Sidebar

Thứ Bảy
27.04.2024

Nguyệt san tháng 4/2015: Giáo Xứ: Cộng Đoàn Hội Thánh Hiệp Thông Trong Thờ Phượng

LỜI CHỦ CHĂN

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

TRANG LINH MỤC

TRANG TU SĨ

TRANG SỐNG ƠN GỌI

TRANG THIẾU NHI

TRANG GIỚI TRẺ

TRANG GIA ĐÌNH

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

TRANG QUỚI CHỨC

SỐNG ĐẸP

HỎI ĐÁP MỤC VỤ

CHUYỆN THƯỜNG NGÀY

SỐNG LỜI CHÚA

THẦN HỌC KINH THÁNH

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

CHIA SẺ MỤC VỤ BÁC ÁI

 

 

LỜI CHỦ CHĂN

Vĩnh Long ngày 25.03.2015

Kính gửi: Quý Cha

              Quý Tu sĩ nam nữ

              Và tất cả anh chị em Gp. Vĩnh Long

V/v SỐNG LẠI

Có những người sống lại được vài giờ, vài ngày gọi là hồi dương, nhưng ít có kẻ sống lại dài hạn, và làm cho người khác sống lại, khỏe mạnh, vui tươi và lâu dài như Ladarô, như con trai của bà góa ở làng Naim.

Chúa Giêsu không phải là thầy thuốc, không là bác sĩ, nhưng chữa được bệnh, những thứ bệnh khó chữa như là phong cùi, còn làm cho người chết sống lại.

Hơn thế nữa, Chúa Kitô còn làm cho mình chết chưa đủ ba ngày được sống lại, được khỏe mạnh, được lên trời vinh hiển, sống mãi mãi. Đàng khác, Chúa còn làm cho ta được sống lại về phần linh hồn, thoát khỏi cái chết tinh thần, cho ta biết thương mến Chúa, sống thân thiết với Chúa.

Điều mà Chúa làm cho chính mình thì Chúa cũng ân ban cho người khác. Chúa cho ta được sống mãi với Chúa, trong sự hiểu biết và tình thương yêu.

Chúa cho ta được sống lại về phần linh hồn, được về trời, chia sẻ vinh quang và hạnh phúc với Chúa, như cha mẹ chia sẻ cái mình có cho con cái, như bạn bè san sẻ cho nhau; Chúa Kitô coi chúng ta là con cái, là bạn bè nên cũng chia sẻ cho ta hạnh phúc đời đời, được sống mãi mãi gần gủi và trong tình thương của Chúa.

Xin tạ ơn Chúa muôn đời. Alleluia !

Lm. Phêrô Dương Văn Thạnh

Giám Quản GP. Vĩnh Long

 

DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

 Tháng 04/2015

GIÁO XỨ: CỘNG ĐOÀN HỘI THÁNH HIỆP THÔNG

TRONG THỜ PHƯỢNG

 

“Các tín hữu siêng năng tham dự lễ bẻ bánh

và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42).

Tân Phúc-âm-hóa là làm mới lại nhiệt huyết trong tương quan cá vị ngày càng sâu với Chúa Kitô, vốn là Đấng “hôm qua, hôm nay, và mãi mãi” vẫn là một, qua những sáng kiến được diễn tả cách mới mẻ gần với văn hóa của con người thời đại, trước hết là trong đời sống phụng vụ của Hội Thánh. Cộng đoàn giáo xứ tiếp nối cộng đoàn hội thánh sơ khai biết “siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng”. Canh tân trước hết là trở về nguồn để nhận ra những gì cơ bản nhất.

1. Thánh lễ vượt trên thời gian và luôn là hiện tại

Canh tân phụng vụ là trở về nguồn đồng thời nhận ra rằng trong Phụng vụ của Hội Thánh, Đức Kitô chủ yếu biểu lộ và hoàn thành mầu nhiệm Vượt Qua của Người. Tất cả những biến cố khác của lịch sử đã xảy ra một lần rồi qua đi, chìm vào dĩ vãng. Còn “Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô không chỉ tồn tại trong quá khứ, bởi vì chính Người đã dùng cái chết của Người mà hủy diệt sự chết, và bất cứ điều gì Đức Kitô là, bất cứ điều gì Đức Kitô đã làm và đã chịu vì tất cả mọi người, những điều đó đều tham dự vào tính vĩnh cửu của Thiên Chúa, và như vậy đều vượt trên mọi thời gian và luôn là hiện tại. Biến cố Thập Giá và Phục Sinh vẫn đang tồn tại và lôi kéo mọi sự tới sự sống”[1]. Cử hành Phụng vụ là “nhắc nhớ lại” (anamnesis) các công trình kì diệu của Thiên Chúa đó nhờ Đức Kitô. Cộng đoàn hội thánh ngày nay siêng năng tham dự thánh lễ vì muốn sống mầu nhiệm thánh thiêng luôn ở thì hiện tại này để được dự phần vào ơn cứu độ qua sự chết và phục sinh của Chúa Kitô.

Bởi thế, Mầu nhiệm Vựợt Qua trong thánh lễ được cử hành chứ không phải được tái diễn. Thánh Thần, được tuôn ban xuống cho qua lời khẩn cầu (epiclesis) của tư tế, thánh hóa các lễ vật trở thành Mình và Máu Đức Kitô, và khi lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa, chính các tín hữu cũng trở thành hi lễ sống động dâng lên Thiên Chúa. Cộng đoàn hội thánh cử hành, Thân Mình mầu nhiệm của Chúa, được tham dự trước vào sự hiệp thông viên mãn của Thiên Chúa Ba Ngôi. Mầu nhiệm hiệp thông của Hội Thánh vì thế luôn được sống trong tâm tình thờ phượng, cách thức yêu thương cao nhất.

2. Thánh Thể: Hy tế Tạ ơn – chóp đỉnh của hành động thờ phượng

- Thờ phượng là hành động cốt yếu của một tôn giáo, và tín ngưỡng. Thực hành đức thờ phượng cũng là sống đức công bằng đối với Thiên Chúa: chúng ta trả lại cho Thiên Chúa điều mà, vì là các thụ tạo, chúng ta mắc nợ Ngài. “Ngươi phải thờ phượng một mình Ngài mà thôi” (Mt 4,10). Thờ phượng chủ yếu được diễn tả qua hành vi thờ lạy, cầu nguyện, dâng hy lễ .... Mọi hoạt động của Hội thánh, mà chóp đỉnh là đời sống phụng vụ xoay quanh Hy tế Thánh Thể và các bí tích, đều là để thờ phượng Thiên Chúa nhờ Đức Kitô. “Chính nhờ Người, với Người và trong Người, mọi danh dự và vinh quang đều qui về Chúa là Cha Toàn Năng trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời”.

- Cộng đoàn giáo xứ và các cộng đoàn nhỏ là cộng đoàn thờ phượng, thể hiện qua việc thờ lạy, cầu nguyện và hy lễ. Thờ lạy tức là nhận biết Thiên Chúa, là Đấng Tạo Dựng và Cứu độ chúng ta, là Chúa và Chúa Tể mọi loài đang hiện hữu, là Tình Yêu vô biên và hay thương xót. Thờ lạy Thiên Chúa là tôn kính và tuyệt đối quy phục Ngài vì nhận biết chúng ta là thụ tạo hư vô, không thể hiện hữu nếu không bởi Thiên Chúa. Vì thế, thờ lạy là ca tụng, ngợi khen như Đức Maria: “linh hồn tôi ngợi khen Chúa” (kinh Magnificat), là chúc tụng Chúa tuyên xưng trong khiêm hạ với lòng biết ơn rằng Thiên Chúa đã làm những việc trọng đại và Danh Ngài chí thánh (Lc 1,46-49).

- Cộng đoàn giáo xứ cũng như cộng đoàn hội thánh sơ khai “siêng năng cầu nguyện”. Nâng tâm hồn lên tới Thiên Chúa là cách diễn tả việc ta thờ lạy Ngài: lời kinh ca ngợi và tạ ơn, lời kinh chuyển cầu và cầu xin. Phải siêng năng cầu nguyện vì Chúa Giêsu dạy “Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí” (Lc 18,1).

- Cộng đoàn hội thánh thờ phượng cách chính đáng nhất qua việc dâng lên Thiên Chúa những hy lễ như là dấu chỉ của thờ lạy và tạ ơn, khẩn cầu và hiệp thông. Hy lễ bên ngoài để trở nên là hy lễ đích thật phải diễn tả hy lễ tinh thần: “Tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát ...” (Tv 51,9). Chúa muốn lòng nhân tức là tình yêu, hơn là lễ tế vật chất (Mt 9,13; 12,7). Hy lễ phải dâng có sự thông dự nội tâm và tình yêu thương phải lan tới người lân cận. Chỉ có một hy lễ trọn hảo duy nhất là hy lễ Đức Kitô đã dâng trên thập giá, bằng sự tận hiến cho tình yêu của Chúa Cha và để cứu độ chúng ta (x. Dt 9,13-14). Kết hợp mình với hy lễ của Người, các thành phần của Thân Mình Đức Kitô có thể biến cuộc đời mình thành hy lễ dâng lên Thiên Chúa mà thờ lạy.

3. Cộng đoàn giáo xứ thờ phượng Chúa trong cuộc sống

- Thánh lễ được tiếp nối vào cuộc sống của Kitô hữu, cá nhân cũng như cộng đoàn, tập chú đặc biệt vào ba cột trụ: Thờ lạy (chầu Thánh Thể), Lời Chúa (lắng nghe và chia sẻ), và sứ vụ (truyền giáo).

- Vì Đức Kitô hiện diện thật sự trong bí tích bàn thờ, nên chúng ta phải tôn vinh Người bằng một phụng tự tôn thờ. “Việc viếng Thánh Thể là một bằng chứng bày tỏ lòng biết ơn, một dấu chỉ tình yêu và một bổn phận thờ lạy đối với Chúa Kitô, Chúa chúng ta”[2]. Vì thế, về mặt thực hành, một khoảng thinh lặng đầy tâm tình thờ phượng như thế sau hiệp lễ, như tình hình thực tế hiện nay trong Giáo hội sống giữa một thời đại ồn ã hay vội vã, là cần thiết. Môn đệ thân tín còn được mời gọi dành một thời gian lâu hơn và thường xuyên, để ở với Chúa Thánh Thể bên nhà chầu.

- Với sự tỉnh thức luôn đó trong tâm thái an tịnh như trong phụng vụ, chúng ta được mời gọi kết hợp thường xuyên với việc tập chú lắng nghe Lời Chúa qua các sự kiện hay biến cố trong cuộc sống hằng ngày. Lời Chúa được chiêm nghiệm ấy cần được đem chia sẻ với anh chị em trong cộng đoàn nhỏ của giáo xứ, khu xóm, và gia đình có sức nâng đỡ và nuôi sống đời tâm linh của cộng đoàn cũng như từng thàn viên. Các nhóm Kitô hữu nhỏ cầu nguyện và chia sẻ Thánh Kinh chính là sáng kiến thời đại được Chúa Thánh Thần khơi dậy và thúc đẩy.

- Từ đó, lệnh truyền của Chúa “anh em hãy đi loan báo Tin mừng cho muôn dân và dạy họ giữ mọi điều Thầy đã truyền dạy” mới được thi hành, thế nhưng lệnh truyền ấy được thực thi trước hết là qua chứng từ hiệp nhất của cộng đoàn hội thánh địa phương trong khi phục vụ, trong các sứ vụ bác ái xã hội và truyền giáo.                                                                                                            

Câu hỏi thảo luận

1. Anh chị có cảm thấy sốt sắng hay nhàm chán khi tham dự Thánh lễ Chúa nhật tại giáo xứ? Tại sao?

2. Anh chị có cảm thấy những việc làm, những hi sinh của mình trong gia đình, trong khu xóm, giữa những bạn hữu mình, trong nghề nghiệp, ... liên hệ gì đến hi lễ của mình, hòa hợp với hi lễ Đức Kitô trong Thánh lễ không?

3. Tại giáo xứ của anh chị, các kitô hữu giáo dân có tham dự giờ chầu thường xuyên, giờ chầu lượt đông đảo và sốt sắng không?

----------------------

[1] GLHTCG 1085. Xt. ibid., 1077-1112

[2] ĐGH Phaolô VI, tđ. Mysterium fidei: AAS 57 (1965) 771. X. GLHTCG 1418.

Lm. Luy Nguyễn Anh Tuấn.

Nguồn: ubmvgiadinh.org

 

LỜI NGUYỆN CHUNG

Kêu mời: Anh chị em thân mến,

Hội Thánh là dấu chỉ và là khí cụ của sự hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp nhất với nhau. Giáo xứ cũng chính là Hội Thánh hiệp thông trong việc thờ phượng Thiên Chúa và hiệp nhất trong cầu nguyện. Vậy chúng ta hãy cùng hiệp ý cầu nguyện:

1.       “Các tín hữu luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh luôn hiệp thông trong việc thờ phượng, trong thánh lễ, trong cầu nguyện và trong đời sống.

2.       Chúa phán: “Đã đến lúc người ta thờ phượng Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý”. Chúng ta cầu nguyện cho các giáo xứ và cộng đoàn sống đời thánh hiến, luôn hiệp thông thờ phượng Thiên Chúa trong Chúa Thánh Thần.

3.       Ma quỷ cám dỗ: “Ông thờ lạy tôi, tôi sẽ cho ông tất cả vinh hoa trần gian”. Chúng ta cầu nguyện cho các giáo xứ biết đồng lòng với nhau trong Phụng vụ, trong kinh nguyện, trong việc tẩy trừ tội lỗi và trong việc xây dựng giáo xứ mình.

4.       Chúa phán: “Người ta chỉ phải thờ phượng một Thiên Chúa duy nhất mà thôi”. Chúng ta cầu nguyện cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta luôn một lòng thờ phượng Chúa, luôn giúp nhau bền lòng tin thờ Chúa mà không tin nhơ thờ quấy.

Kết thúc: Lạy Chúa, Chúa muốn mọi người được ơn cứu rỗi. Xin cho mọi người hiệp thông trong Hội Thánh cử hành các nghi lễ thờ phượng Chúa, giúp nhau xa lánh tội lỗi, giúp nhau sống đạo, hầu ngày sau đặng lên thiên đàng hưởng phước đời đời. Chúng con cầu xin…Amen.

 

ÁP DỤNG THỰC HÀNH

HIỆP THÔNG TRONG THỜ PHƯỢNG

“Hiệp thông” là sự liên kết chặt chẽ với nhau, lưu chuyển và chan hoà cùng một tính chất giữa các phần tử riêng lẻ trong một tổng thể duy nhất, sống động. Với Kitô giáo thì “Hiệp thông” còn mang ý nghĩa chỉ về sự quan hệ của tín hữu với Thiên Chúa, cũng như giữa các tín hữu với nhau trong Ðức Kitô nhờ Thánh Thần.

Thư Chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam giải thích: “Sự hiệp thông trong cộng đoàn được thể hiện qua sự tôn trọng, cộng tác và chia sẻ. Thật vậy, trên nền tảng bí tích Rửa Tội, mọi tín hữu đều bình đẳng với nhau về phẩm giá, cho nên phải tôn trọng lẫn nhau, tránh mọi hình thức phân biệt đối xử. Đồng thời phải cộng tác và chia sẻ với nhau để cùng xây dựng ngôi nhà chung là giáo xứ và thi hành sứ mạng chung là loan báo Tin mừng cho muôn dân.”

Điều đó cho thấy sự hiệp thông là trọng tâm của mầu nhiệm Giáo hội, là một đặc sủng, một đại ân huệ của Ba Ngôi Thiên Chúa ban cho nhân loại. Vì thế, các Kitô hữu đươc mời gọi nhận lãnh ân sủng này với lòng biết ơn và đồng thời sống ơn này bằng tinh thần trách nhiệm thi hành một sứ vụ cao cả. Nói cách khác, việc này được thực hiện một cách cụ thể khi người tín hữu trực tiếp tham gia vào đời sống và sứ mệnh của Giáo hội. Và để phục vụ Giáo hội cách hữu hiệu, tất cả mọi Kitô hữu giáo dân đều có nhiệm vụ thi hành các thừa tác vụ và các đoàn sủng của mình trong tinh thần hiệp thông xây dựng trên nền tảng Đức Ái.

Rõ ràng sự “Hiệp thông trong thờ phượng” là điều kiện tiên quyết trong sứ vụ nhất quán của Giáo hội: Loan báo Tin Mừng. Nhằm mục đích Phúc Âm hóa Giáo xứ, các linh mục có trách nhiệm nuôi dưỡng sự hiệp thông truyền giáo theo lý tưởng của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Để thực hiện điều này, linh mục là người tiên phong chỉ đường, hướng dẫn cho các gia đình thừa sai và giữ cho niềm hy vọng của họ luôn sống động. Các linh mục không chỉ hướng dẫn, mà cần phải ở giữa cộng đoàn bằng một sự hiện diện khiêm tốn và nhân từ. Nói như vậy, không có nghĩa là các linh mục trong Giáo xứ chỉ đơn thương độc mã trong sứ vụ truyền giáo, mà rất cần sự cộng tác mật thiết và đắc lực của giáo dân. Đó chính là hình ảnh sinh động không thể thiếu của “Cộng đoàn Hội thánh hiệp thông trong thờ phượng”.

Sự “Hiệp thông trong thờ phượng” bao gồm những tác vụ: “siêng năng tham dự thánh lễ và cử hành phụng vụ, chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy và cầu nguyện không ngừng.” (Thư Mục vụ 2014 của HĐGMVN, số 23):

Truyền thống Việt Nam, các Kitô hữu vẫn siêng năng tham dự thánh lễ ngày Chúa nhật cùng với các nghi thức cử hành phụng vụ. Đó là điều tốt đẹp, tuy nhiên cần phát huy hơn nữa việc cử hành phụng vụ một cách sống động và có ý thức hơn. Chỉ có như vậy mới khiến cho “phụng vụ trở thành nguồn lực thánh hóa bản thân, đồng thời đem tinh thần Phúc Âm vào môi trường sống trong Giáo hội cũng như ngoài xã hội.” (Thư Mục vụ 2014, số 2).

Đọc sách Công vụ Tông đồ sẽ thấy các Tông đồ tiên khởi giảng dạy Lời Chúa cho cộng đoàn và hướng dẫn họ đem Lời Chúa vào thực tế đời sống (“Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng.” – Cv 2, 42). Cho đến ngày nay và mãi mãi về sau, trên hành trình rao giảng Tin Mừng, các linh mục trong các giáo xứ – những cộng sự viên của hàng giám mục – vẫn đang tiếp nối công việc của các Tông đồ. Các gia đình cần chuyên chăm nghe các Tông đồ giảng dạy, đồng thời cộng tác mật thiết với các ngài trong việc dạy giáo lý cho mọi tín hữu, cách riêng cho thiếu nhi và giới trẻ.

Sau cùng, Cầu nguyện được ví như hơi thở của một tôn giáo, là hoạt động căn bản của đời sống tâm linh. Đức Thánh Cha Phanxicô trong một bài giảng ngày thứ tư cũng khẳng định: “Cầu nguyện là hơi thở của đức tin”. Một cách khái quát, cầu nguyện là con người giao tiếp, giao hòa với thần linh.

