Sidebar

Thứ Sáu
26.04.2024

Nguyệt san tháng 4/2016: Giữa Lòng Xã Hội, Gia Đình Phản Chiếu Dung Mạo Lòng Thương Xót

1. LỜI CHỦ CHĂN

2. DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

3. LỜI NGUYỆN CHUNG

4. ÁP DỤNG THỰC HÀNH

5. TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

6. TRANG LINH MỤC

7. TRANG TU SĨ

8. VẾT THƯƠNG LÒNG ĐƯỢC CHỮA LÀNH

9. TRANG SỐNG ƠN GỌI

10. TRANG THIẾU NHI

11. TRANG GIỚI TRẺ

12. ĐỐI MẶT VỚI TIN ĐỒN

13. TRANG GIA ĐÌNH

14. TRANG GIÁO LÝ VIÊN

15. TRANG QUỚI CHỨC

16. SỐNG ĐẸP

17. HỎI ĐÁP MỤC VỤ

18. SỐNG LỜI CHÚA

19. THẦN HỌC KINH THÁNH

20. NĂM THÁNH LÒNG THƯƠNG XÓT

21. MỘT CHÚT TÂM TÌNH

 

 

1. LỜI CHỦ CHĂN

Vĩnh Long ngày 25.03.2016

 Kính gửi: Quý Cha

              Quý Tu sĩ nam nữ

              Và tất cả anh chị em Gp. Vĩnh Long

 

V/v Sống Năm Thánh Lòng Thương Xót

 

Anh chị em thân mến,

Anh chị em thân mến. Tháng trước tôi có dịp nói với anh chị em những nét tổng quát về Lòng thương xót trong Kinh thánh trong Tông Sắc Dung Mạo Lòng Thương Xót. Tháng nầy, tôi đề cập vắn tắt đến Lòng thương xót là nền tảng thực sự của đời sống Giáo Hội (số 10).

Thiếu lòng thương xót. Tất cả hoạt động mục vụ của Giáo Hội nên được xây dựng trên lòng thương xót và Giáo Hội làm cho lòng thương xót đó hiện diện nơi các tín hữu. Bởi vì, từ lâu con người sống thiếu lòng thương xót:

-        Quá chú ý đến công lý (pháp lý: nợ phải trả) điều nầy dẫn đến việc:

-        Khó thực hiện sự tha thứ: về phương diện pháp lý, sự tha thứ không thể biện minh cho công lý, bởi vì công lý trước hết đòi hỏi phải giải quyết những món nợ con người mắt phải. Tôi bị xúc phạm thì phải đền bù sự xúc phạm. Khó lòng tha thứ là như thế. Sự tha thứ chỉ có thể tìm được nguồn cội của nó ở trong đức tin vào Thiên Chúa tốt lành và hay thương xót mà thôi. Hiện trạng thế giới nầy thật sự càng ngày càng sống thiếu lòng thương xót, tiêu biểu là thiếu sự tha thứ. Trong gia đình, các thành viên không biết tha thứ cho nhau vì một lỗi không đáng gì. Trong Họ đạo, các thành phần dân Chúa không biết tha thứ cho nhau cũng vì một lỗi nhỏ, cũng vì tranh giành chức việc, cũng vì không thuận ý nhau, cũng vì có thành kiến với nhau. Trên thế giới, ngày nào cũng thấy có chiến tranh chết chóc, bởi vì con người không biết tha thứ cho nhau do tranh giành quyền lợi kinh tế, xã hội....và còn nữa. Từ không biết tha thứ dẫn đến thiếu lòng thương xót. Cho nên, “đã đến lúc, Giáo Hội phải thực thi phận vụ hân hoan loan báo sự tha thứ....Sự tha thứ là động lực làm bừng lên sức sống mới và truyền thêm can đảm để giữ vững niềm hy vọng” (số 10).

Một lý do nữa đáng lưu ý:

-        Khoa học tiến bộ và đầu óc thống trị (con người ích kỷ, nóng giận, ghen tị, tranh giành) có thể làm cho con người sống thiếu lòng thương xót.

 

Rao giảng và làm chứng lòng thương xót. Hoạt động mục vụ của Giáo Hội bao gồm lời rao giảng và việc làm chứng của Giáo Hội cho thế giới thấy không bao giờ được thiếu lòng thương xót. Trong Tông huấn còn nhấn mạnh rằng “Ngôn ngữ và hành động của Giáo Hội cần phải thông truyền lòng thương xót, để đến với trái tim con người và giúp họ gặp thấy đường lối dẫn về Chúa Cha” (số 12). Giáo Hội có uy tín hay không là do thể cách mà Giáo Hội thể hiện lòng thương xót.

Rao giảng và làm chứng lòng thương xót phải chạm đến trái tim và khối óc của từng người. Giáo Hội trong đó có chúng ta phải thực thi lòng thương xót. Lấy tình yêu Chúa Kitô, một tình yêu tha thứ và tự hiến mà sống với nhau.

Ước gì trong mùa Phục Sinh nầy, mọi người chúng ta là thành phần của Giáo Hội biết rao giảng và làm chứng lòng thương xót trên địa bàn mình đang sống và sinh hoạt, để “nơi đâu có Giáo Hội hiện diện, thì nơi đó lòng thương xót của Chúa Cha phải được tỏ hiện” (số 12).

+ Phêrô Huỳnh Văn Hai

Giám Mục Giáo Phận Vĩnh Long

 

 

2. DIỄN GIẢI THƯ MỤC VỤ

Tháng 04/2016

Giữa Lòng Xã Hội

Gia Đình Phản Chiếu Dung Mạo Lòng Thương Xót

“Mỗi lần các ngươi làm như thế

cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây,

là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40)

Phẩm giá của con người trước mặt Thiên Chúa là nền tảng cho phẩm giá của con người trước mặt người khác.[1] Thật vậy, như Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Tin Thiên Chúa là Cha yêu thương chúng ta vô hạn qua đó Người ban cho chúng ta một phẩm giá vô hạn. Tin Con Thiên Chúa mặc lấy xác thịt nhân phàm có nghĩa là mỗi con người đã được đưa vào chính trái tim của Thiên Chúa. Tin Đức Giêsu Kitô đã đổ máu mình ra vì chúng ta có nghĩa là loại bỏ mọi nghi ngờ về Tình yêu vô biên làm cho mỗi người nên cao quý”[2]. Ơn cứu chuộc chúng ta, còn có một chiều kích xã hội, bởi vì “trong Đức Kitô, Thiên Chúa không những cứu chuộc các cá nhân, mà còn cứu chuộc các mối quan hệ xã hội đang có giữa con người với nhau”[3].

1. Tình thương mạnh hơn sự chết, mạnh hơn tội lỗi

Thập giá Đức Kitô trên Núi Sọ là bằng chứng của sự dữ đối với chính Con Thiên Chúa. Đức Kitô, Đấng không hề biết tội là gì, “thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội vì chúng ta” (2Cr 5,21). “Thập giá Đức Kitô, trên đó Chúa Con, đồng bản thể với Chúa Cha, đền đáp đầy đủ công bằng cho Thiên Chúa, cũng là mạc khải triệt để về Lòng Thương Xót, nghĩa là về Tình Thương, tình thương này luôn chống lại cái làm thành chính cội rễ của sự dữ trong lịch sử là tội và sự chết… Thập giá là sự chạm đến của Tình Thương vĩnh cửu trên những vết thương đau đớn nhất của cuộc sống con người trong trần gian, và là sự hoàn tất đến cùng chương trình cứu thế… Thập giá Đức Kitô cho chúng ta hiểu rằng cội rễ sâu xa nhất của sự dữ nằm tận trong tội lỗi và sự chết… Sự kiện Đức Kitô ‘ngày thứ ba đã trỗi dậy’ là dấu chỉ đánh dấu sự hoàn tất sứ mệnh cứu thế, dấu chỉ tuyệt đỉnh cho mạc khải trọn vẹn về tình thương-lòng thương xót trong một thế gian đã bị sự dữ chế ngự”[4]. Sứ vụ cứu thế của Đức Kitô, sứ vụ của lòng thương xót trở nên sứ vụ của dân Người, của Hội Thánh. Thập giá vẫn đứng giữa sứ vụ ấy, vì Thập giá là nơi mạc khải về tình thương-lòng thương xót đạt tới đỉnh cao của mình. Tình thương của Thiên Chúa mạnh hơn sự chết. Hội Thánh hằng tuyên xưng:

 “Tình thương Chúa đời đời con ca tụng” (Misericordias Domini in aeternum cantabo).[5]

2. Gia đình tuyên xưng và công bố lòng Thương Xót của Thiên Chúa

Sứ vụ của lòng thương xót đó trở thành là sứ vụ thường trực của Hội Thánh tại gia, là gia đình, vốn thường xuyên cảm nghiệm lòng thương xót ấy như Đức Maria tuyên xưng ở ngưỡng cửa: “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người”[6]. Qua kinh nghiệm và nhờ hy lễ tâm hồn mình góp phần vào mạc khải lòng Thiên Chúa xót thương, gia đình theo gương Thánh Gia, nối kết chặt chẽ với Thập giá của con Mẹ cũng là “thập giá của Mẹ” nơi tiếng “xin vâng” hằng ngày.

Có thể lấy chính lời của thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II áp dụng cho gia đình, Hội thánh tại gia: “Hội Thánh thực sự sống khi tuyên xưng và công bố lòng thương xót, ưu phẩm đáng kính phục nhất của Đấng Tạo Hóa và của Đấng Cứu Chuộc, và khi dẫn đưa con người đến các nguồn mạch lòng thương xót của Đấng Cứu Chuộc, các nguồn mạch được giao cho Hội Thánh giữ gìn và phân phối. Trong khuôn khổ ấy, việc suy niệm liên tục Lời Chúa, và nhất là việc tham dự có ý thức và suy nghĩ vào Thánh Thể và bí tích Thống hối hay Hoà giải, mang một ý nghĩa rất lớn.”

3. Hội Thánh tại gia giữa lòng thế giới hôm nay

Gia đình tham dự vào ơn gọi và sứ mạng của Hội Thánh cũng mang lấy chiều kích xã hội của việc loan báo Tin mừng đó. Từ giữa tâm điểm của Tin mừng chúng ta thấy có mối liên kết sâu xa giữa loan báo Tin mừng và sự thăng tiến con người. Sự thăng tiến này phải được biểu hiện và phát triển trong mọi hoạt động loan báo Tin mừng. Như vậy, ước muốn của gia đình còn là tìm kiếm và bảo vệ lợi ích của người khác nữa.

Anh chị em của chúng ta, nhất là những người nghèo quanh ta, là sự nối dài mầu nhiệm nhập thể cho mỗi người chúng ta: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Thế nên, gia đình sẽ là mình hơn nữa theo nghĩa thuộc về Thân Mình Đức Kitô hơn nữa, khi đi ra khỏi chính mình để đến với anh chị em, là một trong hai giới răn nền tảng cho mọi quy tắc luân lý và dấu hiệu nhận ra sự tăng trưởng thiêng liêng. Vì thế, “việc phục vụ bác ái cũng là một yếu tố cấu thành của sứ mạng Hội Thánh và là biểu hiện thiết yếu của chính sự hiện hữu của Hội Thánh”[7].

Gia đình vì thế phải là chủ thể tích cực tham gia vào đời sống xã hội.[8] Nhìn nhận chủ thể tính và thế ưu tiên của gia đình trong xã hội, đòi hỏi “xã hội không bao giờ được bê trễ nhiệm vụ căn bản là tôn trọng và hỗ trợ các gia đình. Các quốc gia, xã hội, muốn tôn trọng thế ưu tiên và thế “thượng phong” của gia đình, cần phải bảo đảm và phát huy bản sắc đích thực của đời sống gia đình, đồng thời phải tránh và chống lại tất cả những gì có thể làm biến chất hay phương hại tới gia đình.”[9]

Câu hỏi chia sẻ và thảo luận

1. Gia đình của anh chị em có yên ổn và tăng triển hơn không, khi tham gia vào các hoạt động của giáo hội, xã hội bên ngoài gia đình? Tại sao?

2. Gia đình tham gia vào đời sống chính trị-xã hội-kinh tế như thế nào để Phúc-Âm-hóa xã hội?

3. Gia đình sống và tuyên xưng Lòng Thương Xót của Chúa cụ thể như thế nào?

–––––––––––––

[1] x. Gaudium et spes, 29.

[2] Evangelii Gaudium 178.

[3] HĐTT CLHB, Tóm lược Học Thuyết Xã hội của GHCG, 52.

[4] ĐGH Gioan Phaolô II, Dives in Misericordia, 8.

[5] Tv 88 (89), 2.

[6] Lc 1,50.

[7] ĐGH Bênêđictô XVI, tự sắc Intima Ecclesiae Natura (11.11.2012). x. Evangelii Gaudium, 179.

[8] x. Tóm lược Học Thuyết Xã hội của GHCG, op.cit., 246-251.

[9] ĐGH Gioan Phaolô II, Familiaris Consortio 45. x. Tóm lược Học Thuyết Xã hội của GHCG, op.cit., 252. Hiện nay rất nhiều (trên 20 nước) phần lớn là các nước “phát triển” đã chấp nhận “gia đình” dựa trên hôn nhân đồng tính.

 Văn Phòng HĐGMVN - UBLBTM

 

3. LỜI NGUYỆN CHUNG

Kêu mời: Anh chị em thân mến,

Trong xã hội, cộng đoàn hay gia đình, luôn có nhiều người. Người này phải tiếp xúc với người kia, và nền tảng cho các tương quan đó chính là tình yêu. Hơn nữa, gia đình phải phản chiếu dung mạo của lòng thương xót. Chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện:

1.       Chúa phán: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi thành phần gia đình biết bày tỏ lòng yêu thương nhau theo thánh ý Chúa, để mọi người nhận biết Thiên Chúa giàu lòng thương xót.

2.       Chúa phán: “Hãy thương xót anh em, như người Samaritanô nhân hậu”. Chúng ta cầu nguyện cho các gia đình kitô-hữu biết mau mắn giúp đỡ anh chị em mình, biết đón nhận lòng thương xót Chúa, và biết mở rộng ơn cứu rỗi của Chúa.

3.       Chúa phán: “Hãy vào Nước Trời, vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn”. Chúng ta cầu nguyện cho các gia đình kitô-hữu biết quan tâm giúp đỡ phần xác và cả phần hồn, cho mọi người được sống và sống dồi dào lòng thương xót Chúa.

4.       Đức Maria nói: “Lòng thương xót Chúa trải qua bao thế hệ, dành cho ai biết kính sợ Ngài”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong gia đình chúng ta, biết loan truyền lòng thương xót Chúa cho anh chị em trong gia tộc mình.

Kết thúc: Lạy Chúa, Chúa bày tỏ lòng thương xót cho mọi người qua đời sống gia đình. Xin ban Thánh Thần xuống giúp các thành phần gia đình biết làm sáng ngời dung mạo lòng thương xót Chúa, hầu ngày sau đặng lên Thiên Đàng. Chúng con cầu xin…Amen.

 

Lm. Phêrô Nguyễân Văn Hiền

 

 4. ÁP DỤNG THỰC HÀNH

GIA ĐÌNH, MÁI ẤM CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT

Nhiều năm trở lại đây, con số ly thân, ly dị, bạo hành trong gia đình ngày càng gia tăng. Nhiều người coi gia đình như một quán trọ, họ có xu hướng “chạy ra” khỏi gia đình của mình, họ cảm thấy đau khổ, bị tổn thương, cô đơn vì trong gia đình không có được sự bình an, niềm vui và lòng thương xót.

Lòng Thương Xót không tự nhiên mà có nhưng như một hạt giống vừa gieo xuống đất chúng ta phải được nỗ lực chăm bón mỗi ngày. Người Ki-tô hữu lãnh nhận tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, phải có trách nhiệm chia sẻ, chiếu soi tình yêu ấy đến người khác một cách quảng đại và không phân biệt sang hèn, màu da, tôn giáo.        

“Con người ở một mình không tốt” (St 2, 18). Đó là một trong những khẳng định nền tảng của Kinh Thánh về con người. Thiên Chúa đã dùng Tình Yêu Gia Đình để diễn tả Tình Yêu Thiên Chúa. Gia đình là tế bào của Giáo hội và Xã hội. Nếu trong gia đình không có tình yêu và sự quan tâm thì Giáo hội và Xã hội chỉ là những cơ cấu tổ chức gồm những con người vô cảm và độc đoán. Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi “các gia đình Công Giáo phải nhận biết vẻ đẹp, sự thật, và sự thiện hảo tuyệt vời biết bao khi bắt đầu một gia đình, khi thể hiện đời sống gia đình đích thực ngày hôm nay; và chúng ta cũng được mời gọi để nhận biết gia đình thiết yếu thế nào cho sự sống của thế giới, cho tương lai của nhân loại”. (Đức Thánh Cha Phanxicô, Những nhận xét cho Công nghị ngoại thường các Hồng Y, 20.02.2014)         

Một gia đình có lòng thương xót khi các thành viên nhạy bén, quan tâm tới những cảm xúc của người khác, với những vui buồn, thất vọng và sợ hãi... Đồng thời, cha mẹ cần bộc lộ cho con cái biết họ cảm thấy như thế nào về hành vi đáng khiển trách hay ngôn từ thiếu lễ độ của chúng. Đây không phải là hành động kết án con cái, nhưng là nỗ lực làm cho chúng biết nhạy cảm và bộc lộ cảm xúc của mình.        

Thiên Chúa dùng đôi mắt, đôi bàn tay, trái tim, khối óc… của con người để diễn tả cho nhân loại biết về một Thiên Chúa giàu lòng thương xót, nhất là trong xã hội ngày nay.

Mỗi thành viên trong gia đình phải nỗ lực để gia đình mãi mãi là một cộng đoàn yêu thương và tôn trọng lẫn nhau. Yêu là một động từ và cũng có nghĩa là phải hành động. Chúng ta không thể nói yêu thương người khác mà thụ động hay ngại hy sinh. Thiên Chúa mời gọi con người đón nhận Lòng Thương Xót của Ngài và tỏ lộ tình yêu ấy cho những người khác bằng chính cuộc sống yêu thương hằng ngày trong đời sống gia đình để cứu chữa một thế giới đang đổ vỡ và mang nhiều thương tích. Chính vì thế, Đại hội Thế Giới về Gia Đình lần thứ VIII diễn ra vào tháng 9/2015 tại Philadelphia đã chọn chủ đề: “Yêu thương là sứ mệnh của gia đình”. Chúng ta tin tình yêu là sứ mệnh của chúng ta, là con đường duy nhất để chúng ta có thể sống dồi dào và trở thành những con người mang và chiếu hình ảnh Thiên Chúa thương xót trong xã hội hôm nay.    

Có nhiều người vợ, người chồng sinh ra và lớn lên trong một gia đình thiếu thốn về đời sống vật chất và có nhiều vết thương trong tâm hồn. Khi lập gia đình rất cần đến người phối ngẫu của mình chữa lành cảm xúc đã bị tổn thương, giúp cho người bạn đời của mình mỗi ngày một sống quân bình và hạnh phúc hơn nhờ tình yêu thương tinh tế, vô vị lợi.

Gia đình là trường học đầu tiên để con người học cách sống thương yêu và phát triển nhân tính. Đức Hồng Y Luis Antonio Tagle, Tổng Giám mục Manila, thuyết trình ngày 24/9/2015 tại Đại Hội Thế Giới về Gia Đình 2015 Philadelphia, có nói: "Các vết thương có thể do gia đình gây ra, nhưng cũng chính gia đình lại có thể là suối nguồn an ủi và chữa lành”.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhấn mạnh chúng ta không được xem thường những cử chỉ hằng ngày của tình yêu và lòng tử tế đến từ ông bà, cha mẹ, anh chị em. Chính những cử chỉ này giúp chúng ta hàn gắn lại những tổn thương trong cuộc sống gia đình và giúp chúng ta đi tới. Cuộc sống rất ngắn ngủi, nếu chúng ta không dành thời gian để yêu thương nhau, một lúc nào đó trong cuộc đời, chúng ta sẽ phải hối tiếc.       

Hãy lắng nghe âm thanh của chính lời mình nói để nghe xem lời mình nói có dịu dàng, nhẹ nhàng hay gắt gỏng, khinh khỉnh; có dễ làm tổn thương người khác không. Đây cũng được coi là thước đo của Lòng Thương Xót đối với chính người trong gia đình mình.

