Sidebar

Thứ Sáu
26.04.2024

Nhìn lại Giáo hội Việt Nam 60 năm qua - Nhận diện những cơ hội và những thách đố hiện nay

Nhìn lại Giáo hội Việt Nam 60 năm qua - Nhận diện những cơ hội và những thách đố hiện nay


 
Năm 2020 đầy hoang mang và ám ảnh do cơn đại dịch Covid cũng là cột mốc thời gian ghi dấu 60 năm Hàng Giáo phẩm Công giáo Việt Nam. Thật tiếc vì phải mừng Ngọc Khánh trong tình trạng khẩn cấp của đất nước và của toàn cầu, do đó có sự tiết chế ngay cả một số cách thức chính đáng diễn tả niềm vui. Nhưng cũng có điều hay, vì tình trạng khẩn cấp của toàn xã hội có thể gợi nhắc về một sự khẩn cấp không kém nơi chính sứ mạng của Giáo hội hiện nay ở đất nước này.

nhin-lai-giao-hoi-viet-nam-60-nam-qua.jpg 

 

Mục lục

I. NHÌN LẠI CHẶNG ĐƯỜNG 60 NĂM QUA

1. Trong cuộc chiến Bắc-Nam sôi bỏng (1960-1975)

2. Cơn khủng hoảng sau chiến tranh (1975-1990)

3. Trong tiến trình thay đổi và hội nhập của đất nước (từ 1990 đến hiện nay)

II. THỬ ĐỌC LẠI CÂU CHUYỆN TỪ LĂNG KÍNH SỨ MẠNG

1. Công giáo và Cộng sản

2. Công giáo và truyền thống dân tộc

3. Công giáo và người nghèo

KẾT LUẬN

 

Từ một nhãn quan sứ mạng[1] Kitô giáo, bài viết này sẽ lướt nhìn 60 năm qua của Công giáo Việt Nam, sẽ nhận diện điều gì đang diễn ra, gồm cả những cơ hội và những thách đố. Việc nhận diện rõ các thách đố và cơ hội, rất thường chúng ẩn chứa trong nhau, thiết tưởng là việc cần thiết khả dĩ giúp người ta tiến bước về phía trước một cách có định hướng và vững chắc hơn.

 

I. NHÌN LẠI CHẶNG ĐƯỜNG 60 NĂM QUA

 

Chiến tranh, khủng hoảng sau chiến tranh, đổi mới và hội nhập - đó có lẽ là cách mô tả khái quát nhất bức tranh Việt Nam từ giữa thế kỷ trước cho tới nay. Đời sống Giáo hội lọt thỏm trong bức tranh này và tương tác trực tiếp với nó. Có thể phân chia dòng thời gian 60 năm qua thành ba giai đoạn:

 

1. Trong cuộc chiến Bắc-Nam sôi bỏng (1960-1975)

 

Hàng Giáo phẩm Việt Nam được thiết lập qua Sắc chỉ Venerabilium nostrorum, ngày 24.11.1960. Đó là thời điểm sáu năm sau biến cố chia đôi đất nước (1954), với hơn nửa triệu người Công giáo di cư từ Bắc vào Nam. Đây cũng là thời điểm vừa mới kỷ niệm 300 năm thành lập hai giáo phận đầu tiên (1659), với dòng lịch sử gần như lấp đầy bằng những cuộc bách hại. Liên quan đến cuộc xung đột Nam-Bắc thì năm 1960 ghi nhận sự ra đời của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, mở ra một giai đoạn mới của cuộc chiến vốn sẽ leo thang khốc liệt trong những năm tiếp theo và chỉ kết thúc với sự sụp đổ của thể chế ở miền Nam mười lăm năm sau đó.

