Sidebar

Thứ Sáu
26.04.2024

Nguyệt san tháng 10/2016: Lòng Thương Xót Tha Thứ Và “Món Nợ Sinh Thái” Không Thể Được Dung Tha

LỜI CHỦ CHĂN

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

LỜI CHUYỆN CHUNG

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

TRANG LINH MỤC

TRANG TU SĨ

TRANG SỐNG ƠN GỌI

TRANG THIẾU NHI

TRANG GIỚI TRẺ

TÔN TRỌNG MÌNH, TÔN TRỌNG NGƯỜI KHÁC

TRANG GIA ĐÌNH

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

TRANG QUỚI CHỨC

SỐNG ĐẸP

HỎI ĐÁP MỤC VỤ

SỐNG LỜI CHÚA

NĂM THÁNH LÒNG THƯƠNG XÓT

TRANG LOAN BÁO TIN MỪNG

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

 

 

LỜI CHỦ CHĂN

Vĩnh Long ngày 25.09.2016

Kính gửi: Quý Cha

Quý Tu sĩ nam nữ

Và tất cả anh chị em Gp. Vĩnh Long

V/v Sống Năm Thánh Lòng Thương Xót

 Anh chị em thân mến. Tháng trước tôi có dịp nói với anh chị em những nét tổng quát về Lòng thương xót trong đối thoại liên tôn. Tháng nầy, tôi đề cập chủ đề Lòng thương xót nơi Mẹ Maria (số 24).

Trong dòng lịch sử của mình, Giáo Hội đã học biết rằng Mẹ Maria không những là người chứng và kiểu mẫu của lòng tin, nhưng còn là một thụ tạo đặc biệt và hiệu quả của Lòng thương xót của Thiên Chúa. Mẹ Maria được cứu chuộc như tất cả mọi người, nhưng rất khác xa mọi người, bởi vì Mẹ được gìn giữ không vướng mắt tội tổ tông truyền từ lúc đầu thụ thai của Mẹ. Mẹ trở thành Mẹ của Con Thiên Chúa.

Trong Tông sắc Dung mạo lòng thương xót, đặc tính của Mẹ Maria được tìm thấy: “Không ai thấu hiểu mầu nhiệm Thiên Chúa làm người cho bằng Đức Maria” (số 24), bởi vì Mẹ đã cưu mang Lòng Thương Xót là Chúa Giêsu và sinh ra Lòng Thương Xót, từ đó Lòng Thương xót trở nên xác phàm. Mẹ đã sinh hoạt với Chúa Giêsu suốt tuổi thơ ấu, cho đến lớn lên, ra đi giảng. Mẹ đã theo chân Chúa Giêsu cho đến chân Thập giá, cùng với thánh Gioan.

Dưới chân Thập giá, Mẹ Maria còn là nhân chứng sống động của những lời tha thứ thốt ra từ miệng Chúa Giêsu: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Luca 23, 34 ); Mẹ làm chứng rằng lòng thương xót của Thiên Chúa thì vô bờ vô bến, thương xót hết tất cả mọi người, ngay cả thù địch, ngay cả kẻ giết mình. Mẹ thật sự là Mẹ của Đấng đã chết trên Thập giá và đã Phục Sinh. Vì thế, Mẹ “đã bước vào thánh điện của Lòng Thương Xót, vì đã thông dự mật thiết vào mầu nhiệm Tình Yêu Thiên Chúa” (số 24).

Xin dâng lên Mẹ lời khen ngợi chúc mừng. Chúng ta hãy cầu xin Mẹ trợ giúp chúng ta sống năm thánh lòng thương xót đối với Chúa và đối với tha nhân cho nghiêm chỉnh. Chúng ta chớ để Chúa buồn vì chúng ta là những người con không có trái tim giống như Chúa.

+ Phêrô Huỳnh Văn Hai

Giám Mục Giáo Phận Vĩnh Long

 

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

Tháng 10/2016

LÒNG THƯƠNG XÓT THA THỨ

VÀ “MÓN NỢ SINH THÁI” KHÔNG THỂ ĐƯỢC DUNG THA

1. “Món nợ môi sinh”

Câu hỏi tâm điểm của Thông điệp Laudato Si’ của Đức giáo hoàng Phanxicô về Chăm sóc Ngôi nhà chung Trái Đất, là: “loại thế giới nào chúng ta muốn để lại cho những người đến sau chúng ta, cho con cháu chúng ta là những người hiện đang lớn lên?” (160). Thế nhưng, điều gì đang xảy ra trong Ngôi Nhà Chung của chúng ta?

Trái đất của chúng ta đang bị ô nhiễm nặng nề bởi một nền văn hoá rác thải đang lan rộng thiếu ý thức chung: ô nhiễm không khí, nguồn nước, ô nhiễm do rác thải (và cả về văn hoá, tinh thần). Từ đó, ngôi nhà chung phải gánh chịu:

– Những biến đổi khí hậu: “Những biến đổi khí hậu là một vấn đề hoàn cầu với những hệ lụy trầm trọng về môi trường, xã hội, kinh tế, phân phối và chính trị, và chúng là một trong những thách đố chính hiện nay đối với nhân loại” (25). Nếu ”khí hậu là một thiện ích chung của tất cả và cho tất cả mọi người” (23), thì ảnh hưởng nặng nề nhất của sự biến đổi khí hậu đè nặng trên những người nghèo nhất, nhưng “nhiều người có nhiều tài nguyên và quyền lực kinh tế hoặc chính trị hơn, dường như chỉ chú tâm tới việc che đậy vấn đề hoặc giấu nhẹm những triệu chứng của sự biến đổi khí hậu” (26), “sự thiếu phản ứng đứng trước những thảm trạng ấy của anh chị em chúng ta là một dấu hiệu cho thấy có sự mất ý thức trách nhiệm đối với những người đồng loại của chúng ta, trách nhiệm này vốn là nền tảng của mọi xã hội dân sự” (25).

– Vấn đề nước uống: Đức giáo hoàng khẳng định rõ ràng rằng “có được nước uống an toàn là một nhân quyền thiết yếu, cơ bản và của tất cả mọi người, vì nó ảnh hưởng tới sự sống còn của con người và vì thế, đây là điều kiện để thực thi các nhân quyền khác”. Tước bỏ quyền của người nghèo được nước uống có nghĩa là “phủ nhận quyền sống vốn bắt nguồn từ chính phẩm giá bất khả nhượng của họ” (30).

– Sự đa dạng sinh học biến mất dần: “Mỗi năm có hàng ngàn loại thực vật và động vật biến mất mà chúng ta không có thể biết chúng nữa, các con cháu chúng ta không thể thấy chúng nữa, chúng biến mất vĩnh viễn” (33). Không những chúng là những “tài nguyên” có thể khai thác được, nhưng còn có giá trị tự mình.

– Món nợ môi sinh: trong khuôn khổ một nền luân lý đạo đức về các quan hệ quốc tế, Thông điệp của Đức giáo hoàng cho thấy có “một thứ nợ về môi sinh” (51), nhất là nợ của các nước giàu đối với những nước nghèo trên thế giới. Đứng trước những biến đổi khí hậu, có “những trách nhiệm khác nhau” (52), và trách nhiệm của các nước phát triển thì lớn hơn.

Món nợ môi sinh ngày càng chồng chất.

2. Căn nguyên của sự khủng hoảng môi sinh do con người gây ra

Chúng ta biết ơn những đóng góp của khoa học kỹ thuật để cải tiến điều kiện sống của con người, nhưng ngày nay những người nắm giữ kiến thức kỹ thuật và nhất là quyền lực kinh tế để khai thác nó dùng kỹ thuật đển thống trị thế giới và nhân loại. Chủ trương thống trị bằng kỹ thuật đưa tới phá hủy thiên nhiên và khai thác bóc lột con người và các dân tộc yếu thế hơn, hướng tới thống trị kinh tế và chính trị.

Nơi cội rễ ta nhận thấy trong thời đại ngày nay có một chủ trương quy hướng vào con người thái quá (116): con người không còn nhìn nhận vị thế đúng đắn của mình so với thế giới và tự tham chiếu, chỉ quy hướng mọi sự về mình và quyền lực của mình. Từ đó nảy sinh chủ trương “sử dụng rồi vứt bỏ” biện minh cho mọi thứ gạt bỏ, dù là môi trường hay con người, đối xử với tha nhân và thiên nhiên như những đồ vật và dẫn tới vô số những hình thức thống trị. Đó là thứ chủ trương dẫn tới sự khai thác trẻ em, bỏ rơi người già, biến những người khác thành nô lệ, đánh giá quá cao khả năng của thị trường tự điều khiển, buôn người… (123).

3. Lòng thương xót thúc đẩy chúng ta “hoán cải về môi sinh”

“Các sa mạc bên ngoài gia tăng, chỉ vì sa mạc nội tâm lớn dần”[1]. Khủng hoảng môi sinh kêu gọi ta sám hối nội tâm sâu thẳm. Việc sám hối này đòi hỏi một ý thức tràn đầy yêu thương, không tách rời những tạo vật khác, nhưng tạo thành một cộng đồng bao trùm tất cả mọi sự vật hiện hữu trong vũ trụ. Ý thức thế giới này là ân huệ lãnh nhận từ Tình yêu và Lòng Thương xót của Thiên Chúa, thái độ đầu tiên là chiêm ngưỡng trong thán phục và biết ơn. Phẩm chất cuộc sống hệ tại ở một niềm vui sâu xa không do hưởng thụ, nhưng do biết sống thanh đạm: phát triển nhờ điều độ, biết vui với cái ít ỏi, trở về với sự đơn sơ, điều đó giúp ta dừng lại để quý trọng điều thật nhỏ bé, để cám ơn các khả năng cuộc sống ban cho, mà không bị trói buộc vào những gì chúng ta sở hữu, không buồn vì điều chúng ta không có (222). Niềm vui và sự bình an nội tâm phản chiếu trong một lối sống quân bình, biết ngạc nhiên trước sự sống quanh ta và trong ta. Thiên nhiên chất chứa đầy lời của tình yêu. Nhưng làm sao chúng ta có thể lắng nghe giữa tiếng ồn ã không ngơi bên ngoài, và bị phân tán bởi bao lo âu, đam mê trần tục bên trong tâm hồn.

Ý thức cùng chung sống với thiên nhiên và với mọi người, trở thành cộng đoàn, dẫn đến một tình huynh đệ đại đồng: chúng ta cần đến nhau, phải có trách nhiệm đối với nhau và với thế giới. Tình yêu bắt đầu từ những cử chỉ nhỏ bé dành cho nhau, cho ích lợi chung, cũng đã mang tính xã hội và chính trị.

“Lạy Thiên Chúa toàn năng,

Chúa luôn hiện diện trong vũ trụ và ngay trong những thụ tạo nhỏ bé nhất của Chúa. […] Xin gieo vào lòng chúng con sức mạnh của tình yêu Chúa, để chúng con bảo vệ cuộc sống và vẻ đẹp muôn loài” (246).

Câu hỏi chia sẻ và thảo luận

1. Tại sao người Kitô hữu phải quan tâm đến môi trường sinh thái? Việc đạo đức của người Kitô hữu có liên hệ gì đến lời kêu gọi của Giáo hội về “hoán cải về môi sinh” không?

2. Anh chị đã và đang làm gì để gây ý thức bảo vệ môi sinh trong gia đình, giáo xứ, xã hội, trong lãnh vực chính trị, nghề nghiệp, kinh tế?

3. Cộng đồng dân cư hoặc Hội Thánh địa phương nơi anh chị sinh sống có chương trình gì phục vụ cho việc chăm sóc và bảo vệ Ngôi Nhà Chung của chúng ta?

–––––––––––––

[1] Bênêđictô XVI, Khai mạc sứ vụ Phêrô (24.4.2005).

 Văn Phòng HĐGMVN

 

LỜI CHUYỆN CHUNG

Kêu mời: Anh chị em thân mến, vì Lòng Thương Xót vô biên của Chúa Cha mà Ngôi Hai xuống thế làm người để loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Chúng ta đón nhận Lòng Thương Xót Chúa, khi chúng ta loan báo Tin Mừng. Chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện:

1.       Chúa phán với Phêrô: “Hãy chăm sóc đoàn chiên của Thầy”. Chúng ta cầu nguyện cho các vị chủ chăn của Hội Thánh biết lấy hết tình thương xót, mà chăn dẫn đoàn chiên Hội Thánh thực thi sứ mạng truyền giáo đạt tới Nước Trời.

2.       Chúa phán: “Ông hãy đi và làm như người Samari nhân hậu”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi kitô-hữu thực thi lòng thương xót mình, mà loan báo Tin Mừng ơn cứu rỗi, Tin Mừng lòng thương xót Chúa cho mọi người.

3.       Chúa phán: “Các con đã lãnh nhận cách nhưng không, thì hãy ban phát cách nhưng không”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi Kitô-hữu biết thực thi lòng thương xót mình đối với những người xung quanh, như chính Chúa yêu thương họ.

4.       Chúa phán: “Các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Thầy”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong họ đạo chúng ta, biết dùng mọi khả năng, kể cả lòng thương xót mình, mà loan báo Tin Mừng cho mọi người.

Kết thúc: Lạy Chúa, vì lòng thương xót Chúa mà chúng con được cứu chuộc. Xin cho chúng con biết lấy lòng thương xót mình mà ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc, nên chứng tá cho tình yêu Chúa đối với mọi người….Amen

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hiền

 

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

TRẢ NỢ CHO MÔI TRƯỜNG

Khai mào cho môn học “Kinh tế vi mô” trong chương trình học là: “10 nguyên lý cơ bản” trong việc ảnh hưởng đến quyết định của một cá nhân. Và nguyên lý đầu tiên đó là “sự đánh đổi”.

Lúc đầu tôi chỉ liên tưởng đơn giản, giống như tôi rất thích mua một cái áo, một đôi giầy, và một cái nón. Nhưng “tiền tháng” thì cố định, nên nếu tôi muốn giành một khoản tiền để mua những thứ đó, tôi phải tiết chế lại những khoản khác, như trong ăn uống chẳng hạn. Để có số tiền dư mà mua những thứ tôi muốn. Khi tôi lựa chọn giành số tiền dư ấy cho những món hàng này, đồng thời lúc đó tôi cũng đã chấp nhận đánh đổi giành ít hơn cho những thứ món hàng khác. Nó dẫn tôi về với những suy nghĩ ấu thơ, tôi cũng đã từng đánh đổi một cú ngã đau để được cái ôm vuốt ve của mẹ. Tôi đã đánh đổi thời gian, cố gắng học tập thay vì chơi búp bê với những cô bé cùng xóm, để được cái hôn âu yếm và khen tôi học giỏi của ba. Tôi đã đánh đổi cái làm nũng của một đứa em gái để đòi bánh của anh, tôi đã đánh đổi sự thông cảm chia sẻ để đổi lấy được những người bạn chân thành. Hay thậm chí đến một sự đánh đổi hết sức buồn cười, tôi “giả vờ giận” để đánh đổi một cây kem phủ socola mà tôi yêu thích. Tôi nhận ra mình cùng lớn lên với những sự đánh đổi chỉ xuất phát từ con tim, không toan tính. Thật đơn giản.

Nhưng tôi lại thấy nghi ngờ và thầm nghĩ: “Làm gì có chuyện đơn giản như vậy!”. Thế là tôi lên Google và đánh thử ba chữ “sự đánh đổi”. Với ý nghĩ, biết đâu tôi có thể khám phá thêm được một điều lý thú nào khác. Kết quả là, tôi tình cờ thấy một tiêu đề như thế này: “Người ta đang đánh đổi những gì quý báu nhất để lấy những thứ vớ vẩn”. Trong lúc đó, tôi thầm nghĩ ai mà ngu xuẩn thế. Bước vào đọc sâu hơn, một thực tế đã chứng minh: “hôm nay ta ăn quỵt của môi trường 1 đồng, mai kia con cháu chúng ta sẽ phải gánh trả gấp 1000 lần…”. Tôi tự ước tính trong đầu, nếu trung bình một người quỵt một đồng, mà dân số nước ta tới thời điểm này là 87 triệu người. Vậy là chúng ta đã nợ môi trường 87.000.000 lần. Và sau này con cháu chúng ta phải gánh trả đến 87.000.000.000 lần. Tôi giật mình… Và chợt nhớ đến một sự đánh đổi kì lạ đã xảy ra giữa tôi và một cậu bé “hành nghề” móc bọc khi tôi vừa tròn 17.

Bắt đầu với một ngày đẹp trời, cả đám bạn cùng rủ nhau ra công viên “tám”, và tổ chức một buổi ăn uống nho nhỏ. Bạn biết đó, tàn cuộc của một bữa tiệc là đầy những vỏ chai, bọc nilon, giấy, thức ăn thừa,... Cả đám đứng lên ra về, nhưng mà không một người nào dọn dẹp. Nghĩ nơi công cộng chứ có phải nhà mình, hơi đâu mà lo. Nhưng vẫn thấy áy náy trong lòng, tôi vừa đi vừa ngoảnh đầu lại, và vô tình bắt gặp ánh mắt khinh thường, câu nói mỉa mai của cậu bé với đám bạn: “Chính nhờ những đứa như tụi nó, mà chắc tương lai “lụm bọc” của chúng ta sẽ trở thành một nghề “hot” đấy nha, tha hồ ma hốt bạc”. Câu nói ấy khiến tôi giật mình và ám ảnh mãi đến khi về tới nhà vẫn còn suy nghĩ. Tương lai mình phải thế sao, sống chung với rác và gánh chịu sự đòi nợ của thiên nhiên sao?.

Đó là lời kể của bạn Phạm Nhật Thúy về ý thức trách nhiệm đối với môi trường sống mà bạn ấy có được. Không chỉ riêng những cá nhân nào đó mà thôi, các tổ chức xã hội cũng đã luôn lên tiếng và hành động kêu gọi mọi người hãy chung xây một thế giới trong lành nếu không muốn trả giá cho những hành động hủy hoại môi trường của mình.

Global Footprint Network - một tổ chức phi chính phủ của Mỹ trong lĩnh vực môi trường sinh thái - đã ấn định một ngày trong năm được gọi là “Earth Overshoot Day”, tức là ngày đánh dấu thời điểm thế giới đã sử dụng hết tài nguyên mà Trái đất có thể đáp ứng cho cả năm.

Như vậy là trong thời gian còn lại của năm, con người sẽ phải “tiêu lạm” vào quỹ tự nhiên thông qua việc khai thác tài nguyên và thải rác cùng khí thải độc hại ra ngoài môi trường, làm trầm trọng thêm hiện tượng biến đổi khí hậu.

Năm 2014, thời điểm nhân loại tiêu hết nguồn vốn thiên nhiên của 365 ngày được xác định là ngày 19/8, tức là nhân loại rơi vào tình trạng “nợ nần sinh thái” trong 134 ngày còn lại. Chỉ trong vòng hơn 8 tháng, loài người chúng ta đã tiêu thụ hết khả năng tái tạo thiên nhiên của Trái đất trong cả năm.

Thực ra cách tính toán nói trên đã được các chuyên gia thực hiện từ năm 1970 và được chuẩn hóa từ năm 2003. Ngược dòng thời gian, người ta thấy thời điểm tiêu hết vốn tài nguyên của nhân loại cứ bị đẩy lùi hàng năm khiến cho món nợ sinh thái của loài người cứ ngày càng chồng chất thêm.

Năm 2014, thời điểm rơi vào nợ sinh thái được đẩy sớm hơn một ngày so với năm 2013, nhưng so với năm 2010 thì nó đến trước 12 ngày. Năm 2000 thì “Earth Overshoot Day” rơi vào ngày 5/10 hay xa hơn một chút là năm 1975, thì đến tận ngày 29/11 thì nhân loại mới tiêu hết nguồn tài nguyên cho phép.

Hậu quả của tình trạng nhân loại chi nhiều hơn thu này là điều càng ngày càng hiển hiện. Như tình trạng biến đổi khí hậu chính là sản phẩm của việc tích tụ khí gây hiệu ứng nhà kính vượt quá khả năng hấp thụ của rừng và đại dương. Thêm vào đó, tình trạng phá rừng, hủy hoại đa dạng sinh học, đánh bắt hải sản quá mức hay khai thác tài nguyên khoáng sản quá nhanh.

Món nợ sinh thái của nhân loại hôm nay nếu không được trả ngay sẽ tích tụ lại trở thành gánh nặng lớn đẩy thế hệ tương lai vào một cuộc “khủng hoảng sinh thái”, một cụm từ đã được các chuyên gia môi trường nhắc đến nhiều trong thời gian gần đây. (Theo báo Tin tức)

Với một niềm hy vọng rằng con người ngày nay đủ sáng suốt để biết sự đánh đổi nào là đáng hay không đáng. Chúng ta đang mắc nợ, một số nợ khổng lồ mà chúng ta đã vay mượn từ môi trường... Chúng ta vay, thì chính chúng ta phải là người trả nó. Đừng đợi đến ngày thiên nhiên đòi nợ. Nếu như không muốn những người mà ta yêu thương, chính là người phải gánh trả gấp 1000 lần với số nợ mà chúng ta đã “ăn quỵt” sau này. Lúc ấy chúng ta có hối hận thì cũng đã muộn màng, vì chính những sự đánh đổi ngu xuẩn của chính bản thân ta ngày hôm nay.