Gia đình là tế bào của Giáo Hội và xã hội. Khi các gia đình dạy con cái sự tha thứ và Lòng Thương Xót, họ đã góp phần làm cho Giáo Hội và xã hội thêm vững mạnh. Thượng Hội Đồng Giám Mục đã nhìn thấy khả năng ảnh hưởng của sự tha thứ và nó không chỉ là cách thức tránh chia rẽ trong gia đình nhưng còn có thể áp dụng trong xã hội, giúp xã hội bớt tàn nhẫn và độc ác. Đây là yếu tố rất quan trọng trong việc làm thăng tiến con người và góp phần cải thiện xã hội hiện nay.

Lm Philipphê Phạm Huy Phong

 

 

5. TÌM HIỂU GIÁO LUẬT

BA LỜI KHUYÊN PHÚC ÂM

C. Đức Vâng Phục

I/. Phương diện lịch sử

          1/. Đức vâng lời nơi các ẩn sĩ

          2/. Vâng lời nơi các đan sĩ cộng đoàn

3/. Đức vâng lời theo thánh Đa minh và thánh Inhaxiô

Trong tháng vừa qua, chúng ta đã tìm hiểu về đức vâng phục nơi các ẩn sĩ và các đan sĩ sống cộng đoàn như thế nào. Trong tháng Tư nầy, chúng ta tìm hiểu đức vâng phục theo hai thánh tổ phụ của hai dòng Đa minh và dòng Tên.

3.1. Thánh Đa minh

Dòng Đa minh xem đức vâng phục như là phương thế làm nên  sự hiệp thông với nhau. Các tu sĩ gọi nhau là anh em (fratres). Bề trên ví như là anh trưởng (prior, prius inter pares), do anh em bầu ra để cáng đáng công việc chung.

Các tu sĩ dòng Đa minh chỉ khấn vâng lời bề trên Cả chiếu theo hiến pháp. Tuy nhiên, bề trên không nắm trong tay hết mọi quyền hành: không những hiến pháp đã dự trù nhiều cấp độ bề trên khác nhau, các chức vụ khác nhau, nhưng còn đòi hỏi các bề trên phải tham khảo cộng đoàn trong các vấn đề hệ trọng. Ngoài ra, thánh Đa minh cũng muốn rằng hiến pháp không buộc thành tội, cũng như bề trên có quyền chuẩn chước hiếp pháp khi nó làm ngăn trở những công việc ích chung: tông đồ, học hành... Dù sao, sự vâng phục được đặt trong việc tìm ích chung của cộng đoàn. Cả bề trên lẫn bề dưới cần bàn thảo đề tìm ích chung của cộng đoàn; dĩ nhiên quyết định sau cùng vẫn thuộc về bề trên: người tu sĩ cúi đầu vâng phục bề trên vì ích chung, dù biết rằng trong những vấn đề thực tế bề trên có thể kém hơn mình.

3.2. Thánh Inhaxiô (dòng Tên)

Thánh Inhaxiô quan niệm sự vâng phục khác hẳn với thánh Đa minh: tu sĩ không những chỉ suy phục ý chí mà còn cả phán đoán minh theo bề trên nữa. Thánh Inhaxiô lồng sự vâng phục trong chiều hướng tông đồ, ngài ví von:  một đạo quân hữu hiệu cần được tổ chức quy củ, dưới sự điều động của tướng lãnh. Do đó, Dòng Tên tập trung mọi quyền hành vào tổng hành dinh: các chức vụ đều do Bề trên Tổng quyền bổ nhiệm, chứ không còn do anh em bầu nữa. Các mối liên hệ hàng ngang biến đi, nhường chỗ cho các liên hệ hàng dọc: các tu sĩ phải tường trình lương tâm với bề trên. Đối lại, bề trên không phải tường trình cho công hội hay công nghị gì hết. Sự vâng phục phải dần dần đào tạo cho người tu sĩ biết từ bỏ ý riêng; sự vâng phục được đặt gần với đức tin: tu sĩ phải tập nhìn thấy Chúa hiện diện nơi bề trên.

Một cách nào đó, chúng ta có thể nói được là: tất cả các dòng thành lập trong các thế kỷ về sau đều chịu ảnh hưởng của Dòng Tên. Các sách tu đức luôn luôn lập đi lập lại về sự vâng lời bề trên như vâng phục lời Chúa, vâng lời có khi đến tối mặt! Dĩ nhiên, đó là chuyện lý tưởng, nhưng trong thực tế không phải lúc nào cũng vậy, vì lắm lúc ý của bề trên không phải lúc nào cũng là ý Chúa.

Đến những năm sau Công đồng Vatican II, chúng ta thấy có những phản ứng ngược lại. Nhiều dòng đã giáng các bề trên (supérieur, superior) xuống làm người “phụ trách” (responsable); có nơi đặt thành một “ban” (collegium) phụ trách, nghĩa là giao việc điều hành cho một tập đoàn để tránh sự độc đoán cá nhân. Người ta đi từ một thái cực nầy sang thái cực khác, từ chỗ toàn thể cộng đoàn phải suy phục một đầu tới chỗ có bao nhiêu cá thể thì có bao nhiêu đầu!

Thật ra, chúng ta nhận thấy rằng lịch sử của Dòng tu chịu ảnh hướng rất lớn vào điều kiện văn hóa xã hội của thời đó. Tính chất dân chủ của dòng Đa minh phản ánh bối cảnh văn hóa ở thế kỷ 12-13 tại Âu châu, thời đại của các công xã: ta thấy trong Giáo hội, các công nghị công đồng họp liên tục; tại một số đại học, chính các sinh viên đứng ra bầu viện trưởng và thuê giáo sư...Ngược lại, thánh Ingatiô ra đời vào thời đại quân chủ chuyên chế tại Âu châu; trong Giáo hội quyền bính tập trung vào giáo triều Rôma, khiến cho vai trò các công đồng chung hay công đồng miền trở nên thừa thãi.

Ngày nay cũng vậy, trong khi xã hội đề cao phẩm giá tự do của con người cũng như quyền được tham gia vào công quyền, chắc chắn quan niệm về quyền bình và sự vâng phục trong Giáo hội và các dòng tu cũng chịu ảnh hưởng. Về tổ chức Giáo hội, bộ Giáo luật mới đã dự trù rất nhiều cơ quan, hội đồng tư vấn đủ cấp: thượng hội đồng Giám mục, công nghị giáo phận, hội đồng linh mục, hội đồng mục vụ...Trong các dòng tu, dựa theo huấn lệnh của Sác lệnh “Canh tân đời tu” của Công đồng Vatican II, số 14, Giáo luật cũng đòi hỏi thiết lập những cơ quan, nhờ đó, các phần tử có thể tham gia vào việc quản trị trong dòng (đ.632-633). Bên cạnh thần học về sự vâng lời, Giáo hội cũng lưu ý đến thần học về quyền bính. Điều 618 của bộ Giáo luật nhắc nhở các bề trên hãy hành sử quyền bính trong tinh thần phục vụ; ngoan ngoãn với ý Chúa, xúc tiến sự vâng phục tự nguyện, vui lòng lắng nghe người thuộc quyền. Điều 619 thêm rằng các bề trên hãy tìm các xây dựng trong Đức Kitô một cộng đoàn huynh đệ, trong đó mọi người tìm kiếm và yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự.

Lm. Phêrô Hồ Hoàng Vũ

(Viết theo Cha Phan Tấn Thành)

 

6. TRANG LINH MỤC

Linh Mục - Khí Cụ Của Lòng Thương Xót.

Trong một bài Giáo Lý, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói về vẻ đẹp của Bí Tích Giao Hòa. Qua trình bày của Ngài, chúng ta sẽ hiểu được tại sao một Linh Mục, là một con người như bao người nhưng lại có quyền tha tội. Chính Đức Thánh Cha cũng xưng tội 15 ngày một lần. Ngày 04.3.2016 vừa qua, Ngài đã xưng tội tại Vương cung Thánh Đường Thánh Phêrô sau khi đã chủ sự buổi cử hành thống hối tại Đền thờ Thánh Phêrô cho nhiều hối nhân. Ngài còn nhắn nhủ các Linh Mục quan tâm đến sự mỏng dòn và khao khát quay trở về với Chúa của các tội nhân.

Cho nên, để thực sự trở thành khí cụ của lòng thương xót Chúa, các mục tử cần thực hiện một cuộc “hoán cải mục vụ” triệt để hơn, nghĩa là cần có một sự thay đổi về cách hành xử, thái độ phục vụ, tiêu chuẩn mục vụ và cả đời sống sao cho phù hợp hơn với Tin Mừng và với Giáo huấn Giáo Hội hiện nay.

Chính Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta biết gương mặt đích thực của Thiên Chúa không phải là một gương mặt khó tính, nhưng là một vị Thiên Chúa giàu lòng thương xót, gần gủi với con người, Ngài quan tâm đến các tội nhân và muốn họ trở về với Ngài trong tình thương. Như thế, trong tư cách là Mục Tử nhân lành, Chúa Giêsu đã thi hành sứ vụ cứu độ nhân loại với lòng thương xót hơn là thái độ nghiêm khắc, loại trừ.

Đức Thánh Cha Phanxicô muốn các mục tử của Chúa tiếp tục áp dụng nguyên tắc “thương xót” như là “liều thuốc” để đưa con người thời nay về với Thiên Chúa. Bởi vì, nếu một Giáo Hội quá nghiêm khắc, duy luật và gây khó khăn thì chẳng những không giúp được gì cho các linh hồn mà còn trở thành nguyên cớ làm cho họ xa rời Thiên Chúa. (Bài Giáo Lý Đức Thánh Cha Phanxicô).

Là hiện thân của Chúa Kitô, các mục tử trước hết phải có lòng thương xót, hay nói cách khác là có trái tim mục tử của Chúa Giêsu để có thể đồng cảm, đồng hành và chia sẻ vui buồn với mọi người, nhất là với những người đau khổ. Nếu bác ái mục tử là linh hồn của đời sống và sứ vụ Linh Mục, thì hoạt động mục vụ của các mục tử phải là một sự biểu lộ đức ái của Chúa Kitô mà các mục tử là hình ảnh phản chiếu. Các mục tử phải biết biểu lộ các thái độ và hành vi của Chúa đến mức hiến mình hoàn toàn vì đàn chiên được giao phó. (x. PO 14)

Ngày hôm nay, ở Việt Nam, người ta đã rất dị ứng với cung cách làm việc của những cảnh sát giao thông, của nhân viên hải quan ở một số phi trường, hoặc của một số quan chức nhà nước, bởi vì họ hành xử theo kiểu “bắt bẻ, gây khó dễ để kiếm chác”.

Sống trong một thế giới phẳng, chủ nghĩa độc tài sẽ dần dần không còn chỗ để tồn tại. Các mục tử phải tỉnh thức và xa tránh những lối hành xử trên. Thay vì thái độ khắt khe, trừng phạt và gây khó khăn, Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi các mục tử không bao giờ mỏi mệt trong việc thực thi và chuyển thông lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa đối với mọi người. Ngài nói rằng: “Các Linh Mục đừng sợ khi phải thương xót và tha thứ quá nhiều. Nếu Linh Mục nào đó cảm thấy mình đã tha thứ quá nhiều thì nhớ lại câu chuyện về một Linh Mục nọ đến cầu nguyện với Chúa rằng : “Lạy Chúa, con xin lỗi Chúa vì con đã tha thứ quá nhiều, nhưng tại vì Chúa đã làm gương như thế cho con”.

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã nhiều lần lưu ý rằng các Linh Mục đừng xem thiên chức của mình như là một “thứ nghề nghiệp”, một “địa vị” hay “một đặc ân” trong Giáo Hội. Nếu các mục tử hành xử như những “công chức” của Giáo Hội, thì sau khi làm xong phận vụ, họ được tự do sống cho riêng mình. Lối nhìn này chỉ chú trọng tới chức năng mà ít chú trọng tới căn tính Linh Mục.

Thật vậy, “Linh Mục là hình ảnh sống động và trong suốt của Đức Kitô Linh Mục (PDV 12). Nhờ bí tích Truyền Chức Thánh, Linh Mục được biến biến đổi ngay trong chính con người của mình, nên đồng hình dạng với Đức Giêsu Kitô là Đầu và là Mục Tử; Linh Mục tham dự vào sứ vụ “loan báo Tin Mừng cho người nghèo nhân danh Chúa Kitô và thay mặt Chúa Kitô” (PDV, số 18).

Khi nói về mối liên hệ giữa Linh Mục với Chúa Kitô và Dân Chúa, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các mục tử hãy “mang lấy mùi chiên”. Mang lấy mùi chiên là gì nếu không phải là trở nên một người mục tử ở giữa đoàn chiên, gần gũi với đàn chiên và sống chết cho đàn chiên.

Nhưng để mang “mùi chiên” trước hết Linh Mục phải có “mùi mục tử”, để chiên ngửi thấy mùi đó mà theo như Chúa Giêsu nói: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta” (Ga 10,27). Mùi mục tử là mùi hương nhân đức của Chúa Giêsu; là mang lấy tâm tình và cách sống của Chúa; là nên giống Chúa Giêsu. Linh Mục được xức dầu để có mùi mục tử. Đây là yếu tố làm nên căn tính của Linh Mục.

Như vậy, các Linh Mục trong sứ vụ Chúa trao ban, để tha thứ tội lỗi, là một điều đáng quý, là một việc phục vụ đáng quý, hay nói cách khác; Linh Mục là khí cụ của lòng thương xót cho mọi người. Qua lòng nhân từ, yêu thương, các Linh Mục biết gieo vào trái tim của các tín hữu niềm hi vọng, và các Linh Mục hiểu rằng: anh chị em của mình đến tòa giải tội là để tìm kiếm sự tha thứ và các vị sẽ lắng nghe họ như Chúa Giêsu đã lắng nghe biết bao nhiêu người và chữa lành cho họ.

Các Linh Mục đừng quên rằng Thiên Chúa không mệt mỏi tha thứ; thông qua thừa tác vụ của Linh Mục, Thiên Chúa sẽ ôm trọn tất cả chúng ta. Nguyện xin Chúa Giêsu, Vị Mục Tử nhân lành giàu lòng thương xót nâng đỡ chúng ta và làm cho chúng ta nên giống như Chúa.

Lm. Giacôbê Hoà Bình

 

7. TRANG TU SĨ

GIA ĐÌNH TIẾNG GỌI YÊU THƯƠNG

“Gia đình nơi chúng mình đươc sinh ra, nơi sự sống được thăng hoa, nơi tình yêu được đơm bông kết trái”. Lời bài hát du dương vọng lại từ xa làm tôi nhớ về Nó…

Ngày ấy tôi đến giúp xứ và dạy giáo lý. Nó là một đứa trẻ thông minh, lanh lợi, một  đứa giúp lễ ngoan hiền, nó là niềm hãnh diện của gia đình và họ đạo.

Giã từ những ngày tháng giúp lễ, nó bước vào giảng đường đại học, ôm ấp một tương lai tươi sáng với sức sống của tuổi trẻ. Nó lăn xả bước vào đời.

Xa gia đình, xa nhà thờ, xa làng quê, nó kết thân với đám bạn xấu, chúng bạn rủ nó hút chích, vì tò mò nên nó thử một lần cho biết và cuối cùng nó đi vào con đường nghiện ngập. Đã trót phóng lao thì phải theo lao, số tiền ít ỏi để làm học phí nó đã tiêu xài hết. Nó không thể chịu nổi mỗi khi cơn nghiện hoành hoành và nó đã trở nên một tên trộm vặt, từ một đứa con ngoan đạo, hiếu thảo và học giỏi nó trở thành một đứa đi hoang.

Một hôm nó về nhà định trộm một ít đồ mang đi thì ba mẹ nó phát hiện.Trong lòng nó trổi lên nhiều cảm xúc: hồi hộp, lo sợ và đau khổ. Vì Nó làm cho ba mẹ thất vọng, nó đau khổ khi thấy những giọt nước mắt của mẹ nó, nó buồn tủi vì thấy  nét mặt âu sầu của ba. Nó đau khổ vì nó muốn thoát ra nhưng không thể. Nó thầm mong ba mẹ nó mắng nó một trận như vậy nó sẽ nhẹ lòng hơn. Nhưng  tất cả chỉ im lặng…nó càng cảm thất xót xa…hụt hẫng…nặng nề…

Giọng trầm ấm của ba nó phá vỡ bầu không khí im lặng

-        Con à, tại sao lại ra như thế? Con hãy cai nghiện và làm lại từ đầu nghe con.

-        Con xin lỗi ba mẹ, con…con cũng muốn nhưng sợ mình không thể - nó cúi đầu xuống, giọt nước mắt lăn dài.

Trong một góc khuất của căn phòng, dường như ánh mắt của mẹ nó nghẹn lời, mẹ nó tiến lại đôi bàn tay đặt lên vai nó để động viên và an ủi: “Mẹ tin là con trai mẹ sẽ làm được đúng không? Cố lên con à. Trong cuộc sống mấy ai mà không có lỗi, biết lỗi sai và biết sửa mới thành người, con có hiểu được điều đó không? “

Ngày tháng dần qua nhờ sự động viên của gia đình nó đã cai nghiện thành công. Nó đã kể lại trong niềm hạnh phúc và tin tưởng.

Hôm nay nó không còn ở tuổi hai mươi nữa, mười năm trôi qua, tôi không còn giúp họ của nó nữa nhưng câu chuyện của nó tôi luôn nhớ mãi. Tôi thầm cảm ơn Chúa đã thể hiện lòng thương xót qua cha mẹ nó để nó có cơ hội làm lại từ đầu để bây giờ nó đang làm giáo lý viên của họ đạo. Nếu như ngày ấy, ba mẹ nó hất hủi, chửi mắng, bỏ mặt nó, bây giờ nó sẽ ra sao? Nhờ tình thương của ba mẹ, nó mới cảm nhận sâu xa tình yêu của Thiên Chúa. Mỗi giờ giáo lý nó dạy, là mỗi giờ  nó chia sẻ tâm tình mà nó từng cảm nghiệm: Tình thương đó chỉ là một phần nhỏ tình yêu của Thiên Chúa, Ba Ngôi yêu thương nên mới  nảy sinh ra công trình sáng tạo, vì yêu nên Thiên Chúa đã cho Con duy nhất xuống thế chịu chết để  cứu chuộc nhân loại, bao nhiêu lần xưng tội rồi lại tái phạm Chúa lại trông chờ để tha thứ…

Xã hội ngày hôm nay quay cuồng với nhịp sống kinh tế mới nên đôi lúc quên đi nhiệm vụ yêu thương trong gia đình, để rồi bao gia đình phải tan vỡ. Xin cho mỗi gia đình hôm nay luôn hiểu được tình yêu của Thiên Chúa, để yêu thương thông cảm, tha thứ cho nhau, để mỗi người sống đúng cương vị của mình. Xin cho các gia đình hôm nay luôn biết chiêm ngắm và sống như gia đình Nazarét xưa kia, để mỗi gia đình hôm nay, phản chiếu dung mạo của lòng thương xót của Chúa, để mỗi người  trong chúng ta có thể nói rằng: “Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một” vẫn là tình yêu, vẫn tồn tại đến muôn muôn ngàn đời. Amen

MTG Cái Nhum

 

8. VẾT THƯƠNG LÒNG ĐƯỢC CHỮA LÀNH

Mối tình thâm họ hàng bị rạn nứt, vết thương lòng khó chữa lành, đó là lý do để anh Tân tìm đường ra đi. Từ khi rời xa quê hương, xa gia đình nhất là xa mẹ già, anh định cư ở nước ngoài đã hơn 10 năm, mãi đến Tết nầy anh mới trở về sum họp gia đình.   

Trâm,  em gái của Tân dâng mình cho Chúa theo ơn gọi Mến Thánh Giá cũng được phép về thăm anh sau thời gian xa cách. Những ngày đoàn tụ gia đình, Tân thấy mẹ được con cháu chăm sóc thật chu đáo. Mỗi sáng đứa cháu gái giúp Bà tập thể dục và xoa bóp cho Bà. Ngoài việc được chăm lo miếng ăn giấc ngủ cho Bà, các cháu còn thay nhau đọc Kinh Thánh và đọc truyện cho Bà nghe nữa.

Khi anh em cùng hàn huyên với nhau, Tân hỏi Trâm:

-        Tuổi già của mẹ, anh không cận kề chăm sóc mẹ, mẹ có buồn anh không?

-        Bên cạnh mẹ có mấy em, mấy đứa cháu nội cũng thương lo cho mẹ lắm… Mỗi lần em về thăm, mẹ thường khen vợ chồng thằng Út, biết dạy con cái hiếu kính ông bà. Em thấy điều đó cũng an ủi tuổi già của mẹ. Nhưng anh Tân ơi! Em biết lòng mẹ còn buồn điều gì đó.

