mình. Ông đến tìm quả ở cây đó mà không thấy, ông liền bảo người làm vườn rằng : kìa, đã ba năm nay ta đến tìm quả cây vả nầy mà không thấy có. Anh hãy chặt nó đi, còn để nó choán đất làm gì ” . Nhưng anh ta đáp rằng : ” Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân; may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi ” .

II. Ý CHÍNH BÀI PHÚC ÂM

Lấy hai biến cố chết người thê thảm cùng với hình ảnh cây vả không sinh trái. Đức Kitô kêu gọi, bằng một mệnh lệnh đầy yêu thương và cũng thật khẩn trương, con người tội lỗi phải thành tâm sám hối, để có thể sinh hoa kết quả, nếu không sẽ bị chặt đi.

III. CHUYỆN MINH HỌA

TÊN ĂN TRỘM

Chuyện kể rằng: Tại một miền quê bên Mỹ, vào thời lập quốc, có hai anh em nhà kia bị bắt quả tang đang ăn trộm cừu. Dân trong làng đã mở tòa án để xét xử.

Sau khi nghị án, mọi người đồng ý cho khắc trên trán của mỗi tội nhân hai chữ viết tắt S.T ( Stop Thief), tạm dịch là “ Tên ăn trộm ” .

Người anh không chịu nổi sự sỉ nhục , nên bỏ trốn sang một vùng đất khác để quên đi dĩ vãng của mình. Nhưng anh ta không thể xóa nhòa được hai chữ viết tắt trên trán. Bất cứ người nào gặp anh ta cũng tra hỏi về ý nghĩa của hai chữ ấy. Lại một lần nữa không chịu nổi sự nhục nhã, anh ta rời bỏ nơi cư ngụ mới, để tiếp tục lang thang. Cuối cùng vì mòn mỏi trong cay đắng, anh ta đã bỏ mình nơi đất khách quê người.

Trong khi đó, người em tại tự nhủ : “ Tôi không thể bỏ trốn chỉ vì ăn trộm mấy con cừu. Tôi phải ở lại đây và tái tạo sự tin tuởng nơi những người chung quanh, cũng như nơi chính bản thân tôi ” .

Với quyết tâm đó, anh đã ở lại trong xứ sở mình. Không bao lâu anh đã xây dựng được một sự nghiệp lớn, cũng như tạo được danh thơm tiếng tốt của một người thanh liêm chính trực. Anh rất yêu thương những người nghèo khó và giúp đỡ họ.

Nhưng dù năm Tháng có qua đi, hai chữ S.T ( Stop Thief) vẫn còn ghi đậm nét trên trán anh. Một ngày kia có một người lạ mặt hỏi một cụ già về ý nghĩa của hai chữ ấy. Cụ già suy nghĩ một lúc rồi trả lời:

“ Tôi không nhớ rõ lai lịch của hai chữ ấy. Nhưng cứ nhìn vào cuộc sống của người đó, tôi nghĩ rằng hai chữ ấy có nghĩa là “ Thánh thiện ” (S.T= Saint).

IV. DIỄN NGHĨA

Sám hối, do từ La tinh paene, có nghĩa là “ đến cùng ” , là từ thường được dùng trong các bản dịch Tân Ước để dịch từ Hy Lạp metanoia, có nghĩa là “ sự thay đổi tâm hồn ” , một sự quay trở về của tâm hồn.

Sám hối là nhìn nhận mình có tội và cậy dựa vào ơn Chúa để thay đổi đời sống; Sám hối là quay trở về tâm hồn mình với lòng hối tiếc ăn năn vì những tội lỗi đã phạm và sẳn sàng từ bỏ để trở về đàng chính. Như vậy, sám hối là một nhân đức.

Sám hối là điều kiện cần thiết để vào Vương Quốc của Thiên Chúa : “ Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng ” (Mc 1, 15). Theo ngôn sứ Isaia, sám hối là thay đổi hướng đi, thực tình quay về với Thiên Chúa của Giao ước và dấn bước vào một cuộc sống mới.

Người sám hối thể hiện lòng chân thật khiêm tốn trước mặt Chúa, cậy dựa phó thác vào lòng nhân từ vô biên của Chúa, với ước muốn sửa đổi sao cho cuộc sống đẹp lòng Chúa hơn, đồng thời, dễ bao dung tha thứ cho anh em mình, vì nhận ra mình cũng là những người mỏng dòn yếu đuối như bao người khác. Người em trong câu chuyện trên đây cho chúng ta một tấm gương sáng chói về lòng sám hối, hoán cải : chân thành nhìn nhận lỗi lầm của mình và cố gắng sao cho cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn.

Còn người anh trong câu chuyện nầy, không dám nhìn thẳng vào sự thật, trốn tránh lầm lỗi lầm của mình, nhưng càng trốn tránh, tiếng lương tâm càng đeo đuổi, khiến anh ta mất phương hướng, lang thang và tàn lụi trong cô đơn. Đây là một thái độ bực dọc, phản kháng lại sự yếu đuối của con người, một thái độ kiêu căng muốn tự mình giải quyết hết mọi chuyện, không cần nhờ đến sự trợ giúp của Thiên Chúa, không cần xin ơn tha thứ.

Người sám hối biết cậy dựa vào lòng thương xót Chúa để làm lại cuộc đời. Giống như tâm tình của một đứa bé đối với mẹ mình. Bởi vì đối với người mẹ, việc đứa con sai lỗi là chuyện thường tình trẻ con, điều đó không cản trở lòng thương của mẹ đối với nó. Cũng vậy, đối với Thiên Chúa, tội lỗi con người không cản trở lòng yêu thương của Ngài. Thánh Phaolô Tông Đồ xác quyết : ” Đâu có tội lỗi thì ở đấy có ân sủng tràn trề ” . Dụ ngôn “ Cây Vả ” trên đây là một minh chúng cho lòng nhân từ, thuơng xót và nhẫn nại của Thiên Chúa, luôn tạo điều kiện cho ta được trở về trong tình thương.

Các vị thánh cũng là những tội nhân như chúng ta, nhưng các Ngài không bao giờ ỷ lại sức mình, mà luôn luôn bắt đầu lại với ơn Chúa giúp, họ luôn đầu hàng trước Thiên Chúa và để cho Thiên Chúa thay đổi cuộc sống của họ.

Như vậy, sám hối không chỉ là cố gắng riêng tư của mỗi người mà còn là tác động của chính Chúa. Chính Người mới có thể tái tạo cho chúng ta một trái tim mới, ban cho chúng ta một nghị lục mới để sống tốt hơn.