Khi đã nói đến giao tiếp – giao hoà thì cầu nguyện không chỉ đơn thuần là “cách thế” này hay “phương thức” kia, mà phải là “tổng hơp tương giao sống động” của toàn thân người cầu nguyện với Thiên Chúa. Trước hết thì phải có Đức Tin + Đức Cậy + Đức Mến thực sự. Cầu nguyện là “bày tỏ tâm sự”, là “thổ lộ tâm can”, nhưng cũng đồng thời là “chiêm ngắm, suy niệm”, là “thinh lặng lắng nghe”. Cầu nguyện là “khẩu tụng tâm suy” khi đọc kinh, là “hiệp thông, hoà giải” khi dâng lễ, là “năng nổ, nhiệt tình” khi hoạt động tông đồ bác ái, là “quên mình, hy sinh” khi phục vụ. Tắt một lời, cầu nguyện là sống “hết mình, hết sức” trong giao tiếp với Thiên Chúa và hoà giải với anh em.

Trong sứ điệp Mùa Chay 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô viết: “Giáo hội là cộng đồng hiệp thông của các thánh vì các thánh tham dự vào cộng đồng ấy, và cũng vì đó là một sự hiệp thông những sự thánh: tình thương của Thiên Chúa được tỏ lộ cho chúng ta trong Chúa Kitô và tất cả các hồng ân của Chúa... Trong cộng đồng hiệp thông của các thánh và trong sự tham dự vào những sự thánh, không ai sở hữu riêng cho mình, nhưng những gì họ có là để cho tất cả. Và vì chúng ta được liên kết với nhau trong Chúa, chúng ta cũng có thể làm được một cái gì đó cho những người ở xa, cho những người mà tự sức riêng chúng ta không bao giờ có thể đạt tới họ, vì cùng với họ và cho họ chúng ta cầu xin Thiên Chúa để tất cả chúng ta đều cởi mở đối với công trình cứu độ của Chúa.”

Như vậy thì cộng đoàn Hội Thánh địa phương từ linh mục đến các gia đình thừa sai và nói chung là toàn thể giáo dân, tất cả “đều tham dự vào chức linh mục duy nhất của Chúa Kitô theo cách thức riêng của mình”, đều có chung một trách nhiệm “là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1, 8) và một sứ vụ duy nhất “đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16, 15). Để thực thi sứ vụ cao trọng đó, không gì khác hơn là hãy chung tay góp sức kiến tạo một Gia đình thừa sai Giáo xứ nên như một “cộng đoàn hiệp thông trong thờ phượng”, nhằm tiến tới xây dựng thành cộng đoàn “Hiệp thông và Truyền giáo”.

 

TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN TRONG GIÁO HỘI (TT)

I. Đời sống thánh hiến là gì? (tháng 02/2015)

II. Những hình thức sống đời thánh hiến trong Giáo hội (tháng 3/2015).

III. Các tu đoàn tông đồ (Societates Vitae Apostolicae).

Nguyệt San tháng 3 vừa qua, chúng ta đã nêu ra những Hội dòng tận hiến (bao gồm các Dòng tu và tu hội đời), bộ giáo luật còn nêu lên một hình thức tu khác là những Tu Đoàn Tông Đồ. Tuy rằng họ được xếp vào một hình thức tu riêng (không phải là Dòng tu, cũng không phải hội đời sống thánh hiến), xét vì tính pháp lý của họ: không có lời khấn dòng và cũng không có dây ràng buộc thánh.

1. Lịch sử hình thành

Lịch sử hình thành các tu đoàn tông đồ khá phức tạp, vì nảy sinh từ những động lực khác nhau, chẳng hạn như sau:

a/. Một số tu đoàn ra đời vào thời kỳ mà giáo luật đặt ra một khuôn khổ nặng nề về các tu sĩ, khiến cho những người muốn theo đuổi đường trọn lành không thể xếp vào hàng tu sĩ được vì họ không đủ điều kiện giáo luật. Trường hợp điển hình hơn cả là các Nữ tử Bác ái. Thánh Vinh Sơn Phaolo muốn cho các chị sống bậc trọn lành nhưng đồng thời dấn thân phục vụ người nghèo. Thế nhưng giáo luật thời đó buộc rằng ai muốn mang danh là nữ tu đúng nghĩa thì phải sống trong nội vi kín cổng cao tường. Thánh Vinh Sơn đã chọn lý tưởng tông đồ bác ái mà không chọn danh hiệu “dòng tu” và các thành viên là “tu sĩ”. Bên cạnh đó ở Việt Nam có các tổ chức Thầy giảng nhà Đức Chúa Trời, các Dòng Mến Thánh Giá và Dòng nữ Đaminh…cũng vậy, nhưng từ khi bộ giáo luật 1917 ra đời thì những quy định pháp lý không còn cứng rắn như trước, nên họ đã chuyển sang thành các Dòng tu.

b/. Một số tổ chức khác ra đời với một mục tiêu rõ ràng là hổ trợ nhau làm việc tông đồ, chứ không chú trọng tới việc tuân giữ kỷ luật tu trì. Ta thấy động lực nầy nơi nhiều hội truyền giáo của các linh mục. Thật ra, tu đoàn tông đồ rất đa dạng, nhưng đại khái chúng ta có thể thấy hai nhóm chính như sau:

          1/. Những hội chú trọng về đời sống trọn lành: Oratoire (do thánh Philippê Neri, 1557), Lazaristes (thánh Vinhsơn Phaolo, 1625, trước đó ngài đã lập các Nữ tử bác ái, 1617), St. Sulpice (Mr. Olier, 1642), Eudistes, (1643)… Những hội nầy trực thuộc bộ tu sĩ.

          2/. Những hội truyền giáo: Société pour les Missions É trangères de Paris (1660), Pontificio Istituto Missioni Estere (Italia 1850), Mill Hill (Anh 1897), Maryknoll (Hoa Kỳ 1911)…Những hội nầy trực thuộc bộ truyền giáo (số 90, Pastor Bonus).

2. Hình thức Giáo luật

Điều 731 quy định hình thức giáo luật của các tu đoàn tông đồ như sau:

Các tu đoàn tông đồ được xem như tương đương với hội dòng tận hiến. Các phần tử của các tu đoàn, tuy không có lời khấn dòng, nhưng theo đuổi mục tiêu tông đồ riêng của tu đoàn, và nhắm tới sự trọn lành của đức ái do việc sống chung theo một nếp sống đặc thù, và do việc tuân giữ hiến pháp (731§1).

Trong số các tu đoàn ấy, có những tu đoàn mà các thành viên đảm nhận các lời khuyên Phúc Âm bằng một mối ràng buộc nào đó do hiến pháp quy định (731§2).

Từ quy định pháp lý trên của bộ giáo luật chúng ta ghi nhận như sau:

          1/. Các tu đoàn nầy “được xem như tương đương” (accedunt: gần với, tương tự như, bên cạnh) các hội dòng tận hiến, tại vì: a/ họ nhắm tới sự trọn lành của đức ái (hiều ngầm qua việc tuân giữ ba lời khuyên PÂ); b/. họ có đời sống chung (điểm nầy khác với tu hội đời).

          2/. Họ khác với các hội dòng tận hiến vì họ không có lời khấn dòng. Trên thực tế, việc gia nhập vào tu đoàn được thực hiện qua lời hứa tư được nhìn nhận (tu hội Vinh Sơn cả hai ngành nam và nữ); lời thề (một số tu đoàn truyền giáo). Đó là lý do mà các nhà lập pháp nêu lên ở khoản 2 của điều 731.

          3/. Ngoài ước muốn nên trọn lành và đời sống chung, một đặc trưng của những tu đoàn nầy là “mục tiêu tông đồ”. Vì vậy mà gọi là tu đoàn đời sống tông đồ (finis apostolicus).

Có người đặt vấn đề rằng có nhiều tu đoàn có lời khấn (Nữ tử Bác Ái) sao không phải là hội đời sống thánh hiến và là những Dòng tu? Thiết tưởng đây chỉ là việc pháp lý (lời khấn công) và ý của đấng sáng lập cũng với sự đa dạng trong Giáo hội, chứ về thần học thì phải xem họ như hội dòng tận hiến. Bởi vì, bên cạnh lời cam kết gia nhập tu đoàn, các hội viên cũng thực sự muốn theo đuổi đức ái trọn hảo, và áp dụng một nếp sống thực hành như các tu sĩ (khố chê và cầu nguyện).

Tóm lại: ta có thể nói tới ba đặc trưng của các tu đoàn tông đồ: 1/. Theo đuổi sự trọn lành của đức ái; 2/. Có đời sống chung; 3/. hoạt động tông đồ.

 

TRANG LINH MỤC

Đức Thánh Cha: Biểu Lộ Chúa Từ Bi Qua Bí Tích Giải Tội

VATICAN. Sáng ngày 12-3-2015, ĐTC đã tiếp kiến 400 LM trẻ và các chủng sinh năm cuối vừa kết thúc khóa học thứ 26 về giải tội và những vấn đề lương tâm, do Tòa Ân giải tối cao tổ chức.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nhắn nhủ các vị ban bí tích hòa giải hãy liên tục cụ thể hóa và biểu lộ tôn nhan từ bi của Thiên Chúa. ”Sống bí tích này có nghĩa là giúp anh chị em chúng ta cảm nghiệm an bình và cảm thông, về mặt nhân bản và Kitô. Không được biến Bí tích giải tội thành một thứ ”tra tấn”, cần làm sao để tất cả các hối nhân, khi ra khỏi tòa giải tội cảm thấy niềm hạnh phúc trong tâm hồn, với khuôn mặt rạng ngời hy vọng, và đôi khi đẫm lệ hoán cải, và niềm hy vọng từ đó mà ra.

ĐTC nhấn mạnh rằng ”Bí tích giải tội, với tất cả những hành vi của hối nhân, không có nghĩa là một cuộc khảo cung nặng nề, gây khó chịu và xen vào cuộc sống. Trái lại bí tích này phải là một cuộc gặp gỡ giải thoát và đầy tình người, qua đó có thể giáo dục hối nhân về lòng từ bi, lòng từ bi này không loại trừ, nhưng bao gồm đúng đắn sự quyết tâm đền bù, sửa chữa sự ác đã phạm.”

ĐTC không quên nhắn nhủ các cha giải tội hãy để cho mình được bí tích hòa giải giáo dục. Ngài viết: ”Bao nhiêu lần chúng ta được khích lệ khi nghe những lời xưng tội. Những anh chị em đang sống tình hiệp thông đích thực với Chúa về mặt bản thân và Giáo Hội, một tình yêu chân thành đối với tha nhân. Những tâm hồn đơn sơ, có tinh thần thanh bần, hoàn toàn phó thác cho Chúa, tín thác nơi Giáo Hội, và nơi vị giải tội. ..

Chúng ta học hỏi được bao nhiêu điều nơi sự hoán cải và thống hối của các anh chị em chúng ta! Họ cũng thúc đẩy chúng ta hãy xét mình: Tôi là linh mục, tôi có yêu mến Chúa, Đấng đã cho tôi trở thành thừa tác viên lòng từ bi của Chúa hay không? Là linh mục, tôi có sẵn sàng thay đổi, hoán cải như hối nhân này hay không, người mà tôi đang phục vụ?” (SD 12-3-2015)

Đức Thánh Cha Khuyến Khích Các Linh Mục

Và Giáo Xứ Trong Việc Giải Tội

VATICAN - Trong buổi tiếp kiến 600 linh mục và chủng sinh sáng ngày 28-3-2014, ĐTC khuyến khích các linh mục và các giáo xứ tạo điều kiện dễ dàng và sẵn sàng giải tội các tín hữu muốn lãnh nhận Bí tích Hoà Giải.

Các linh mục và chủng sinh năm cuối vừa kết thúc khoá học thường niên về Bí tích Giải Tội và các vấn đề lương tâm, do Toà Ân giải Tối cao tổ chức.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC nhắc nhở rằng vị giữ "vai chính trong sứ vụ hòa giải là Chúa Thánh Linh. Ơn tha thứ mà bí tích này trao ban chính là sự sống mới được Chúa Phục Sinh thông truyền nhờ Thánh Linh của Ngài, vì thế anh em được kêu gọi luôn luôn là những người của Chúa Thánh Linh, là chứng nhân và là người hân hoan và hăng say loan báo sự sống lại của Chúa".

ĐTC cũng khẳng định "vai trò của vị giải tội vừa là y sĩ và là thẩm phán, nhưng chúng ta không bao giờ được quên rằng trong tư cách là y sĩ, vị giải tội được kêu gọi chữa lành, và trong tư cách là thẩm phán, vị ấy được kêu gọi xá giải".

ĐTC ghi nhận rằng "các tín hữu thường cảm thấy e ngại và cơ cực khi đi xưng tội, vì những lý do thực hành, cũng như vì khó khăn tự nhiên trong việc thú tội với một người khác, vì thế - ĐTC nói - chúng ta cần cố gắng rất nhiều, để không bao giờ trở thành chướng ngại, trái lại tạo điều kiện dễ dàng cho hối nhân đến gần lòng từ bi và ơn tha thứ".

Cũng trong bài huấn dụ, ĐTC nhắn nhủ các cha giải tội hãy tránh hai thái cực: ngặt nghèo và lỏng lẻo. "Cả hai điều này đều không mang lại ích lợi cho hối nhân. Trái lại, lòng từ bi lắng nghe thực sự bằng con tim của Thiên Chúa và muốn tháp tùng linh hồn trong hành trình hoà giải. Bí tích Giải Tội không phải là một tòa kết án, nhưng là một sự cảm nghiệm ơn tha thứ và từ bi".

Sau cùng, ĐTC nói: "Trong tất cả các giáo phận và cộng đoàn giáo xứ cần đặc biệt chăm sóc việc cử hành bí tích tha thứ và cứu độ. Một điều tốt lành là trong mỗi giáo xứ, các tín hữu biết được khi nào họ có thể tìm được các linh mục sẵn sàng giải tội cho họ: khi có sự trung thành trong vấn đề này, thì người ta sẽ thấy thành quả. Điều này đặc biệt có giá trị đối với các cộng đoàn dòng tu có thể đảm bảo một sự hiện diện liên tục các cha giải tội." (SD 28-3-2014)

Đức Thánh Cha Gặp Hàng Giáo Sĩ Roma:

Kêu Gọi Thực Thi Lòng Từ Bi

VATICAN - Trong buổi gặp gỡ các linh mục Roma sáng thứ năm 6-3-2014, ĐTC Phanxicô đặc biệt nhắc nhở các vị thể hiện lòng từ bi đối với các tín hữu, đặc biệt qua Bí tích Hoà Giải.

Hiện diện tại Đại thính đường Phaolô VI có ĐHY Agostino Vallini, Giám quản Roma, 9 giám mục phụ tá và khoảng 1.000 linh mục và phó tế phục vụ trong 330 giáo xứ thuộc Giáo phận Roma.

Trong bài suy niệm sau bài đọc Tin Mừng theo Thánh Matthêu kể lại sự kiện Chúa Giêsu chạnh lòng thương khi thấy con người mệt mỏi và kiệt lực như đoàn chiên không có mục tử chăm sóc, ĐTC gợi lại sứ điệp về lòng từ bi thương xót của Chúa mà thánh nữ Faustina truyền bá và nói: "Trong tư cách là các thừa tác viên của Giáo Hội, chúng ta có nhiệm vụ giữ cho sứ điệp về lòng từ bi thương xót của Chúa được luôn sinh động, nhất là trong các bài giảng, các cử chỉ và dấu hiệu, các quyết định mục vụ, ví dụ trả lại sự ưu tiên cho Bí tích Hoà Giải và đồng thời cho các việc bác ái từ bi."

ĐTC giải thích: "Chúa Giêsu đã có tấm lòng của Thiên Chúa, nghĩa là đầy dịu dàng đối với dân chúng, nhất là những người bị loại bỏ, các tội nhân, những bệnh nhân không ai chăm sóc... Vì thế, theo hình ảnh Vị Mục Tử Nhân Lành, linh mục là người từ bi và thương xót, gần gũi dân chúng và phục vụ tất cả mọi người. Bất cứ ai bị thương tổn trong cuộc sống một cách nào đó, có thể tìm thấy nơi vị linh mục sự quan tâm và lắng nghe. Đặc biệt linh mục chứng tỏ lòng từ bi qua việc ban Bí tích Hoà Giải; biểu lộ tâm tình ấy trong thái độ, trong cách thức đón nhận, lắng nghe, khuyên bảo và ban phép xá giải."

ĐTC cảnh giác và phê bình những linh mục "được khử trùng", lãnh đạm, những linh mục ”phòng thí nghiệm”, họ không giúp đỡ Giáo Hội. Ngài nói: chúng ta có thể nghĩ Giáo Hội ngày nay như một bệnh viện dã chiến săn sóc những người bị thương. Và có bao nhiêu ngừơi bị thương vì những vấn đề vật chất, vì những gương mù gương xấu, kể cả trong Giáo Hội, những người bị thương vì những ảo tưởng của trần thế."

Cũng trong bài huấn dụ, ĐTC kêu gọi các linh mục đề phòng tránh hai thái độ lỏng lẻo và ngặt nghèo. Ngài nói: "Giữa các cha giải tội, có những cách thức khác biệt, đó là điều bình thương, nhưng không thể có sự khác biệt về nòng cốt, nghĩa là về đạo lý luân lý lành mạnh và lòng từ bi. Thái độ lỏng lẻo cũng như thái độ ngặt nghèo đều không làm chứng về Chúa Giêsu Kitô, và cũng chẳng nâng đỡ những người mà chúng ta gặp."

ĐTC giải thích: "Người ngặt nghèo đóng đinh con người vào luật lệ được hiểu một cách lạnh lùng và cứng nhắc. Trái lại, người lỏng lẻo chỉ có vẻ bề ngoài là từ bi, nhưng thực tế họ không coi trọng vấn đề lương tâm, coi nhẹ tội lỗi."

"Linh mục thực sự có lòng từ bi thương xót hành động như người Samaritano nhân lành, vì con tim của linh mục ấy có khả năng cảm thương, đó là con tim của Chúa Kitô. Chúng ta biết rõ rằng thái độ lỏng lẻo cũng như thái độ ngặt nghèo đều không làm gia tăng sự thánh thiện. Trái lại, lòng từ bi tháp tùng và làm gia tăng hành trình thánh thiện." Sau cùng, ngài mời gọi các linh mu5cc xét mình xem mình có lòng từ bi, cảm thông với dân chúng, về đời sống cầu nguyện: Ban tối, cha kết thúc mỗi ngày như thế nào? Với Chúa hay với máy truyền hình?

Hai mẫu gương linh mục

ĐTC ứng khẩu kể lại tấm gương của hai linh mục thuộc Giáo phận Buones Aires, Argentina: vị thứ nhất nổi bật về việc giải tội và vị thứ hai về lòng từ bi.

"Linh mục thứ nhất còn sống, linh mục nổi bật của Buenos Aires, cha ấy kém tuổi tôi và sắp được 72 tuổi. Ngày nay phần lớn các linh mục trong giáo phận đến xưng tội với cha ấy. Một hôm cha ấy đến gặp tôi và nói: Thưa cha, con hơi bối rối, con tha thứ nhiều quá. Nhưng khi con cảm thấy cơn bối rối ấy tăng lên mạnh quá, con đến trước Nhà Tạm Mình Thánh Chúa và con nói với Chúa Giêsu: "Tại Chúa đã làm gương xấu cho con!"

ĐTC Phanxicô bình luận: "Nếu ai sống sự tha thứ ấy thì cũng có thể trao ban sự tha thứ ấy cho người khác."