 

- Tại miền Bắc, những năm đầu thập niên 1960 của Giáo hội có thể được gọi là những năm ngấm đòn. Con số đông đảo giáo dân (ước tính trên 50%) di cư vào Nam để lại một bản đồ dân số Công giáo mỏng đi trầm trọng tại mười giáo phận miền Bắc. Đáng ghi nhận hơn nữa, tỉ lệ các linh mục di cư từ tất cả các giáo phận đều cao hơn nhiều so với tỉ lệ giáo dân tương ứng, như đối với giáo phận Thanh Hóa thì tỉ lệ này cao hơn trên bốn lần. Hệ quả hiển nhiên là gánh nặng mục vụ chồng chất thêm rất nhiều trên vai các linh mục ở lại, phần đông các vị đã cao tuổi với nhiều hạn chế về sức khỏe. Peter Hansen nghiên cứu và cung cấp bảng số liệu sau đây:[2]

                                                                                     

 

Số giáo dân di cư

Tỉ lệ giáo dân di cư

Số linh mục di cư

Tỉ lệ linh mục di cư

Hà Nội

50.000

33,4%

115

55,6%

Hải Phòng

60.000

52,3%

79

80,6%

Vinh

57.080

31,7%

70

39,3%

Bùi Chu

150.000

71,7%

150

77,7%

Hưng Hóa

8.000

11,8%

23

28,4%

Bắc Ninh

38.000

55,9%

60

75,0%

Phát Diệm

80.000

72,7%

139

87,4%

Thanh Hóa

18.500

20,6%

64

88,9%

Thái Bình

80.000

57,1%

79

70,6%

Lạng Sơn

2.500

50,0%

14

58,3%

Hà Nội

50.000

33,4%

115

55,6%

 

Nhưng sự ngấm đòn ê ẩm hơn đến từ những khó khăn trong tương quan với thể chế quyền lực. Nhiều linh mục, chủng sinh, tu sĩ, giáo dân phải đi tù, chết rũ tù, hay bị quản chế. Hoạt động mục vụ bị giới hạn nghiêm ngặt, nhiều cộng đoàn tín hữu không có sự hiện diện hay ngay cả sự thăm viếng của linh mục trong thời gian kéo dài nhiều năm. Trong khi đó, xuất hiện một loại tổ chức ở ngoài Giáo hội nhưng mang danh nghĩa ‘Công giáo’ với nhiều tính hàm hồ. Các chủng viện không còn hoạt động, việc đào tạo chủng sinh do chính các giám mục xoay xở cách chật vật tại giáo phận của mình. Việc truyền chức linh mục chịu sự kiểm soát hết sức gắt gao, đến nỗi nhiều trường hợp phải truyền chức ‘non’ và ‘chui’ để đối phó với tình hình ngày càng mù mịt phía trước.[3] Thêm vào đó, hầu như không có mấy liên lạc với Giáo hội hoàn vũ, ngay cả sự kiện Công đồng Vatican II cũng không được biết đến cho tới mãi về sau này.

 

Chiến tranh ngày càng leo thang, miền Bắc không phải là chiến trường thực thụ (trừ một số đợt oanh kích của không lực Mỹ) nhưng toàn xã hội phải nhận những ảnh hưởng sâu xa của cuộc chiến. Đời sống Giáo hội càng khó khăn hơn nữa trong những năm 60 và 70. Nhìn chung, đây là giai đoạn mà Công giáo miền Bắc dường như phải cố gắng hết sức để tồn tại.

 