Linh mục Philipphê Phạm Huy Phong tổng hợp

 

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

TƯỚC VỊ ĐỨC ÔNG và TỔNG ĐẠI DIỆN

Hỏi: Thưa Cha, trong Giáo phận của chúng ta, Đức Giám Mục Giáo Phận mới vừa bổ nhiệm chức vụ Tổng Đại Diện (TĐD); mà người được bổ nhiệm vào chức TĐD đó là Đức Ông Barnabê. Vậy con muốn hỏi chức vụ TĐD và Đức Ông cái nào lớn hơn và khi trong nghi lễ trang trọng chúng con phải xưng hô thế nào cho phải khi nhắc tới ngài? Một giáo dân 

Trả lời (tiếp theo):

B.  Tổng Đại Diện

Chúng ta đang tìm hiểu về tước vị Đức Ông trong Giáo hội và chức vụ Tổng Đại Diện trong giáo phận. Tháng vừa qua chúng ta đã tìm hiểu về tước vị Đức Ông rồi, tháng nầy chúng ta đi sang tìm hiểu về chức vụ Tổng Đại Diện trong các giáo phận.

Luật Giáo hội dạy: “Trong mỗi giáo phận, Giám mục giáo phận phải đặt một Tổng Đại Diện với quyền thông thường, chiếu theo quy tắc của những điều khoản sau đây, để giúp ngài trong việc lãnh đạo toàn giáo phận” (đ. 475§1).

Với lời dạy trên, việc đặt để một Tổng Đại Diện trong mỗi giáo phận để giúp Đức Giám mục trong việc điều hành giáo phận là điều cần thiết, ngoại trừ những giáo phận nhỏ bé, ít công việc.

Tên gọi: trong Tiếng Việt, nếu chức vụ TĐD được trao cho một linh mục thì chúng ta thường gọi là: Cha Tổng Đại Diện, là Cha Chính Giáo phận, hoặc là Cha Bề Trên Giáo phận, do dịch từ tiếng Latin: Vicarius generalis. Ngày nay, chúng ta gọi theo Giáo luật hiện hành là Cha Tổng Đại Diện (x. đ. 475).

1/. Bổ nhiệm

Theo luật chung, chỉ đặt một Tổng đại diện, trừ khi giáo phận rộng lớn hoặc số giáo dân quá đông hoặc vì những lý do mục vụ khác thì có thể đặt hơn một Tổng Đại Diện (x.đ.475§2). Trường hợp tế nhị có thể xảy ra là khi giáo phận có nhiều Đức Giám mục phụ tá: tất cả đều có thể được đặt làm Tổng Đại Diện, tuy nhiên, quyền hạn của các TĐD sẽ phân phối chứ không tổng quát như khi chỉ có một Tổng đại diện.

Trên nguyên tắc, luật để cho Đức Giám mục Giáo phận toàn quyền chọn người nào làm Tổng Đại Diện cho ngài cũng được, miễn là hội đủ những điều kiện được liệt kê ở điều 478 đó là:

Phải là một linh mục;

Trên ba mươi tuổi;

Có bằng tiến sĩ hay cử nhân Giáo luật hoặc thần học, hay ít nhất là thông thạo các môn đó (vì là việc hành chánh nên đòi hỏi phải có sự “thông thạo”, học vị chỉ là một đòi hỏi có tính cách trắc nghiệm, gợi ý. Đức Giám mục Giáo phận tuỳ hoàn cảnh có quyền chuẩn chước- chú giải của người soạn);

Trổi vượt về học thuyết lành mạnh, đức độ, khôn ngoan, và có kinh nghiệm trong việc điều khiển công việc mục vụ (CNMVGM, 201, 1);

Không phải là họ hàng huyết tộc với Đức Giám mục giáo phận cho hết bậc thứ bốn.

2/. Quyền hạn

Trong giáo phủ của giáo phận, chức vụ Tổng Đại Diện nỗi bật nhất (x. Vat. II, CD. 27,a), chính ngài cũng có thể là vị điều hành giáo phủ để điều phối mọi công việc liên quan đến hành chánh, đồng thời đôn đốc các nhân viên toà giám mục chu toàn giáo vụ đã được uỷ thác (x.đ.473§2-3).

Trong toàn Giáo phận, Cha Tổng Đại Diện là người có thường quyền thứ hai sau Giám mục Giáo phận trong quyền hành pháp (x.đ.479).

Thường quyền (potestas ordinaria) nghĩa là: quyền gắn liền với chức vụ (đ. 47§1). Theo luật, ngài được xem là “Bản quyền địa phương” hay là “Bản quyền sở tại” (Ordinarius loci, đ. 134§3). Đức Giám mục Giáo phận có thể đặt ngài làm giám đốc giáo phủ (văn phòng Toà giám mục) (đ.473§3) để điều hành mục vụ và các công việc hành chánh.

Vì potestas ordinaria mà Tổng Đại Diện có toàn quyền hành pháp (phân biệt ba quyền lãnh đạo: lập pháp, tư pháp và hành pháp): ở phương diện hành pháp trong Giáo phận, thì TĐD có quyền tựa như Giám mục Giáo phận, ngoại trừ những trường hợp mà Giáo luật hoặc chính Đức Giám mục Giáo phận đã dành riêng cho mình (Đ. 479§1).

Cụ thể quyền của Tổng Đại Diện có ba giới hạn sau:

Tổng đại diện chỉ có quyền hành pháp, chứ không có quyền lập pháp và tư pháp.

Trong lãnh vực hành pháp, quyền của Tổng Đại Diện bị giới hạn do chính Giáo luật như điều 134§3 quy định: khi nào luật quy định cho Giám mục Giáo phận có thẩm quyền làm điều gì, thì phải hiểu là chỉ có Giám mục Giáo phận và những ai được luật đồng hoá với ngài (x. đ. 368) mới được làm; khi nào luật dùng từ “Bản quyền địa phương” thì được hiểu là cả Đức Giám mục Giáo phận lẫn Tổng Đại Diện đều có thẩm quyền như nhau (nghĩa là khi Đức giám mục vắng mặt thì TĐD hành xử quyền nầy).

Giới hạn thứ ba trong quyền hạn Tổng Đại Diện có thể là do chính Giám mục thu hẹp, khi ngài muốn dành cho mình việc giải quyết một số vấn đề nào đó: a/. Trong những trường hợp mà luật hoặc Giám mục đã dành cho mình, thì Tổng Đại Diện chỉ có thể thực hiện khi có uỷ nhiệm (mandatum) của Giám mục. Ví dụ: Điều 470 nói rằng: “Việc bổ nhiệm những người thi hành chức vụ trong văn phòng Toà giám mục là quyền của Giám mục Giáo phận”. Trong khi đó, việc bổ nhiệm các chức vụ là một hành vi hành chánh, nhưng ở đây, luật dành cho Giám mục Giáo phận, nên Tổng đại diện không có quyền bổ nhiệm, ngoại trừ khi được uỷ nhiệm đặc biệt của Giám mục Giáo phận.

Tổng Đại Diện là người đại diện cho Giám mục Giáo phận trong việc hành chánh và mục vụ, nên điều 480 của Bộ Giáo luật nhắc nhở: “Tổng đại diện và Đại diện Giám mục phải tường trình cho Giám mục Giáo phận biết những công việc quan trọng phải làm cũng như đã làm, và không bao giờ được hành động trái với ý muốn và ý hướng của Giám mục Giáo phận”. Điều nầy Giáo luật muốn nói rằng chức vụ của TĐD là người đại diện cho Đức Giám mục nên mọi công việc phải được thực hiện theo đường lối lãnh đạo của ngài. Quyền của Tổng Đại Diện không bao giờ được tách ra khỏi quyền của Đức Giám Mục giáo phận là vị tông đồ của Giáo hội địa phương.

3/. Chấm dứt giáo vụ

Có hai trường hợp:

Nếu Tổng đại diện là một linh mục thì giáo vụ của cha Tổng Đại Diện có thể chấm dứt do một trong những lý do sau:

Mãn nhiệm kỳ

Từ chức

Bãi chức

Khi Giám mục Giáo phận đã hết chức (chết, thuyên chuyển, huyền chức) (đ.481§1).

Nếu Tổng đại diện là một Giám mục phó hay là Giám mục phụ tá, thì khi Giám mục giáo phận hết chức: Giám mục phó dương nhiên lên Giám mục Giáo phận; Giám mục phụ tá vẫn tiếp tục chức vụ mà mình đang giữ (x. đ.481§2).

Đến đây, chúng ta đã tìm hiểu xong tước vị Đức Ông trong Giáo hội và chức vụ Tổng Đại Diện trong giáo phận. Chúng ta cũng thấy được tước vị Đức Ông chỉ là một tước hiệu vinh dự mà Giáo hội ban tặng cho một số linh mục có nhiều công trạng quí báu đã đóng góp cho Giáo hội phổ quát hay địa phương, chứ không gắn liền với một giáo vụ nào (không phải là một chức thánh). Trong khi đó, chức vụ TĐD thì đi liền với giáo vụ (có quyền hành pháp thông thường như một giám mục giáo phận vì ngài đại diện cho giám mục giáo phận, dù là một linh mục). Vấn đề chúng ta đặt ra là tước vị Đức Ông và Tổng Đại Diện cái nào lớn hơn thì tôi nghĩ anh đã có câu trả lời qua hai bài mà chúng ta đã tìm hiểu. Trong hoàn cảnh cụ thể giáo phận chúng ta phải xưng hô như thế nào đối với Đức Ông là TĐD, thì tôi nghĩ chúng ta nên gọi cả hai danh xưng đó. Nghĩa là “Đức Ông Barnabê Tổng Đại Diện của giáo phận” là phải lẽ vì nơi ngài có cả hai tước vị và chức vụ.

Lm. Phêrô Hồ Hoàng Vũ – tổng hợp 

 

TRANG LINH MỤC

LINH MỤC, THỪA TÁC VIÊN CỦA LÒNG CHÚA

Đây là tài liệu hướng dẫn các vị giải tội và làm công việc linh hướng. Trong đó phần đầu nói về việc giải tội và phần sau bàn về việc linh hướng. Tuy ngắn nhưng tài liệu làm nổi bật những điểm quan trọng của vấn đề được nói tới.

1.1. Dẫn nhập

1.1.1. Một số vấn đề về giải tội

- Đến với Toà Giải tội như một thủ tục phải có trước khi Rước lễ: Xưng tội để chịu lễ.

- Xưng đại, bịa tội, xét mình không kỹ : chuyện lớn coi như nhỏ, chuyện nhỏ coi như lớn (linh mục thì coi nhẹ việc làm gương xấu).

- Xưng tội liên tục (thí dụ 1,2 ngày) hay không muốn xưng tội nữa.

1.1.2. Tập tài liệu nhằm để khám phá lại bí tích Hoà Giải

- Câu cuối của tập tài liệu nầy cho thấy tính quan trọng của việc hiện tại hoá hoạt động của Chúa Thánh Thần.

“Tác vụ hoà giải và công tác linh hướng chính là những nguồn trợ lực mang tính quyết định trong quá trình tập cởi mở và trung thành với toàn thể Giáo Hội và nhất là, trong việc linh mục hiện tại hoá hoạt động của Chúa Thánh Thần.” (số 141)

- Lời giới thiệu tập tài liệu cho thấy có cái gì đó còn hơn việc ban bí tích Giải tội :

"Cần quay lại với toà giải tội như một nơi không những để cử hành bí tích Hoà Giải,mà còn để "ở lại" thường xuyên hơn cho người tín hữu tìm được sự thông cảm, khuyên nhủ và an ủi, cho họ cảm thấy họ được Chúa yêu thương và thông cảm, và cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa Thương Xót, bên cạnh sự Hiện Diện thật của Chúa trong bí tích Thánh Thể".

1.2. Tiến tới sự thánh thiện

“Thừa tác vụ hoà giải cũng như công tác tư vấn tâm linh và linh hướng được đặt nằm trong viễn cảnh ai ai cũng được mời gọi nên thánh, cũng là sự hoàn thiện của đời sống kitô hữu và cũng là sự "hoàn thiện của đức ái" (số 4).

1.2.1. Lời mời gọi linh mục sống thánh thiện

Số 1 của văn kiện nêu lên vấn đề chính yếu của đời sống linh mục liên hệ tới Bí tích Hoà giải

Các linh mục lôi kéo người khác tới tình thương của Chúa nên: “Chúng ta có cử hành bí tích Sám Hối và thực hành việc linh hướng là cử hành và thực hành trong viễn tượng bác ái yêu thương ấy.” (số 1)

Để có thể thi hành tác vụ cần thiết này, mỗi linh mục phải phấn đấu cho có một đời sống thiêng liêng riêng và phải quan tâm làm sao cho mình được cập nhật về mục vụ và thần học". (số 1)

Để phục vụ người khác, mỗi cá nhân phải đi lại hành trình quan hệ liên vị với Thiên Chúa và với anh em – một hành trình sẽ được thực hiện trong sự chiêm niệm, hoàn thiện, hiệp thông và truyền giáo. (số 2)

Công cuộc canh tân đời sống nội tâm ấy phải đụng đến mọi khía cạnh trong đời sống và tác vụ linh mục, và phải thấm sâu vào mọi khía cạnh trong quan điểm, động cơ và cách ứng xử cụ thể của các linh mục. Hoàn cảnh hiện nay đòi các linh mục phải làm chứng cho người ta thấy mình đang sống căn tính linh mục trong vui tươi và hy vọng. (số 1)

Muốn thi hành đức ái mục tử một cách trung thực với căn tính của người linh mục, các linh mục phải hướng toàn bộ tác vụ và công tác của mình về sự thánh thiện, nhờ đó phối hợp hài hoà các khía cạnh rao giảng, tế lễ và phục vụ trong tác vụ của mình (số 4)

Nếu một linh mục không còn đi xưng tội hay không còn thú nhận tội mình cho đúng, tư cách và việc làm của linh mục ấy sẽ bị ảnh hưởng thấy rõ và cộng đoàn mà ngài cai quản sẽ sớm nhận ra điều ấy" (số 17)

1.2.2. Để thánh hoá người khác

- Việc trước tiên là Huấn luyện lương tâm

"Hiện nay, đào tạo đúng đắn cho các tín hữu có lương tâm đàng hoàng chắc chắn là một trong những ưu tiên mục vụ". (số 1)

"Việc linh hướng cũng góp phần đào tạo lương tâm. Nhu cầu cần có các 'bậc thầy tu đức' thánh thiện và khôn ngoan hiện nay lớn hơn so với trước kia : đó đúng là một sự phục vụ rất quan trọng mang tính Giáo Hội. (nt)

- Lương tâm ngay thẳng giúp hối nhân bước đi vững vàng trên con đường thánh thiện: “Ngoài ra, mỗi linh mục còn được kêu gọi hãy quản lý lòng thương xót của Chúa trong bí tích Sám Hối để qua đó và nhân danh Đức Kitô tha thứ các tội và giúp hối nhân bước đi trên con đường thánh thiện cam go với một lương tâm ngay thẳng và hiểu biết. (nt)

- Được mời gọi nên thánh: Luật tiệm tiến

Toàn bộ hoạt động mục vụ của thánh Phaolô, cùng với vô vàn khó khăn của những hoạt động ấy, đã được ngài so sánh với việc sinh nở một con người, có thể được tóm tắt bằng nhu cầu cần phải cấp tốc "làm cho Đức Kitô được thành hình" (Ga 4,19) nơi mỗi tín hữu và trong mọi tín hữu. Mục tiêu của thánh Phaolô là "làm cho mọi người đạt tới mức hoàn hảo trong Đức Kitô" (Cl 1,28), hoàn hảo không giới hạn hay không cùng. (số 3)

1.3. Niềm vui được tha thứ

Sứ mạng của Giáo Hội là một quá trình phối hợp hài hoà giữa công bố, cử hành và tha thứ hay cử hành việc tha thứ. Điều này đặc biệt đúng cho việc cử hành bí tích Hoà Giải, là kết quả và hoa trái của Đấng Phục Sinh đang hiện diện trong Giáo Hội : "Hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì tội người ấy được tha ; anh em cầm giữ tội ai, thì tội người ấy bị cầm giữ" (Ga 20,22-23).

Từ chỗ vui tươi vì được tha, người ta sẽ đi tới chỗ biết ơn và quảng đại nên thánh và thi hành sứ mạng. Những ai đã trải nghiệm sự tha thứ sẽ muốn người khác cũng được gặp gỡ Đức Kitô, người Mục Tử tốt lành, như mình. Thế nên, những thừa tác viên bí tích Sám Hối nào đã kinh nghiệm được sự đẹp đẽ của cuộc gặp gỡ bí tích ấy sẽ luôn sẵn sàng cống hiến sự phục vụ này, một cách khiêm tốn, cam go, nhẫn nại và vui tươi.(số 9)

Thực hành bí tích Hoà Giải một cách cụ thể, vui tươi, đáng tin và dấn thân chính là dấu hiệu rõ ràng cho biết mức độ được phúc âm hoá của một cá nhân và một cộng đoàn tín hữu. Bí tích Sám Hối cũng là một dấu chỉ hùng hồn cho biết sự khát khao hoàn thiện, chiêm ngắm, hiệp thông huynh đệ và làm việc tông đồ. "Trong bối cảnh của mầu nhiệm hiệp thông các thánh, một mầu nhiệm giúp đưa con người đến gần Đức Kitô hơn bằng nhiều cách khác nhau, cử hành bí tích xưng tội chính là bày tỏ niềm tin vào mầu nhiệm Cứu Chuộc và vào việc tái hiện mầu nhiệm ấy trong Giáo Hội".(số 10)

1.4. Những điều căn bản của Bí tích Sám hối

- Bản chất Bí tích Sám hối : “Đức Kitô kéo dài lời tha thứ của mình qua những lời linh mục nói, đồng thời làm cho thái độ của hối nhân đổi khác sau khi đương sự nhìn nhận mình là tội nhân và đương sự cầu xin Chúa tha thứ, sẵn sàng đền tội và sửa chữa.” (số 24)

- Bí tích Sám hối cử hành cuộc Vượt Qua và hành trình hoán cải

Việc cử hành bí tích này chủ yếu là trong phụng vụ, tưng bừng và vui vẻ vì nó hướng tới việc tái ngộ với Thiên Chúa và với Vị Mục Tử Tốt Lành, do Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Đức Giêsu đã đánh dấu sự tha thứ này bằng một cung giọng hết sức vui vẻ và tưng bừng (Lc 15,5-7. 9-10.22-32).

Các tên gọi của Bí tích Sám hối nói lên hành trình hoán cải

+ bí tích "Sám Hối", ấy là vì "bí tích này thánh hiến các bước hoán cải, sám hối và đền tội vừa mang tính cá nhân vừa mang tính Giáo Hội do hối nhân thực hiện".

+ bí Tích "Cáo Giải", "vì việc tiết lộ hay xưng thú tội mình cho một linh mục là một yếu tố căn bản của bí tích.

+ bí tích "Tha Thứ", "vì nhờ sự xá giải mang tính bí tích của người linh mục, Thiên Chúa ban cho hối nhân ơn tha thứ và bình an" ;

+ bí tích Hoà Giải vì "bí tích này ban cho tội nhân tình thương của một Thiên Chúa muốn hoà giải với con người".(số 25)

- Bí tích Sám hối giúp nên thánh

"Một khi anh em đã được giải thoát khỏi tội và trở nên nô lệ cho Thiên Chúa, anh em sẽ được thánh hóa và sau cùng, được sống đời đời" (Rm 6,22).(số 28)

Một khi đã hiểu rõ sự thật của ơn ấy, các linh mục sẽ không thể làm gì hơn là cổ võ các tín hữu lãnh nhận bí tích Sám Hối. Nếu vậy, "khi cử hành bí tích Sám Hội, là linh mục chu toàn tác vụ của vị Mục Tử tốt lành đang đi tìm con chiên lạc, tác vụ của người Samari nhân hậu đang băng bó các vết thương của con chiên ấy, tác vụ của chính Chúa Cha đang chờ đợi và hân hoan đón đứa con hoang đàng trở về, và tác vụ của vị thẩm phán công bình và vô tư, luôn đưa ra những phán quyết vừa công bằng vừa nhân ái. Linh mục là dấu chỉ và là dụng cụ được Chúa Kitô dùng để bày tỏ tình yêu thương xót của Chúa Cha đối với người có tội". (số 31)

- Bí tích sám hối là mầu nhiệm của ân sủng

Đó chính là một hành trình "bí tích", một dấu chỉ rất hữu hiệu của ơn thánh, là một phần trong đời sống bí tích của Giáo Hội. Đó cũng là một hành trình đã được nói lên trong kinh Lạy Cha, khi chúng ta cầu xin Chúa tha thứ cho chúng ta và chúng ta tha thứ cho người khác. Từ kinh nghiệm hoà giải này, chúng ta sẽ sinh lòng ao ước cho toàn thể nhân loại được bình an trong tâm hồn : "Người kitô hữu mong muốn cho toàn thể gia đình nhân loại được kêu cầu Thiên Chúa là Cha chúng con !"(số 35)

1.5. Vài nhận xét

- Khi giải tội, linh mục cần tuân theo giáo huấn của Giáo hội

- Cần bình tĩnh khi bị quấy rầy. Linh mục cần biết mình và điểm yếu của mình

- Đây là Bí tích trang trọng, nghiêm túc cho dù hối nhân không nghiêm túc

- Linh mục cần tôn trọng phẩm giá của hối nhân. Cho dù tội lỗi lớn đến đâu, đừng quên nhiệm vụ khôi phục hình ảnh Thiên Chúa nơi hối nhân.

- Gặp hối nhân thực sự, đau khổ thực sự chúng ta cẩn thận giúp họ con đường sống. Quyết tâm hoán cải mời gọi bước đi trên con đường thay đổi, con đường trở nên hoàn thiện.

- Nên hướng lời khuyên về yêu mến : Tình yêu không bị sứt mẻ: không thể yêu Chúa nhưng tệ bạc với người hay yêu người nhưng tệ bạc với Chúa.