Về vị linh mục thứ hai, ĐGH Phanxicô thú nhận là đã lấy trộm Thánh Giá của vị ấy trong quan tài. "Đó là một linh mục Dòng Thánh Thể nổi tiếng và các linh mục khác cũng đến xưng tội với cha ấy. Một trong hai lần ĐGH Gioan Phaolô II đến thăm Argentina, ngài xin gửi đến cho ngài một cha giải tội ở Toà Sứ thần Toà Thánh và người ta đã gửi vị linh mục ấy đến giải tội cho Đức Giáo hoàng."

"Khi vị linh mục ấy qua đời, tôi đang là Tổng Đại diện và ở trong Toà Giám mục. Tại đó, cứ mỗi sáng, tôi xuống xem máy Fax để coi có tin gì được gửi tới hay không. Và buổi sáng Phục Sinh, tôi đọc thấy tờ Fax báo: "Hôm qua, Cha Aristide đã qua đời." Cha được 94 hay 96 tuổi, khoảng đó. Hôm ấy tôi phải đi gặp các linh mục ở nhà dưỡng lão, nhưng sau bữa trưa, tôi đến nhà thờ của Cha Aristide. Trong tầng hầm nhà thờ chỉ có quan tài, hai bà cụ già và chẳng có hoa gì cả. Tôi tự nhủ: "Vị linh mục này đã tha thứ bao nhiêu tội lỗi cho hàng giáo sĩ và giờ đây chẳng có bông hoa nào." Nghĩ thế tôi đi lên và ra chỗ người bán hoa ở ngã tư đường để mua hoa, hoa hồng.

Trở lại hầm nhà thờ, tôi bắt đầu chuẩn bị trang điểm quan tài với các hoa vừa mua. Lúc ấy tôi nhìn thấy xâu chuỗi mân côi Cha Aristide đang cầm ở tay, "tên trộm", mà mỗi người chúng ta vẫn có trong lòng, chợt xuất hiện trong tâm trí tôi. Tôi liền lấy tay dứt Thánh giá nhỏ của xâu chuỗi mân côi trong tay Cha Aristide và cầu nguyện với cha: "Xin cha cho con một nửa lòng từ bi của cha." Tôi cảm thấy một cái gì đó mạnh mẽ. Thánh giá ấy tôi bỏ trong một túi nhỏ và luôn mang theo người. Bây giờ áo giáo hoàng không có túi ở ngực, nhưng tôi vẫn luôn mang một túi vải nhỏ bên trong với Thánh giá ấy. Và khi có một ý tưởng xấu chống lại ai, thì tôi đặt tay trên túi vải đựng Thánh giá ấy và tôi cảm thấy ơn thánh.” (mọi người vỗ tay!) (SD 6-3-2014)

G. Trần Đức Anh OP

Nguồn: Radio Vatican

 

TRANG TU SĨ

XƯƠNG RỒNG NỞ HOA

Sáng ngày đẹp trời, Cha Sở tôi đi làm phép nhà cho gia đình anh Thanh. Căn nhà khang trang rộng thoáng giữa vườn chôm chôm đang rộ bông thơm ngát. Bà con lối xóm đến thật đông cùng hiệp thông tạ ơn và cầu nguyện cho gia đình.

Sau 15 năm, vết thương sâu hoắm đã lành, nỗi đau quá lớn cũng đã vơi dần.  Anh chị cưới nhau, vợ chồng hạnh phúc cùng với hai đứa con trai làm thành tổ ấm. Bất hạnh ập xuống gia đình này khi người anh trai giết chết đứa em trong cơn say rượu vì không làm chủ được lời nói và hành vi của mình. Gia đình tan nát, chồng đau khổ bỏ bê công việc, vợ u sầu khóc than rơi vào chứng trầm cảm nặng. Sau thời gian dài, nhờ lời cầu nguyện, tình thương mến và sự quan tâm giúp đỡ tận tình của bà con trong Giáo xứ anh chị đã dần dần nguôi ngoai, dọn đất làm vườn chôm chôm nên nay đã xây được căn nhà mới. Sau nghi thức làm phép nhà, anh Thanh có bài cám ơn thật cảm động:

Trọng kính Cha sở, quý Dì. Kính thưa Ban thường vụ giáo xứ. Thưa bà con cô bác và anh chị em

Hôm nay, ngày vui mừng hoan hỷ, ngày hạnh phúc  vô biên, gia đình chúng con rất hân hạnh chào mừng Cha Sở, quý Dì , bà con cô bác và anh chị em đã dành nhiều thời gian quý báu đến tư gia đọc kinh cầu lễ giỗ cho con trai của con.  Kính thưa cha và quý vị! Sau đây con xin có đôi lời chia sẻ: Con vừa lập gia đình xong, cha mẹ có cho con một số ruộng đất hương quả. Do đó, chúng con phải cố gắng lao động cực nhọc vất vả mưu sinh kiếm sống từng ngày. Đồng thời chúng con phải chăm sóc nuôi dưỡng hai đứa con thơ bé đến ngày khôn lớn. Thế rồi, bất ngờ câu chuyện thương tâm xảy ra vào một đêm định mệnh. Bầu trời đen tối như mực như đang đồng lõa với thảm cảnh sát nhân kinh hoàng, cũng như ngày xưa Cain giêt chết em trai của mình là Aben tôi trung của Chúa. Thế là chúng con mất hết tất cả ! Một đứa vĩnh viễn ra đi để lại biết bao đau buồn thương tiếc, đứa còn lại phải mắc vòng chung thân khổ sai, nghịch tử như thế thử hỏi chúng con làm sao không buồn sầu đau đớn? Tuy nhiên, vì tình thương và trách nhiệm chúng con đành gạt nước mắt đến trại cải tạo thăm nuôi thường xuyên, với hy vọng những ngày sống trong ngục tù gian khổ , nó sẽ hồi tâm tỉnh ngộ, ăn năn khóc lóc tội lỗi của mình.

Kính thưa Cha và Quý vị! Thú thật lúc ấy chúng con chỉ muốn tìm đến cái chết. Chúng con được rất nhiều người trong Giáo xứ viếng thăm an ủi, và những cánh thư chân thành động viên, chia sẻ giúp chúng con có thêm nghị lực vui sống. Điều quan trọng là chúng con luôn tín thác vào lòng thương xót của Chúa, biết noi gương Mẹ Maria khi đứng dưới chân Thánh giá, thế là chúng con giảm bớt ưu phiền chăm chỉ làm ăn, nhờ ơn Chúa giúp chúng con mới xây được ngôi nhà mới này

Kính thưa Cha và Quý vị ! Xin tiếp tục giúp lời cầu nguyện cho chúng con biết quảng đại yêu thương tha thứ, dang rộng vòng tay ôm ấp đứa con hoang đàng thống hối trở về đoàn tụ với gia đình.  Mong sao nó sẽ trở nên người tốt giúp ích cho mọi người, cho Họ Đạo và xã hội.  Một lần nữa xin Cha Sở, quý Dì và bà con cô bác anh chị em cầu nguyện cho gia đình chúng con được mọi sự an lành phần hồn phần xác.

Mọi người xúc động chia sẻ nỗi đau quá khứ với anh chị và cùng chia vui với hạnh phúc hiện tại đồng thời gieo niềm hi vọng đoàn tụ gia đình trong tương lai. 

Việc tham dự nghi thức làm phép nhà nầy đã cho tôi một ấn tượng sâu xa về sự hiệp thông với nhau trong Giáo Xứ. 

Mặc dầu trải qua những thử thách dữ dội nhưng Anh Thanh vẫn giữ được niềm tin mạnh mẽ nhờ sự hiệp thông cầu nguyện, chia sẻ của bà con trong Giáo xứ.  Sự hiệp thông này cũng đã nâng đỡ cho gia đình anh Thanh rất nhiều và đã giúp cho gia đình Anh thành một cộng đoàn tốt trong giáo xứ.

Sự hiệp thông của Bà con cô bác trong Giáo xứ có được cũng là nhờ họ đã giữ đạo Chúa, đến Nhà Thờ để thờ phượng Chúa và hiệp thông nhau.  Nhà Thờ có thể nói là trung tâm của đời sống Giáo xứ, là trung tâm đời sống phụng vụ của các gia đình Kitô giáo, là nơi các tín hữu có thể tập họp quanh bàn tiệc Thánh Thể, cùng nhận lãnh Ơn Thánh qua các Bí Tích, là nơi các tín hữu hiệp thông chia sẻ niềm tin và cảnh sống. Nhà Thờ cũng là nơi tốt nhất để dạy giáo lý cho mọi người: các bậc phụ huynh, các thanh thiếu niên, và các trẻ nhỏ; là nơi thuận tiện cho việc thực thi bác ái, từ thiện và huynh đệ. Như vậy, từ sự hiệp thông trong cộng đoàn nhỏ gia đình, nhờ Nhà Thờ, dẫn tới sự hiệp thông sâu hơn, cao hơn, rộng lớn đó là hiệp thông trong cộng đoàn Giáo xứ..

Ngoài ra, Giáo xứ còn là cộng đoàn luôn luôn hiệp thông với nhau, giữa linh mục với giáo dân cũng như giữa giáo dân với nhau. Sự hiệp thông nầy được thể hiện qua việc cùng tham gia các giờ Kinh, Thánh Lễ tôn thờ Thiên Chúa, để cầu nguyện cho Giáo Hội, cho các Linh hồn, cầu nguyện cho nhau, qua sự tôn trọng, cộng tác và chia sẻ với nhau để cùng xây dựng ngôi nhà chung là họ đạo và thi hành sứ mạng chung là loan báo Tin Mừng cho muôn dân.

Khi một phần tử của gia đình sống tốt, có tinh thần hiệp thông trong việc tham dự các sinh hoạt tôn giáo thờ phượng Thiên Chúa, có thể giúp cho gia đình được nên tốt và từ đó sẽ giúp cho Giáo xứ được nên tốt.  Điều ngược lại cũng đúng là một Giáo xứ cùng thờ phượng một Thiên Chúa là Cha, mọi người hiệp thông với nhau trong kinh nguyện, trong việc làm, sẽ nâng đỡ cho các gia đình vượt qua những khó khăn trong cuộc sống, và như thế thì Xương Rồng cũng sẽ nở hoa.

MTG Cái Nhum

 

 BÁM RỄ SÂU VÀO CHÚA

Bác Tư ở cùng xóm đạo của Lan là một lương dân. Tuy không theo tôn giáo nào, nhưng Bác vẫn tin có Ông Trời và sống đẹp tình làng nghĩa xóm. Mỗi sáng Chúa nhật Bác đều thấy bà con xóm đạo của Lan đi nhà thờ. Bác còn thấy chị em Lan đến nhà thờ vào buổi chiều trong tuần nữa. Bác thắc mắc và không hiểu được việc làm của người Công giáo. Một buổi chiều Bác qua nhà Lan chơi, thấy chi em Lan đang vui đùa. Nghe tiếng chuông nhà thờ vang lên, thế là cuộc chơi “Trốn tìm”được dừng lại. Chị em Lan chuẩn bị đi đọc kinh tháng Đức Mẹ. Một hôm Bác hỏi Lan:

-         Cháu à! Đi nhà thờ xem ra mất giờ quá mà chị em cháu siêng đi quá vậy?

Với tuổi thiếu nhi, Lan chưa ý thức rõ giá trị cao quí của việc thờ phượng nên nhanh nhẹn trả lời:

-         Dạ! Đi quen rồi, nên nghe chuông là đi.

-         Đang vui chơi mà các cháu bỏ cuộc chơi, đi nhà thờ có tiếc không?

-         Dạ! Cũng tiếc lắm, nhưng không đi thì chúng cháu có lỗi với Chúa!

-         Mà đến nhà thờ để làm chi, Bác thấy bà con trong xóm siêng đi quá vậy?

-         Dạ để đọc kinh, cầu nguyện với Chúa. Bác ơi, Bác có thích đi nhà thờ và theo đạo Chúa không, mà hôm nay Bác hỏi thăm vậy?

-         Ở cùng xóm đạo, Chúa Nhật nào cũng thấy bà con hăng hái đến nhà thờ, Bác nghĩ chắc có điều gì hay lắm đó!

-         Hôm nào mời Bác đi nhà thờ nha!

-         Ừ! Có dịp nào Bác sẽ đi nhà thờ cho biết.

-         Hay quá! Vậy Chúa Nhật nầy Bác đi với mẹ cháu nha. Mẹ cháu sẽ vui khi cùng với Bác đi nhà thờ đó!

-         Được rồi. Cám ơn cháu nha. Bác thấy theo đạo cũng hay hay.

-         Vậy hả Bác? Cháu sẽ cầu cho Bác theo đạo, cùng đi nhà thờ đọc kinh nha!

Với tuổi thiếu nhi của Lan thì việc đến nhà thờ dự lễ đọc kinh là làm theo thói quen. Ngày thêm khôn lớn, được học hỏi qua các lớp Giáo lý và sự dạy dỗ nhắc nhở của mẹ cha, Lan mới hiểu thờ phượng là bổn phận của con người đối với Đấng tạo thành. Mỗi lần tham dự Thánh lễ hay cùng đọc kinh cầu nguyện chung với nhau đó là thể hiện việc thờ phương Thiên Chúa. Lan vẫn nhớ rõ lời Dì Hai dạy trong lớp Rước lễ bao đồng về đức thờ phượng: “Thiên Chúa là Đấng dựng nên muôn loài, luôn yêu thương con người, nên chúng ta phải thờ phượng Ngài. Thờ phượng là thực hiện sự công bằng đối với Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên chúng ta”. Và Lời Chúa phán: “Ngươi chỉ thờ phượng một mình Ngài mà thôi.” (Mt 4, 10)

Từ ấy, Lan xác tín mạnh mẽ hơn, ý thức sâu hơn về việc thờ phượng Chúa. Mỗi Chúa nhật, Lan cảm thấy ấm lòng hơn khi thấy bà con giáo dân lớn nhỏ đến nhà thờ dự lễ. Lời kinh tiếng hát của cộng đoàn vang lên ngợi khen Chúa càng làm Lan phấn khởi hơn. Nhà thờ họ đạo Lan tuy bé nhỏ nhưng đầy sức sống, vì gần như số giáo dân khá đông đủ họp nhau tôn thờ Chúa. Đây chính là cộng đoàn cùng hiệp thông trong việc thờ phượng. Lan vẫn không quên những lần được Dì Hai giúp cầu nguyện trước Thánh thể vào chiều thứ năm. Sau khi gợi ý cho cả lớp cầu nguyện, Dì dành những phút thinh lặng thật thâm trầm sâu lắng, để mỗi người thưa chuyện riêng với Chúa. Lặng thầm trước Thánh Thể, Lan bày tỏ nỗi niềm buồn vui với Chúa nhất là cầu nguyện cho ơn gọi của mình, cầu cho gia đình Bác Tư được biết Chúa. Qua nhiều lần cầu nguyện, Lan nhận ra ý Chúa. Lan muốn phụng thờ Chúa cách trọn vẹn nên quyết định chọn bậc sống hiến dâng. Thế là Lan xin gia nhập vào Hội Dòng Mến Thánh Giá của Dì Hai và Lan an vui bước theo ơn gọi nơi Hội Dòng nầy.

Tết vừa qua, Lan về vui Xuân với gia đình và biết Bác Tư lâm trọng bệnh, Bác rất đau buồn và than trách phận mình. Qua những lần ghé thăm Bác Tư, Lan an ủi và đọc Lời Chúa cho Bác nghe, giải thích cho Bác hiểu Thiên Chúa là ai? Lan cũng giúp Bác cầu nguyện với Chúa. Bà con xóm đạo thường đến thăm và an ủi Bác. Bác thật cảm động khi thấy tấm lòng tốt của người tin Chúa. Bác xin theo đạo, hết lòng tin cậy Chúa và bệnh  dần được thuyên giảm. Từ đó, Bác càng mạnh tin hơn, cùng với bà con xóm đạo đến nhà thờ để thờ phượng Chúa. Nhân ngày giỗ cha, Lan về gia đình và đến thăm Bác Tư, Bác thật cảm phục khi nhìn thấy Lan trong bộ tu phục của một Tập sinh. Bác nói:

-         Cám ơn cháu nhiều lắm. Nhờ lời cầu nguyện của cháu mà Bác khỏe lại rồi

-         Dạ! Cháu rất mừng khi hay Bác khỏe và nhất là Bác tin vào Chúa

Thờ phượng là hành vi cao đẹp của con người dâng lên Thiên Chúa. Là người tín hữu, đức tin dạy chúng ta phải kính thờ Ngài. Mỗi khi chúng ta họp nhau dâng lễ, cầu kinh đó là giây phút cộng đoàn họ đạo cùng làm việc thờ phượng. Đây là điều đẹp ý Thiên Chúa, vì Chúa nói: “Ở đâu có hai, ba người họp lại vì danh Chúa thì có Chúa ở giữa họ”. Ước gì người tín hữu nỗ lực sống đức tin qua việc thờ phượng, đây là cách bám rễ sâu vào Chúa, để nên gương sáng cho con cháu và là cách giới thiệu Chúa cho lương dân. Giữa một xã hội vật chất lên ngôi, tiền tài danh lợi được tôn thờ thì việc phượng thờ Thiên Chúa có nhiều hạn chế, dễ bị lu mờ nơi thế hệ mai sau.

MTG Cái Mơn

 

TRANG SỐNG ƠN GỌI

Đào Tạo Theo Đường Hướng Mục Vụ

Của Đức Thánh Cha Phanxicô

1. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nêu ra hướng mục vụ của Ngài, đó là mở ra về phía Chúa và về phía con người. Hai hướng đó cần được thực hiện đi đôi với nhau. Con đường mở ra là tình yêu. Gương và sức mạnh mở ra là Chúa Giêsu.

2. Trong bài diễn văn đọc trước Hội nghị Uỷ Ban Giáo Hoàng cho châu Mỹ Latinh, tại Roma, ngày 18-2-2009, Đức Jorge Bergoglio, sau này là Đức Giáo Hoàng Phanxicô, đã nhấn mạnh đến việc đào tạo linh mục. Đại ý như sau: Đào tạo này theo thánh Tôma và thánh Ambrosiô, là “Đức Kitô hình thành trong chúng ta, là chúng ta đón nhận được đức ái của Đức Kitô”.

Mục tử phải là người có kinh nghiệm sâu sắc về Thiên Chúa, theo khuôn mẫu của trái tim Chúa Giêsu. Họ luôn ngoan ngoãn với những tác động của Chúa Thánh Thần. Được như vậy, mục tử phải nuôi mình bằng Lời Chúa, Thánh Thể và cầu nguyện. Họ sẽ là mục tử thừa sai, biết bảo vệ đoàn chiên và đi tìm chiên lạc. Họ sẽ là những người phục vụ cuộc sống, biết để ý đến những nhu cầu của những kẻ yếu đuối. Họ sẽ là linh mục của lòng thương xót.

3. Ngoài ra, đời sống thiêng liêng vừa kể còn sẽ được xây dựng bằng việc đào sâu thần học, triết học và Kinh Thánh. Tất cả đều mở ra về mầu nhiệm Chúa Giêsu, giúp chúng ta gắn bó với Chúa Giêsu, Đấng mà chúng ta tin cậy với tất cả con người, linh hồn, trí khôn, trái tim. Người sẽ ban cho chúng ta Thần Khí của Người, đưa chúng ta vào chân lý toàn diện.

Trong bài giảng thánh lễ mừng Quốc Khánh nước Achentina, ngày 25-5-2012 tại Nhà Thờ Chánh Toà Thủ Đô, Buenos Aires, Đức Hồng Y Jorge Bergoglio, quả quyết: “Chỉ tình yêu sẽ cứu được chúng ta”. Ngài nói về tình yêu của Chúa Giêsu.