-        Ngày ra đi, anh thấy mẹ tiều tụy, hôm nay tuổi đời chồng chất nhưng trông mẹ phúc hậu phải không em? Thấy mẹ có sức khỏe tốt là anh mừng, nhưng Mẹ còn buồn gì vậy em?

-        Gần ngày anh đi rồi. Chú Út yếu nhiều, anh có đến thăm chú chưa?

-        Vết thương lòng chưa lành thì làm sao anh quên được chuyện cũ.

-        Anh Tân à! Em vẫn nhớ sự gay cấn giữa hai gia đình vì mấy công đất. Nhưng bây giờ mẹ muốn họ hàng mình hòa thuận với nhau.

 

-        Nhắc tới chuyện đó đau lòng lắm em ơi! Cho tình nghĩa họ hàng đi theo hai công đất luôn đi!

-        Không đâu anh! Bây giờ chú mình cũng già yếu rồi. Anh đến thăm cho chú vui. Còn mấy đứa em cũng nghèo, làm sao có tiền chuộc đất trả lại cho nhà mình. Thôi quên hết chuyện cũ đi anh. Trước ngày anh đi, mình mời mấy em con chú đến dùng bữa cơm, hàn gắn lại tình nghĩa họ hàng cho mẹ vui mà hồn cha cũng được thanh thản bình an.

-        Anh thấy chuyện rạn nứt giữa hai gia đình khó mà hàn gắn lại. Những lời mắng chửi của thiếm Út, sự hổn hào xấc xược của mấy đứa em chỉ vì hai công đất như đinh đóng cột trong đầu anh nè.

-        Em khuyên anh tha thứ tất cả. Bây giờ Chúa lo liệu cho gia đình mình đầy đủ rồi anh à. Niềm đau tuổi già của mẹ là sự rạn nứt trong họ hàng mình đó. Anh có muốn mẹ vui không?

Trầm ngâm suy nghĩ… Tân hỏi Trâm:

-        Còn thằng Út có thuận ý như mẹ không?

-        Cả nhà đều muốn mẹ vui, chỉ còn chờ ý của trưởng nam nửa thôi.

Lặng thầm trong giây lát... Tân bước gần bên mẹ, xiết chặt tay mẹ và nói:

-        Mẹ ơi! Chúa đã tha thứ cho con nhiều lắm. Bây giờ con cũng phải biết tha thứ hả mẹ? Mẹ ơi! Từ đây, mong rằng vết thương lòng con đã được chữa lành rồi.

 

-        Cám ơn con. Mẹ thấy lòng mình nhẹ nhàng và mừng lắm.

Hiện trạng xã hội hôm nay, trẻ em và người phụ nữ được quan tâm nhiều, người yếu đau, tuổi già gần như bị quên lãng. Xã hội cũng đề cao chủ nghĩa cá nhân nên con người khó bao dung khi danh dự và quyền lợi bị va chạm, tổn thương. Gia đình là phần tử của xã hội, nếu tình hiếu thảo và sự từ tâm, tha thứ được thực hiện ngay trong gia đình thì môi trường xã hội sẽ đầy ắp tình người. Lòng thương xót là dung mạo của Thiên Chúa tình yêu, chỉ nơi Thiên Chúa mới rực sáng sự yêu thương, tha thứ. Khi nơi gia đình sống tình hiếu thảo, mỗi người biết quan tâm đến nhau và sẵn sàng tha thứ, bao dung thì chính gia đình phản chiếu dung mạo lòng thương xót ngay giữa lòng xã hội hôm nay.

MTG Cái Mơn.

 

9. TRANG SỐNG ƠN GỌI

Sứ điệp Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi Năm 2016

Vào Chúa Nhật IV Phục Sinh ngày 14.04.2016 sẽ là ngày Thế Giới Cầu Nguyện cho ơn Gọi.

Sau đây là sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô dành cho ngày này. Sứ điệp đã được cho công bố hôm 29.11.2015 vừa qua

Anh chị em thân mến,

Tôi đang rất hi vọng trong suốt Năm Thánh Ngoại thường Lòng Thương Xót này, tất cả những ai đã chịu Phép Rửa đều trải nghiệm được niềm vui thuộc về Giáo Hội và tái khám phá ơn gọi Kitô hữu, là ơn gọi được sinh ra trong Dân Chúa, và đây là ân ban của lòng thương xót. Giáo hội là nhà của lòng thương xót và là “mảnh đất” để ơn gọi đâm rễ, phát triển và trổ sinh hoa trái.

Vì lý do này, nhân dịp 53 năm ngày Thế giới Cầu nguyện cho Ơn gọi, tôi mời gọi tất cả các tín hữu suy ngẫm về cộng đoàn tông đồ, và cám ơn vai trò của cộng đoàn này trong hành trình ơn gọi của mỗi người. Trong Ân Xá của Năm thánh Ngoại thường Lòng Thương Xót, tôi tưởng nhớ lại lời của Thánh Beda Khả kính, mô tả ơn gọi của thánh Matthêu: ““Miserando atque eligendo” [Xót thương và kêu gọi]. Hành động đầy lòng thương xót của Thiên Chúa tha thứ tội lỗi chúng ta và dẫn chúng ta bước vào đời sống mới hình thành trong lời mời gọi làm môn đệ và thực thi sứ vụ. Mỗi ơn gọi trong Giáo hội bắt nguồn từ khóe nhìn đầy thương xót của Chúa Giêsu. Đối thoại và ơn gọi là hai mặt của cùng vấn đề, và tiếp tục duy trì sự hiệp thông trong suốt đời sống tông đồ.

Trong tông huấn Loan báo Tin Mừng, Chân phúc Phaolô VI mô tả những bước khác nhau trong việc Phúc Âm hóa. Một trong những bước này là thuộc về cộng đoàn Kitô hữu, là cộng đoàn mà chúng ta nhận được nhân chứng đức tin đầu tiên và công bố lòng thương xót của Thiên Chúa (x. số 23). Áp dụng vào cộng đoàn Kitô hữu mang đến sự phong phú trong đời sống Giáo hội, đặc biệt là các bí tích. Thực vậy, Hội Thánh không chỉ là một nơi chúng ta tin, nhưng còn là một đối tượng của đức tin, vì lý do này mà chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Tôi tin Hội Thánh”.

Lời mời gọi của Thiên Chúa đến với chúng ta qua các phương tiện của hòa giải là cộng đoàn. Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở nên chi thể của Hội Thánh, và sau khi chúng ta đạt đến độ trưởng thành nhất định, Ngài ban cho chúng ta một ơn gọi đặc biệt. Hành trình ơn gọi được thực hiện cùng với các anh chị em, những người mà Chúa lôi kéo đến với chúng ta: Đó là cùng một ơn kêu gọi. Sự năng động của Giáo Hội trong lời kêu gọi là liều thuốc giải cho sự vô cảm và chủ nghĩa cá nhân. Nó thiết lập sự hiệp thông trong đó sự vô cảm bị tình yêu thương đánh bại, bởi vì nó đòi hỏi chúng ta vượt qua khỏi bản thân và đặt cuộc sống chúng ta vào kế hoạch của Thiên Chúa, ôm lấy hoàn cảnh lịch sử của dân thánh Người.

Trong ngày đặc biệt cầu nguyện cho ơn gọi này, tôi khẩn thiết tất cả các tín hữu đảm nhận trách nhiệm quan tâm và biện phân ơn gọi. Khi các tông đồ tìm kiếm người thay thế cho Giuda Iscariot, Thánh Phêrô đưa ra 120 anh em (x. Cv 1:15) để chọn ra 7 phó tế, một nhóm các môn đệ được tập hợp (x. 6:2). Thánh Phaolô đưa cho Titô tiêu chí cho việc chọn lựa tông đồ (x. Tt 1:5-9). Ngày nay vẫn vậy, cộng đồng Kitô hữu luôn hiện diện trong việc biện phân ơn gọi, trong việc đào tạo và sự bền đỗ của các ơn gọi (x.Tông huấn niềm vui tin mừng, 107)

Ơn gọi được nảy sinh ngay trong lòng Giáo Hội. Từ khoảnh khắc một ơn gọi bắt đầu trở nên rõ ràng, ơn gọi ấy cần phải có “cảm thức” về Giáo hội. Không ai được kêu gọi để dành riêng cho một vùng riêng biệt, hay cho một nhóm hoặc một phong trào nhưng là dành cho Giáo hội và thế giới. “Một dấu hiệu chắc chắn về đặc sủng đích thực là đặc tính giáo hội của nó, khả năng nó kết hợp hài hòa với đời sống dân thánh trung thành của Thiên Chúa vì lợi ích chung của mọi người” (x. 130). Trong sự đáp trả lời mời gọi này, người trẻ nhìn thấy chân trời giáo hội mở rộng; họ có thể xem xét những đặc sủng khác nhau và thực hiện nhận thức khách quan hơn. Theo cách này, cộng đoàn trở thành nhà và gia đình cho ơn gọi sinh ra. Các ứng viên suy niệm về cộng đoàn hoán cải như là một yếu tố cần thiết cho tương lai của họ. Họ học để hiểu và yêu thương anh chị em, những người theo những đường hướng khác họ; và chính những điều này làm tăng thêm sức mạnh mỗi người trong sự hiệp thông mà họ chia sẻ.

Ơn gọi lớn lên trong lòng Giáo hội. Trong quá trình đào tạo, cá ứng viên với những ơn gọi khác nhau cần học hỏi kiến thức về cộng đoàn giáo hội, vượt qua những giới hạn lúc đầu. Để khi kết thúc, họ nên cùng nhau thực hiện những trải nghiệm tông đồ với những thành viên khác của cộng đoàn, chẳng hạn như: cùng theo một khóa giáo lý, trao đổi các thông điệp Giáo hội, gặp gỡ liên hội dòng, chia sẻ trải nghiệm việc truyền giáo tại các vùng ngoại vi, chia sẻ đời sống tu viện, khám phá nguy cơ đưa đến cám dỗ; liên hệ với các vị thừa sai để đào sâu hơn về sứ vụ đến với muôn dân; và trong cộng đoàn các linh mục giáo phận, để đi sâu vào kinh nghiệm đời sống mục vụ giáo xứ và giáo phận. Đối với những ai đã sẵn sàng cho việc đào tạo, cộng đoàn giáo hội luôn là môi trường đào tạo cơ bản.

Giáo hội công nhận ơn kêu gọi. Sau khi cam kết, hành trình ơn gọi của chúng ta trong Giáo hội không phải đã hết, nhưng tiếp tục trong sự sẵn sàng phục vụ, bền chì và tiếp tục tiến trình đào tạo. Những người sống đời thánh hiến sẵn sàng phục vụ Giáo hội khi cần. Sứ mệnh của Phaolô và Barnaba là ví dụ của việc sẵn sàng phục vụ này. Được Chúa Thánh Thần và cộng đồng Antioch (x. Cv 13, 1-4) sai đi làm sứ vụ, họ quay trở lại và mô tả những gì Thiên Chúa đã làm thông qua họ (x. 14:27). Những nhà truyền giáo được cộng đoàn Kitô hữu đồng hành và công nhận, và cộng đoàn này vẫn luôn là một điểm quan trọng như mảnh đất quê hương hữu hình bảo vệ tất cả những ai trên hành trình hướng đến cuộc sống vĩnh cửu.

Trong số những người hoạt động mục vụ, các linh mục đặc biệt quan trọng. Trong sứ vụ, họ sống trọn vẹn Lời của Chúa Giêsu, “Ta là cổng chuồng chiên […] Ta là mục tử nhân lành” (Ga 10:7,11). Chăm sóc mục vụ ơn gọi là một phần căn bản trong sứ vụ của họ. Linh mục đồng hành với những ai có ý muốn theo ơn gọi, cũng như những ai đã tận hiến cuộc đời phục vụ Thiên Chúa và cộng đoàn.

Tất cả các tín hữu được mời gọi đánh giá cao sự năng động của ơn gọi để các cộng đoàn tín hữu có thể trở nên, sau gương mẫu của Rất Thánh Đồng Trinh Maria, như cung lòng người mẹ chào đón ân ban của Chúa Thánh Thần (x. Lc 1:35-38). Tình mẫu tử của Giáo hội thể hiện trong lời cầu nguyện liên lỉ cho ơn gọi và công cuộc giáo dục, đồng hành với tất cả những ai nhận thức ra được ơn kêu gọi của Chúa. Tình mẫu tử này cũng được thể hiện qua việc lựa chọn kỹ càng những ứng viên cho chức thánh và cho đời sống thánh hiến. Cuối cùng, Giáo hội là mẹ của ơn gọi trong việc tiếp tục nâng đỡ những ai đã tân hiến đời mình để phục vụ người khác.

Chúng ta cầu xin Chúa ban cho tất cả những ai đang trong hành trình ơn gọi có một cảm thức sâu sắc mình thuộc về Giáo hội; và xin Chúa Thánh Thần tăng thêm sức mạnh cho các Mục tử, và tất cả các tín hữu, một cảm nhận sâu hơn về sự hiệp thông, sự biện phân và tình phụ mẫu thiêng liêng.

Lạy cha của lòng thương xót, Người đã trao ban Con Một của Người là Đấng Cứu Độ và tăng thêm sức mạnh Thánh Thần cho chúng con, ban cho chúng con những cộng đoàn Kitô hữu sống động, sốt sắng và vui tươi trong tình huynh đệ, và nuôi dưỡng người trẻ ước muốn thánh hiến bản thân cho Người và cho công cuộc Phúc Âm hóa. Xin gìn giữ và duy trì những cộng đoàn này trong lời cam kết hiến dâng ơn gọi thích hợp và những phương cách tiến tới trong đời sống thánh hiến của mỗi người. Xin ban cho chúng con sự khộn ngoan cần thiết cho ơn gọi để trong mọi sự, lòng nhân từ tuyệt hảo của Người được tỏa sáng. Xin Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu làm trung gian hòa giải cho mỗi cộng đoàn Kitô hữu nhờ đó được trổ sinh hoa trái Thánh Thần, là nguồn ơn gọi thực sự cho việc phục vụ dân thánh Chúa.

Vatican, 29.11 2015

+ Đức Giáo Hoàng Phanxicô

 

10. TRANG THIẾU NHI

DẠY CHỮ LỄ CHO THIẾU NHI

Sáng thứ hai đầu tuần, tôi đi thăm viếng một người già trong xóm. Căn nhà gần lộ lớn, có đám sầu riêng mới tháp mấy ngàn cây chuẩn bị bán. Chủ nhà hiếu khách pha mấy ly cà phê nỏng hổi. Vừa uống cà phê, chúng tôi vừa nói chuyện với nhau về giá cả sầu riêng, giá sầu riêng cây ghép tăng cao mấy năm gần đây. Cùng lúc đó, một đứa học sinh lớp 8 là bạn cùng lớp của thằng con trai ông chủ nhà đi thẳng vô, lấy chiếc xe đạp dựng kế bên bàn nước trà, rồi đạp xe chạy một hơi ra đường lớn, ngang mặt chủ nhà không nói tiếng nào.  Lấy làm lạ, tôi mới hỏi: “Nó lấy xe của ai vậy anh?” Chủ nhà trả lời: “Nó gởi hồi sáng, bây giờ nó lấy”. Tôi càng thấy lạ hỏi tiếp: “Sao nó vô nhà anh mà không thấy chào, lấy xe không thấy hỏi, không thấy cám ơn anh gì hết vậy?” Chủ nhà trả lời: “Tụi nhỏ bây giờ, nhiều đứa như vậy lắm anh ơi”. Nghe chủ nhà trả lời, tôi đưa mắt nhìn theo đứa học sinh chạy xe đạp nghênh ngang trên đường. Tôi tự hỏi: ‘Làm sao để dạy lễ phép cho học sinh, cho thiếu nhi ngày hôm nay đây?”. Sau câu hỏi đó, tự nhiên những bài học lễ phép được học ngày xưa bắt đầu ôn lại trong đầu tôi:

1. Lễ phép nơi nhà thờ

Ngày xưa, sự lễ phép, cung kính nơi nhà thờ được các cha, các thầy, các dì dạy kỹ lưỡng: cách bái gối hoặc cúi đầu khi vào nhà thờ, cách đi vào nhà thờ, cung cách trang nghiêm khi đứng, ngồi, quỳ trong nhà thờ,  cách cúi đầu khi đi ngang đài Đức Mẹ, cách cúi mình khi đi ngang Mình Thánh Chúa, gặp ông cố, thầy, dì phải chào như thế nào? Bạn nào không làm đúng lời dạy của các cha, các thầy, các dì, có khi bị quỳ gối nữa. Nhờ được dạy kỹ lưỡng, nhờ quỳ gối, nhờ bị phạt mà tôi nhớ bài học lễ phép nơi nhà thờ.

2. Lễ phép nơi trường học

Tôi vẫn còn nhớ mãi những bài học thuộc lòng đơn sơ nhưng rất hay trên ghế nhà trường: “Đi học về là đi học về, em vào nhà em chào cha mẹ, cha mẹ khen rằng em rất ngoan, mẹ âu yếm hôn đôi má em”. Bên cạnh đó, nhiều bài học hay về chữ lễ được dạy cách có hệ thống qua từng giai đoạn giáo dục. Học trong nhà trường, học sinh phải trải qua kiểm tra, thi cử. Nhờ sự nhồi nhét học thuộc lòng các bài học ấy mà tôi nắm vững khá nhiều lý thuyết hay về sự lễ phép của một con người.

3. Lễ phép nơi gia đình 

Hồi nhỏ, tôi thường bị cha la vì nhiều chuyện nhỏ nhặt: Bạn của cha mẹ tới nhà, tôi không chào, bị la; đưa cơm mẹ bới, đưa một tay, bị la; trả lời với cha mẹ, không dạ thưa, bị la; cha mẹ cho quà, lấy một tay, bị la; anh em nói chuyện mày tao, bị la; khi cha mẹ có khách, đứng nghe chuyện, bị la…Nhờ bị la mà tôi nhớ hoài những bài học lễ phép nơi gia đình.

Sau khi ôn xong bài học lễ phép ngày xưa, tôi mới bất ngờ khám phá ra một liên kết vững chắc trong giáo dục: “nhà thờ, trường học, gia đình là cái kiềng ba chân vững chắc để giáo dục sự lễ phép cho thiếu nhi”.

Lm. Phaolô Phạm Thanh Sơn

 

11. TRANG GIỚI TRẺ

NIỀM TIN LÀM THAY ĐỔI LÒNG NGƯỜI

Có một điều mà dường như ai sống trên đời này khi nghĩ tới đều ưu tư khắc khoải. Đó là lòng người. Lòng người là một giá trị thiêng liêng, không mùi vị, không màu sắc và không thể cân đo đong đếm được. Người ta thường nói: “Dò sông dò biển dễ dò. Nào ai lấy thước mà đo lòng người”.

Lòng người lại hay thay đổi. Lòng người thay đổi theo tuổi tác; lòng người thay đổi theo sức khỏe; lòng người thay đổi theo hoàn cảnh sống… Lòng người cũng sẽ thay đổi vì niềm tin.

Niềm tin là động lực vững vàng để lòng người thay đổi theo chiều hướng tích cực. Một thanh đang sống bê tha trụy lạc gặp được một người hiểu mình hết lòng nâng đỡ, khuyên bảo có thể sẽ có cuộc sống mới không như xưa nữa. Vị lương y chữa trị tận tình có thể sẽ là nguồn động viên để bệnh nhân mau khỏe lại…

Cùng với những người tin vào Chúa trên thế giới, người Công giáo vừa mừng một Đại lễ hết sức long trọng: Đại lễ Mừng Chúa Giêsu Phục Sinh. Để mừng Đại lễ nay người Công giáo chuẩn bị trước ba ngày gọi là Tam Nhật Thánh. Trong ba ngày này người Công giáo tưởng niệm lại mầu nhiệm Tình thương Thiên Chúa dành cho con người. Tình thương ấy được cụ thể hóa nơi Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu thương con người nên thiết lập nên Bí tích Thánh thể và Truyền Chức Thánh cùng với việc quỳ gối xuống rửa chân cho con người. Chúa Giêsu thương con người nên sẵn sàng chịu chết cách nhục nhã và cô đơn trên cây thập tự giá.

Cao điểm của tình thương nơi Chúa Giêsu là chính Người đã phục sinh vinh hiển. Cuộc Phục sinh của Chúa Giêsu cho thấy Người hoàn toàn chế ngự được ma quỷ và những âm mưu của nó. Đồng thời, Người chiến thắng sự chết là hậu quả của tội lỗi.