- Khi hối nhân xưng tội người khác, linh mục nên khéo léo hướng dẫn để hối nhân biết trách nhiệm của mình. Tránh văn hoá đổ thừa : thí dụ khi thấy ít người xưng tội thì đổ thừa cho giáo dân.

- Đừng quên hướng hối nhân về Đức Kitô : sống như Đức Kitô dạy, khuôn cuộc đời mình theo Đức Kitô nhiều hơn.

- Phạm tội nhiều làm tội nhân mình đắm chìm trong vết tích của tội, dễ phạm tội hơn, dễ sinh gương xấu hơn. Đối với linh mục là làm gương xấu : làm người ta xa Chúa.

- Với những người đắm chìm trong tội không muốn xưng tội nữa: thử hướng hối nhân khiêm tốn nhận ra con người thật, con người nhiều tội lỗi của mình và thông cảm với những yếu đuối của người khác. Đặc biệt hướng hối nhân đến lòng thương xót của Chúa.

2.1. Vấn đề linh hướng                      

Tài liệu cho thấy “Việc tư vấn tâm linh đã được thi hành từ buổi ban đầu của Giáo Hội cho tới ngày hôm nay. Cũng có người gọi đây là linh hướng hay đồng hành thiêng liêng.” (số 64) Trong thực tế, các linh mục , tu sĩ rất thường được hỏi về đời sống thiêng liêng, về những điều được làm và không được làm, về điều tốt điều xấu, về điều đúng sai… và không phải ai cũng có khả năng giải đáp thoả đáng. Việc tư vấn tâm linh luôn quan trọng. Tuy nhiên “Nếu việc linh hướng luôn luôn được trao cho các đan sĩ và linh mục thì tư vấn tâm linh có thể được thi hành bởi các thành phần khác trong tín hữu Công Giáo (tu sĩ và giáo dân) như thánh nữ Catarina chẳng hạn.” (số 65)

Sở dĩ có việc đồng hành hay "linh hướng" này là vì Giáo Hội vốn là sự hiệp thông, là Nhiệm Thể Chúa Kitô, là gia đình huynh đệ trong đó mọi người sẽ tùy theo đoàn sủng Chúa ban cho mà giúp đỡ nhau. Đây là công việc quan trọng vì Linh hướng là một sự giúp đỡ các tín hữu trên con đường nên thánh – một sự giúp đỡ luôn dành sẵn cho hết mọi người, bất kể họ thuộc về bậc sống nào. Sự giúp đỡ này cho thấy đời sống kitô hữu là một "hành trình" (số 66) mỗi ngày kitô hữu từng bước đi trên con đường trọn lành.

Sự giúp đỡ này cũng cho thấy cuộc sống vật chất, tuy dồi dào phong phú và đa dạng nhưng chưa thể gọi là đủ. “Tiến bộ và công nghệ mang đến nhiều giá trị, nhưng các giá trị này cần phải được đầu tư cho có một "linh hồn" hay một "linh đạo" ” (số 138) “Bởi thế, mục tiêu chính của việc linh hướng là giúp phân định các dấu chỉ cho biết ý Chúa muốn chúng ta tiến bước thế nào trong hành trình ơn gọi, cầu nguyện, hoàn thiện, muốn chúng ta làm gì trong đời sống hằng ngày và trong sứ mạng huynh đệ của mình.” (số 78) Nếu không chân thành mong muốn nên thánh, việc linh hướng sẽ chẳng bao giờ đạt được mục tiêu riêng của mình trong đời sống kitô hữu. (số 80) Chính trong việc tư vấn tâm linh lẫn nhau mà trong việc sống cuộc sống “cầu nguyện (cầu nguyện riêng hay tập thể hoặc trong phụng vụ), chúng ta phải dạy cho nhau biết cầu nguyện, bằng cách lưu ý tới thái độ hiếu thảo của kinh Lạy Cha, tức là khiêm tốn, tin tưởng. (số 83) cũng như khi luôn hướng đến mục tiêu của việc linh hướng chúng ta có thể sống trọn vẹn đời sống kitô hữu vì “Mục tiêu của việc linh hướng nằm ngay trong chính hành trình đức tin, cậy và mến (chẳng hạn làm sao giúp mình có được những giá trị tiêu chuẩn và quan điểm của Kitô Giáo) : chúng ta biết được mục tiêu ấy dựa vào các dấu chỉ cho biết ý Chúa muốn đối với đoàn sủng mà chúng ta đã tiếp nhận. (số 79)

Việc linh hướng thường được phát triển theo vòng tròn đồng tâm : đầu tiên là hướng dẫn để biết mình, rồi tin tưởng vào tình thương của Chúa, sau cùng là tận hiến cho Ngài ; hay tập tin vào sự phối hợp hài hoà giữa thanh tẩy, đức chiếu và kết hợp. Trong tất cả quá trình này, không bao giờ được quên rằng Chúa Thánh Thần mới chính là nhà linh hướng đích thực, dù cá nhân mỗi người vẫn phải có trách nhiệm và sáng kiến. (số 82)

2.2. Đức tính của người linh hướng

Các chuyên viên thần học thường mô tả nhà linh hướng như một người hướng dẫn chúng ta, đưa ra những áp dụng cụ thể, một người khơi gợi cho chúng ta xả thân và đề xuất với chúng ta những phương thế nên thánh phù hợp với từng người và từng hoàn cảnh, không quên ơn gọi riêng của mỗi người. (số 85)

Cụ thể hơn, tài liệu cho biết: “Nói chung, nhà linh hướng cần phải có một khả năng đón tiếp rất tốt. Vị ấy cần có khả năng lắng nghe vừa nhẫn nại vừa có trách nhiệm. Vị ấy cũng cần có một cách tiếp xúc vừa như một người cha vừa như một người bạn. Vị ấy cũng cần biết khiêm tốn, vì đó là một đặc điểm của tất cả những ai muốn làm linh hướng để phục vụ người khác. Vị ấy cần tránh không gây cảm tưởng rằng mình độc đoán, cá nhân chủ nghĩa, cậy quyền, khiến cho người khác phải lệ thuộc, hấp tấp vội vàng hay uổng phí thời gian để chạy theo những vấn đề phụ thuộc. Vị ấy cần phải khôn ngoan và kín đáo. Ngài cần biết khi nào phải hỏi ý kiến của những người khác với tất cả sự dè dặt cần thiết. Khi tư vấn thiêng liêng cho người khác, nhà linh hướng phải vận dụng tất cả những đức tính và cá tính ấy. Ngài không nên coi thường vai trò quan trọng của một chút óc khôi hài, vì nếu chân thật, óc khôi hài sẽ giúp chúng ta vừa tôn trọng người khác vừa giải quyết nhiều vấn đề tự tạo để sống thư thái hơn.” (số 101)

Việc tư vấn thiêng liêng cũng đòi một số điều kiện. Trước tiên cần phải có sự hiểu biết tương đối đủ cho công việc khá quan trọng nầy : Để tư vấn thiêng liêng, cần phải có một sự hiểu biết đủ (lý thuyết lẫn thực hành) về đời sống thiêng liêng, có một kinh nghiệm đủ về đời sống thiêng liêng, cũng như có một ý thức tốt về trách nhiệm và sự khôn ngoan. (số 102) Vị linh hướng cũng cần hiểu biết nội dung đức tin, có một căn bản về Kitô Học cho đời sống thiêng liêng chính là có căn bản thích hợp nhất để có thể giảng giải thành công khi phải hướng dẫn các tín hữu trên hành trình chiêm ngắm, sống bác ái và làm việc tông đồ. (số 132) Hành trình linh hướng cho thấy việc đào tạo thần học và việc đào tạo mục vụ có liên quan với nhau. (số 134)

Không chỉ biết mình, người tư vấn còn phải biết người mình đang hướng dẫn Nhà linh hướng cần biết rõ người mình đang hướng dẫn. “Hiểu biết tính khí và tính tình con người sẽ giúp chúng ta bảo đảm không để cho đương sự sinh lòng kiêu ngạo và sống quá độc lập mỗi khi ngưỡng vọng những điều cao cả (tính nóng vội); hay tính tình dễ chịu không bị xuống cấp để trở thành nhẹ dạ và hời hợt (tính cầu toàn); hay thiên về đời sống nội tâm và cô độc một mình sẽ không biến chất thành thụ động và mau nản chí (tính u buồn); hoặc bền chí và điềm tĩnh không biến thành cẩu thả và hờ hững (tính lãnh đạm).” (số 130)

Nhà linh hướng cần luôn luôn tỏ ra kính trọng sâu xa đối với lương tâm của người tín hữu. (số 103) Vả lại quyền hành của nhà linh hướng không phải là quyền tài thẩm, mà đúng hơn là quyền tư vấn và hướng dẫn, (số 104) nên nhà linh hướng phải biết cầu nguyện và không được nản lòng khi không thấy kết quả của những việc vất vả mình đã làm.

Do vậy nhiệm vụ linh hướng thích hợp cho các linh mục vì mhiệm vụ của linh mục không chỉ hướng đến việc tha tội cho dù đây là việc mà dân Chúa trông đợi nhất là trong những thời gian cao điểm là Mùa Vọng và Mùa Chay (tại Việt Nam còn lễ các thánh và dịp Tết cũng có nhu cầu xưng tội). Nhiệm vụ linh mục còn giúp cộng đoàn nên hoàn thiện vì thế “các linh mục sẽ phải là người đầu tiên sẵn sàng dành thời giờ và sức lực để làm công việc giáo dục và hướng dẫn thiêng liêng cá nhân này. (số 71) Vả lại tài liệu cung thấy sự liên hệ mật thiết giữa việc linh hướng và bí tích Sám hối: “Khi thi hành tác vụ linh hướng hay phục vụ linh hướng, linh mục đóng vai trò đại diện Đức Kitô Mục Tử Tốt Lành, là người hướng đạo, là anh em, là cha và là thầy thuốc từ tâm, như trong bí tích Sám Hối vậy.” (số 112)

Nếu linh mục có cố gắng tổ chức nghi lễ phụng vụ tốt đẹp đến đâu thì linh mục cũng cần lưu ý rằng “Lễ nghi có đẹp đẽ đến đâu hay hội họp có nhiều đến đâu, mà không nhắm tới việc giáo dục con người đạt tới sự trưởng thành Kitô Giáo, thì cũng chẳng có giá trị bao nhiêu.” (số 113) Chính vì thế tài liệu cho biết “Linh hướng để phân định Thần Khí đúng là một phần trong tác vụ linh mục. "Trong lúc tìm cách thăm dò các thần để xem các thần ấy có là của Chúa hay không, các linh mục nên lấy đức tin mà giới thiệu các đoàn sủng khiêm tốn nhưng cao quý của người giáo dân, vui vẻ nhìn nhận các đoàn sủng ấy và cần mẫn hỗ trợ các đoàn sủng ấy".” (số 67) Khi thi hành nhiệm vụ của mình với tinh thần của Đức Kitô, linh mục sẽ để lại một dấu hiệu là "niềm vui Phục Sinh" và "sự lạc quan hy vọng" trong tâm hồn chúng ta (cf. Rm 12,12). (số 135)

Sự tham gia linh hướng của những người thuộc về đời sống thánh hiến phải được giả thiết là đã qua một thời gian sống chiêm niệm, nên trọn lành, hiệp thông (sống chung) và truyền giáo, như một phần làm nên tính bí tích của Giáo Hội – vốn là một thực tại mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ. (số 120)

Việc linh hướng cho các giáo dân giả thiết ơn gọi nên thánh này là giúp giáo dân trở thành men Tin Mừng trong thế giới và hoạt động trong địa hạt riêng của mình, luôn hiệp thông với Giáo Hội. Nhà linh hướng cần giúp giáo dân trong quan hệ của họ với Chúa (bằng cách tham gia cụ thể vào bí tích Thánh Thể và việc cầu nguyện, xét mình bằng cách liên kết với đời sống của mình), trong việc đào tạo lương tâm, trong việc thánh hoá gia đình, công ăn việc làm, các quan hệ xã hội và tham gia vào đời sống công cộng.

"Công ăn việc làm mà được thi hành theo lối này sẽ trở thành cầu nguyện. Học hành theo lối này cũng trở thành cầu nguyện. Nghiên cứu khoa học theo lối này sẽ trở thành cầu nguyện. Mọi sự đều đồng quy về một thực tại duy nhất : nếu tất cả đều là cầu nguyện thì mọi sự sẽ có thể và hẳn sẽ đưa chúng ta đến với Chúa, nuôi dưỡng quan hệ thường xuyên của chúng ta với Ngài, từ bình minh tới lúc chiều tà. Mọi việc lao động liêm chính đều có thể trở thành cầu nguyện, và mọi việc làm đều là cầu nguyện, đều là làm tông đồ. Bằng cách đó linh hồn chúng ta sẽ được trở nên vững mạnh trong một cuộc sống thống nhất, đơn sơ nhưng mạnh mẽ". (số 122)

Đàng khác, việc linh hướng hay tư vấn tâm linh cho các giáo dân hoặc cho những người ngoài đời sẽ không quá chú ý tới những thất bại và tình trạng chưa trưởng thành của họ.

2.3. Người được linh hướng

Chính linh mục là người cần được linh hướng

Cho dù linh mục là người thích hợp cho việc linh hướng nhưng chính linh mục cũng cần được linh hướng. “Để góp phần cải thiện đời sống thiêng liêng của mình, các linh mục cần được linh hướng. Khi đặt việc đào tạo linh hồn mình vào tay một anh em linh mục khôn ngoan, họ sẽ giúp cho lương tâm mình được soi sáng thêm ngay từ những bước đầu tiên thi hành tác vụ, và sẽ nhận thức được cần hết sức tránh buớc đi một mình trên con đường thiêng liêng và trong khi thi hành các công tác mục vụ.” (số 75) Các linh mục chỉ có thể đạt được điều này bằng cách noi gương Đức Kitô là Chúa của mình ngay trong tác vụ của mình. Cụ thể hơn nữa là noi gương Đức Kitô khi Người đồng hành với hai môn đệ đi làng Emmaus

Đức tính của người được linh hướng

Tài liệu cho thấy người được linh hướng cũng cần có nhiều đức tính căn bản : “cởi mở, thành thật, trung thực, liêm khiết, có thực hành các phương thế nên thánh (như tham dự phụng vụ, các bí tích, cầu nguyện, hy sinh, xét mình...). (số 106) và muốn đạt kết quả cũng cần kính trọng các vị linh hướng xem các ngài như vị hướng dẫn đức tin, nghĩa là giúp cho người được linh hướng có cái nhìn đức tin trong mọi công việc 108. “Một đời sống thiêng liêng được coi là chân chính khi người ta nhìn thấy có sự hài hoà giữa những lời góp ý mà đương sự đã xin và nhận được, với đời sống ăn khớp một cách cụ thể với những lời góp ý ấy. Người được linh hướng phải tự nguyện đón nhận các góp ý một cách có trách nhiệm, và nếu có lỡ sai lầm, người ấy cũng không đổ lỗi lên nhà linh hướng. (số 108)

Như thế thái độ căn bản của người xin linh hướng là thái độ của một người tìm cách làm đẹp lòng Chúa và tìm cách sống trung thành hơn với thánh ý của Ngài.

2.4. Thực hành linh hướng

Vài điều cần lưu ý trước

- Trong thực hành, đôi khi người ta dừng lại quá lâu nơi các câu hỏi và trả lời về giáo lý: “Linh hướng không phải chỉ là bàn hỏi về giáo lý. Mà đúng hơn linh hướng đụng chạm tới mối quan hệ và nỗ lực đồng hoá thâm sâu của chúng ta với Đức Kitô.” (số 69)

- Trong việc linh hướng người ta luôn dành chỗ quan trọng cho việc phân định Thánh Thần là Đấng đang dìu dắt chúng ta đến chỗ được thánh hoá, thi hành sứ mạng tông đồ và hiệp thông vào đời sống Giáo Hội. Chính anh em sẽ mang an ủi đến cho dân và hướng dẫn dân trong những lúc khó khăn của cuộc đời". (số 70)

- Việc linh hướng nhắm tới một mục tiêu rất tuyệt vời. Có thể nói công việc này hết sức cần thiết để giáo dục luân lý và thiêng liêng cho người trẻ nào muốn tìm ra ơn gọi của mình và theo đuổi ơn gọi ấy tới cùng một cách hết sức trung thành. (số 72)

- Linh hướng thường đi đôi với bí tích Sám Hối (số 73).

Trong thực hành

- Khi thực hành linh hướng, người ta không bao giờ được quên cứu xét ơn gọi riêng của người xin linh hướng hay tư vấn trong Giáo Hội. Người ta cũng phải nhìn tới bậc sống, những đoàn sủng riêng và những ơn riêng được ban cho đương sự. Vì mỗi người là một đơn vị "thống nhất", nên cần phải biết rõ hoàn cảnh đặc biệt của họ, gia đình, công ăn việc làm, v.v... Khi có dịp làm việc với một đoàn sủng hay một ơn gọi đặc biệt, nên lưu ý những giai đoạn khác nhau trong hành trình ơn gọi ấy, (số 87) cũng như những thay đổi trong bậc sống theo giáo luật, những ước muốn nên hoàn thiện hơn, những sự bối rối và những hiện tượng bất thường.

- Chương trình linh hướng  “có thể bắt đầu hành trình linh hướng một cách thích đáng bằng việc nhìn lại đời sống của đương sự một cách tổng quát.(số 88) Đương sự cảm thấy bị lôi cuốn trước những thái độ đạo đức, muốn kiên trì tập nhân đức, cầu nguyện, gắn bó với ý Chúa, làm việc tông đồ, đào tạo tính tình (trí nhớ, trí hiểu, tình cảm, ý chí), thanh tẩy, huấn luyện trở nên người cởi mở, cương quyết đi tìm sự trung thực và từ chối chơi tiêu chuẩn kép. (số 89)

Giai đoạn hai của việc linh hướng được gọi là thời kỳ tiến bộ và thăng tiến. Trong giai đoạn này, cần nhấn mạnh tới việc hồi tâm, đời sống nội tâm, sống khiêm tốn và hãm mình nhiều hơn, đào sâu các nhân đức và cải thiện đời sống cầu nguyện.

Từ giai đoạn này chúng ta sẽ tiến tới giai đoạn hoàn thiện hơn nữa; lúc đó việc cầu nguyện của chúng ta sẽ mang tính chiêm niệm nhiều hơn. để biết cách vượt qua đêm tối linh hồn (hay đêm tối đức tin). (số 90)

Nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng thôi thúc, chúng ta biết mình sẽ đi tới đâu, đang ở đâu, và phải tiến tới đâu. (số 91) Hoạt động tông đồ cũng có lúc gặp khô khan, xung đột, ngộ nhận, lăng mạ và bắt bớ, do chính những sai lầm của mình nhưng cũng có thể do những người có thiện chí (bách hại người tốt) vì thế trong khi tiến bước trên con đường hoàn thiện chúng ta thường gặp khủng hoảng. Đêm tối đức tin có thể xuất hiện vào những thời điểm khác nhau, nhưng đặc biệt nhất là khi đương sự đã tiến lại gần Chúa. (số 93)

- Hành trình linh hướng, là một hành trình tìm tòi và trải nghiệm sự thật, cái hay cái đẹp, là sự phối hợp hài hoà giữa trí khôn, tình cảm, ý chí, trí nhớ và tất cả những gì quan trọng đối với chúng ta tạo được "sự ổn định trong tâm trí, khả năng biết đưa ra những quyết định nặng ký và biết đánh giá con người và biến cố một cách lành mạnh". (số 127) Linh hướng sẽ giúp chúng ta hiểu biết và khắc phục những yếu kém của mình khi quyết định, khi ghi nhớ, khi xúc cảm và khi bị điều kiện hoá về mặt xã hội, văn hoá và tâm lý giúp chúng ta trả lời câu hỏi : tôi là ai ? (căn tính của mình) ; tôi đang sống với ai ? (các mối quan hệ) ; và tôi đến đây để làm gì ? (sứ mạng).

- Đôi khi chúng ta cảm thấy được Thánh Thần soi sáng và thúc giục, kể cả khi chúng ta muốn dấn thân quyết liệt hơn trong đời sống thiêng liêng hay trong hoạt động tông đồ, vậy mà có khi đó chỉ là những giây phút rất mong manh và rất dễ đánh lừa, xuất phát từ sự kiêu ngạo hay từ sự ngẫu hứng của chúng ta. (số 94) Những hiện tượng ấy có thể phát xuất từ những nguồn gốc tự nhiên, từ những nguồn gốc tâm lý và văn hoá cũng như từ nền giáo dục và từ những hoàn cảnh xã hội, (số 95) cũng có khi do bệnh tật và khiếm khuyết tâm lý liên quan đến đời sống thiêng liêng làm người ta hờ hững vô tâm hay sống tà tà. (số 96) Chúng xuất hiện khi người ta quá quan tâm tìm sự thoả mãn hay quá bất mãn với chính mình, tìm hết cách để mọi người chú ý và cảm thương. (số 97)

Để biện phân chúng ta nên nhớ nguyên tắc : Những việc thần dữ làm bao giờ cũng có kèm theo sự tự ái, đòi độc lập, buồn bã, thoái chí, ghen tuông, hồ đồ, giận ghét, thất vọng, khinh người, và có những sự ưu tiên ích kỷ. (số 99) Chúng ta không thể nào phân định một tình huống thiêng liêng mà tâm thần không được bình an, và đây chính là một ơn do Chúa Thánh Thần ban cho. Người có ơn ấy sẽ không tìm kiếm tư lợi hay tìm cách thống trị người khác, mà chỉ tìm cách thế nào tốt nhất để phục vụ Chúa và anh chị em mình. (số 100)

2.5. Để Kết

Trong thời đại hiện nay Giáo hội cần cải tổ hơn bao giờ hết để đáp ứng thay đổi của thời đại. “Muốn ơn gọi linh mục và tu sĩ phát triển, muốn giáo dân ngày càng dấn thân trên con đường nên thánh và trong hoạt động tông đồ, cần phải canh tân lại tác vụ sám hối và linh hướng, những việc phải được thực hiện với sự nhiệt tình có cơ sở cũng như với sự xả thân thật rộng rãi.” (số 139) Trong tình hình mới, cộng với ân sủng mới, chúng ta nuôi hy vọng sẽ có sự nhiệt tình tông đồ mới để linh mục biết hiện tại hoá hoạt động của Chúa Thánh Thần.