4. Điều đáng chú ý là Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến việc mục tử phải biết áp dụng tất cả đời sống thiêng liêng và học thuyết của mình vào thực tế. Thực tế mà tác giả nhấn mạnh là cái tâm của nền văn hoá dân tộc mình. Cái tâm đó chính là sự khôn ngoan đạo đức tiềm ẩn trong lòng dân. Thí dụ sự kính trọng dành cho những gì là linh thiêng, sự hướng lòng mình về một Đấng Tối Cao có quyền thưởng phạt.

5. Áp dụng vào thực tế như thế đòi một khả năng phân định. Người mục tử biết phân định, là giữa một tình hình hỗn độn, ngài biết giữ lại cái gì là tốt, biết đưa đàn chiên đến những nơi thực sự có cỏ xanh và nước sạch, biết bảo vệ đàn chiên khỏi những mục tử giả, những lái buôn.

6. Qua những bài diễn văn của Đức Thánh Cha, tôi thấy hướng mở ra về phía Thiên Chúa đã rất rõ, hướng mở ra về phía con người cũng khá rõ. Riêng hướng mở ra về phía con người được Đức Thánh Cha dần dần làm rõ thêm qua những trả lời báo chí phỏng vấn Ngài. Ngài nói là: Cần cổ võ cho một nền văn hoá của sự gặp gỡ. Trong cuốn “Tôi tin vào con người”, hai nhà báo được nói chuyện nhiều lần với Đức Jorge Bergoglio đã nhắc đi nhắc lại ý muốn của Đức Thánh Cha về sự phải coi gặp gỡ là mục vụ và văn hoá.

7. Ngài nói về Đất Nước Achentina của Ngài rất là bè phái. Người ta thích nhấn mạnh đến những gì chia rẽ nhau hơn là những gì đoàn kết với nhau. Người ta thích cổ võ tranh chấp hơn là hoà hợp. Chỉ có văn hoá gặp gỡ mới đưa gia đình và dân tộc đi về phía tương lai tốt đẹp. Nói về Hội Thánh tại Achentina, Ngài nói cơn cám dỗ lớn nhất là các linh mục trở thành nhà cai trị, chứ không còn là mục tử. Ngài than phiền: Nhiều người đến nhà xứ vì lý do bí tích hay việc nào đó, thì không được linh mục tiếp, mà là một bà thư ký tiếp, bà đó rất khó tính. Vấn đề thực là bà đó không phải chỉ làm cho người ta sợ và xa cha sở, mà còn làm cho người ta bỏ Hội Thánh và bỏ Chúa Giêsu.

8. Vì thế, theo Đức Phanxicô, tân Phúc Âm hoá là hãy bắt đầu bằng gặp gỡ. Gặp gỡ thân tình. Gặp gỡ thân tình còn là đi đến với con người. Phúc Âm nói: Mục tử nhân lành bỏ 99 con tốt, để đi tìm một con chiên lạc. Còn thực tế trong Hội Thánh chúng ta, thì xem như ngược lại. 

Đức Thánh Cha coi mục vụ gặp gỡ và văn hoá gặp gỡ là rất quan trọng. Nhưng thực hiện được đến mức nào thôi vẫn chỉ là hy vọng. Ngài coi việc thực hiện ý nguyện của Ngài là rất khó, như phải nhảy xuống sông trong đêm tối. Tuy nhiên, Ngài vẫn hy vọng, Ngài tin rằng: Về mặt nhân bản, nơi mỗi con người vẫn có những tiềm năng tốt. Về mặt đức tin, con người vẫn được Chúa thương bằng một tình yêu nhưng không đầy thương xót.

9. Với một thoáng nhìn trên đây về Đức Thánh Cha Phanxicô, tôi thấy hướng mục vụ của Ngài giúp tôi thực thi một cách sâu sắc hơn hướng mục vụ của Hội đồng Giám Mục Việt Nam được tuyên bố trong thư mục vụ 1980 đó là: “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc”. Thực thế, “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc” chính là hướng mở ra về phía Chúa và cũng mở ra về phía dân tộc. 

Điều tôi thấy cần bắt chước Đức Thánh Cha, để thực thi đường hướng đó một cách sâu sắc hơn, đó là cố gắng nhiều hơn đến việc đào tạo đời sống thiêng liêng. Tôi thấy Đức Thánh Cha Phanxicô có một đời sống thiêng liêng rất sâu, rất mạnh, rất vững, đặc biệt là ở điểm khiêm nhường và yêu thương.

10. Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến trách nhiệm phải cứu con người khỏi khổ, nhất là khỏi tội lỗi, cứu con người khỏi mất linh hồn, cứu con người khỏi sa hoả ngục. Việc cứu khổ là cấp bách, đòi nhiều hy sinh. Chỉ có tình yêu mới cứu được. Tình yêu cứu độ là Chúa Giêsu. Các mục tử phải được đào tạo kỹ, để có tình yêu cứu độ từ Chúa Giêsu.

11. Qua những gì Đức Thánh Cha dạy về đào tạo, tôi thấy cần xem xét lại việc đào tạo môn đệ Chúa tại Việt Nam hôm nay. Nhiều nơi, học nhiều mà đào tạo thì ít. Có nơi đào tạo chỉ là học thuộc mà thôi. Điều tôi cho là còn thiếu ở nhiều nơi đào tạo là đời sống thiêng liêng. Nhiều người đào tạo cũng nghèo đời sống thiêng liêng. Ít là chúng ta khiêm tốn nhận thức được là đào tạo nơi chúng ta còn thiếu sót nhiều, thì đó cũng là một khởi đầu tốt. 

Đêm 27-6 vừa qua, lúc 3 giờ 30, tôi mở đài truyền hình, chợt thấy một phim đang nói về các tôn giáo lớn ở Việt Nam. Riêng về Phật giáo, phim chiếu cảnh chùa chiền đào tạo các thanh thiếu niên về đời sống đạo, đặc biệt là về mặt linh thiêng. Điều làm tôi chú ý nhất là các thanh thiếu niên được hướng dẫn và tập luyện một cách tỉ mỉ về lối sống tu thân, từ cách ăn mặc, đến việc ăn uống, đi đứng, nói năng, chay tịnh, khó nghèo, thinh lặng, từ bỏ mình, cầu nguyện, và phục vụ người khác.  Cảnh đào tạo đó gợi ý nhiều cho tôi về việc đào tạo các mục tử mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói về Công giáo. Phải chăng Chúa muốn chúng ta hãy nhìn sang các tôn giáo bạn tại Việt Nam hôm nay, để càng phải mau chấn chỉnh lại việc đào tạo mình.

Long Xuyên, ngày 01 tháng 7 năm 2013

+ GB. BÙI TUẦN

 

TRANG THIẾU NHI

CHÌA KHÓA CỦA NIỀM VUI

Một người biết nắm chắc chìa khóa niềm vui của mình thì người đó không đợi chờ người khác làm cho mình vui.

Phóng viên nổi tiếng Sydney Harries và một người bạn dừng chân mua báo ở một quầy bán báo, người bạn mua xong rất lịch sự nói lời "Cám ơn!" nhưng người chủ quầy báo thì ngược lại, mặt lạnh như tiền, một tiếng cũng không thèm mở miệng.

Hai người rời quầy báo tiếp tục đi về phía trước, Sydney Harries hỏi:

-         Ông chủ đó thái độ kỳ quái quá phải không?

-         Cứ mỗi buổi tối là anh ta đều như vậy cả

-         Người bạn đáp lại

-         Như vậy, tại sao bạn lại đối xử tử tế với ông ta chứ? - Sydney

Harries lại hỏi tiếp:

-         Tại sao tôi để ông ta quyết định hành vi của tôi chứ? - Người bạn trả lời

Một người biết nắm chắc chìa khóa niềm vui của mình, thì người đó không đợi chờ người khác làm cho mình vui mà ngược lại mình còn có khả năng đem niềm vui đến cho người khác. Trong tâm của mỗi người đều có "Chiếc chìa khóa của niềm vui", nhưng chúng ta lại không biết nắm giữ mà đem giao cho người khác cầm giữ.

Một người phụ nữ thường than phiền trách móc: "Tôi sống rất buồn khổ, vì chồng tôi thường vắng nhà!", cô ta đã đem chìa khóa niềm vui của mình đặt vào tay chồng.

Một người mẹ khác thì nói: "Con trai tôi không biết nghe lời, làm cho tôi thường xuyên nổi giận!", bà đã trao chìa khóa niềm vui của mình vào tay con trai.

 

Một vị trung niên của một công ty thở dài nói: "Công ty không thăng chức cho tôi, làm tinh thần tôi giảm sút...!", anh ta lại đem chìa khóa niềm vui của cuộc đời mình nhét vào tay ông chủ.

Bà cụ kia than thở: "Con dâu tôi không hiếu thuận, cuộc đời tôi sao mà khổ!".

Một thanh niên trẻ từ tiệm sách bước ra la lên: "Thái độ phục vụ của ông chủ đó thật đáng ghét..."

Những người này đều có một quyết định giống nhau, đó là để người khác chế ngự tình cảm của mình. Lúc chúng ta cho phép người khác điều khiển và chế ngự tinh thần chúng ta, chúng ta có cảm giác như mình là người bị hại, đối với tình huống hiện tại không có phương pháp nào khác nên trách móc và căm giận, việc này trở thành sự lựa chọn duy nhất của chúng ta.

Chúng ta bắt đầu trách móc người khác đồng thời chúng ta cũng truyền tải một yêu cầu là: "Tôi khổ như vậy là do người khác và họ phải chịu trách nhiệm về nỗi khổ này!". Lúc đó chúng ta đem trách nhiệm trọng đại phó thác cho những người xung quanh và yêu cầu họ làm cho chúng ta vui.

Chúng ta dường như thừa nhận mình không có khả năng tự chủ lấy mình, mà chỉ có thể nhờ người nào đó xếp đặt và chi phối mình. Những người như vậy khiến nhiều người không muốn tiếp xúc, gần gũi, lý do đơn giản là bởi khi nhìn thấy họ ta chỉ thấy toàn sự trách móc, giận hờn.

Nhưng, một người biết nắm chắc chiếc chìa khóa niềm vui của mình thì người đó không đợi chờ người khác làm cho mình vui mà ngược lại mình còn có khả năng đem niềm vui đến cho người khác. Tinh thần người đó ổn định, biết chịu trách nhiệm về chính mình không đổ lỗi cho người khác; biết làm chủ xúc cảm và biết tạo, cũng như giữ được niềm vui cho chính mình. Như thế thì trong cuộc sống và công việc hằng ngày, người đó sẽ luôn thảnh thơi, vui vẻ và không bị áp lực từ người khác.

Chiếc chìa khóa niềm vui của bạn ở đâu rồi? Đang nằm trong tay người khác phải không? Hãy nhanh lên mà lấy lại bạn nhé!

Haley (Dịch từ Life-goal)

 

THÁNH LỄ: CỘNG ĐOÀN CÙNG NHAU CỬ HÀNH

Một trong những yếu tố quan trọng không thể thiếu được của một tôn giáo là nghi lễ thờ phượng. Nghi lễ thờ phượng này sẽ mang tính cách cộng đoàn. Nghĩa là mỗi cá nhân trong cùng một tôn giáo sẽ hợp nhất với nhau để tham dự các nghi lễ thờ phượng.

Hơn nữa, một trong bốn đặc tính chính yếu của Hội thánh Công giáo là duy nhất. Duy nhất trong cùng một niềm tin và cũng là duy nhất trong cùng một nghi lễ thờ phượng. Thời Giáo Hội sơ khai các tín hữu đã chuyên cần cầu nguyện không ngừng chung với nhau. Đỉnh cao của việc cầu nguyện chính là tham dự lễ bẻ bánh. Lễ bẻ bánh ấy ngày nay chính là Thánh lễ.

Trong bữa tiệc ly Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Thánh Thể và Chúa đã căn dặn: "Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy" (Lc 22, 19). Như vậy ta thấy Chúa không chỉ riêng một Tông đồ nào mà Chúa dùng từ các con. Cho nên, dù là Linh mục cử hành Thánh lễ một mình cũng là nhân danh cộng đoàn để cử hành.

Có thể nói được hình ảnh đẹp nhất của đạo Công giáo là mỗi ngày và nhất là vào mỗi ngày Chúa nhật có rất đông người tín hữu cùng nhau đến Nhà thờ Họ đạo của mình để tham dự Thánh lễ. Hiện diện trong Thánh lễ có đầy đủ các thành phần từ ấu nhi đến người lớn tuổi. Thánh lễ cũng không phân biệt màu da hay chủng tộc. Người sang trọng hay người nghèo hèn cũng đều được mời tham dự.

Điều đáng buồn là thực tế ngày nay các bạn trẻ và thiếu nhi dần dần ít đến Nhà thờ để tham dự Thánh lễ. Vì lý do sức ép của công việc hay của việc học mà các bạn dễ dàng xao lãng trong việc tham dự Thánh lễ.

Thậm chí có nhiều bạn nghĩ theo lối sống thực dụng: khi nào đi dự Thánh lễ được cho tiền hay cho gạo mới đi. Vì họ nghĩ rằng thời gian đi dự lễ họ sẽ làm thêm được nhiều việc kiếm được nhiều tiền.

Hay như dụ ngôn những người mời dự tiệc xin kiếu Chúa nói trong Tin mừng. Họ từ chối với nhiều lý do:  "Người thứ nhất nói: "Tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm; cho tôi xin kiếu. Người khác nói: "Tôi mới tậu năm cặp bò, tôi đi thử đây; cho tôi xin kiếu. Người khác nói: "Tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được" (Lc 14, 18 - 20).

Ước gì các bạn trẻ và thiếu nhi Công giáo ngày nay thấy được giá trị của việc tham dự Thánh lễ với tính cách cộng đoàn. Để rồi dù có bận rộn đến đâu các bạn vẫn sắp xếp thời gian đến thờ phượng Chúa nơi các Nhà thờ. Kín múc lấy nguồn sống và nguồn bình an trong Thánh lễ cộng đoàn sẽ là động lực rất tốt đề các bạn vượt khó dễ dàng và nhẹ nhàng.

 

TRANG GIỚI TRẺ

Bài Giáo Lý XIV Về Kinh Tin Kính Của ĐTC Phanxicô

Hội Thánh Duy Nhất

Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý ĐTC Phanxicô ban hành ngày 25 tháng 9 năm 2013 trong buổi Triều Yết Chung được tổ chức tại Quảng Trường Thánh Phêrô.  Hôm nay ngài tiếp tục chu kỳ Giáo Lý về kinh Tin Kính và Năm Đức Tin và nói về Hội Thánh Duy Nhất

 

Anh chị em thân mến, chào anh chị em,

Trong “Kinh Tin Kính” khi chúng ta đọc “Tôi tin Hội Thánh duy nhất” nghĩa là chúng ta tuyên xưng rằng Hội Thánh là duy nhất, và điều đó có nghĩa là trong chính mình Hội Thánh này là sự hiệp nhất.  Nhưng nếu nhìn vào Hội Thánh Công Giáo trên hoàn vũ chúng ta khám phá ra rằng nó bao gồm gần 3.000 giáo phận trải rộng trên tất cả các châu lục, gồm nhiều ngôn ngữ và nhiều nền văn hóa!  Ở đây có các Giám Mục của nhiều nền văn hóa khác nhau, từ nhiều quốc gia.  Có Giám Mục Tích Lan, Giám mục Nam Phi, một Giám mục Ấn Độ, có rất nhiều người ở đây…  Các Giám Mục Châu Mỹ La Tinh.  Hội Thánh đang ở rải rác khắp nơi trên thế giới!  Tuy nhiên, hàng ngàn cộng đồng Công Giáo hợp thành một sự hiệp nhất.  Làm sao điều này có thể xảy ra?

1.  Một câu trả lời ngắn gọn được tìm thấy trong Sách (Toát Yếu) Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, trong đó xác nhận: Hội Thánh Công Giáo lan tràn trên toàn thế giới “có một đức tin duy nhất, một đời sống bí tích duy nhất, một chuỗi kế nhiệm tông truyền duy nhất, cùng một niềm hy vọng chung và cùng một đức mến” (số 161).  Đó là một định nghĩa đẹp, rõ ràng, hướng dẫn chúng ta cách tốt đẹp.  Sự hiệp nhất trong đức tin, đức cậy, đức mến, sự hiệp nhất trong các bí tích, trong các thừa tác vụ, như những trụ cột nâng đỡ và giữ vững tòa nhà to lớn duy nhất của Hội Thánh.  Dù chúng ta đi bất cứ nơi nào, ngay cả trong giáo xứ nhỏ bé nhất, trong một nơi xa xôi nhất của trái đất này, đều có một Hội Thánh duy nhất; chúng ta cảm thấy thoải mái như ở nhà, chúng ta ở trong một gia đình, chúng ta là anh chị em.  Và đây là một hồng ân cả thể của Thiên Chúa!  Hội Thánh là một cho tất cả mọi người.  Hội Thánh không phải là một Hội Thánh cho ngưởi Châu Âu, một Hội Thánhội Thánh  cho người Châu Phi, một Hội Thánh cho người Châu Mỹ, một Hội Thánh cho người Châu Á, một Hội Thánh cho những người Châu Đại Dương, không, Hội Thánh là một ở khắp mọi nơi.  Hội Thánh giống như một gia đình: người ta có thể ở xa, rải rác trên thế giới, nhưng mối liên hệ sâu đặm nối kết tất cả các phần tử trong gia đình vẫn kiên định bất kể khoảng cách.  Tôi nghĩ đến, kinh nghiệm về Ngày Giới trẻ Thế giới tại Rio de Janeiro chẳng hạn, trong đó đám đông bao la những người trẻ trên bãi biển Copacabana, người ta đã nghe thấy nhiều ngôn ngữ, nhìn thấy những khuôn mặt với những đặc điểm rất khác nhau, người ta đã gặp các nền văn hóa khác nhau, nhưng, tuy thế, có một sự hiệp nhất sâu xa, chúng ta hợp lại thành một Hội Thánh, chúng ta đã hợp nhất với nhau, và người ta cảm nhận được điều ấy. 

Tất cả chúng ta hãy tự hỏi: Còn tôi, như một người Công Giáo, tôi có cảm thấy sự hiệp nhất này không?  Như một người Công giáo, tôi có sống sự hiệp nhất này của Hội Thánh không?  Hoặc tôi không quan tâm gì đến điều ấy, bởi vì tôi đang bị khép kín trong nhóm nhỏ của tôi hay trong chính mình?  Có phải tôi là thành viên của những người “tư nhân hóa” Hội Thánh cho nhóm riêng của mình, cho dân tộc riêng của mình, cho những bạn bè riêng của mình không?  Thật đáng buồn khi tìm thấy một Hội Thánh “bị tư nhân hóa” vì sự ích kỷ và thiếu đức tin này.  Thật đáng buồn!  Khi nghe nói rằng rất nhiều Kitô hữu trên thế giới đang đau khổ, tôi thờ ơ không hay tôi coi họ như những người trong gia đình của tôi đang bị đau khổ?  Khi tôi nghĩ hoặc nghe nói rằng có rất nhiều Kitô hữu bị bách hại và thậm chí hiến mạng sống của họ cho đức tin, điều này làm cho tim tôi rung động hay không ảnh hưởng gì đến tôi?  Tôi có mở lòng ra cho người anh em hay chị em này của gia đình tôi đang hiến cuộc đời mình cho Chúa Giêsu Kitô không?  Chúng ta có cầu nguyện cho nhau không?  Tôi xin hỏi anh chị em môt câu, nhưng đừng trả lời lớn tiếng, chỉ trong lòng anh chị em thôi, có bao nhiêu người đang cầu nguyện cho các Kitô hữu bị bách hại?  Bao nhiêu ngưởi?  Chắc mọi người trả lời trong lòng.  Tôi có cầu nguyện cho anh này chị kia đang gặp khó khăn trong việc tuyên xưng và bảo vệ đức tin của họ không?  Điều quan trọng là nhìn ra bên ngoài nội vi của mình, để cảm thấy rằng mình là Hội Thánh, gia đình duy nhất của Thiên Chúa!