Chúa Giê su Phục sinh là căn bản nhất của niềm tin nơi người tín hữu nói chung và cách riêng nơi người Công giáo. Thánh Phao-lô quả quyết: "Nếu Chúa Kitô không sống lại thì niềm tin của chúng ta là điều vô ích, ...chúng ta là những người khờ dại nhất vì chúng ta tin tưởng vào một điều hão huyền" (1Cr 15,12-19).

Vì niềm tin này mà các Tông đồ vốn là những con người nhút nhát đã hoàn toàn thay đổi. Sách Tông đồ công vụ cho biết các ngài hăng say ra đi rao giảng và lấy mạng sống của mình để làm chứng cho niềm tin của mình vào Chúa Phục sinh.

Niềm tin vào Chúa Giêsu làm thay đổi lòng các Tông đồ. Một sự thay đổi vô cùng to lớn và vững bền. Nhờ đó, đạo Công giáo mới có sức thuyết phục người khác. Ngày nay, khi mừng lễ Chúa Phục sinh các tín hữu Công giáo được mời gọi cùng với các Tông đồ thay đổi đời sống của mình.

Nếu lòng họ còn ích kỷ hay tính toán hơn thua với Chúa với anh chị em thì họ được mời gọi trở nên quảng đại; Nếu lòng họ nghiêng theo ma quỷ hơn là Chúa thì họ được mời gọi tuyệt đối trung thành với Chúa; Nếu lòng họ vẫn còn giữ mãi lửa hận thù ghen ghét thì họ được mời gọi tha thứ…

Người tín hữu Công giáo sống được sự quảng đại, trung thành với Chúa và biết tha thứ cho nhau thì họ đang làm chứng cho niềm tin của mình vào Chúa Giêsu Phục sinh.  Đó cũng là tiếng nói sống động nhất của Lòng Thương Xót.

Lm. Mic. Nguyễn Hà Thiện Tâm

 

 

12. ĐỐI MẶT VỚI TIN ĐỒN

Đã bao giờ bạn ngỡ ngàng nhận ra mình là trung tâm đàm tiếu của những người hàng xóm lắm chuyện chưa? Rất nhiều người khóc lóc, giải thích vẫn không xóa tan được dị nghị của những người xung quanh. Có người đương đầu với nó bằng cách im lặng, ai muốn nói gì thì nói chỉ cần người thân hiểu mình là được. Còn bạn, khi xuất hiện tin đồn không hay về mình, bạn sẽ đối diện với nó như thế nào?

Tin đồn là một phần không thể thiếu trong cuộc sống, bởi càng nhiều người càng dễ gây nên những bất đồng, xích mích do sự khác biệt về lối sống, cách ứng xử. Người này không thích cách bạn cư xử, giao tiếp với những người xung quanh nên tung ra những tin đồn để nhắm vào bạn. Có rất nhiều nguyên nhân để người ta tung tin đồn thất thiệt: làm tổn hại thanh danh, đòi quyền lợi, khiến cho mối quan hệ của người nào đó bị rạn nứt.

Tôi không tốt bằng một nửa tin đồn, cũng không xấu bằng một nửa tin đồn!

Tôi đọc được đâu đó câu nói trên và cảm thấy vô cùng thích thú với câu nói này. Trong cuộc sống, không ít lần chúng ta phải đối diện với những tin đồn khiến chúng ta bực mình, tức giận. Nhưng chúng ta sống như thế nào, làm gì và cư xử ra sao đều được những người xung quanh biết được. Trừ khi chúng ta thực sự là những kẻ đáng lên án, thì lúc ấy không cần đến tin đồn, tất cả những gì thuộc về chúng ta đều được phơi bày ra ánh sáng.

Vậy nên, với những tin đồn, hãy xem đó là một tai nạn nhỏ trên đường đời mà chúng ta phải gặp. Lúc vấp phải nó, hãy đứng lại, phủi thật sạch quần áo của mình, đừng để đám bụi đó làm vướng bận cuộc sống của mình.

Tại sao lại xuất hiện tin đồn?

Tin đồn xuất hiện phần lớn đều xuất phát từ nguyên nhân gây bất lợi cho cho người khác, đặc biệt là đối thủ của mình. Chỉ cần nắm được một chút sơ hở, lỗi nhỏ mà họ mắc phải ngay lập tức họ làm ầm lên để gây sự chú ý của dư luận. Từ đó, hình ảnh của người bị tung tin đồn ít nhiều sẽ bị ảnh hưởng. Với những người thiếu bản lĩnh rất dễ bị tin đồn đánh gục, bởi nhiều người lầm tưởng tin đồn chính là dư luận xã hội. Nếu tôi dễ bị chi phối bởi người khác, thì tin đồn là một trong những điều tôi không thể chịu đựng được.

Trong trường hợp tin đồn phản ánh đúng sự thật, tôi cần nghiêm khắc nhìn nhận lại mình, nhìn lại cách sống, cách cư xử của mình với những người xung quanh. Không phải ngẫu nhiên mà bạn được chọn làm “trung tâm” của những tin đồn đâu, phải có nguyên nhân để chúng được khai hỏa. Đừng vội nói rằng, tất cả chỉ là bịa đặt, tôi có dám quả quyết tôi là người có lối sống lành mạnh, ngoan ngoãn, lễ phép khi đối diện với tin đồn sống chung, sống thử, lừa dối bạn bè, vay tiền không trả…

Cách xử lý tin đồn

Trước tiên tôi cần phải biết người tung tin đồn là ai và động cơ gì khiến họ làm điều đó. Nếu họ cảm thấy tôi “chướng tai, gai mắt” thì tôi sẽ nhìn lại cách sống của mình để xem tôi đã làm gì gây phiền lòng người ta. Nếu tôi cho rằng, họ ghen ăn tức ở, thì tin đồn đó hãy xếp sang một bên.

Tuy nhiên, nếu tôi chính là nguyên nhân châm ngòi cho những tin đồn đó, nếu sau khi tôi im lặng, những tin đồn cũng lặng xuống theo thì điều đó chứng tỏ, tôi không có gì đáng hổ thẹn với lương tâm và những người xung quanh. Còn không, tin đồn xuất hiện rầm rộ, không dứt thì tốt nhất tôi phải xem lại chính bản thân mình nữa. Đôi lúc tôi cố che dấu điều gì đó nhưng người khác lại biết được, và họ muốn cho một người nào đó biết “bộ mặt thật” của tôi, họ sẽ chọn phương án tung tin đồn. Ngược lại, mọi chuyện mãi mãi chỉ là tin đồn khi tôi thực sự trong sạch. Chỉ cần tôi không làm điều gì xấu hổ, tôi sẽ chẳng bao giờ bị tin đồn vùi dập.

Tin đồn luôn xuất hiện trong cuộc sống của chúng ta và mỗi người cần học cách đối diện với nó. Có thể sử dụng một chiêu thức khác nhau, nhưng dù sử dụng chiêu thức nào cuối cùng những người xung quanh cũng biết được đó là thật hay giả.

Đừng vội sử dụng phương pháp làm ầm ĩ, gây náo loạn khi phản pháo lại một tin đồn nào đó, bởi nếu đó chẳng may là sự thật, tôi sẽ làm gì để đối diện với những người có liên quan.

Tôi sẽ im lặng trước những tin đồn và chỉ nói những gì cần nói thôi, còn bạn thì sao?

 

13. TRANG GIA ĐÌNH

CÂY HY SINH CHO QUẢ THƠM TRÁI LÀNH

Quý bạn đọc thân mến,

Cách đây hơn mười năm, sau khi chịu chức linh mục, người viết được Đức Giám Mục sai đến phục vụ tại ba họ đạo nhà quê, với vai trò là phụ tá cha sở.

Trọn năm năm sống với người chân quê chất phác thật thà, tình thương mến thương dành cho nhau vừa đơn sơ vừa sâu đậm, đánh dấu mối tình đầu của đời linh mục không thể quên.

Hôm nay, khi đặt bút lên trang viết này, dĩ nhiên người viết nhớ đến nhiều gia đình, nhiều cá nhân đã từng gặp gỡ, quen biết và cảm mến; tuy nhiên, có một gia đình, người viết nhớ cách riêng, vì họ giàu lòng quảng đại và hy sinh; để hôm nay nhân dịp được hầu chuyện với quý độc giả trên trang gia đình, người viết muốn gởi gắm chút tâm tình qua lời kể, như một sẻ chia mời gọi!

Lùi về thập niên trước, thật ra, gia đình này chỉ đủ ăn, nếu không muốn nói là thiếu thốn, vì gia đình vỏn vẹn có hai công đất ruộng và hai công đất vườn trồng bưởi, nhưng phải lo cho hai người con học ở Sài Gòn, một học y khoa bác sĩ, một học làm dược tá. Người vợ mắc chứng bệnh tim, lúc khỏe lúc đau.

Điều đáng nói ở đây, mặc dù gia cảnh khá khó khăn, nhưng người chồng lại được nhìn nhận: là một trong những quới chức nhiệt thành bậc nhất ở trong họ đạo; ông không chỉ giỏi việc chuyên môn, hay siêng năng tham gia các đoàn thể, mà còn thường xuyên túc trực đưa đón cha sở đi đây đi đó bằng phương tiện hai bánh.

Và trong những lúc ông cùng đồng hành với cha sở ở nơi này nơi khác, thì nữ tướng cùng các con luôn ủng hộ hết mình. Quả là một gia đình có lòng quảng đại và hy sinh chung tay lo việc nhà Chúa.

Cuối cùng ơn Chúa tuôn đổ dạt dào trên gia đình này như là phần thưởng bội hậu ngoài niềm ước mong. Cách đây sáu năm, cả hai người con của ông bà đều yên bề gia thất, cô dược tá thì kết duyên với một anh việt kiều Mỹ, còn chàng bác sĩ thì cưới lấy cô thiếu nữ thuộc gia đình khá giả và đạo đức ở Sài Gòn. Gần đây, Bỗng dưng Chúa cho bà khỏe mạnh hơn trước. Và hiện nay cả gia đình đoàn viên, họ đang sinh sống tại Mỹ, rất ổn định và hạnh phúc. Được biết, ở phương trời xa, gia đình này vẫn mãi giữ vững truyền thống đức tin và đạo đức.

Quý bạn đọc thân mến,

Chúa không thể và không nỡ lãng quên tấm lòng quảng đại và hy sinh của bất cứ một ai dành cho Ngài, dành cho Hội Thánh của Ngài và dành cho công việc của Ngài.

Bởi vậy, đối với Chúa, đối với Hội Thánh Chúa, hay đối với việc Chúa chúng ta đừng bao giờ tiếc chi! Hãy quảng đại và hy sinh, nhiều chừng nào tốt chừng nấy.

Lm. Đôminicô Nguyễn Khắc Xuyên

 

14. TRANG GIÁO LÝ VIÊN

NIỀM TIN VÀO ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH

Tin Mừng nói gì về sự phục sinh của Đức Giêsu?

Niềm tin Kitô giáo xuất phát từ một con người tên là Giêsu. Kinh Thánh thuật lại rằng Ngài đã bị quân Rôma hành hình bằng cách đóng đinh vào thập giá. Ngài đã chết. Cái chết của Ngài đã mang đến nỗi đau buồn cũng như thất vọng cho nhiều người vì họ không thể tin rằng một con người vừa tốt lành, vừa quyền năng như Ngài lại phải chết theo một cách thức nhục nhã như thế. Tuy nhiên, chính Kinh Thánh cũng cho biết là Ngài đã phục sinh từ cõi chết. Sự phục sinh của Ngài đã làm dấy lên không biết bao nhiêu điều lạ lẫm, mà cho đến nay, đã hơn hai ngàn năm trôi qua, người ta vẫn còn đặt câu hỏi về nó.

Thánh Phaolo đã nói rằng: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng và cả đức tin của ah em cũng trống rỗng … chúng ta là những người khốn khổ nhất trong mọi người.” (1Cr 15,14.19). Quả vậy, nếu Ngài không phục sinh, tôn giáo của chúng ta chỉ là một tôn giáo chết chóc, đức tin của chúng ta chẳng để làm gì. Nếu Ngài không phục sinh, cuộc sống của chúng ta cũng sẽ hệt như các môn đệ ngày xưa, quanh năm suốt tháng chỉ biết chôn chặt mình trong những nỗi sợ hãi khôn nguôi, không dám đối diện với ai, chỉ biết buồn phiền và chán nản. Nếu Đức Giêsu không phục sinh, ta chẳng có lý do gì để sống tha thứ yêu thương, ta chẳng ngu dại gì hy sinh hay dành phần hơn cho người khác, ta chẳng hơi đâu để nỗ lực sống theo luân thường đạo lý, khuôn vàng thước ngọc hay những bài học khôn ngoan.

Nhưng Đức Giêsu có thật sự phục sinh không? Mà “phục sinh” nghĩa là gì? Nó có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Các trình thuật Tin Mừng nói gì về nó?

Cuộc thương khó và cái chết của Đức Giêsu chắc chắn đã khiến cho các môn đệ tưởng rằng mọi sự đã kết thúc. Mọi hy vọng mà họ có nơi vị thầy đầy quyền năng của mình đã tiêu tan. Họ thậm chí còn không tin vào những gì vừa xảy đến với Thầy. Chỉ mới hôm trước, Thầy vẫn còn được người ta đón tiếp nồng hậu khi tiến vào thành Giêrusalem. Vậy mà chỉ trong thoáng chốc, mọi sự đã đảo lộn hoàn toàn. Thầy bị bắt, các môn đệ bỏ chạy hết. Họ sợ bị liên luỵ đến độ không dám nhận mình là môn đệ của Đức Giêsu. Mọi hy vọng, mọi tham vọng được “ngồi bên hữu bên tả” trong vinh quang bỗng vụt tắt. Tuy nhiên, đang khi các ông vì sợ hãi mà giam mình trong phòng tối thì có một tin lạ xảy đến. Các phụ nữ thuật lại với các ông là Đức Giêsu đã phục sinh. Buổi sáng ngày hôm ấy không chỉ là khởi đầu cho một ngày nhưng còn là khởi đầu cho một trang sử mới của cuộc đời các ông và cho cả Kitô giáo.

Nếu như các sách Tin Mừng đều có nét giống nhau khi tường thuật lời cuộc Thương Khó của Đức Giêsu, thì liên quan đến câu chuyện phục sinh, ta lại thấy có rất nhiều điểm khác biệt. Cả bốn Tin Mừng đều thuật lại việc các phụ nữ đã ra mồ chôn Đức Giêsu vào sáng sớm. Nhưng Marco (16,1) và Luca (24,10) thì nói đến ba người phụ nữ (dù ba cái tên không giống nhau hoàn toàn) trong khi đó, Mathêu (28,1) nói rằng có hai, và Gioan thì phức tạp hơn, khi đi ra mộ thì chỉ nói đến một người (Ga 20,1) còn khi thuật lại cho các môn đệ thì lại dùng danh từ số nhiều (“chúng tôi không biết… Ga 20,2). Về động cơ đi ra mộ, Marco và Luca thì cho biết họ ra mộ để xức xác Chúa, trong khi Matthêu thì chỉ nói ra xem mộ. Marco cho biết, sau khi được cho biết là Chúa đã sống lại, các phụ nữ hoảng sợ và bỏ đi (16,8), còn Matthêu thì nói rằng họ chạy đi nói cho các môn đệ biết (28,8). Mt 28,2-5 cho biết có một thiên thần hiện đến báo tin, Marco (16,5) chỉ nói là một thanh niên ngồi ở vị trí để xác Chúa, còn Luca (24,3) và Gioan (20,11) thì nói đến hai thiên thần. Ngoài ra, chỉ có Tin Mừng Nhất Lãm là đề cập đến chuyện các thiên thần bảo các phụ nữ đi nói cho các môn đệ biết, trong khi tin mừng thứ tư thì chính Đức Giêsu phục sinh hiện ra với Maria Madalena, trò chuyện với bà, sau đó mới sai bà đi nói với các môn đệ.

Tin Mừng Marco được viết sớm nhất và được xem là nguồn để Matteo và Luca dựa vào đó mà viết Tin Mừng của mình. Theo các học giả Kinh Thánh, Tin Mừng Marco trong bản gốc không có đoạn 16,9-20, đoạn nói về việc Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ. Như thế, dưới cái nhìn nguyên thuỷ của Marco, thông tin về việc Đức Giêsu phục sinh đã khiến cho các phụ nữ vô cùng sợ hãi, đến độ chẳng nói gì với ai (Mc 16,8), và cuốn Tin Mừng của Marco kết thúc ở đây. Các Tin Mừng khác lần lượt thuật lại những gì diễn ra sau đó. Khi được các phụ nữ báo tin, các môn đệ cho rằng đó là điều vớ vẩn và không tin. Nhưng sau đó, theo Luca (24,12) thì Phêrô đã chạy ra mộ để kiểm chứng và trở về trong sự ngạc nhiên, còn Gioan thì cho biết ngoài Phêrô ra, còn có một môn đệ khác (Ga 20,3). Họ đã ra mộ nhưng không thấy Đức Giêsu phục sinh mà chỉ thấy “các băng vải và khăn che đầu” của Đức Giêsu (Ga 20, 6-7).

Đức Giêsu phục sinh đã chính thức hiện ra với các ông vào buổi chiều ngày hôm đó (Ga 20,19). Luca thì cho rằng trước khi hiện ra với các môn đệ, Đức Giêsu đã tỏ mình ra với hai môn đệ trên đường trở về Emmaus, đã trò chuyện với các ông nhưng hai ông không nhận ra Người cho đến khi Người bẻ bánh. (Lc 24,13-35). Gioan tiếp tục câu chuyện khi thuật lại rằng Đức Giêsu đã hiện ra với các môn đệ khi các cửa đều đóng kín, lần thứ nhất không có Toma (Ga 20,19-23) và lần thứ hai có Toma (Ga 20,24-29). Chương 21 của Tin Mừng Gioan thuật lại cho chúng ta một câu chuyện rất đẹp khi Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ tại biển hồ Galile sau một đêm họ đánh bắt cá thất bại. Có lẽ chứng nhân trong Kinh Thánh cuối cùng được diện kiến sự tỏ mình của Đức Giêsu phục sinh là Phaolo, khi ông đang trên đường đến Damat để bách hại các Kito hữu (Cv 9,1-9). Chính Phaolo cũng đã thuật lại các cuộc hiện ra của Đức Giêsu sau khi Ngài phục sinh trong thư gửi tín hữu Corinto: “Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số ấy phần đông hiện nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ.” (1Cr 15,5-8). Tất cả những lần hiện ra này của Đức Giêsu hệt như một sự xác nhận cho những gì Đức Giêsu đã tiên báo trước khi bước vào cuộc khổ nạn: rồi ngày thứ ba, Con Người sẽ sống lại (Mc 8,31).

Nhưng có khi nào Đức Giêsu chỉ giả vờ chết rồi tỉnh dậy rồi bỏ trốn thì sao? Biết đâu Ngài chỉ ngất đi hoặc chết lâm sàn thôi thì sao? Hoặc có thể các môn đệ đánh cắp xác của Ngài, rồi tung tin Ngài đã phục sinh? Biết đâu chuyện hiện ra chỉ là ảo giác của các ông? Kinh Thánh không cho chúng ta câu trả lời, nhưng các nhà hộ giáo thì có. Các nhà hộ giáo nói gì?

Phục sinh là gì? Làm sao biết chắc là Đức Giêsu đã sống lại?

Chẳng ai trong chúng ta có kinh nghiệm phục sinh giống như Đức Giêsu cả. Có thể có nhiều người chết lâm sàng, rồi sống lại. Cũng có những người đã chết thật rồi sống lại (như Ladaro hay con trai bà goá thành Nain mà Tin Mừng nói đến). Nhưng việc sống lại này không phải là phục sinh, vì chính những người này sẽ phải chết thật một lần nữa, thân xác họ sẽ bị chôn vùi và mục rửa, khi tuổi đời chấm dứt. Còn với Đức Giêsu, Ngài đã đi vào một sự sống mới, không bao giờ phải chết nữa, thân xác Ngài cũng không bị huỷ hoại. Ngài vẫn là Ngài nhưng Ngài không còn giống như Ngài trước kia. Chính sự phục sinh này của Ngài đã là niềm hy vọng lớn lao của con người, và niềm hy vọng này đã giúp khai sinh Ki-tô giáo.

Tạm thời không bàn đến chuyện đức tin, nhiều người đã đặt vấn đề là liệu Đức Giêsu có phục sinh theo kiểu mà chúng ta vừa nói thật không. Một bằng chứng rõ ràng và thuyết phục nhất (dù chưa đầy đủ) chứng minh cho chuyện Ngài đã sống lại là việc người ta không thể tìm thấy được xác của Ngài. Tất cả mọi vĩ nhân trên thế giới này đều đã chết và thân xác của họ vẫn còn được xác định. Còn Đức Giêsu thì không. Các môn đệ sẽ không thể bịa chuyện rằng Đức Giêsu đã phục sinh và hiện ra với mình vì chỉ cần lính Rôma trưng dẫn cái xác là mọi chuyện sẽ được giải quyết.