Tác giả: Lm. Ernest Nguyễn Văn Hưởng

Nguồn: giaolyductin.org

 

TRANG TU SĨ

ĐÔI LỜI MUỐN NGỎ

Ngày 1/9 vừa qua,  là ngày thế giới cầu nguyện cho việc chăm sóc thiên nhiên. Trong thư Đức Thánh Cha đã nói: “ ngày thế giới hàng năm cầu nguyện cho sự chăm sóc thiên nhiên sẽ mang đến cho những cá nhân và cộng đồng một cơ hội để khẳng định ơn gọi của mỗi người chúng ta là quản lý thiên nhiên, thụ tạo của Thiên Chúa, để cảm tạ Thiên Chúa vì công trình tuyệt diệu.”

Quả thật, Thiên Chúa đã dựng nên con người sau các loài thụ tạo bé nhỏ, con người là chóp đỉnh của công trình sáng tạo. Thiên Chúa muốn con người chúng ta sử dụng, làm chủ, có nghĩa vụ và trách nhiệm trên muôn loài. Nếu như Đức Kitô là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc thì chúng ta có thể hiểu và tự hào rằng chúng ta cũng là anh, là chị giữa muôn loài thụ tạo nhỏ bé kia, nhưng chúng ta đã đối xử với em của mình như thế nào? Để rồi thế giới gióng lên hồi chuông báo động: Cần bảo vệ thiên nhiên đó là bảo vệâ sự sống con người.

Trước đó 5 tháng, ngày 4/6/2016  được tổ chức tại tỉnh Lào Cai với chủ đề môi trường thế giới đó là:” tiềng gọi thiên nhiên và hành động của chúng ta”. Việt Nam tổ chức  muốn hướng con người sống thân thiện với môi trường, giảm áp lực ngày càng gia tăng đối với hệ sinh thái.

Đức Giáo Hoàng đã từng hỏi: “Loại thế giới nào chúng ta muốn để lại cho con cháu chúng ta lớn lên?”. Chắc hẳn ai cũng muốn trả lời là muốn để lại một thế giới xanh, sạch đẹp. Nhưng đó chỉ là mớ lý thuyết suông, chỉ trên bút mực nhưng lại thiếu thực tế trong cách sống hằng ngày.

Có bao giờ chúng ta tự hỏi tại sao trái đất chúng ta đang sống đang bị ô nhiễm rất nặng? Vì đâu? Vì chúng ta sống thiếu ý thức, xả rác bừa bãi dẫn đến nền văn hóa thiếu vệ sinh làm ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí, lỗi tại ai? Chúng ta có thể nhịn ăn trong bảy ngày, nhưng không thể nhịn thở quá 3 phút. Vậy tại sao chúng ta không ý thức trách nhiệm bảo vệ môi trường? Bảo vệ sự sống chính mình?! Có bao giờ chúng ta tự hỏi tại sao thời tiết thay đổi thất thường: nhiệt độ trái đất nóng lên làm băng tan, hậu quả là tần ôzon bị thủng, mưa bão, lũ lụt, hạn hán, sạt lở, xói mòn…Tất cả vì sự ích kỷ của con người chỉ biết lo cho bản thân, vì tiền mà người ta có thể: đốt phá rừng, bắt động vật quý hiếm…làm tổn hại đến thiên nhiên, tổn hại môi trường, kinh tế, xã hội, và cao hơn nữa là chúng ta đang tổn hại đến lòng thương xót của Thiên Chúa, vì chính Thiên Chúa dựng nên mọi sự và đã ban cho chúng ta sử dụng như những nhu cầu cần thiết, nhưng thiên nhiên bị phá hại thì con người sinh tồn được không?  chúng ta đã không hoàn thành nhiệm vụ mà Thiên Chúa đã ủy thác là chăm sóc cho hệ sinh thái ngày càng xanh sạch đẹp,  ngày càng phong phú hơn.

Khi Chúa  sáng tạo loài người, Chúa muốn chúng ta hạnh phúc, Chúa tạo theo hình ảnh của Ngài tại sao chúng ta không sống giống Chúa, lòng thương xót của Chúa trào tràn trên nhân loại, sao con người lại vô tâm với nhau và với môi trường chúng ta đang sống. Chúng ta cần phải quay về nội tâm của chúng ta để nhìn thấy tội lỗi đã phạm để xử sự cho đúng, lấy lòng thương xót của Thiên Chúa để yêu thiên nhiên và con người. Chúng ta Cần nhìn lại nền  giáo dục của gia đình, nhà trường và văn hóa xã hội, cần  bảo vệ chăm sóc, sống ý thức, có tinh thần trách nhiệm, sống trưởng thành để tái tạo một hệ sinh thái mới xanh sạch đẹp, lúc đó chúng ta  trả được món nợ môi sinh và nhận được sự tha thứ và lòng thương xót của Cha nhân lành, và xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta có trái tim của Chúa, để xứng đáng là anh, là chị của vạn vật trong tình yêu Chúa.

MTG Cái Nhum

 

 CÓ CHUNG NGÔI NHÀ

Lễ giáp năm qua đời của Cha Sở vào dịp 30/4 nên con cái trong họ đạo đi làm phương xa về gần như đủ mặt. Sau khi viếng mộ Cha, hai người học trò bước vào nhà Dì thăm lại thầy cũ:

-        Chào Dì Năm, Dì Năm khỏe không?

-        Lâm và Sơn đó à! Lâu lắm rồi Dì mới gặp anh em con.

-        Dạ! Mấy năm qua vất vả ngược xuôi... Mãi đến hôm nay tụi con mới về thăm lại quê hương.

-        Bây giờ hai đứa ở đâu? Sinh sống cách nào?

-        Dạ! Anh em con đang ở Cà Mau, sống bằng cách đốn củi trong rừng. Những khu rừng tràm, rừng đước của Nhà nước trồng bạt ngàn xanh thẳm,

-        Rừng của Nhà Nước trồng mà đốn cây không ai kiểm soát sao?

-        Dạ cũng khó khăn lắm! Anh em con chờ thời cơ thuận lợi mới dám làm Dì Năm ơi!

-        Làm như vậy là mình phá rừng đó con! Cây trong rừng trồng để giữ đất, để khi mưa to gió lớn không gây lũ lụt. Rừng còn là buồng phổi của nhân loại, cung cấp dưỡng khí cho con người. Dì khuyên anh em con đừng đốn cây phá rừng nữa, làm như thế là phá hoại môi trường mình sống. Đây là món nợ môi sinh của mỗi người đó con. Làm nghề nầy sớm muộn gì cũng vô tù con ơi! Bây giờ các Công ty tuyển nhiều công nhân, anh em con nên xin việc làm, để có nghề nghiệp ổn định thì tốt hơn.

-        Dạ! Cám ơn Dì đã thương dạy bảo. Từ từ anh em con sẽ cố gắng tìm nghề sinh sống. Chào Dì.

Khi sinh ra trên cuộc đời nầy, mỗi người đều có một gia đình riêng, một mái nhà riêng; nhưng tất cả chúng ta đều có chung và cùng sống chung với nhau trong một ngôi nhà là Trái Đất. Đây là ngôi nhà chung, là quà tặng Chúa ban cho nhân loại mà Thánh Phanxicô Assisie dành một từ rất thân thương để gọi “Mẹ Đất”. Mẹ Đất cưu mang nuôi dưỡng nhân loại. Tính đến hôm nay, tuổi tác của Mẹ đã hàng triệu năm, nhưng ngày đêm Mẹ Đất âm thầm nuôi dưỡng con cái không biết mõi mệt. Trãi dài thời gian Mẹ Đất liên lỉ tiếp nhận người nầy và tiển đưa người khác. Chung cuộc tất cả mọi người cùng ngủ yên trong lòng Đất Mẹ.

Tất cả chúng ta có chung ngôi nhà là Trái Đất, nên mỗi người có trách nhiệm bảo vệ, giữ gìn. Những hành vi làm ô nhiễm môi trường, phá rừng... là xúc phạm đến đồng loại, hủy hoại tấm thân Mẹ Đất. Lòng thương xót là động lực giúp con người biết bảo vệ môi sinh, giữ gìn môi trường, xanh, sạch, đẹp... để con người sống khỏe an và nhất là để Mẹ Đất sống còn với thời gian.

MTG Cái Mơn

 

TRANG SỐNG ƠN GỌI

CHỌN LỰA

Trong kho tàng chuyện ngụ ngôn có một câu chuyện dí dỏm như sau: Một con khỉ cầm hai nắm đậu, một hạt đậu rơi xuống đất. Nó tính nhặt hạt đậu đó lên, không ngờ vừa nhón tay lại rơi thêm hai mươi hạt nữa. Nó định nhặt hai mươi hạt đậu đó lên, ai ngờ vừa mở ngón tay, cả nắm đậu trong tay bị bung ra hết. Con khỉ hoảng hốt làm bung nốt nắm đậu ở trong tay kia, nó dùng cả tay lẫn chân vét đậu lại, nhưng càng khều thì đậu càng văng ra xa. Cuối cùng cả hai nắm đậu tản ra trên mặt đất như một đám khói.

Cuộc sống không ngừng đòi hỏi chúng ta phải chọn lựa. Và chọn lựa nào cũng phải chịu thiệt thòi mất mát. Kẻ bắt cá hai tay vẫn luôn là người thua thiệt nhiều nhất. Con khỉ vì tiếc một hạt đậu mà mất cả hai nắm đậu trên tay.

Nói đến đời tu là chúng ta nghĩ ngay đến hai chữ “chọn lựa”. Nói thì thật dễ dàng, nhưng sống cách triệt để những gì mình lựa chọn thì khó vô cùng. Và trong đời sống tu trì cũng đòi chúng ta phải có chọn lựa dứt khoát không có trường hợp “bắt cá hai tay” hay “đứng núi này trông núi nọ”.

Trong Phúc Âm, Chúa cũng gọi rất nhiều người, mỗi người mỗi cách, nhưng không phải người nào cũng đáp trả. Có người bảo "hãy để tôi về chôn xác cha tôi", người khác lại bảo rằng "Để tôi về xem mảnh ruộng mới mua, đôi bò mới tậu.". Chúng ta luôn có những lý do để khước từ thực hiện ngay tức khắc lời mời gọi của Chúa chỉ vì chúng ta còn lưỡng lự chưa dám buông bỏ để mà dứt khoát trong lựa chọn.

Chúng ta chỉ cần nhìn vào trong cuộc đời của mình, chỉ cần trở lại với nội tâm của mình, chúng ta thấy rất rõ rất nhiều lần Chúa gọi chúng ta, và rất nhiều lần chúng ta tìm lý do này khác để khước từ, để rồi sau đó chúng ta quên đi tiếng gọi của Chúa.

Vì vậy, khi chấp nhận bước vào đời tu là bước vào một cuộc chọn lựa minh bạch hoàn toàn tự do: một là để Thiên Chúa cuốn hút chấp nhận những điều kiện Ngài đưa ra hai là để thế gian cuốn hút với những tham sân si trong cuộc sống. Người tu phải xác tín con đường mình sẽ đi và tạo điều kiện tốt nhất để cuộc hành trình đó có cơ may thành công.

Thật vậy, bước theo Chúa chẳng dễ dàng chút nào, bởi vì sức hút của thế gian không phải là thường. Chẳng vậy mà ma quỷ đã dám đưa thế gian ra để làm một cuộc mặc cả với Chúa Giêsu: “nếu ông quỳ xuống trước mặt tôi, tôi sẽ cho ông tất cả thế gian này”.Nếu không thật sự dứt khoát, khi đứng trước những cám dỗ mãnh liệt đó chúng ta sẽ bị sa ngã ngay.

Chúng ta chấp nhận từ bỏ thế gian không phải vì nó là cái gì xấu xa, mà là trả nó về chính vị trí đích thực của nó, là phục tùng Thiên Chúa và đưa nó đến việc xây dựng hạnh phúc cho tha nhân. Khi chấp nhận từ bỏ mà không chút quyến luyến thì đời tu chúng ta mới cảm thấy thánh thoát nhẹ nhàng và khi đó đời tu mới được cuốn hút bởi tình yêu Thiên Chúa như thánh Đa Minh đã nói: “chúng ta chỉ nói với Chúa, chỉ nghĩ về Chúa và hành động vì Chúa”.

Từ sự cuốn hút này, người tu sẽ đi đến những quyết định mạnh mẽ như họ chỉ làm những điều gì mà Chúa muốn. Họ chỉ thích những điều gì Chúa thương. Họ dấn thân loan báo Tin Mừng không ngại gì gian khổ. Họ hợp tác với tất cả mọi người và làm tất cả những gì làm vinh danh Chúa. Trước những phong ba bão táp của đời tu. Họ nghe rõ tiếng Chúa “Thầy đây, đừng sợ” và họ hết lòng nhiệt thành phục vụ tha nhân vì có Chúa đồng hành.

Lạy Chúa, xin cho con dám hy sinh can đảm từ bỏ tất cả để chỉ biết chọn Chúa làm gia nghiệp đời con.

Lm Gioan Lê Tiến Thiện

 

TRANG THIẾU NHI

THIẾU NHI VÀ VIỆC ĐỌC KINH CẦU NGUYỆN

1. Nhớ cái ngày còn bé. Con nít xóm tôi, cũng như bao xóm khác, chiều chiều hay tụ nhau ở đài Đức Mẹ. Trước là để cùng với người lớn đọc kinh lần chuỗi, sau là để quay quần chơi với nhau những trò chơi dân gian vui nhộn. Một trong những trò chơi mà tôi nhớ nhất, đó là trò chơi “Thiên đàng - Hỏa ngục”.

Trò chơi gắn liền với bài đồng dao đọc trại trại như thế này: “Thiên đàng địa ngục hai bên. Ai khôn thì lại, ai dại thì sa. Đêm nằm nhớ Chúa, nhớ Cha. Đọc kinh cầu nguyện, kẻo sa linh hồn. Linh hồn phải giữ linh hồn. Đến khi mình chết được lên thiên đàng”.

Làm sao cho linh hồn khỏi sa vào hỏa ngục, làm sao cho linh hồn được lên thiên đàng là mơ ước của mỗi chúng tôi. Lúc ấy, chúng tôi nghĩ đơn giản như bài đồng dao nhắn nhủ, lo đọc kinh cầu nguyện sẽ được lên thiên đàng, còn không chịu đọc kinh cầu nguyện sẽ sa hỏa ngục. Vì vậy mà chúng tôi không bao giờ dám bỏ kinh hôm kinh mai, vì sợ phải sa hỏa ngục đời đời.

2. Cũng những ngày thơ ấu ấy, đêm đêm, tôi và chị tôi thường hay nằm chơi với má trên cái ghế bố đặt ngoài sân. Má tôi chỉ những vì sao trên trời mà nói rằng, mỗi một vì sao là một vị thánh Chúa đặt trên trời. Ngôi sao lớn là thánh lớn, ngôi sao nhỏ là thánh nhỏ. Trong trí khôn nhỏ bé của mình, tôi cũng muốn là vì sao trên bầu trời. Hỏi má làm sao được vậy, má bảo phải đọc kinh cầu nguyện sáng tối. Và má chỉ cho chị em tôi cách đọc kinh hôm kinh mai mà mãi đến bây giờ tôi vẫn còn quen đọc.

3. Nhắc đến người mẹ, tôi lại nhớ đến Người Mẹ chung của mọi Kitô hữu, đó là Mẹ Maria. Mẹ đã nhiều lần hiện ra để nhắn nhủ con cái Mẹ phải siêng năng đọc kinh cầu nguyện. Trong tháng 10 này, chúng ta nhớ đến những lần hiện ra của Đức Mẹ tại Fatima (Bồ Đào Nha) vào năm 1917. Trong năm ấy, từ ngày 13.5 đến 13.10, Đức Mẹ đã sáu lần hiện ra với ba trẻ chăn cừu ở làng Fatima là Lucia, Phanxicô và Jacinta. Ngoài hai lời nhắn nhủ ăn năn đền tội và tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ, trong các lần hiện ra, Đức Mẹ đều nhắn nhủ hãy siêng năng đọc kinh cầu nguyện, nhất là năng lần hạt Mân Côi. Ba trẻ nhỏ đã mau mắn nghe theo lời của Đức Mẹ, và các em đã nhận được rất nhiều ơn ích thiêng liêng nhờ vâng theo các lời nhắn nhủ của Đức Mẹ.

Người ta kể rằng, trong ba trẻ được Đức Mẹ tỏ hiện, có Phanxicô là thấy Đức Mẹ hiện ra nhưng không nghe được những lời Đức Mẹ trò chuyện. Em phải nhờ Lucia và Jacinta thuật lại những lời Đức Mẹ nói. Em nhờ chị Lucia hỏi Đức Mẹ xem mình có được lên thiên đàng hay không, Đức Mẹ trả lời: “Được, nhưng cần phải lần nhiều chuỗi Mân Côi”. Và khi biết mình sẽ được Chúa đưa về trời sớm, Phanxicô đã ham cầu nguyện hơn là ham học. Mỗi khi đi học ngang nhà thờ, Phanxicô luôn nói với Lucia và Jacinta: “Này, chúng ta cùng vào nhà thờ viếng Chúa đi”. Và rồi Chúa đã đưa em vào thiên đàng hai năm sau đó.

Còn Jacinta, trong suốt thời gian Đức Mẹ hiện ra, em không nói gì cả nhưng thấy và nghe hết. Khi được thấy hai thị kiến về Đức Thánh Cha, ngài sẽ gặp nhiều đau khổ do Giáo Hội bị bách hại. Em đã tự nhủ:“Đức Thánh Cha thật đáng thương, phải cầu nguyện nhiều cho ngài!”. Từ lúc đó, Đức Thánh Cha luôn hiện diện trong lời cầu nguyện và những hy sinh của em. Và Chúa cũng đưa em vào thiên đàng sớm, chỉ cách Phanxicô một năm sau đó.

Riêng Lucia là trẻ lớn nhất trong ba trẻ. Em thường tổ chức các trò chơi, cầu nguyện, nhảy múa và nhiều hoạt động khác cho thiếu nhi trong làng. Khi được Đức Mẹ cho biết là Phanxicô và Jacinta chẳng bao lâu nữa sẽ về trời, em rất buồn vì chỉ còn một mình ở trần gian. Tuy nhiên, khi được Đức Mẹ cho biết: “Trái Tim Vô Nhiễm của Ta sẽ luôn là nơi ẩn náu của con và là con đường dẫn đưa con tới cùng Thiên Chúa”, thì từ lúc đó em không còn lo buồn nữa, vì biết rằng Chúa muốn em ở lại trần gian để phổ biến lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ. Vì thế, khi trở thành nữ tu, em đã lấy tên là “Maria Lucia của Trái Tim Vô Nhiễm”. Lucia thật diễm phúc khi được tham dự thánh lễ phong chân phước cho Phanxicô và Jacinta, do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cử hành vào ngày 13.10.2000. Đến ngày 14.2.2005, Lucia qua đời ở tuổi 98.

Sự kiện các trẻ ở Fatima như một minh chứng cho bài đồng dao trong trò chơi con nít của chúng tôi: “Đọc kinh cầu nguyện… được lên thiêng đàng”, và cũng có thể cho lời dạy bảo của má tôi, muốn thành thánh cần phải năng đọc kinh đêm ngày. Vâng, Phanxicô đã nghe lời Đức Mẹ đêm ngày đọc kinh lần chuỗi, Jacinta ngày đêm cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng và cho thế giới. Nhờ năng cầu nguyện như Mẹ dạy mà hai bạn trẻ đã được Chúa sớm đưa về thiên đàng và đã được Giáo Hội tuyên phong chân phước.

4. Ngày nay, hỏi các bạn thiếu nhi, các bạn có muốn được lên thiên đàng không, các bạn có muốn được thành thánh không? Chắc chắn tất cả sẽ trả lời là muốn. Tuy nhiên, khi hỏi các bạn có đọc kinh cầu nguyện đêm ngày không? Chắc rằng không ít bạn sẽ trả lời là không.

Có nhiều lý do khiến cho các bạn thiếu nhi ngày nay ít đọc kinh sáng tối. Có thể nêu ra một vài lý do:

- Thứ nhất, các bậc cha mẹ suốt ngày cứ quần quật với công ăn việc làm mà quên đi bổn phận dạy dỗ, hướng dẫn con cái đọc kinh cầu nguyện. Nếu như trước đây, việc đọc kinh chung trong gia đình vào mỗi tối là việc làm thường thấy trong các gia đình Công giáo; thì ngày nay, đó là một điều hiếm thấy, họa chăng chỉ còn thấy trong một vài gia đình ở nông thôn mà thôi.