2.  Chúng ta hãy đi xa hơn một chút và tự hỏi: sự hiệp nhất này có những vết thương không?  Chúng ta có thể làm tổn thương sự hiệp nhất này không?  Tiếc thay, chúng ta thấy rằng trong quá trình lịch sử và ngay cả bây giờ, chúng ta không luôn luôn sống trong sự hiệp nhất.  Đôi khi xuất hiện những hiểu, xung đột, căng thẳng, chia rẽ, là những điều làm tổn thương nó, và do đó Hội Thánh đã không có khuôn mặt mà chúng ta muốn, không biểu hiện tình yêu, là điều Thiên Chúa muốn.  Chính chúng ta là những người tạo ra những vết rách!  Và nếu chúng ta nhìn vào những chia rẽ vẫn còn tồn tại giữa các Kitô hữu, Công giáo, Chính Thống giáo, Tin Lành…  chúng ta cảm thấy sự khó khăn trong việc làm sự hiệp nhất này được hoàn toàn hữu hình.  Thiên Chúa ban cho chúng ta sự hiệp nhất, nhưng chúng ta thường thấy khó sống nó.  Chúng ta phải tìm cách xây dựng sự hiệp thông, giáo dục về hiệp thông, để vượt qua những hiểu lầm và chia rẽ, bắt đầu từ gia đình, từ các thực tại thuộc về Hội Thánh, cùng trong việc đối thoại đại kết.  Thế giới của chúng ta cần sự hiệp nhất. 

Chúng ta đang ở trong một thời đại mà trong đó tất cả chúng ta cần hiệp nhất, cần hòa giải, hiệp thông và Hội Thánh là nhà của sự hiệp thông.  Thánh Phaolô nói cùng các  tín hữu Êphêsô rằng: “Vì thế, tôi, một tù nhân vì Chúa, van nài anh em hãy sống xứng đáng với ơn gọi mà Thiên Chúa đã kêu mời anh em, bằng tất cả lòng khiêm tốn, hiền lành và nhẫn nại; hãy chịu đựng lẫn nhau trong đức ái.  Hãy cố gắng duy trì sự hiệp nhất trong Thần Khí, bằng mối dây hòa thuận” ( 4, 1-3).  Khiêm tốn, hiền lành, nhẫn nại, yêu thương để bảo vệ sự sự hiệp nhất!  Này, đó là những con đường, những con đường thật sự của Hội Thánh.  Chúng ta hãy nghe một lần nữa.  Khiêm tốn thay vì phô trương, thay vì tự hào, khiêm tốn, hiền lành, nhẫn nại và yêu thương để bảo vệ sự sự hiệp nhất!

Và Thánh Phaolô tiếp tục: Chỉ có một thân thể, đó là thân thể của Đức Kitô mà chúng ta lãnh nhận trong Bí Tích Thánh Thể; và một Thần Khí duy nhất, là Chúa Thánh Thần Đấng không ngừng sinh động hóa và tái tạo Hội Thánh;một niềm hy vọng duy nhất, đời sống vĩnh cửu; một đức tin duy nhất, một Phép Rửa duy nhất, một Thiên Chúa duy nhất là Cha của mọi người (x. cc. 4-6).  Sự phong phú của những gì liên kết chúng ta!  Và điều này là một kho báu thật: những gì liên kết chúng ta, không phải những gì chia rẽ chúng ta.  Đây là tài sản của Hội Thánh!  Chớ gì hôm nay mỗi người tự hỏi mình: tôi có làm cho sự hiệp nhất trong gia đình, trong giáo xứ và trong cộng đồng lớn lên không, hay là tôi nói điều xấu?  Tôi có là lý do của chia rẽ, của ngột ngạt không?  Nhưng anh chị em không biết rằng việc ngồi la mách lẻo làm hại Hội Thánh, các giáo xứ, các cộng đồng biết bao!  Nó hại biết bao!  Những tin đồn làm tổn thương.  Trước khi phao đồn nhảm nhí, một Kitô hữu phải cắn lưỡi mình!  Có hay không?  Cắn lưỡi mình: điều này sẽ tốt cho chúng ta, bởi vì khi lưỡi xưng lên thì người ta không thể nói được nữa và không còn có thể mách lẻo nữa.  Tôi có khiêm tốn để hàn gắn những vết thương của sự hiệp nhất bằng lòng kiên nhẫn và hy sinh không?

3.  Sau hết, một bước cuối cùng đi sâu hơn.  Và, đây là một câu hỏi tuyệt đẹp: ai là động lực của sự hiệp nhất này của Hội Thánh?  Đó chính là Chúa Thánh Thần mà chúng ta đã nhận được trong Bí Tích Rửa Tội và cũng trong Bí Tích Thêm Sức.  Chính Chúa Thánh Thần.  Sự hiệp nhất của chúng ta không chủ yếu là kết quả của một thỏa thuận, hoặc của sự dân chủ trong Hội Thánh, hay nỗ lực của chúng ta để có được sự đồng lòng, nhưng nó đến từ Đấng làm ra sự hiệp nhất trong sự đa dạng, bởi vì Chúa Thánh Thần là sự hòa hợp, luôn luôn tạo nên sự hòa hợp trong Hội Thánh.  Đó là một sự hiệp nhất hài hòa trong sự đa dạng rất lớn lao của các nền văn hóa, ngôn ngữ và tư tưởng.  Chính Chúa Thánh Thần là động cơ.  Chính vì thế mà cầu nguyện là điều, vì cầu nguyện là linh hồn của sự dấn thân của chúng ta, những người nam nữ của hiệp thông và hiệp nhất.  Cầu nguyện với Chúa Thánh Thần, bởi vì Ngài đến và làm nên sự hiệp nhất của Hội Thánh.

Chúng ta hãy cầu xin Chúa:  Lạy Chúa, xin ban cho chúng con luôn biết mỗi ngày một hiệp nhất hơn, và đừng bao giờ trở thành công cụ của chia rẽ; xin làm cho chúng con biết dấn thân, như lời trong một kinh nguyện đẹp đẽ của Phanxicô, để đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem sự hiệp nhất vào nơi bầt hòa.  Chớ gì được như vậy.

Phaolô Phạm Xuân Khôi 

Nguồn: conggiaovietnam.net

 

TRANG GIA ĐÌNH

NĂM GIÁ TRỊ CĂN BẢN CẦN DẠY CON

Để con bạn trưởng thành, sống hạnh phúc và có ích thì cần có sự định hướng từ cha mẹ.

Thực tế là đôi khi chúng ta quá chú trọng đến việc dạy kỹ năng mà quên mất việc dạy những giá trị. Trong khi bọn trẻ luôn cần khắc sâu những giá trị đích thực, học được từ gia đình như là chiếc la bàn cuộc đời của chúng.

 

Và đây là năm giá trị gia đình bạn cần trao lại cho con:

1.  Làm việc chăm chỉ và luôn phải cố gắng hết mình

Việc dạy con cái mình về cách cư xử đúng đắn trong công việc là rất quan trọng. Bất kể nghề nghiệp của chúng ta là gì, con cái chúng ta cần biết cha mẹ chúng phải kiếm sống bằng cách cung cấp những sản phẩm hoặc dịch vụ có giá trị cho những người khác.

Bọn trẻ cần phải hiểu rằng sau này chúng cũng phải làm việc một cách lương thiện để kiếm những đồng tiền lương thiện. Không có quyền lừa dối, gian lận, trộm cướp hoặc mưu đồ kiếm tiền của người khác một cách đen tối.

2.  Luôn nói sự thật và phải trung thực

Trung thực chính là nền tảng cho những mối quan hệ đúng đắn trong cuộc đời. Một cách nào đó, sự dối trá thường tạo ra những điều xấu, những hệ luỵ và tổn thương lâu dài.

Có rất nhiều ví dụ như vậy xảy ra trong cuộc sống. Hãy cho con thấy rằng tất cả chúng ta đều có lúc phạm lỗi lầm. Nhưng càng sớm nói ra sự thật một cách cởi mở, thì chúng ta càng nhanh chóng giải quyết được vấn đề và giảm thiểu thiệt hại.

3.  Đừng làm tổn thương chính mình hoặc người khác

Vì tất cả mọi người, chúng ta phải truyền thụ một ý thức thấu cảm và lòng yêu thương cho con cái chúng ta. Khi chúng còn nhỏ, chúng ta dạy con không đánh, cắn hoặc ném đồ vật vào người khác, tránh xa bếp lửa, điện và vật nhọn… Khi chúng lớn hơn, chúng ta dạy con tránh những hành động tình dục nguy hiểm, tránh việc lái xe trong tình trạng say xỉn và khôn ngoan trong vấn đề chi tiêu tiền bạc.

Nếu chúng ta làm tròn trách nhiệm của mình, con chúng ta khi lớn lên sẽ biết tôn trọng chính bản thân mình và người khác đủ để không làm những điều dại dột có thể gây ra nỗi đau lớn lao như nhiều người đang cảm thấy ngày hôm nay.

4.  Đừng lấy những gì không phải của mình

Điều này dường như là hiển nhiên, nhưng rõ ràng nó cần được nhắc lại cùng với những khái niệm căn bản nhất về quyền sở hữu:

-         Nếu con không có nó đầu tiên hoặc nó không dành cho con, vậy nó không phải là của con!

-         Nếu nó không phải là của con, vậy con phải để nó ở đó.

-         Nếu con mượn nó, con cần sự cho phép và sau đó con cần phải gìn giữ và chăm sóc nó ở mức độ cao hơn thường lệ, thậm chí hơn cả nếu nó là của con.

 

5.  Con muốn mọi người đối xử với mình như thế nào thì hãy đối xử với mọi người như vậy

Đây là quy tắc vàng, định hướng cho tất cả mọi thứ. Nó thật đơn giản nhưng mạnh mẽ. Nó sẽ giúp con bạn trở thành người luôn được tôn trọng và yêu thương. Đừng quên bất cứ cơ hội nào có thể để ghi khắc nó vào tâm khảm đứa con bé bỏng của bạn.

Hãy tin tôi, chỉ năm giá trị ngắn gọn này có thể giúp con bạn có một cuộc sống tốt đẹp trong tương lai. Hãy nhấn mạnh những giá trị gia đình này ở nhà chúng ta. Hãy khắc sâu nó vào tâm hồn và trái tim của con cái chúng ta để không bao giờ chúng có thể quên được.

Theo Nguyên Giang

(Sài Gòn Tiếp Thị)

 

TRANG GIÁO LÝ VIÊN

25 Bài Giáo Lý Về Thánh Phaolô

  Bài 14: Thánh Phaolô bắt bớ Kitô hữu khi nào, và tại sao?

Sự kiện thánh Phaolô gặp Chúa Giêsu trên đường Damascus có thể đã xảy ra chừng ba năm sau khi Chúa Giêsu sống lại, nhưng việc thánh Phaolô tham gia quấy nhiễu, gây khó khăn cho Kitô hữu chắc chắn đã bắt đầu trước đó.

Trong Công Vụ Tông Đồ ghi lại là khi Stephanô bị ném đá chết, Phaolô có mặt ở đó, và “các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Saolô” (Cvtđ 7:58). Không chỉ tham gia một cách thụ động, Phaolô còn “tán thành việc giết ông Stêphanô” (Cvtd 8:1). Sau này, khi rao giảng trước triều đình vua Acrippa, Phaolô đã tự nhận: “Về phần tôi, trước kia tôi nghĩ rằng phải dùng mọi cách để chống lại danh Giêsu người Nadarét. Đó là điều tôi đã làm tại Giê-ru-sa-lem. Được các thượng tế uỷ quyền, chính tôi đã bỏ tù nhiều người trong dân thánh; và khi họ bị xử tử, tôi đã bỏ phiếu tán thành. Nhiều lần tôi đã rảo khắp các hội đường, dùng cực hình cưỡng bức họ phải nói lộng ngôn. Tôi đã giận dữ quá mức đến nỗi sang cả các thành nước ngoài mà bắt bớ họ” (Cvtđ 26:10-11).

Câu hỏi “tại sao Phaolô bắt bớ các Kitô hữu?” có nhiều lý do để cắt nghĩa. Về phương diện tôn giáo, Phaolô là một tín đồ Do Thái giáo nhiệt thành, theo gương cha ông, muốn bảo vệ đạo mình và chống lại tất cả những tổ chức gây nguy hại cho Do Thái giáo (Gal 1:13-14; Phil 3:6). Về phương diện chính trị (mà chính trị không thể tách ra khỏi tôn giáo với nhiều người Do Thái thời đó), Phaolô tỏ ra yêu dân tộc Do Thái qua việc bảo vệ Do Thái giáo chống lại ảnh hưởng của một giáo phái mới (là Kitô giáo) chấp nhận sự có mặt của người ngoại (Roma, Hi Lạp…) sinh hoạt chung với người Do Thái. Phaolô cũng như những người yêu nước khác sợ rằng nếu nhiều người Roma theo giáo phái mới này, dần dà ảnh hưởng của Kitô sẽ mạnh hơn, vì về chính trị người Roma là những kẻ nắm quyền đô hộ.

Phaolô, cũng như nhiều thanh niên nhiệt thành Do Thái đương thời, đề cao gương sống anh hùng của 3 vị: Pinkhát (cháu Aharon), tiên tri Elia, và tư tế Mattítgia. Ba vị này ảnh hưởng đời sống Phaolô cũng như nhiều thanh niên đương thời.

Pinkhát, vì nhiệt thành với đạo của Giavê Thiên Chúa, giết chết Dimri vì Dimri tuyên truyền tà thần khác ngoài Giavê và quảng bá đời sống sa đoạ cho dân Do Thái (Dân số 25:7-13). Việc ông giết Dimri được xem là đẹp lòng Chúa (Dân số 25:10-13), và được dân Do Thái khen tặng (Tv 106:30-31).

Tiên tri Elia, vì lòng nhiệt thành với Giavê, đã thách thức hơn 450 ngôn sứ của thần Baal trong cuộc đấu sức trên núi Carmen để xem Giavê hay Baal đích thực là thần. Sau khi thắng cuộc thi, Elia đã ra lệnh giết chết các tiên tri này (1 Các Vua 18:17-40; 19: 10).

Theo chân của Elia và Pinkhát, Mattítgia “nhiệt tình với luật Chúa” nên đã giết một người đồng hương Do Thái khi người này dám nghe theo vua Antiochus IV để cúng ngoại tà thần (1 Macabê 2:23-28).

Như những cha ông này, Phaolô có lòng nhiệt thành với Chúa Giavê, với dân Israel, và với Luật Môisê.

Về phương diện thần học, lý do Phaolô cưỡng bức Kitô giáo vì: (1) những người theo Đức Giêsu Kitô coi nhẹ Luật Môisê; (2) họ có thái độ coi thường Đền Thờ vì họ không còn thờ phượng Thiên Chúa trong đền thờ; (3) họ (Kitô hữu) dám nhận người ngoại vào trong cộng đoàn chung với những người Do Thái. Vì thế người Do Thái lúc này ngồi ăn cùng bàn với những người không chịu phép cắt bì; (4) và điều khó công nhận nhất là trong khi những nhà lãnh đạo tôn giáo (thượng tế, luật sĩ, biệt phái…) kết án Đức Giêsu là người phạm thánh, và bị giết chết treo như một ác nhân (mà theo Do thái giáo, Thiên Chúa lên án chết cho kẻ phạm tội - xem Đệ Nhị Luật 21:23), thì những Kitô hữu tôn thờ và công bố Đức Giêsu được Thiên Chúa cho chỗi dậy từ cõi chết, là Đấng Mêsia của Israel. Đây là điều phạm thánh không chấp nhận được.

Tóm lại, có thể có lý do này quan trọng hơn lý do kia, nhưng tính tổng hợp của tất cả những lý do trên đã khiến con người Phaolô nhiệt thành trở nên người bắt bớ Kitô hữu.

Mt. Nguyễn khắc Hy, S.S.

Nguồn: liendoanconggiao.net

 

 

TRANG QUỚI CHỨC

CHUNG SỨC

Đối với các Kitô hữu nhà thờ là điểm đến cho việc thờ phượng chính thức của Hội Thánh. Vì là Hội là sự tập họp của một nhóm người, của một tập thể, nên việc thờ phượng của Hội Thánh không phải là việc riêng tư của một người, cho nên cần phải có một nơi để họp nhau lại. Nhà thờ chính là nơi đó.

Chúng ta có thể cầu nguyện mọi lúc, mọi nơi; chúng ta có thể cử hành các bí tích, chúng ta có thể dâng thể ở bất cứ nơi đâu có khung cảnh tôn nghiêm, xứng đáng cho một Kitô hữu nào đó do hoàn cảnh và nhu cầu của họ. Thế nhưng, địa điểm lựa chọn số một vẫn là nhà thờ vì đó là nơi được mọi người lựa chọn để cùng nhau cầu nguyện, nơi không thể lầm lẫn với những nơi khác.

Khi tôi nói: tôi đang đi lễ, người nghe sẽ biết rằng tôi đang đi tới nhà thờ. Khi tôi nói: tôi đã được rửa tội, người ta sẽ hỏi: anh được rửa tội tại nhà thờ nào hoặc khi cha sở thông báo: tuần tới họ đạo chúng ta sẽ được Đức Giám Mục đến ban bí tích Thêm Sức, thì không ai lại hỏi: ban ở đâu, nhà ông nào ?

Mọi sinh hoạt của một họ đạo đều tập trung tại nhà thờ, bởi vì nhà thờ không là của riêng ai, dù cho đó là người đã hiến đất để cất nhà thờ, người bỏ tiền ra để xây nhà thờ. Một khi nhà thờ được hoàn tất, thì nó trở thành sở hữu của một tập thể các tín hữu tại nơi đó, vì thế nhà thờ được gọi là Nhà Chung, đúng như vậy, ở đó, mọi người giáo dân đều có quyền lợi và trách nhiệm ngang nhau, không phân biệt ông câu, ông trùm hay một giáo dân bình thường.

Quyền lợi của giáo dân là gì ? đó là họ được gọi là thành viên của họ đạo, được thực hành việc thờ phượng trong nhà thờ, được lãnh nhận các bí tích theo luật của Giáo Hội, có quyến đóng góp ý kiến xây dựng cộng đoàn, được tham gia các hoạt động của họ đạo…

Bên cạnh quyền lợi vẫn luôn là trách nhiệm. Nếu như anh cảm thấy tủi khi thấy họ đạo mình thua kém những họ đạo khác, thì lúc đó hãy tự hỏi mình: tôi đã làm gì cho họ đạo của tôi ? Tôi đã có mặt vào những lúc họ đạo cần tôi không ?

Nhà thờ là nơi thể hiện sinh hoạt của họ đạo từ vật chất đến tinh thần. Nếu mọi thành viên trong họ đạo cùng đóng góp vào công việc chung bộ mặt của họ đạo sẽ rất phong phú và sinh động, ngược lại nếu mọi người chỉ lo cho riêng mình, không màng tới việc chung thì nhà thờ của họ đạo sẽ như chùa bà Đanh vậy.