Nhưng biết đâu các môn đệ đã đánh cắp cái xác thì sao? Điều này càng khó có thể xảy ra hơn nữa. Khi Đức Giêsu bị bắt và hành hình, ai trong các ông cũng sợ đến nỗi bỏ chạy. Phêrô còn không dám thừa nhận rằng mình có quan hệ với ông Giêsu. Ngay cả sau đó, các ông vẫn còn nhốt mình trong phòng vì sợ thì làm sao dám cả gan đi đánh cắp xác Thầy tại một ngôi mộ có lính La Mã được trang bị vũ khí canh giữ. Ngoài ra, chúng ta cũng không tìm thấy lý do gì để các ông phải liều mạng làm chuyện này. Các ông không thể tự dưng đi đánh cắp cái xác, giấu một nơi không ai biết, rồi bịa chuyện Thầy Giêsu sống lại, sau đó chịu chết vì câu chuyện tưởng tượng ấy: người thì bị chặt đầu, người thì bị đóng đi, người thì bị tùng xẻo… Hơn nữa, nếu đây là một âm mưu tập thể thì chỉ cần một người trong số họ khai ra sự thật thì kế hoạch sẽ vỡ tan tành. Các ông lại là những ngư phủ thất học, làm sao có thể nghĩ đến và bịa ra một câu chuyện về sự phục sinh mà đến nay chúng ta còn không biết nó là cái gì. Vả lại, nếu các ông bịa chuyện thì không nên đưa phụ nữ vào vì thời đó chẳng ai tin lời một phụ nữ. Ngoài ra, các ông cũng không thể bịa chuyện Đức Giêsu hiện ra với mình vì Đức Giêsu không chỉ hiện ra với các ông mà còn với nhiều người khác, trong đó có một người rất thù ghét Kitô giáo là Phaolo. Chính Phaolo đã dành trọn cuộc đời còn lại của mình để làm chứng về sự phục sinh của Đức Giêsu. Thậm chí, ông đã chết vì sự thật ấy. Những bằng chứng này cho thấy, các môn đệ không thể đánh cắp xác chết của Đức Giêsu rồi bịa chuyện được.

Có thể có trường hợp Đức Giêsu đã không chết, ngài chỉ ngất đi, hoặc chết lâm sàng thôi, rồi sau khi được đưa xuống thập giá vào đem vào mộ, Ngài đã tỉnh lại và bỏ trốn? Nghĩ như vậy có được không? Giả thuyết này cũng không vững, vì có nhiều bằng chứng cho thấy Đức Giêsu đã chết thật. Theo luật, lính La Mã phải kiểm tra rất kỹ rằng tử tù phải chết rồi thì mới cho tháo xuống khỏi thập giá, còn không thì phải đập dập ống chân tử tù để hắn ta không thể bỏ trốn. Việc Đức Giêsu không bị đập dập ống chân (Ga 19,31-33) cho thấy lính La Mã xác nhận rằng Ngài đã chết. Lính La Mã sẽ phải lãnh cái chết nếu không kiểm tra cẩn thận. Như thế, hẳn là anh lính này phải rất cẩn trọng. Gioan cũng thấy máu và nước chảy ra từ cạnh sườn (Ga 19,34-35), điều này cho thấy phổi của Ngài đã bị ép và không thể hoạt động được nữa. Giả như đến đây Ngài vẫn chưa chết thì Ngài cũng không thể thở được khi bị những tấm vải liệm quấn lấy từ đầu đến chân và bị đặt trong một khe đá kín (Ga 19,38-42). Hơn nữa, một thân xác tàn tạ sau khi bị đánh đập và đóng đinh như thế thì sao có thể đẩy nỗi tảng đá lớn lấp mộ mà không bị lính La Mã đứng canh phát hiện. Giả như Ngài có làm được thì Ngài đã đi đâu, làm gì? Tại sao không ai thấy? Và quan trọng hơn nữa, một con người sống dở chết dở, thân bại danh liệt như thế, vốn dĩ đã làm cho các môn đệ thất vọng tràn trề, làm sao có thể khiến bao nhiêu người sẵn sàng bịa chuyện rồi chết vì mình với một sự can đảm và khảng khái như vậy. Bởi vậy, giả thuyết cho rằng Đức Giêsu không chết hoặc chỉ chết lâm sàng không đáng tin.

Một chứng cứ rất hùng hồn để chứng minh cho sự phục sinh của Đức Giêsu chính là những lần Ngài hiện ra, cùng ăn uống, trò chuyện, chia sẻ, giảng dạy và ban thêm sức mạnh cho các ông. Chỉ có thể là Đấng Phục Sinh mới khiến cho các ông mở toang cánh cửa sợ sệt để hiên ngang ra ngoài trước đám đông mà giảng dạy. Chỉ có thể là sức mạnh của Đấng Phục Sinh mới có thể giúp các ông được biến đổi từ trong ra ngoài: các ông có thể nói được nhiều ngôn ngữ, có thể làm các phép lạ, có thể mạnh dạn đối chất với các nhà cầm quyền, có thể có những lời nói làm say mê lòng người, cuốn hút họ và trao ban cho họ niềm tin. Trải qua hơn hai ngàn năm, đức tin này ngày càng được chứng thực bởi nhiều vị thánh, những người được ơn đụng chạm và cảm nghiệm nó trong một tương quan sâu sắc với Chúa. Và nhờ đó, nó vẫn trường tồn và thêm vững mạnh. Tất cả những điều tuyệt vời này không thể đến từ một câu chuyện huyền hoặc do một số người thất học bịa ra hay từ một cái xác không còn hình thù nằm trong nấm mồ hay một người giả vờ chết rồi sau đó trốn chui trốn nhũi. Nó chỉ có thể đến từ một Đấng đã phục sinh thật sự, đã đi vào trong sự sống vĩnh cữu của Thiên Chúa.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

 

15. TRANG QUỚI CHỨC

VOI MẸ KHÓC

Ai đã từng xem chương trình thế giới hoang dã, chắc hẳn đã thấy cảnh những đoàn vật di cư vì phải đi tìm nguồn nước và cỏ. Trong những lần di cư như thế chúng phải đối mặt với rất nhiều hiểm nguy trên đường, vì thế chúng phải tổ chức để trong lúc di hành những con vật trưởng thành phải bảo vệ các con vật con non yếu. Có những lúc con mẹ tự biến thành mồi nhử để kéo kẻ thù ra xa đàn con của mình và thường là bỏ mạng.

Tôi còn nhớ một cảnh rất cảm động khác, không phải do kẻ thù nhưng do hoàn cảnh đưa đẩy. Thường các con vật muốn đi xa phải đủ lớn để thực hiện một cuộc lữ hành hàng trăm thậm chí hàng ngàn cây số, nhưng không may, một chú voi con ra đời muộn trong lúc đàn voi di cư, có thể vì voi mẹ trước đó đã không đủ lương thực nên voi con ra đời rất yếu. Bình thường sau khi lọt lòng mẹ vài phút là chúng có thể tự đứng dậy được, nhưng chú voi này, rất nhiều lần gượng dậy nhưng rồi lại khụy xuống, voi mẹ sốt ruột giục voi con đứng lên để tiếp tục theo đàn nhưng không được, đàn voi cứ đi xa, xa dần….

Nhìn ánh mắt và cử chỉ của voi mẹ người ta thấy rõ sự vằn vặt giữa đi hay ở, nhưng rồi voi mẹ vẫn ở đó với đứa con vừa lọt lòng của mình và tìm cách giúp con đứng lên. Nhưng, hỡi ơi, chú voi con yểu mệnh kia đã không đứng lên được để có thể uống được những giọt sữa mà có thế nhờ đó nó có thể khỏe mạnh hơn để sống. Sau nhiều lần cố gắng và kiệt sức, voi con đã gục xuống… Voi mẹ lấy chiếc vòi chạm chạm vào thân thể chú voi con đã chết. Camera tập trung vào ánh mắt của voi mẹ, những cái chớp mặt thật chậm và…từ đó, những giọt nước mắt đã chảy ra. Voi mẹ thật sự đã khóc !

Hai chân trước voi mẹ dậm dậm xuống đất như tỏ ra bất lực và đau khổ, nó đi vòng quanh xác con như một sự thương tiếc và, như một cách chôn cất con mình, rồi nó uể oải ngẩng lên, một tiếng kêu khe khẽ, đầy nghẹn ngào từ trong miệng voi phát ra. Sau một chút chần chừ, voi mẹ lững thửng quay lưng từng bước nặng nề đi về hướng đàn voi đã đi nhưng lúc đó người ta không còn thấy bóng dáng đàn voi nữa vì chúng đã đi quá xa.

Gia đình là thế. Xã hội có thể phát triển theo xu hướng chọn lọc, đấu tranh để sinh tồn, nhưng gia đình thì không như thế, nó phải đi ngược lại với cách mà xã hội phát triển, bởi đơn giản, gia đình được cấu tạo bằng tình yêu, mà tình yêu thì có cái lý của nó và đôi khi ngược lại với lý trí.

Ngày nay xã hội có khuynh hướng chọn lọc con cái khi còn trong trứng nước vì nhiều lý do, nhưng dù cho thế nào đi nữa thì khi hành động như thế, rõ ràng chúng ta đang hành động thiếu tình yêu với ngay cả chính con của mình; mà nếu một người không yêu thương những người thân yêu nhất của mình thì làm sao có được tình yêu đối với những người không thân thuộc, làm sao yêu quê hương, đất nước, giống nòi ? Chúa đã nói: mỗi khi các người đã làm những việc ấy cho anh em các ngươi là các ngươi đã làm cho chính Ta. Chúng ta nghĩ gì về hình ảnh voi mẹ trong câu chuyện này ?

Lm. Ant. Lưu Thanh Tâm

 

16. SỐNG ĐẸP

Ý nghĩa và Thú vị

Có lẽ “ý nghĩa” và “thú vị” là hai điều rất quan trọng trong cuộc sống. Thật đáng tiếc nếu tôi sống vô nghĩa và vô vị! “Cuộc sống” khác với “sinh tồn”.

Nếu đời tôi ý nghĩa mà thiếu thú vị, thì tôi bận bịu trăm công nghìn việc, nhưng lại buồn chán. Nếu đời tôi thú vị mà thiếu ý nghĩa, thì tôi đang sống kiểu “giải trí”, trống rỗng!

Sống thú vị là sống ý nghĩa, là sống biết thưởng thức. Biết sống không phải chỉ là kiến thức.

Hiểu biết là hòa hợp. Kiến thức của tôi có thể rộng lớn về đủ loại phạm vi, nhưng tôi lại chưa biết thưởng thức chúng. Có thể tôi ngày càng am tường một lĩnh vực chuyên sâu, để rồi tự biến mình trở thành một “tên ngốc tài năng”.

Nhịp sống ngày nay cũng có thể làm cho cuộc sống tôi trở nên vô vị. Có thể do tôi quá ham thích đồ vật và quá ham thích quen biết nhiều người. Ham thích đồ vật, bị cuốn vào vòng xoáy tiêu thụ, mà thực ra tôi đang sống kiểu văn hóa “vứt đồ”, vì tôi không còn thì giờ để yêu thích bất cứ cái gì nữa. Đồ của tôi cần luôn là mới nhất, hợp thời nhất, đắt tiền nhất…

Tôi như người lính chuyên đi chiếm đóng các lãnh thổ, mà quên đi vai trò chăm sóc vun trồng ruộng đồng của người nông dân. Thay vì làm chủ thế giới, tôi tự trở thành kẻ làm thuê chỉ biết làm theo những mệnh lệnh vô hình vô hồn. Nhà của tôi có thể nhiều đồ đạc quá đến nỗi tôi không còn đủ chỗ để ở. Tôi quen biết bao nhiêu là người, mà không biết thực sự bạn thân có nổi một người hay không. Khi ấy, tôi dễ bị cuốn vào vòng xoáy của “văn hóa thời thượng” là “vứt đồ” và “vứt người”.

Thách đố rất lớn là làm thế nào để hòa hợp, hòa hợp giữa hiểu biết và tình cảm, giữa cái đầu và con tim. Trong đầu tôi có danh mục dài về giá tiền của các loại hàng hóa, nhưng lại thiếu danh mục về giá trị thật mà từng loại hàng hóa ấy mang lại cho tôi. Trong tâm tôi có danh mục hàng loạt bạn bè được phân chia phức tạp đủ loại lãnh vực, nhưng lại thiếu đi danh mục thực sự tình bạn tôi có với từng người bạn là gì.

Những suy nghĩ giản đơn này có thể giúp đời bớt vô nghĩa, bớt vô vị. Bởi lẽ, nếu không nghĩ một chút, tôi rất dễ bị khủng hoảng bị sụp đổ, khi một ngày chợt nhận ra: tôi bị mất hết tài sản, tôi bị bạn bè quên lãng; chứ thực ra, từ lâu tôi đã không có gì, từ lâu tôi đã không có bạn.

Ước gì, tôi sớm “phủi bụi” những giấc mộng chơi vơi, để đầu có thể đội ánh bình minh, để chân thật sự đi trên đất, để tay nắm chặt những bàn tay bằng xương bằng thịt của bạn bè, để từng nhịp tôi thở bầu không khí chung của mọi người, để tôi xác định được chỗ đứng của tôi tuy tí hon nhưng rất vững chắc trong vũ trụ bao la này.

Thú vị thay khi cười vui với bạn. Ý nghĩa thay khi nhìn nhau vui cười!

Tứ Quyết, SJ  (sưu tầm và biên soạn)

 

 

17. HỎI ĐÁP MỤC VỤ

Đức Mẹ Và Các Thánh Ban Ơn Hay Cầu Bầu?

Hỏi: xin cha giải thích hai câu hỏi sau đây : 1- Tại sao cần cầu nguyện và cầu nguyện cách nào cho được Chúa dễ nhậm lời ? 2- lời cầu nguyện thường nghe sau đây có đúng tín lý, giáo lý hay không: "Xin Chúa, Đức Mẹ, Thánh Giuse (hay Thánh Phêrô, Phaolô…) ban nhiều ơn lành cho ông bà, anh chị em"… v.v

Trả lời:

1- Tại sao cần cầu nguyện ?

Cầu nguyện nói chung và và cầu xin nói riêng (cầu xin = petition là một phần của cầu nguyện = prayer) là việc đạo đức rất đáng khuyến khích và thực hành vì nó nơi lên niềm tin của người tín hữu nơi Thiên Chúa là Đấng không ai trông thấy bằng mắt nhưng tin chắc có Ngài hiện diện và luôn lắng nghe lời cầu nguyện của chúng ta. Nói một cách thông thường, thì cầu nguyện là trò chuyện thân mật với Chúa trong tình Cha-con khi vui khi buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại, gặp lắm gian nan, đau khổ...trên đường đời. Chúa Giêsu đã nêu gương cầu nguyện cho các Tồng Đồ xưa và mọi người tín hữu chúng ta ngày nay khi Chúa luôn cầu nguyện cùng Chúa Cha trong suốt hành trình ba năm đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ và cho đến phút cuối đời Người trên thập giá.

Trước hết, Chúa đã vào hoang địa để ăn chay, cầu nguyện và bị cám dỗ suốt 40 đêm ngày trước khi ra rao giảng.( cf Mt 4:1-11; Mc 1: 12-13; Lc 4 : 1-13).Chúa đã dạy các Tông Đồ cầu nguyện với Kinh Lậy Cha mà chúng ta đang đọc mỗi ngày ( Mt 6: 9-13; Lc 11: 2-4). Chúa cũng đặc biệt tha thiết cầu xin cùng Chúa Cha trong chương 17 Phúc Âm Thánh Gioan, trước khi Người chịu khổ hình Thập giá.Và khi bị treo trên thập giá, Chúa Giêsu cũng đã cầu xin cho những kẻ đóng đinh Người như sau :

" Lậy Cha ,xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm." ( Lc 23: 34).

 

Sau hết, trước khi tắt hơi thở cuối cùng trên thập giá, Chúa cũng đã than thở lần chót cùng Chúa Cha với những lời thống thiết như sau :

" Ê-li, Ê-li lê-ma xa-bác tha-ni" nghĩa là " Lậy Thiên Chúa, lậy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con." ( Mt 27: 46)

Nhưng Chúa đã vui lòng chịu mọi sự khó và chết sau khi Người phó linh hồn cho Chúa Cha: " Lậy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha." ( Lc 23:46)

Như thế đủ cho thấy là Chúa Giêsu đã coi việc cầu nguyện cần thiết và quan trọng đến mức nào trong khi thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ và cứu chuộc nhân loại mà Chúa Cha đã trao phó cho Người.

Như thế, Chúa đã làm gương sáng ngời cho chúng ta về sự cần thiết phải cầu nguyện, vì qua cầu nguyện, chúng ta được xích lại gần Thiên Chúa là Cha luôn lắng nghe lời cầu xin tha thiết của mọi con cái loài người.Cầu nguyện cũng để nói lên lòng tin và hy vọng vào Chúa là Đấng duy nhất ban phát mọi ơn lành và giúp ta đứng vững trong mọi thử thách, khó khăn, gian truân trong hành trình đức tin. Lại nữa, cầu xin cũng để thú nhận rằng chúng ta rất yếu đuối, dễ nghiêng chiều về sự xấu, và tội lỗi , nên rất cần ơn Chúa để chiến thắng ma quỉ, xác thịt và gương xấu của thế gian, luôn đe dọa lôi kéo chúng ta ra khỏi tình thương của Chúa và mất hy vọng được cứu rỗi.

Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã dạy các Tông Đồ: " Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người." (Lc 21 : 36)

Nhưng để cho lời cầu xin của chúng ta được hữu hiệu chấp nhận, chúng ta phải nhờ cậy Đức Mẹ, Thánh Cả Giuse và các Thánh Nam nữ khác, kể các các linh hồn thánh trong Luyện ngục nguyện giúp cầu thay cho chúng ta.Phải nhờ cậy các Thánh vì các Ngài đang được vui hưởng Thánh Nhan Chúa trên Thiên Quốc và có thể nguyện giúp cầu thay đắc lực cho chúng ta và cho các linh hồn thánh trong Luyện Tội. Chỉ nhờ cậy thôi chứ không cầu xin các Thánh vì chỉ có Chúa là Đấng ban phát mọi ơn lành cho chúng ta qua lời cầu bầu của Đức Mẹ, của Thánh Cả Giuse, các Thánh Nam Nữ và cả các linh hồn thánh trong Luyên Ngục. Các linh hồn này không thể tự giúp mình được nữa vì thời giờ đã mãn cho họ lập công đền tội hay phạm thêm tội nào nữa. Vì thế các linh hồn cần sự trợ giúp của các Thánh trên Thiên Đàng và các tín hữu còn sống trên trần thế để mau được tha mọi hình phạt hữu hạn và sớm được gia nhập hàng ngũ các Thánh trên Thiên Đàng.Tuy nhiên, các linh hồn trong Luyện Tội cũng có thể cầu xin cho chúng ta đang lữ hành trên trần thế.Chỉ có các Thánh là không cần sự trợ giúp của ai nữa vì các ngài đã đủ điều kiện để hưởng Thánh Nhan Chúa trên Trời, và có thể cứu giúp các linh hồn nơi Luyên tội và các tín hữu còn sống trên trần thế này qua lời cầu xin Chúa thay cho chúng ta và các linh hồn nơi Luyện tội. Đó là tín điều các Thánh thông công ( communion of Saints) mà Giáo Hội dạy các tín hữu tin và thực hành để mưu ích cho mình và cho các linh hồn thánh nơi Luyện Tội.

2- Phải cầu nguyện và cầu xin thế nào cho xứng hợp ?

Như đã nói ở trên, vì chỉ có Chúa là Đấng ban phát mọi ơn lành, nên nếu cầu xin như câu hỏi đặt ra là, " xin Chúa, Đức Mẹ, Thánh.. ban ơn cho ai". thì lời cầu xin này không phù hợp với niềm tin chỉ có Chúa là Nguồn duy nhất ban phát mọi ơn thánh cho con người.Đức Mẹ và các Thánh không ban ơn mà chỉ cầu thay nguyện giúp đắc lực cho ta trước Tòa Chúa mà thôi.