- Thứ hai, trẻ em ngày nay chịu rất nhiều áp lực từ việc học, nhất là trẻ em ở thành thị: học từ sáng cho tới tối, học luôn cả ngày Chúa Nhật; học chính khóa rồi đến ngoại khóa, lại còn học thêm nữa… Cho nên, khoảng thời gian ít ỏi còn lại, các bạn thiếu nhi không muốn gì hơn là được nghỉ, kéo theo nghỉ đọc kinh cầu nguyện luôn.

- Thứ ba, ngay chính bản thân các bạn thiếu nhi cũng chưa nhận biết ích lợi của việc đọc kinh cầu nguyện. Các bạn chỉ coi đó là một bổn phận chứ không phải là một việc làm sinh nhiều lợi ích. Mà cái gì thuộc bổn phận thì làm miễn cưỡng cho có cho xong. Nếu gặp phải sự lười biếng hay có cái gì đó lôi cuốn, chắc chắc các bạn sẽ dễ dàng bỏ qua.

5. Vì thế, thiết nghĩ trong tháng Mân Côi này, các bậc phụ huynh quan tâm hơn trong việc làm gương và hướng dẫn con em mình đọc kinh cầu nguyện. Hãy chỉ cho con em mình thấy ích lợi của việc đọc kinh cầu nguyện, đêm đêm hãy cùng con em mình ngồi trước bàn thờ Chúa đọc kinh để duy trì bầu khí cầu nguyện trong gia đình.

Còn các bạn thiếu nhi, nếu cha mẹ không đọc kinh chung được với các bạn, các bạn đừng vì thế mà bỏ luôn việc đọc kinh sáng tối. Các bạn hãy đọc kinh riêng, có thể theo cách tôi đã từng học và từng đọc khi còn nhỏ như các bạn:

Tôi còn nhớ, má tôi dạy tôi rằng: “Mỗi tối mỗi sáng, con hãy đọc một kinh Lạy Cha, ba kinh Kính Mừng, một kinh Sáng Danh, rồi xin Chúa một điều gì đó cho mình hay cho một ai đó”. Cho đến bây giờ, ngoài đọc các giờ kinh Phụng Vụ theo bổn phận, tôi vẫn trung thành mỗi tối mỗi sáng đọc như má tôi dạy lúc nhỏ.

Còn việc lần chuỗi Mân Côi, tôi được một cha hướng dẫn rằng: “Tuổi nhỏ, lần hạt 50 như người lớn thì ngán lắm. Vì thế, thay vì đọc 10 kinh Kính Mừng thì có thể đọc 3 kinh là cũng được rồi. Thà đọc ích mà sốt sắng, hơn đọc nhiều mà ngán ngẫm lo ra”. Và cho đến bây giờ, khi hướng dẫn các bạn thiếu nhi lần hạt, tôi vẫn hay dạy các bạn cách lần hạt tắt như thế. Sau mỗi ngắm, chỉ cần đọc 1 kinh Lạy Cha, 3 kinh Kính Mừng, 1 kinh Sáng Danh là cũng được rồi.

6. Tháng Mân Côi, hy vọng mọi người, nhất là các bạn thiếu nhi, ý thức hơn về việc gắn bó với Chúa, với Mẹ và với mọi người bằng lời kinh cầu nguyện, nhất là lời kinh Mân Côi.         

Lm Giuse Trần Tử Hiếu

 

TRANG GIỚI TRẺ

LÒNG THƯƠNG XÓT LẤP ĐẦY HỐ SÂU NGĂN CÁCH

Hằng năm vào ngày Chúa nhật thứ hai Mùa vọng người tín hữu Công giáo được nhắc nhở bởi lời kêu gọi của Thánh Gioan Tẩy Giả: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu …" (Lc 3, 4b – 5a).

Lời kêu gọi này không chỉ giúp người tín hữu dọn mình mừng lễ Chúa Giáng Sinh mà còn nhằm giúp họ định hướng lại đời sống đức tin trong những ngày đầu năm Phụng vụ. Hơn thế nữa, lời kêu gọi này cũng thật có giá trị trong khung cảnh năm Thánh Lòng Thương Xót.

Dường như sống giữa thế gian, con người ta thích tạo ra cho mình những hố sâu ngăn cách vô hình với người khác. Người ta phân biệt người này với người kia: người giàu với người nghèo; người dễ thương với người khó ưa; người trí thức với người thất học; người có chức quyền với người dân thường; người trẻ với người già; người tôn giáo này với người tôn giáo kia; người đạo đức với người tội lỗi…

Đối với cái nhìn này, có những người sẽ được tôn trọng và nâng niu nhưng lại có những người bị xem thường thậm tệ. Thật ra, được có mặt trên thế gian này có nhiều điều người ta đâu thể chọn được cho mình. Vì vậy, những người được ở trong hoàn cảnh may mắn hơn nên chăng biết nhìn đến những anh chị em kém may mắn hơn mình. Thật không công bằng lắm khi những người may mắn được xem trọng còn những người còn lại thì không.

Chúa Giêsu trong Tin mừng theo thánh Luca là một nhà cách mạng phá vỡ sự ngăn cách giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Càng đọc và suy gẫm Tin mừng theo thánh Luca, ta sẽ thấy được một sự gần gũi thân thương giữa Thiên Chúa và con người. Mặc dù Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa nhưng chẳng thấy bất cứ khoảng cách nào giữa Ngài với con người.

Trong tình thương của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu mỗi người đều có một vị trí như nhau cũng như mỗi người có bổn phận gần nhau mà không có khoảng cách. Đọc dụ ngôn người phú hộ giàu có và anh Lazarô nghèo khó (Lc 16, 19 – 31) có lẽ ai cũng sẽ thấy một hố sâu “nhân tạo” giữa hai người ở đời này. Đáng buồn thay, người phú hộ này có khả năng lấp hố sâu này nhưng ông không làm. Để rồi một hố sâu “thiên tạo” sau cái chết để lại một hối tiếc không thể sửa đổi cho ông và có thể cho những anh em của ông.

Một lời kêu gọi và cũng là một lời nhắc nhở cho người tín hữu Công giáo trong năm Thánh Lòng Thương Xót. Nguyện xin Mẹ Mân Côi cầu bàu cho chúng con để đừng có hố sâu nào giữa con với Chúa và với anh chị em nhờ tình thương lấp đầy.

Lm. Micae Nguyễn Hà Thiện Tâm

 

TÔN TRỌNG MÌNH, TÔN TRỌNG NGƯỜI KHÁC

Sống trong đời có bao giờ tôi dám đối diện với lòng mình và nói rằng tôi chưa từng làm điều gì có lỗi với bản thân? Thường thì, một lần hai lần thậm chí có thể rất nhiều lần tôi nhắm mắt làm ngơ trước rất nhiều việc sai trái. Vì sao? Bởi vì tôi sợ phải đối diện với nó, sợ nó sẽ khiến cho cuộc sống của tôi trở nên khó khăn hơn!

Nhiều khi tôi đang đánh mất đi lòng tự trọng của bản thân để kiếm tiền và thỏa mãn những dục vọng tầm thường khác. Tôi đã đánh mất cái tôi cá nhân, cái tôi bản sắc của mình để trở thành kẻ hèn hạ không đáng được tôn trọng. Vì ảnh hưởng từ cuộc sống vật chất nên tôi dễ thiếu hắn đi những kỹ năng sống tối thiểu nhất đó chính là trân trọng bản thân và giữ lòng tự trọng cho chính mình!

Tôi có muốn bị người khác chà đạp và sỉ nhục? Không bao giờ! Nhưng trước sự tham ô, tham nhũng và những hành vi phạm tội khác tôi sẽ làm gì để ngăn chặn nó? Theo một nghiên cứu gần đây cho thấy với khoảng 56% thanh niên làm việc trong các tổ chức nhà nước, doanh nghiệp từ chối tố cáo sai phạm! Tại sao lại có sự thật đáng đau lòng này? Bởi vì, họ sống và chấp nhận thực tại cá lớn nuốt cá bé, nếu không che giấu cho người khác thì rất có thể họ sẽ mất việc thậm chí trở thành con cờ thế mạng!

Muốn ngăn chặn điều này tôi chỉ còn một cách duy nhất đó là giáo dục lòng tự trọng khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Hãy luôn để cho tôi cũng như những người trẻ được sống, lớn lên trong sự yêu thương và được trân trọng. Tôi cần phải thấy được điều gì sai, điều gì đúng và phải bảo vệ chính nghĩa lẽ phải! Có như vậy, tôi mới biết tôn trọng mình và tôn trọng người khác! Tôi cần ý thức những giá trị thực sự trong cuộc sống. Tiền là phương tiện để tôi đạt được tất cả những gì mình muốn nhưng nó không phải là tất cả của cuộc sống! Tôi cần phải biết quý trọng đồng tiền nhưng đừng để mình thành nô lệ của nó!

Nhiều lúc tôi coi trọng đồng tiền mà khinh thường người khác. Tôi chỉ có thể có được cuộc sống hạnh phúc và bình yên thực sự khi tôi biết yêu thương và trân trọng những người xung quanh!

Tôi cần phải ghi nhớ rằng: Tôn trọng mình và tôn trọng người khác là cách để tôi sống trọn vẹn với cuộc đời này!

Lm. Phaolô Phan Thanh Duy

 

TRANG GIA ĐÌNH

CHO ĐỜI THÊM GƯƠNG SÁNG!

Quý bạn đọc thân mến,

Những ngày cuối tháng chín vừa qua, làn sóng tin tức sôi nổi được loan đi khắp nơi về sự ra đi đầy luyến tiếc của người nghệ sĩ hiền lành, tài năng - Thanh Tòng.

Nghệ sĩ nhân dân Thanh Tòng qua đời ở ngưỡng tuổi “Thất thập cổ lai hy”. “Thống soái” của bộ môn cải lương tuồng cổ đã gởi gắm lại cho đời những ấn tượng sâu đậm về cách đối nhân xử thế, sống mẫu mực và khiêm nhu. Khi “Cây đại thụ” của làng nghệ thuật sân khấu cải lương nằm xuống, người con ưu tú nối nghiệp cha - Quế Trân đã thốt lên rằng: “Cha là thần tượng không chỉ trong nghề mà còn ở tấm lòng dành trọn cho gia đình”; “Tôi ngưỡng mộ tình yêu cha dành cho mẹ”; “Trong mắt tôi, cha là người chồng tuyệt vời, sống hết lòng vì gia tộc, con cái và không nghĩ điều gì cho bản thân. Hiếm có ai chung thủy và ga lăng, lịch sự, chu đáo với vợ như cha tôi. Ở tuổi hơn 60, khi đi bên mẹ ông luôn chủ động nhấc ghế, mở cửa, chăm sóc bà từng chút. Khi được bà làm việc gì cho, ông đều nói lời cám ơn. Ai nhìn thấy tình cảm cha dành cho mẹ tôi cũng đều ngưỡng mộ. Cha mẹ tôi luôn đồng lòng trong mọi việc”. Đúng thật là một tình yêu lạ kỳ!

 

Nói đến đây, tưởng cũng nên hồi ức một chút về người nhạc sĩ nghệ sĩ tài hoa đáng kính - Nguyễn Ánh 9. Ông đã vĩnh viễn ra đi vào một ngày trung tuần của tháng tư năm nay, để lại cho đời bao hương thơm ngời sáng. Có một điều hầu như ai cũng biết, lúc sinh thời, tình yêu Nguyễn Ánh 9 dành cho vợ ông là bà Ngọc Hân được con cháu vô cùng ngưỡng mộ, tình yêu ấy cũng khiến cho khán thính giả yêu nhạc cảm phục người nhạc sĩ chung tình.

Đối với “Vị đại diện” cho nền nhạc “cổ” trong dòng nhạc Việt đương đại - Thanh Tòng, ông không chỉ đóng tròn vai của mình trên sân khấu sắc màu, mà còn chu toàn cách độc đáo vai diễn của mình trên sân khấu cuộc đời. Vì thế, người “Tài tử” của nhân dân mãi mãi được gia đình, người thân, bạn bè đồng nghiệp và công chúng quý trọng mến yêu.

Thưa quý bạn đọc,

Giữa một xã hội hiện tại, không ít lần chúng ta nghe kể về những chuyện vui buồn của hạnh phúc lứa đôi, thiết tưởng cần lắm những tấm gương sáng trong cuộc đời. Thật vậy, người nghệ sĩ chân chính -  Thanh Tòng được xem là xứng đáng trở nên gương mẫu cho nhiều người trong cung bậc sống hôn nhân gia đình.

“Ra đi để lại cho đời,

Tình Yêu - Gương Sống, người người chúc khen”.

Lm. Đôminicô Nguyễn Khắc Xuyên

 

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

TÌM HIỂU SÁCH GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

Phần III: ĐỜI SỐNG MỚI TRONG ĐỨC KITÔ

ĐIỀU RĂN THỨ III:  HÃY THẢO KÍNH CHA MẸ

Với điều răn thứ tư, chúng ta bắt đầu bước vào phần hai của Mười Điều Răn (GLHTCG số 2197). Đây là điều răn đầu tiên về việc yêu thương người lân cận. Sau Thiên Chúa, chúng ta phải tôn kính cha mẹ. Các ngài nhắc cho chúng ta nhớ rằng chúng ta không tự làm nên chính mình, nhưng sự sống này là do chúng ta đón nhận, vì thế không có quyền sử dụng sự sống cách tự do ích kỷ. Do đó, tôn kính cha mẹ cũng có nghĩa là nhìn nhận vị trí thụ tạo của mình trước mặt Thiên Chúa và tha nhân.

Sở dĩ điều răn tôn kính cha mẹ được đặt ở hàng đầu trong phần hai, là vì một lý do khác nữa: ai tôn kính cha mẹ thì cũng có được thái độ đúng đắn trong những mối tương quan khác của đời sống. Người đó sẽ trân trọng sự sống (điều răn thứ năm), tôn trọng trật tự đúng đắn của tính dục (điều răn thứ sáu) cũng như của cải (điều răn thứ bảy); người đó sẽ nói năng cách có trách nhiệm (điều răn thứ tám). Như thế điều răn thứ tư là nền tảng cho việc thực hành tình yêu thương người lân cận. Đây là điều răn duy nhất có lời hứa kèm theo: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ để được sống lâu dài trên đất mà Chúa ban cho ngươi” (Eph 6,3; Xh 20,12). Phúc lợi của xã hội loài người, cũng như của mỗi cá nhân, tùy thuộc vào sự tốt đẹp của tương quan đầu tiên này, vì nó đặt nền móng cho mọi tương quan khác trong cuộc đời.

Điều răn thứ tư bảo vệ gia đình xét như là tế bào căn bản của xã hội (số 2207). Chính vì thế, việc bảo vệ gia đình như Hội Thánh hiểu, phải chiếm vị trí ưu tiên. Trước khi bàn chi tiết hơn về chủ đề gia đình, nên quan tâm đến hai ý kiến chống đối.

Tại sao điều răn thứ tư chỉ nói đến bổn phận con cái phải tôn kính cha mẹ? Ngày nay chúng ta quen nói đến quyền của con cái, và nếu nói đến bổn phận thì cũng nói đến bổn phận của cha mẹ trước. Tôi cho rằng Kinh Thánh nói đến bổn phận của con cái với cha mẹ trước, vì mọi người trước hết đều là một người con, con của Chúa và con của cha mẹ mình. Thế nên chúng ta là người con trước khi trở thành người cha hay người mẹ, và dù có là người cha, mẹ đi nữa, thì cũng đừng quên rằng mình là con của Chúa và con của cha mẹ đã sinh ra mình. Trật tự tự nhiên này càng sâu sắc hơn khi Đức Kitô dạy rằng chúng ta chỉ có thể vào Nước Trời – nghĩa là đạt đến mục đích của đời sống – nếu chúng ta “trở nên như trẻ nhỏ” (Mt 18,3).

Ý kiến chống đối thứ hai là: Phải chăng Chúa Giêsu đã không “tương đối hóa” điều răn thứ tư sao? “Ai yêu mến cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10,37). Ở nơi khác, Chúa còn nói mạnh hơn: “Ai không ghét cha mẹ mình… thì không thể là môn đệ Thầy” (Lc 14,26). Ở đây, “ghét” không có nghĩa là khinh bỉ, nhưng đúng hơn, câu này muốn diễn tả rằng tiếng gọi của Chúa quan trọng hơn mọi liên hệ gia đình. Thiên Chúa không gạt bỏ bổn phận đối với cha mẹ (x. Mc 7,8-13), nhưng lời kêu gọi hãy bỏ mọi sự lại đằng sau cũng có nghĩa là hãy bước theo Đức Kitô, điều đó quan trọng hơn mọi thứ khác. Chính Chúa Giêsu hằng vâng lời cha mẹ Người (Lc 2,51), tuy nhiên Người cũng làm cho cha mẹ đau khổ khi Người phải vâng theo thánh ý của Cha trên trời (Lc 2,49).

ĐHY Christoph Schưnborn

Nguồn: hdgmvietnam.org

 

TRANG QUỚI CHỨC

NGHỊCH THIÊN GIẢ VONG

Chí sĩ Nguyễn Trường Tộ đã nói một câu nổi tiếng:

Nhất thất túc thành thiên cổ hận

Tái hồi đầu thị bách niên cơ.

Nghĩa là: Một bước sa chân, nghìn đời mang hận

Quay đầu nhìn lại, cơ đồ đã hóa trăm năm.

Câu nói đó ông bà thường hay dùng để khuyên con cháu cố gắng đừng làm gì để về sau phải ân hận. Giờ đây sống trong môi trường đầy biến đổi lúc mưa, lúc nắng, lụt lội, bão tố, hạn hán, bất thường, nóng lạnh như điên mới thấy thấm thía cho những hành vi của con người đối với môi trường mình đang sống.

Một chiếc đồng hồ chính xác là một vật được gia công hoàn hảo từng chi tiết: độ lớn nhỏ của các bánh răng, số răng vị trí… nếu có một chi tiết nào trong các bộ phận ấy bị tổn hại hay sai lệch thì hậu quả nhẹ là chạy không chính xác, nặng hơn là không chạy được nữa. Chính vì thế, người sử dụng nó không thể thay đổi kết cấu hay làm bất cứ điều gì ảnh hưởng đến cấu tạo mà nhà sản xuất đã thiết kế ra nó. Trái lại, chỉ được làm theo những gì nhà sản xuất chỉ dẫn mà thôi. Có thế chiếc đồng hồ ấy mới sinh ích cho người dùng.

Vũ trụ này nói chung hay trái đất chúng ta đang sống nói riêng cũng thế chúng là sản phẩm hoàn hảo cho Thiên Chúa tạo nên, chúng có cấu tạo và quy luật vận hành của chúng. Con người chỉ là người sử dụng, vì thế con người phải theo quy luật đó như người ta sử dụng một chiếc đồng hồ vậy. Bẻ nạng chống trời thì không thể.

Khi dựng nên vũ trụ này Thiên Chúa đã tạo nên đủ mọi vật trên trời dưới đất, mỗi loại có những tác dụng của mình và chúng là những thành phần không thể thiếu trong toàn thể và chúng có tác động hổ tương với nhau. Đó là quy luật mà Thiên Chúa đã đặt vào và nếu chúng ta đọc Kinh thánh thì Ngài chỉ trao cho con người “quyền sử dụng” chứ không trao quyền thay đổi “ thiết kế”

Thế nhưng con người đã không để ý đến điều này. Con người đã vô tình và cả cố ý làm hỏng mọi sự khi phá rừng, ngăn sông, ô nhiễm nguồn nước, làm hỏng tầng Ozone….hậu quả thì hiện nay bất cứ ai trên trái đất này cũng đã đang và sẽ gánh lấy. Các nhà lãnh đạo trên thế giới đang nỗ lực khác phục những hậu quả do chính mình gây ra. Thế nhưng, liệu có được chăng và nếu như có thể thì tương lai còn xa lắm, phải tính bằng thế kỷ !

Phải chăng điều này đã được nói đến trong sách Sáng thế :

ĐỨC CHÚA phán: "Ngươi đã làm gì vậy? Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta! Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em ngươi, do tay ngươi đổ ra. Ngươi có canh tác đất đai, nó cũng không còn cho ngươi hoa màu của nó nữa. Ngươi sẽ lang thang phiêu bạt trên mặt đất." (St 4,10-12)

Có những lỗi lầm chúng ta có thể bù đắp nhưng cũng có những hậu quả vượt quá khả năng của chúng ta. Ước gì mỗi người chúng ta ghi nhớ điều này để bớt đi những việc làm mà hậu quả là “vạn kiếp bất phục”.

Lm Antôn Lưu Thanh Tâm

 

SỐNG ĐẸP

Cái Sai Của Chúng Ta

Trong tương quan với người khác,

Cái sai của chúng ta là lúc nào cũng cho mình đúng. Ừ thì cũng có lúc mình đúng nhưng điều đó đâu có nghĩa là chẳng bao giờ ta sai. Nói lời nào, đưa ra quyết định gì, dĩ nhiên ta luôn có lý lẽ cho nó, nhưng luôn cho mình là trọng tâm của chân lý để rồi buộc người khác phải luôn nghe mình, làm theo những gì mình muốn là một cái sai vô cùng trầm trọng. Cho mình đúng, ta bịt tai trước người khác, ta phủ nhận mọi điều khác. Ta cãi chày cãi cối để chứng minh mình đúng. Dù có khi biết rõ là sai, ta vẫn cứ cố gắng lấp lem, bẻ cong chân lý, lôi kéo chân lý về phía mình.