- Tại miền Nam, mặc dù đây là giai đoạn của bom đạn khói lửa chiến tranh với nỗi bất an thường trực, nhưng tình hình Giáo hội sáng sủa hơn nhiều, thậm chí hoàn toàn tương phản so với hoàn cảnh ở miền Bắc. Trước hết, con số người Công giáo di cư từ các giáo phận phía Bắc đã làm cho cộng đồng Công giáo ở miền Nam tăng dân số nhảy vọt lên hơn gấp đôi. Thêm vào đó, có một phong trào trở lại đạo khá ồ ạt vào những năm cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960,[4] thời Đệ nhất Cộng hòa, dù sự ồ ạt này làm cho một số người không khỏi nghi ngại về động cơ. Đáng lưu ý rằng cả hai vị nguyên thủ quốc gia của hai nền cộng hòa đều là tín hữu Công giáo. Cuộc canh tân toàn diện của Công đồng Vatican II được tiếp nhận kịp thời và được triển khai từng bước. Giáo hội đóng góp nhiều và rộng khắp trong các lãnh vực, nhất là giáo dục, y tế và từ thiện xã hội. Các cuộc di cư tị nạn chiến tranh hay khẩn hoang lập ấp của người Công giáo trong những năm 60 và 70 thường do các linh mục dẫn dắt và tổ chức, với rất nhiều vấn đề phải giải quyết như nhà ở, lương thực, việc làm, trường học, cô nhi viện… bên cạnh các phương tiện thiết yếu để sinh hoạt đạo.[5] Việc đào tạo linh mục được tổ chức bài bản và cập nhật với các tiểu chủng viện của mỗi giáo phận và các đại chủng viện đáp ứng đủ cho hai giáo tỉnh. Việc gửi các linh mục đi tu nghiệp nâng cao ở nước ngoài cũng như việc đón nhận các linh mục tu sĩ ngoại quốc đến phục vụ trong nước diễn ra thuận tiện. Nói chung, dù có những khó khăn do cuộc chiến và dù số tín hữu chỉ chiếm chưa tới 10% dân số, sự hiện diện của Giáo hội ở miền Nam trong những năm này là một sự hiện diện năng động và có thế lực.[6]

 

Mặt khác, chính cái thế lực ấy sớm cho thấy có vấn đề. Người ta nói về những ưu đãi mà thế quyền dành cho Giáo hội và người của Giáo hội. Người ta cũng nói về những sự nhập nhằng lạm dụng quyền bính và củng cố thanh thế. Trong chuyển động này, Giáo hội phần nào bị hút về phía thế quyền và phần nào bị chi phối, dù muốn hay không. Biến cố 30.4.1975 đánh dấu sự cáo chung của thể chế miền Nam, vì thế, càng là một biến cố mang ý nghĩa thất đoạt và gây choáng váng cho phần đông người Công giáo trên phần đất này.

 

2. Cơn khủng hoảng sau chiến tranh (1975-1990)

 

Mốc 1990 được chọn ở đây vì hai lý do. Một là để đánh dấu thời gian bắt đầu có những tín hiệu thoáng mở hơn từ phía Nhà Nước đối với đời sống và sinh hoạt của Giáo hội, trong khuôn khổ chính sách ‘Đổi Mới’ vốn đã được đưa ra trước đó, vào năm 1986. Hai là để quy chiếu đến sự kiện 21 giám mục Việt Nam đi Ad limina, cùng với Đức Gioan Phaolô II đồng tế đại lễ Các Thánh Tuẫn Đạo Việt Nam vào ngày 24 tháng 11, đồng thời mừng kỷ niệm 30 năm thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam. Đây quả là một thời điểm bản lề trong mối tương quan giữa Giáo hội và Nhà Nước, như Đức cha Phaolô Maria Nguyễn Minh Nhật nói trong lời chào mừng Đức Thánh Cha hôm ấy: “Chúng con có được dịp này là nhờ các thành quả tốt đẹp mà phái đoàn Tòa Thánh vừa mới đem lại. Qua các cuộc tiếp xúc thảo luận với chính quyền Việt Nam, phái đoàn đã thành công trong việc đánh tan cái thinh lặng nặng nề, và khiến cho tinh thần đối thoại được ưu thắng, mở ra con đường cảm thông giữa Tòa Thánh và Nhà Nước”.[7] Mọi người còn nhớ mới hai năm trước đó (1988), chính quyền đã cực lực phản đối việc tuyên thánh cho 117 vị thánh Tuẫn đạo Việt Nam và đã cấm người Công giáo cử hành lễ tuyên thánh này.

 

Cái “nặng nề” mà vị Chủ tịch Hội đồng Giám mục lúc ấy nói đến đã gợi lại cả một giai đoạn đặc biệt gay go tiếp theo sau cuộc chiến. Thật vậy, sự kiện kết thúc chiến tranh và thống nhất đất nước đã mở ra một cuộc khủng hoảng. Những năm cuối thập niên 70 chứng kiến tình trạng đói kém do thiếu lương thực trầm trọng, cùng với sự bùng nổ chiến tranh liên tiếp ở biên giới Tây Nam (1978) và biên giới phía Bắc (1979). Bên cạnh đó là chính sách tập trung cải tạo các quân nhân viên chức từng phục vụ dưới chế độ cũ, bao gồm hàng trăm linh mục từng là tuyên úy quân đội. Làn sóng vượt biên dấy lên khắp nơi, nhất là ở miền Nam, đưa hàng trăm ngàn thuyền nhân rời bỏ đất nước, trong đó con số người Công giáo chiếm tỉ lệ đáng kể.