Thật vậy, Thiên Chúa là Nguồn ơn sủng (grace=gratia) và giầu lòng thương xót như Người đã nói với ông MôSê trên núi Sinai xưa kia như sau : “Thiên Chúa nhân hậu và ân sủng, chậm bất bình, giầu lòng thương xót và thành tín” (Xh 34:6). Vì thế, chúng ta phải cầu xin Chúa và chỉ một mình Người ban phát mọi ơn phúc cần thiết cho ta như lòng mong ước.

Tuy nhiên, để cho lời cầu xin của chúng ta được đắc lực nhậm lời thì Giáo Hội dạy chúng ta phải cậy nhờ các Thánh nam nữ, nhất là Mẹ Maria là Nữ Vương Thiên Đàng, là người “đầy ơn phúc”, nguyện giúp cầu thay cho. Nhưng, dù với địa vị là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos) vì là Mẹ thật của Chúa Kitô cũng là Thiên Chúa, Đức Mẹ cũng không cao hơn Thiên Chúa trong uy quyền và ân sủng. Bằng cớ là khi còn tại thế, nhân đến dự tiệc cưới tại Cana với Chúa Giêsu, Đức Mẹ là người trước tiên đã nhìn thấy việc gia chủ hết rượu nên đã nói với Chúa rằng “họ hết rượu rồi” (Ga 2:3). Mẹ nói thế vì Mẹ để tùy quyền Chúa quyết định chứ Mẹ không tự ý làm điều gì. Nhưng cũng vì lời Mẹ chuyển cầu thay cho gia chủ mà Chúa Giêsu đã làm phép lạ biến nước lã thành rượu ngon mặc dù " giờ của tôi chưa đến" ( Ga 2 :4). Sự kiện này cho thấy rõ uy tín và hiệu lực của lời cầu bầu của Đức Mẹ cho ta trước Chúa.

Với tất cả các Thánh nam nữ khác, Giáo Hội cũng dạy rằng: “.. Những nhân chứng đức tin đã đi trước chúng ta vào Nước Trời, nhất là những vị đã được Giáo Hội công nhận là “thánh” và đang dự phần vào truyền thống sống động của cầu nguyện bằng gương mẫu đời sống của các ngài và bằng việc để lại cho chúng ta sách vở của các ngài về việc cầu nguyện hôm nay.. Các ngài đang chiêm ngưỡng và ca tụng Thiên Chúa và không ngừng lo cho những anh em mà các ngài đã để lại trên trần thế. Khi các ngài được vào hưởng niềm vui với Chúa của mình, các ngài được Chúa trao phó cho nhiều công việc, trong đó việc chuyển cầu thay cho kẻ khác là việc phục vụ hết mình cho ý định của Thiên Chúa. Chúng ta có thể và phải xin các ngài nguyện giúp cầu thay cho chúng ta và cho toàn thế giới.” (SGLGHCG, # 2683; LG. #50)

Mặt khác Công Đồng Tridentinô (Trent 1563) cũng dạy rằng: “Thật tốt lành và hữu ích khi khiêm tốn cầu khẩn cùng các Thánh để xin ơn sủng của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.” Như thế, trên hết chúng ta phải cậy nhờ Chúa Kitô khi xin mọi ơn phúc của Chúa Cha. Các Thánh là những người đã thánh thiện đủ và đang được ở gần Chúa Giêsu hơn các tín hữu còn lữ hành trên trần thế hay đang được tinh luyện trong Luyên tội (purgatory), nên có thể nguyện giúp cầu thay đắc lực cho ta và cho các linh hồn trong nơi thanh luyện đó.

Chính vì thế mà Giáo Hội đã đặc biệt kêu cầu sự trợ giúp thiêng liêng của Đức Mẹ và các Thánh Nam Nữ qua Kinh cầu các Thánh được đọc trong những dịp đặc biệt như Lễ Truyền Chức thánh, Khấn Dòng, và đêm vọng Phục Sinh.

Tóm lại, khi cầu nguyện để xin bất cứ điều gì, ta cần nhớ rõ là chỉ một mình Thiên Chúa tức Chúa Cha là Nguồn ban phát mọi ơn lành mà thôi.

Nhưng cho được xin bất cứ ân sủng nào của Chúa Cha cách xứng hợp và hữu hiệu, chúng ta trước hết phải cậy nhờ hay nhân danh Chúa Giêsu như Chúa đã dạy các tông đồ xưa: “...tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người sẽ ban cho anh em.” (Ga 15:16).

Đó là lý do tại sao Giáo Hội luôn kết thúc mọi lời cầu nguyện bằng câu: Nhờ Chúa Kitô Chúa chúng con, cũng như luôn nhắc đến Đức Mẹ và các thánh khi cử hành phụng vụ. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể cầu xin Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần vì các Ngài cũng là Thiên Chúa đồng bản tính và uy quyyền như Chúa Cha.

Như vậy, kiểu nói: cầu xin Đức Mẹ, Thánh Cả Giuse hay bất cứ Thánh nào khác phải được hiểu là nhờ Mẹ và các Thánh nguyện giúp cầu thay cho chúng ta mà thôi. Nghĩa là Đức Mẹ và các Thánh không thể chuyển hay ban phát lại ơn nào cho ai được mà không qua Chúa Giêsu để lãnh nhận từ Chúa Cha, Đấng giầu lòng thương xót và ân sủng.( rich in mercy and grace).

Vậy cho được chính xác, chúng ta phải cầu xin như thế này : Nguyện xin Thiên Chúa, nhờ Chúa Kitô và qua lời cầu bầu của Mẹ Maria, và Thánh….. ban nhiều ơn lành cho chúng ta (hay cho ai). Nghĩa là, mỗi khi xin gì cùng Đức Mẹ và các Thánh, chúng ta phải xin trong tinh thần nhờ cậy Đức Mẹ và các thánh chuyển cầu thay cho ta trước Tòa Chúa. Đó là cách cầu nguyện xứng hợp đẹp lòng Chúa và vui lòng Đức Mẹ và các thánh nhất.

Sau hết, cũng vì mục đích tôn thờ Thiên Chúa cách đúng đắn, phù hợp với đức tin, thì mỗi khi bước vào một nhà thờ hay nhà nguyện nào nơi có đặt Mình Thánh Chúa trong Nhà tạm (Tabernacle) chúng ta phải bái quỳ (genuflect) hay cúi đầu bái lậy Thánh Thể trước khi bái kính ảnh tượng Đức Mẹ hay bất cứ thánh nam nữ nào có ảnh tượng trong nhà thờ.Nghĩa là không nên chậy thẳng vào nơi có ảnh tượng Đức Mẹ, Thánh Cả Giuse hay Thánh nào khác để cầu xin mà quên Chúa Giêsu ở trong Nhà Tạm, vì ở đâu có Chúa Giêsu thì ở đó cũng có Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.

Ước mong giải đáp này giúp quí tin hữu biết cầu nguyện cách xứng hợp đẹp lòng Thiên Chúa là Nguồn ban phát mọi ơn lành qua Chúa Kitô và nhờ lời chuyển cầu hữu hiệu của Đức Mẹ, Thánh Cả Giuse và các Thánh Nam Nữ đang vui hưởng Thánh Nhan Chúa trên Thiên Đàng.

LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

 

18. SỐNG LỜI CHÚA

CHÚA NHẬT III PHỤC SINH

ĐỨC KITÔ PHỤC SINH – NGUỒN LỰC TRUYỀN GIÁO

Ga 21, 1 – 19

Một tâm trạng buồn sầu thất vọng tràn ngập trên cộng đoàn các Tông đồ sau những ngày Chúa Giêsu chịu chết, một cộng đoàn rời rạc mất lý tưởng, mất mục tiêu hướng tới… điều ấy được chứng thực nơi thái độ uể oải của các tông đồ “gần nhau nhưng buồn chẳng nói”. Phêrô phá tan sự im lặng đáng sợ ấy bằng việc ông lên tiếng “Tôi đi đánh cá đây”… Các tông đồ khác cũng hưởng ứng một các miễn cưỡng “chúng tôi cùng đi với ông”. Các tông đồ như bị buộc phải trở về nghề nghiệp cũ mà hơn ba năm qua các ông đã bỏ để đi theo một lý tưởng, một con người Giêsu.

Trong tin mừng Luca, để diễn tả cho nỗi thất vọng của các tông đồ, thì Luca ghi lại hành trình trở về qua của 2 môn đệ, trở về quê trong nỗi thất vọng, trở về quê để làm lại cuộc đời mà “hình như” mình đã bỏ phí hơn 3 năm qua.

Trở lại với đoạn Tin mừng Ga 21, 1 – 19 hôm nay, con người đã buồn bã thất vọng miễn cưỡng như vậy mà hình như “ông trời” còn trêu ngươi các ông, những con người kinh nghiệm vài chục năm trên biển là thế mà cả đêm chẳng bắt được con cá nào. Thất vọng càng thêm não nề hơn.

Nhưng lúc rạng đông, có một Người bảo các ông “hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được”. Một lời mời gọi nghe quen thuộc, một hướng dẫn đã có lần các ông được nghe. Một tâm trạng khác hẳn, các ông hăng hái thả lưới bên hữu thuyền và kéo lên một mẻ lưới đầy cá. Và giờ đây, nỗi mừng vui hân hoan hiện diện nơi các ông, các môn đệ thì nhanh nhanh kéo lưới đầy cá, Gioan thì nói với Phêrô “Chúa đó”, Phêrô thì nhanh nhảu mặc áo vào rồi nhảy ùm xuống biển chạy vào với Chúa Giêsu. Những tâm trạng, những thái độ khác hẳn, u sầu nhường chỗ cho hân hoan, uể oải thất vọng nhường chỗ cho hăng hái và hy vọng… hai khung cảnh trái ngược hoàn toàn nhờ sự hiện diện của Đức Kitô phục sinh. Chúa phục sinh chính là nguồn lực cho các tông đồ cũng như cho toàn thể Giáo hội tiến bước trên hành trình đức tin.

Trong bài đọc I, Cv 5, 27b – 32, 40b – 41 đã chứng minh điều đó một cách rõ ràng. Một Phêrô yếu đuối sợ hãi trong những ngày Chúa Giêsu chịu chết không còn nữa mà thay vào đó là một Phêrô mạnh mẽ can trường, một Phêrô chối Chúa nay trở thành một Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Thầy là Chúa của mình đã chết và đã sống lại, một Phêrô sợ chết nay trở thành một Phêrô đứng giữa công nghị tuyên xưng “nghe lời các ông hơn nghe lời Thiên Chúa điều đó có phải lẽ”. Động lực nào để Phêrô làm được như vậy nếu không phải là vì ông xác tín Chúa đã phục sinh và đang đồng hành với ông trên hành trình rao giảng tin mừng.

Giáo hội luôn mời gọi con cái mình hãy lắng nghe và sống theo Tin mừng, tin đem lại bình an và sự hân hoan cốt lõi nơi việc Chúa Giêsu đã chết và sống lại, Chúa Kitô sống lại nguồn gốc của sự hân hoan vì Ngài đã sống lại và hiện diện trong Giáo hội cho đến ngày tận thế. Chúa Giêsu đã dọn sẳn cho các ông bánh và cá trên bờ biển như hàm ý muốn nói lên rằng Thánh thể Chúa luôn có sẳn và luôn là nguồn sinh lực cho các môn đệ trên hành trình “chài lưới người” vất vả mệt mỏi. Bình minh của ngày mới cũng là bình minh trong tâm hồn người môn đệ Chúa vì Chúa đã sống lại, bóng tối của thất vọng bị đánh bại bởi sự hiện diện của Chúa phục sinh, từ nay người môn đệ Chúa đã nhận ra cùng đích để hướng về đó chính là sống lại trong Chúa Kitô phục sinh. Thánh Phaolô nói: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, chúng ta là những người khốn khổ nhất trong mọi người” (1 Cor 15, 19). Thật hạnh phúc cho chúng ta, những người Kitô hữu là Chúa đã thực sự phục sinh và trở nên nguồn sống mới cho mọi người.

Lạy Đức Kitô phục sinh, xin cho chúng con luôn nhận ra Ngài, để chúng con luôn hân hoan tiến bước trong hành trình Ngài mời gọi là cho muôn dân trở thành môn đệ, xin cho niềm tin vào Ngài đã sống lại nên động lực thực thi Lòng Thương Xót Chúa cho anh chị em.

 

CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH

MỤC TỬ NHÂN LÀNH

Ga 10, 27 - 30

Muốn biết sự giàu có của một người, ta dựa vào tài sản người đó sở hữu. Muốn biết tài năng một ai đó, ta có thể dựa vào những huy chương hay kết quả của người đó đạt được qua các kỳ thi. Muốn biết ai là người tốt lành ta sẽ  dựa vào đâu? Chắc hẳn là dựa vào con người và cách sống của họ. Muốn biết một người mục tử tốt lành chắc hẳn ta dựa vào cách sống và tương quan của mục tử đó đối với đàn chiên.

Hình ảnh mục tử sống giữa đàn chiên là hình ảnh rất thân quen đối với dân Do Thái ngày xưa sống đời du mục. Hình ảnh ấy được Thánh Kinh Cựu Ước sử dụng nhiều lần để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân Người.

Mục tử tốt lành thì biết rõ chiên

“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10,27). Mục tử tốt lành nuôi chiên không vì nguồn lợi bản thân nhưng là sự dấn thân lo cho đàn chiên. Sống với chiên bằng sự yêu thương chăm sóc. Càng yêu thương nên càng biết rõ: biết chiên muốn gì, chiên cần gì, chiên có thể gặp những nguy cơ cạm bẫy hay thử thách nào.

Mục tử tốt lành luôn đi đầu để hướng dẫn chiên, dám đứng mũi chị sào lo cho chiên. Mục tử tốt lanh luôn thao thức kiếm tìm những nơi an toàn thoải mái cho chiên, có cỏ xanh tươi, có suối nước mát. Mục tử luôn chăm sóc từng con chiên một, không bỏ rơi bất cứ con chiên nào. “Chình Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta. Chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị  thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ chữa cho lành” (Edekien 34,15-16).

Chính Chúa Giêsu đã biết rõ và yêu thương hết mọi người không trừ một ai và Ngài đã chọn các Tông đồ để tiếp tục sứ mạng ấy.

Mục tử tốt lành ban sự sống cho chiên

“Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong” (Ga 10,28). Mục tử tốt lành không như lái buôn là xén lông chiên, lấy sữa chiên hay giết chết chiên. Mục tử tốt lành luôn tìm mọi cách để nuôi sống chiên.

Ngày nay ai cũng ngán ngẫm về những thức ăn nhiều độc hại. Kinh tế phát triển mà con người vẫn còn “ăn bẫn”. Lương thực thực phẩm luôn được cảnh báo cao về sự thiếu an toàn. Mục tử Giêsu luôn đem đến cho đàn chiên những thứ lương thực với chất lượng cao. Lương thực thứ nhất là Lời Chúa. Lời Chúa đem lại cho con người niềm vui và sự giải thoát để con người tìm về ơn cứu độ. “Lời Chúa là hạt giống mang sự sống thiêng liêng” (Lc8,11). Thứ đến là Phép Thánh Thể “Ta là bánh trường sinh, là bánh bởi trời xuống. Ai ăn sẽ được sống muôn đời” (Ga, 48-51). Lương thực thứ ba là Thánh ý Chúa Cha “Lương thực của Ta là thi hành Thành ý của Chúa Cha, Đấng đã sai Ta” (Ga 4,34). Là  mục tử tốt lành luôn biết chọn lựa thức ăn nào là chất lượng để nuôi chiên. Đó là những thức ăn mang lại sự sống đời đời.

Mục tử tốt lành hiến mạng sống vì chiên

Kẻ chăn thuê nuôi chiên nhưng chỉ mong được hưởng lương. Mục tử nhân lành nuôi chiên thì đặt hết tình thương vào đàn chiên. Kẻ chăn thuê dễ dàng cao chạy xa bay khi đàn chiên gặp nguy khó. Người mục tử thì phải sẵn sàng sống chết với đàn chiên. Mục tử phải chấp nhận hy sinh cả mạng sống để bảo vệ chiên. Người làm thuê vì nghĩ rằng chiên không thuộc về anh ta nên không có gì gắn bó, sói có đến thì cũng chẳng ăn thua, mặc cho chiên tán loạn. Người mục tử tốt thì có thao thức quy tụ chiên và hiến mạng sống mình để chiên được sống.

Chúa Giêsu trình bày về chính bản thân Ngài như là vị mục tử đích thực duy nhất của dân. Mục tử xấu chỉ nghĩ về mình và hưởng lợi từ đàn chiên mình. Mục tử nhân lành thì nghĩ về đàn chiên và trao ban chính mình. Mục tử nhân lành cũng không là lái buôn bởi mục tử tốt thì không có tham vọng nào khác hơn là hướng dẫn, nuôi dưỡng và bảo vệ đàn chiên.

Xin cho các Giám Mục, Linh Mục được nhiều ơn lành sức mạnh để phục vụ dân Chúa thông qua việc loan báo Tin Mừng, cử hành các Bí tích và sự lãnh đạo cahcs hiền hòa dân thánh Chúa. 

Xin cho các bậc làm cha mẹ trở thành mục tử tốt trong gia đình khi biết quan tâm chăm sóc, giáo dục con cái.

Xin cho các bạn trẻ biết chiêm ngắm sự quan phòng của Thiên Chúa, biết lắng nghe tiếng gọi của Mục tử Giê su để săn sàng cất bước theo người mà tiếp tục sứ mạng loan Tin Mừng khắp muôn nơi.

Lm Carôlô

 

 

CHÚA NHẬT V PHỤC SINH

NGUỒN GỐC CỦA TÌNH YÊU

Ga 13, 31-33a. 34-35

Yêu thương là giới luật không hề thiếu vắng trong Thánh Kinh nếu không nói nó là giới luật lớn nhất trong tất cả những giới luật. Cũng dễ hiểu thôi, vì chính Đấng sáng lập của chúng ta là tình yêu. Ngài không dạy chúng ta điều gì khác là hãy yêu thương nhau, và cũng chính Ngài đã đặt để khả năng ấy trong tâm hồn mỗi người.

Bài tin mừng rất ngắn của Chúa nhật hôm nay lại đưa chúng ta trở về với giới luật yêu thương của Thiên Chúa

Về mặt tâm lý không thể buộc người ta yêu nhau. Vì tình yêu chỉ xuất hiện khi có sự rung cảm trước một sự vật hay một con người mà chúng ta cảm thấy thích thú. Tuy nhiên, Thiên Chúa không bắt ai làm điều gì mà không ban cho họ khả năng để thực hiện. Theo luân lý, tình yêu  chúng ta có được là tình yêu thần linh, vì phát xuất từ TC. “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Ngài vào tâm hồn chúng ta nhờ Thánh Thần” (Rm 5,5). Còn Thánh Gioan khẳng định: “Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa”. Như thế, chính Thiên Chúa đã khởi sự, đã nhóm lên trong chúng ta ngọn lửa tình yêu. Thiên Chúa đã đặt cái mầm yêu thương vào con người chúng ta ngay từ lúc tạo nên chúng ta.

Như vậy, lòng yêu mến trong con người hoàn toàn không là chuyện tự nhiên. Chính Thiên Chúa Tình Yêu đã lấy cái Yêu Thương mang tính thần linh của Ngài mà đặt vào linh hồn chúng ta. Thật vậy, khi rước Thánh Thể thì chúng ta rước chính Tình Yêu vào trong lòng của mình. Chúa Tình Yêu đã tan biến, hoà quyện trong chính máu thịt chúng ta. “Ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy”. Như thế, Thiên Chúa không chỉ ban tình yêu cho chúng ta mà còn lấy tình yêu là Thánh Thể Người nuôi dưỡng tình yêu trong chúng ta. Vậy tình yêu của chúng ta chẳng phải đã mang tính thần linh rồi sao?

Nên, có thể nói chúng ta đã được nhúng vào dòng sông tình yêu của Thiên Chúa, dòng sông có nguồn mạch từ chính cạnh sườn bị đâm thâu của Đức KiTô đổ ra tình yêu cho chúng ta, con người chúng ta đã ướt đẫm tình yêu thiêng liêng. Nên chúng ta yêu thương nhau bằng mối tình của Thiên Chúa đến nỗi chúng ta trở nên là anh em của nhau. Nên không khó hiểu khi Đức Giêsu bảo hãy yêu như Chúa yêu vì điều này đâu phải là ngoài khả năng của con người.