 

SỐNG ĐẸP

Kitô Hữu Phải Trung Thực Trong Lời Nói Và Việc Làm

Chúng ta có thể cống hiến ba điều cho tất cả những người “muốn thấy Chúa Giêsu”: sách Phúc Âm, Thánh Giá và chứng tá đức tin nghèo nàn nhưng chân thành của chúng ta. Phúc Âm: trong đó chúng ta có thể gặp gỡ Chúa Giêsu, lắng nghe Người và hiểu biết Người. Thánh Giá; dấu chỉ tình yêu của Chúa Giêsu, Đấng đã tự trao ban cho chúng ta. Và một đức tin được diễn tả ra trong các cử chỉ đơn sơ của tình bác ái huynh đệ.

ĐTC Phanxicô dã nói như trên với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 22.3.2015  tại quảng trường thánh Phêrô.  Mở đầu bài huấn dụ ĐTC nói: trong Chúa Nhật thứ V Mùa Chay, thánh sử Gioan lôi kéo sự chú ý của chúng ta với một chi tiết lạ kỳ: vài người Hy lap” theo Do thái giáo đến Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua, hướng tới tông đồ Philiphê và nói: “Chúng tôi muốn trông thấy Đức Giêsu” (Ga 12,21). Trong thành thánh, nơi Chúa Giêsu đến lần cuối cùng, có nhiều người. Có những người bé nhỏ và đơn sơ đã tiếp đón vị ngôn sứ thành Nagiarét vui như lễ hội, vì họ nhận ra nơi Ngài Đấng Chúa Sai Đến. Có những thượng tế và các vị lãnh đạo của dân muốn loại trừ Ngài, bởi vì họ coi Ngài là lạc giáo và nguy hiểm. Cũng có những người, như những người Hy lạp tò mò muốn trông thấy Ngài và hiểu biết hơn về con ngưòi và các việc Ngài đã làm, mà việc sau cùng là  cho ông Ladarô sống lại đã gây nhiều ồn ào. ĐTC quảng diễn lời xin của các người Hy lạp như sau:

“Chúng tôi muốn trông thấy Đức Giêsu”: các lời này, như biết bao lời khác trong các Phúc Âm, vượt ngoài giai thoại đặc biệt này và diễn tả một cái gì phổ quát. Chúng vén mở cho thấy một uớc mong hiện hữu trong con tim của biết bao nhiêu người đã nghe nói tới Đức Kitô, nhưng chưa gặp được Ngài. “Tôi muốn trông thấy Đức Giêsu”, Ngài cảm thấy lời này trong trái tim của dân chúng. Trả lời một cách gián tiếp, một cách ngôn sứ, cho lời xin có thể trông thấy Ngài, Chúa Giêsu nói lên một lời tiên tri vén mở cho thấy căn cước của ngài và chỉ cho thấy con đường giúp hiểu biết Ngài thực sự: “Đã đến giờ con người được tôn vinh” (Ga 12,23). Đó là giờ của Thập Giá! Đó là giờ bại trận của Satan, ông hoàng của sự dữ, giờ chiến thắng vĩnh viễn của tình yêu thương từ bi của Thiên  Chúa. Chúa Kitô tuyên bố rằng “Ngài sẽ được nâng cao khỏi đất” (c. 32), đây là một kiểu diễn tả có hai nghĩa: “được nâng cao” bởi vì bị đóng đinh, và “được nâng cao” bởi vì được Thiên Chúa Cha tán dương trong việc Sống Lại, để lôi kéo tất cả mọi người đến với Ngài và hòa giải con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Giờ của Thập Giá, giờ đen tối nhất lịch sử, cũng là suối nguồn ơn cứu độ cho tất cả những ai tin vào Ngài.

ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ: tiếp tục lời tiên tri về lễ Vượt Qua của Ngài gần kề, Chúa Giêsu dùng một hình ảnh đơn sơ và gợi ý, đó là hình ảnh “hạt lúa” rơi xuống đất, chết đi để sinh bông hạt (c. 24). ĐTC giải thích thêm như sau:

Trong hình ảnh này chúng ta tìm thấy một khía cạnh khác nữa của Thập Giá Chúa Kitô: đó là hình ảnh của sự phong phú. Thật vậy, cái chết của Chúa Giêsu là một nguồn suối vô tận của sự sống mới, bởi vì nó mang theo trong chính nó sức mạnh tái sinh của tình yêu thương của Thiên Chúa. Được dìm mình trong tình yêu đó qua bí tích Rửa Tội, kitô hữu có thể trở thành “các hạt lúa” và đem lại nhiều bông hạt, nếu họ “đánh mất sư sống mình” vì tình yêu thương Thiên Chúa và các anh chị em khác như Chúa Giêsu (c. 25). Vì thế cho những người ngày nay “muốn trông thấy Chúa Giêsu”; cho những ngưòi kiếm tìm gương mặt của Thiên Chúa; cho những người từ nhỏ đã nhận được giáo lý và rồi đã không đào sâu nó; cho biết bao nhiêu người còn chưa gặp được Chúa Giêsu một cách cá nhân; cho tất cả những người đó chúng ta có thể cống hiến ba điều: sách Phúc Âm, Thánh Giá và chứng tá đức tin nghèo nàn nhưng chân thành của chúng ta. Phúc Âm: trong đó chúng ta có thể gặp gỡ Chúa Giêsu, lắng nghe Người và hiểu biết Người. Thánh Giá; dấu chỉ tình yêu của Chúa Giêsu, Đấng đã tự trao ban cho chúng ta. Và một đức tin được diễn tả ra trong các cử chỉ đơn sơ của tình bác ái huynh đệ. Nhưng một cách chính yếu trong sự trung thực của cuộc sống giữa điều chúng ta nói và điều chúng ta sống, sự trung thực giữa đức tin và cuộc sống, giữa các lời nói và các hành động của chúng ta. Sách Tin Mùng. Thánh  Giá và chứng tá. Xin Đức Maria Mẹ chúng ta giúp chúng ta theo Chúa Giêsu trên con đường của thập giá và sự sống lại.

Linh Tiến Khải

Nguồn: vi.radiovaticana.va

 

HỎI ĐÁP MỤC VỤ

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC VỀ BÍ TÍCH HÒA GIẢI

 Hỏi: Xin cha vui lòng cho biết khi vào xưng tội, hối nhân có cần phải xưng rõ mọi tội với Linh mục hay chỉ âm thầm nghĩ trong lòng và nhận ơn tha tội của linh mục ?

Trả lời: Sách Giáo Lý Công Giáo, số 1456, đã nói rõ: ‘’Thú nhận tội lỗi của mình với vị linh mục là một phần của bí tích Giải tội: khi xưng tội,các hối nhân phải kể ra tất cả các tội trọng mà mình biết rằng mình đã phạm sau khi xét mình cách nghiêm chỉnh,dù các tội này rất kín đáo và chỉ phạm đến hai giói răn sau cùng của bản Thập giớI,  bởi vì đôi khi các tội này làm cho linh hồn bị trọng  thương hơn hết và nguy hiểm hơn các tội ta phạm mà người khác biết rõ.’’

Như vậy, không được phép chỉ âm thầm nhớ đến tội trong lòng mà phải xưng ra dù là tội kín khó nói vơí linh mục. Đó là về phần hối nhân.Về phần linh mục, không có giáo lý, giáo luật nào cho phép linh mục bảo hối nhân không cần phải xưng tội nặng, nhẹ ra vì Chúa đã biết hết nên không cần phải nói với linh mục nữa Linh mục nào làm như vậy là tự ý mình chứ không căn cứ vào giáo lý của Giáo Hội dạy về Bí Tích Hoà giải.

 

Hỏi: Khi nào được phép xưng tội tập thể ?

Trả lời:  Cũng Sách Giáo Lý, số 1483,  qui định trường hợp cho phép giải tội chung hay tập thể, theo đó chỉ có trong trường hợp khẩn trương và nguy tử khi không có đủ thì giờ để linh mục giãi tội cá nhân thì được  ban phép tha tội chung cho những  người có mặt đang sám hối..

Thí dụ, trong trường hợp chiến tranh, dộng đất, hoả hoạn , phi cơ lâm nạn, đắm tầu... Nhưng trong các dịp lễ trọng, dù có quá đông ngươì muốn xưng tội, vẫn không được coi là trường hợp khẩn trương nghiêm trọng khiến phải giải tội tập thể. Trong một Giáo phận, thì Đức Giám Mục là người quyết định trường hợp nào cho phép giải tội tập thể. Linh mục không được phép tự ý làm việc này, trừ trưòng hợp thực sự khẩn trương, nguy tử như đã nói ở trên.

Cũng cần lưu ý là nếu hối nhân có tội trọng thì dù đã nhận lãnh ơn tha tội trong trường hợp khẩn trương  nói trên, vẫn cần phải di xưng tội cá nhân sau khi vuợt qua được cơn nguy tử.

Lm. Phanxicô Xaviê  Ngô Tôn Huấn

Nguồn: conggiaovietnam.net

 

CHUYỆN THƯỜNG NGÀY

TÔI XIN CHỌN NGƯỜI (KỲ 7):

THÂN PHẬN NÔ LỆ

Các bạn thân mến.

Sau khi A-đam và E-và ăn trái cấm, ông bà nguyên tổ đã bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng và bắt đầu một cuộc sống trần ai. Từ vị thế là chủ nhân ông của muôn loài muôn vật được Thiên Chúa giao quyền cai quản mọi sự, con người đã mất trắng tất cả chỉ vì tham vọng muốn bằng Thiên Chúa. Chẳng thấy bằng Thiên Chúa, chỉ thấy con người càng ngày càng đánh mất vị thế của mình đến độ phải quỵ lụy cả những tạo vật khác.

Tuy nhiên, Thiên Chúa quyết tâm gầy dựng một dân mới, một dân riêng do chính Ngài tuyển chọn. Giống dòng của A-đam và E-và chỉ sản sinh ra những người kém tin và bội phản, cao ngạo và chống đối Thiên Chúa nay được thay thế bằng dòng dõi những người tín thác vào Thiên Chúa mà tổ phụ là chính Áp-ra-ham. Chính vì sự ngoan ngùy và trung tín của Áp-ra-ham, Thiên Chúa đã quyết định thiết lập một giao ước giữa Ngài và Áp-ra-ham rằng dòng dõi của ông sẽ đông như sao trên trời, như cát ngoài bãi biển. Tuy nhiên, đến đời cháu chắt của Áp-ra-ham, con cháu ông đã phải di cư đến Ai-cập vì nạn đói. Đó là nhờ người con trai của ông Gia-cóp là Giuse, người đã có công lớn với triều đình và đất nước Ai-cập khi giúp họ dự báo được nạn đói để dự trữ lương thực trước đó. Những tưởng với thế lực cùng công trạng của Giuse, con cháu của ông sẽ mãi mãi sống trong cảnh phú quí giàu sang nơi đất khách Ai-cập. Nào ngờ có ngày thời thế thay đổi, nhà cầm quyền của Ai cập bắt đầu phụ nghĩa vong ân khi chứng kiến cảnh con cái Ít-ra-en ngày một sinh sôi nảy nở. Người Ai-cập bắt đầu đàn áp Ít-ra-en, từ vị thế của khách ngoại kiều họ đã trở nên những nô lệ cho người Ai-cập. Dân Ít-ra-en phải làm những việc cực nhọc và nặng nề để phục vụ cho Ai-cập vĩ đại. Những hài nhi nam của Ít-ra-en cũng chẳng có được cơ may sống sót vì Ai-cập không muốn cho Ít-ra-en có cơ hội ngóc đầu lên. Ít-ra-en đã lâm cảnh lầm than và mãi bị đọa đày như những người nô lệ. Họ không còn là một dân tự do nhưng chỉ là những kẻ làm công để hầu hạ người khác. Chính khi ấy, nỗi niềm hoài hương và khát vọng tự do trào dâng trong lòng con cái Ít-ra-en.

Các bạn thân mến

Ngày nay nạn nô lệ đã bị xóa bỏ trong nền văn minh của chúng ta. Tiếc thay, có những bạn vẫn đang sống và hành xử như thể mình đang là nô lệ. Nô lệ cho đồng tiền vì để có chút tiền có khi các bạn đã phớt lờ cả luân thường đạo lý. Có khi các bạn sẵn sàng luồn cúi, nịnh hót hay bất chấp thủ đoạn để mong được thăng tiến mau hơn. Làm thế, các bạn có ý thức mình đang nô lệ cho danh vọng hão huyền? Ngoài ra, con đường học vấn thì lại bị đè nặng vì thành tích và áp lực thi cử. Thay vì phải làm chủ kiến thức để sống cho tốt đạo đẹp đời, các bạn lại đặt nặng chuyện bằng cấp trong khi kiến thức thì rỗng tuếch.

Kế đó, thử hỏi, có mấy người chống lại được cám dỗ theo đuổi những máy móc tối tân, hiện đại nhất? Những phương tiện truyền thông đại chúng như phim ảnh, ca nhạc, internet đã chủ ý dựng tượng đài cho những thần tượng các loại, các bạn có mù quáng để khiến mình phải nô lệ cho những thần tượng rởm đời này không? Vẫn còn đó, những thói quen, và những khuynh hướng hay đam mê xấu tựa hồ có sức nặng ngàn cân nặng trĩu trên đôi vai con người. Bao nhiêu điều lắng lo bóp nghẹt và trói chặt khiến ta chẳng có những phút giây thảnh thơi mà vui sống. Quang gánh cuộc đời ta mải miết gánh gồng sức nặng của nỗi lo cơm áo gạo tiền. Cuộc sống phát triển và văn minh đang tỉ lệ nghịch với tự do của con người.

Như dân Ít-ra-en ngày xưa, họ đã trông đến và kêu cầu Thiên Chúa như niềm hy vọng duy nhất và tối. Thế nhưng, có lúc họ cũng đã trách mắng Mô-sê và cả Thiên Chúa mỗi khi Pha-ra-ôn khước từ đề nghị giải thoát dân và càng đàn áp họ nặng nề hơn. Họ đã thúc thủ và cam chịu vì tuyệt vọng rằng chẳng ai giải thoát họ được ngay cả Đấng hùng mạnh là Thiên Chúa. Niềm tin son sắt, đức cậy trung kiên và lòng mến nồng nàn với Thiên Chúa mà tổ phụ của họ đã từng sở hữu đã không được di truyền lại cho các thế hệ con cháu. Họ đã nhu nhược mà chẳng dám kháng cự lại Ai cập. Buông xuôi đầu hàng và cả niềm tin vào Thiên Chúa của giao ước cũng bị lung lay nên họ mãi bị đọa đầy trong thân phận nô lệ.

Các bạn thân mến, bao sức nặng và thế lực đè nặng và bủa vây lấy cuộc sống của ta như thể người chủ nô mong muốn mãi thống trị lấy nô lệ của mình. Có lắm khi ta sống như nô lệ mà cứ tưởng rằng mình đang là chủ nô. Cần xin ơn để nhận ra điều gì đang thao túng và nô lệ hóa cuộc đời tôi. Điều quan trọng là phải chiến đấu với những áp lực đó và không được buông xuôi và đầu hàng. Càng nhát đảm, những thế lực đè nặng cuộc đời càng lấn tới hơn. Chiến đấu hết sức mình với niềm tin vững vàng vào Thiên Chúa quyền năng để rồi chính Ngài sẽ tiến hành những cuộc giải phóng ngoạn mục và thần kỳ cho mỗi người chúng ta.

Jos. Nguyễn Huy Mai, SJ

Nguồn: vietvatican.net

 

SỐNG LỜI CHÚA

CHÚA NHẬT II PHỤC SINH

CHÚA NHẬT CỦA LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT

CHÚA VẪN THƯƠNG TÔI

Ga 20, 19 – 31

Nếu tội lỗi, bất trung và phản bội làm cho con người chia rẽ, đánh mất tình liên đới thì lòng thương xót và tha thứ có thể hàn gắn lại những đổ vỡ do tội lỗi gây ra. Thực vậy, nếu con người cứ “lấy oán báo oán, oán sẽ chập chùng”. Cuộc đời chỉ đong đầy nước mắt bi ai của bạo lực và chiến tranh.        

Tin mừng hôm nay như một lời minh chứng về lòng thương xót của Chúa dành cho các môn sinh. Chính lòng thương xót đã nối lại tình nghĩa thầy trò. Chính lòng thương xót của Chúa đã hàn gắn lại những đổ vỡ sau tuần Thương Khó. Với lòng thương xót, Chúa đã nhìn ra nhu cầu lúc này của các môn sinh là sự bình an của ơn tha thứ. Bởi lẽ trong đêm tối vườn cây dầu, các môn đệ đã “tan đàn xẻ nghé”. Họ như những lính bại trận. Thất vọng, hoang mang và lo sợ đến nỗi bỏ Chúa, bỏ nhau. Mỗi người một nơi. Mặc Thầy, mặc bạn. Đường ai ai nấy đi. Kẻ lẩn trốn. Kẻ về quê. Tất cả dường như đã quên lời hứa “nào chúng ta cùng lên Giêrusalem” để cùng chết với Thầy. Điều ray rức lương tâm nơi các môn sinh là mặc cảm tội lỗi. Họ đã hèn nhát bỏ chạy trong đêm tối vườn Cây Dầu. Họ đã bán Thầy, chối thầy và bỏ Thầy. Thế mà, ngay ngày đầu tiên Chúa sống lại, Chúa đã không sai người đi tìm kiếm và hỏi tội các ông, nhưng với một lời đầy yêu thương, Chúa đã nói với những người phụ nữ đến thăm mồ “Hãy đi báo tin cho anh em Ta. Ta sẽ chờ họ ở Galilêa”. Chữ “anh em” thay cho lời trách móc những kẻ phản bội, bất tín, bất trung. Chữ “anh em” dường như đã xoá hết những ngăn cách bởi mặc cảm tội lỗi nơi các môn sinh.  

Thực vậy, khi Chúa hiện ra với các môn sinh, Ngài không hề nhắc tới những chuyện đáng tiếc đã xảy ra. Nơi Phêrô kẻ chối Chúa ba lần. Nơi các môn đệ hèn nhát bỏ chạy trong đêm tối vườn Cây Dầu. Nơi Tôma kẻ bi quan, cố chấp luôn đòi sự kiểm chứng theo lý luận thuần túy nhân loại. Dường như Chúa đã quên hết và còn ban bình an cho các ông. Nếu Chúa sống lại nhưng không tha thứ cho các ông thì đời các ông sẽ ra sao? Liệu rằng các ông có dám ngước mắt nhìn thẳng vào Thầy hay vẫn lấm lét, thẹn thùng đầy lo sợ, bất an như Adam năm xưa trong vườn địa đàng.    

Hôm nay cũng là ngày kính nhớ “Lòng Thương Xót” của Chúa, Giáo hội mời gọi chúng ta: hãy sám hối ăn năn vì những thiếu sót và lầm lỗi của mình. Hãy tin vào tình thương tha thứ của Chúa để sửa đổi bản thân nên hoàn thiện hơn như Cha chúng ta ở trên trời là Đấng hoàn thiện. Xin đừng tiếp tục xúc phạm đến lòng thương xót của Chúa. Xin đừng lợi dụng lòng thương xót của Chúa để tiếp tục sống buông thả trong những đam mê lầm lạc, những quan hệ bất chính, những thói đời gian dối hại người. Một cách đặc biệt là hãy dâng những hy sinh, lời cầu nguyện cho các tội nhân được ơn trở về cùng Chúa. Đó là điều mà Chúa đang chờ đợi nơi mỗi người chúng ta. Vì thế giới hôm nay đang bị tục hoá bởi một trào lưu văn hoá phóng túng và sa đoạ. Người ta phạm tội nhưng không còn ý thức về việc mình làm là tội. Thế giới tục hoá đã đánh mất sự linh thánh nơi con người là “nhân linh hơn vạn vật”, nên dẫn đến tình trạng sát hại thai nhi như những anh đồ tể giết một con vật vô tri vô giác. Người ta ước tính hàng năm có hàng triệu thai nhi bị sát hại ngay trên quê hương với bốn ngàn năm văn hiến.  