Đồng thời chúng ta cũng ý thức rằng, sám hối hay hoán cải không là công việc của một ngày, một tháng hay một năm, mà là việc của cả một đời. Bao lâu còn sống, chúng ta vẫn còn đựoc mời gọi để hoán cải không ngừng.

Có một người đi hành hương Đất Thánh. Một đêm, ông một mình trong vườn cây dầu; đêm ấy trời thật đẹp, bầu trời đầy trăng sao và chung quanh thinh lặng dịu hiền. Ông ta rất cảm động và quỳ gối cầu nguyện : Lạy Chúa, xin đừng để con tái phạm tội nữa. Nhưng bỗng ông nghe được tiếng nói vọng lại : này con, con đã xin một điều mà Cha không thể làm được là không để con tái phạm tội nữa. Phạm tội là tự do của con, nhưng Cha hằng luôn thương xót, lòng thương xót của Cha không chỉ giới hạn một lần.

VI. CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa là Cha hay thương xót, xin cho con biết chạy đến Chúa mỗi khi lỗi lầm để nhận được ơn thứ tha và nhờ ơn Chúa giúp con được thêm nghị lực mới để sống đẹp lòng Chúa hơn . Amen

VII. HỌC LỜI CHÚA: Lc 13, 3


” Nếu các ngươi không ăn năn hối cải thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị hủy diệt như vậy ” .

VIII. ÁP DỤNG THỰC HÀNH

Mời các bạn quan sát thái độ sống của hai anh em nói trên:
Giống nhau:
Cả hai cùng ăn trộm, cả hai cùng bị bắt quả tang, cả hai cùng bị xét xử và thích tự hai chữ S.T ( Ăn trộm).
Khác nhau:
Người anh: Xấu hổ với làng xóm, chạy trốn, chán nản, thất vọng và cuối cùng chết rủ trong nổi thất vọng đó.
Người em: Không chạy trốn, dũng cảm đối mặt với làng xóm,với chính mình, làm lại cuộc đời và cuối cùng trở nên người thánh thiện.
Các bạn hãy xét xem: Thái độ của ai ( người anh hay người em) thích hợp với ơn gọi trở về trong mùa chay nầy?
Nguyên tắc: “ Hãy biết rằng ở đâu bạn gặp chính bản thân mình, thì ở đấy bạn cũng gặp được Chúa, vì Chúa ở ngay trong bạn ”.
Người anh chạy trốn mọi người, nhưng không thể nào chạy trốn chính bản thân, anh ta không chấp nhận mình, cũng chính là không chấp nhận lỗi. Chính sự kiêu ngạo nầy đã làm anh mất hướng trở về, nên anh cảm thấy lạc lỏng, thất vọng và sau cùng gục ngã.
Người em không chạy trốn, khiêm tốn chấp nhận hành vi xấu mình đã làm, quyết tâm làm lại sự nghiệp, tái tạo sự tin tưởng. Đó là thái độ cần thiết cho sự trở về. Trở về với chính bản thân, ở đó anh gặp được Chúa và trở nên thánh thiện.
Các bạn trẻ làm gì trong mùa chay nầy?
Lời Chúa: “ Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (MC 1,115).
Sám hối là chiều kích nền tảng của đời sống đức tin. Sám hối là nhìn nhận thân phận tội lỗi yếu hèn của mình và quyết tâm đổi mới như người em trong câu chuyện kể trên: Khiêm tốn chấp nhận mình và quyết tâm tạo lập niềm tin và sự nghiệp, để trở nên người tốt, người thánh thiện.
Hành trình đi từ con người yếu đuối, tội lỗi đến mức độ thánh thiện, được gọi là ơn gọi trở về. Không có ơn Chúa sẽ không có sự trở về. Tuy nhiên con người trở về cần có sự tích cực chuẩn bị đón nhận ơn Chúa. Sự tích cực chuẩn bị nầy chính là sự khiêm nhường. Khiêm nhường hệ tại hai điều:
Một là nhận biết mình yếu đuối tội lỗi.
( Trở về với chính bản thân)
Hai là hết lòng cậy tin ở lòng xót thương của Chúa ( Trở về với Thiên Chúa là Cha nhân từ).
” Hãy biết rằng ở đâu bạn gặp chính bản thân mình, thì ở đấy bạn cũng gặp được Chúa, vì Chúa ở ngay trong bạn ”.
Các bạn “ Đừng phạm tội nữa ” .
Lên kế hoạch quyết tâm trở về:
Khi trực diện với chính mình, ta sẽ lần bước tìm ra:
Đâu là nết xấu then chốt ta hay lỗi phạm?
Phạm ở đâu? Vào lúc nào? Đối với ai? Bằng ý nghĩ, lời nói hay hành động?
Nguyên do tại sao lỗi phạm?
Tập tính tốt ngược lại.
Làm cỏ mà không trồng cây mới thì cỏ sẽ lên trở lại. Do đó, song song với việc loại trừ nết xấu phải tập tính tốt.
Tập tính tốt theo phương pháp như trừ nết xấu ở trên.
Kiểm soát:
Thường xuyên kiểm soát việc trừ nết xấu và tập tính tốt bằng cách:
Xét mình hằng ngày.
Xưng tội hàng tháng.
Siêng năng tham dự Thánh Lễ và rước lễ
Tham gia hoạt động tông đồ giáo dân trong họ đạo.
“ Ở không nhưng là cội rễ mọi sự dữ ” .

IX. LỜI NGUYỆN GIÁO DÂN

PHÚT SÁM HỐI.

Xin Chúa tha thứ những lần con không muốn hy sinh, hãm mình, chịu khó với Chúa.
Xin Chúa tha thứ những lúc có thể được mà con không giúp đỡ người khác theo khả năng của con, cả về phần hồn lẫn phần xác.
Xin Chúa tha thứ những lần con cố chấp không nhìn nhận tội lỗi của mình, không thường xuyên lãnh nhận Bí tích Giải Tội.
Xin Chúa tha thứ những lần con không họp giới trẻ, không học giáo lý, không làm việc được phân công.
Xin Chúa tha thứ những lần con không cầu nguyện sốt sắng, thiếu sống kết hợp với Chúa .

LỜI NGUYỆN CHUNG.

Kêu mời: Anh chị em và các bạn trẻ thân mến,
Những lời kêu gọi đầu tiên của Chúa Giêsu là: “ Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng ” . Mùa Chay, Hội Thánh mời gọi chúng ta sống lại lời này của Chúa. Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp tất cả chúng ta có đủ nghị lực thực thi Lời Chúa dạy trong suốt Mùa Chay Thánh này:

Trong thế gian, không ai là không có tội; chúng ta hãy cầu xin cho mỗi người và mọi người biết ăn năn sám hối những lầm lỗi của chính mình và quyết tâm chỗi dậy cải thện đời sống mình, ngày càng tươi đẹp hơn.