 

Đây là giai đoạn mà Giáo hội phải trải qua những thử thách khốc liệt, đặc biệt ở miền Nam là nơi vừa chuyển từ chế độ cũ sang chế độ mới. Không còn các hoạt động bên ngoài khuôn viên nhà thờ, ngay chính việc phụng tự cũng chịu sự kiểm soát. Các cơ sở giáo dục, y tế, từ thiện của Giáo hội bị trưng dụng. Các chủng viện và học viện phải đóng cửa và giải tán. Việc truyền chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển các chức sắc trong Giáo hội trở thành vô cùng khó khăn, gần như bất khả. Các linh mục, tu sĩ ngoại quốc bị trục xuất; việc liên lạc với Giáo hội và thế giới bên ngoài hoàn toàn bế tắc. Giáo hội gần như bị tước sạch, có vẻ như chỉ còn sự tồn tại!

 

Giữa hoàn cảnh ấy, vào năm 1980, các giám mục trên toàn quốc đã gặp nhau chính thức lần đầu tiên trong khuôn khổ Hội đồng Giám mục Việt Nam, đã soạn quy chế cho cơ chế này, và nhất là công bố Thư Chung 1980, trong đó các vị đã cùng nhau nhận định và đưa ra đường hướng mục vụ “đồng hành với dân tộc” được tóm kết trong hai điểm chính: (1) Tích cực góp phần cùng đồng bào cả nước bảo vệ và xây dựng tổ quốc; (2) Xây dựng trong Hội Thánh một nếp sống và một lối diễn tả đức tin phù hợp hơn với truyền thống dân tộc.[8] Tầm nhìn dấn thân này của các giám mục đã truyền cảm hứng cho dân Chúa sống đức tin và ơn gọi của mình trong giai đoạn thử thách này. Nhiều linh mục, tu sĩ, giáo dân nêu chứng tá Tin Mừng trong nhà tù hay nơi quản chế, trong các ‘trại cải tạo’, các nông trường, công trường, vùng kinh tế mới, và mọi khung cảnh mà mình hiện diện. Câu chuyện tù tội của Cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận (nay là Đấng Đáng Kính) có thể đặc trưng cho phương diện chứng tá tích cực của Công giáo Việt Nam vào giai đoạn này.

 

3. Trong tiến trình thay đổi và hội nhập của đất nước (từ 1990 đến hiện nay)

 

Kể từ thập niên cuối cùng của thế kỷ 20, trong bối cảnh Liên Xô và khối Cộng sản Đông Âu đã tan rã, tại Việt Nam nhiều khẩu hiệu đậm màu ý thức hệ (kiểu như ‘chủ nghĩa Mác Lênin vô địch muôn năm!’) vốn sôi nổi một thời thì nay dần dần biến mất. Thay vào đó, khẩu hiệu ‘đổi mới và hội nhập’ được nhấn mạnh. Nhà Nước tiếp tục dò dẫm thực hiện một ‘nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa’. Song song với tiến trình hội nhập vào một thế giới toàn cầu hóa, tình hình kinh tế chuyển biến tích cực hơn, và bộ mặt xã hội từ thành thị đến nông thôn được ghi nhận nói chung có nhiều thay da đổi thịt. Nhưng bên cạnh đó là sự bùng nổ những vấn đề lớn như quốc nạn tham nhũng, sự xâm hại môi trường, yếu kém trong quản lý xã hội, sự thao túng của nhóm lợi ích, những tranh chấp đất đai, nhất là tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày càng khoét sâu choáng ngợp hơn. Khoảng cách giàu nghèo này góp phần thúc đẩy hiện tượng di dân từ nông thôn đến các thành phố lớn, đặt ra nhiều thách đố mới cho sứ vụ mục vụ của Giáo hội.