Có lẽ ngày nay Chúa đang cần những con người có tâm hồn thanh sạch lòng ngay. Chúa cần những con người như vậy để vì họ mà Chúa nguôi cơn thịnh nộ trút xuống địa cầu. Điều đó đã được Chúa mạc khải qua thánh nữ Faustina. Ngài muốn có nhiều người chấp nhận lòng thương xót vô bờ bến của Ngài để máu và nước đổ ra từ trái tim bị đâm thâu của Ngài có thể tẩy xoá, rửa sạch tội lỗi, và ban sự sống mới cho những ai tin nhận nơi Ngài. Ngài muốn có nhiều người như thánh nữ Fausina, biết dâng những hy sinh đau khổ của mình như lễ vật tôn thờ Thiên Chúa và cứu thế gian khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.

Thế giới đang tục hoá. Con người đang đánh mất lương tri của mình. Tội lỗi ngày một gia tăng. Thiết tưởng mỗi người Kitôâ hữu không chỉ sám hối và đền tội cho mình, mà còn cho cả nhân loại đang lao vào hố diệt vong của đời sống buông thả và sa đoạ. Chúng ta hãy cùng với thánh nữ Faustina để thưa lên cùng Chúa: “Lạy Chúa, con xin phó thác cuộc đời con, gia đình con và nhân loại hôm nay nơi lòng thương xót của Chúa. Chúng con xin dâng những hy sinh, lời cầu nguyện để bù cho những tội lỗi nhân gian”. Amen

 

CHÚA NHẬT III PHỤC SINH

BÌNH AN CHO CÁC CON

Lc 24, 35 – 48

Cuộc đời luôn bao trùm biết bao sự dữ. Sự dữ nhiều đến độ làm cho con người luôn bất an lo sợ. Người ta sợ thất bại. Sợ rủi ro. Sợ mất an ninh. Sợ nghèo đói. Sợ bị trả thù. Sợ phải đối diện với sự thật. Có cái sợ làm người ta “ăn không ngon, ngủ không yên”. Có cái sợ làm người ta đánh mất niềm tin nơi bản thân và tha nhân. Có cái sợ dẫn đến tuyệt vọng và buông xuôi.         

Tâm trạng của các tông đồ sau biến cố tuần thương khó là tâm trạng buồn sầu và lo sợ. Họ sợ liên luỵ vì từng là đồ đệ của tử tội Giê-su. Họ sợ phải về quê làm lại cuộc đời từ đầu. Họ sợ đường trở về còn nhiều bóng tối nghi nan. Từ sợ hãi dẫn đến đánh mất niềm tin. Dù đã được báo trước sau ba ngày Thầy sẽ sống lại. Thế mà, vì quá sợ mà quên hết mọi sự. Các ông không còn dám tin vào ai. Dù rằng các người phụ nữ đã kể rõ ràng họ đã gặp Chúa. Dù rằng hai môn đệ đi làng Emmau đã từng kể về cuộc hàn huyên với Chúa. Dù rằng Gioan và Phêrô cùng chạy ra mồ, nhưng chỉ có Gioan thấy và tin còn Phêrô thì không. Sợ hãi đã làm cho các ông hoa con mắt đến nỗi nhìn thấy Chúa lại tưởng là ma.     

Chúa đã quở trách các ông “sao lại hoảng hốt thế! Ma đâu có xương có thịt như vầy!”. Chúa chỉ cho các ông biết nguyên do của sợ hãi là thiếu lòng tin. “Sao lòng anh em còn ngờ vực?”. Đã bao năm sống với Thầy. Đã nhiều lần chứng kiến những phép lạ Thầy làm. Đã từng được nghe lời Thầy tiên báo “Sau ba ngày Thầy sẽ sống lại”. Thế mà các ông vẫn không tin. Từ không tin dẫn đến sợ hãi. Sợ bóng đêm của cuộc đời. Sợ những điều mới lạ. Sợ hãi dẫn đến chia đàn xẻ nghé. Mỗi người một nơi. Đường ai ai nấy đi. Sợ hãi nên đâu dám nhìn đời, nhìn người. Sợ hãi nên chỉ biết co ro nơi phòng tiệc ly. Cửa đóng then cài trong tâm trạng nặng nề đầy u ám và sợ hãi. 

Nỗi sợ hãi của kẻ thiếu lòng tin vẫn còn đó nơi con người hôm nay. Có người sợ cho tương lại ngày mai, vì ngày mai đâu biết sẽ ra sao? Có người sợ những nguy nan, khốn khó của giòng đời sẽ xảy đến với mình. Có người sợ thế giới đời sau, biết có hay không nên buông mình theo đam mê xác thịt! Có người vẫn còn mang nặng mặc cảm lo âu sợ hãi về một lầm lỗi của quá khứ. Vì sợ hãi nên đánh mất niềm tin nơi Thiên Chúa. Họ tìm kiếm thế lực trần gian. Họ bám vào quyền thế vua quan để sống. Họ cố vun quén tiền tài để hưởng lộc. Họ quên rằng điều quan yếu của cuộc đời là chính sự bình an tâm hồn. Không có bình an thì cho dù có tiền, có quyền vẫn là đánh mất cuộc đời. Cuộc đời cần bình an như cá cần nước để sống. Cuộc đời không có bình an là sự bất hạnh, là cuộc đời đáng thương hơn cả người nghèo khó mà có bình an tâm hồn.  

Thế nhưng, sự bình an chỉ ngự trị nơi tâm hồn có Thiên Chúa. Có Thiên Chúa thì chẳng sợ gian nguy, vì hết lòng tin tưởng cậy trông Thiên Chúa. Có Thiên Chúa thì không toa rập với sự dữ để làm hại đồng loại, để bán rẻ lương tri để rồi luôn lo sợ bị trả thù, trả đũa. Có Thiên Chúa sẽ mang lại hoa trái là niềm hoan lạc, tươi vui, bình an và hy vọng. Đánh mất Thiên Chúa mới là điều đáng sợ. Thế giới không có Thiên Chúa sẽ khiến con người hành xử theo ý mình, theo bản năng, theo tự do cá nhân. Đó là thế giới loạn lạc, đầy bất an và lo sợ. Con người sống với nhau nhưng luôn phải cảnh giác, phải đối phó, phải e dè, sợ thanh toán lẫn nhau. Đánh mất Thiên Chúa con người sẽ chẳng biết bám víu vào đâu khi giòng đời xô đẩy biết bao sóng gió tư bề, biết bao gian nan thử thách.      

Chúa Phục sinh vẫn tiếp tục đến bên cuộc đời chúng ta như xưa Ngài đã từng đến với các tông đồ. Ngài vẫn đến với chúng ta qua những biến cố vui buồn, qua những thăng trầm của giòng đời. Ngài vẫn đang mời gọi chúng ta đặt cuộc đời trong bàn tay quan phòng của Chúa. Cho dù cuộc đời có nghiều nghi nan. Cho dù giòng đời có nhiều bất trắc và giông tố. Hãy lấy đức tin mà nắm vào Chúa. Hãy lấy lòng cậy trông mà phó thác vào Chúa. Hãy lấy lòng mển để vâng theo thánh ý Chúa.         

Xin Chúa Giêsu phục sinh luôn ở lại với chúng ta theo như lời Người đã nói: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Xin Chúa luôn là khiên che, thuẫn đỡ cho cuộc đời chúng ta. Amen

 

CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH

CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH

MỤC TỬ THẬT – MỤC TỬ GIẢ

Ga 10, 11 - 18

Xã hội hôm nay thật lắm chuyện thị phi! Cuộc đời cứ như: “Vàng thau lẫn lộn”. Hàng thật hàng già đã khó phân biệt mà người tốt, người xấu càng khó phân biệt hơn. Có những mặt hàng giả mà như thật. Có người phải ngậm đắng nuốt cay khi bỏ tiền mua hàng thật nhưng lại phải lấy đồ giả. Có người vì cả tin nghe người nên bị lừa đến thân bại danh liệt. Kẻ bị lừa tình mà ôm hận suốt đời. Kẻ bị lừa tiền mà tan hoang cửa nhà. Có kẻ giả nhân giả nghĩa để đánh lừa đồng loại và vun quén cho bản thân. Kẻ thất đức lại sống trên nhung lụa. Người công chính phải tù tội lầm than vẫn cỏn đó trong kiếp người hôm nay. Đó là kết quả tất yếu của chủ nghĩa thực dụng. Đặt quyền lợi cá nhân lên trên lợi ích tập thể. Con người lấy mình làm trung tâm nên mọi sự đều quy về mình. Tìm hạnh phúc cho mình. Tìm vinh danh cho mình. Vì hạnh phúc của mình nên sẵn sàng bỏ rơi đồng loại, cho dù đó là cha, là mẹ, cho dù đó là vợ chồng hay con cái. Sự thật phũ phàng đó đang là căn bệnh trầm kha của xã hội hôm nay.    

Có biết bao cha mẹ đã đang tâm giết các thai nhi vì sợ đứa con sinh ra sẽ thêm phần ăn, thêm gánh nặng cho gia đình. Có biết bao vợ chồng đã đứt gánh giữa đường chỉ vì một mối tình riêng, một quan hệ bất chính. Có biết bao người con đã bỏ rơi cha mẹ trong đói khổ, già yếu, bệnh tật vì còn phải lo cho chính bản thân mình.

Xem ra thế giới hôm nay đang thiếu dần hai chữ hy sinh. Không có hy sinh làm sao có ân nghĩa. Không có ân tình, ân nghĩa nên người ta đâu cần hy sinh và đối xử tốt với nhau.      

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta cái nhìn tương phản của hai loại mục tử. Mục tử thật và mục tử giả. Mục tử thật luôn hết mình vì đàn chiên. Mục tử giả chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử thật thì hy sinh cho đàn chiên. Mục tử giả chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử thật luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng cỏ xanh tươi cho đàn chiên no đầy. Mục tử giả chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân mình. Họ sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn của đàn chiên. Chúa Giêsu đưa ra khuôn mẫu mục tử nhân lành là chính Chúa. Cả cuộc đời không tìm an nhàn cho bản thân. Ngài dong duổi gió bụi để tìm từng con chiên lạc đưa về ràn. Vì sự sống của đàn chiên, Ngài sẵn sàng đối phó với sự dữ để bảo vệ đàn chiên. Ngài đã chấp nhận cái chết để đàn chiên được sống.

Đó cũng là mẫu gương cho mỗi người chúng ta. Mỗi người chúng ta đều là mục tử của Chúa khi chúng ta có nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ anh em mình. Mỗi người chúng ta đều phải có trách nhiệm trước sự an nguy của đồng loại. Mỗi người chúng ta đều có bổn phận đẩy lùi sự dữ đang hoành hành trong môi trường sống của chúng ta. Không ai được phép bàng quan trước sự dữ dang bủa vây gia đình, xóm làng của mình. Không ai được phép vô trách nhiệm trước bữa no bữa đói của cha mẹ, con cái hay hàng xóm láng giềng. Nếu mỗi người chúng ta đều biết sống có trách nhiệm với anh em thì giòng đời này sẽ bớt đi những trái ngang, sẽ vơi đi những giọt nước mắt buồn đau, tủi hờn. Nếu mỗi người chúng ta đều biết đưa vai gánh đỡ gánh nặng cho anh em, và biết dùng đôi vai làm điểm tựa nâng đỡ anh em, thì cuộc đời này sẽ là một thiên đàng mà con người đang hưởng nếm những giây phút ngọt ngào nhất của tình người, của hạnh phúc yêu thương.      

Đây cũng là điều kiện để có được sự sống trường sinh. Vì “ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sống muôn đời.   

Nguyện xin Chúa Giêsu mục tử luôn phù hộ nâng đỡ và giúp chúng ta biết sống hiến thân mạng sống vì anh em. Amen

 

CHÚA NHẬT V PHỤC SINH

THOÁI HÓA LÀM MẤT PHẨM GIÁ

Ga 15, 1 – 8

Ngày nay người ta đang nói nhiều về sự thoái hoá đạo đức của một số phần tử trong xã hội. Họ tự đánh mất căn tính của mình. Họ không còn giữ được phẩm chất của chính mình. Sự thoái hoá đã làm cho họ biến chất từ tốt ra xấu. Từ thanh sạch ra dơ bẩn. Từ hữu dụng ra vô dụng. Sự thoái hoá đạo đức có thể đến với bất cứ ai. Và cũng có thể làm băng hoại đủ mọi thành phần, cho dù là hàng trí thức hay dân hèn, một khi đã bị thoái hoá là họ đã đánh mất căn tính con người là “nhân chi sơ tính bản thiện”. Sự thoái hoá có mặt trong mọi ngành nghề, trong mọi cấp bậc. Sự thoái hoá làm mất đi đạo đức nghề nghiệp, mất đi lương tâm trong sáng chỉ còn là những tham sân si vô độ.         

Chúng ta không thể không đau lòng trước những hiện tượng thoái hoá đạo đức và nhân cách của con người hôm nay như: cô giáo hành hung và xúc phạm học trò; học trò đánh thầy giáo, mẹ đánh chết con ruột, cháu nội hành hạ bà nội cho đến chết. Tại sao lại có những chuyện phi nhân thất đức như vậy? Văn hoá đạo hiếu Việt Nam có còn giá trị hay đã bị tha hoá bởi đời sống vô tâm của con người hôm nay?         

Có một câu chuyện ngày xưa kể rằng: một lần vua Nước Bắc muốn làm nhục sứ giả Nước Nam qua triều cống. Ông đã bắt một người dân Nước Nam vừa ăn trộm ra trước mặt sứ giả để làm nhục. Vua Nước Bắc bảo rằng: “Phải chăng người Nước Nam hay ăn trộm?”. Sứ giả Nước Nam khiêm tốn trả lời: “Thưa bệ hạ! Cây táo trồng ở Nước Nam thì ngọt nhưng khi mang qua Nước Bắc trồng thì quả lại chua. Phải chăng người này ở Nước Nam thì tốt nhưng khi qua Đất Bắc đã biến chất rồi chăng?”     

Nhìn lại phận người chúng ta đôi khi cũng giống như Cây Táo được trồng ở Đất Bắc. Con người là hình ảnh Thiên Chúa đôi khi cũng bị biến chất khi trồng vào thế gian. Con người cũng bị những thói đời sa đoạ làm băng hoại tâm hồn. Con người cũng bị những đam mê của danh lợi thú làm huỷ hoại danh giá, nhân phẩm của chính mình. Con người dễ bị đánh mất căn tính của mình là “nhân linh hơn vạn vật”. Con người dễ bị bị thoái hoá bởi tưởng mình chỉ là một loài vật: sinh ra – lớn lên – rồi chết nên cứ việc lao vào những cuộc truy hoan trác táng, những thói đời hưởng thụ tầm thường.

Các tiên tri thời Cựu ước đã từng tiếc nuối cho dân tộc Israel là “vườn nho của Chúa” đã bị biến chất. Tiên tri Isaia đã thất vọng vì vườn nho nhà Israel đã bị hoang tàn. Tiên tri Giêrêmia đau buồn vì dân tộc ông đã “biến thành một cây nho lạ, thoái hoá thành một cây khác”. Còn Ôsê thì kêu lên trong đau đớn: “Israel là một cây nho trơ trụi”. Tất cả những từ ngữ đó đều diễn tả một đời sống thoái hoá đạo đức của một số phần tử Do Thái. Họ đã không sống theo đường lối Chúa. Họ đã thờ ngẫu tượng. Họ sống hình thức dẫn đến giả hình, giả dối. Họ bị men biệt phái kiêu căng làm biến chất. Họ thờ Thiên Chúa trên môi miệng nhưng thực chất họ đã xa lìa Chúa từ trong tâm hồn.  

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta kín múc nguồn sống đích thực từ Thiên Chúa. Chúa mời gọi chúng ta hãy để cho sự sống của Chúa tuôn chảy trong tâm hồn chúng ta. Hãy sống gắn bó với Chúa, kết hợp với Chúa như cành liên cây để có thể sinh hoa kết trái là những việc lành phúc đức. Hãy ở lại trong Chúa để hiểu rằng con người chúng ta có một phẩm giá vô cùng cao quý là “giống với thần linh, là hình ảnh Thiên Chúa”. Hãy biết gìn giữ phẩm giá cao quý ấy bằng việc chế ngự những đam mê tội lỗi, những thói đời truỵ lạc. Hãy làm chủ hành vi của mình bằng việc: biết sống theo lẽ phải, biết thể hiện phẩm giá của mình là tạo vật biết thiện và ác, thế nên phải biết làm điều thiện và tránh điều ác. Hãy bám vào Thiên Chúa hơn là bám vào những phù vân mau qua đời này. Hãy khiêm tốn cúi mình thờ lạy Chúa hơn là thờ lạy tạo vật. Hãy vì Chúa mà sống cao thượng hơn là vì tiền, vì tình, vì quyền mà sống thấp hèn. Hãy nhớ rằng: trần gian là tạm bợ. Thiên đàng mới là vĩnh cửu. Đừng vì những vinh hoa phú quý phù hoa này mà xa lìa Thiên Chúa. Xa lìa Thiên Chúa như cành lìa cây sẽ bị thoái hoá và héo khô.

Nguyện xin Chúa Giêsu Phục sinh luôn ở lại trong cuộc đời chúng ta để dẵn dắt chúng ta đi trong chân lý vẹn toàn. Xin cho nguồn thánh ân Chúa tưới gội tâm hồn chúng ta mãi thanh sạch xứng đáng là hình ảnh của Chúa. Amen

Lm Jos Tạ Duy Tuyền

 

 

THẦN HỌC KINH THÁNH

Ông Môsê Người Nói Chuyện Mặt Giáp Mặt Với Thiên Chúa

Trong các nhân vật cựu ước có cuộc sống đối thoại thân tình nhất với Thiên Chúa của Israel, phải kể đến ông Môsê là vị ngôn sứ lớn nhất thời cựu ước. Thiên Chúa đã dùng ông để giải phóng dân Người khỏi kiếp sống nô lệ bên Ai Cập. Chúng ta đang ở vào đầu thế kỷ thứ XIV trước công nguyên. Vào thời ông Giuse làm Tể Tướng nước Ai Cập cả gia đình ông Giacóp sang Ai Cập sinh sống và rất được trọng vọng. Nhưng sau khi ông Giuse và các anh em ông và cả thế hệ đó qua đời, con cái Israel sinh sôi nảy nở, nên đông đúc và ngày càng hùng mạnh: họ lan tràn khắp xứ sở. Thời ấy có một vua mới lên trị vì nước Ai Cập, vua này không biết ông Giuse (Xh 1,6-8). Để kìm hãm sức phát triển mạnh mẽ của dân Israel nhà vua đề ra chính sách đàn áp và biến dân Israel thành nô lệ, bắt họ xây các kho lương thực tại Pitom Ramses và làm đủ mọi việc nặng nhọc. Nhà vua còn ra lệnh giết hết các trẻ nam của người Do thái. Chính trong bối cảnh của kiếp sống nô lệ ấy ông Môsê chào đời trong một gia đình cha mẹ thuộc chi tộc Lêvi. Thấy đứa bé xinh đẹp bà mẹ tìm cách giấu con, cho tới khi không giấu được nữa, bèn làm một cái thúng trét hắc ín và nhựa chai, bỏ đứa bé vào, đem thả trên sông Nil, và cho con chị đi theo xem điều gì sẽ xảy ra cho em nó. Cái thúng trôi giạt vào bãi sậy nơi công chúa Ai Cập xuống tắm. Trông thấy chiếc thúng, công chúa sai các thị nữ vớt thúng vào, mở ra thì thấy một bé trai con của người Do thái đang khóc. Chị nó mới thưa với công chúa: ”Bà có muốn con đi gọi cho bà một vú nuôi người Híp ri để nuôi đứa bé cho bà không?” Công chúa bằng lòng và nó đi gọi mẹ đứa bé. Công chúa của Pharaô bảo bà ấy: ”Chị đem đứa bé này về nuôi cho tôi. Chính tôi sẽ trả công cho chị”. Người đàn bà mang đứa bé về nuôi. Khi đứa bé lớn lên, bà đưa nó đến cho công chúa của Pharaô. Nàng coi nó như con và đặt tên là Môshê; nàng nói: ”Đó là vì ta đã vớt nó lên khỏi nước” (Xh 3,1-10).