Sứ mạng của Hội Thánh là làm cho nhân loại ngày càng tiến dần đến đời sống thánh thiện; chúng ta hãy cầu xin cho mọi người sống thánh nhờ các Bí tích, nhất là sốt mến Bí tích Thánh Thể.

Giữa thời đại hôm nay, giới trẻ dễ bị mất phương hướng cho cuộc sống; chúng ta hãy cầu xin cho chúng ta và các bạn trẻ trung thành với giáo lý Chúa dạy, mà xây dựng xã hội công bình và bác ái.

Chúng ta hãy cầu xin cho những người có trách nhiệm giáo dục, chăm sóc vật chất và tinh thần cho người trẻ, biết dùng tình thương mà hoàn thành trách nhiệm được Chúa trao phó cho mình.

Chúng ta hãy cầu nguyện cho hết mọi người trong họ đạo chúng ta được sốt sắng sống Mùa Chay Thánh theo như ý Chúa và Hội Thánh dạy.

Kết thúc: Lạy, chúng con ca ngợi và cảm tạ tình thương cứu độ Chúa đã ban cho chúng con. Chúa đã cứu chuộc chúng con nhờ cuộc khổ nạn và sự chết của Con Chúa; xin Chúa cũng thương nghe lời chúng con khẩn nguyện mà làm cho tất cả chúng con được thông phần đau khổ của Con Chúa, là Đấng hằng sống hằng trị muôn đời. Amen.

Giới thiệu Sứ điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới Năm 2001
của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II

Sáng 15/02/2001 , phòng báo chí Tòa Thánh đã phổ biến sứ điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới Năm 2001 của Đức Thánh Cha. Ngày Giới Trẻ Thế Giới năm nay sẽ được tổ chức ở cấp giáo phận vào ngày Chúa Nhật Lễ Lá 8/4 tới đây. Chủ đề của Ngày Giới Trẻ Thế Giới sắp đến là lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng Thánh Luca đoạn 9 câu 23 "Nếu ai muốn theo thầy, hãy bỏ mình đi, vác thập giá và theo thầy".

Trong sứ điệp Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến những điều kiện mà Chúa Giêsu đặt ra cho những ai muốn trở thành môn đệ của Chúa: từ bỏ mình và vác thập giá mà theo Người. Chúa Giêsu không phải là một đấng Messia của chiến thắng và quyền lực. Ngài đã không giải thoát Israel khỏi ách thống trị của La Mã và không bảo đảm cho Israel chính trị. Trong tư cách là người tôi tớ đích thực của Thiên Chúa, Ngài đã thi hành sứ mạng của một đấng Messia trong tình liên đới, phục vụ, tủi nhục và sự chết.

Từ tiền đề trên đây, Đức Thánh Cha đã lần lượt giải thích ý nghĩa của việc từ bỏ mình và vác thập giá theo Chúa Giêsu. Từ bỏ mình có nghĩa là từ bỏ dự án của mình, nhiều khi hạn hẹp và thiển cận, để đón nhận dự án của Thiên Chúa. Đó chính là con đường hoán cải tối cần thiết đối với cuộc sống người Kitô hữu đến mức đã làm cho thánh Phaolô tông đồ quả quyết: "Không còn là tôi sống nhưng là Đức Kitô sống trong tôi". Chúa Giêsu không đòi chúng ta phải từ bỏ sự sống nhưng là đón nhận sự mới mẻ và cuộc sống sung mãn mà chỉ có Ngài mới có thể ban cho.

Đức Thánh Cha quãng diễn tiếp về việc vác thập giá mình mà theo Chúa. Theo giáo huấn của Chúa Giêsu, thành ngữ này không đặt lên hàng đầu việc khổ chế và hãm mình. Câu nói này trước tiên không có ý nói về nghĩa vụ phải kiên nhẫn chịu đựng những sầu khổ lớn nhỏ hàng ngày. Kitô hữu không tìm kiếm đau khổ vì đau khổ nhưng tìm kiếm tình yêu. Thập giá được đón nhận trở thành biểu chứng tình yêu và sự dâng hiến hoàn toàn. Vác thập giá theo Chúa Kitô có nghĩa là kết hiệp với Chúa trong việc đưa ra một bằng chứng cao cả nhất của tình yêu. Theo Đức Thánh Cha, chúng ta không thể nói về Thập Giá mà không để ý đến tình thương của Thiên Chúa đối với chúng ta và sự kiện Chúa muốn chúng ta được tràn đầy những điều tốt lành của Ngài. Qua lời mời gọi hãy theo Thầy, Chúa Giêsu không những muốn nói với các môn đệ hãy noi gương Thầy nhưng Ngài còn nói rằng hãy chia sẻ cuộc sống và những chọn lựa của Thầy, hãy cùng với Thầy sống trọn cuộc sống của các con vì tình yêu đối với Thiên Chúa và anh chị em.

Đức Thánh Cha kết luận: Các bạn trẻ thân mến, các con đừng ngạc nhiên nếu vào đầu Ngàn Năm Thứ Ba này Cha lập lại với các con Thập Giá như con đường sự sống và hạnh phúc chân thật. Giáo Hội vẫn luôn tin và tuyên xưng rằng chỉ trong Thập Giá của Chúa Kitô mới có ơn cứu độ. Một nền văn hóa phù du đề cao giá trị của những gì là khoái lạc và có vẻ đẹp đẽ muốn làm cho người ta tin rằng cần phải tháo gỡ Thập Giá để được hạnh phúc. Người ta đề cao như một lý tưởng sự thành công dễ dàng, sự tiến thân mau lẹ trên đường sự nghiệp, tính dục tách rời khỏi ý thức trách nhiệm và sau cùng là một cuộc sống chỉ quy hướng vào việc phục vụ bản thân mà ít khi tôn trọng tha nhân. Nhưng các con hãy coi chừng. Hãy mở rộng đôi mắt. Đó không phải là con đường làm cho ta được sống nhưng là con đường dẫn sâu vào sự chết.
( Nguyễn Việt Nam )