Cái sai của chúng ta là hay vội vàng kết án người khác. Ta kết án ngay cả khi chưa biết rõ trắng đen thực hư câu chuyện thế nào. Ta kết án chỉ vì người khác không hành xử theo những đòi hỏi và tiêu chuẩn của bản thân. Thêm vào đó, một thái độ vội vàng làm cho những phán đoán của chúng ta trở nên thiếu cơ sở. Chẳng biết từ đâu, ta lại tự cho mình vị thế của một quan toà, đem người khác vào vòng suy diễn của ta rồi gán cho họ những nhãn mác của riêng ta. Con người xa cách nhau có lẽ cũng vì như thế.

Cái sai của chúng ta là chỉ biết xăm xoi người khác mà thiếu nhìn đến bản thân. Ta luôn đủ lý do để bao che và bào chữa cho những sai lầm to lớn của mình, chứ khi ít nào chịu thông cảm cho một lỗi nhỏ li ti của người khác. Ta yêu bản thân mình, phải, đó là điều tốt, nhưng yêu đến mức làm ngơ những điểm tối của bản thân là điều không thể chấp nhận. Phải chăng do đôi mắt luôn hướng về phía trước nên ta chỉ nhìn thấy người khác, chứ không thể nhìn ngược lại bản thân? Thử một lần nào đó soi gương chính mình, ta sẽ thấy những điều ta không thích nơi ngươi khác, hoá ra lại là phản chiếu những khuyết điểm của chính ta.

Cái sai của chúng ta là luôn ảo tưởng, xếp mình ở vị trí trung tâm của vũ trụ, luôn muốn người khác dòm ngó đến mình, mà quên mất rằng giữa cuộc đời này, ta chẳng là gì và suốt dòng chảy của lịch sử, mỗi chúng ta chỉ là những chấm nhỏ tạo thành. Nếu cuộc sống này là một câu chuyện dài thì ai trong chúng ta cũng là vai chính và đồng thời cũng là vai phụ. Ta có một truyện đời của mình nhưng người khác cũng có cái của riêng họ. Có là trung tâm của vũ trụ hay không dường như không phải do ta tự quyết định. Thử hỏi, giữa thế giới này, có bao nhiêu người biết đến ta, rồi trong số đó, có bao nhiêu người thân thiết với ta, có bao nhiêu người xem ta là quan trọng với họ, có bao nhiêu người khóc cho sự ra đi của ta, có bao nhiêu người vì sự biến mất của ta mà cũng không còn tồn tại. Ít lắm, phải không?

Nếu có một ngày nào đó, khi ta bị tách biệt ra khỏi mọi người, phải sống cô đơn cô độc giữa một chốn hoang vu hay một nơi xa lạ, ta sẽ thấy được niềm hạnh phúc lớn lao khi có được ai đó sống bên cạnh mình, trò chuyện với mình. Những ai sống tha hương nơi đất khách quê người hẳn cũng có kinh nghiệm tương tự khi bất chợt trên đường phố nghe ai đó nói ngôn ngữ của mình, bằng giọng nói thân quen. Sao gần gũi và thân thương đến lạ! Tình người vốn dĩ là cái gì đó thật cao quý và chẳng điều gì có thể so sánh hay thay thế được. Vậy mà dường như lắm lúc ta không đủ trân trọng nó. Mất đi rồi, ta mới thấy hối tiếc. Hai con chó không quen biết nhau bị nhốt chung một chuồng. Ban đầu chúng còn cắn xé nhau, tranh giành nhau miếng ăn, nhưng sau đó thì trở nên thân thiết. Hai con người sống chung với nhau, ban đầu thì lịch sự đối đãi tốt với nhau, nhưng dần dần lại trở nên xa cách, thậm chí còn là kẻ thù không đội trời chung với nhau. Tại sao vậy?

Con người trở nên cao cả hay nhỏ mọn hệ ở việc người đó có sống chữ “tình” hay không. Đánh mất đi đặc tính vĩ đại này, con người bị xem là “không bằng loài cầm thú”. Trong cái tình ấy, có một chút bao dung, có một chút thứ tha, có một chút thương xót. Trong cái tình ấy, còn có cả sự hy sinh, nhẫn nhịn, chia sẻ. Tránh sao được những lần đụng chạm nhau, xung đột nhau vì những lợi ích này kia, nhưng giá như con người biết đặt chữ “tình” lên trên hết, hẳn là họ sẽ dễ dàng vượt qua được tất cả những hiềm khích và chia rẽ. Đó là bởi vì khi người ta sống bằng tình nghĩa, người ta không dùng quá nhiều lý trí để tính toán thiệt hơn cho bản thân, người ta đủ can đảm để im lặng nhằm tránh những cuộc cãi vả không cần thiết, người ta biết nhìn lại bản thân và dành một sự tôn trọng cho người khác.

Hạnh phúc của chúng ta tỉ lệ thuận với mức độ ta mở ra với thiên nhiên vạn vật và người khác. Càng mở ra, ta càng thấy mình cần phải nhỏ lại để được lớn lên. Để giữ gìn tình cảm giữa con người với nhau, tất cả phải cùng chung tay, tất cả phải có lúc chịu chút thiệt thòi và có khi phải chấp nhận lùi bước. Đừng trượt đi quá dài trong con đường cố chấp và bảo thủ, vì cái sai của chúng ta chính là từ chỗ này mà phát xuất ra, làm huỷ hoại những tương quan tốt đẹp của chúng ta và làm héo úa chính cuộc sống của chính ta nữa.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

 

HỎI ĐÁP MỤC VỤ

Nên Có Thái Độ Nào Đối Với Chúa Thánh Thần?

Giáo lý chân thực không phải là việc tuân giữ nghiêm ngặt lề luật bị đóng khung bởi ý thức hệ, nhưng là mặc khải từ nơi Thiên Chúa mà chúng ta kiếm tìm từng ngày nhờ việc mở lòng cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Đó là lời Đức Thánh Cha chia sẻ trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện thánh Marta.

Trong các bài đọc sách thánh ngày hôm nay (06.10.2016) chúng ta gọi Chúa Thánh Thần là “quà tặng tuyệt vời từ Chúa Cha”. Chúa Thánh Thần là sức mạnh làm cho Giáo Hội dũng cảm đi ra, vì Ngài dẫn dắt Giáo Hội đi về phía trước. Chúa Thánh Thần là “ngôi sao chỉ đường của Giáo Hội.” Không có Ngài, thì chỉ còn “đóng kín và sợ hãi.” Có ba thái độ mà chúng ta có thể có đối với Chúa Thánh Thần.

Thái độ thứ nhất: Bỏ quên Chúa Thánh Thần

Thái độ thứ nhất là điều mà thánh Phaolô nhắc nhở tín hữu Galat, khi họ tin rằng, mình được trở nên công chính nhờ tự sức tuân giữ lề luật, chứ không nhờ Chúa Giêsu là Đấng ban ý nghĩa cho lề luật. Do đó họ quá cứng nhắc và trở thành những người mà Chúa Giêsu gọi là giả hình.

Họ giữ luật mà bỏ qua Chúa Thánh Thần. Đừng bỏ quên sức mạnh cứu chuộc của Chúa Kitô đến từ Chúa Thánh Thần! Đúng là có những Điều Răn và chúng ta phải tuân giữ các Điều Răn, nhưng chúng ta luôn tuân giữ nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần, Đấng là quà tặng vĩ đại và Chúa Cha và Chúa Con ban cho chúng ta. Nhờ Chúa Thánh Thần mà chúng ta hiểu được Lề Luật. Nhưng đừng thu gọn Chúa Thánh Thần và Chúa Con lại chỉ trong những luật lệ. Vấn đề là các tín hữu Galat thời ấy đã bỏ Chúa Thánh Thần qua một bên để chỉ còn việc giữ luật. Họ đóng con mắt tâm hồn lại, và chỉ còn biết là phải làm việc này, phải làm việc kia. Đôi khi chúng ta cũng bị rơi vào cám dỗ ấy.

Tại sao họ lại gắn chặt và bị đóng khung bởi những ý thức hệ như thế? Thánh Phaolô nhắc nhở mạnh mẽ: “Hỡi những người Galat vô tâm trí, ai đã mê hoặc anh em như thế?” Những ai rao giảng về các ý thức hệ, thì cái gì cũng đúng. Họ bị đóng khung vào cái gọi là: tất cả đều rõ ràng! Nhưng hãy nhìn xem, mặc khải của Thiên Chúa không rõ ràng sao? Mặc khải của Thiên Chúa là mỗi ngày một hơn, hơn mãi, trong mọi cách thế. Điều này có rõ không? Rất rõ! Đối với những ai nghĩ rằng, mình nắm trọn chân lý trong tay, thì thánh Phaolô gọi họ là “những kẻ ngốc”.

Thái độ thứ hai: Làm phiền lòng Chúa Thánh Thần

Thái độ thứ hai mà chúng ta có thể có đối với Chúa Thánh Thần, là làm phiền lòng Ngài, khi chúng ta không để cho Ngài truyền cảm hứng, không để cho Ngài thúc đẩy chúng ta tiến bộ trong đời sống Kitô hữu. Khi đó chúng ta không để cho Ngài nói với chúng ta. Khi ấy chúng ta trở nên thờ ơ, trở nên những Kitô hữu tầm thường, vì Chúa Thánh Thần không thể thực hiện những tác động tuyệt vời của Ngài nơi chúng ta.

Thái độ thứ ba: Mở lòng ra với Chúa Thánh Thần

Thái độ thứ ba là mở ra với Chúa Thánh Thần và để Ngài dẫn chúng ta về phía trước. Đó là những gì các Tông Đồ đã làm: họ can đảm trong ngày Lễ Ngũ Tuần. Họ không còn sợ hãi vì họ mở ra để Chúa Thánh Thần hoạt động. Để hiểu và đón nhận những Lời của Chúa Giêsu, chúng ta cần mở lòng cho Chúa Thánh Thần. Khi một người mở lòng với Chúa Thánh Thần, thì tựa như chiếc thuyền buồm no gió tiến về phía trước, tiến mãi. Nhưng chúng ta cần cầu nguyện để có thể mở ra với Chúa Thánh Thần.

Giờ đây chúng ta có thể tự hỏi chính mình, giây phút nào trong ngày, tôi đã bỏ quên Chúa Thánh Thần? Và tôi có biết điều ấy khi tôi đi lễ Chúa Nhật không, hay chỉ đơn giản đi là đi thôi? Thứ hai, cuộc sống của tôi có phải là cuộc sống nửa vời và buồn tẻ, thiếu sức sống, trì trệ và làm phiền lòng Chúa Thánh Thần không? Sau cùng, hãy mở lòng mình, mở cuộc đời mình ra, để nguyện xin Chúa Thánh Thần ban cho mình niềm vui của Tin Mừng, để Ngài giúp mình hiểu được lời dạy của Chúa Giêsu, để mình không bị đóng khung, không còn ngốc nghếch, nhưng là chân thực? Điều ấy giúp chúng ta hiểu được đâu là điểm yếu của chúng ta, đâu là điều làm phiền lòng Ngài, và để Ngài dẫn chúng ta tiến về phía trước tới gần Chúa Giêsu, và để Ngài dạy cho chúng ta con đường cứu độ của Chúa Giêsu.

Chuyển ngữ: Tứ Quyết, SJ     

(Radio Vaticana)

 

SỐNG LỜI CHÚA

CHÚA NHẬT XXVII THƯỜNG NIÊN

Đức Mẹ Mân Côi

Lời kinh Mân Côi - Lời kinh cuộc đời.

Lc 1, 26 - 38

Lẽ ra lễ Đức Mẹ Mân Côi sẽ được mừng vào ngày 7.10, thế nhưng HĐGMVN quyết định mừng trọng thể Đức Mẹ Mân Côi vào Chúa nhật hôm nay, để làm sao cho mọi tín hữu có thể tham dự để tôn vinh người Mẹ thiên quốc của mình. Lễ Đức Mẹ Mân Côi gắn liền với 1 biến cố lịch sử đã xảy ra trong GH. Năm 1571, trước sức mạnh đe dọa của Hồi Giáo trên phần đất nước Ý, Đức Giáo Hoàng Piô V đã kêu gọi con cái mình chung sức bảo vệ. Các vua chúa Công Giáo Châu Âu đáp lời. Đạo binh Thánh Giá lên đường ra tiền tuyến. Hậu phương yểm trợ bằng Kinh Mân Côi. Ngày 7 tháng 10, kết thúc binh lửa ở vịnh Lépante, với phần thắng nghiêng về phía Công Giáo. Người ta mở lễ ăn mừng. Mẹ Mân Côi từ đó có thêm danh hiệu là Mẹ Chiến Thắng.

Trải qua các  triều đại Giáo hoàng, đến thời của Đức Giáo hoàng Piô X, ngài đã ấn định mừng lễ Mẹ Mân Côi vào ngày mùng 7 tháng 10 như hiện nay. Như vậy, mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi là để chúng ta thấy sức mạnh lời bầu cử của Đức Mẹ qua lời kinh Mân Côi. Với lời kinh Mân côi biết bao lần Gh đã dẹp được những bè rối, biết bao người tội lỗi đã được ăn năn trở lại, biết bao nhiêu người đau khổ đã tìm được sự bình an.

Kinh Mân Côi là hình thức đạo đức bình dân, mà bất cứ người công giáo nào cũng có thể đọc được. Và bởi vì quá quen thuộc cho nên đôi lúc chúng ta chưa thật sự ý thức được giá trị của lời Kinh Mân Côi, đôi lúc chúng ta nghĩ rằng việc lần chuỗi là việc của những người già, những người bình dân mà thôi, nhưng thật ra lời kinh này cũng được yêu mến và thực hành bởi các nhà khoa học và những triết gia công giáo, trong số những nhân vật nổi tiếng, phải kể đến Louis Pasteur, Pacal, Andre Ampere…họ là những là khoa học nhưng cũng là những con người cầu nguyện không ngừng với kinh Mân Côi.

Trong suốt bề dày của lịch sử, nhiều vị Giáo Hoàng đã cổ võ việc đọc kinh Mân Côi và đã có những giáo huấn rất sâu sắc về hình thức cầu nguyện này. Đức Thánh Cha Lêô XIII đã dành trên mười tông thư và văn kiện để nói về việc lần hạt Mân Côi. Trong một văn kiện, ngài đã viết: “Muốn được Thiên Chúa cứu chữa cho khỏi những cơn khó khăn của thời đại ngày nay, ta nghĩ không có gì hiệu nghiệm hơn là việc tôn sùng Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Vậy ta khuyên các giáo hữu, hãy tập thói quen đạo đức lần hạt Mân Côi hoặc công khai hoặc trong gia đình”.

Tại sao lời kinh Mân Côi lại có sức hấp dẫn kỳ diệu như thế? Thưa, bởi vì kinh Mân Côi chính là quyển Tin Mừng thu gọn. Kinh Mân Côi giúp ta gắn bó với Chúa. Hai mươi mầu nhiệm diễn tả cuộc đời của Chúa Cứu thế, đồng thời cũng phác họa đời sống chúng ta. Cuộc đời chúng ta được dệt nên bằng một chuỗi những vui buồn, sướng khổ. Những ai kiên trung cậy trông vào Chúa trong mọi biến cố vui buồn ấy, sẽ trở thành môn đệ chân chính của Người. Chính Đức Mẹ đã trung thành lần “chuỗi cuộc đời” một cách hoàn hảo nhất. Từ lúc Mẹ thưa “Xin vâng” cho đến khi đứng dưới chân thập giá và vui mừng gặp Chúa phục sinh, đó là tràng “chuỗi cuộc đời” mà Mẹ đã thực hiện bằng tất cả lòng tin yêu và phó thác.

Đọc kinh Mân Côi là chúng ta chiêm ngắm và suy niệm cuộc đời của Chúa Giê-su để chúng ta đón nhận giáo huấn của Chúa và thực thi những gì Người dạy. Những lời kinh “kính mừng” gắn bó chúng ta với Đức Mẹ, để nhờ Mẹ mà chúng ta có thể nên môn đệ trọn lành của Chúa Giê-su.

Trong cuộc đời dương thế, Mẹ luôn theo sát những bước đường của Chúa đi. Khi suy ngắm hai mươi mầu nhiệm Mân Côi, ta thấy hiện lên hình ảnh của Đức Mẹ. Mẹ ở đó để chia sẻ những đau thương của Chúa. Mẹ cũng ở đó để suy niệm những mầu nhiệm Cứu độ trong lòng. Hôm nay, Đức Mẹ cũng đang cùng đi với chúng ta trong cuộc đời đầy gian truân thử thách này. Những mầu nhiệm Vui, Sáng, Thương, Mừng phản ánh cuộc đời Chúa Cứu Thế. Những mầu nhiệm này cũng đang diễn tả cuộc đời chúng ta. Quả vậy, cuộc sống trần gian này là sự đan xen giữa buồn và vui, giữa thương khó và hân hoan, giữa nụ cười và nước mắt. Khi biết đón nhận với tâm tình của Chúa Giêsu và của Đức Mẹ, chúng ta đang phác hoạ lại hình ảnh của Đấng Cứu Thế qua cuộc đời mình. Đó là điều mà một số tác giả đã diễn tả cách văn chương: “mỗi người tín hữu là một quyển Tin Mừng sống động, không phải là bằng giấy mực, nhưng bằng xương bằng thịt, được thấm nhuần và hòa quyện giữa đau khổ và hân hoan của cuộc sống”. Mỗi khi đọc lời kinh Kính Mừng, chúng ta hãy đưa cuộc đời của mình vào lời kinh, có thể đó là niềm vui hay nỗi buồn, hạnh phúc hay đau khổ, để cùng với Đức Mẹ, chúng ta đón nhận tất cả bằng sự tin tưởng và yêu mến. Và khi đọc kinh Mân Côi như thế chắc chắn chúng ta sẽ tìm được sự bình an.

Vì tầm quan trọng của kinh Mân Côi, mà những lần hiện ra tại Lộ Đức và Fatima, Đức Mẹ khuyến khích mọi người hãy lần hạt để đem lại hòa bình cho thế giới. Lịch sử cho chúng ta thấy biết bao  phép lạ đã xảy ra cho thế giới, cho Giáo hội và cho mỗi người chúng ta nhờ lời lời Kinh Mân Côi. Do đó, tháng Mân Côi là dịp để chúng ta nhắc nhở nhau luôn biết chạy đến với người Mẹ thiên quốc của chúng ta. Ngày xưa dưới chân thập  giá Chúa đã trao phó thánh Gioan cho Mẹ. Qua Gioan, Mẹ Maria đã nhận làm mẹ của cả nhân loại. Để rồi từ đó Mẹ luôn đồng hành với chúng ta, cùng chia những vui buồn, sướng khổ với chúng ta như Mẹ đã từng chia sẻ với Người Con của Mẹ.

Xin cho chúng ta luôn biết siêng năng đến với Chúa với Đức Mẹ qua lời kinh Mân Côi mỗi ngày, để lời kinh này giúp chúng ta hoán cải làm hoà với Thiên Chúa và với nhau. Đồng thời xin cho chúng ta luôn sống gắn bó với Mẹ, luôn cậy dựa vào Mẹ để nhờ Mẹ chúng ta luôn cảm nhận đựơc sự bình an vì có Chúa và Mẹ luôn đồng hành với chúng ta trong cuộc đời.

Lm Philip Nguyễn

 

CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN

LÒNG BIẾT ƠN

Lc 17, 11 - 19

Trong một chuyến bay từ Rôma về Nữu ước, Đức Tổng Giám mục Fulton Sheen chăm chú nhìn cô tiếp viên hàng không đang đi lại phục vụ quý khách. Thấy cử chỉ lạ của Đức Tổng Giám mục, cô tiếp viên mạnh dạn đến gần và hỏi:

-        Thưa Đức cha, có chuyện gì mà Đức cha nhìn con như thế?

Vị Tổng Giám mục nhoẻn miệng cuời rồi đáp:

-        Vì đôi mắt của con rất đẹp!

Cô gái liền hỏi lại:

-        Vậy con phải làm gì để cám ơn Chúa đây?

Giám Mục trả lời cô:

-        Con à! Chúa đã lấy tất cả sắc đẹp của từng người phong trong trại cùi Di Linh mà đem tặng cho con. Vậy con hãy đến đó chăm sóc cho họ mà đền đáp ơn Chúa đi.

Quả thật, chỉ ít lâu sau người con gái xinh đẹp này đã ngày đêm tận tụy băng bó những vết thương lở loét cho các bệnh nhân phong, tại trại cùi Di Linh dưới lớp áo dòng nữ tu.

Phong cùi là một bệnh nan y khó trị, ai cũng ghê tởm và run sợ nếu mắc phải bệnh này. Vào thời Chúa Giêsu nó còn khoác vào người bệnh nỗi nhục nhã trong tâm hồn, vì người ta cho rằng họ là những người bị Thiên Chúa phạt.

Thế mà, Tin mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu phán có một lời thì vết thương thể xác và nỗi đau trong tâm hồn bao năm đè nặng bỗng tan biến hết. Căn bệnh mà họ cứ tưởng phải gánh chịu cả đời, thì nay đã được chữa lành. Chỉ nhờ quyền năng và lòng thương xót của Chúa mà họ như đã chết nay được hồi sinh, niềm vui rộn rã như vỡ òa trong tim.

Trớ trêu thay trong mười người hưởng ơn chữa lành vô cùng lớn lao ấy, chỉ có một người biết dâng lời tạ ơn, mà người ấy lại là người ngoại đạo. Còn những người vẫn tự hào là dân Thiên Chúa, dân riêng Chúa chọn lại sống vô ơn.

Chúa Giêsu buồn và nói: “Không phải cả mười người được sạch cả sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này”. Sở dĩ Ngài xem trọng lòng biết ơn cũng là vì ích lợi của kẻ được ơn mà thôi. Người Samari trở lại tạ ơn Chúa vì đã nhận ơn phần xác, thì Ngài lại ban thêm cho ơn phần hồn là củng cố niềm tin và xác định tư cách tôn giáo của anh. Ngài nói: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Như thế, cám ơn lại là cơ hội để nhận được thêm ơn.