Thế nên, tình yêu mà chúng ta chia sẻ cho người khác cũng phải có cùng đặc tính như tình yêu của Đức KiTô: chân thật và khoan dung. Đó không phải là một tình yêu trừu tượng mà là một tình yêu được thể hiện cụ thể trong đời sống. “Đây là thứ tình yêu vượt qua tính chất ích kỷ…trở thành mối quan tâm và lo lắng cho người khác; không còn tìm kiếm chính mình hay một mê say hạnh phúc; mà tìm kiếm điều thiện cho người mình yêu; nó trở thành sự tử bỏ chính mình và sẵn sàng chấp nhận hy sinh nếu cần” (Deus Caritas Est, 6).

Vậy, bao lâu chúng ta vẫn còn gây nhọc nhằn, đau khổ cho nhau, bao lâu chúng ta vẫn còn buộc người khác phải phục vụ, phải tận tuỵ cho mình, phải dành lấy quyền lợi cho mình trước…bao lâu chúng ta chưa biết nghĩ, biết tìm, biết chết cho người khác là chúng ta chưa yêu hết lòng, nếu có thì cũng chỉ là yêu mình. Nên chúng ta hãy lấy lời của thánh Phaolo làm bài học cho mình và cũng là một tiêu chuẩn để chúng ta rà soát xem chúng ta đã có biết sống yêu thương chưa: yêu thương thì tha thứ, tin tưởng, hy vọng và chịu đựng (x.1Cr 13,7).

Xin Chúa Tình Yêu đổ đầy tâm hồn chúng ta để từ giới răn mới của Chúa hôm nay  khai mào cho một cuộc sống mới của chúng ta: Sống cho tình yêu, để chúng ta vẫn đến với Thiên Chúa mà không quay mặt với anh em.

Lm Phêrô

 

CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH

BÌNH AN CỦA CHÚA

Ga 14, 23 - 29

Bài Tin Mừng hôm nay được trích trong diễn từ giã biệt của Chúa Giêsu với các môn đệ. Chúa Giêsu biết rằng cuộc khổ nạn Ngài sắp bước vào, và  việc Ngài ra đi trở về với Chúa Cha sẽ làm cho các môn đệ xao xuyến, bất an. Cho nên Chúa Giêsu  đã trấn an các ông “anh em đừng xao xuyến và đừng sợ hãi” vì “Thầy sẽ ban cho anh em sự bình an của Thầy”. Nhờ sự bình an này sẽ giúp các môn đệ vượt qua mọi khó khăn, thử thách để làm chứng cho Tin Mừng.

“Bình an cho anh em” đó là câu nói đầu tiên của Chúa Giêsu trong những lần Ngài hiện ra với các môn đệ sau khi Ngài từ cõi chết sống lại. Hôm nay trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu cũng đã ban sự bình an này cho các ông. Sự bình an này quan trọng như thế nào mà Chúa Giêsu nhiều lần lưu tâm  như thế?

Trước hết, Chúa Giêsu nói rằng sự bình an mà Ngài sẽ ban cho các môn đệ không giống sự bình an của thế gian. Bởi vì bình an của thế gian có nghĩa là không có chiến tranh, không có khủng bố, không có bệnh tật, tiền của dư đầy, có quyền lực trong tay. Sự bình an này rất tạm bợ và dễ vỡ. Một cơn bạo bệnh có thể sẽ tiêu tán tất cả những gì mà con người tích cóp. Một sự hiềm khích có thể lấy mất đi sự hoà bình. Còn sự bình an Chúa Giêsu sẽ ban cho chúng ta đó là sự bình an vì có Chúa trong tâm hồn, cho dù hoàn cảnh bên ngoài có xáo động nhưng tâm hồn vẫn bình an. Đây chính là sự bình an của Chúa phục sinh ban cho những ai biết gắn kết cuộc đời mình với Chúa, dám chọn Chúa làm chủ cuộc đời mình. Khi có sự bình an này chúng ta tin rằng tất cả mọi chuyện xảy ra không nằm ngoài ý Chúa. Đây mới là sự bình an đích thực và không ai có thể lấy mất được.

Ngày hôm nay chúng ta đang sống trong thời đại của khoa học kỹ thuật, sự phát triển vượt bực của các ngành khoa học đã làm cho cuộc sống con người được tiện nghi hơn, thoải mái hơn. Thậm chí có một số người nghĩ rằng đến một lúc nào đó khoa học có thể giải quyết được mọi vấn đề và đến một lúc nào đó người ta không cần đến Thiên Chúa nữa.  Nhưng trong thực tế, bên cạnh những thành tựu của khoa học thì sự sợ hãi, lo lắng của con người cũng tăng lên gấp bội. Chính những phát mình khoa học đó xem ra nó đang dần dần chống lại con người. Theo Công Đồng Vatiacan II: chúng ta đang sống trong một thế giới đầy hy vọng nhưng cũng đầy lo âu.  Con người ngày hôm nay có qúa nhiều thứ lo sợ: sợ chiến tranh bằng bom nguyên tử, lo sợ khủng bố, lo sợ bệnh tật, lo sợ tai nạn, lo sợ về công ăn việc làm, lo sợ gia đình tan vỡ, lo sợ con cái hư hỏng. Chính sự bất ổn, bất an này làm cho chúng ta muốn tìm một sự bảo đảm nơi này nơi kia, đi tìm các công ty bảo hiểm, lo làm sao kiếm nhiều tiền để thủ thân. Nhưng tất cả những bảo đảm của thế gian không thể nào mang lại an toàn cho con người, càng làm cho con người không có lối thoát.

Làm sao chúng ta có thể giữ cho tâm của mình bất biến giữa dòng đời vạn biến này? Lời Chúa hôm nay, thật là một sự khích lệ cho mỗi người chúng ta. Con người chỉ thực sự bình an khi bám vào Chúa “các con hãy tin vào Thầy và tin vào Cha”. Chỉ có niềm tin vào Thiên Chúa mới giúp cho con người tìm được sự bình an. Bình an đó là quà tặng của Thiên Chúa trao ban cho những ai biết đặt tin tưởng vào Ngài. Chúng ta có thể thấy hoa trái của sự bình an nơi các thánh Tông đồ cũng như các vị thánh tử đạo trong Giáo hội. Mặc dù các ngài phải chịu trăm bề thử thách, phải chịu đau đớn về thể xác cũng như tinh thần nhưng trong tâm hồn  của các ngài vẫn luôn sáng lên niềm hy vọng. Bởi vì các ngài hiểu được những đau khổ các ngài phải chịu là vì ai? và nhằm mục đích gì? Cuộc sống hằng ngày của chúng ta cũng sẽ gặp rất nhiều thử thách. Có những lúc chúng ta khó tránh khỏi những hoang mang. Những lúc như thế chúng ta hãy mời Chúa để Ngài bước vào trong tâm hồn, vào trong gia đình của chúng ta.

Chỉ khi nào chúng ta có được sự bình an trong tâm hồn, khi nào chúng ta có Chúa trong tâm hồn thì chúng ta mới có thể xây dựng hoà bình với người khác. Bao lâu tâm hồn chúng ta vẫn còn mang hận thù, tham lam, ghen ghét thì không thể nào có bình an trong chúng ta và cho những người chung quanh.

Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta luôn có được sự bình an của Chúa trong tâm hồn. Cho dù cuộc sống có rất nhiều lo toan, thử thách chúng ta vẫn tin rằng Chúa quan phòng luôn nhìn thấy mọi sự  và Ngài  hằng hiện diện bên cạnh để nâng đỡ chúng ta.

Lm. Pp

 

CHÚA NHẬT VII PHỤC SINH

CHÚA THĂNG THIÊN

ÁI MỘ NHỮNG SỰ TRÊN TRỜI

Lc 24, 46 – 53

 “Năm Sự Mừng, Thứ hai: Đức Chúa Giêsu lên trời. Ta hãy xin cho đặng lòng ái mộ những sự trên trời”

Những sự ở trên trời là những sự gì thì chỉ có người ở trên trời mới biết. Hạnh phúc thay! Chúa Giêsu, người ở trên trời, xuống thế làm người, rao giảng cho con người trần gian biết có một cuộc sống mới, có một cuộc sống thiêng thánh, cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu… cuộc sống ấy ở trong Nước Trời, Nước Thiên Chúa. Để có thể tin được rằng: có một cuộc sống khác với cuộc sống trần gian nầy, và để có thể biết được chuyện ở trên trời, thì chỉ có con người khiêm cung chấp nhận và vâng phục mạc khải từ trời, rồi sống mạc khải ấy mới thấu hiểu được.

Chúa Lên Trời, Chúa Thăng Thiên là cách nói diễn tả hình ảnh không gian mà các Tông đồ chứng kiến (Cv 1,9-11). Thực ra, phải nói là Chúa Giêsu về với Chúa Cha, về với cuộc sống, với thế giới, nơi Ngài đã xuất phát để đi làm nhiệm vụ cứu thế… Sau khi sống lại Chúa Giêsu đã nói với bà Maria Madalena việc “về với Cha”,: “Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).

Như vậy các biến cố tử nạn, Phục sinh và về cùng Chúa Cha đã nằm trong hoạch định ngàn đời của Thiên Chúa, trong đó, Lên Trời hay lên cùng Cha là đích điểm của Mầu Nhiệm Vượt Qua: Qua tử nạn, đến Phục sinh; qua Phục sinh ở trần gian, đến việc “Về Với Thiên Chúa Cha” trong đời sống Thiên Chúa vĩnh cữu. Và không chỉ về với Cha, mà còn tham dự vào quyền năng, uy quyền của Thiên Chúa Cha trong Nước Ngài. Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Ephêsô còn xác quyết uy quyền của Chúa Giêsu là vương quyền, là Vua Vũ Trụ: “Đến thời viên mãn, Thiên Chúa qui tụ mọi loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô” (Ga 1,10), và là Vua Lịch Sử Cứu độ: “Thiên Chúa đặt tất cả mọi sự dưới chân Đức Kitô và đặt người làm đầu toàn thể Hội Thánh” (Ga 1, 22).

Lên trời là về cùng Chúa Cha và ái mộ những sự ở trên trời, chính là yêu mến, khát khao cho chính mình cũng được về với Thiên Cha trong vương quốc Chúa Giêsu. Để hiểu cho thấu mầu nhiệm vượt qua nơi Chúa Giêsu, và giải thích được như thế, chắc chắn người ấy đã kết hiệp với Chúa Giêsu cách chí thiết để sống mầu nhiệm vượt qua của chính mình: Được Thiên Chúa sinh ra trong đời, vượt qua sự ràng buộc, sự nô lệ của tội lỗi nhờ ơn tái sinh nơi giếng nước rửa tội; vượt qua những rào cản là những hấp dẫn của “những sự dưới đất”, đồng thời chấp nhận mất mát là tử nạn với Đức Kitô; vượt qua cuộc tử nạn hằng ngày để phục sinh tại thế nhờ cuộc sống siêu thoát và kết hiệp; và cuối cùng, chờ ngày vượt qua đời tạm nầy mà lên trời, mà về cùng Thiên Chúa Cha trong cuộc sống vĩnh cửu

Thực tế là một thách đố to lớn đối với đời sống vượt qua của Kitô hữu công giáo, ở mọi thời, nhất là thời nầy, khi giá trị các sự ở dưới đất nầy đang nổi loạn đòi chiếm ưu thế trong đời sống các gia đình: tiện nghi vật chất thẩm định giá trị nhân bản nên phải đua đòi cho bằng chị, bằng em; người người khôn ra đang thụ hưởng những hiệu quả của một nền văn minh mà không cần nghĩ đến hậu quả thì ta dại gì mà phải khép mình trong lời mời gọi của Tin Mừng!

Buổi sáng thật tĩnh lặng, may ra nếu có, thì cũng chỉ mấy phút trong giờ kinh nguyện ngắn ngủi, sau đó là chuyện cơm áo gạo tiền làm cho cả ngày đời phải loay xoay toàn chuyện dưới đất. Thiết nghĩ, Chúa Giêsu biết rõ cái căn tính phàm phu tục tử trong mỗi con người, nên Ngài đã bàn giao công cuộc cứu thế vĩ đại của Ngài cho Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ.

Và chỉ khi nào thực sự “ái mộ những sự ở trên trời”, thì có thể nói, chúng ta mới thực hiện nỗi lời di chúc của Chúa Giêsu: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế." (Mt 28,18-20)

Đây không phải là lời di chúc để thừa hưởng một quyền bính, nhưng là một chuyển giao đặc nhiệm quan trọng trong chương trình của Thiên Chúa Cha: qui tụ mọi loài dưới quyền thủ lảnh của Chúa Giêsu Kitô, để mọi loài chung hưởng Tình Yêu vô biên và ơn cứu chuộc vĩ đại hơn tội lỗi con người. Nhiệm vụ đặc biệt ấy không chỉ trao ban cho các tông đồ, mà còn cho tất cả chúng ta hôm nay: Giới thiệu Chúa Giêsu Kitô cho mọi người để họ đón nhận chính Ngài qua bí tích rửa tội và dạy họ tuân giữ mọi điều răn của Ngài để được về với nguồn cội yêu thương và hạnh phúc vĩnh cửu là Thiên Chúa. “Dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” đồng nghĩa với việc anh em tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền để họ thấy mà ngợi khen Cha ở trên trời, vì gương sáng là lời giảng dạy tốt nhất.

Thực vậy, thời đại nầy người ta không tin người rao giảng, người ta có thể tin người sống lời rao giảng của mình. Vì thế, đòi hỏi tinh thần thoát tục và gương sống “ái mộ những sự trên trời” đối với những chứng nhân trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Và không nên trách cứ ai, nếu họ dựa vào tiêu chuẩn“dính bén với các sự dưới đất” mà đánh giá cao thấp giá trị của người tông đồ Chúa hôm nay.

Có thể nói việc “dính bén với các sự dưới đất” của một chứng nhân gây nên việc phản tác dụng truyền giáo cách nguy hiểm, vì không những làm cho người ta không tin vào cuộc sống mới trong Nước Thiên Chúa, mà còn là cái cớ để người ta tin vào cuộc sống hiện tại này hạnh phúc hơn: cứ lao mình vào những chuyện dưới đất, như người rao giảng chuyện trên trời đã lao. Ôi thật nguy hiểm và thiệt hại cho công cuộc của Chúa Giêsu nếu chúng ta không sống tinh thần của Ngài trước khi loan báo Ngài cho mọi người.

Mừng Chúa Giêsu Lên Trời, một cơ hội cho mỗi tín hữu tự kiểm lại lòng yêu mến Chúa trên hết mọi sự, tự kiểm lại lòng khát khao với cuộc sống vĩnh cửu đời sau, tự kiểm lại mức độ dính bén với các sự dưới đất, và nhất là tự kiểm lại hiệu quả làm chứng cho Chúa Giêsu, cho Nước Thiên Chúa của mình trong cuộc đời.

Mẹ Maria chắc chắn là mẫu gương “ái mộ những sự trên trời” hơn cả và loài người chúng con. Mẹ cũng là mẫu gương “chứng nhân Chúa Kitô” thật sống động vì lòng Mẹ luôn hướng về Nước của Thiên Chúa. Xin Mẹ cầu thay nguyện giúp cho chúng con sống mầu nhiệm vượt qua của đời mình, nhờ kết hiệp với cuộc vượt qua của Chúa Giêsu, noi gương Mẹ chí thánh - cho chúng con xứng đáng hưởng hạnh phúc trong Vương Quốc của Chúa Giêsu, con chí ái của Mẹ- cho cuộc sống chúng con thực sự trở nên lời rao giảng Thiên Chúa cho mọi người. Amen.

 

19. THẦN HỌC KINH THÁNH

VỀ BA “NGUỒN CHỨNG CỨ PHỤC SINH”

Theo Thánh Kinh, đặc biệt các tường thuật Tin Mừng sau Phục sinh, có ít nhất là ba “nguồn chứng cứ liên can đến sự Phục Sinh” :

1)      Từ “các lời đã báo trước”;

2)      Từ dữ kiện “ngôi mộ trống”;

3)      Từ các nhân chứng đã mục thị Đức Giêsu đã chết nay vẫn sống…

Các tường thuật Phục sinh cũng còn chứng tỏ cho thấy rằng ba nguồn chứng cứ nầy, một đàng, vốn liên đới với nhau và bổ sung cho nhau, đàng khác, liên đới và tùy thuộc vào thái độ “tin-cậy-mến” của mỗi người…

I-  TỪ “CÁC LỜI ĐÃ BÁO TRƯỚC” :

1- Các dữ kiện : Các lời đã báo trước bao gồm các Ý định đã trù liệu trước của chính Thiên Chúa (Cv 2, 23-24), các lời của chính Đức Giêsu trước khi “chết” (Mc 8, 31; 9, 31; 10, 33-34; Mt 16, 21; 17, 22-23; 20, 18-19; Lc 9, 22; 9, 44-45; 18, 31-34; v.v…) và các lời tiên tri trong Cựu Ước (xem Lc 24, 25-27; Cv 3, 21-28; 8, 31-35; 1 Pr 1, 11; v.v…) :

“…thể theo ý định đã vạch sẵn và sự dự tri của Thiên Chúa…” (Cv 2, 23).

“Và Ngài bắt đầu giảng dạy họ rằng : ‘Con người phải chịu nhiều đau khổ, và bị hàng niên trưởng và các thượng tế cùng ký lục phế thải, bị giết đi, và sau ba ngày sẽ sống lại’.” (Mc 8, 31)

“Bấy giờ, Ngài mới nói cùng họ : ‘Hỡi những kẻ ngu độn và trí lòng chậm tin vào mọi điều các tiên tri đã nói ! Thế thì Đức Kitô lại không phải chịu khổ nạn như thế đã, rồi mới vào vinh quang của Ngài sao ?’ Và, khởi từ Môsê và hết thảy các tiên tri, Ngài dẫn giải cho họ các điều đã viết về Ngài trong toàn bộ Kinh Thánh” (Lc 24, 25-27).

2- Các phản ứng :

Nói chung, phản ứng của các Tông đồ và các môn đệ của Chúa Giêsu là không tin, không hiểu và vì thế không mấy quan tâm và để ý đến các lời loan báo trước nầy (xem Lc 24, 25; Mc 9, 32; Mt 16, 22; 17, 23; Lc 9, 45; 18, 34; v.v…)…Vì thế, phản ứng chung ban đầu của các Tông đồ và các môn đệ của Chúa Giêsu sau khi Ngài “chết” là hoang mang, lo âu, sợ hãi và thất vọng…

Nhưng, một khi đã nhớ lại được và hiểu được những lời loan báo trước đó, cùng với sự “gặp gỡ được chính Đức Giêsu Phục sinh”, niềm tin, tỉnh yêu và niềm hy vọng sẽ tràn ngập cõi lòng họ, và có khả năng thay đổi hoàn toàn con người của họ : đó chính là Thần Khí Tình Yêu của Đức Giêsu-Kitô Phục sinh đang hiện diện trong con người và hiện sinh của họ…(xem Lc 24, 6-8.31-35; ).

II- TỪ DỮ KIỆN “NGÔI MỘ TRỐNG” :

1- Dữ kiện: Cả bốn tác giả các Sách Tin Mừng đều có nói tới dữ kiện nầy (Mc 16, 1-9; Mt 28, 1-10; Lc 24, 1-12; Ga 20, 1-2):

“Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tang tảng bình minh, các bà đến mồ, có mang theo hương liệu họ đã dọn sẵn. Và họ thấy viên đá đã lăn ra khỏi mồ, nhưng khi vào trong, họ không gặp thấy xác Chúa Giêsu.” (Lc 24, 1-2)

2- Các phản ứng: Đối diện với dữ kiện “ngôi mộ trống”, có nhiều phản ứng khác nhau :

2.1- Các thượng tế và hàng niên trưởng, vì một cách tiên thiên đã không tin, nên đã “phao tin thất thiệt” :

“Các thượng tế hội cùng hàng niên trưởng, và sau khi đã bàn bạc, thì họ cho lính tráng một số tiền lớn, mà rằng : ‘Các anh hãy nói : Môn đồ hắn đã đến ban đêm trộm hắn, đang lúc chúng tôi ngủ” (Mt 28, 12-13).

2.2- Phêrô, các Tông đồ và các môn đệ khác : Thái độ chủ yếu của Phêrô và của họ là “kinh ngạc” vì “chậm hiểu” các lời đã báo trước, và vì thế không mấy tha thiết với dữ kiện “mồ trống” nầy (Lc 24, 11-12; Ga 20, 6-7.9-10) :

“Nhưng Phêrô chỗi dậy chạy đến mồ. Cúi mình nhìn vào, ông thấy chỉ có những dải vải mà thôi. Và ông lui về nhà, kinh ngạc về sự xảy ra” (Lc 24, 12).