 

Trong thời gian này, Giáo hội được ‘cởi trói’ nhiều hơn. Đã có một loạt các chuyến thăm và làm việc của phái đoàn Tòa Thánh, cũng như những cuộc thăm viếng Vatican của các viên chức cao cấp Việt Nam. Các đại chủng viện lần lượt được mở cửa và trở lại hoạt động. Việc đào tạo, truyền chức và bổ nhiệm nhân sự mục vụ nói chung không còn quá khó khăn như trước nữa. Có một sự bùng nổ việc trùng tu và xây dựng các nhà thờ, các cơ sở hạ tầng của Giáo hội… Việc tổ chức các lễ mừng ‘hoành tráng’, các cuộc đại hội, hành hương sầm uất trở nên dễ dàng và thường xuyên hơn. Năm Thánh Giáo hội Việt Nam và Đại Hội Dân Chúa đã diễn ra một cách trọng thể.

 

Tuy nhiên, vẫn có đó những căng thẳng, thường là âm ỉ, nhưng đôi khi bùng lên thành những vụ xung đột khuấy động dư luận trong nước và thế giới. Năm 1988, hai giám mục Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi và Philípphê Nguyễn Kim Điền lần lượt qua đời sau những năm đầy sóng gió với chế độ mới. Cũng năm này, Đức cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận được phóng thích sau 13 năm tù đày, nhưng vẫn bị ngăn cản việc thi hành chức vụ; năm 1991, ngài đi Rôma và không bao giờ được phép trở về Việt Nam nữa. Năm 1993, Đức cha Nicôla Huỳnh Văn Nghi được Tòa Thánh bổ nhiệm Giám quản Tông Tòa Sài Gòn, nhưng chính quyền phản đối; ngài đã phải rất vất vả để chu toàn nhiệm vụ của mình. Năm 2008, Đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt, Tổng giám mục Hà Nội, bị hệ thống truyền thông lên án kịch liệt xung quanh vụ tranh chấp khu đất Tòa Khâm Sứ cũ; hai năm sau, ngài phải từ chức và đi hưu trí ở tuổi 58. Cũng trong thời gian này, tại Hà Nội đã bùng lên các cuộc tranh chấp đất đai giữa Giáo hội địa phương và chính quyền ở Thái Hà và Đồng Chiêm. Những năm gần đây hơn, thêm các cuộc khủng hoảng tương tự ở giáo xứ Cồn Dầu (Đà Nẵng), giáo xứ và dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm, Vườn rau Lộc Hưng (TP. HCM), và nhất là Đan Viện Biển Đức Thiên An (Huế). Đó chỉ là một số sự kiện nổi cộm hơn của bức tranh toàn cảnh đầy lợn cợn trong mối tương quan giữa Công giáo và Nhà Nước.

 

Các giám mục Việt Nam bắt đầu có những tiếng nói rõ ràng và thẳng thắn hơn, nhất là trong tư cách tập thể những người lãnh đạo Giáo hội Công giáo tại đất nước này. Các vị góp ý rằng quyền tự do tôn giáo không phải là một ân huệ để xin-cho. Đặc biệt, năm 2012, Ủy Ban Công lý và Hòa bình của Hội đồng Giám mục đã công bố văn bản “Nhận định về một số tình hình tại Việt Nam hiện nay”; năm 2013, Ban Thường Vụ HĐGMVN gửi “Thư Góp Ý về việc sửa đổi Hiến Pháp”; năm 2016, các giám mục lại tiếp tục có văn bản chính thức “Góp ý về Dự Thảo Luật Tín Ngưỡng Tôn Giáo”. Nội dung các ý kiến trên bao quát những vấn đề rất căn bản như: về cơ chế quyền lực nhà nước, về các quyền con người (đặc biệt quyền tự do tôn giáo), về kinh tế, luật đất đai, môi trường xã hội, môi trường sinh thái, vai trò của trí thức, lĩnh vực giáo dục và y tế… Dường như chưa có mấy dấu hiệu tiếp thu tích cực từ phía chính quyền.