Cả cuộc sống Chúa Giêsu là “bài ca tạ ơn”. Ngài tạ ơn Cha trước khi cho Ladarô sống lại, trước khi làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều, trước khi lập phép Thánh Thể. Ngài không chỉ là mẫu mực về lòng biết ơn mà còn dạy ta thể hiện nó: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Kể từ đó, mỗi thánh lễ Giáo hội cử hành được gọi là Thánh lễ Tạ ơn.

Thánh Phaolô luôn dâng lời tạ ơn lên Chúa: “Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Ngài đã ban cho anh em nơi Đức Kitô”. Ngài cám ơn tất cả những ai giúp ngài trong công việc mục vụ: “Quà anh em tặng cho tôi đó, chúng khác nào hương thơm, lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa và được Ngài chấp nhận”. Như vậy, câu ngạn ngữ của người Anh nói rất chí lý: “Cho người có lòng biết ơn chính là cho vay”.

Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống có tình có nghĩa, luôn thể hiện lòng biết ơn, luôn quý trọng những hồng ân mà Chúa đã thương ban, và những gì anh chị em đã làm cho ta.

Lm Phêrô Nguyễn Thanh Phong

 

CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN

Cầu Nguyện Liên Lỉ

Lc 18, 1 - 8

Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng đã định nghĩa về việc cầu nguyện như sau: “Đối với tôi, cầu nguyện là hứng khởi của tâm hồn, là cái nhìn đơn sơ hướng về trời, là lời kinh tri ân và yêu mến giữa cơn thử thách cũng như lúc hân hoan”. Ta thấy trong lời cầu nguyện của Thánh nữ có tất cả các tâm tình của người con dâng lên Cha, đó là khiêm nhường, khao khát, phó thác, kiền trì và cảm tạ. Bài Tin Mừng hôm nay nói về dụ ngôn bà goá nghèo khổ và ông quan toà bất lương. Đức Giêsu đã đưa ra hai hình ảnh trái ngược nhau; một bên là ông quan tòa quyền uy chức trọng, kiêu ngạo, bạo ngược vì “ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì”. Còn bà góa là một người nghèo, không có địa vị trong xã hội, bị áp bức, tứ cố vô thân, không có ai nâng đỡ. Vì lòng kiên trì, ông quan toà cuối cùng cũng phải nhượng bộ với bà. Vậy khi cầu nguyện, chúng ta phải bắt đầu với tâm tình nào? Với lòng kiêu hãnh và ý riêng ta, hay với tâm tình khiêm nhường và thống hối thẳm sâu? (Tv 130,14). Khi cầu nguyện chúng ta đã có được những tâm tình căn bản của Thánh nữ Têrêsa hay của bà góa hôm nay chưa? Qua hình ảnh bà góa trong dụ ngôn, chúng ta dễ dàng nhận ra được khi cầu nguyện cần có các tâm tình sau:

Cầu nguyện là bổn phận và quyền lợi, bà goá này hoàn toàn ý thức về quyền lợi của bà, làm sao để cho ông thẩm phán mở phiền toà, ông này rất ngang ngược ”Ông không kính sợ Thiên Chúa cũng chẳng kính nể người ta”. Nhưng vì quyền lợi bà phải đến đòi, đến gặp ông quàn tòa để yêu cầu xét xử cho bà. Vì thế, cầu nguyện không phải là ép buộc mà là bổn phận người Kitô hữu phài có, đó là tâm tình con với Cha mình, chuyện vãn với Cha mọi lúc mọi giờ, vì cầu nguyện cũng có thể được định nghĩa là nâng tâm hồn lên với Chúa hay là nói chuyện với Chúa. Tâm tình đầu tiên mà bà góa có được chính là thái độ khiêm nhường. Bà biết mình yếu đuối cô thân, cô thế, bị người ta ức hiếp cũng không thể bảo vệ cho mình được mà phải nhờ người khác bảo vệ. Một thái độ mà mỗi người chúng ta cần phải có khi cầu nguyện, đó là thái độ khiêm nhường vì con người chỉ là thụ tạo là không trước mặt Thiên Chúa, con người chỉ là kiếp tro bụi, chúng ta chỉ có thể đứng vững hay mạnh mẽ khi biết nương tựa vào Chúa, như thánh Augustinô đã từng khẳng định: “Trước mặt Thiên Chúa con người chỉ là kẻ van xin”. Tuy ông quan toà mang tiếng là bất tlương, nhưng bà goá hôm nay không thể nhờ được ai ngoài ông ta. Chỉ có ông quan toà mới là niềm hy vọng duy nhất, là nơi cậy trông. Bà hoàn toàn phó thác cho ông quan tòa. Chúng ta cũng thế, chỉ khi nào biết phó thác vào bàn tay Chúa như một bé thơ nằm trong lòng bàn tay mẹ hiền, thì lúc đó Thiên Chuá sẽ vỗ về an ủi, bảo vệ chúng ta. Vậy chúng ta hãy biết phó thác đường đời cho Người.

Trong đời sống cầu nguyện, nhiều người thấy thất vọng, chán nãn, vì xin hoài mà không được, cầu mãi mà không cho, nên không cần cầu nguyện nữa. Thái độ đó, trái ngược với hình ảnh kêu xin của bà góa hôm nay. Bà phải chịu đựng cảnh không được chấp nhận một thời gian khá lâu, nhưng vẫn không chán nản, không sờn lòng, cuối cùng với lòng khao khát với sự kiên trì bà đã được toại nguyện. Thật vậy, Thiên Chúa không bao giờ làm ngơ trước những lời kêu xin của con người. Đôi lúc lời cầu xin của chúng ta không được Thiên Chuá nhậm lời, những lúc đó chúng ta có cảm giác như Thiên Chúa ngoảnh mặt làm ngơ trước những đòi hỏi của mình. Không phải thế, chỉ vì ta mới nhìn Thiên Chúa bằng cặp mắt hạn hẹp của người đời, bằng suy nghĩ hạn hẹp cá nhân. Trong khi Thiên Chúa quan phòng yêu thương, Ngài nhìn thấy tất cả những nhu cầu của chúng ta nhưng vì những lời cầu xin của chúng ta không có lợi cho phần rỗi của mình hoặc tha nhân hay chúng ta vẫn chưa đủ kiên nhẫn phó thác.

Vậy khi cầu nguyện, chúng ta hãy noi gương bà góa hôm nay kiên trì không thất vọng, không nản lòng, không lơ là buông thả. Thay vì chán nản, vì lời cầu nguyện khô khan vô vọng thì hãy phấn đấu chống lại mệt mỏi, quyết tâm chiến đấu khi cầu nguyện như một nhu cầu thiết yếu phải làm.

Linh mục Pp Phạm

 

CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN C

Khánh Nhật Truyền Giáo

Ơn Gọi Truyền Giáo

Mt 28,16 - 20

Khi còn học trên Đại Chủng Viện, tôi không thích mấy môn truyền giáo học. Vì không chỉ là những trang sách dài dòng, những con số và tư liệu mang tính lịch sử. Và đặc biệt tôi không thể nào có kinh nghiệm được việc truyền giáo là thứ gì. Vì tôi chưa bao giờ trải qua công việc đó. Tôi chỉ thích một điều là thỉnh thoảng cha giáo cho xem các loại phim có chủ đề truyền giáo. Tôi ngưỡng mộ những nhân vật anh hùng đó. Mọi sự dừng lại ở những thước phim đó.

Bây giờ làm linh mục, tôi hiểu nhiều hơn và cảm nhận được việc truyền giáo không đơn thuần là nhiệm vụ của một tín đồ của một tôn giáo. Hơn tất cả những yếu tố mang tính bổn phận, với người Kitô, truyền giáo là một ơn gọi từ Thiên Chúa. Ơn gọi này không dành đặc quyền cho bất kỳ đối tượng nào.

Truyền giáo là một mệnh lệnh

Đọc Tin Mừng theo thánh Matthew, chúng ta hiểu rõ ràng; Thiên Chúa đã ủy thác sứ vụ truyền giáo cho các tông đồ, những người theo Đức Kitô. Chúa Giêsu yêu cầu mọi Kitô hữu chia sẻ Tin Mừng, tức sứ điệp về cái chết và sự phục sinh của Người, điều đã chiến thắng cái chết và sức mạnh của tội lỗi.  “Hãy ra đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho chúng con; và Thầy sẽ luôn ở với chúng con, mãi cho khi kết thúc thời gian”(Mt 28,19-20).

Lần hiện ra này Chúa Giêsu tuyên bố trao sứ mạng cho Hội Thánh qua các tông đồ. Như vậy, Hội Thánh phải dùng quyền đó nhân danh Người làm cho muôn dân trở thành môn đệ. Mệnh lệnh này ban đầu đúng là giành cho các môn đệ, nhưng trải qua kinh nghiệm sống dần dần Hội Thánh hiểu hết ý nghĩa lệnh truyền này mở rộng cho mọi Kiô hữu. Hơn một mệnh lệnh, Hội Thánh xác định truyền giáo còn là ơn gọi. Chúa mời gọi cá nhân chia sẻ giá trị Tin Mừng mà không phải khép mình lại như buổi ban đầu.

Nhà truyền giáo là ai?

Trước đây tôi hiểu nhà truyền giáo phải là người rời bỏ quê hương xứ sở, bỏ công ăn việc làm ổn định để đi đến một nơi xa xôi giảng Phúc Âm và thiết lập lập cộng đoàn ở đó. Tuy vậy, đó là  một cài nhìn khá đơn sơ. Ngày nay, các Kitô hữu Châu Phi truyền giáo cho người Hồi ở Trung Đông. Các sinh viên đại học sử dụng mùa hè để đi dạy tiếng Anh cho các vùng Châu Á. Một gia đình ở Mỹ kết bạn và trở thành chứng nhân Tin Mừng với tất cả sinh viên quốc tế. Một tài xế xe tải giúp cứu trợ những nạn nhân của các thảm họa thiên nhiên trên toàn thế giới, nhu cầu vật chất lẫn tinh thần. Tất cả họ là những nhà truyền giáo.

Như vậy, để được gọi là nhà truyền giáo thì không mấy khó khăn. Chúng ta sẽ ở bất kỳ hoàn cảnh nào, với công việc gì với một ý thức đó là sứ vụ Thiên Chúa muốn ủy thác cho tôi, để qua đó tôi trở thành chứng nhân của Tin Mừng thì đã là nhà truyền giáo. Nhà truyền giáo vui mừng đáp trả tiếng gọi của Chúa: “Này con đây, hãy sai con đi” (Is 6,8b). Theo đó, mỗi cá nhân thể hiện nét đặc thù của mình, theo sở trường mà Chúa phú bẩm cho. Nên không có một mẫu số chung cho các công việc của các người truyền giáo. Ai nấy theo cách của mình. Thí dụ, Phaolo được sai đi truyền giáo cho dân ngoại chưa biết Tin mừng và Phêrô đi tới người Do thái (Gl 2,8). Vì vậy, có người rao giảng ngoài phố, xây dựng nhà thờ, nghiên cứu Kinh Thánh, giảng dạy tiếng Anh, các dự án cứu trợ, nhà nuôi dưỡng trẻ mồ côi, câu lạc bộ trẻ em, leo núi, dạy đọc viết, phát sóng phát thanh... Vấn đề là làm cho người khác trở thành những tông đồ chứ không phải là “chiêu dụ” người ta trở thành những người tin non nớt.

Tại sao Kitô hữu truyền giáo? 

1. Đi theo lời mời gọi của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã gọi tông đồ Phaolô, “để chỉ định ngươi làm đầy tớ và chứng nhân về những điều ngươi đã thấy, cũng như những điều ta đã hiện ra và tỏ ra cho ngươi biết. Ta sẽ cứu ngươi thoát khỏi dân do thái và dân ngoại: Ta sai ngươi đến với chúng để mở mắt cho chúng, khiến chúng rời bóng tối mà trở về ánh sáng, thoát khỏi quyền lực satan mà trở về cùng Thiên Chúa, bởi việc tin vào tôi họ sẽ nhận được sự tha thứ tội lỗi và phần gia tài giữa những người được thánh hiến” (Cv 26,16-18).

2. Trách nhiệm chia sẻ điều tốt lành. Nhà truyền giáo loan báo cho con người nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Trong lời sấm của Daniel (7,14) về Con Người: “Người được ban tặng quyền bính, vinh dự, vương triều. Tất cả các dân các nước, các tiếng nói phải phụng sự Người”. Nhận ra Chúa là Chúa tể lãnh đạo cả trên trời dưới đất bằng đường lối công minh nhân lành; mọi sự tốt lành của chúng ta là do bởi Chúa. Để khi nhận biết vinh quang của Chúa, con người kính sợ, tin cậy và yêu mến Người. Hơn nữa, dạy con người biết chân lý tình thương của Chúa là một con đường đem lại hạnh phúc bền vững nhất. Nhờ ánh sáng Chúa soi đường mà muôn dân nước biết tìm kiếm sự thật, công bình và thuận hòa. “Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái, họ không còn vung kiếm đánh nhau và cũng thôi học nghề chinh chiến” (x. Is 2,3-4). Chính sự thiện hảo của Thiên Chúa là nguyên nhân “buộc lòng” những ai đã đắc thủ được phải chia sẻ cho người khác. Bởi Kitô hữu hiểu được, ngoài Chúa ra không còn Chúa nào khác và ngoài Chúa ra con người không thể tìm được hạnh phúc ở nơi đâu khác. Truyền giáo không là quảng bá một con người có phong cách sống đẹp nhưng mở ra cánh cửa cho những ai đang chờ đợi một con đường, sự thật và sự sống được tìm thấy trong Chúa Kitô (Rm 15,20).

Thái độ của nhà truyền giáo

Đức Giêsu chắc chắc với chúng ta rằng nhà truyền giáo phải đối mặt với khó khăn và đau khổ. Nhà truyền giáo bỏ lại sau lưng bạn bè, chấp nhận những loại trừ và khác biệt của những nền văn hóa khác nhau. (Mt 10,6-31). Nhưng thay vì tự cao hay tự ty, họ học cách vui mừng trong sự phục vụ Thiên Chúa. Vượt qua những gánh nặng, vâng phục lời gọi của Thiên Chúa để đem lại niềm vui và phần thưởng trên thiên đàng. Vì thế, nhà truyền giáo không phục vụ như một nhiệm vụ nhưng vì tình yêu (2 Cr 5,14-21).

Nhà truyền giáo hân hoan rao giảng Tin Mừng đến quên thân mình như Thánh Phaolô đã làm: “giờ đây, khi tôi đến Troas để rao giảng Tin mừng Đức Ki tô và khi một cánh cửa đã mở ra cho tôi để làm việc cho Chúa...tạ ơn Chúa, người luôn luôn dẫn chúng tôi vào cuộc khải hoàn trong Đức Kitô, và dùng chúng tôi mà làm cho sự nhận biết Đức Kitô, như hương thơm lan tỏa khắp nơi. Vì chúng tôi là hương thơm của Đức Kitô dâng kính Thiên Chúa, tỏa ra giữa những người được cứu độ cũng như những kẻ bị hư mất, chúng tôi là những mùi tử khí đưa đến tử vong. Nhưng đối với những người được cứu độ, chúng tôi lại là hương sự sống đưa đến sự sống. Nhưng ai là người có khả năng thực hiện những điều ấy? Thật thế, chúng tôi không phải như nhiều người, những kẻ xuyên tạc Lời Chúa, mà với tư cách là những người trung thực, được Thiên Chúa sai đi, chúng tôi lên tiếng trước mặt Người, torng Đức Kitô” (2 Cr 2,12-17). Bước qua việc tìm kiếm những ích lợi cá nhân trong khi làm nhân chứng tin Mừng, nhà truyền giáo mang vinh quang cho Thiên Chúa bằng việc ca tụng cuộc đời công chính, cái chết đem sự thánh hóa, và vương quyền muôn thuở của Đức Kitô.

Lời kết

Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở thành những người rao giảng Tin Mừng. Thiên Chúa mời gọi chúng ta mang đến cho Ngài những con người biết yêu Ngài với tất cả trái tim, linh hồn, trí khôn và sức mạnh. Thiên Chúa mời gọi chúng ta hỗ trợ cho Giáo Hội của Ngài được hình thành. Qua các nhà truyền giáo, Thiên Chúa cứu vớt những gì đã hư mất. Với những yếu tố đó, thiết nghĩ chắc cũng không còn lời mời gọi nào đẹp hơn khiến chúng ta không muốn trở thành nhà truyền giáo của Đức Kitô?

Lm Phêrô Nguyễn Minh Thái

 

CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN

Sám Hối

Lc 19, 1 - 10

Khi còn học giáo lý rước lễ ở họ đạo, tôi được cha sở dạy rất kỹ về những việc mà hối nhân phải làm trước khi xưng tội gồm có: thật lòng ăn năn, xưng tội và thành tâm đền tội. Nhưng trong 3 việc đó thì ăn năn tội là điều quan trọng nhất. Ví ăn năn tội là đau đớn trong lòng và chê ghét tội đã phạm, dốc lòng chừa từ nay không phạm tội nữa. Tương tự như thế hình ảnh Giakêu trong bài Tin Mừng hôm nay cũng cho chúng ta một bài học về “sám hối”. Đó chính là tấm lòng mà Thiên Chúa luôn cần nơi mỗi người và đặc biệt trong cuộc sống mỗi người phải biết sám hối vì “nhân vô thập toàn”.

Có câu chuyện kể rằng một cha sở nọ nằm mơ, thấy Đức Giêsu thăm giáo dân đang tụ họp trong nhà thờ. Khi Đức Giêsu ra về khuôn mặt Ngài rất vui và hớn hở. Cha mới chạy theo hỏi Đức Giêsu tại sao thế? Và Chúa đáp: vì có những người nói những lời hết sức đẹp ý Ta. Thưa Chúa đó là những lời nào vậy, những lời chúc tụng ngợi khen ư? Không phải. Vậy những lời ta ơn tri ân cảm tạ phải không? Chúa trả lời cũng không đúng nữa. Không chịu thua cha sở nọ lại hỏi tiếp: hay là những lời cầu xin Chúa ban ơn này ơn no cho họ? Chúa Giêsu lắc đầu: con đoán sai cả rồi họ đã nói với ta: “Lạy Chúa xin hãy tha thứ tội lỗi chúng con”. Câu nói của Giakêu trong bài Tin mừng hôm nay, cũng có nội dung tương tự như thế và nó còn thể hiện việc sám hối bằng cả hành động nữa “thưa Ngài, này đây là phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Do đâu mà những người giáo dân trong câu chuyện lại mau mắn sám hối như vậy. Vì lí do gì mà Giakêu lại quyết tâm hoán cải nhanh đến như thế. Chúng ta thấy cả hai đều có điểm chung là đã gặp được Chúa. Vậy để có thể sám hối tôi thiết tưởng phải cần có những yếu tố sau:

1. Thiên Chúa mời gọi

Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu đặt chúng ta vào trung tâm vấn đề cơ bản của lòng chúng ta, làm sao nối lại tình thân với Thiên Chúa sau khi tội lỗi đã làm ta xa cách Ngài? Làm sao nhìn thấy Chúa Giêsu khi giữa ta và Ngài còn một “khoảng đám đông” đang chen lấn, mà ta lại là người đang “nhỏ bé như Giakêu”. Chúng ta không nên quá lo lắng về điều đó, vì Thiên Chúa luôn quan tâm đến mỗi người, nhất là những người tội lỗi “vì con người đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất” (Mt 19,10). Thiên Chúa không chờ ta quyết định đến với Ngài, Ngài đi bước trước và đến với ta trước. Hầu hết các sách Tin Mừng không trình bày việc gì khác ngoài việc Thiên Chúa đến với loài người và gặp gỡ họ. Như trong Bài Tin Mừng không phải Giakêu đã nhận ra Đức Giêsu trước, nhưng chính Đức Giêsu đã nhân ra Giakêu trên cây. Điều đó chứng tỏ Đức Giêsu đã quan tâm đến chúng ta hơn là chính Người. Đức Giêsu chỉ đi ngang qua Giêrikhô một lần thôi, Ngài cũng chỉ gặp Giakêu ở đó một lần thôi, nhưng trong đời chúng ta Ngài sẽ đến mãi trong từng giây phút, nếu ta chưa tiếp xúc được với Ngài.

Kinh nghiệm gặp gỡ Đức Giêsu của Giakêu như bài học kêu gọi mỗi người chúng ta hãy làm một cuộc sám hối như thế, và biết rằng sám hối là một đặc ân Chúa ban, chính Chuá là người đi bước trước và có sáng kiến chứ không phải nơi chúng ta, đó là tiếng gọi của Chúa mà chúng ta có bổn phận phải đáp lại.

2. Con người đáp trả

Thánh Augustinô đã nói: “Khi dựng nên con Chúa không hỏi con, nhưng khi dựng nên con Chúa phải hỏi con”, nghĩa là Thiên Chúa luôn cần đến sự cộng tác nơi con người, không những thế Thiên Chúa còn muốn con người cộng tác một cách chủ động và trưởng thành. Chúa không đòi ai cũng phải chờ đợi để leo lên cây sung , nhưng quan trọng là phải đi gặp Chúa trong chính hành động của mình. Giakêu luôn ao ước được gặp Chúa và chính lòng khao khát đó đã được Chúa cho thoã mãn. Nhưng để phá rào cản tội tội, rào cản mă#c cảm, và nhất là rào cản giữa con người với nhau thật sự không dễ chút nào. Chắc chắn Giakêu đã nghe Danh Đức Giêsu từ lâu và hằng ao ước đến chỉ để nhìn mặt thôi, nhưng kết quả thật không ngờ, ông được hưởng hơn những gì mà ông mong đợi và hơn thề nữa “ơn cứu độ đã đến cho nhà này”.