Tuy được nuôi nấng giáo dục như hoàng tử Ai Cập, nhưng Môsêâ biết nguồn gốc của mình, và cũng nhận ra thân phận nô lệ của các người đồng hương. Vì thế một hôm khi thăm và quan sát các công việc khổ nhọc họ phải làm, thấy một tên cai Ai Cập đánh đập một người Híp ri, ông liền giết tên cai ấy rồi vùi dưới cát. Hôm sau ông lại ra quan sát các người đồng hương làm việc. Thấy hai người Híp ri đang xô xát nhau, Môsê nói với người có lỗi: ”Tại sao anh lại đánh người đồng chủng?” Người đó trả lời: ”Ai đã đặt ông lên làm người lãnh đạo và xét xử chúng tôi? Hay là ông tính giết tôi như đã giết tên Ai Cập?”. Ông Môsê phát sợ và tự bảo: ”Vậy ra người ta đã biết chuyện rồi.” Nghe biết chuyện này, Pharaô tìm cách giết ông Môsêâ. Ông liền đi trốn Pharaô và ở lại miền Madian.

Trong khi ngồi nghỉ bên một bờ giếng, ông thấy bẩy cô con gái con của thầy tư tế Madian là Raguele, đến múc nước cho chiên uống, nhưng bị các mục đồng đuổi đi. Ông Môsê liền đứng lên bênh vực các cô và múc nước cho chiên uống. Khi thấy các con về sớm, thầy tư tế Madian hỏi lý đo và các cô kể lại chuyện người khách lạ bênh vực các cô. Ông sai các cô mời ông Môsêâ tới dùng bữa. Thế là Môshê bằng lòng ở lại với gia đình tư tế Raguele. Ông lấy Sipora là con gái thầy tư tế, sinh con và chăn chiên cho bố vợ.

Chính trong bối cảnh trốn tránh này Thiên Chúa đã gọi ông Môsêâ để giao cho ông sứ mệnh giải phóng dân Israel khỏi kiếp sống nô lệ. Cuộc gặp gỡ và đối thoại của Thiên Chúa với ông xảy ra trong biến cố bụi gai cháy mà không bị thiêu rụi tại núi Khôrép trong sa mạc. Trông thấy bụi gai cháy lửa bầng bầng mà không bị thiêu rụi, Môshê tò mò tới gần xem cho biết lý do tại sao.

Thiên Chúa thấy ông lại xem thì từ giữa bụi gai gọi ông: ”Môsêâ! Môsêâ!”. Ông thưa ”Dạ, tôi đây!” Người phán: ”Chớ lại gần!, cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh”. Người lại phán: ”Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Igiaác, Thiên Chúa của Giacóp” Ông Môsê che mặt đi, vì sợ nhìn phải Thiên Chúa.

Đức Chúa phán: ”Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai Cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai Cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật, xứ sở của người Canaan, Khết, Emori, Pơridi, Khivi và Giơvút. Giờ đây tiếng rên siết của con cái Israel đã thấu tới Ta. Ta cũng đã thấy cảnh áp bức chúng phải chịu vì người Ai Cập. Bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pharaô để đưa dân Ta là con cái Israel ra khỏi Ai Cập.”

Ông Môsê thưa với Thiên Chúa: ”Con là ai mà dám đến với Pharaô và đưa con cái Israel ra khỏi Ai Cập?” Người phán: ”Ta sẽ ở với ngươi. Và đây là dấu cho ngươi biết Ta đã sai ngươi, khi ngươi đưa dân ra khỏi Ai Cập, các ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa trên núi này”.

Ông Môsê thưa với Thiên Chúa: ”Bây giờ, con đến gặp con cái Isrrael và nói với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi con: ”Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?” Thiên Chúa phán với ông Môsê: ”Ta là Đấng Hiện Hữu.” Người phán: ”Ngươi sẽ nói với con cái Israel như thế này: ”Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em.” Thiên Chúa lại phán với ông Môsê: ”Ngươi sẽ nói với con cái Israel như thế này: ”Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaác, Thiên Chúa của Giacóp, sai tôi đến với anh em. Đó là danh Ta cho đến muôn thủơ, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ tới đời kia.”

Ngươi hãy đi triệu tập các kỳ mục Israel và nói với họ: Đức Chúa Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Abraham, của Isaác của Giacóp, đã hiện ra với tôi và phán: Ta đã thật sự quan tâm đến các ngươi và cách người ta đối xử với các ngươi bên Ai Cập. Ta đã phán Ta sẽ cho các ngươi thoát cảnh khổ cực bên Ai Cập mà lên miền đất người Canaan, Khết, Emôri, Pơrítdi, Khivi và Giơvút, lên miền đất tràn trề sữa và mật. Họ sẽ nghe tiếng ngươi, ngươi sẽ đi với các kỳ mục Israel đến cùng vua Ai Cập, các ngươi sẽ nói với vua ấy rằng: Đức Chúa, Thiên Chúa của người Híp ri, đã cho chúng tôi được gặp Người. Giờ đây xin cho chúng tôi đi ba ngày đường vào sa mạc để tế lễ Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi. Ta thừa biết rằng vua Ai Cập sẽ không cho các ngươi đi, trừ phi là có một bàn tay mạnh mẽ can thiệp. Ta sẽ ra tay, sẽ làm mọi thứ phép lạ giữa dân Ai Cập để đánh nó, và sau đó vua ấy sẽ cho các ngươi đi” (Xh 3,7-20).

Thiên Chúa cũng ra lệnh cho phụ nữ Israel mượn các đồ vật, vàng bạc và áo của người Ai Cập để mang cho con cái họ. Nhưng ông Môsê tìm cớ thoái thác không nhận sứ mệnh Thiên Chúa giao phó cho ông. Ông thưa với Chúa là dân Israel sẽ không nghe lời ông nói với họ. Để thuyết phục ông Thiên Chúa cho ông quyền làm các phép lạ, biến cây gậy thành rắn, luồn tay vào ngực rút tay ra thì tay bị phong cùi trắng như tuyết, rồi lại trở thành bình thường, biến nước sông Nil thành máu. Nhưng Môsê vẫn không muốn nhận sứ mệnh, và lấy cớ ông nói cà lăm. Thiên Chúa bảo đảm với ông rằng Người sẽ ngự nơi miệng ông và sẽ chỉ cho ông phải nói những gì. Ông Môsê vẫn từ chối và xin Chúa sai người khác. Thiên Chúa nói ông Aharon anh của ông là người ăn nói lưu loát sẽ thay ông nói với dân cũng như với vua Ai Cập, những gì Thiên Chúa truyền. Biết là không thể thoái thác được nữa, ông đành chấp nhận.

Ông Môsê xin phép bố vợ trở về Ai cập. Thiên Chúa truyền cho Aharon đến gặp ông Môsê trong sa mạc. ông Môsê kể cho anh mình biết các lệnh truyền của Thiên Chúa và những dấu lạ Người cho phép ông làm được. Sau đó hai ông triệu tập các kỳ mục của dân Israel. Ông Aharon nói lại với họ tất cả những lời Đức Chúa đã phán với ông Môsê và làm những dấu lạ trước mặt dân. Dân chúng tin. Họ đã hiểu là Giavê đến viếng thăm con cái Israel và nhìn thấy cảnh khổ cực của họ. Và họ đã phủ phục và thờ lậy. Tiếp đến ông Môsê và ông Aharon đến gặp Pharaô Ai Cập và yêu cầu nhà vua để cho dân Israel ra đi thờ phượng Thiên Chúa. Nhưng thay vì để cho họ ra đi Pharaô ra lệnh cho giới cai và ký lục bắt họ làm việc nhiều hơn, không cung cấp rơm cho họ nữa, nhưng số gạch phải đủ không được thiếu. Trước lời dân kêu trách hai ông đã làm cho họ trở nên đáng ghét trước mặt Pharaô và bề tôi của vua và đã trao gươm vào tay họ để giết dân Israel, ông Môsê thưa lên với Chúa: ”Lậy Chúa, tại sao Ngài đã làm khổ dân này? Tại sao Ngài đã sai con đi? Từ khi con đến với Pharaô để nhân danh Ngài mà nói, thì vua ấy làm khổ dân này, và Ngài chẳng giải thoát dân Ngài gì cả!” Giavê phán với ông Môsê: ”Giờ đây ngươi sắp thấy điều Ta làm cho Pharaô: Bị áp lực của một bàn tay mạnh mẽ, vua ấy sẽ phải thả cho họ đi; bị áp lực của một bàn tay mạnh mẽ, vua ấy sẽ đuổi họ ra khỏi nước” (Xh 5,22-6,1).

Các chương từ 6 tới 12 kể lại các phép lạ ông Môshê làm trước mặt Pharaô và triều thần cũng như mười tai ương Thiên Chúa giáng xuống trên Pharaô và dân Ai Cập: nước các sông ngòi kinh lạch, hồ ao trên toàn đất Ai Cập biến thành máu; ếch nhái tràn vào khắp nơi đầy cung điện và nhà của dân chúng; bụi đất biến thành muỗi bu vào đầy người và thú vật; ruồi nhặng bay đầy cung điện và nhà cửa của dân chúng bị tàn phá trên toàn nước Ai Cập; ôn dịch giáng xuống rất nặng trên tất cả súc vật của người Ai Cập khiến chúng phải chết: mồ hóng biến thành bụi gây ung nhọt mưng mủ trên thân thể người và súc vật; mưa đá rất nặng chưa từng thấy rơi xuống trên khắp đất Ai Cập có lửa tóe ra tàn phá tất cả những gì đang ở ngoài đồng, từ người cho đến thú vật và tàn phá mọi cỏ cây và bẻ gẫy mọi cây cối ngoài đồng; châu chấu che kín cả mặt đất và ăn sạch những gì còn sót lại sau trận mưa đá, và tràn vào đầy cung điện nhà vua và nhà của dân chúng; cảnh tối tăm dầy đặc bao trùm toàn đất Ai Cập trong ba ngày. Từ tai ương thứ tư trở đi Pharaô xin ông Môsê kêu cầu với Giavê cho mình, nhưng rồi lần nào ông cũng cứng lòng không để cho dân Israel ra đi. Chỉ với tai ương cuối cùng là cái chết của các con đầu lòng trong mọi gia đình Ai Cập từ hoàng tử cho tới dân hèn mới khiến cho Pharaô đang đêm triệu vời ông Môsê và ông Aharon đến và bảo: ”Cả các ngươi lẫn con cái Israel, đứng lên, đi ra, không được ở giữa dân ta nữa! Đi mà thờ phượng Đức Chúa như như các ngươi đã nói. Cả chiên cừu bò bê của các ngươi cũng hãy đem đi như các ngươi đã nói. Đi đi, và cầu phúc cho cả ta nữa”. Trước đó Giavê đã ra lệnh cho dân Israel cử hành lễ Vượt Qua, bắt một chiên con một tuổi, lấy máu bôi trên cửa nhà làm dấu nơi ở của họ, rồi nướng thịt và ăn với rau đắng và bánh không men, lưng thắt đai, tay cầm gậy. Khi thấy vết máu trên cửa, các thiên thần Chúa sẽ vượt qua, không vào sát hại các con đầu lòng của họ.

Trong suốt thời gian xảy ra các tai ương ấy ông Môsê đã luôn luôn sống trong thái độ đối thoại với Thiên Chúa, lắng nghe và thực thi các mệnh lệnh Chúa truyền.

Linh Tiến Khải

Nguồn: vietvatican.net

 

 

MỘT CHÚT TÂM TÌNH

Công bố thống kê mới nhất của Giáo Hội Công Giáo

VATICAN. Số tín hữu Công Giáo, LM và Phó tế vĩnh viễn gia tăng trong Giáo Hội, nhưng số tu sĩ nam nữ tiếp tục giảm sút.

Trên đây là nội dung Niên Giám Thống kê của Giáo Hội hoàn cầu được hoàn tất trong tháng 2 và được Tòa Thánh công bố trong tháng 3 này, trình bày tình trạng Giáo Hội Công Giáo tính đến ngày 31-12-2013.

Theo đó, trên toàn thế giới có 1 tỷ 253 triệu người Công Giáo tức là tăng thêm 25 triệu, nghĩa là tăng 2% so với năm trước đó. Sự tăng trưởng của các tín hữu Công Giáo có phần nhiều hơn so với tỷ lệ gia tăng dân số thế giới và hiện chiếm 1,7% dân số hoàn cầu.

Cũng như những năm trước đây, Niên Giám Mới của Giáo Hội Công Giáo ước lượng có khoảng 4 triệu 800 ngàn tín hữu Công Giáo không được ghi trong thống kê vì họ ở những quốc gia không thể cung cấp các con số chính xác cho Tòa Thánh, ví dụ Trung Quốc và Bắc Triều Tiên.

Theo thống kê mới, người Công Giáo đông nhất vẫn là ở Mỹ châu, chiếm 63,3% dân số đại lục này, tiếp đến là Âu Châu chiếm 39,9% và dân Công Giáo tại Á châu có tỷ lệ thấp nhất, chỉ chiếm 3,2%.

Số GM trong toàn Giáo Hội là 5.173 vị, tăng 40 vị so với năm 2012 (ĐTC Phanxicô mới cho biết có 1.400 GM về hưu). Trong cùng thời gian đó, số LM triều và dòng tăng thêm 1035 vị, và hiện có 415.348 vị: số LM giáo phận liên tục gia tăng tại Phi châu, Á châu và Mỹ châu nhưng tiếp tục giảm tại Âu Châu.

Số phó tế vĩnh viễn là 43.195 thầy, tức là tăng thêm 1 ngàn so với năm 2012 trước đó.

Số tu huynh giảm mất 60 thầy và hiện có 55.253 thầy tính đến cuối năm 2013. Số nữ tu tiếp tục đi xuống và còn 639.575 chị, tức là giảm 1,2% so với năm trước đó, và giảm 6,1% so với tình trạng năm 2008. Bắc Mỹ có số nữ tu giảm nhiều nhất: 16.6% trong vòng 5 năm qua, tiếp đến là Âu Châu: giảm 12,6% trong cùng khoảng thời gian đó.

Số đại chủng sinh triều và dòng trên thế giới liên tục giảm sút trong 2 năm qua, và còn 118.251 thầy tính đến cuối năm 2013, tức là giảm mất 2.365 thầy kể từ cuối năm 2011. (CNS 24-3-2015)

G. Trần Đức Anh OP

 

CHIA SẺ MỤC VỤ BÁC ÁI

HÀNH KHẤT CA

Mỗi ngày sống ta như người hành khất

Nhận muôn ơn từ Thiên Chúa yêu thương

Với bát ăn xin vui vẻ lên đường

Đem chia sẻ cho những ai thiếu thốn.

Đường thánh giá tình yêu như hòa trộn

Đường khó nghèo ta tiếp bước Giêsu

Bỏ đam mê, danh lợi, bỏ hận thù

Thành con Chúa qua cuộc đời tự hủy.

Gươm thần diệu ta giấu trong tâm trí

Lời Tin Mừng ta vận khí phóng ra

Sống công minh, diệt hết mọi gian tà

Biết hòa hợp với muôn người muôn vật.

Theo Đức Kitô sống đời hành khất

Thôi thúc người biết quảng đại yêu thương

Sống hiên ngang danh lợi ta coi thường

Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến.

(Trích “Cẩm nang Tân Phúc  Âm Hóa” của Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn)

Có mấy ai hiểu rằng tự nguyện sống như người hành khất theo Đức Kitô làm phong phú người cho và kẻ nhận. Nhận muôn ơn từ Thiên Chúa yêu thương, đem chia sẻ cho những ai thiếu thốn luôn là dòng chảy tạo niềm vui tinh thần.

Vì vậy, có những anh chị em không ngại gian khó tình nguyện hàng tuần hàng tháng lo nấu cơm cho những bệnh nhân nghèo ở hai bệnh viện trong Thành Phố Vĩnh Long. Ngoài những vật liệu tự nhiên, các anh chị còn ướp thêm vào bằng chính hương vị yêu thương, sao cho các bệnh nhân cảm nhận và thưởng thức qua từng muỗng canh, rau củ, thịt cá …

Ngoài ra, có nhóm khác đi làm từ thiện đây đó xa gần. Chính xác là hành khất từng viên thuốc, từng ký gạo … góp gió làm bão. Đồng tâm chung sức gói từng phần quà, vô từng bao gạo nhỏ để trao tận tay những người túng thiếu mà mình chưa một lần quen mặt. Mỗi chuyến đi từ thiện về, một cảm xúc đọng lại trong tim mỗi người như giọt sương nhỏ ban mai trên chồi lá xanh ấp ủ sức sống và dưỡng nuôi hy vọng.

Với những cử chỉ yêu thương nho nhỏ, với sự trao nhau một nụ cười, một lời thông cảm, một sự tha thứ, với những hành động chia cơm sẻ áo, dù chỉ là một ly nước lã, với các lần thăm viếng những bệnh nhân:  nấu cho họ tô canh, chén cháo, quét nhà … là chúng ta mang thực tại Nước Trời đến trong xã hội trần thế.

Giữa biển mênh mông “vô cảm” còn có những hòn đảo nhỏ của sự quan tâm. Đức Thánh Cha Phanxicô trong sứ điệp Mùa Chay 2015 đã nêu lên một thách đố khẩn cấp hiện nay: “hoàn cầu hóa sự vô cảm”. Ngài mong ước sao cho các nơi mà Giáo Hội hiện diện trở thành những hải đảo từ bi giữa lòng biển cả dửng dưng vô cảm. Người ta cố gắng ngăn chặn những bệnh truyền nhiễm gây chết người, nhưng bệnh vô cảm còn đáng sợ hơn. Nó làm cho trái tim con người chai sạn khô cạn tình thương, không nhạy cảm trước nổi khổ đau của người khác. Căn bệnh dửng dưng vô cảm không chỉ xuất hiện ở một vài địa phương nào đó, nhưng phát tán toàn cầu !

Giữa bầu trời đen tối ảm đạm đó, vẫn còn xuất hiện những vì sao nho nhỏ lấp lánh tỏa sáng tình thương. Chỉ có tình thương mới chiến thắng dửng dưng vô cảm. Phải biết làm sao để giữ cái tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến.

Caritas Vĩnh Long

639    07-04-2015 10:16:30