Tài liệu học hỏi

MÙA CHAY và MÙA PHỤC SINH

MÙA CHAY

Mùa Chay là gì ? Mùa Chay kéo dài bao nhiêu ngày, bắt đầu và kết thúc vào ngày nào ?
Mùa Chay là mùa sám hối đặc biệt để chuẩn bị mừng lễ Vượt Qua của Đức Ki-tô. Mùa Chay kéo dài 40 ngày, bắt đầu từ thứ tư Lễ Tro và kết thúc trước thánh lễ Tiệc Ly chiều ngày thứ Năm Tuần Thánh.
Kinh Thánh cho ta biết con số 40 ám chỉ những biến cố lớn nào?
Con số 40 ( ám chỉ ) gợi nhớ 40 năm dân Do Thái Vượt Qua trong sa mạc tiến về Đất Hứa ( Ds 14,33; 32,13 ), Lụt Hồng Thủy kéo dài 40 đêm ngày ( St 7 ) và cuộc chay tịnh 40 đêm ngày của Chúa Ki-tô trong rừng vắng trước khi rao giảng ơn cứu độ ( Mt 4,2; Lc 4,1-2 ). Các Giáo Phụ cũng coi thời gian giữ chay tương tự thời gian bốn mươi ngày ông Mô-sê ở trên núi Xi-nai ( Xh 34,28 ), hoặc bốn mươi ngày ông Ê-li-a chạy trốn ở núi Kho-rép ( 1V 19,8 )...
Mùa Chay có mấy đặc tính?
Mùa Chay có hai đặc tính:
Mùa Chay là mùa sám hối đặc biệt để chuẩn bị mừng lễ Vượt Qua của Đức Ki-tô, và nhất là nhớ lại hoặc dọn mình lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy.
Mùa Chay còn là mùa chuẩn bị các tín hữu cử hành Mầu Nhiệm Vượt Qua bằng sự nhiệt thành nghe Lời Chúa và chuyên chăm cầu nguyện mỗi ngày.
Mùa Chay mang ý nghĩa gì ?
Mùa Chay có những ý nghĩa sau:
Mùa Chay là thời kỳ sám hối, cầu nguyện: Hội Thánh kêu gọi mọi người quay về với Chúa, thanh tẫy tâm hồn, từ bỏ các tật xấu, hy sinh hãm mình và làm việc bác ái.
Mùa Chay cũng là thời gian huấn luyện đức tin của các Ki-tô hữu cho thêm vững mạnh, và sâu xa hơn khi nhớ lại Bí tích Rửa Tội đã lãnh nhận.
Mùa Chay còn là mùa chuẩn bị cho anh chị em dự tòng đón nhận sự sống thiêng liêng nhờ việc sống tinh thần của Bí tích Rửa Tội.
Đức Thánh Cha đã mở đầu sứ điệp Mùa Chay năm 2001 bằng câu nào ?
Sứ điệp Mùa Chay năm nay đã được Đức Thánh Cha mở đầu bằng câu: “ Đức mến thì không oán giận ” ( 1Cr 13,5 )
Trong sứ điệp Mùa Chay, Đức Thánh Cha đã chỉ ra đâu là đường dẫn đến hòa bình ?
Theo Đức Thánh Cha, con đường duy nhất dẫn đến hòa bình là sự tha thứ. Tha thứ và xin tha thứ tạo ra cơ hội cho con người đạt tới phẩm chất mới trong các mối tương quan, ngăn chặn vòng xoáy của ghét ghen, bẻ gãy xiềng xích của thù hận.
Bốn phương thế Hội Thánh quen dùng trong Mùa Chay là những phương thế nào ?
Bốn phương thế Hội Thánh quen dùng trong Mùa Chay là: sám hối, ăn chay hãm mình, cầu nguyện và làm các việc bác ái.
Sám hối là gì ?
Sám hối là can đảm và khiêm tốn nhìn nhận những lỗi lầm mình đã phạm.
Việc chay tịnh giúp con người những gì ?
Qua việc chay tịnh, con người nhìn nhận mình lệ thuộc Thiên Chúa, vì chính lúc không sử dụng lương thực Chúa ban, con người mới cảm nghiệm được tính cách bấp bênh của sức lực mình. Hơn nữa, ăn chay là muốn bày tỏ cùng Thiên Chúa rằng: Nếu không có Người, chúng ta không thể làm gì được; và qua việc thực lòng nhìn nhận tính cách hư vô của mình, con người khẩn cầu Chúa tha thứ.
Theo luật Hội Thánh, đến tuổi nào thì buộc phải giữ chay và kiêng thịt ?
Theo luật Hội Thánh, mọi người từ tuổi thành niên ( tức là 18 tuổi trọn. GL 97 ) cho đến khi bắt đầu 60 tuổi thì buộc phải giữ chay ( GL 1252 ). Còn luật kiêng thịt buộc những người từ 14 tuổi trọn trở lên.
Giáo Hội buộc ta phải giữ chay và kiêng thịt vào những ngày nào ?
Giáo Hội buộc ta phải giữ chay và kiêng thịt vào hai ngày thứ Tư lễ Tro và ngày thứ Sáu Tuần Thánh ( x. GL 1251 ). Việc chay tịnh của Hội Thánh vào hai ngày này nói lên ý muốn đền tội và từ bỏ tội lỗi và đó cũng là một sự chuẩn bị để mừng lễ Phục Sinh.
Phụng vụ ngày thứ Tư Lễ Tro gợi lên cho người tín hữu những gì ?
Phụng vụ ngày thứ Tư Lễ Tro gợi lên cho người tín hữu ý thức về thân phận thụ tạo tội lỗi của mình. Khi nhận tro rắc trên đầu, người tín hữu được nhắc nhớ: “ hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro ”.
Tại sao Chúa Nhật thứ VI Mùa Chay lại được gọi là Chúa Nhật Lễ Lá?
Ngày lễ Chúa Nhật bắt đầu Tuần Thánh gọi là Chúa Nhật Lễ Lá, vì có cuộc kiệu lá để kỷ niệm việc Chúa Giê-su long trọng tiến vào thành thánh Giêrusalem để hoàn tất Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người. Tục lệ này khởi đầu tại Giêrusalem vào cuối thế kỷ thứ IV.
Nghi thức làm phép lá và rước lá nhắc nhở chúng ta ý thức về điều gì ?
Nghi thức làm phép lá và rước lá nêu cao vương quyền của Đức Ki-tô, đồng thời để giúp chúng ta sống lại cảnh tượng Chúa Ki-tô khải hoàn tiến vào Giêrusalem. Người muốn tỏ uy quyền và vinh quang của Người để chúng ta bền vững, tin tưởng và trung thành với Người.
Tuần Thánh là gì ? Trong tuần Thánh, Giáo Hội cử hành những cuộc tưởng niệm nào ?
Tuần Thánh là tuần lễ chủ yếu của năm Phụng vụ, bắt đầu từ Chúa Nhật Lễ Lá đến Chúa Nhật Phục Sinh. Trong Tuần Thánh, Giáo Hội cử hành cách đặc biệt hơn các biến cố trong những ngày cuối cùng của Chúa Giê-su, tức là cuộc khổ nạn, cái chết và sự Phục Sinh của Người. Trong tuần lễ này, Tam Nhật Vượt Qua là những ngày quan trọng nhất.
Hằng năm, người Do Thái mừng lễ Vượt Qua để làm gì ?
Hằng năm người Do Thái mừng lễ Vượt Qua để tưởng nhớ lại biến cố Vượt Qua Biển Đỏ mà ngợi khen, cảm tạ Thiên Chúa đã yêu thương giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, và nhắc nhở họ phải sống xứng đáng là dân riêng của Chúa.
Hội Thánh cử hành Tam Nhật Vượt Qua với mục đích nào ?
Hội Thánh cử hành Tam Nhật Vượt Qua để cho ta thấy trước và sống trước những thực tại của ngày cánh chung, ngày mà Chúa Ki-tô sẽ tập hợp tất cả chúng ta lại trong Nước của Cha Người. Mầu nhiệm Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Giê-su đã khơi mào và bảo đảm cho ta được hưởng ngày hồng phúc ấy. Hơn nữa, Hội Thánh dùng Tam Nhật Vượt Qua để đón nhận những con cái mới được sinh ra trong ân sủng, để giao hòa những hối nhân và canh tân đời sống những người đã được thanh tẩy.