Giakêu được như vậy không phải do ông này nỉ, van xin, cũng không do công trạng lập được, lại không phải là một người tốt đáng khen, nhưng điều quan trọng là ông biết “đáp trả” lời Chúa mời gọi, trong khi những người được cho là tốt thì lại không biết làm. Như Giakêu chúng ta cũng hãy biết đáp trả tình yêu Chúa băng cách sám hối để được tha thứ và đổi mới cuộc đời, vì tình yêu Thiên Chúa luôn bai la rộng mở, dù chúng ta là ai, dù chúng ta đang sống trong hoàn cảnh nào, cuộc đời chúng ta có xấu đến đâu cũng không sao. Chúa sẽ tẩy xoá hết để mỗi người chúng ta sẽ là một giọt tình thường trong bể tình thương bao la của Chúa.

Lạy Chúa, xin cho con biết ăn năn sám hối mỗi ngày, để con xứng đáng đáp trả tình yê mà Thiên Chúa đã ban cho con. Amen

Linh mục Gioan Lê Tiến Thiện

 

NĂM THÁNH LÒNG THƯƠNG XÓT

THƯƠNG CHO KẺ RÁCH RƯỚI ĂN MẶC

Ở bên Đức, tại mỗi khu phố hay làng mạc đều để các thùng của hội Caritas. Mọi người đều có thể đưa quần áo và giày dép cũ không còn sử dụng vào thùng từ thiện đó. Hội Caritas sẽ chuyển tiếp cho những người nghèo ở các nước khó khăn. Có lần, nghe bà mẹ trong một gia đình nói rằng, trước khi chúng ta đưa quần áo đi để bỏ vào trong thùng từ thiện ấy, thì cần phải giặt sạch sẽ, gấp vào đàng hoàng, bỏ vào bịch và đưa tới thùng từ thiện. Một nét của văn minh tình thương và bác ái mà có lẽ mọi người ai cũng cần phải cố gắng để thực thi. Thật vậy, khi cho kẻ rách rưới ăn mặc là chúng ta đang tôn trọng phẩm giá cao quý của họ. Phẩm giá mà Thiên Chúa đã trao ban cho mọi người. Sách Sáng Thế nhắc tới hình ảnh của A-đam và E-và đã được Thiên Chúa trao ban áo mặc: “Đức Chúa là Thiên Chúa làm cho con người và vợ con người những chiếc áo bằng da và mặc cho họ” (St 3,21). Tội lỗi đã dẫn đến hình phạt, nhưng đồng hành với hình phạt là lòng thương xót của Thiên Chúa. Tội lỗi của A-đam và E-và không dẫn hai người tới cái chết, nhưng dẫn tới sự lưu đày. Khi hai ông bà bị lưu đày, thì cả hai được Thiên Chúa giàu lòng thương xót che chở qua chính chiếc áo Chúa đã làm ra và trao ban cho cả hai. Chiếc áo này che chở họ trước gió bão và bảo vệ họ trước những đe doạ hiểm nguy từ bên ngoài.[i] Ở đây, cũng nên nhắc lại tâm tình của Kasper, khi đuổi con người ra khỏi vườn địa đàng, Thiên Chúa đã ban cho con người áo quần mặc, để con người có thể tự che chở trước đe doạ của thiên nhiên, và che đậy sự xấu hổ của con người giữa nhau, cũng như gìn giữ phẩm giá của con người (x.St 3,21).[ii] Chiếc áo Thiên Chúa trao ban không chỉ che chở con người, mà chiếc áo đó còn mang ý nghĩa tôn trọng phẩm giá cao quý của con người. Con người có quyền được ăn no mặc ấm. Đó là điều mà mọi người ai cũng ao ước và vì thế chúng ta luôn cố gắng không chỉ lo cho mình được mặc ấm và mặc đẹp, mà còn hướng đến anh chị em nghèo khổ, để theo gương của Thiên Chúa từ nhân, trao tặng cho anh chị em rách rưới những chiếc áo che thân.

Câu chuyện của Thiên Chúa mặc áo cho A-đam và E-và cũng đang được sống động trong cuộc đời thực tế. Câu chuyện của một tu sĩ trẻ trên cánh đồng truyền giáo ở đất nước Lào nghèo nàn diễn tả một niềm vui sâu xa, niềm vui của người môn đệ đi tìm kiếm lại vẻ đẹp của Thiên Chúa trên những khuôn mặt nhỏ bé và nghèo hèn: “Câu chuyện về một chú bé mà em có dịp gặp khi đi thăm làng Navai ở Lào trong một ngày lạnh lẽo. Tụi em đã thấy một chú bé co ro vì không đủ ấm dưới một làn áo đơn sơ giữa thời tiết lạnh giá. Hai anh em tụi em thì được bọc dưới mấy lớp áo ấm mà vẫn thấy lạnh. Một trong hai tụi em đã cho chú bé ‘mượn’ một chiếc áo gió để em mặc cho bớt lạnh. Chú bé trả lại áo cho bọn em sau khi đã thấy ấm hơn. Không lâu sau đó khi có dịp thăm lại làng ấy tụi em đã tặng cho bé một chiếc áo ấm. Chú bé đã rất vui và hạnh phúc về điều ấy. Chú bé còn bày tỏ khao khát được học giáo lý và được rửa tội. Từ kinh nghiệm này mà tụi em đã khởi động chương trình áo ấm cho trẻ em trong hai làng Navai và Mương-phương, dù lúc ấy không có một đồng trong tay. Nhưng tạ ơn Chúa là lúc này tụi em không những có đủ số tiền cho chương trình này mà còn dư ra một ít nữa chứ!”. Chiếc áo ấm của lòng thương xót đã làm cho thân người nhỏ bé và nghèo khó ấm êm. Chiếc áo ấm đưa lại cho lòng người niềm vui đích thật. Niềm vui của em bé nghèo hèn lạnh lẽo được người môn đệ của Chúa thương xót và trân quý. Niềm vui này tương hớp với lời mời gọi của Chúa: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có” (Lc 3,11).

Câu chuyện của người tu sĩ này làm tôi nhớ lại câu chuyện nổi tiếng trong truyền thuyết về thánh Martin thành Tour. Chuyện kể rằng: Một đêm hoàn toàn đóng băng (có lẽ là trời mưa, hoặc tệ hơn là vẫn còn bông tuyết), Martin cưỡi trên lưng ngựa, khoác trên mình chiếc áo choàng màu đỏ rất ấm, khi ông đi đến các bức tường thành phố Amiens, Gaul (ở Pháp). Ở đó, ông phát hiện một người đàn ông nhỏ bé, ngồi trên mặt đất, co ro trong bộ quần áo mỏng manh rách rưới của mình. Người đàn ông muốn cầu xin ai đó giúp đỡ nhưng ông đã bị lạnh cóng, đôi môi dường như đông cứng lại với nhau. Đội quân của Hoàng đế đã đi qua và chỉ cười với ông ta, trước khi họ bước vào một trong các quán bar của thị trấn với những đồ ăn, thức uống và bếp lửa ấm áp. Bây giờ vận may của người ăn xin đã thay đổi, khi Martin rút kiếm cắt tấm áo choàng màu đỏ của mình thành hai mảnh, một nửa dành cho người đàn ông nghèo khổ. Đôi môi của người ăn xin dần dần bớt cóng lại, vì thế ông ta bắt đầu nói “cám ơn”, nhưng Martin đã đi trước đó bởi vì ông là người khiêm tốn và e thẹn. Đêm hôm sau, Martin kể lại, ông có một giấc mơ, dù không ai thực sự biết chắc chắn, bởi vì ông là người duy nhất ở đó, nhưng người ta nói ông mơ đã gặp lại người đàn ông nghèo đó một lần nữa và người ấy chính là Chúa Giê-su, Ngài muốn kiểm tra xem Martin có đúng thực là một người đàn ông tốt hay không. Như vậy, Ngài đã thực sự vui bởi vì Ngài đã nói với ông: “Những gì bạn đã làm cho người đàn ông nghèo này, chính là bạn đã làm cho tôi!”.

Lời cuối cùng của câu chuyện về thánh Martin đưa chúng ta về lại lời của Chúa Giê-su: “Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc” (Mt 25,36). Chúa Giê-su hiện diện trong những anh chị em đang rách rưới, đang trần truồng. Chúa và họ đang cần đến những chiếc áo của lòng nhân ái, để che chở bản thân trước những đe doạ của gió bão, để gìn giữ phẩm giá cao quý của con người. Phẩm giá này không bao giờ mất đi, dù con người có đón nhận những cơn bệnh đau đớn.

-------------------

[i] X. KEENAN J.F., SJ., The Works of Mercy, the heart of catholicism, t.51

[ii] X. KASPER W., Barmherzigkeit, t. 52.

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ

Nguồn: dongten.net

 

TRANG LOAN BÁO TIN MỪNG

Nhật Ký Truyền Giáo

Kế hoạch của Ban Loan Báo Tin Mừng Giáo phận đề ra cho chúng tôi: mỗi tuần đi thăm viếng một ngày, bất kể lương hay giáo.

Một hôm đúng ngày đã định, khi chuẩn bị lên đường thì điện thoại reo:

-        Alô, có phải linh mục Tâm không?

-        Vâng, tôi đây, anh Hùng khoẻ không? Gọi tôi có chuyện chi không?

-        Hai mươi phút nữa ghé linh mục có chuyện nha!

-        Ok (Tôi trả lời đồng ý).

Đúng hẹn, anh Hùng, Trưởng công an huyện xuất hiện, qua vài câu xã giao thông lệ, anh công an vào ngay vấn đề:

-        Lúc này ở khu vực chúng ta (tức khu vực Nhà thờ) có một tụ điểm cờ bạc hành động về đêm mỗi ngày. Vậy linh mục có thể cho anh em chúng tôi chốt ém quân tại nhà thờ để tới khuya chúng tôi đột kích hốt ổ chúng nó nghe?

Chuyện chẳng thể từ chối nên tôi liền chấp thuận.

Anh công an mừng ra mặt vì sự chấp thuận của tôi.

Chiều tối hôm đó, có sáu anh công an trẻ đến ém quân tại Nhà thờ.

Sáng ra tôi thấy các anh bơ phờ như thức trắng đêm công tác. Tôi hỏi tình hình, các anh nói:

-        Họ đã đánh hơi có chúng tôi nên họ rút lui đi nơi khác.

Các anh hẹn vài hôm sẽ trở lại đột kích nữa.

Sau đợt đột kích lần hai, anh Trưởng công an báo với tôi là đã bắt được 2 người trong nhóm đánh bạc và nhóm tạm tan rã. Anh cũng nhờ tôi khi “giảng đạo” nói dùm với giáo dân đừng tham gia vào ổ cờ bạc này. Anh nói:

-        Tiếng nói linh mục các ông hơn chúng tôi nhiều, chúng tôi rất mong các linh mục hợp tác với chúng tôi thì mới mong có kết quả tốt.

Và tôi hứa với anh tôi sẽ thông báo sớm cho bà con giáo dân…

Qua sự kiện này tôi thấy chính quyền có phần tin tưởng chúng ta và họ sẽ có thiện cảm với chúng ta khi chúng ta sẵn sàng hợp tác với họ trong việc củng cố trật tự an ninh xóm làng. Như thế việc Truyền giáo đi đôi với công tác xã hội sẽ phần nào mang lại kết quả tốt. Ít là hai bên, chính quyền và chúng ta, ngày càng hiểu nhau hơn và chúng ta có ảnh hưởng tích cực với họ hơn…

Lm Phêrô Võ Thành Tâm

Một hôm, vào khoảng 9 giờ tối, nhà chung đã đóng cửa, tôi cũng đã lên giường, bất chợt có tiếng kêu của hai người xưng mình là công an Huyện, tới hỏi về một người giáo dân trong họ chuyên đứng ra tổ chức đá gà. Tôi thắc mắc vì sao đến vào giờ này, hai anh nói không dám đi ban ngày, sợ lộ hành tung…

Ai cũng biết, đây không những là một tệ nạn xã hội làm hư hỏng giáo dân mà còn làm tai tiếng cho họ đạo, một phản chứng cho công cuộc Truyền giáo. Tôi đã nhiều lần lên tiếng nhưng không được.

Vì thế, không có lý do để từ chối.

Sau một thời gian xác minh, chính quyền đã ra tay hành động và bắt được một số đối tượng, trường gà tạm thời bị khép lại, bà con được yên ổn.

Tôi cũng rút được bài học: sự cộng tác với chính quyền trong vấn đề an ninh trật tự là cần thiết, không im lặng tiếp tay cho chuyện xấu, hầu tránh những tác hại cho giáo dân, cho môi trường sống và cũng là bắt đầu cho việc đem giá trị Tin Mừng đến cho mọi người, một Tin Mừng đem đến bình an.

Hai chuyện trên vô tình đi theo lời dạy của Đức Thánh Cha trong Tông Huấn Niềm vui Tin Mừng:

“Hội Thánh công bố ‘Tin Mừng bình an’ và muốn hợp tác với mọi Nhà chức trách quốc gia và quốc tế trong việc bảo vệ lợi ích bao la của thế giới” (số 239).

 Tiếp đó Ngài còn viết:

 “…cùng với các lãnh vực khác nhau của xã hội, Hội Thánh ủng hộ các chương trình nào đáp ứng tốt nhất cho nhân phẩm của mỗi người và lợi ích chung. Bằng cách này Hội Thánh đề nghị rõ ràng các giá trị của đời sống con người và các niềm tin, từ đó chúng có thể được biểu hiện trong đời sống chính trị.” (số 241)

Lần khác, có người bổn đạo đến nhờ làm trung gian hoà giải cho một người bà con của họ với cha sở một họ đạo kia. Tôi hơi ngại vì sợ lấn sân sang họ khác, nhưng vì việc chung, nên cũng liều mình.

Khi tới nơi cùng với cha Sở, thì được nghe những điều bức xúc do cách cư xử quá cứng nhắc và khó khăn của cha sở trước, làm cho họ, trong hoàn cảnh và trình độ của mình, không sao chấp nhận được. Tôi cứng mình khi nghe họ góp ý, nhưng phải nhận rằng họ rất thực tâm. Và tôi coi đó như kinh nghiệm quý báu cho bước đường mục vụ của mình.

Nhớ lời Đức Thánh cha Phanxicô nói trong tông huấn Niềm vui Tin Mừng:

“Khi chọn một mục tiêu mục vụ và một phong cách truyền giáo có khả năng thực sự đến được với mọi người mà không có biệt lệ hay loại trừ, sứ điệp phải tập trung vào những gì cốt yếu, những gì đẹp nhất, lớn nhất, lôi cuốn nhất và đồng thời cần thiết nhất” (số 35)

Lm Mt Nguyễn Văn Hiền

 

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

KHI THIÊN CHÚA NÓI “KHÔNG”

Chúng ta vẫn hay nghĩ về Thiên Chúa như một Đấng nhân lành, tốt bụng, một người Cha yêu thương con cái vô vàn chẳng tiếc gì bản thân. Một hình ảnh về người Cha như thế mang đến cho chúng ta một nguồn an ủi to lớn, rằng sẽ chẳng bao giờ Ngài từ chối chúng ta điều gì và luôn sẵn sàng đáp ứng mọi nguyện vọng của chúng ta. Chạy đến với Ngài, bám víu vào Ngài, ta mong sao cuộc sống của mình được bình an, mọi dự tính và kế hoạch của chúng ta được thành công trôi chảy, mọi con đường ta đi đều được thuận buồm gió xuôi.

 

Thế nhưng, kinh nghiệm cũng cho chúng ta biết rằng có rất nhiều thứ xảy đến không làm ta ưng ý, có rất nhiều điều diễn ra nằm ngoài dự tính của ta, có những ngõ cụt mà ta buộc phải đối diện dù chẳng hề muốn. Ta phải dừng lại một kế hoạch gì đó, dù trong mắt ta nó không có gì xấu xa cả, trái lại, nó rất tốt đẹp là đàng khác. Ví dụ như chuyện làm ăn không thành công, hoặc chuyện đã cố gắng học hành nhưng thi không tốt, hay như ước nguyện sống đời dâng hiến bị chối từ… Những lúc ấy, ta như cảm thấy một lời từ chối phũ phàng, ta nghe như bên tai có một từ “không” thật khó chịu từ Thiên Chúa, Đấng mà ta cứ ngỡ rằng chẳng bao giờ lại cắt đi đường sống của ta. Bất mãn, buồn phiền, thất vọng, mất niềm tin, muốn bỏ cuộc, oán than, giận dữ… Tất cả mọi cảm xúc tiêu cực đua nhau ùa về, dày xéo tâm tưởng ta.

Khi Thiên Chúa nói “không”, đó có thể là chấm hết cho một chọn lựa sai lầm mà chúng ta đã có khi vội vàng nghe theo cảm xúc nhất thời đưa đẩy. Đó cũng có thể là lời từ chối cho một nhận định thiếu chín chắn của chúng ta. Hoặc cũng có khi chúng ta biết rõ ràng điều ta đang làm là sai mà vẫn cố chấp, để đến khi gặp phải con đường cụt rồi mới vỡ lỡ ra rằng ta không thể đấu lại Tạo Hoá, ta không tự mình làm nên chính mình và tự mình tồn tại theo cách mình muốn mà không cần Chúa. Ngay cả khi những gì mà ta dự định thực hiện là điều rất tốt, Thiên Chúa vẫn có thể nói “không”, vì Ngài biết rằng còn có điều tốt hơn hay một khung trời mới vĩ đại hơn đang nằm ở nơi khác đang đợi ta khám phá. Rõ ràng, Thiên Chúa khôn ngoan hơn chúng ta và tầm nhìn của Ngài vượt trên chúng ta muôn vạn dặm.

Tiếng “không” của Thiên Chúa thể hiện qua những lần thất bại hay bế tắt của chúng ta trong cuộc đời đưa ta trở về với vị trí một đứa trẻ bé bỏng đối diện với bố mẹ mình. Nơi đó, ta thấy mình thật nhỏ xíu, thiếu khôn ngoan và cần được người lớn chỉ dạy để biết điều gì là đúng và điều gì cần phải làm cũng như không được làm. Chẳng ai trong chúng ta biết được tương lai của mình như thế nào. Tương lại giống như một màn đêm tăm tối nằm phía trước và chúng ta phải dựng xây cuộc đời mình bằng một sự mày mò dò dẫm với tất cả những gì chúng ta có trong tay ở giây phút hiện tại. Chỉ có Chúa là Đấng duy nhất biết được đâu là điều tốt cho ta, đâu là con đường cụ thể dẫn ta đến ơn cứu độ đời đời và hạnh phúc miên viễn.

Trong sự dò dẫm của tiến trình này, tiếng “không” của Thiên Chúa hệt như một dấu chỉ cho biết đã đến lúc chúng ta phải rẽ ngang, chứ không thể đi thẳng được nữa. Thiên Chúa lắc đầu nói “không”, cũng chưa hẳn là tất cả những gì chúng ta làm từ trước đến giờ là sai và phải vứt bỏ hết. Dù quá khứ của chúng ta như thế nào, nó vẫn góp phần làm nên con người chúng ta hiện tại, và chúng ta không thể gạt bỏ nó hay xem nó như chưa hề tồn tại. Thậm chí, nó còn là một nguồn kinh nghiệm quý báu cho chúng ta về sau. Đúng hơn, Chúa như muốn nói với chúng ta rằng đến lúc này, ta không thể đi thẳng với những hoạch định đã có, nhưng hãy xoay mình một chút, rẽ trái rẽ phải một chút để theo một hướng đi mới. Phía trước luôn có một con đường vẫn chưa hoàn thành mà Thiên Chúa đang chờ chúng ta đến để dựng xây.

 

Mỗi khi nghĩ đến điều này, tôi mường tượng đến hình ảnh người nông dân hì hục đào mương để đưa dòng nước từ con sông vào đồng ruộng của mình. Nước cứ chảy đến đâu nó có thể mà không theo một định hướng cụ thể nào. Người nông dân đắp đất làm đê để nước không chảy lung tung nhưng đi theo một đường dẫn đến đồng ruộng tưới mát cho cây, giúp cây sinh trái. Cuộc đời của chúng ta cũng hệt như dòng nước vô định ấy. Chúa là người đã đào mương đào rãnh để ngăn dòng nước thác loạn theo ý của nó. Từng bờ đê mà con nước gặp phải trên dòng chảy của nó chính là từng tiếng nói “không” của Thiên Chúa suốt hành trình. Tất cả chỉ vì muốn cuộc đời chúng ta có một trật tự, một mục đích, một định hướng có ích cho thế giới và cũng từ đó mà chính chúng ta được triển nở.

Bởi vậy, tiếng “không” của Thiên Chúa ngang qua hương vị của thất bại, của bế tắt mà cuộc đời gửi đến hoá ra lại giúp chúng ta tìm thấy một con đường đúng đắn cho chính mình, miễn là ta không ngồi đó than thân trách phận, nhưng biết đứng lên, học kinh nghiêm của quá khứ để tiếp tục hành trình của mình. Dĩ nhiên, nói thì dễ hơn làm, điều này đòi hỏi nghị lực của bản thân, nâng đỡ của người khác và ơn sủng mà chúng ta không ngừng cầu xin từ Thiên Chúa trong niềm tin dành cho Ngài.

 Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

1223    19-10-2016 16:54:00