2.3- “Người môn đệ kia (?)” : Cùng với Phêrô, cả hai cùng thấy những dữ kiện như nhau, nhưng “người môn đệ kia” “đã thấy và đã tin” (Ga 20, 8). Có vẻ như ở đây, Thánh Kinh chứng tỏ cho thấy có một tương quan mật thiết và hỗ tương giữa lòng mến, niềm tin và sự nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời nầy: càng được yêu mến nhiều và càng yêu nhiều càng dễ tin, tin nhiều và nhanh chóng nhận ra được sự hiện diện của Đức Kitô phục sinh…Chẳng phải “người môn đệ kia” cũng là người đã đuợc Chúa Giêsu yếu mến nhiều và ngài cũng yêu mến Thầy mình nhiều đó sao ? (xem Ga 13, 23; 19, 25; 21, 7). Chỉ có Tình Yêu mới có đôi con mắt nhìn ra chân tướng của mọi sự và mọi người và cả chính sự hiện diện tình yêu của Thiên Chúa giữa lòng lịch sử. Trong ngôn ngữ nhà Phật, cái nhìn đó được gọi là “tâm nhãn”…

2.4- Maria thành Magđala và một số người phụ nữ khác từng đi theo Chúa Giêsu (xem Lc 24, 10) : Có vẻ như đối diện với dữ kiện “ngôi mộ trống”, những người phụ nữ nầy cũng chẳng hiểu gì nhiều hơn so với các Tông đồ và môn đệ khác của Chúa Giêsu (xem Ga 20, 13.15). Nhưng, bù lại, họ có trái tim : họ yêu mến Đức Giêsu khi “còn sống” cũng như “sau khi Ngài đã chết”. Những người phụ nữ nầy không nhìn con người Đức Giêsu và các biến cố liên quan đến Ngài qua lăng kính lý trí, toan tính hơn thiệt, mà bằng cả trái tim, tức là nhìn qua “tâm nhãn”…(xem Ga 20, 1.11; Mt 28, 1; Mc 16, 1-3; Lc 24, 1). Và, liệu phải chăng chính bằng cái nhìn “tâm nhãn” đó mà Maria thành Magđala và những người phụ nữ đã từng đi theo Chúa Giêsu đó là những người “đầu tiên” đã được gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh và chính họ là những người “đầu tiên” loan báo Tin Mừng Phục Sinh thậm chí cho cả các Tông đồ ? (xem Lc 24, 10; Ga 20, 18)…

Thật vậy, có thể các phụ nữ nầy đã không tin Đức Giêsu, Thầy mình, sẽ sống lại, và cũng không hy vọng thế :

“…Bà nói : ‘Người ta đã cất Chúa tôi đi, mà tôi không biết họ đã đặt Ngài ở đâu ? …Thưa ông, nếu chính ông đã đem Ngài đi, xin nói cho tôi biết : ông đã đặt Ngài ở đâu, tôi sẽ đến cất lấy Ngài’.” (Ga 20, 13.15).

Nhưng, có một điều chắc chắn là họ đã yêu mến Ngài khi Ngài còn sống cũng như khi Ngài “đã chết” : cần lưu ý Maria thành Magđala trong Ga 20, 13.15 không nói người ta cất hay đem “xác Chúa tôi” mà là “cất Chúa tôi đi” và “đem Ngài đi” (xem thêm Ga 20, 11.13.15.17). Và, đó chính mới là điều quan trọng : Tình Yêu. Và, chính trong Tình Yêu đối với Đức Giêsu-Kitô đã mặc nhiên bao hàm Niềm Tin và Niềm Hy vọng (xem 1 Cr 13, 13; 1 Ga 4, 16)…

III- TỪ CÁC NHÂN CHỨNG… :

“…Chúng tôi là chứng nhân về mọi điều Ngài đã làm trong vùng  người Do Thái và ở Giêrusalem , Ngài mà họ đã treo trên súc gỗ mà giết đi. Chính Ngài, Thiên Chúa đã làm cho sống lại ngày thứ ba, và đã cho hiện tỏ, không phải cho toàn dân, nhưng là cho những nhân chứng Thiên Chúa đã chọn trước, tức là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Ngài, sau khi Ngài đã sống lại từ cõi chết…” (Cv 10, 39-41).

“Vậy, trong hàng những người đã cùng đi với chúng tôi, suốt cả thời gian Chúa Giêsu đã ra vào giữa chúng tôi, khởi từ lúc Gioan thanh tẩy, cho đến ngày Đức Giêsu bị cất khỏi chúng tôi, phải chọn thêm một người để cùng với chúng tôi làm chứng cho sự sống lại của Ngài” (Cv 1, 21-22).

1- Nhân chứng là những kẻ đã được Thiên Chúa tuyển chọn : Không phải bất cứ ai cũng có thể là nhân chứng, mà chỉ những ai đã được Thiên Chúa tuyển chọn. Vì thế, đó là một ơn gọi có tính liên vị (une vocation interpersonnelle), tức là giữa các ngã vị với nhau, chứ không phải là một ơn gọi chung chung, trừu tượng, trung tính. Điều đó đòi hỏi phải có những tương quan mật thiết với nhau, tương quan tình yêu : có những mời gọi và có những đáp trả, có những chung sống và cùng có những kỷ niệm chung với nhau (xem Ga 20, 14-16; Lc 24, 30-31)…

2- Nhân chứng Phục sinh phải là những kẻ đã từng mục thị và chung sống với Đức Giêsu trước và sau Biến cố Phục Sinh : có nghĩa đó phải là những con người “trong cuộc”, nhờ đó niềm xác tín mới đủ mạnh mẽ để có thể từ đó thay đổi cả một đời còn lại : từ những kẻ đầy tham vọng, đầy toan tính nhỏ mọn, cá nhân, nhút nhát, sợ hãi, tham sống, sợ chết của Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, họ trờ thành những chứng nhân suốt đời cho Đức Kitô Phục Sinh, cho Giáo hội của Ngài và cho tha nhân, đến độ hy sinh cả tính mạng của mình vì Tình Yêu, như chính Đức Giêsu-Kitô, Thầy của họ…

Và, chính vì thế, họ mới trở thành những chứng nhân khả tín cho chúng ta và cho mọi người, mọi nơi và mọi thời đại…

Và, đến lượt chúng ta, cũng vậy, chỉ có một tình yêu dâng hiến tột cùng như thế, đến độ dám hy sinh cả mạng sống mình vì tình yêu đối với Thiên Chúa, với Đức Giêsu-Kitô, với Giáo hội của Ngài và với mọi người, mà chúng ta và Giáo hội chúng ta mới có thể trở thành những chứng nhân “khả tín” trong một thế giới, như thế giới chúng ta đang sống, vốn tin vào những chứng nhân hơn là những thầy dạy…

Lm. Phêrô Nguyễn Thiên Cung

Nguồn: giaolyductin.net

 

20. NĂM THÁNH LÒNG THƯƠNG XÓT

BÀI 4: SỰ BẤT TRUNG CỦA CON NGƯỜI ĐỐI DIỆN VỚI LÒNG THƯƠNG XÓT TRUNG TÍN CỦA THIÊN CHÚA

Theo Kasper, cao điểm của mạc khải về lòng thương xót của Thiên Chúa được tiên tri Hô-sê diễn tả. Tiên tri Hô-sê sống trong bối cảnh bi thảm suy sụp của dân tộc Ít-ra-en trong vòng 20 năm, khiến vùng Sa-ma-ri bị xâm chiếm và dân chúng phải lưu đày. Bối cảnh bi thảm này tương hợp với sứ điệp mạnh mẽ được viết trong sách của tiên tri Hô-sê. Hô-sê đi vào lịch sử như vị ngôn sứ bị vợ lừa dối, nhưng vẫn hằng yêu mến nàng. Đó cũng là hình ảnh của dân Ít-ra-en bất trung và bội tín với Thiên Chúa, nhưng Ngài vẫn thương xót dân của Ngài. Tiên tri Hô-sê đã tố cáo một dân sống dửng dưng, và ông tiếp tục rao giảng trong lúc vương quốc sắp sụp đổ, ông báo trước hình phạt dành cho dân vô trách nhiệm và bất trung với Giao Ước. Bên cạnh đó, Hô-sê hiểu Thiên Chúa là nhà giáo dục và Người có lý do để răn đe và cho phép những tai hoạ xảy ra. Chính nhờ phương thế này, mà Ít-ra-en quay trở về. Thiên Chúa, Đấng trung tín và đầy lòng thương xót, lại cầm tay của dân Người và cứu độ họ. Tuy nhiên, lúc đầu Thiên Chúa đã quyết định không còn tỏ lòng thương xót với dân bất trung nữa (Hs 1,6), và dân của Ngài không còn là dân của Ngài nữa (Hs 1,9). Với quyết định đó, tưởng chừng tất cả mọi viễn tượng tương lai của dân Ít-ra-en tan thành mây khói, nhưng có một khúc quanh quyết định:

“Hỡi Ép-ra-im, Ta từ chối ngươi sao nổi!

Hỡi Ít-ra-en, Ta trao nộp ngươi sao đành!

Làm sao Ta xử với ngươi như với Át-ma,

để ngươi nên giống như Xơ-vô-gim được?

Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi” (Hs 11,8).

Thiên Chúa biểu lộ sự cảm thông với dân Ngài, và Ngài không muốn hoàn toàn trừng phạt dân Ngài. Lòng thương xót này tương hợp với chính Thiên Chúa, Đấng hiện hữu cho và với con người, đặc biệt khi con người rơi vào hố sâu tối tăm. Đó là cách hành xử của Thiên Chúa, của Đấng Thánh, chứ không phải của người phàm:

“Ta là Thiên Chúa, chứ không phải người phàm.

Ở giữa ngươi, Ta là Đấng Thánh,

và Ta sẽ không đến trong cơn thịnh nộ” (Hs 11,9).

Như thế, Thiên Chúa thánh thiện không tỏ mình ra trong phẫn nộ và giận dữ, mà Ngài tỏ mình ra trong lòng thương xót và nhân hậu. Thật vậy, lòng thương xót chính là cách diễn đạt sống động về bản chất của Thiên Chúa. Với những tâm tình của tiên tri Hô-sê, chúng ta nhận ra ở trong chiều sâu, Thiên Chúa trong Cựu Ước không phải là Thiên Chúa của giận dữ mà là Thiên Chúa của lòng thương xót. Ngài cũng không phải là Thiên Chúa dửng dưng với các đau khổ của con người. Ngài là Thiên Chúa có một trái tim hoá giải mọi sự giận dữ, và biến đổi mọi sự trong lăng kính của lòng thương xót. Qua đó, một đàng Thiên Chúa tự tỏ ra rất gần gũi với con người, đàng khác Ngài lại mạc khải chính mình hoàn toàn khác với tất cả mọi sự thuộc về con người. Ngài mạc khải chính Ngài là Đấng Thánh, là Đấng hoàn toàn khác với con người. Bản chất phân biệt Ngài với con người chính là lòng thương xót vô bờ bến của Ngài. Lòng thương xót của Thiên Chúa chính là sự cao cả đầy quyền năng của Ngài, một bản chất thánh thiện. Quyền năng của Thiên Chúa ở đây được diễn tả mạnh mẽ qua sự tha thứ của Thiên Chúa đối với dân bất trung của Ngài. Tha thứ gắn chặt với lòng thương xót thuộc về bản chất thánh thiện của Thiên Chúa.

“Lạy Chúa, Ngài nhân hậu khoan hồng,

giàu tình thương với mọi kẻ kêu xin” (Tv 86,5).

Thiên Chúa nhân hậu đầy lòng thương xót vượt trên mọi thước đo và chuẩn mực của con người. Các tư tưởng thần học dù có hay đến mấy cũng không thể nhốt Thiên Chúa vào trong những khuôn chữ thông minh mang tính cách con người. Khi nói về lòng thương xót của Thiên Chúa, con người không thể dùng ngôn ngữ của con người để diễn tả cho hết được. Chúng ta chỉ có thể chân nhận rằng: Lòng thương xót của Thiên Chúa là một sự mạc khải về sự siêu việt của Ngài vượt trên mọi điều và mọi sự mang tính cách con người, và vượt trên cả mọi sự tính toán của con người. Thật vậy, đừng có giỡn chơi với Chúa, đừng có giam giữ Thiên Chúa vào tư tưởng của con người. Vì thế, Thiên Chúa giàu lòng xót thương không đơn giản là một Thiên Chúa tốt bụng không màng tới những điều xấu xa và tội lỗi của chúng ta. Lòng thương xót của Thiên Chúa hướng chúng ta về với sự khác biệt trong sự hiện hữu của Thiên Chúa, cũng như hướng chúng ta về sự thánh thiện hoàn hảo không thể hiểu thấu của Ngài, và đó cũng là cách diễn đạt của tình yêu Thiên Chúa luôn tuôn tràn đầy ân sủng.

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ

Nguồn: dongten.net

 

21. MỘT CHÚT TÂM TÌNH

NƯỚC ! SOS !

Sách Xuất Hành 7, 17-25 thuật lại tai ương nước sông Nil ở Ai Cập hóa thành máu khi Môsê theo lệnh Chúa truyền dùng gậy đập xuống nước sông Nil. Cá trong sông Nil đều chết và sông Nil ra thối tha; người dân Ai Cập không thể uống nước sông Nil được nữa …

TÌNH HÌNH NGẬP MẶN

Chuyện ngày nay cũng giống như chuyện ngày xưa. Nếu ngày xưa là dòng  nước máu thì ngày nay là dòng nước mặn: không thể sử dụng được. Bao đời nay, vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long được xem là vựa lúa, trái cây, thủy sản lớn của cả nước, nhưng hiện nay thiên tai  hạn hán kéo dài khiến nước mặn tràn ngập các sông ngòi kênh rạch của các tỉnh thành vùng đồng bằng sông Cửu Long. Bến Tre là một trong những tỉnh bị ngập mặn nghiêm trọng nhất. Lãnh đạo của tỉnh Bến Tre nói gì?

“Tình hình xâm nhập mặn diễn biến rất phức tạp, gay gắt và nghiêm trọng chưa từng có”. Có người cũng nói đùa hóm hỉnh: “Có lẽ mọi người không nhất thiết phải ra Vũng Tàu để tắm biển mà có thể cảm thấy độ mặn ở ngay Thành phố Bến Tre”.

Do tác động của El Nino, lượng mưa trong khu vực giảm mạnh khoảng 20-30% so với trung bình nhiều năm, trong khi đó lượng nước sông Me Kong về Việt Nam giảm 50%, dẫn đến tình trạng mặn lấn sâu vào đất liền đồng bằng sông Cửu Long. Nhiều nơi nước mặn vào sâu đất liền tới 70-90 km, sâu hơn trung bình nhiều năm từ 15 đến 20 km.

 

HẬU QUẢ NGHIÊM TRỌNG

Kinh tế và đời sống dân sinh của 10/13 tỉnh thành phố  bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi xâm nhập mặn. Theo báo cáo Bộ Nông nghiệp, diện tích lúa thiệt hại từ cuối năm 2015 đến nay gần 160.000 ha, trong đó phần lớn là không có thu hoạch.

Cụ thể như ở Bến Tre: “Về giá trị thiệt hại, chúng tôi thống kê chưa đủ, nhưng thiệt hại về lúa có thể lên tới 200 tỷ.”

Báo Tuổi Trẻ dẫn con số 13.845/14.759 ha diện tích trồng lúa của Bến Tre bị thiệt hại vì đợt xâm nhập mặn.

“Cây ăn trái diện tích khá lớn, nước mặn xâm nhập sâu vào vùng cây ăn trái rồi. Do mặn không tưới được, cây sẽ bị giảm sản lượng.”

Ngành chăn nuôi cũng thua lỗ nặng nề. Trâu bò không có cỏ ăn, nước uống, buộc lòng người chủ phải bán với giá rẻ.

“Thiệt hại thứ ba là nước sinh hoạt. Do tình trạng mặn, không chỉ ảnh hưởng nước cho sản xuất, nước sinh hoạt cho dân cũng bị ảnh hưởng lớn. Đôi khi người dân phải mua nước với giá gấp 10 lần giá thông thường”. Toàn vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long có 204.000 hộ gia đình với khoảng một triệu người không có nước ngọt để sinh hoạt. Nhiều nhà máy, trường học, bệnh viện, khách sạn cũng trong tình cảnh tương tự.

Nhìn chung, người dân ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long phải gồng mình hứng chịu những thiệt hại do thiên tai hạn hán ngập mặn. Riêng giáo phận Vĩnh Long, các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh và một phần của tỉnh Vĩnh Long hằng ngày phải đối mặt với bao nổi khổ. Một họ đạo trong huyện Ba Tri tỉnh Bến Tre thất trắng vụ lúa đông xuân vừa qua. Nông dân sống nhờ  từng vụ lúa, nếu vậy lấy gì bù lổ đây!

Sa sút về kinh tế đưa đến những hệ lụy xã hội. Nhiều gia đình rời bỏ ruộng vườn bị ngập mặn đi tha phương cầu thực. Di dân là điều không thể tránh khỏi. Đất không lành thì chim phải bay đi. Các chuyên gia dự báo một tương lai không khả quan như sau:

"Nếu tốc độ xâm nhập mặn vẫn tiếp diễn như hiện nay, trong 3 năm tới nền nông nghiệp ở ĐBSCL có thể sẽ bị kiệt quệ", PGS.TS Đỗ Võ Anh Khoa (Đại học Cần Thơ) nhận định. Theo ông Anh, khi đó, đất nông nghiệp, lương thực trở nên khan hiếm và đắt đỏ hơn. Diện tích đất nông nghiệp, đất trồng cỏ cho gia súc, ngành chăn nuôi sẽ sụt giảm mạnh, đồng thời tăng nhập khẩu thức ăn chăn nuôi…

 

TRỤC LỢI HAY CHIA SẺ ?

Khai thác tình hình thiếu nước ngọt sinh hoạt như hiện nay, nhiều người sử dụng xe bồn đổi nước với giá cao gấp 10 lần cho mỗi m3 ! Đau lắm nhưng cũng đành chấp nhận vì nhu cầu cần thiết. Có còn hơn không ! Ngoài đồng không có lúa, trong nhà không có nước. Khó khăn chồng chất !

Ban Bác Ái Xã Hội Giáo phận trước đây đã giúp cho những gia đình nghèo ở nông thôn nhiều hồ chứa nước. Và cũng đã tìm cách hổ trợ máy lọc nước tinh khiết cho vài họ đạo. Lúc khô hạn và ngập mặn như hiện nay, những phương tiện đó phát huy tác dụng tối đa cho nhiều người được hưởng nhờ.

Nhà thờ có giếng nước ngọt cho bà con đến lấy nước miển phí. “Nhà thờ là giếng nước đầu làng” để chia sẻ và gặp gỡ. Trong cơn đại hạn, mong “gậy thần” của Môsê đập vào tảng đá lần nữa cho vọt ra mạch nước trong lành. Không chỉ là nước tự nhiên, nhưng còn là nước siêu nhiên trường sinh (x Ga 4,14) …

Caritas Vĩnh Long

 

 

KINH KHẤN THÁNH GIUSE

BẢO TRỢ NHỮNG VỤ KHÓ KHĂN 

Lạy Thánh Cả Giuse, xưa nay không ai kêu cầu Cha mà vô hiệu, Cha có thần thế trước mặt Đức Chúa Trời đến nỗi người ta có thể nói rằng: “Trên trời Thánh Giuse truyền lệnh hơn là van xin.”

Lạy Cha hiền, xin cầu bàu cùng Chúa Giêsu cho chúng con. Khi còn ở thế gian nầy, Cha đã từng là cha Nuôi và là vị bảo hộ trung thành của Chúa Con chí thánh, nay xin Cha bào chữa cho chúng con bên tòa Chúa. Chúng con trao phó cho Cha vụ khó khăn nầy (kể ra….) . Xin Cha giải gỡ giúp chúng con để thêm một vinh quang mới vào bao nhiêu vinh quang sẳn có của Cha.

Lạy Thánh Giuse nhân từ, chúng con tin tưởng – vâng, chúng con tin tưởng Cha, Cha có thể chấp nhận lời nguyện của chúng con, và giải thoát chúng con khỏi những khổ cực u sầu mà chúng con đang gặp phải. Hơn nữa, chúng con vững lòng trông cậy, Cha không bỏ qua điều gì giúp ích cho những người sầu khổ kêu cầu Cha, chúng con sấp mình dưới chân Cha, tha thiết nài xin Cha đoái thương đến những than van khóc lóc của chúng con. Xin Cha lấy tình thương như áo choàng che phủ chúng con, và chúc lành cho chúng con. Amen.

Imprimatur

P.X Trần Thanh Khâm

Tổng Đại Diện GP Sàigòn

Sàigòn ngày 9.3.1974

637    14-04-2016 08:17:42