Tam Nhật Vượt Qua có ý nghĩa gì đối với người Ki-tô hữu ?
Tham dự Tam Nhật Vượt Qua, người tín hữu được sống với Đức Ki-tô trong bữa Tiệc Ly, theo Người lên Núi Sọ, bước vào chốn an nghỉ của Người và chiêm ngắm Người Phục Sinh vinh hiển.
Tại sao Tam Nhật Vượt Qua lại là trung tâm điểm của Phụng vụ Ki-tô giáo ?
Tam Nhật Vượt Qua là trung tâm điểm của Phụng vụ Ki-tô giáo, bởi vì tất cả nền Phụng vụ của Hội Thánh đều phát xuất từ mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô: khổ nạn, chịu chết và phục sinh. Ngày Chúa Phục Sinh là ngày lễ Mẹ của mọi ngày Chúa Nhật trong năm. Bởi vì, Thánh Lễ nào cũng đều tưởng niệm và tái diễn công cuộc Vượt Qua của Đức Ki-tô.
Trong ngày thứ Năm Tuần Thánh, Hội Thánh cử hành những nghi thức long trọng nào ?
Trong ngày thứ Năm Tuần Thánh, Hội Thánh cử hành hai nghi thức long trọng, đó là:
Thánh Lễ Truyền Dầu: thánh lễ này được cử hành vào ban sáng do Đức Giám Mục Giáo Phận chủ tế cùng với Linh Mục đoàn để làm phép dầu Bệnh Nhân, dầu Dự Tòng và để thánh hiến Dầu Thánh.
Thánh lễ tưởng niệm bữa Tiệc Ly của Chúa Giê-su được cử hành ban chiều để nhắc nhớ việc Chúa Giê-su thiết lập Bí tích Thánh Thể. Thánh lễ này khai mạc Tam Nhật Vượt Qua.
Phụng vụ chiều thứ Năm Tuần Thánh, Giáo Hội tưởng niệm những biến cố gì ?
Phụng vụ chiều thứ Năm Tuần Thánh trước hết là tưởng niệm bữa Tiệc Ly của Chúa Giê-su, việc Ngài thiết lập Bí tích Thánh Thể và chức Linh Mục, cũng như nghi thức rửa chân, biểu tượng tình yêu phục vụ của Đức Ki-tô.
Khi cử hành nghi thức rửa chân, Giáo Hội muốn nhắc nhở chúng ta điều gì ?
Chính vì yêu thương mà Chúa Giê-su đã hạ mình xuống rửa chân cho các môn đệ, như đầy tớ rửa chân cho chủ. Qua nghi thức này, Giáo Hội muốn nhắc nhở chúng ta phải noi gương Đức Ki-tô trong tinh thần phục vụ: “Phục vụ vì yêu thương”.
Kinh Thánh cho ta biết tâm trạng của Chúa Giê-su trong vườn Ghết-se-ma-ni thế nào ?
Trong vườn Ghết-sê-ma-ni Đức Giê-su cảm thấy sợ sệt, buồn rầu và xao xuyến. Ngài đã xin Chúa Cha cho khỏi qua giờ đau khổ, khỏi phải uống chén đắng này. Tuy nhiên, dầu sợ hãi, Người cũng sẵn sàng chết, nếu đó là Thánh ý Chúa Cha: “nhưng xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha”.
Chén đắng mà Chúa Giê-su xin Chúa Cha cho Ngài khỏi uống ám chỉ điều gì ?
Chén đắng ở đây ám chỉ những thử thách và những đau khổ mà Đức Giê-su sắp phải chịu. Đó chính là cuộc thương khó của Ngài.
Trọng tâm của việc cử hành chiều ngày Thứ Sáu Tuần Thánh là gì ? Tại sao ?
Trọng tâm của việc cử hành chiều Thứ Sáu Tuần Thánh là nghi thức suy tôn và kính thờ Thánh Giá, vì nhờ Thánh Giá mà ơn cứu độ được ban cho chúng ta.
Trên Thập Giá Đức Giê-su đã nói những lời nào ?
Trên Thâp Giá, Đức Giê-su đã nói Bảy Lời mà Kinh Thánh cho ta biết:
Lời thứ nhất: Đức Giê-su cầu nguyện với Chúa Cha xin Người tha cho những kẻ làm khổ mình: “Lạy Cha xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” ( Lc 23,34 );
Lời thứ hai: Đức Giê-su chấp nhận lời xin của tên trộm bị đóng đinh cùng: “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với Tôi trên Thiên Đàng” ( Lc, 23,43 );
Lời thứ ba: Đức Giê-su trao gửi Thánh Gioan cho Đức Mẹ: “Thưa Bà, đây là Con Bà” ( Ga 19,26 );
Lời thứ bốn: Đức Giê-su trao gửi Đức Mẹ cho Thánh Gioan: “Đây là Mẹ của anh” ( Ga 19,27 );
Lời thứ năm: Đức Giê-su than thở với Chúa Cha: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của Con, sao Ngài bỏ rơi Con!” ( Mt 27,46);
Lời thứ sáu: Đức Giê-su phó thác linh hồn cho Chúa Cha: “Lạy Cha, Con xin phó thác linh hồn Con trong tay Cha” ( Lc 23,46 ).
Lời thứ bảy: Đức Giê-su kêu khát và sau khi uống chút giấm chua, Đức Giê-su nói: “Thế là mọi sự đã hoàn tất”. Rồi Người tắt thở. ( Ga 19,30 ).
Khi chết trên Thập Giá, Đức Ki-tô muốn nói với chúng ta điều gì ?
Đức Ki-tô muốn nói rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng: “Không có tình yêu nào lớn lao cho bằng tình yêu của người dám hy sinh mạng sống mình vì người mình yêu” ( Ga 15,13 ).
Tại sao gọi tình yêu của Thiên Chúa là tình yêu cứu chuộc ?
Chúng ta gọi tình yêu của Thiên Chúa là tình yêu cứu chuộc vì qua hy lễ của Đức Ki-tô, tình yêu Thiên Chúa giải thoát loài người khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết. ( Rm 5,8 ).
Khi chiêm ngắm Chúa Giê-su chết trên Thập Giá, chúng ta phải có những thái độ nào ?
Khi chiêm ngắm Chúa Giê-su chết trên Thập Gía, chúng ta hướng nhìn về Chúa với những tâm tình:
Suy tôn: vì Chúa đã chiến thắng sự chết;
Cảm phục: vì Chúa đã hy sinh chịu chết;
Cảm mến: vì Chúa đã dùng cái chết để tỏ lòng yêu thương ta;
Tri ân: vì Chúa đã chịu chết để chuộc tội cho ta;
Ngưỡng mộ: vì Chúa muốn chúng ta noi theo Người: “Ai muốn theo Ta, thì hãy bỏ mình và vác thập giá mình mà theo”.
Vì thế, chúng ta giục lòng ăn năn tội và quyết tâm sống mỗi ngày đẹp lòng Chúa hơn.
Ngày thứ Bảy Tuần Thánh, Giáo Hội muốn chúng ta làm gì? Ngày thứ Bảy Tuần Thánh, Giáo Hội mời gọi chúng ta cùng với Mẹ Maria cầu nguyện bên Mồ Chúa, cùng Người suy ngắm các đau khổ, cái chết và việc mai táng của Chúa Giê-su trong niềm hy vọng và tin tưởng.
Trên hìnhThánh Giá ở cây nến Phục Sinh, Linh Mục ghim năm hạt hợp hương mang ý nghĩa gì?
Trên hình Thánh Giá ở cây nến Phục Sinh, năm hạt hợp hương chính là biểu tuợng năm dấu đinh của Chúa Giê-su ( dấu đinh tay tả, dấu đinh tay hữu, dấu đinh chân tả, dấu đinh chân hữu và dấu đinh cạnh sườn của Chúa Giê-su ).
Dấu Thánh Giá mang ý nghĩa gì ?
Thánh Giá là dấu chỉ của sự cứu độ. Khi làm dấu thánh giá, chúng ta nhận biết mình thuộc về Chúa Ki-tô và bày tỏ niềm tin vào Chúa Ki-tô, Đấng đã chết trên Thánh giá để cứu chuộc chúng ta.