 

Trong khi đó bên trong đời sống và sinh hoạt Giáo hội, ngoài làn sóng trùng tu xây dựng cơ sở và xu hướng lễ hội rộn rịp như đề cập trên kia, cũng có những biểu hiện chuyển mình thuộc chiều sâu nhiều hơn. Có thể kể một số trong đó như: hoạt động tích cực của mạng lưới tổ chức Caritas ở các cấp; sự phát triển phong phú hơn của hệ thống truyền thông và xuất bản Công giáo; các sinh hoạt hội thảo, tĩnh tâm, thường huấn cấp toàn quốc hay giáo tỉnh, giáo phận; các nhóm Bảo Vệ Sự Sống, Sinh Viên Công giáo, giới trẻ, tông đồ gia đình, Cursillo, DOCAT, các chương trình phổ biến Giáo huấn Xã hội của Hội Thánh; những nỗ lực canh tân việc dạy và học giáo lý; các khóa thần học dành cho giáo dân ở một số giáo phận; sự phát triển về lượng và chất của các hội dòng, tu hội; những nỗ lực canh tân việc đào tạo linh mục… Tất cả những điều này chắc hẳn có nhận động lực từ mối hiệp thông năng động với Giáo hội tại khu vực Á Châu và trên toàn cầu, nhất là từ các giáo huấn cập nhật của các giáo hoàng trong những thập niên gần đây: Đức Gioan Phaolô II, Đức Bênêđictô XVI, và hiện nay là Đức giáo hoàng Phanxicô.[9] Nhưng đồng thời, trong đời sống đức tin của người Công giáo Việt Nam cũng bộc lộ những vấn đề, qua một số hiện tượng mà các mục tử trong Giáo hội không thể không quan tâm: Hiện tượng rộ lên của phong trào “Sứ điệp từ trời”;[10] những biến tướng lệch lạc của phong trào Lòng Chúa Thương Xót;[11] những sự hưởng ứng dễ dãi đối với các tin đồn giật gân về thần hiện, trừ quỷ, phép lạ đó đây, đôi khi rất nhanh chóng tạo nên những hiện tượng cơn sốt do hiệu ứng đám đông… Cũng cần ghi nhận những vấn đề tế nhị hơn trong cộng đoàn đức tin, như: nhiều người Công giáo chấp nhận buông theo cơn sóng duy vật thực tiễn trong những hình thức làm ăn bất chính, và đôi khi họ trở thành một nguồn đáng kể hỗ trợ tài chánh cho các công cuộc của Giáo hội;[12] hay thái độ đóng kín trong nội bộ gia đình, xứ đạo, cộng đoàn, Giáo hội của mình, và thờ ơ đối với những vấn đề xảy ra xung quanh trong xã hội và đất nước. Sự thỏa hiệp của người tín hữu trước những sự dữ luân lý, nhất là những sự dữ đặc trưng của xã hội và thời đại, cũng là một thực tế khó phủ nhận.[13] Các ‘triệu chứng’ này, dù chỉ mang tính tiêu biểu, thiết tưởng cũng có thể cho phép chẩn đoán những bệnh trạng cấp tính và mãn tính ở tầm sâu hơn trong đời sống đức tin của người tín hữu, và do đó đặt ra thách đố cho khung cảnh mục vụ.

 

Trên đây là mô tả toát lược chặng đường 60 năm qua của Giáo hội tại Việt Nam. Đó là một bức tranh với nhiều gam màu, hay đúng hơn, đó là một câu chuyện sống động với nhiều cung bậc vẫn còn đang diễn ra. Câu chuyện của một Giáo hội địa phương thì luôn nằm trong câu chuyện lớn hơn của Giáo hội phổ quát vốn bắt nguồn từ chính câu chuyện Đức Giêsu Kitô, và đã trải qua dòng lịch sử ngót hai ngàn năm. Chính từ quan điểm của câu chuyện lớn hơn này, tức quan điểm sứ mạng Kitô giáo theo Tin Mừng, người ta mới có thể làm công việc đúc kết và đánh giá câu chuyện 60 năm ấy một cách sát hơn với bản chất và trọng tâm của nó.

469    09-05-2021