MÙA PHỤC SINH

Sau khi Đức Giê-su chết và được mai táng trong mồ, điều kỳ diệu nào đã xẩy ra ?
Sau khi chết chưa đủ ba ngày, Đức Giê-su đã sống lại như Người báo trước.
Dựa vào đâu mà biết được Chúa đã sống lại thật ?
Thứ nhất là ngôi mộ trống, không còn xác Chúa, mà chỉ còn lại những vải liệm xác Chúa xếp ngay ngắn gọn gàng.
Thứ hai là Đức Giê-su đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ. Đặc biệt là Người đã cùng ăn cùng uống và trò chuyện thân mật với họ.
Ai là người đầu tiên đã khám phá ra ngôi mộ trống ?
Sáng ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá lấp cửa đã lăn ra khỏi mộ. Bà liền chạy về báo tin cho các ông Phêrô và Gioan.
Việc Đức Giê-su sống lại đã minh chứng cho chúng ta thấy điều gì ?
Việc sống lại của Đức Ki-tô đã chứng thực rằng:
Đức Giê-su chính là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật.
Những lời hứa trong Kinh Thánh nay đã được thực hiện.
Mọi điều Đức Giê-su đã nói và đã làm đều chân thật.
Sau khi sống lại Đức Giê-su làm gì ?
Sau khi sống lại Đức Giê-su còn hiện ra nhiều lần để dạy dỗ, an ủi các môn đệ trong 40 ngày rồi Người lên trời ngự bên hữu Chúa Cha.
Những lần hiện ra của Chúa Giê-su có ảnh hưởng gì trên các Tông Đồ ?
Tất cả những lần hiện ra của Chúa Giê-su Phục Sinh cho cá nhân hay cho tập thể các Tông Đồ, đã thôi thúc các ông, đặc biệt là Thánh Phêrô, ra sức xây dựng một kỷ nguyên mới đã bắt đầu từ sáng ngày Chúa Phục Sinh. Với tư cách là chứng nhân của Đấng Phục Sinh, họ là những viên đá nền móng xây nên Hội Thánh Chúa Ki-tô nơi trần gian.
Tai sao lại nói: Đức Ki-tô Phục Sinh là đối tượng của đức tin và là nền tảng xây dựng Hội Thánh ?
Tin Mừng Phục Sinh của Chúa Ki-tô là đối tượng của đức tin, vì đó là sự can thiệp siêu việt của chính Thiên Chúa trong công trình sáng tạo và trong lịch sử. Trong sự Phục Sinh này, cả Ba Ngôi Thiên Chúa vừa chung một hoạt động, vừa biểu lộ tính cách riêng biệt của mình.
Sự sống lại của Chúa Ki-tô có ý nghĩa gì đối với chúng ta?
Sự sống lại của Chúa Ki-tô đã mở lối cho chúng ta bước vào sự sống mới của Người, đồng thời khơi nguồn và bảo đảm cho sự sống lại sau này của chúng ta.
Tin vào Chúa Ki-tô Phục sinh, ta phải sống thế nào ?
Ta phải luôn sống lạc quan tin tưởng, can đảm theo đường lối Chúa, dầu phải chấp nhận những thiệt thòi mất mát, vì tin rằng ta sẽ được dự phần vinh quang với Người.
Lễ Phục Sinh là gì ?
Lễ Phục Sinh là đích điểm của Tam Nhật Vượt Qua, tưởng niệm việc Chúa Ki-tô sống lại. Lễ Phục Sinh được mừng đặc biệt vào đêm vọng Phục Sinh và ngày Chúa Nhật Phục Sinh cũng như trong suốt mùa Phục Sinh và trong mọi nghi lễ Phụng vụ Ki-tô giáo.
Mùa Phục Sinh kéo dài bao nhiêu ngày ? Bắt đầu ngày nào và kết thúc ngày nào ?
Mùa Phục Sinh kéo dài 50 ngày, khởi sự từ Chúa Nhật Phục Sinh đến hết lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Đâu là đặc tính của Mùa Phục Sinh ?
Đặc tính của Mùa Phục Sinh là hát “Halleluia”. Đây là bài ca truyền thống của Ki-tô giáo. Bài ca này diễn tả niềm hân hoan vô bờ bến trong Chúa Ki-tô Phục Sinh. Hơn nữa, đây còn là bài ca chiến thắng khải hoàn của những người được Thiên Chúa cứu độ.
Ý nghĩa của Mùa Phục Sinh là gì ?
Ý nghĩa của Mùa Phục Sinh là cử hành Mầu Nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô trong niềm tri ân và hoan lạc.
Trong Mùa Phục Sinh, Hội Thánh muốn mời gọi người tín hữu làm gì ?
Trong Mùa Phục Sinh, Hội Thánh mong muốn người tín hữu khám phá ra hiệu quả lớn lao của biến cố Vượt Qua: Đức Giê-su Ki-tô Phục Sinh đang hiện diện trong cuộc đời mỗi người. Hơn nữa, Tin Mừng Phục Sinh phải được loan truyền khắp nơi.
Các tín hữu đã rước lễ lần đầu có buộc phải rước lễ trong Mùa Phục Sinh không ?
Giáo luật điều 920 dạy: “Mọi tín hữu sau khi rước lễ lần đầu, buộc rước lễ mỗi năm ít là một lần”. Giáo Hội kêu gọi các tín hữu phải chu toàn luật buộc này trong Mùa Phục Sinh, trừ khi vì lý do chính đáng, họ có thể chu toàn luật buộc này vào những dịp khác trong năm.
Phụng vụ đêm vọng Phục Sinh gồm những phần chính nào ?
Phụng vụ đêm vọng Phục Sinh gồm bốn phần chính:
Phần thứ nhất: nghi thức làm phép lửa mới và rước Nến Phục Sinh, biểu tượng Chúa Giê-su là ánh sáng cho trần gian;
Phần thứ hai: Phụng vụ Lời Chúa. Hội Thánh chiêm ngắm các kỳ công Thiên Chúa thực hiện trong suốt lịch sử Cứu Độ: từ khi khai thiên lập địa cho đến ngày Đức Giê-su sống lại và được tôn vinh; "
Phần thứ ba: Phụng vụ Thánh Tẩy. Cho tân tòng hoặc các tín hữu tuyên xưng lại lời hứa Thánh Tẩy;
Phần thứ bốn: Phụng vụ Thánh Thể. Đức Ki-tô chết và sống lại để trở thành của ăn nuôi dưỡng dân Chúa và đưa họ đến cuộc sống mới.
Hội Thánh cử hành các nghi lễ đêm vọng Phục Sinh với những tâm tình nào ?
Trong đêm vọng Phục Sinh, Hội Thánh cử hành các nghi lễ với những tâm tình:
Tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Đức Ki-tô: Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, vượt qua sự sống trần gian mà đạt tới vinh quang Thiên Quốc.
Mong đợi cuộc vượt qua vào thời cánh chung: Đức Ki-tô ở giữa dân Người, dẫn đưa họ vượt qua bóng tối sự chết, thoát ách nô lệ tội lỗi, tiến vào sự sống vĩnh cửu.
Cử hành cuộc Vượt Qua: người lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy được cùng chết với Đức Ki-tô, cùng được mai táng với Đức Ki-tô và cùng được sống lại với Đức Ki-tô.
Tại sao lễ Phục Sinh lại là lễ được cử hành cách long trọng nhất trong năm ?
Vì lễ Phục Sinh là đích điểm của Tam Nhật Vượt Qua và là cột trụ chủ chốt của năm Phụng vụ. Hơn nữa, mầu nhiệm Phục Sinh còn là trung tâm của Lịch Sử Cứu Độ. Do đó, lễ này là lễ được cử hành cách rất đặc biệt trong năm.
Ngày Chúa Nhật còn có tên gọi nào khác nữa không ? Tại sao ?
Thời Giáo Hội sơ khai ( thời các Tông Đồ ), ngày Chúa Nhật được gọi là ngày “Thứ Nhất Trong Tuần”, vì Chúa Ki-tô Phục Sinh vào ngày thứ nhất trong tuần ( Mt 28,1; Mc 1,9; Lc 24,1; Ga 20,1 ), nên được gọi là ngày của Chúa hay Chúa Nhật. Ngày Chúa Phục Sinh đã trở thành nền tảng và trung tâm của năm Phụng vụ. Trong ngày đó, Hội Thánh cử hành Mầu Nhiệm Phục Sinh, các Ki-tô hữu phải họp nhau để nghe Lời Chúa và tham dự lễ Tạ Ơn để kính nhớ cuộc thương khó, sự chết và phục sinh vinh quang của Chúa Giê-su, đồng thời để cảm tạ Thiên Chúa.
Đức Giê-su lên trời ngự bên hữu Chúa Cha nghĩa là gì ?
Một là Người không còn hiện diện hữu hình ở trần gian nữa.
Hai là Người được Chúa Cha tôn vinh.
Ba là Người dẫn đường cho chúng ta vào nước vinh hiển của Chúa Cha và không ngừng chuyển cầu cho chúng ta.
Sau khi về trời, Đức Ki-tô có còn hiện diện trong Hội Thánh ?
Đức Ki-tô tiếp tục hiện diện trong Hội Thánh cách sống động hơn nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần như lời Ngài đã hứa: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế’ ( Mt 28,20 )
Tại sao gọi ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là ngày khai sinh Hội Thánh ?
Ngày thứ Năm Mươi sau cuộc Phục Sinh của Đức Ki-tô được đánh dấu bằng việc thành lập Hội Thánh, bởi vì đó là ngày Chúa Thánh Thần khởi sự việc hoạt động công khai trong Hội Thánh, nghĩa là ơn Cứu Độ do cuộc Vượt Qua của Đức Ki-tô bắt đầu được loan truyền cho muôn dân.
Chủ đề chính của ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là gì ?
Có thể nói được rằng, chủ đề chính của ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là “Tình Yêu”: Thiên Chúa tuôn đổ tình yêu của Người cho Hội Thánh nhờ Chúa Thánh Thần để Hội Thánh sống trọn tình yêu mến, và trong lòng mỗi người tín hữu cháy rực lửa yêu mến của Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần xây dựng Hội Thánh thế nào?
Chúa Thánh Thần ban sức sống cho Hội Thánh, hợp nhất các tín hữu nên một trong Chúa Ki-tô và thúc đẩy Hội Thánh chu toàn sứ mệnh Chúa Ki-tô trao phó.
Chúa Thánh Thần thánh hóa Hội Thánh thế nào?
Chúa Thánh Thần làm cho các tín hữu trở nên con cái Chúa Cha và dự phần vào chính sự sống Chúa Ki-tô. Người còn ban ơn để họ nhận biết sự thật, dạy họ cầu nguyện, thúc đẩy họ sống mến Chúa yêu người và làm chứng cho Chúa Ki-tô.
Ta phải sống với Chúa Thánh Thần thế nào?
Chúng ta phải tin kính, thờ phượng, cầu xin Chúa Thánh Thần và vâng theo ơn Người soi sáng, cùng tôn trọng hồn xác ta là đền thờ của Người.
{ Tài liệu học hỏi của Giáo Xứ Bùi-phát, Giáo Phận Sài-gòn Mùa Chay 2001}

TRUYỀN GIÁO LÀ GÌ?

Truyền giáo là nhận lấy một Tin mừng, một Tin lành, và là Tin lành cao hơn hết. Ta vui sướng nhận ra Tin mừng đó là cả hạnh phúc của con người, và hân hoan ra đi đem Tin mừng đó cho người khác, để mọi nguời cũng hưởng dịp may có một không hai này.
Tin mừng đó là gì?
Thánh Phao lô đã cho ta biết:
”Một mầu nhiệm không tỏ ra cho người ta biết trong những thời đã qua, nhưng nay trong Thánh Thần đã được mặc khải ra cho các Tông đồ và các Tiên tri của Ngài” (Ep.3,5).

”Mầu nhiệm đã giữ kín đời đời trong Thiên Chúa là Đấng dựng nên mọi sự, ngõ hầu bây giờ mầu nhiệm ấy được thông tri ra cho các thiên phủ và các đấng uy linh chốn hoằng thiên, nhờ Hội thánh họ mới nhận ra sự khôn ngoan muôn hình vạn trạng của Thiên Chúa. Đó là dự án có từ muôn thuở, Người đã thi hành trong Đức Kitô Giêsu Chúa chúng ta. Trong Ngài, ta được tự do dạn dĩ và đuợc đến cùng Cha, đầy lòng tín thị bởi đã tin vào Ngài”. (Ep.3,9-12).

Tin Mừng là thế đó! Chúng ta hết thảy cố gắng tìm biết Đấng Tối cao, nhưng vô hiệu. Loài người bị những ác thần đè bẹp dưới quyền bạo chúa của chúng, và đã sống trong lo sợ và chết chóc, trong phiền sầu lo lắng không rõ bên kia là thế giới nào, với một luơng tâm cảm thấy tội lỗi đè trĩu trên than phận, vô phương cứu chữa. Sách có chép: “Tội phạm đến Trời không phương cầu cứu”. Loài người đã sống trong sợ sệt, trong thất vọng; nhưng Tin Mừng chính Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô đã đến giải phóng, đem bình an, như lời Thánh Phao lô “đến để giãng hòa mọi sự trên trời dưới đất” (Cl 1,20). Và Tin mừng ban cho chúng ta hết thảy được làm con cái Thiên Chúa, thông chia địa vị người con của Người Con Một mà Thiên Chúa yêu mến như chính mình Người, để một ngày kia cùng chung hưởng gia tài vinh hiển đời đời. Đối với cái gia tài vinh hiển đó, thì chức vị cao sang thế gian có thấm vào đâu, của cải tiền bạc làm ta lận đận đêm ngày có đáng kể gì. Thế mà Thiên Chúa muốn trút hết cả vào lòng ta, vì Người yêu mến ta và Con Một Người đã chịu thống khổ vì ta.

Khi đã hiểu được Tin mừng đó, các Tông đồ chân như mọc cánh đã đi tứ phương thiên hạ loan báo, cho dầu phải khổ nhọc vất vả, cho dầu bị bắt bớ, họ đều nói như Thánh Phêrô: “Chúng tôi không thể không nói các điều chúng tôi đã nghe” (Cv 4,20). Và bởi đó Tin mừng đã lan tràn: người ta loan báo cho nhau trong xó nhà tịch mịch, ngoài đường xá, trong chỗ hội hè, nơi xe đi lại, nơi thuyền bè trên biển. Đàn ông nói, đàn bà nói, người làm thợ đem tin, một cái gì qúa vui không thể đè nén miệng được, một tin qúa quan trọng cứ canh cánh trong lòng như ngọn lửa không dập tắt được. Và vì thế chỉ trong vòng mấy chục năm, Tin Mừng ấy đã có bên Đông, đã loé bên Tây, giữa người văn minh, giữa người dân dã.

Nếu truyền giáo là chịu lấy một Tin lành, một Tin mừng, hiểu biết cái quan trọng, cái cần thiết của tin đó, nhất thiết mọi người phải biết mới vuông tròn số mệnh, hiểu biết rồi vui mừng nói ra, đem đi mách lại cho người khác. Nếu truyền giáo là thế, thì ai trong chúng ta lại dám nói tôi không có nhiệm vụ, có bổn phận truyền giáo. Ai trong chúng ta lại không biết rằng đức tin của ta là một Tin lành, một Tin Mừng; ai trong chúng lại không nhận biết chỉ có đức tin đó mới cứu ta, cứu mọi người, và người ta chỉ có một số phận, chỉ có một dịp để chịu lấy cái tin quan trọng đó để tránh được tai họa tiêu diệt, sự khốn khổ muôn đời. Làm sao chúng ta có thể ngậm câm trước số phận vô cùng quẩn bách của những người ở ngay trước cửa nhà chúng ta. Một người ở bên kia hàng rào nhà chúng ta, khi chúng ta biết lửa đã bén mái nhà người láng giềng, chúng ta sao còn có thể ngậm câm được để lửa kia bốc cháy thiêu hủy nhà người hàng xóm.

Không ai có thể tránh trút được nhiệm vụ truyền giáo!
Nhưng tại sao chúng ta ngậm câm đi! Tại sao Tin mừng không làm ta hé miệng ra!
Ấy chẳng qua vì chúng ta thiếu lòng tin, thiếu lòng mến, chúng ta chưa cảm được đó là một Tin Mừng!
( Lm.NTT)

1758    17-04-2012 10:35:43